SlideShare a Scribd company logo
1 of 130
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ HƢỜNG
TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ HƢỜNG
TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy,
chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa
häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè
trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
§inh ThÞ H-êng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI
8
1.1. Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 8
1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại cơ sở giam giữ 14
1.1.2. Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ 20
1.1.3. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội sau khi được trả
tự do khỏi cơ sở giam giữ
27
1.2. Các chương trình tái hòa nhập xã hội 31
1.3. Các chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm một số nước 34
Chương 2: THỰC TRẠNG, KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC, NGUYÊN NHÂN
VÀ TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ
HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG
41
2.1. Thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội của thành phố Hải Phòng
41
2.2. Những kết quả đạt được công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm của thành phố Hải Phòng
43
2.3. Nguyên nhân và những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã
hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng
52
5
2.3.1. Những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội của thành phố Hải Phòng
52
2.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trong công
tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố
Hải Phòng
66
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG
CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI TỘI PHẠM
81
3.1. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập xã hội
đối với người phạm tội
81
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa
nhập xã hội đối với người phạm tội
85
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát trong
công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
85
3.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của
đội ngũ cán bộ trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội
88
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công
tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
91
3.2.4. Các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và cộng đồng trong
việc tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
98
3.2.5. Giải pháp mang tính nghiệp vụ 102
3.2.6. Giải pháp mang tính xã hội 106
3.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các
quy định về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
111
KẾT LUẬN 117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thống kê số liệu tái hòa nhập xã hội tại Hải Phòng từ
năm 2008 đến năm 2012
44
2.2 Số liệu về đặc xá từ 2010 đến 2012 tại Hải Phòng 47
2.3 Bảng số liệu về tái phạm, tái phạm nguy hiểm của thành
phố Hải Phòng
63
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một công tác gắn liền
với việc thực thi các biện pháp hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội sau
khi được trở về với xã hội từ cơ sở giam giữ. Giúp đỡ và tạo điều kiện cho
những người đã chấp hành xong án phạt tù xây dựng một cuộc sống bình
thường đồng thời giáo dục họ trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Hạn chế tối đa những trường hợp tái phạm không chỉ là mục tiêu chung mà
còn được thể hiện rất rõ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã nhấn mạnh: "Đối xử nhân đạo với
người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc
làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng" [18].
Bên cạnh đó, công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội được thực
hiện dựa trên nguyên tắc của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia ký kết năm 1982, theo đó: "Chế độ
giam giữ, thi hành án phải nhằm mục đích chính yếu trong việc đối xử với tù
nhân là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội" [38].
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một hoạt động có liên
quan đến nhiều cơ quan, ban ngành và toàn xã hội. Khoản 2 Điều 39 Luật Thi
hành án hình sự năm 2010 quy định:
Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa
phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân
tích cực học tập, lao động, rèn luyện để được hưởng sự khoan hồng
của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm
nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái hòa nhập
cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù [32].
8
Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền
vừa là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền nhằm góp phần đưa người
phạm tội trở lại cuộc sống lương thiện, góp phần ổn định an ninh, trật tự tại
địa phương, minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội
cho người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị:
Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ
Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án.
Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
và của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tình, thành phố
trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực
hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án. Từng bước thực hiện việc
xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức
không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi
hành án [21].
Thực tiễn đã cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, số lượng
người phạm tội mãn hạn tù hàng năm có chiều hướng gia tăng, do đó việc tái
hòa nhập xã hội cho các đối tượng này cần được quan tâm một cách đúng đắn.
Việc tiếp nhận số lượng các đối tượng đã bị cách ly với xã hội trong một thời
gian dài là một thách thức không nhỏ trong công tác tái hòa nhập xã hội.
Trong những năm vừa qua thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội có
những biến chuyển tích cực và đạt được một số thành tích nhất định. Tuy
nhiên, tái hòa nhập xã hội được xác định là công tác mang tầm quốc gia và
lâu dài do đó dù nhiều chương trình tái hòa nhập đã được thực hiện và đạt
được những hiệu quả nhất định thì còn những mặt hạn chế và những tồn tại,
chưa thực sự thu hút được sự quan tâm và tham gia của toàn xã hội. Thời gian
chấp hành hình phạt là quãng thời gian hạn chế tự do, cách ly người bị kết án
9
khỏi cộng đồng xã hội để cải tạo giáo dục họ tại trại giam, việc hạn chế lâu
dài các chức năng xã hội bình thường của một con người đồng thời gây ra sự
lãng quên các thói quen xã hội có ích của họ như học tập, làm việc, quan hệ
cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp. Do đó việc khôi phục lại các chức
năng xã hội này là một việc rất khó khăn và tương đối phức tạp. Mặt khác
hiện nay các văn bản về tái hòa nhập xã hội còn chưa đồng bộ và thống nhất.
Thực tế hiện nay cho thấy, các quy định về việc tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội thường được phân tán ở các văn bản pháp luật khác nhau như
luật hình sự, luật thi hành án phạt tù hoặc trong các văn bản chỉ thị, nghị
quyết của Chính phủ và ngành Công an như Chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm, chương trình phòng chống và kiểm soát ma túy. Ngoài ra
công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội chưa thực sự được quan tâm
đúng mức cũng góp phần làm cho công tác tái hòa nhập xã hội chưa thực sự
phát huy hết vai trò của nó trong quá trình giáo dục, cảm hóa người phạm tội
để khi mãn hạn tù họ trở thành những người có ích cho xã hội. Theo số liệu
thống kê của của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, tính từ năm 2009
đến năm 2012 số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm là khá cao. Thành phố
Hải Phòng là một trong những thành phố lớn với tình hình tội phạm về cả
mức độ phức tạp và số lượng tội phạm trong cả nước và do vậy việc tìm hiểu
và nghiên cứu về công tác tái hoà nhập xã hội đối với người phạm tội của Hải
Phòng là một việc làm cần thiết và đáng quan tâm hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Tái hòa nhập xã
hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng" làm luận văn Thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến tái
hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, người mãn hạn tù và cả những người
cai nghiện và người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể là các công trình như:
10
Giáo dục, giúp đỡ người tù tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, của
Nguyễn Quốc Nhật, Nguyễn Trung Hòa và Trần Hải Âu, năm 2001; Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời
gian cải tạo, giam giữ, của tập thể tác giả Dương Thanh Mai, Nguyễn Hữu
Duyện, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn
Quang Hưng. Một số bản báo cáo của vụ pháp luật hình sự - hành chính như:
Báo cáo đánh giá, kiến nghị về tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2010; Rà soát, đánh giá pháp
luật, chính sách và thực tiễn tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2007; Thực tiễn tái hòa nhập
xã hội của người mãn hạn tù trên địa bàn quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, của
Đàm Thanh Thế; Thực trạng và giải pháp trong công tác quản lý, giúp đỡ
người được đặc xá, mãn hạn tù trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng,
của Nguyễn Lợi; Bài học thực tiễn của quá trình hòa nhập xã hội từ trại giam
đến nơi cứ trú của những người mãn hạn tù, của Nguyễn Văn Cảnh; Chương
trình giáo dục cải tạo phạm nhân trong trại giam - bước chuẩn bị cho quá
trình tái hòa nhập xã hội, của Phạm Đức Chuẩn. Hay một số bài viết của Võ
Khánh Vinh, Nguyễn Ngọc Hòa, Hồ Sĩ Sơn v.v… trong Hội thảo khoa học
"Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở
Việt Nam và Na Uy". Một số giáo trình giảng dạy ở các trường Đại học
chuyên ngành (Đại học Luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện
An Ninh, Học viện Cảnh sát nhân dân…) cũng đề cập đến vấn đề này. Mặt
khác, tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội chưa đáp ứng hết những đòi
hỏi trong thực tiễn, pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề
phải đi sâu nghiên cứu và làm rõ. Vì thế, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm
hiểu về chế định này là cần thiết và hữu ích.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là khái niệm được xem xét
ở rất nhiều khía cạnh khác nhau và ở phạm vi rộng, tính từ khi một người là bị
11
can, bị cáo trong các vụ án đến khi có bản án, quyết định của Tòa án và giai
đoạn chấp hành án cũng như sau khi chấp hành án xong. Do vậy có rất nhiều
tên gọi khác nhau ở từng giai đoạn, đó là bị can, bị cáo, người bị kết án, người
tù tha, người chấp hành án, người mãn hạn tù v.v... Công tác tái hòa nhập đối
với người phạm tội được thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau với những đối
tượng khác nhau, nhưng đều được gọi chung là người phạm tội. Phạm vi đề
tài này tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về tái hòa nhập xã hội đối
người phạm tội ở giai đoạn chấp hành án và sau khi chấp hành án xong trên
địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm trở lại đây (2007 - 2012).
Luận văn còn đi sâu nghiên cứu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
sau khi mãn hạn tù để từ đó đánh giá, nhận xét về thực trạng công tác tái hòa
nhập hiện nay trên địa bàn thành phố. Đồng thời, từ những quy định của pháp
luật hiện hành về vấn đề này và thực trạng hoạt động tái hòa nhập xã hội của
Hải Phòng, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật trong lĩnh vực này cũng như nâng cao hiệu quả của công
tác tái hòa nhập xã hội của thành phố nói riêng và cả nước nói chung trong
thời gian tới.
Cơ sở pháp lý nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 1992, Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, các quy định của Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung
năm 2009, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành án năm 2010,
các văn bản hướng dẫn thi hành và một số văn bản hướng dẫn của các cơ
quan chuyên môn về công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và
những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về tái hòa nhập xã hội đối với
người phạm tội. Thông qua việc phân tích tình hình tái hòa nhập xã hội nói
chung và đi sâu phân tích công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
12
của thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2008 - 2012), luận văn
đánh giá được thực trạng của công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội của thành phố Hải Phòng nói riêng, một trong những địa phương điển hình
của cả nước về tình hình tội phạm. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải
pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để vận dụng có hiệu quả
vào công tác tái hòa nhập xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này
trong thời gian sắp tới. Đồng thời luận văn cũng đưa ra một vài kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về vấn đề này.
Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tái hòa
nhập xã hội như: Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội; các
quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; thi hành án hình sự và các
luật có liên quan về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội.
Hai là, đánh giá đúng thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội của
thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót,
tồn tại và nguyên nhân của thực trạng trên, từ đó xác định đúng bản chất của
vấn đề. Đồng thời tác giả đưa ra một số giải pháp cho phù hợp, tiến tới hoàn
thiện các quy định của pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội hiện nay.
5. Cơ sở khoa học của đề tài
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội đối với người
phạm tội của thành phố Hải Phòng. Ngoài ra luận văn còn dựa trên các công
trình nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình nghiên cứu của các nhà
chuyên môn trong lĩnh vực tội phạm học và các quy định của pháp luật Việt
Nam về lĩnh vực này.
13
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng
khoa học kết hợp với một số phương pháp thống kê, tổng hợp; phương pháp
điều tra xã hội học; phương pháp phân tích, lựa chọn; phương pháp đối chiếu,
so sánh; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp hệ thống và một số
phương pháp bổ trợ khác.
7. Điểm mới của đề tài
Luận văn không phải là tài liệu có tính chất hàn lâm, học thuật hoặc
chuyên khảo mà chủ yếu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật
cũng như thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của
thành phố Hải Phòng một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn,
nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội của thành
phố Hải Phòng nói riêng, một địa phương điển hình trong cả nước về tình
hình tội phạm và cả nước nói chung, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện quy định của pháp luật về lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái hòa nhập xã hội đối với người
phạm tội.
Chương 2: Thực trạng, kết quả đạt được, nguyên nhân và tồn tại trong
công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa
nhập xã hội đối với tội phạm.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI
1.1. KHÁI NIỆM TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI
Quan niệm chung của Việt Nam hiện nay, vấn đề tái hòa nhập xã hội
chỉ đặt ra với những người vi phạm pháp luật hình sự, hành chính mà bị cách
ly khỏi cộng đồng xã hội trong một thời gian. Hệ thống chế tài về hình sự và
hành chính của Việt Nam đã đưa ra các đối tượng bị cách ly khỏi xã hội bao
gồm những đối tượng sau: thứ nhất là người bị kết án tù có thời hạn, tù chung
thân; thứ hai là người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; thứ ba là
người bị đưa vào trường giáo dưỡng (áp dụng đối với người chưa thành niên).
Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là quá trình tính từ khi một người
trở thành bị can bị cáo, bị kết án, chấp hành án và mãn hạn tù. Tuy nhiên đối
tượng mà luận văn đi sâu nghiên cứu thuộc đối tượng thứ nhất đó là những
người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân và tính từ khi còn là bị can, bị cáo
cho đến khi mãn hạn tù hay hay là các đối tượng tù tha và trở về địa phương.
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Khoản 1, Điều 49 Bộ luật Tố
tụng hình sự); bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra xét xử (Khoản 1 Điều 50
Bộ luật Tố tụng hình sự). Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm về người bị
kết án, tuy nhiên lại đề cập khá nhiều về người bị kết án khi quy định về việc
chấp hành hình phạt. Như vậy có thể hiểu người bị kết án là người đã có bản
án có hiệu lực của Tòa án và đang trong thời gian chấp hành án. Người chấp
hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực
pháp luật. Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù
chung thân (khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010). Có
rất nhiều quan điểm khác nhau về người mãn hạn tù (hay còn gọi là đối tượng
tù tha). Đa số các quan điểm đều cho rằng người mãn hạn tù bao gồm tất cả
15
các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các trại giam, trại cải tạo, có quyết định
được tha về địa phương. Tuy nhiên quan điểm này chưa phân biệt rõ được đối
tượng tù tha với các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các cơ sở tập trung như
cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh, cai nghiện được tha về
địa phương. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng tù tha là tất cả các đối
tượng "hết thời hạn chấp hành hình phạt tù" về địa phương. Đây là những đối
tượng đã hết thời hạn chấp hành bản án do Tòa án nhân dân quyết định, được
tha về địa phương [26, tr. 11-12]. Rõ ràng, quan điểm này cũng chưa thật đầy
đủ, bởi lẽ nếu xác định như vậy đối tượng mãn hạn tù chỉ bao gồm những đối
tượng đã chấp hành xong bản án ở các trại giam, trại cải tạo hết thời gian cải
tạo theo quyết định của Tòa án được tha về địa phương, như vậy theo cách
hiểu này thì số đối tượng tù tha được giảm thời hạn chấp hành án, được đặc
xá không nằm trong diện đối tượng tù tha. Theo Từ điển Nghiệp vụ phổ thông
thì tù tha về là những kẻ phạm tội bị phạt án tù giam đã hết hạn được tha hoặc
chưa hết hạn nhưng được ân xá, ân giảm tha về. Cần quản lý chặt chẽ đối
tượng tù tha về và cần bố trí công ăn việc làm cho họ, tạo điều kiện để cho họ
làm ăn lương thiện. Nếu hiểu theo quan điểm này thì đối tượng mãn hạn tù
bao gồm số đối tượng bị phạt án tù giam được tha kể cả số đã hết thời hạn
nhưng ân xá, ân giảm tha về do có nhiều tiến bộ trong quá trình cải tạo. Khái
niệm này đã có cái nhìn toàn diện hơn so với những quan điểm trên về đối
tượng mãn hạn tù, tuy nhiên chưa phân định được rõ số tù giam có thời hạn
với số tù chung thân được tha về và cũng chưa đề cập tới vấn đề đối tượng tù
tha được đặc xá. Để có được khái niệm đầy đủ về người mãn hạn tù, Điều 2
Quyết định của Chủ tịch nước số 35/QĐ-CTN ngày 23/2/2000 về đặc xá năm
2000 cũng chỉ rõ: "Đối tượng được xét đặc xá tha tù là những phạm nhân
đang chấp hành án tại các trại giam do Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quản
lý, kể cả những phạm nhân đang được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù hoặc
hoãn thi hành án phạt tù có những hoàn cảnh đặc biệt theo luật định" [25].
Theo đó thì đối tượng đặc xá bao gồm ba loại: Phạm nhân đang chấp hành án
16
phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng và quản lý có
nhiều tiến bộ được tha trước thời hạn; Phạm nhân trong thời gian được tạm
đình chỉ thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ được miễn thi hành án phạt tù;
Những người bị kết án tù trong thời gian được hoãn thi hành án phạt tù có
nhiều tiến bộ được miễn hình phạt tù. Tổng hợp từ những quan điểm trên thì
người mãn hạn tù hay còn gọi là đối tượng tù tha:
Là những người có hành vi phạm tội đã bị Tòa án nhân dân
kết án bằng bản án tù chung thân hoặc có thời hạn, phải chấp hành
hình phạt tù tại các trại giam, bị cách ly khỏi đời sống xã hội nay đã
chấp hành xong hình phạt tù hoặc vì một lý do nào đó được tha ra
khỏi trại, được trở về với đời sống xã hội cộng đồng [26, tr. 13].
Quan điểm này đưa ra cái nhìn tương đối phù hợp và toàn diện về
người mãn hạn tù, do đó người mãn hạn tù chỉ bao gồm số đối tượng phạm tội
đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân ở các trại giam,
trại tạm giam, hết thời hạn hay chưa hết thời hạn nhưng tiến bộ được hưởng
chính sách khoan hồng và được tha về địa phương. Số đối tượng đang chấp
hành án phạt tù trong các trại giam được xét giảm án, đặc xá cũng là đối
tượng mãn hạn tù. Riêng đối tượng được đặc xá cần phân biệt rõ, chỉ những
phạm nhân đang chấp hành án trong các trại giam được giảm án tha về địa
phương mới được coi là mãn hạn tù. Số đối tượng đang được tạm hoãn thi
hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù không bị giam giữ, quản lý
trong trại giam mà ở ngoài xã hội do có nhiều tiến bộ được hưởng chính sách
khoan hồng và được xét đặc xá, thì không coi là mãn hạn tù. Các đối tượng bị
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác theo Điều 20 Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính như: Cải tạo ở các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở
chữa bệnh được về địa phương không phải là đối tượng mãn hạn tù. Các đối
tượng chấp hành các hình phạt của Tòa án nhưng được cải tạo ở ngoài xã hội
như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất đã hết thời hạn cải
tạo và số bị áp dụng các hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp khác như:
17
Cấm cứ trú, quản chế, tước một số quyền công dân và kể cả án treo (trừ
trường hợp đối tượng đã chấp hành xong án phạt tù phải áp dụng hình phạt bổ
sung) thì không phải đối tượng mãn hạn tù. Qua những phân tích nêu trên có
thể hiểu người mãn hạn tù là những đối tượng có hành vi phạm tội, vi phạm
pháp luật hình sự, đã có quyết định của Tòa án về việc áp dụng hình phạt tù
có thời hạn hoặc tù chung thân. Họ bị xử lý, bị cách ly khỏi xã hội và được
quản lý, giam giữ giáo dục trong trại giam hoặc các trại tạm giam trong một
thời gian nhất định theo quyết định của Tòa án, nay họ đã hết thời hạn giam
giữ, cải tạo hoặc chưa hết thời hạn nhưng có tiến bộ, được hưởng chính sách
khoan hồng được tha về địa phương. Đây là những đối tượng đã bị kết án tù
giam hoặc tù chung thân đã chấp hành án ở các trại giam và được tha về.
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập xã hội và
tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Một số quan điểm cho rằng tái
hòa nhập xã hội là "tái hoàn lương" trở lại đối với cuộc sống đời thường mà
những người vi phạm, những người lầm lỗi đã mất đi. Cũng có ý kiến cho
rằng tái hòa nhập xã hội thực chất là các biện pháp quản lý của cộng đồng đối
với những người phạm tội. Bên cạnh đó đa phần các quan điểm đều cho rằng
tái hòa nhập xã hội là "quay lại lần thứ hai" hòa nhập với cộng đồng xã hội
đối với những người có quá khứ tội lỗi sau một thời gian bị cách ly khỏi xã
hội, cộng đồng dân cư. Tuy nhiên có thể hiểu tái hòa nhập xã hội như sau: Tái
hòa nhập xã hội là xóa đi những quá khứ tội lỗi và mặc cảm của người phạm
tội, tạo cơ hội, bình thường hóa các mối quan hệ để họ hội nhập với cộng
đồng nơi cư trú với tư cách là một công dân, một thành viên của gia đình,
cộng đồng xã hội [26, tr. 24]. Đây là những biện pháp tác động tích cực giúp
đỡ những người lầm lỗi, những người có quá khứ phạm tội xóa bỏ đi mọi mặc
cảm của bản thân họ đối với cộng đồng, gia đình và xã hội để họ có thể trở về
là người dân lương thiện với đúng nghĩa của nó. Có thể hiểu tái hòa nhập xã
hội là khái niệm thường đề cập đến các biện pháp hòa nhập xã hội được thiết
kế riêng biệt để giúp người phạm tội được tha từ một cơ sở giam giữ và để
18
giúp họ đối mặt với những thách thức liên quan đến việc trở về với cộng
đồng. Tái hòa nhập không có nghĩa chỉ là việc đưa đối tượng lầm lỡ từ các cơ
sở tập trung trở về nơi cư trú cũ, về với gia đình họ và cộng đồng dân cư nơi
họ sống trước đây. Tái hòa nhập xã hội cần được hiểu ở mức độ và phạm vi
rộng hơn, đây thực chất là quá trình giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện để những
con người vi phạm sau một thời gian cách ly trở về với cuộc sống của cộng
đồng, là người công dân lương thiện được thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của công dân. Tái hòa nhập xã hội nói chung đề cập cụ thể đến các
chương trình và sáng kiến nhằm giúp người phạm tội đã được đưa vào các cơ
sở giam giữ. Mục đích của nó là giúp người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng
thành công sau khi chấp hành bản án cải tạo. Thông thường có hai loại
chương trình: Thứ nhất là, hỗ trợ ngay trong các cơ sở giam giữ, trước khi
phóng thích của người phạm tội, nhằm giúp người phạm tội giải quyết các
vấn đề, xử lý các yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi phạm tội của họ, trang
bị các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt các chức năng xã hội của mình và
chuẩn bị tái tham gia vào cộng đồng. Đây là quá trình tác động từ bên ngoài
đối với đối tượng để đối tượng tiến bộ hòa nhập với cộng đồng. Đó cũng
chính là các biện pháp của chính quyền, cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội và
thân nhân gia đình đối với đối tượng mãn hạn tù nhằm quản lý, giáo dục giúp
đỡ họ.Và chương trình thứ hai là, những chương trình dựa trên cộng đồng,
thường được gọi là chương trình "hậu chăm sóc" nhằm tạo thuận lợi cho hòa
nhập xã hội của người phạm tội sau khi thả họ từ các cơ sở giam giữ. Rất
nhiều các chương trình sau này bao gồm cả một số hình thức giám sát cũng
như hỗ trợ tại cộng đồng. Có thể nhận thấy đây là các biện pháp tác động
hướng thiện chủ quan từ nội tâm, tự bản thân đối tượng phấn đấu để tái hòa
nhập xã hội. Như vậy có thể hiểu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
được xét ở hai khía cạnh: Với cá nhân đối tượng thì tái hòa nhập xã hội chính
là quá trình tự bản thân họ nhận thức điều chỉnh tư duy và hành vi cho phù
hợp với quy định của pháp luật và chuẩn mực của cộng động, đồng thời thông
19
qua lao động và giao tiếp, họ dần dần thích nghi với các sinh hoạt chung của
cộng đồng; Bên cạnh đó các chủ thể là nhà nước và xã hội, thông qua các hoạt
động hỗ trợ cụ thể, tạo các điều kiện cần và đủ cho đối tượng tạo lập cuộc
sống bình thường trong cộng đồng và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau để
chuẩn bị cho người phạm tội những điều kiện cần thiết và tâm lý, kỹ năng
sống khi trở về với xã hội sau một thời gian bị cách ly [26, tr. 23- 25].
Tái hòa nhập xã hội bao gồm nhiều giai đoạn bắt đầu từ việc chuẩn bị
cho người phạm tội bị cách ly khỏi xã hội những điều kiện cần thiết về nhận
thức, tâm lý và một số kỹ năng nghề nghiệp ngay trong quá trình giáo dục, cải
tạo tại nơi giam giữ và kết thúc khi họ được hỗ trợ các yếu tố cần thiết để tạo
lập được một cuộc sống bình thường trong xã hội, do đó có thể phân chia quá
trình tái hòa nhập xã hội theo thành nhiều giai đoạn như sau: giai đoạn thứ
nhất là quá trình chuẩn bị tái hòa nhập của người phạm tội tại các cơ sở cải
tạo, giam giữ. Ở giai đoạn này họ được giáo dục về văn hóa, pháp luật, giáo
dục về đạo đức, tư tưởng cũng như rèn luyện ý thức lao động, đây là sự chuẩn
bị cần thiết cho sự thích ứng nhanh chóng của đối tượng với môi trường bên
ngoài cơ sở cải tạo, giam giữ; giai đoạn thứ hai là quá trình hòa nhập vào gia
đình. Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất mà đối tượng phải
hòa nhập sau khi trở về với cuộc sống cộng đồng. Kết thúc quá trình này là
người thân chấp nhận họ trở lại là một thành viên bình thường của gia đình,
quan tâm đùm bọc họ; giai đoạn thứ ba là quá trình hòa nhập vào cộng đồng
xã hội tại địa phương mà đối tượng trở lại sinh sống, đây là quá trình thích
nghi và điều chỉnh hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật và các quy
tắc đạo đức tại địa phương. Kết quả của quá trình này là sự ghi nhận của đoàn
thể xã hội, của chính quyền địa phương, của những người xung quanh với
những tiến bộ của họ; giai đoạn thứ tư là quá trình khẳng định vị trí của đối
tượng tại cộng đồng, quá trình này thể hiện rõ sự nỗ lực thực sự của họ trong
việc xây dựng một cuộc sống lương thiện, từng bước hoàn thiện nhân cách,
nâng cao kiến thức văn hóa và năng lực, trách nhiệm trong lao động. Lúc này
20
những đóng góp của họ có tác động tích cực đến sự phát triển chung của cộng
đồng [24, tr. 10]. Công tác tái hòa nhập xã hội là sự kết hợp tổng thể của
nhiều biện pháp tư pháp, tâm lý, tư tưởng, hướng nghiệp, giáo dục văn hóa,
pháp luật v.v…Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là vấn đề phức tạp
đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cả cộng đồng xã hội thông
qua nhiều chính sách và mô hình cụ thể, đóng vai trò hỗ trợ, đảm bảo, tạo
điều kiện nâng cao năng lực thích nghi cho đối tượng và đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay khi tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Như vậy
từ những phân tích nêu trên, theo tác giả có thể hiểu: Tái hòa nhập xã hội đối
với người phạm tội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện trọn vẹn và có ý
nghĩa một bản án hình sự; là một quá trình với nhiều giai đoạn khác nhau có
nội dung bao gồm các biện pháp, cách thức và chương trình hòa nhập xã hội
được thiết kế riêng biệt nhằm mục đích đưa người phạm tội trở về với xã hội
trở thành những người có ích sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội với sự
tham gia của chính bản thân người phạm tội và Nhà nước cũng như cộng
đồng xã hội; thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời
góp phần ổn định an ninh và phòng chống tội phạm.
1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội tại cơ sở giam giữ
Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã thể hiện tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với người phạm
tội, theo đó tại Điều 3 của Bộ luật có quy định về nguyên tắc xử lý như sau:
"Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại
giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có
nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt" [29]. Bên cạnh đó
Điều 27 Bộ luật Hình sự cũng đã nhấn mạnh mục đích của hình phạt như sau:
"Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới" [29]. Theo quy
định tại Điều 16 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 về nhiệm vụ, quyền hạn,
21
cơ cấu tổ chức của trại giam thì: Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù, có
nhiệm vụ quyền hạn "tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm
nhân". Trại giam có phân trại, khu giam giữ, nhà giam, các công trình phục vụ
việc quản lý giam giữ, phục vụ sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục cải tạo
phạm nhân; các công trình phục vụ làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại trại
giam. Tổ chức bộ máy quản lý của trại giam gồm có Giám thị, Phó giám thị,
Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng; sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan; chiến sĩ và công nhân, viên chức. Giám
thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội
trưởng phải là người đã tốt nghiệp đại học cảnh sát, đại học an ninh, đại học
luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác theo quy định của Chính phủ.
Quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân là quá trình kiểm soát, tổ chức
và hướng dẫn các loại hình hoạt động và giao tiếp của người phạm tội được
thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch trong những điều kiện cụ thể
của trại giam trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây là một quá trình khó
khăn, phức tạp do những hành vi thói quen xấu, nhất là những người đã bị ảnh
hưởng và chi phối bởi những quan điểm, tư tưởng sai lầm, nhân cách lệch lạc,
suy thoái đến mức trầm trọng. Những người phạm tội đã mang trong họ
những phẩm chất tâm lý tiêu cực như: triết lý sống thấp hèn, thói quen vô đạo
đức, tính hung bạo, nhẫn tâm, tàn ác, tham lam, ích kỉ, cục cằn, thiếu văn hóa,
lối sống tự do, bừa bãi, vô kỉ luật của phạm nhân là khá phổ biến và không thể
ngày một ngày hai có thể thay đổi được. Tuy nhiên, dù nhân cách của người
phạm tội có suy thoái, vô đạo đức đến mức nào thì ở mỗi con người vẫn còn
tính nhân bản, trong sâu thẳm tâm hồn của họ, ít nhiều vẫn còn lương tri, nỗi
niềm trắc ẩn, điều mà có thể khơi dậy được. Trại giam là nơi tiếp nhận người
phạm tội, sau đó tổ chức quản lý giam giữ và giáo dục cải tạo phạm nhân.
Đầu tiên người phạm tội sẽ được phân loại để quản lý, giáo dục, hướng
nghiệp, dạy nghề cho phù hợp với từng loại đối tượng, phạm nhân mới đến
22
trại giam được học chương trình "đầu vào" và sắp ra trại được học chương
trình "đầu ra". Phạm nhân mù chữ được học văn hóa để xóa mù chữ, phạm
nhân là người chưa được thành niên được học để phổ cập tiểu học. Các
chương trình giáo dục công dân cho phạm nhân bao gồm cả giáo dục truyền
thống, pháp luật, đạo đức và kĩ năng sống. Tuy nhiên hiện nay cả Luật Thi
hành án hình sự và quy chế trại giam cũng như các văn bản hướng dẫn chưa
có quy định cụ thể về vấn đề này để áp dụng thống nhất tại các trại giam.
Ngoài ra các trại giam còn tổ chức sản xuất, hướng nghiệp dạy nghề cho
phạm nhân, có rất nhiều người sau khi từ trại giam trở về đã trở thành những
ông chủ lớn. Trại giam thực hiện việc liên kết với các trường dạy nghề, các
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức đào tạo, thi và cấp chứng chỉ
nghề cho phạm nhân. Đây được coi là một trong những nội dung quan trọng
nhất chuẩn bị cho việc tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội. Có rất nhiều
phạm nhân khi vào trại giam không biết lao động, không có nghề nghiệp,
nhưng khi trở về với xã hội họ đã có nghề nghiệp, làm ăn sinh sống, góp phần
giảm bớt tỉ lệ tái phạm. Mặt khác các trại giam thường xuyên thực hiện công
tác tuyên truyền, phổ biến thời sự, chính sách, pháp luật cho phạm nhân kết
hợp với đẩy mạnh các hoạt động giáo dục bổ trợ như: văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao, vui chơi giải trí cho phạm nhân, tạo bầu không khí để phạm
nhân yên tâm học tập, rèn luyện tiến bộ. Các trại giam thường xuyên tổ chức
các sự kiện văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại trại. Trong các hoạt động
đó, phạm nhân khi cởi bỏ bộ đồ kẻ sọc, khoác lên mình những chiếc áo cầu
thủ bóng đá hay trang phục biểu diễn văn nghệ, thi đấu hay biểu diễn hết
mình như bất kỳ đội bóng, đội văn nghệ nào ngoài xã hội. Những hoạt động
đó giúp phạm nhân vơi đi mặc cảm, quyết tâm rèn luyện, phấn đấu để sớm
được trở về đoàn tụ với gia đình.
Cùng với đó các trại giam còn chuẩn bị khâu "đầu ra" cho các phạm
nhân tái hòa nhập xã hội. Với cách thức được thực hiện thống nhất như sau:
Số phạm nhân sắp chấp hành xong hình phạt tù được tập trung giam giữ tại
23
một khu vực riêng trong trại giam, được bố trí với những điều kiện thuận lợi
hơn về sinh hoạt, học tập, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, thăm gặp thân
nhân. Tổ chức cho những phạm nhân này học tập những kiến thức cần thiết về
pháp luật, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, học tâm lý để tránh
mặc cảm, tự ti và giáo dục kỹ năng sống, nhất là kỹ năng tìm kiếm việc làm,
kỹ năng phòng tránh, từ chối những tác động tiêu cực của xã hội, cung cấp
thông tin, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương cho phạm
nhân khỏi lạc hậu trước khi trở về. Sau khi tiếp nhận phạm nhân, trại giam
tiến hành quản lý, giam giữ phạm nhân. Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày
15/12/2011 của Chính phủ đã quy định khá rõ về tổ chức quản lý phạm nhân
và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân. Chế độ ăn,
mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân được thực hiện theo quy
định tại các Điều từ Điều 8 đến Điều 15 Nghị định 117. Bên cạnh đó trại giam
còn có nhiệm vụ "thông báo cho thân nhân của phạm nhân về việc tiếp nhận
phạm nhân và tình hình chấp hành án của người đó". Hai tháng trước khi
phạm nhân hết hạn chấp hành hình phạt tù, Giám thị trại có văn bản thông báo
kết quả chấp hành hình phạt tù và những thông tin cần thiết khác về phạm
nhân cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi phạm
nhân về sinh sống để quan tâm, giúp đỡ họ tạo lập cuộc sống bình thường,
tránh tái phạm tội. Đúng ngày phạm nhân hết thời hạn chấp hành hình phạt tù,
Giám thị trại giam cấp "Giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù" và
giới thiệu họ về Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, đơn vị nơi họ cư trú
hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc trước khi bị bắt, đồng thời cấp tiền tàu
xe, tiền ăn trong thời gian đi đường và quần áo thường để họ trở về nơi họ cư
trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc. Những trường hợp người chấp
hành xong hình phạt tù có khó khăn về nơi cư trú, không rõ quê quán, không
còn người thân thích hoặc cơ quan, đơn vị cũ không tiếp nhận và bản thân họ
cũng không có chỗ ở khác thì trại giam chủ động liên hệ với chính quyền địa
phương, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để tiếp nhận họ làm việc, sinh
24
sống. Phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù tại các trại giam, trại tạm
giam phải được tư vấn, trợ giúp về tâm lý nhằm định hướng và nâng cao khả
năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc của bản thân khi chấp hành
xong án phạt tù. Các trại giam, trại tạm giam phải bố trí phòng tư vấn có trang
bị những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc tư vấn; bố trí cán bộ có khả
năng thực hiện việc tư vấn cho phạm nhân hoặc có thể mời người có khả năng
tư vấn kết hợp với cán bộ trại tổ chức tư vấn cho phạm nhân. Ngoài ra phạm
nhân còn được định hướng nghề nghiệp, nâng cao khả năng tìm kiếm việc
làm khi họ sắp chấp hành xong án phạt tù: Trại giam, trại tạm giam có trách
nhiệm kiểm tra, đánh giá kết quả, năng lực nghề nghiệp từng phạm nhân để có
kế hoạch bồi dưỡng nâng cao tay nghề, định hướng tìm kiếm việc làm cho họ
sau khi chấp hành xong án phạt tù. Sau đó, căn cứ vào khả năng của phạm
nhân, thị trường lao động và điều kiện cụ thể, các trại giam, trại tạm giam tổ
chức bồi dưỡng nâng cao tay nghề và tổ chức dạy những nghề phổ thông, đơn
giản cho người chưa có nghề; phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng tổ
chức dạy nghề, bồi dường nghề cho phạm nhân trước khi họ chấp hành xong
án phạt tù (Điều 8 Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/09/2011 của Chính
phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người
chấp hành xong án phạt tù). Các phạm nhân được giam giữ ở các khu giam
khác nhau để thuận tiện cho việc quản lý và giam giữ, theo đó: khu giam giữ
đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc
loại tái phạm nguy hiểm; khu giám giữ đối với phạm nhân có mức án tù từ 15
năm trở xuống, phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng có kết quả chấp
hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới 15 năm.
Các phạm nhân nữ; phạm nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người
nước ngoài; phạm nhân là người có bênh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm;
phạm nhân có dấu hiệu bị tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ
quyết định của Tòa án; phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế
25
trại giam được chia ra thành các khu giam giữ riêng. Phạm nhân được chia
thành các đội, tổ để lao động, học tập và sinh hoạt.
Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy
định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc
y tế đối với phạm nhân đã quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể về: chế độ ăn
đối với phạm nhân (Điều 8), chế độ ở của phạm nhân (Điều 9), chế độ mặc và
cấp phát tư trang đối với phạm nhân (Điều 10), chế độ ăn, mặc và cấp phát nhu
yếu phẩm đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng cha,
mẹ trong trại giam (Điều 11), chế độ sinh hoạt đối với phạm nhân (Điều 12),
chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân (Điều 13), chế độ đối với phạm nhân
là người chưa thành niên (Điều 14), chế độ ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế
đối với phạm nhân là người nước ngoài. Như vậy các chế độ và việc giam giữ
người phạm tội tại trại giam đối với phạm nhân được quy định khá chi tiết và
cụ thể tại nhiều văn bản khác nhau, tuy nhiên cần có một văn bản thống nhất
để thuận tiện cho việc các trại giam áp dụng các quy định này. Bên cạnh việc
các chế độ về ăn, phạm nhân còn được sắp xếp theo các buồng giam tập thể,
chỗ nằm tối thiểu đối với mỗi phạm nhân là 02 mét vuông, có bệ gạch men, ván
sàn hoặc giường. Đối với phạm nhân có con nhỏ ở cùng thì được bố trí chỗ nằm
tối thiểu là 03 mét vuông, có bệ gạch men, ván sàn hoặc giường. Phạm nhân ở
trong buồng giam theo thời gian quy định và chỉ được ra khỏi buồng giam theo
nội quy trại giam hoặc khi có lệnh của Giám thị trại giam, trại tam giam, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Trước và sau khi phạm
nhân ra, vào buồng giam, cán bộ, chiến sĩ được giao trách nhiệm phải điểm
danh, kiểm diện. Các cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trại giam và người không có
nhiệm vụ không được vào khu vực giam giữ, không được tiếp xúc với phạm
nhân khi chưa được phép của Giám thị trại giam. Ngoài chế độ ăn, ở các phạm
nhân tại trại giam còn được quan tâm về chế độ mặc, sinh hoạt, y tế và cấp phát
tư trang v.v... Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (Điều 44) và Nghị định số
117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản
26
lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm
nhân (Điều 12) quy định về chế độ sinh hoạt đối với phạm nhân, theo đó,
phạm nhân được hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, đọc
sách, báo, nghe đài, xem truyền hình phù hợp với điều kiện của nơi chấp hành
án. Trong các chế độ dành cho người phạm tội tái hòa nhập xã hội tại các trại
giam thì có thể đánh giá rằng giáo dục và đào tạo nghề là hai trong số những
biện pháp trọng yếu hỗ trợ người phạm tội để chuẩn bị tái hòa nhập xã hội.
Từ những nghiên cứu và phân tích trên, tác giả cho rằng pháp luật đã
quy định khá chi tiết và cụ thể về các điều kiện, các chế độ dành cho phạm
nhân, những người phạm tội tại các trại giam. Đây là những nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tái hòa nhập xã hội của người phạm tội khi ra khỏi
trại giam đồng thời là tiền đề trong việc tái hòa nhập xã hội của người phạm
tội. Tuy nhiên các quy định này nằm rải rác tại khá nhiều văn bản khác nhau
trong đó có luật hình sự, Luật Thi hành án hình sự, quy chế trại giam, các
nghị định, thông tư liên ngành và cả trong những văn bản của Bộ Công an và
Bộ Quốc phòng. Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực
tế mà còn dẫn đến sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các văn bản cùng quy định
về tái hòa nhập xã hội tại trại giam đối với người phạm tội.
1.1.2. Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ
Một trong những phương thức hỗ trợ tái hòa nhập xã hội cho người
phạm tội sau thời gian chấp hành trong các cơ sở giam giữ là rút ngắn tối đa
thời gian chấp hành đó và tạo ra cho họ các cơ chế để họ được trả về cộng
đồng sớm ngay khi có dấu hiệu chỉ ra rằng họ đã có khả năng thực hiện chức
năng xã hội của mình một cách bình thường. Các biện pháp trả tự do có điều
kiện từ các cơ sở giam giữ cần được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng tới
mức tối đa cho phép và người phạm tội cần được trả tự do trong thời gian sớm
nhất có thể, có nghĩa là người phạm tội được trả tự do có điều kiện từ các cơ
sở giam giữ cần được cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ, giám sát và cần được
27
cộng đồng hỗ trợ. Các chương trình trả tự do sớm nên tạo khuôn khổ pháp lý
để hệ thống tư pháp có những quy định trả tự do sớm cho người phạm tội
ngay khi họ sẵn sàng trở lại cộng đồng. Đây là cơ chế chính được sử dụng để
đảm bảo người phạm tội chỉ phải ở trong các cơ sở giam giữ trong khoảng
thời gian ngắn nhất có thể và chỉ khi thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, có sự
đánh giá định kỳ về sự tiến bộ của người phạm tội trong cơ sở giam giữ nhằm
đánh giá mức độ sẵn sàng của họ trong việc thực hiện vai trò xã hội của mình
và giúp quyết định trả tự do cho họ ngay khi có thể. Có nghĩa là pháp luật nên
có những quy định về trả tự do sớm cho người phạm tội. Do đó Điều 16 Luật
Thi hành án hình sự có quy định, trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù
được phép: Đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét thời hạn chấp hành án,
tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân theo quy định của pháp
luật và thực hiện các thủ tục đề nghị đặc xá cho phạm nhân theo quy định pháp
luật. Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng có quy định: Người bị
kết án được miễn chấp hành hình phạt ngay khi được đặc xá hoặc đại xá.
Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước
quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù
chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường
hợp đặc biệt. Quyết định về đặc xá là văn bản do Chủ tịch nước ban hành quy
định thời điểm đặc xá, đối tượng, điều kiện của người được đề nghị đặc xá và
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện đặc xá. Quyết định
đặc xá là văn bản của Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho
người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân. Hội đồng tư vấn đặc xá là
tổ chức liên ngành gồm đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan do Chủ tịch
nước quyết định thành lập để triển khai thực hiện Quyết định về đặc xá của
Chủ tịch nước và tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch nước thực hiện hoạt động
đặc xá. Người được xem xét đặc xá là những người bị kết án phạt tù có thời
hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình
phạt tù nhân sự kiện trọng đại hoặc ngày lễ lớn của đất nước. Trong trường
28
hợp đặc biệt thì người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đang chấp
hành hình phạt tù, được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù không phụ
thuộc vào thời điểm là sự kiện trọng đại hoặc ngày lễ có thể được xem xét để
đặc xá. Như vậy, thông qua việc đặc xá Nhà nước động viên, khuyến khích
người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo đồng
thời giúp đỡ họ ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã
hội. Có thể thấy được tầm quan trọng của hoạt động đặc xá đối với việc tái
hòa nhập xã hội cho người phạm tội ngay ở tính chất và ý nghĩa của hoạt
động này. Bởi lẽ, đối tượng được đặc xá phải đáp ứng được các điều kiện sau:
thứ nhất, chấp hành tốt quy chế, nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực
học tập, lao động; trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo
từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự,
an toàn xã hội; thứ hai, đã chấp hành hình phạt tù được một thời gian do Chủ
tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt
tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì
thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành hình phạt tù;
ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân; thứ ba, đối với
người bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng hoặc một số tội phạm
khác được Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá thì phải chấp hành
xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ
dân sự khác. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm
xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện nêu trên
được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tù ngắn hơn
so với thời gian quy định trên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Đã
lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù, có xác nhận của trại
giam, trại tạm giam; Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một
trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao
động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong
29
kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sĩ; con của Bà mẹ
Việt Nam anh hùng; con của gia đình có công với nước; Là người đang mắc
bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, có kết luận giám định y khoa
hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền; Khi phạm tội là
người chưa thành niên; Là người từ 70 tuổi trở lên; Có hoàn cảnh gia đình đặc
biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú; Trường hợp khác do
Chủ tịch nước quyết định. Tuy nhiên những người mà bản án hoặc quyết định
của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;
trước đó đã được đặc xá; có từ hai tiền án trở lên thì không được đề nghị để
xét đặc xá. Người được xét đề nghị đặc xá được thông báo về chính sách,
pháp luật về đặc xá, Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước, văn bản hướng
dẫn của cơ quan có thẩm quyền về điều kiện của người được đề nghị đặc xá
và thông tin khác về đặc xá liên quan đến người được đề nghị đặc xá, được
liên hệ với thân nhân, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu thập, cung
cấp giấy tờ, tài liệu cần thiết để hoàn thiện hồ sơ đề nghị đặc xá và khiếu nại
tố cáo về vấn đề này. Đồng thời người được xét đề nghị đặc xá phải có nghĩa
vụ nộp đơn xin đặc xá, khai báo đầy đủ, trung thực thông tin về cá nhân liên
quan đến việc đề nghị đặc xá và chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt
tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác sau khi được đặc
xá. Để được đặc xá người bị kết án phải có đơn xin đặc xá; tài liệu chứng
minh về cá nhân, hoàn cảnh gia đình của người được đề nghị đặc xá; tài liệu
chứng minh đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường
thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác; cam kết không vi phạm pháp luật,
tiếp tục chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại,
án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác sau khi được đặc xá; văn bản đề nghị đặc xá
của Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam. Căn cứ vào quyết định về đặc
xá của Chủ tịch nước và hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
30
trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị đặc xá được thực hiện như sau: thứ nhất,
Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
có trách nhiệm rà soát, lập danh sách và hồ sơ người đang chấp hành hình
phạt tù có đủ điều kiện đề nghị đặc xá theo quy định của pháp luật, thông báo,
niêm yết công khai danh sách người được đề nghị đặc xá tại trại giam, trại
tạm giam và làm văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng xem xét; thứ hai, Giám thị trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, Giám
thị trại tạm giam thuộc quân khu và tương đương có trách nhiệm rà soát, lập
danh sách và hồ sơ người đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện đề nghị
đặc xá theo quy định của pháp luật, báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư
lệnh quân khu và tương đương. Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu
và tương đương xét duyệt danh sách, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng xem xét. Giám thị trại tạm giam thông báo, niêm yết
công khai danh sách này tại trại tạm giam; thứ ba, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm xem xét hồ sơ đề nghị đặc xá được lập
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và lập danh sách người đủ
điều kiện và danh sách người không đủ điều kiện đề nghị đặc xá để trình Hội
đồng tư vấn đặc xá xem xét. Hội đồng tư vấn đặc xá tổ chức thẩm định hồ sơ,
danh sách do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình; lập
danh sách người đủ điều kiện và danh sách người không đủ điều kiện đặc xá
trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Chính phủ có trách nhiệm hướng
dẫn cụ thể trình tự, thủ tục lập danh sách, thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá và
hướng dẫn thực hiện Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước. Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình hướng dẫn, phối hợp thực hiện việc lập danh sách, xét duyệt hồ sơ đề
nghị đặc xá. Khi có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước, Giám thị trại giam,
Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Giám đốc Công an
cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương đương có trách nhiệm: Tổ chức công bố
31
và thực hiện Quyết định đặc xá đối với người được đặc xá; Cấp giấy chứng nhận
đặc xá cho người được đặc xá; Thông báo ngay bằng văn bản cho Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người được đặc xá về cư trú. Việc đặc xá được Nhà nước
thực hiện không phân biệt đối xử hoặc hạn chế đối với bất kỳ phạm nhân nào
dù là người Việt Nam hay người nước ngoài, nếu họ có đủ điều kiện được đặc
xá. Người được đặc xá có quyền: Được cấp Giấy chứng nhận đặc xá; Được
chính quyền địa phương và cơ quan, tổ chức có liên quan tạo điều kiện, giúp
đỡ để hòa nhập với gia đình và cộng đồng; Được hưởng các quyền khác như đối
với người đã chấp hành xong hình phạt tù theo quy định của pháp luật. Nhưng
bên cạnh đó họ phải thực hiện các nghĩa vụ sau: Xuất trình Giấy chứng nhận
đặc xá với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú; thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ đã cam kết; Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Trường hợp được giảm ba năm phải là người bị kết án phạt tù có thành
tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, cải tạo và chấp hành nghiêm chỉnh nội
quy, quy chế giam giữ. Nghị quyết có hướng dẫn cụ thể như sau:
Trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù, có đủ các
điều kiện được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và phần
hình phạt tù còn lại mà họ phải chấp hành là dưới 3 tháng thì mức
giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có thể bằng thời hạn tù còn lại
nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai hình phạt đã tuyên
theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 58 của Bộ luật Hình sự [37].
Đồng thời nghị quyết cũng có đưa ra hai ví dụ cụ thể về trường hợp
này: thứ nhất, Nguyễn Văn A bị kết án 5 năm tù, A đã chấp hành được 4 năm
10 tháng tù và có đủ các điều kiện để được giảm thời hạn chấp hành hình phạt
tù theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP.
Trong trường hợp này, A có thể được giảm phần hình phạt tù còn lại (2 tháng);
thứ hai, Trần Văn T bị kết án 3 tháng tù, T đã chấp hành được một phần ba
hình phạt (1 tháng tù) và có đủ các điều kiện khác để được giảm thời hạn chấp
hành hình phạt tù theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số
32
01/2007/NQ-HĐTP. Trong trường hợp này, T chỉ có thể được giảm đến 1 tháng
15 ngày tù vì theo quy định tại khoản 3 Điều 58 của Bộ luật Hình sự thì T phải
bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên (tức là 1 tháng
15 ngày tù).
Như vậy, đặc xá khẳng định chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà
nước, truyền thống nhân đạo của dân tộc đối với những người phạm tội đã cải
tạo tiến bộ khi chịu hình phạt tù và có đủ các điều kiện theo quy định. Không
chỉ dừng lại ở việc tha tù trước thời hạn, Đảng, Nhà nước còn tạo điều kiện
cho những người được đặc xá tái hòa nhập cộng đồng. Bộ Công an đã tổ chức
dạy nghề, kiến thức xã hội cho những người chuẩn bị được tha tù trong trại
giam, các ngành ở địa phương tạo việc làm, cho vay vốn sản xuất kinh doanh
đối với người được đặc xá. Hàng năm nước ta có khoảng hơn 10.000 phạm
nhân được đặc xá dịp Quốc khánh mùng 2 - 9, cứ vào dịp này các trại giam
trong cả nước sẽ trao quyết định đặc xá tha tù cho các phạm nhân để họ trở về
với cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, đối với các phạm nhân được đặc xá,
trở về nhà là niềm vui lớn của cả phạm nhân và ban giám thị trại giam, cùng
với đó lại là nỗi lo tái hòa nhập của những con người từng lầm lỗi này. Nhiều
phạm nhân sau khi biết mình có tên trong danh sách được đặc xá tỏ ra rất vui
mừng nhưng cũng không khỏi lo lắng về việc không biết ra tù xã hội sẽ đón
nhận mình thế nào. Đối với nhiều phạm nhân, khi bước chân ra khỏi cánh
cổng trại giam họ cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Mặc cảm tội lỗi luôn hiện diện,
họ co mình vào vỏ ốc và có thể tái phạm tội bất cứ lúc nào. Mặc dù vậy không
thể phủ nhận vai trò to lớn của việc đặc xá một hình thức trả tự do sớm cho
người bị kết án, người phạm tội để họ có nhiều cơ hội hơn khi tái hòa nhập
với xã hội, đồng thời cũng thể hiện chính sách nhân đạo và sự quan tâm của
nhà nước đối với những người phạm tội nói chung. Nhiều phạm nhân sau khi
được đặc xá trở thành người có ích cho xã hội. Đặc xá có thể được coi như
một phương thức có hiệu quả trong việc đưa người phạm tội trở về với xã hội
sớm hơn và góp phần làm cho công tác tái hòa nhập xã hội hiệu quả hơn.
33
1.1.3. Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội sau khi đƣợc trả
tự do khỏi cơ sở giam giữ
Để thực hiện tốt công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội,
ngoài việc tổ chức giáo dục cải tạo phạm nhân trong trại giam, thì "Người đã
chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện,
hòa nhập với cộng đồng" [28, Điều 3]. Bên cạnh đó Bộ luật Hình sự cũng quy
định về ý nghĩa và mục đích của việc xóa án tích cho người phạm tội, theo đó
"Xóa án tích để người phạm tội hòa nhập cộng đồng thuận lợi hơn và là việc
làm đầu tiên để người phạm tội có thể tái hòa nhập xã hội" [28, Điều 67].
Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống để
hòa nhập cộng đồng, các điều kiện này là tiền đề và cơ sở tâm lý và xã hội để
người phạm tội tái hòa nhập xã hội. Cụ thể, công tác tái hòa nhập xã hội cho
người phạm tội sau khi được trả tự do khỏi cơ sở giam giữ là nội dung xoay
quanh vấn đề phát triển các biện pháp quản lý việc tham gia trở lại của người
phạm tội vào cộng đồng thông qua công tác kết hợp cân đối giữa giám sát và
hỗ trợ cũng như phối hợp hiệu quả giữa cơ quan thi hành án, cơ quan bảo vệ
pháp luật và các ban ngành đoàn thể có liên quan tại cộng đồng. Điều 4 Luật
Thi hành án hình sự năm 2010 đã nhấn mạnh các nguyên tắc thi hành án hình
sự: thứ nhất, kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp
dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội,
độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa và các đặc điểm nhân thân khác của người
chấp hành án; thứ hai, thi hành án đối với người chưa thành niên chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành người có ích cho xã hội; thứ ba, khuyến khích người chấp hành án ăn
năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại;
thứ tư, Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình vào
việc giáo dục cải tạo người chấp hành án. Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày
16/9/2011 quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người
chấp hành xong án phạt tù một lần nữa nhấn mạnh các nguyên tắc bảo đảm tái
34
hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù: Thực hiện
đúng quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên
quan; Tạo điều kiện thuận lợi cho người chấp hành xong án phạt tù tái hòa
nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phòng ngừa tái phạm và vi phạm pháp
luật; Nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, phân biệt đối xử hoặc xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành xong án phạt tù.
Luật thi hành án và Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy
định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành
xong án phạt tù: biện pháp thứ nhất, thông tin, truyền thông giáo dục về hòa
nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù; biện pháp thứ hai,
quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng
đồng; biện pháp thứ ba, dạy nghề, giải quyết việc làm cho người chấp hành
xong án phạt tù; biện pháp thứ tư, trợ giúp về tâm lý và hỗ trợ các thủ tục
pháp lý cho người chấp hành xong án phạt tù; và các biện pháp hỗ trợ khác.
Thông tin, truyền thông giáo dục về tái hòa nhập cộng đồng nhằm định
hướng, khuyến khích, động viên việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ, xóa bỏ sự
định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử với người chấp hành xong án phạt tù, giúp
họ ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng. Nội dung, hình thức thông tin,
truyền thông giáo dục về tái hòa nhập cộng đồng phải phù hợp và được thực
hiện bằng nhiều phương pháp, hình thức phong phú, đa dạng. Người chấp
hành xong án phạt tù được quản lý, giáo dục trong thời gian kể từ khi họ chấp
hành xong án phạt tù cho đến khi họ được xóa án tích theo quy định của Bộ
luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Nội dung quản lý, giáo dục, giúp đỡ
người chấp hành xong án phạt tù bao gồm: Tổ chức thực hiện công tác tiếp
nhận; phân công tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm quản lý, giáo dục, giúp đỡ
người chấp hành xong án phạt tù hòa nhập cộng đồng; Tư vấn, trợ giúp về
tâm lý, hỗ trợ các thủ tục pháp lý giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái
hòa nhập cộng đồng; Hướng dẫn làm thủ tục đăng ký hộ khẩu, cấp Giấy
chứng minh nhân dân, xóa án tích, cấp Phiếu lý lịch tư pháp; Quản lý, giám
35
sát người chấp hành xong án phạt tù; giáo dục; hướng dẫn chấp hành pháp
luật, nghĩa vụ công dân; phát hiện, ngăn chặn, xử lý khi có hành vi vi phạm
pháp luật; Hỗ trợ kinh phí, cho vay vốn, tổ chức học tập, dạy nghề, tìm kiếm,
giới thiệu việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù; Tạo các điều cần
thiết khác giúp người chấp hành xong án phạt tù ổn định cuộc sống, hòa nhập
cộng đồng, tránh tái phạm. Người chấp hành xong án phạt tù được quan tâm
dạy nghề, giải quyết việc làm tùy thuộc vào điều kiện sức khỏe, khả năng
chuyên môn của bản thân, nhu cầu của người sử dụng lao động và điều kiện
thực tế của địa phương; được xem xét hỗ trợ cho vay vốn từ các ngân hàng
chính sách xã hội, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện ở địa phương và được xét hỗ
trợ một phần vốn đối với người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gia đình
chính sách để tạo việc làm và sản xuất, kinh doanh. Người chưa thành niên
chấp hành xong án phạt tù được ưu tiên học văn hóa, học nghề, giải quyết
việc làm và hỗ trợ vay vốn để học tập, tìm kiếm việc làm ổn định cuộc sống.
Người chấp hành xong án phạt tù có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không có
nơi cư trú nhất định, nếu tự nguyện xin được làm việc tại các cơ sở sản xuất
do trại giam tổ chức thì được xem xét bố trí nơi ở, làm việc tại các cơ sở này.
Căn cứ vào đối tượng, điều kiện cụ thể và theo đề nghị của cơ quan quản lý
thi hành án hình sự, Bộ Công an quyết định thành lập và quy định cụ thể về tổ
chức, hoạt động của các cơ sở sản xuất để tổ chức cuộc sống, việc làm cho
người chấp hành xong án phạt tù có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không có
nơi cư trú nhất định. Nhà nước khuyến khích các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá
nhân tham gia thực hiện các hoạt động tư vấn, dạy nghề, giới thiệu việc làm,
giúp đỡ những người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng;
khuyến khích việc tiếp nhận người chấp hành xong án phạt tù vào làm việc
trong các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Các cơ quan, đơn vị,
tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án
phạt tù được ưu tiên thuê nhà, cơ sở hạ tầng của Nhà nước theo quy định của
pháp luật để thành lập các cơ sở giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái
36
hòa nhập cộng đồng. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
căn cứ vào thẩm quyền quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khả năng quỹ đất ở
địa phương và các nguồn tài nguyên khác để giúp các tổ chức, cá nhân trong
hoạt động dạy nghề, tạo việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù. Cơ sở
sản xuất do Bộ Công an tổ chức và các cơ sở khác được thành lập với mục
đích giáo dục, dạy nghề, giúp đỡ việc làm cho người chấp hành xong án phạt
tù được hưởng các chế độ miễn, giảm thuế theo quy định của các luật thuế có
liên quan và văn bản hướng dẫn thi hành.
Pháp luật quy định các biện pháp trực tiếp giám sát, theo dõi cũng như
tư vấn hướng nghiệp cho các phạm nhân sau khi ra tù có thể tái hòa nhập
cộng đồng, tuy nhiên do trình độ hiểu biết về kiến thức pháp luật, cũng như
tuổi tác của các phạm nhân có sự chênh lệch, lại cách biệt với xã hội một thời
gian dài nên nhiều phạm nhân cũng có sự bỡ ngỡ. Chính vì vậy, cần phải
tuyên truyền sâu cho các phạm nhân về các kiến thức pháp luật hiện hành và
các kỹ năng để tái hòa nhập cộng đồng. Từ đó, nắm bắt được tâm tư nguyện
vọng của các phạm nhân sau khi ra trại, cán bộ giáo dục sẽ tư vấn cho các
phạm nhân về nghề nghiệp sao cho phù hợp với hoàn cảnh, và tình hình thực
tế của mỗi phạm nhân. Việc mở các lớp học dạy kiến thức cho phạm nhân sẽ
nhằm trang bị, và cập nhật cho phạm nhân những điều cơ bản về quyền lợi và
nghĩa vụ sau khi chấp hành xong hình phạt tù để có thể nhận thức rõ quyền và
nghĩa vụ của mình khi tái hòa nhập cộng đồng, từ đó lao động tốt để cống
hiến cho xã hội. Tất cả những phạm nhân nếu có nhu cầu vay vốn khi trở về
địa phương làm đơn xin vay vốn hỗ trợ sản xuất sẽ được xét duyệt như mọi
công dân khác. Ví dụ, phạm nhân Hưng Vĩnh phạm tội giết người bị kết án 8
năm, thụ án tại trại giam Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phúc tính từ năm 2003 đến
năm 2011, nhờ học được nghề xây dựng, ra trại anh đã mở công ty riêng, hiện
nay công ty của anh cho doanh thu 200 tỷ đồng mỗi năm. Trại giam, trại tạm
giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm định kỳ
37
06 tháng một lần thông báo tình hình chấp hành án của phạm nhân cho thân
nhân của họ để khi tái hòa nhập xã hội người phạm tội không mặc cảm và
thường xuyên liên lạc được với gia đình, người thân, là chỗ dựa về tinh thần
cũng như tâm lý quay trở lại xã hội sau một thời gian cách ly của người phạm
tội. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức,
cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn luyện
để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục,
dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái
hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù.
Tái hòa nhập sau khi ra khỏi trại giam cho người phạm tội có một ý
nghĩa quan trọng, tuy nhiên hiện nay các văn bản hầu như rất ít quy định về
vấn đề này. Do vậy cần có những nỗ lực nhằm tạo ra các cơ sở bán giam giữ
như nhà chuyển tiếp, nhà giáo dục, trung tâm dạy nghề ban ngày và các mô
hình phù hợp khác nhằm hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập thành
công vào cộng đồng. Các cơ quan, tổ chức nhà nước và tư nhân có khả năng
cung cấp các dịch vụ chăm sóc sau giam giữ hiệu quả cho tù nhân ra trại
nhằm làm giảm những định kiến đối với họ và hỗ trợ quá trình phục hồi của
họ về mặt xã hội. Với sự tham gia của cộng đồng, hỗ trợ của cộng đồng và
các định chế xã hội vần tạo những điều kiện tốt nhất có thể để hỗ trợ tái hòa
nhập xã hội cho người phạm tội. Đồng thời các Nhà nước có các biện pháp
kêu gọi các cá nhân, tổ chức tình nguyện, các cơ quan đoàn thể địa phương và
các nguồn lực khác trong cộng đồng đóng góp có hiệu quả vào việc phục hồi
cho người phạm tội trong môi trường cộng đồng và gia đình người phạm tội.
1.2. CÁC CHƢƠNG TRÌNH TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI
Tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội là hoạt động
mang tính hành, xã hội chính đồng thời mang tính pháp luật và nghiệp vụ. Do
đó vấn đề tái hòa nhập cộng đồng đối với người phạm tội được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
38
Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về tăng
cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới, theo đó: "Xây
dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tuyên truyền giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật để phục vụ kịp thời, có hiệu quả cho công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trước mắt và lâu dài. Tiếp tục nâng cao
chất lượng công tác quản lý giáo dục, cải tạo người phạm tội bằng nhiều hình
thức, giúp họ cải tạo tiền bộ, hoàn lương, tái hòa nhập gia đình và cộng đồng
xã hội.
Thành lập Ban chỉ đạo của Chính phủ thực hiện Chương trình quốc
gia phòng, chống tội phạm do đồng chí Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ
làm Trưởng ban, Bộ trưởng Bộ Công an làm Phó Trưởng ban; Thứ trưởng Bộ
Công an phụ trách cảnh sát nhân dân làm ủy viên thường trực; Thứ trưởng các
Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn
hóa - Thông tin, Giáo dục và Đào tạo, Tài chính, ủy ban bảo vệ và chăm sóc
trẻ em là ủy viên. Mời đại diện lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Ban Nội chính Trung ương, ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân tập thể, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam tham gia Ban chỉ đạo; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm do
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm
Trưởng ban, các thành viên tương ứng như Ban chỉ đạo của Chính phủ, giúp
ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thực hiện Chương trình quốc gia phòng,
chống tội phạm ở địa phương; Hàng tháng, quý, năm các Bộ, ngành và Ủy
ban nhân dân các cấp cần kiểm điểm công tác phòng, chống tội phạm ở Bộ,
ngành, địa phương mình và báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ và Ban
chỉ đạo của Chính phủ thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm; Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc
Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
39
ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này; Ban chỉ đạo Chương trình
quốc gia phòng, chống tội phạm có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn đôn đốc
việc thực hiện Nghị quyết này và thường xuyên tổng hợp tình hình báo cáo
Thủ tướng Chính phủ.
Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm trong tình hình mới đã đề cập
rất nhiều đến vấn đề tái hòa nhập cộng động đối với người phạm tội:
Từng bước xây dựng nếp sống lành mạnh tại các cộng đồng
dân cư, trong nhà trường và gia đình tạo ra những chuyển biến rõ
rệt về trật tự an toàn xã hội. Nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật
trong cộng động và đẩy mạnh tính chủ động sáng tạo của các cấp
trong công tác phòng, chống tội phạm, tổ chức giáo dục có hiệu quả
đối với những người phạm tội, giúp họ tái hòa nhập vào cộng đồng
xã hội [7].
Bên cạnh đó trong tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở nước ta hiện
nay, việc tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người mãn hạn tù là một vấn đề
cấp thiết nhưng lại rất phức tạp, đây là một phần trong bốn đề án chủ yếu của
chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm. Chính vì vậy, Quyết định
138/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đã chỉ rõ: "Tổ chức vận động
toàn dân tham gia quản lý, giáo dục người vi phạm pháp luật tại cộng động
dân cư, tổ chức hướng nghiệp giúp đỡ tạo việc làm, lôi cuốn họ, cải tạo họ trở
thành người lương thiện tái hòa nhập cộng đồng xã hội" [7].
Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 08/11/2004 về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình Quốc gia phòng, chống
tội phạm của Chính phủ đến năm 2010. Tiếp tục thực hiện 4 đề án của
Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm trong đó đáng lưu ý là đề án
thức nhất: "Phát động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội
phạm; cảm hóa, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng
40
dân cư". Giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015, Quyết định số 1217/QĐ-TTg
ngày 06/9/2012 phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia phòng chống tội
phạm giai đoạn 2012 - 2015, theo đó:
Kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội phạm, nhất là tội
phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm mới, không
để tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, bảo đảm
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình
huống, tạo môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh
phúc của nhân dân [16].
1.3. CÁC CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƢỚC
Tái hòa nhập xã hội ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề được Nhà
nước và xã hội quan tâm. Tuy nhiên nghiên cứu công tác này ở một số quốc
gia trên thế giới để rút ra được những kinh nghiệm trong việc tái hòa nhập xã
hội cho người phạm tội ở Việt Nam. Nghị quyết của Hội nghị phòng chống
phạm tội lần thứ haia Liên hợp quốc có đưa ra quyết định về vấn đề bố trí việc
làm cho người mãn hạn tù như sau: "để giải quyết những khó khăn cho người
mãn hạn tù, phải đặc biệt chú ý đến vấn đề các vấn đề xã hội, giáo dục, việc
làm, đãi ngộ ở địa phương và những vấn đề về nhà ở", "bảo đảm cuộc sống
cho phạm nhân sau khi ra tù và không được từ chối cho họ đảm nhận công
việc" [24, tr. 86]. Nội dung công tác bảo đảm cho người mãn hạn tù này bao
gồm: Bố trí, sắp xếp chỗ ở tạm cho những người không có nhà hoặc chưa có
chỗ ở thích hợp; bảo đảm về y tế và sức khỏe; bố trí dạy nghề cho phạm nhân
trong tù; việc làm và hướng dẫn tìm việc làm; bảo hộ quyền công dân; giáo
dục và quản lý giáo dục.
Ở Trung Quốc, ngoài các nội dung đảm bảo công tác tái hòa nhập cho
người mãn hạn tù, chính phủ Trung Quốc còn thực hiện việc điều tra và đánh
giá tình hình tái hòa nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù. Việc làm
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng
Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai ChâuLuận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
Luận văn: Thực hiện chính sách cải cách hành chính tại Lai Châu
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt Nam
Luận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt NamLuận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt Nam
Luận án: Quản lý về địa giới hành chính cấp huyện ở Việt Nam
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 

Similar to Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng

Similar to Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng (20)

Luận văn: Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật
Luận văn: Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo LuậtLuận văn: Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật
Luận văn: Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật
 
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giamLuận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
 
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giamLuận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
Luận án: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam
 
Luận văn: Chính sách đối với người nghiện ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Chính sách đối với người nghiện ma túy tại Đà Nẵng, 9đLuận văn: Chính sách đối với người nghiện ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Chính sách đối với người nghiện ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAYBÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
 
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp  luận văn ...
Xã hội hóa công chứng ở việt nam hiện nay, thực trạng và giải pháp luận văn ...
 
Đề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
Đề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tộiĐề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
Đề tài: Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOT
Luận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOTLuận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOT
Luận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOT
 
Vai trò của nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hi...
Vai trò của nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hi...Vai trò của nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hi...
Vai trò của nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hi...
 
VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HI...
VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HI...VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HI...
VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HI...
 
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn ph...
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn ph...Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn ph...
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAY
Luận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAYLuận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAY
Luận văn: Tuyên truyền phổ biến pháp luật tại huyện Sơn Tây, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyền
Luận văn: Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyềnLuận văn: Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyền
Luận văn: Mối quan hệ giữa tổ chức xã hội và nhà nước pháp quyền
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túyLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOTLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOT
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú Nhuận
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú NhuậnLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú Nhuận
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú Nhuận
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAYLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAY
 
Tái hòa nhập xã hội đối với ngươi chưa thành niên phạm tội man hạn tù theo ph...
Tái hòa nhập xã hội đối với ngươi chưa thành niên phạm tội man hạn tù theo ph...Tái hòa nhập xã hội đối với ngươi chưa thành niên phạm tội man hạn tù theo ph...
Tái hòa nhập xã hội đối với ngươi chưa thành niên phạm tội man hạn tù theo ph...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 

Đề tài: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại Hải Phòng

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HƢỜNG TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HƢỜNG TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §inh ThÞ H-êng
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI 8 1.1. Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 8 1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội tại cơ sở giam giữ 14 1.1.2. Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ 20 1.1.3. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội sau khi được trả tự do khỏi cơ sở giam giữ 27 1.2. Các chương trình tái hòa nhập xã hội 31 1.3. Các chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm một số nước 34 Chương 2: THỰC TRẠNG, KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC, NGUYÊN NHÂN VÀ TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 41 2.1. Thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng 41 2.2. Những kết quả đạt được công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm của thành phố Hải Phòng 43 2.3. Nguyên nhân và những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng 52
  • 5. 5 2.3.1. Những tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng 52 2.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại, hạn chế trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng 66 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG CÔNG TÁC TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI TỘI PHẠM 81 3.1. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 81 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 85 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 85 3.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 88 3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 91 3.2.4. Các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và cộng đồng trong việc tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 98 3.2.5. Giải pháp mang tính nghiệp vụ 102 3.2.6. Giải pháp mang tính xã hội 106 3.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội 111 KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Thống kê số liệu tái hòa nhập xã hội tại Hải Phòng từ năm 2008 đến năm 2012 44 2.2 Số liệu về đặc xá từ 2010 đến 2012 tại Hải Phòng 47 2.3 Bảng số liệu về tái phạm, tái phạm nguy hiểm của thành phố Hải Phòng 63
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một công tác gắn liền với việc thực thi các biện pháp hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội sau khi được trở về với xã hội từ cơ sở giam giữ. Giúp đỡ và tạo điều kiện cho những người đã chấp hành xong án phạt tù xây dựng một cuộc sống bình thường đồng thời giáo dục họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Hạn chế tối đa những trường hợp tái phạm không chỉ là mục tiêu chung mà còn được thể hiện rất rõ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã nhấn mạnh: "Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng" [18]. Bên cạnh đó, công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội được thực hiện dựa trên nguyên tắc của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia ký kết năm 1982, theo đó: "Chế độ giam giữ, thi hành án phải nhằm mục đích chính yếu trong việc đối xử với tù nhân là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội" [38]. Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là một hoạt động có liên quan đến nhiều cơ quan, ban ngành và toàn xã hội. Khoản 2 Điều 39 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định: Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn luyện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù [32].
  • 8. 8 Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đầy đủ rằng đây vừa là quyền vừa là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền nhằm góp phần đưa người phạm tội trở lại cuộc sống lương thiện, góp phần ổn định an ninh, trật tự tại địa phương, minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tình, thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện nghiêm túc các bản án của Tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án [21]. Thực tiễn đã cho thấy tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, số lượng người phạm tội mãn hạn tù hàng năm có chiều hướng gia tăng, do đó việc tái hòa nhập xã hội cho các đối tượng này cần được quan tâm một cách đúng đắn. Việc tiếp nhận số lượng các đối tượng đã bị cách ly với xã hội trong một thời gian dài là một thách thức không nhỏ trong công tác tái hòa nhập xã hội. Trong những năm vừa qua thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội có những biến chuyển tích cực và đạt được một số thành tích nhất định. Tuy nhiên, tái hòa nhập xã hội được xác định là công tác mang tầm quốc gia và lâu dài do đó dù nhiều chương trình tái hòa nhập đã được thực hiện và đạt được những hiệu quả nhất định thì còn những mặt hạn chế và những tồn tại, chưa thực sự thu hút được sự quan tâm và tham gia của toàn xã hội. Thời gian chấp hành hình phạt là quãng thời gian hạn chế tự do, cách ly người bị kết án
  • 9. 9 khỏi cộng đồng xã hội để cải tạo giáo dục họ tại trại giam, việc hạn chế lâu dài các chức năng xã hội bình thường của một con người đồng thời gây ra sự lãng quên các thói quen xã hội có ích của họ như học tập, làm việc, quan hệ cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp. Do đó việc khôi phục lại các chức năng xã hội này là một việc rất khó khăn và tương đối phức tạp. Mặt khác hiện nay các văn bản về tái hòa nhập xã hội còn chưa đồng bộ và thống nhất. Thực tế hiện nay cho thấy, các quy định về việc tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội thường được phân tán ở các văn bản pháp luật khác nhau như luật hình sự, luật thi hành án phạt tù hoặc trong các văn bản chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ và ngành Công an như Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, chương trình phòng chống và kiểm soát ma túy. Ngoài ra công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội chưa thực sự được quan tâm đúng mức cũng góp phần làm cho công tác tái hòa nhập xã hội chưa thực sự phát huy hết vai trò của nó trong quá trình giáo dục, cảm hóa người phạm tội để khi mãn hạn tù họ trở thành những người có ích cho xã hội. Theo số liệu thống kê của của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, tính từ năm 2009 đến năm 2012 số người tái phạm, tái phạm nguy hiểm là khá cao. Thành phố Hải Phòng là một trong những thành phố lớn với tình hình tội phạm về cả mức độ phức tạp và số lượng tội phạm trong cả nước và do vậy việc tìm hiểu và nghiên cứu về công tác tái hoà nhập xã hội đối với người phạm tội của Hải Phòng là một việc làm cần thiết và đáng quan tâm hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng" làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Đã có một số công trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, người mãn hạn tù và cả những người cai nghiện và người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể là các công trình như:
  • 10. 10 Giáo dục, giúp đỡ người tù tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, của Nguyễn Quốc Nhật, Nguyễn Trung Hòa và Trần Hải Âu, năm 2001; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian cải tạo, giam giữ, của tập thể tác giả Dương Thanh Mai, Nguyễn Hữu Duyện, Ngô Văn Thâu, Nguyễn Hoàng Hà, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Quang Hưng. Một số bản báo cáo của vụ pháp luật hình sự - hành chính như: Báo cáo đánh giá, kiến nghị về tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2010; Rà soát, đánh giá pháp luật, chính sách và thực tiễn tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam năm 2007; Thực tiễn tái hòa nhập xã hội của người mãn hạn tù trên địa bàn quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, của Đàm Thanh Thế; Thực trạng và giải pháp trong công tác quản lý, giúp đỡ người được đặc xá, mãn hạn tù trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, của Nguyễn Lợi; Bài học thực tiễn của quá trình hòa nhập xã hội từ trại giam đến nơi cứ trú của những người mãn hạn tù, của Nguyễn Văn Cảnh; Chương trình giáo dục cải tạo phạm nhân trong trại giam - bước chuẩn bị cho quá trình tái hòa nhập xã hội, của Phạm Đức Chuẩn. Hay một số bài viết của Võ Khánh Vinh, Nguyễn Ngọc Hòa, Hồ Sĩ Sơn v.v… trong Hội thảo khoa học "Pháp luật và thực tiễn về tái hòa nhập xã hội của những người mãn hạn tù ở Việt Nam và Na Uy". Một số giáo trình giảng dạy ở các trường Đại học chuyên ngành (Đại học Luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện An Ninh, Học viện Cảnh sát nhân dân…) cũng đề cập đến vấn đề này. Mặt khác, tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội chưa đáp ứng hết những đòi hỏi trong thực tiễn, pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực này còn nhiều vấn đề phải đi sâu nghiên cứu và làm rõ. Vì thế, tác giả cho rằng việc nghiên cứu, tìm hiểu về chế định này là cần thiết và hữu ích. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là khái niệm được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác nhau và ở phạm vi rộng, tính từ khi một người là bị
  • 11. 11 can, bị cáo trong các vụ án đến khi có bản án, quyết định của Tòa án và giai đoạn chấp hành án cũng như sau khi chấp hành án xong. Do vậy có rất nhiều tên gọi khác nhau ở từng giai đoạn, đó là bị can, bị cáo, người bị kết án, người tù tha, người chấp hành án, người mãn hạn tù v.v... Công tác tái hòa nhập đối với người phạm tội được thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau với những đối tượng khác nhau, nhưng đều được gọi chung là người phạm tội. Phạm vi đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về tái hòa nhập xã hội đối người phạm tội ở giai đoạn chấp hành án và sau khi chấp hành án xong trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm trở lại đây (2007 - 2012). Luận văn còn đi sâu nghiên cứu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội sau khi mãn hạn tù để từ đó đánh giá, nhận xét về thực trạng công tác tái hòa nhập hiện nay trên địa bàn thành phố. Đồng thời, từ những quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này và thực trạng hoạt động tái hòa nhập xã hội của Hải Phòng, tác giả đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật trong lĩnh vực này cũng như nâng cao hiệu quả của công tác tái hòa nhập xã hội của thành phố nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới. Cơ sở pháp lý nghiên cứu của đề tài là Hiến pháp năm 1992, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, các quy định của Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành án năm 2010, các văn bản hướng dẫn thi hành và một số văn bản hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn về công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. 4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề về mặt lý luận và những quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Thông qua việc phân tích tình hình tái hòa nhập xã hội nói chung và đi sâu phân tích công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội
  • 12. 12 của thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây (2008 - 2012), luận văn đánh giá được thực trạng của công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng nói riêng, một trong những địa phương điển hình của cả nước về tình hình tội phạm. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải pháp, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn để vận dụng có hiệu quả vào công tác tái hòa nhập xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian sắp tới. Đồng thời luận văn cũng đưa ra một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nước ta về vấn đề này. Để đạt được các mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tái hòa nhập xã hội như: Khái niệm tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội; các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; thi hành án hình sự và các luật có liên quan về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Hai là, đánh giá đúng thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội của thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây để tìm ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng trên, từ đó xác định đúng bản chất của vấn đề. Đồng thời tác giả đưa ra một số giải pháp cho phù hợp, tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội hiện nay. 5. Cơ sở khoa học của đề tài Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng. Ngoài ra luận văn còn dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình nghiên cứu của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực tội phạm học và các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này.
  • 13. 13 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp biện chứng khoa học kết hợp với một số phương pháp thống kê, tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích, lựa chọn; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp hệ thống và một số phương pháp bổ trợ khác. 7. Điểm mới của đề tài Luận văn không phải là tài liệu có tính chất hàn lâm, học thuật hoặc chuyên khảo mà chủ yếu nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật cũng như thực trạng công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác tái hòa nhập xã hội của thành phố Hải Phòng nói riêng, một địa phương điển hình trong cả nước về tình hình tội phạm và cả nước nói chung, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về lĩnh vực này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Chương 2: Thực trạng, kết quả đạt được, nguyên nhân và tồn tại trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tái hòa nhập xã hội đối với tội phạm.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI 1.1. KHÁI NIỆM TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƢỜI PHẠM TỘI Quan niệm chung của Việt Nam hiện nay, vấn đề tái hòa nhập xã hội chỉ đặt ra với những người vi phạm pháp luật hình sự, hành chính mà bị cách ly khỏi cộng đồng xã hội trong một thời gian. Hệ thống chế tài về hình sự và hành chính của Việt Nam đã đưa ra các đối tượng bị cách ly khỏi xã hội bao gồm những đối tượng sau: thứ nhất là người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân; thứ hai là người bị đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; thứ ba là người bị đưa vào trường giáo dưỡng (áp dụng đối với người chưa thành niên). Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là quá trình tính từ khi một người trở thành bị can bị cáo, bị kết án, chấp hành án và mãn hạn tù. Tuy nhiên đối tượng mà luận văn đi sâu nghiên cứu thuộc đối tượng thứ nhất đó là những người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân và tính từ khi còn là bị can, bị cáo cho đến khi mãn hạn tù hay hay là các đối tượng tù tha và trở về địa phương. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Khoản 1, Điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự); bị cáo là người đã bị Tòa án đưa ra xét xử (Khoản 1 Điều 50 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm về người bị kết án, tuy nhiên lại đề cập khá nhiều về người bị kết án khi quy định về việc chấp hành hình phạt. Như vậy có thể hiểu người bị kết án là người đã có bản án có hiệu lực của Tòa án và đang trong thời gian chấp hành án. Người chấp hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật. Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân (khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010). Có rất nhiều quan điểm khác nhau về người mãn hạn tù (hay còn gọi là đối tượng tù tha). Đa số các quan điểm đều cho rằng người mãn hạn tù bao gồm tất cả
  • 15. 15 các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các trại giam, trại cải tạo, có quyết định được tha về địa phương. Tuy nhiên quan điểm này chưa phân biệt rõ được đối tượng tù tha với các đối tượng hết thời hạn cải tạo ở các cơ sở tập trung như cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh, cai nghiện được tha về địa phương. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng tù tha là tất cả các đối tượng "hết thời hạn chấp hành hình phạt tù" về địa phương. Đây là những đối tượng đã hết thời hạn chấp hành bản án do Tòa án nhân dân quyết định, được tha về địa phương [26, tr. 11-12]. Rõ ràng, quan điểm này cũng chưa thật đầy đủ, bởi lẽ nếu xác định như vậy đối tượng mãn hạn tù chỉ bao gồm những đối tượng đã chấp hành xong bản án ở các trại giam, trại cải tạo hết thời gian cải tạo theo quyết định của Tòa án được tha về địa phương, như vậy theo cách hiểu này thì số đối tượng tù tha được giảm thời hạn chấp hành án, được đặc xá không nằm trong diện đối tượng tù tha. Theo Từ điển Nghiệp vụ phổ thông thì tù tha về là những kẻ phạm tội bị phạt án tù giam đã hết hạn được tha hoặc chưa hết hạn nhưng được ân xá, ân giảm tha về. Cần quản lý chặt chẽ đối tượng tù tha về và cần bố trí công ăn việc làm cho họ, tạo điều kiện để cho họ làm ăn lương thiện. Nếu hiểu theo quan điểm này thì đối tượng mãn hạn tù bao gồm số đối tượng bị phạt án tù giam được tha kể cả số đã hết thời hạn nhưng ân xá, ân giảm tha về do có nhiều tiến bộ trong quá trình cải tạo. Khái niệm này đã có cái nhìn toàn diện hơn so với những quan điểm trên về đối tượng mãn hạn tù, tuy nhiên chưa phân định được rõ số tù giam có thời hạn với số tù chung thân được tha về và cũng chưa đề cập tới vấn đề đối tượng tù tha được đặc xá. Để có được khái niệm đầy đủ về người mãn hạn tù, Điều 2 Quyết định của Chủ tịch nước số 35/QĐ-CTN ngày 23/2/2000 về đặc xá năm 2000 cũng chỉ rõ: "Đối tượng được xét đặc xá tha tù là những phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam do Bộ Công an và Bộ Quốc phòng quản lý, kể cả những phạm nhân đang được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù hoặc hoãn thi hành án phạt tù có những hoàn cảnh đặc biệt theo luật định" [25]. Theo đó thì đối tượng đặc xá bao gồm ba loại: Phạm nhân đang chấp hành án
  • 16. 16 phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Công an và Bộ Quốc phòng và quản lý có nhiều tiến bộ được tha trước thời hạn; Phạm nhân trong thời gian được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ được miễn thi hành án phạt tù; Những người bị kết án tù trong thời gian được hoãn thi hành án phạt tù có nhiều tiến bộ được miễn hình phạt tù. Tổng hợp từ những quan điểm trên thì người mãn hạn tù hay còn gọi là đối tượng tù tha: Là những người có hành vi phạm tội đã bị Tòa án nhân dân kết án bằng bản án tù chung thân hoặc có thời hạn, phải chấp hành hình phạt tù tại các trại giam, bị cách ly khỏi đời sống xã hội nay đã chấp hành xong hình phạt tù hoặc vì một lý do nào đó được tha ra khỏi trại, được trở về với đời sống xã hội cộng đồng [26, tr. 13]. Quan điểm này đưa ra cái nhìn tương đối phù hợp và toàn diện về người mãn hạn tù, do đó người mãn hạn tù chỉ bao gồm số đối tượng phạm tội đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân ở các trại giam, trại tạm giam, hết thời hạn hay chưa hết thời hạn nhưng tiến bộ được hưởng chính sách khoan hồng và được tha về địa phương. Số đối tượng đang chấp hành án phạt tù trong các trại giam được xét giảm án, đặc xá cũng là đối tượng mãn hạn tù. Riêng đối tượng được đặc xá cần phân biệt rõ, chỉ những phạm nhân đang chấp hành án trong các trại giam được giảm án tha về địa phương mới được coi là mãn hạn tù. Số đối tượng đang được tạm hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù không bị giam giữ, quản lý trong trại giam mà ở ngoài xã hội do có nhiều tiến bộ được hưởng chính sách khoan hồng và được xét đặc xá, thì không coi là mãn hạn tù. Các đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác theo Điều 20 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính như: Cải tạo ở các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh được về địa phương không phải là đối tượng mãn hạn tù. Các đối tượng chấp hành các hình phạt của Tòa án nhưng được cải tạo ở ngoài xã hội như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất đã hết thời hạn cải tạo và số bị áp dụng các hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp khác như:
  • 17. 17 Cấm cứ trú, quản chế, tước một số quyền công dân và kể cả án treo (trừ trường hợp đối tượng đã chấp hành xong án phạt tù phải áp dụng hình phạt bổ sung) thì không phải đối tượng mãn hạn tù. Qua những phân tích nêu trên có thể hiểu người mãn hạn tù là những đối tượng có hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật hình sự, đã có quyết định của Tòa án về việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân. Họ bị xử lý, bị cách ly khỏi xã hội và được quản lý, giam giữ giáo dục trong trại giam hoặc các trại tạm giam trong một thời gian nhất định theo quyết định của Tòa án, nay họ đã hết thời hạn giam giữ, cải tạo hoặc chưa hết thời hạn nhưng có tiến bộ, được hưởng chính sách khoan hồng được tha về địa phương. Đây là những đối tượng đã bị kết án tù giam hoặc tù chung thân đã chấp hành án ở các trại giam và được tha về. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về tái hòa nhập xã hội và tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội. Một số quan điểm cho rằng tái hòa nhập xã hội là "tái hoàn lương" trở lại đối với cuộc sống đời thường mà những người vi phạm, những người lầm lỗi đã mất đi. Cũng có ý kiến cho rằng tái hòa nhập xã hội thực chất là các biện pháp quản lý của cộng đồng đối với những người phạm tội. Bên cạnh đó đa phần các quan điểm đều cho rằng tái hòa nhập xã hội là "quay lại lần thứ hai" hòa nhập với cộng đồng xã hội đối với những người có quá khứ tội lỗi sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội, cộng đồng dân cư. Tuy nhiên có thể hiểu tái hòa nhập xã hội như sau: Tái hòa nhập xã hội là xóa đi những quá khứ tội lỗi và mặc cảm của người phạm tội, tạo cơ hội, bình thường hóa các mối quan hệ để họ hội nhập với cộng đồng nơi cư trú với tư cách là một công dân, một thành viên của gia đình, cộng đồng xã hội [26, tr. 24]. Đây là những biện pháp tác động tích cực giúp đỡ những người lầm lỗi, những người có quá khứ phạm tội xóa bỏ đi mọi mặc cảm của bản thân họ đối với cộng đồng, gia đình và xã hội để họ có thể trở về là người dân lương thiện với đúng nghĩa của nó. Có thể hiểu tái hòa nhập xã hội là khái niệm thường đề cập đến các biện pháp hòa nhập xã hội được thiết kế riêng biệt để giúp người phạm tội được tha từ một cơ sở giam giữ và để
  • 18. 18 giúp họ đối mặt với những thách thức liên quan đến việc trở về với cộng đồng. Tái hòa nhập không có nghĩa chỉ là việc đưa đối tượng lầm lỡ từ các cơ sở tập trung trở về nơi cư trú cũ, về với gia đình họ và cộng đồng dân cư nơi họ sống trước đây. Tái hòa nhập xã hội cần được hiểu ở mức độ và phạm vi rộng hơn, đây thực chất là quá trình giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện để những con người vi phạm sau một thời gian cách ly trở về với cuộc sống của cộng đồng, là người công dân lương thiện được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công dân. Tái hòa nhập xã hội nói chung đề cập cụ thể đến các chương trình và sáng kiến nhằm giúp người phạm tội đã được đưa vào các cơ sở giam giữ. Mục đích của nó là giúp người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng thành công sau khi chấp hành bản án cải tạo. Thông thường có hai loại chương trình: Thứ nhất là, hỗ trợ ngay trong các cơ sở giam giữ, trước khi phóng thích của người phạm tội, nhằm giúp người phạm tội giải quyết các vấn đề, xử lý các yếu tố nguy cơ liên quan đến hành vi phạm tội của họ, trang bị các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt các chức năng xã hội của mình và chuẩn bị tái tham gia vào cộng đồng. Đây là quá trình tác động từ bên ngoài đối với đối tượng để đối tượng tiến bộ hòa nhập với cộng đồng. Đó cũng chính là các biện pháp của chính quyền, cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội và thân nhân gia đình đối với đối tượng mãn hạn tù nhằm quản lý, giáo dục giúp đỡ họ.Và chương trình thứ hai là, những chương trình dựa trên cộng đồng, thường được gọi là chương trình "hậu chăm sóc" nhằm tạo thuận lợi cho hòa nhập xã hội của người phạm tội sau khi thả họ từ các cơ sở giam giữ. Rất nhiều các chương trình sau này bao gồm cả một số hình thức giám sát cũng như hỗ trợ tại cộng đồng. Có thể nhận thấy đây là các biện pháp tác động hướng thiện chủ quan từ nội tâm, tự bản thân đối tượng phấn đấu để tái hòa nhập xã hội. Như vậy có thể hiểu tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội được xét ở hai khía cạnh: Với cá nhân đối tượng thì tái hòa nhập xã hội chính là quá trình tự bản thân họ nhận thức điều chỉnh tư duy và hành vi cho phù hợp với quy định của pháp luật và chuẩn mực của cộng động, đồng thời thông
  • 19. 19 qua lao động và giao tiếp, họ dần dần thích nghi với các sinh hoạt chung của cộng đồng; Bên cạnh đó các chủ thể là nhà nước và xã hội, thông qua các hoạt động hỗ trợ cụ thể, tạo các điều kiện cần và đủ cho đối tượng tạo lập cuộc sống bình thường trong cộng đồng và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau để chuẩn bị cho người phạm tội những điều kiện cần thiết và tâm lý, kỹ năng sống khi trở về với xã hội sau một thời gian bị cách ly [26, tr. 23- 25]. Tái hòa nhập xã hội bao gồm nhiều giai đoạn bắt đầu từ việc chuẩn bị cho người phạm tội bị cách ly khỏi xã hội những điều kiện cần thiết về nhận thức, tâm lý và một số kỹ năng nghề nghiệp ngay trong quá trình giáo dục, cải tạo tại nơi giam giữ và kết thúc khi họ được hỗ trợ các yếu tố cần thiết để tạo lập được một cuộc sống bình thường trong xã hội, do đó có thể phân chia quá trình tái hòa nhập xã hội theo thành nhiều giai đoạn như sau: giai đoạn thứ nhất là quá trình chuẩn bị tái hòa nhập của người phạm tội tại các cơ sở cải tạo, giam giữ. Ở giai đoạn này họ được giáo dục về văn hóa, pháp luật, giáo dục về đạo đức, tư tưởng cũng như rèn luyện ý thức lao động, đây là sự chuẩn bị cần thiết cho sự thích ứng nhanh chóng của đối tượng với môi trường bên ngoài cơ sở cải tạo, giam giữ; giai đoạn thứ hai là quá trình hòa nhập vào gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên và quan trọng nhất mà đối tượng phải hòa nhập sau khi trở về với cuộc sống cộng đồng. Kết thúc quá trình này là người thân chấp nhận họ trở lại là một thành viên bình thường của gia đình, quan tâm đùm bọc họ; giai đoạn thứ ba là quá trình hòa nhập vào cộng đồng xã hội tại địa phương mà đối tượng trở lại sinh sống, đây là quá trình thích nghi và điều chỉnh hành vi phù hợp với các quy định của pháp luật và các quy tắc đạo đức tại địa phương. Kết quả của quá trình này là sự ghi nhận của đoàn thể xã hội, của chính quyền địa phương, của những người xung quanh với những tiến bộ của họ; giai đoạn thứ tư là quá trình khẳng định vị trí của đối tượng tại cộng đồng, quá trình này thể hiện rõ sự nỗ lực thực sự của họ trong việc xây dựng một cuộc sống lương thiện, từng bước hoàn thiện nhân cách, nâng cao kiến thức văn hóa và năng lực, trách nhiệm trong lao động. Lúc này
  • 20. 20 những đóng góp của họ có tác động tích cực đến sự phát triển chung của cộng đồng [24, tr. 10]. Công tác tái hòa nhập xã hội là sự kết hợp tổng thể của nhiều biện pháp tư pháp, tâm lý, tư tưởng, hướng nghiệp, giáo dục văn hóa, pháp luật v.v…Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là vấn đề phức tạp đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cả cộng đồng xã hội thông qua nhiều chính sách và mô hình cụ thể, đóng vai trò hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều kiện nâng cao năng lực thích nghi cho đối tượng và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Như vậy từ những phân tích nêu trên, theo tác giả có thể hiểu: Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện trọn vẹn và có ý nghĩa một bản án hình sự; là một quá trình với nhiều giai đoạn khác nhau có nội dung bao gồm các biện pháp, cách thức và chương trình hòa nhập xã hội được thiết kế riêng biệt nhằm mục đích đưa người phạm tội trở về với xã hội trở thành những người có ích sau một thời gian bị cách ly khỏi xã hội với sự tham gia của chính bản thân người phạm tội và Nhà nước cũng như cộng đồng xã hội; thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đồng thời góp phần ổn định an ninh và phòng chống tội phạm. 1.1.1. Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội tại cơ sở giam giữ Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đã thể hiện tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt về vấn đề tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội, theo đó tại Điều 3 của Bộ luật có quy định về nguyên tắc xử lý như sau: "Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt" [29]. Bên cạnh đó Điều 27 Bộ luật Hình sự cũng đã nhấn mạnh mục đích của hình phạt như sau: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới" [29]. Theo quy định tại Điều 16 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 về nhiệm vụ, quyền hạn,
  • 21. 21 cơ cấu tổ chức của trại giam thì: Trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù, có nhiệm vụ quyền hạn "tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân". Trại giam có phân trại, khu giam giữ, nhà giam, các công trình phục vụ việc quản lý giam giữ, phục vụ sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục cải tạo phạm nhân; các công trình phục vụ làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại trại giam. Tổ chức bộ máy quản lý của trại giam gồm có Giám thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan; chiến sĩ và công nhân, viên chức. Giám thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng phải là người đã tốt nghiệp đại học cảnh sát, đại học an ninh, đại học luật trở lên và bảo đảm các tiêu chuẩn khác theo quy định của Chính phủ. Quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân là quá trình kiểm soát, tổ chức và hướng dẫn các loại hình hoạt động và giao tiếp của người phạm tội được thực hiện một cách có mục đích, có kế hoạch trong những điều kiện cụ thể của trại giam trên cơ sở quy định của pháp luật. Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp do những hành vi thói quen xấu, nhất là những người đã bị ảnh hưởng và chi phối bởi những quan điểm, tư tưởng sai lầm, nhân cách lệch lạc, suy thoái đến mức trầm trọng. Những người phạm tội đã mang trong họ những phẩm chất tâm lý tiêu cực như: triết lý sống thấp hèn, thói quen vô đạo đức, tính hung bạo, nhẫn tâm, tàn ác, tham lam, ích kỉ, cục cằn, thiếu văn hóa, lối sống tự do, bừa bãi, vô kỉ luật của phạm nhân là khá phổ biến và không thể ngày một ngày hai có thể thay đổi được. Tuy nhiên, dù nhân cách của người phạm tội có suy thoái, vô đạo đức đến mức nào thì ở mỗi con người vẫn còn tính nhân bản, trong sâu thẳm tâm hồn của họ, ít nhiều vẫn còn lương tri, nỗi niềm trắc ẩn, điều mà có thể khơi dậy được. Trại giam là nơi tiếp nhận người phạm tội, sau đó tổ chức quản lý giam giữ và giáo dục cải tạo phạm nhân. Đầu tiên người phạm tội sẽ được phân loại để quản lý, giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề cho phù hợp với từng loại đối tượng, phạm nhân mới đến
  • 22. 22 trại giam được học chương trình "đầu vào" và sắp ra trại được học chương trình "đầu ra". Phạm nhân mù chữ được học văn hóa để xóa mù chữ, phạm nhân là người chưa được thành niên được học để phổ cập tiểu học. Các chương trình giáo dục công dân cho phạm nhân bao gồm cả giáo dục truyền thống, pháp luật, đạo đức và kĩ năng sống. Tuy nhiên hiện nay cả Luật Thi hành án hình sự và quy chế trại giam cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này để áp dụng thống nhất tại các trại giam. Ngoài ra các trại giam còn tổ chức sản xuất, hướng nghiệp dạy nghề cho phạm nhân, có rất nhiều người sau khi từ trại giam trở về đã trở thành những ông chủ lớn. Trại giam thực hiện việc liên kết với các trường dạy nghề, các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức đào tạo, thi và cấp chứng chỉ nghề cho phạm nhân. Đây được coi là một trong những nội dung quan trọng nhất chuẩn bị cho việc tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội. Có rất nhiều phạm nhân khi vào trại giam không biết lao động, không có nghề nghiệp, nhưng khi trở về với xã hội họ đã có nghề nghiệp, làm ăn sinh sống, góp phần giảm bớt tỉ lệ tái phạm. Mặt khác các trại giam thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến thời sự, chính sách, pháp luật cho phạm nhân kết hợp với đẩy mạnh các hoạt động giáo dục bổ trợ như: văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí cho phạm nhân, tạo bầu không khí để phạm nhân yên tâm học tập, rèn luyện tiến bộ. Các trại giam thường xuyên tổ chức các sự kiện văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao tại trại. Trong các hoạt động đó, phạm nhân khi cởi bỏ bộ đồ kẻ sọc, khoác lên mình những chiếc áo cầu thủ bóng đá hay trang phục biểu diễn văn nghệ, thi đấu hay biểu diễn hết mình như bất kỳ đội bóng, đội văn nghệ nào ngoài xã hội. Những hoạt động đó giúp phạm nhân vơi đi mặc cảm, quyết tâm rèn luyện, phấn đấu để sớm được trở về đoàn tụ với gia đình. Cùng với đó các trại giam còn chuẩn bị khâu "đầu ra" cho các phạm nhân tái hòa nhập xã hội. Với cách thức được thực hiện thống nhất như sau: Số phạm nhân sắp chấp hành xong hình phạt tù được tập trung giam giữ tại
  • 23. 23 một khu vực riêng trong trại giam, được bố trí với những điều kiện thuận lợi hơn về sinh hoạt, học tập, vui chơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, thăm gặp thân nhân. Tổ chức cho những phạm nhân này học tập những kiến thức cần thiết về pháp luật, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, học tâm lý để tránh mặc cảm, tự ti và giáo dục kỹ năng sống, nhất là kỹ năng tìm kiếm việc làm, kỹ năng phòng tránh, từ chối những tác động tiêu cực của xã hội, cung cấp thông tin, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương cho phạm nhân khỏi lạc hậu trước khi trở về. Sau khi tiếp nhận phạm nhân, trại giam tiến hành quản lý, giam giữ phạm nhân. Nghị định 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ đã quy định khá rõ về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân. Chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân được thực hiện theo quy định tại các Điều từ Điều 8 đến Điều 15 Nghị định 117. Bên cạnh đó trại giam còn có nhiệm vụ "thông báo cho thân nhân của phạm nhân về việc tiếp nhận phạm nhân và tình hình chấp hành án của người đó". Hai tháng trước khi phạm nhân hết hạn chấp hành hình phạt tù, Giám thị trại có văn bản thông báo kết quả chấp hành hình phạt tù và những thông tin cần thiết khác về phạm nhân cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi phạm nhân về sinh sống để quan tâm, giúp đỡ họ tạo lập cuộc sống bình thường, tránh tái phạm tội. Đúng ngày phạm nhân hết thời hạn chấp hành hình phạt tù, Giám thị trại giam cấp "Giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù" và giới thiệu họ về Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, đơn vị nơi họ cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc trước khi bị bắt, đồng thời cấp tiền tàu xe, tiền ăn trong thời gian đi đường và quần áo thường để họ trở về nơi họ cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc. Những trường hợp người chấp hành xong hình phạt tù có khó khăn về nơi cư trú, không rõ quê quán, không còn người thân thích hoặc cơ quan, đơn vị cũ không tiếp nhận và bản thân họ cũng không có chỗ ở khác thì trại giam chủ động liên hệ với chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để tiếp nhận họ làm việc, sinh
  • 24. 24 sống. Phạm nhân sắp chấp hành xong án phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam phải được tư vấn, trợ giúp về tâm lý nhằm định hướng và nâng cao khả năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc của bản thân khi chấp hành xong án phạt tù. Các trại giam, trại tạm giam phải bố trí phòng tư vấn có trang bị những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc tư vấn; bố trí cán bộ có khả năng thực hiện việc tư vấn cho phạm nhân hoặc có thể mời người có khả năng tư vấn kết hợp với cán bộ trại tổ chức tư vấn cho phạm nhân. Ngoài ra phạm nhân còn được định hướng nghề nghiệp, nâng cao khả năng tìm kiếm việc làm khi họ sắp chấp hành xong án phạt tù: Trại giam, trại tạm giam có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá kết quả, năng lực nghề nghiệp từng phạm nhân để có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao tay nghề, định hướng tìm kiếm việc làm cho họ sau khi chấp hành xong án phạt tù. Sau đó, căn cứ vào khả năng của phạm nhân, thị trường lao động và điều kiện cụ thể, các trại giam, trại tạm giam tổ chức bồi dưỡng nâng cao tay nghề và tổ chức dạy những nghề phổ thông, đơn giản cho người chưa có nghề; phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng tổ chức dạy nghề, bồi dường nghề cho phạm nhân trước khi họ chấp hành xong án phạt tù (Điều 8 Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/09/2011 của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù). Các phạm nhân được giam giữ ở các khu giam khác nhau để thuận tiện cho việc quản lý và giam giữ, theo đó: khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc loại tái phạm nguy hiểm; khu giám giữ đối với phạm nhân có mức án tù từ 15 năm trở xuống, phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng có kết quả chấp hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới 15 năm. Các phạm nhân nữ; phạm nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người nước ngoài; phạm nhân là người có bênh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm; phạm nhân có dấu hiệu bị tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án; phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế
  • 25. 25 trại giam được chia ra thành các khu giam giữ riêng. Phạm nhân được chia thành các đội, tổ để lao động, học tập và sinh hoạt. Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân đã quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể về: chế độ ăn đối với phạm nhân (Điều 8), chế độ ở của phạm nhân (Điều 9), chế độ mặc và cấp phát tư trang đối với phạm nhân (Điều 10), chế độ ăn, mặc và cấp phát nhu yếu phẩm đối với trẻ em dưới 36 tháng tuổi là con của phạm nhân ở cùng cha, mẹ trong trại giam (Điều 11), chế độ sinh hoạt đối với phạm nhân (Điều 12), chế độ chăm sóc y tế đối với phạm nhân (Điều 13), chế độ đối với phạm nhân là người chưa thành niên (Điều 14), chế độ ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân là người nước ngoài. Như vậy các chế độ và việc giam giữ người phạm tội tại trại giam đối với phạm nhân được quy định khá chi tiết và cụ thể tại nhiều văn bản khác nhau, tuy nhiên cần có một văn bản thống nhất để thuận tiện cho việc các trại giam áp dụng các quy định này. Bên cạnh việc các chế độ về ăn, phạm nhân còn được sắp xếp theo các buồng giam tập thể, chỗ nằm tối thiểu đối với mỗi phạm nhân là 02 mét vuông, có bệ gạch men, ván sàn hoặc giường. Đối với phạm nhân có con nhỏ ở cùng thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu là 03 mét vuông, có bệ gạch men, ván sàn hoặc giường. Phạm nhân ở trong buồng giam theo thời gian quy định và chỉ được ra khỏi buồng giam theo nội quy trại giam hoặc khi có lệnh của Giám thị trại giam, trại tam giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Trước và sau khi phạm nhân ra, vào buồng giam, cán bộ, chiến sĩ được giao trách nhiệm phải điểm danh, kiểm diện. Các cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trại giam và người không có nhiệm vụ không được vào khu vực giam giữ, không được tiếp xúc với phạm nhân khi chưa được phép của Giám thị trại giam. Ngoài chế độ ăn, ở các phạm nhân tại trại giam còn được quan tâm về chế độ mặc, sinh hoạt, y tế và cấp phát tư trang v.v... Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (Điều 44) và Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 của Chính phủ quy định về tổ chức quản
  • 26. 26 lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân (Điều 12) quy định về chế độ sinh hoạt đối với phạm nhân, theo đó, phạm nhân được hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, đọc sách, báo, nghe đài, xem truyền hình phù hợp với điều kiện của nơi chấp hành án. Trong các chế độ dành cho người phạm tội tái hòa nhập xã hội tại các trại giam thì có thể đánh giá rằng giáo dục và đào tạo nghề là hai trong số những biện pháp trọng yếu hỗ trợ người phạm tội để chuẩn bị tái hòa nhập xã hội. Từ những nghiên cứu và phân tích trên, tác giả cho rằng pháp luật đã quy định khá chi tiết và cụ thể về các điều kiện, các chế độ dành cho phạm nhân, những người phạm tội tại các trại giam. Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái hòa nhập xã hội của người phạm tội khi ra khỏi trại giam đồng thời là tiền đề trong việc tái hòa nhập xã hội của người phạm tội. Tuy nhiên các quy định này nằm rải rác tại khá nhiều văn bản khác nhau trong đó có luật hình sự, Luật Thi hành án hình sự, quy chế trại giam, các nghị định, thông tư liên ngành và cả trong những văn bản của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng. Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế mà còn dẫn đến sự mâu thuẫn chồng chéo giữa các văn bản cùng quy định về tái hòa nhập xã hội tại trại giam đối với người phạm tội. 1.1.2. Trả tự do sớm khỏi các cơ sở giam giữ Một trong những phương thức hỗ trợ tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội sau thời gian chấp hành trong các cơ sở giam giữ là rút ngắn tối đa thời gian chấp hành đó và tạo ra cho họ các cơ chế để họ được trả về cộng đồng sớm ngay khi có dấu hiệu chỉ ra rằng họ đã có khả năng thực hiện chức năng xã hội của mình một cách bình thường. Các biện pháp trả tự do có điều kiện từ các cơ sở giam giữ cần được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng tới mức tối đa cho phép và người phạm tội cần được trả tự do trong thời gian sớm nhất có thể, có nghĩa là người phạm tội được trả tự do có điều kiện từ các cơ sở giam giữ cần được cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ, giám sát và cần được
  • 27. 27 cộng đồng hỗ trợ. Các chương trình trả tự do sớm nên tạo khuôn khổ pháp lý để hệ thống tư pháp có những quy định trả tự do sớm cho người phạm tội ngay khi họ sẵn sàng trở lại cộng đồng. Đây là cơ chế chính được sử dụng để đảm bảo người phạm tội chỉ phải ở trong các cơ sở giam giữ trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể và chỉ khi thực sự cần thiết. Bên cạnh đó, có sự đánh giá định kỳ về sự tiến bộ của người phạm tội trong cơ sở giam giữ nhằm đánh giá mức độ sẵn sàng của họ trong việc thực hiện vai trò xã hội của mình và giúp quyết định trả tự do cho họ ngay khi có thể. Có nghĩa là pháp luật nên có những quy định về trả tự do sớm cho người phạm tội. Do đó Điều 16 Luật Thi hành án hình sự có quy định, trại giam là cơ quan thi hành án phạt tù được phép: Đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét thời hạn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân theo quy định của pháp luật và thực hiện các thủ tục đề nghị đặc xá cho phạm nhân theo quy định pháp luật. Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng có quy định: Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt ngay khi được đặc xá hoặc đại xá. Đặc xá là sự khoan hồng đặc biệt của Nhà nước do Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Quyết định về đặc xá là văn bản do Chủ tịch nước ban hành quy định thời điểm đặc xá, đối tượng, điều kiện của người được đề nghị đặc xá và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện đặc xá. Quyết định đặc xá là văn bản của Chủ tịch nước quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân. Hội đồng tư vấn đặc xá là tổ chức liên ngành gồm đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan do Chủ tịch nước quyết định thành lập để triển khai thực hiện Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước và tham mưu, tư vấn cho Chủ tịch nước thực hiện hoạt động đặc xá. Người được xem xét đặc xá là những người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù nhân sự kiện trọng đại hoặc ngày lễ lớn của đất nước. Trong trường
  • 28. 28 hợp đặc biệt thì người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đang chấp hành hình phạt tù, được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù không phụ thuộc vào thời điểm là sự kiện trọng đại hoặc ngày lễ có thể được xem xét để đặc xá. Như vậy, thông qua việc đặc xá Nhà nước động viên, khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo đồng thời giúp đỡ họ ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Có thể thấy được tầm quan trọng của hoạt động đặc xá đối với việc tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội ngay ở tính chất và ý nghĩa của hoạt động này. Bởi lẽ, đối tượng được đặc xá phải đáp ứng được các điều kiện sau: thứ nhất, chấp hành tốt quy chế, nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thứ hai, đã chấp hành hình phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành hình phạt tù; ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân; thứ ba, đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng hoặc một số tội phạm khác được Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá thì phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện nêu trên được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định trên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam; Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong
  • 29. 29 kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sĩ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của gia đình có công với nước; Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền; Khi phạm tội là người chưa thành niên; Là người từ 70 tuổi trở lên; Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú; Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định. Tuy nhiên những người mà bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác; trước đó đã được đặc xá; có từ hai tiền án trở lên thì không được đề nghị để xét đặc xá. Người được xét đề nghị đặc xá được thông báo về chính sách, pháp luật về đặc xá, Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước, văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về điều kiện của người được đề nghị đặc xá và thông tin khác về đặc xá liên quan đến người được đề nghị đặc xá, được liên hệ với thân nhân, cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thu thập, cung cấp giấy tờ, tài liệu cần thiết để hoàn thiện hồ sơ đề nghị đặc xá và khiếu nại tố cáo về vấn đề này. Đồng thời người được xét đề nghị đặc xá phải có nghĩa vụ nộp đơn xin đặc xá, khai báo đầy đủ, trung thực thông tin về cá nhân liên quan đến việc đề nghị đặc xá và chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác sau khi được đặc xá. Để được đặc xá người bị kết án phải có đơn xin đặc xá; tài liệu chứng minh về cá nhân, hoàn cảnh gia đình của người được đề nghị đặc xá; tài liệu chứng minh đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác; cam kết không vi phạm pháp luật, tiếp tục chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác sau khi được đặc xá; văn bản đề nghị đặc xá của Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam. Căn cứ vào quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước và hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
  • 30. 30 trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị đặc xá được thực hiện như sau: thứ nhất, Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm rà soát, lập danh sách và hồ sơ người đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện đề nghị đặc xá theo quy định của pháp luật, thông báo, niêm yết công khai danh sách người được đề nghị đặc xá tại trại giam, trại tạm giam và làm văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét; thứ hai, Giám thị trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, Giám thị trại tạm giam thuộc quân khu và tương đương có trách nhiệm rà soát, lập danh sách và hồ sơ người đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện đề nghị đặc xá theo quy định của pháp luật, báo cáo Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương đương. Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương đương xét duyệt danh sách, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét. Giám thị trại tạm giam thông báo, niêm yết công khai danh sách này tại trại tạm giam; thứ ba, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm xem xét hồ sơ đề nghị đặc xá được lập theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và lập danh sách người đủ điều kiện và danh sách người không đủ điều kiện đề nghị đặc xá để trình Hội đồng tư vấn đặc xá xem xét. Hội đồng tư vấn đặc xá tổ chức thẩm định hồ sơ, danh sách do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình; lập danh sách người đủ điều kiện và danh sách người không đủ điều kiện đặc xá trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục lập danh sách, thẩm định hồ sơ đề nghị đặc xá và hướng dẫn thực hiện Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình hướng dẫn, phối hợp thực hiện việc lập danh sách, xét duyệt hồ sơ đề nghị đặc xá. Khi có Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước, Giám thị trại giam, Giám thị trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Tư lệnh quân khu và tương đương có trách nhiệm: Tổ chức công bố
  • 31. 31 và thực hiện Quyết định đặc xá đối với người được đặc xá; Cấp giấy chứng nhận đặc xá cho người được đặc xá; Thông báo ngay bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được đặc xá về cư trú. Việc đặc xá được Nhà nước thực hiện không phân biệt đối xử hoặc hạn chế đối với bất kỳ phạm nhân nào dù là người Việt Nam hay người nước ngoài, nếu họ có đủ điều kiện được đặc xá. Người được đặc xá có quyền: Được cấp Giấy chứng nhận đặc xá; Được chính quyền địa phương và cơ quan, tổ chức có liên quan tạo điều kiện, giúp đỡ để hòa nhập với gia đình và cộng đồng; Được hưởng các quyền khác như đối với người đã chấp hành xong hình phạt tù theo quy định của pháp luật. Nhưng bên cạnh đó họ phải thực hiện các nghĩa vụ sau: Xuất trình Giấy chứng nhận đặc xá với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết; Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trường hợp được giảm ba năm phải là người bị kết án phạt tù có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, cải tạo và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy chế giam giữ. Nghị quyết có hướng dẫn cụ thể như sau: Trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù, có đủ các điều kiện được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù và phần hình phạt tù còn lại mà họ phải chấp hành là dưới 3 tháng thì mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có thể bằng thời hạn tù còn lại nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai hình phạt đã tuyên theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 58 của Bộ luật Hình sự [37]. Đồng thời nghị quyết cũng có đưa ra hai ví dụ cụ thể về trường hợp này: thứ nhất, Nguyễn Văn A bị kết án 5 năm tù, A đã chấp hành được 4 năm 10 tháng tù và có đủ các điều kiện để được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP. Trong trường hợp này, A có thể được giảm phần hình phạt tù còn lại (2 tháng); thứ hai, Trần Văn T bị kết án 3 tháng tù, T đã chấp hành được một phần ba hình phạt (1 tháng tù) và có đủ các điều kiện khác để được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 Nghị quyết số
  • 32. 32 01/2007/NQ-HĐTP. Trong trường hợp này, T chỉ có thể được giảm đến 1 tháng 15 ngày tù vì theo quy định tại khoản 3 Điều 58 của Bộ luật Hình sự thì T phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên (tức là 1 tháng 15 ngày tù). Như vậy, đặc xá khẳng định chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước, truyền thống nhân đạo của dân tộc đối với những người phạm tội đã cải tạo tiến bộ khi chịu hình phạt tù và có đủ các điều kiện theo quy định. Không chỉ dừng lại ở việc tha tù trước thời hạn, Đảng, Nhà nước còn tạo điều kiện cho những người được đặc xá tái hòa nhập cộng đồng. Bộ Công an đã tổ chức dạy nghề, kiến thức xã hội cho những người chuẩn bị được tha tù trong trại giam, các ngành ở địa phương tạo việc làm, cho vay vốn sản xuất kinh doanh đối với người được đặc xá. Hàng năm nước ta có khoảng hơn 10.000 phạm nhân được đặc xá dịp Quốc khánh mùng 2 - 9, cứ vào dịp này các trại giam trong cả nước sẽ trao quyết định đặc xá tha tù cho các phạm nhân để họ trở về với cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, đối với các phạm nhân được đặc xá, trở về nhà là niềm vui lớn của cả phạm nhân và ban giám thị trại giam, cùng với đó lại là nỗi lo tái hòa nhập của những con người từng lầm lỗi này. Nhiều phạm nhân sau khi biết mình có tên trong danh sách được đặc xá tỏ ra rất vui mừng nhưng cũng không khỏi lo lắng về việc không biết ra tù xã hội sẽ đón nhận mình thế nào. Đối với nhiều phạm nhân, khi bước chân ra khỏi cánh cổng trại giam họ cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Mặc cảm tội lỗi luôn hiện diện, họ co mình vào vỏ ốc và có thể tái phạm tội bất cứ lúc nào. Mặc dù vậy không thể phủ nhận vai trò to lớn của việc đặc xá một hình thức trả tự do sớm cho người bị kết án, người phạm tội để họ có nhiều cơ hội hơn khi tái hòa nhập với xã hội, đồng thời cũng thể hiện chính sách nhân đạo và sự quan tâm của nhà nước đối với những người phạm tội nói chung. Nhiều phạm nhân sau khi được đặc xá trở thành người có ích cho xã hội. Đặc xá có thể được coi như một phương thức có hiệu quả trong việc đưa người phạm tội trở về với xã hội sớm hơn và góp phần làm cho công tác tái hòa nhập xã hội hiệu quả hơn.
  • 33. 33 1.1.3. Tái hòa nhập xã hội đối với ngƣời phạm tội sau khi đƣợc trả tự do khỏi cơ sở giam giữ Để thực hiện tốt công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội, ngoài việc tổ chức giáo dục cải tạo phạm nhân trong trại giam, thì "Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng" [28, Điều 3]. Bên cạnh đó Bộ luật Hình sự cũng quy định về ý nghĩa và mục đích của việc xóa án tích cho người phạm tội, theo đó "Xóa án tích để người phạm tội hòa nhập cộng đồng thuận lợi hơn và là việc làm đầu tiên để người phạm tội có thể tái hòa nhập xã hội" [28, Điều 67]. Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống để hòa nhập cộng đồng, các điều kiện này là tiền đề và cơ sở tâm lý và xã hội để người phạm tội tái hòa nhập xã hội. Cụ thể, công tác tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội sau khi được trả tự do khỏi cơ sở giam giữ là nội dung xoay quanh vấn đề phát triển các biện pháp quản lý việc tham gia trở lại của người phạm tội vào cộng đồng thông qua công tác kết hợp cân đối giữa giám sát và hỗ trợ cũng như phối hợp hiệu quả giữa cơ quan thi hành án, cơ quan bảo vệ pháp luật và các ban ngành đoàn thể có liên quan tại cộng đồng. Điều 4 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã nhấn mạnh các nguyên tắc thi hành án hình sự: thứ nhất, kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án; thứ hai, thi hành án đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội; thứ ba, khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại; thứ tư, Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình vào việc giáo dục cải tạo người chấp hành án. Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù một lần nữa nhấn mạnh các nguyên tắc bảo đảm tái
  • 34. 34 hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù: Thực hiện đúng quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan; Tạo điều kiện thuận lợi cho người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phòng ngừa tái phạm và vi phạm pháp luật; Nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, phân biệt đối xử hoặc xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành xong án phạt tù. Luật thi hành án và Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù: biện pháp thứ nhất, thông tin, truyền thông giáo dục về hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù; biện pháp thứ hai, quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng; biện pháp thứ ba, dạy nghề, giải quyết việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù; biện pháp thứ tư, trợ giúp về tâm lý và hỗ trợ các thủ tục pháp lý cho người chấp hành xong án phạt tù; và các biện pháp hỗ trợ khác. Thông tin, truyền thông giáo dục về tái hòa nhập cộng đồng nhằm định hướng, khuyến khích, động viên việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ, xóa bỏ sự định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử với người chấp hành xong án phạt tù, giúp họ ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng. Nội dung, hình thức thông tin, truyền thông giáo dục về tái hòa nhập cộng đồng phải phù hợp và được thực hiện bằng nhiều phương pháp, hình thức phong phú, đa dạng. Người chấp hành xong án phạt tù được quản lý, giáo dục trong thời gian kể từ khi họ chấp hành xong án phạt tù cho đến khi họ được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Nội dung quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù bao gồm: Tổ chức thực hiện công tác tiếp nhận; phân công tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù hòa nhập cộng đồng; Tư vấn, trợ giúp về tâm lý, hỗ trợ các thủ tục pháp lý giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng; Hướng dẫn làm thủ tục đăng ký hộ khẩu, cấp Giấy chứng minh nhân dân, xóa án tích, cấp Phiếu lý lịch tư pháp; Quản lý, giám
  • 35. 35 sát người chấp hành xong án phạt tù; giáo dục; hướng dẫn chấp hành pháp luật, nghĩa vụ công dân; phát hiện, ngăn chặn, xử lý khi có hành vi vi phạm pháp luật; Hỗ trợ kinh phí, cho vay vốn, tổ chức học tập, dạy nghề, tìm kiếm, giới thiệu việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù; Tạo các điều cần thiết khác giúp người chấp hành xong án phạt tù ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, tránh tái phạm. Người chấp hành xong án phạt tù được quan tâm dạy nghề, giải quyết việc làm tùy thuộc vào điều kiện sức khỏe, khả năng chuyên môn của bản thân, nhu cầu của người sử dụng lao động và điều kiện thực tế của địa phương; được xem xét hỗ trợ cho vay vốn từ các ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ xã hội, quỹ từ thiện ở địa phương và được xét hỗ trợ một phần vốn đối với người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gia đình chính sách để tạo việc làm và sản xuất, kinh doanh. Người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù được ưu tiên học văn hóa, học nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ vay vốn để học tập, tìm kiếm việc làm ổn định cuộc sống. Người chấp hành xong án phạt tù có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không có nơi cư trú nhất định, nếu tự nguyện xin được làm việc tại các cơ sở sản xuất do trại giam tổ chức thì được xem xét bố trí nơi ở, làm việc tại các cơ sở này. Căn cứ vào đối tượng, điều kiện cụ thể và theo đề nghị của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, Bộ Công an quyết định thành lập và quy định cụ thể về tổ chức, hoạt động của các cơ sở sản xuất để tổ chức cuộc sống, việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, không có nơi cư trú nhất định. Nhà nước khuyến khích các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động tư vấn, dạy nghề, giới thiệu việc làm, giúp đỡ những người chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng; khuyến khích việc tiếp nhận người chấp hành xong án phạt tù vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù được ưu tiên thuê nhà, cơ sở hạ tầng của Nhà nước theo quy định của pháp luật để thành lập các cơ sở giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù tái
  • 36. 36 hòa nhập cộng đồng. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào thẩm quyền quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, khả năng quỹ đất ở địa phương và các nguồn tài nguyên khác để giúp các tổ chức, cá nhân trong hoạt động dạy nghề, tạo việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù. Cơ sở sản xuất do Bộ Công an tổ chức và các cơ sở khác được thành lập với mục đích giáo dục, dạy nghề, giúp đỡ việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù được hưởng các chế độ miễn, giảm thuế theo quy định của các luật thuế có liên quan và văn bản hướng dẫn thi hành. Pháp luật quy định các biện pháp trực tiếp giám sát, theo dõi cũng như tư vấn hướng nghiệp cho các phạm nhân sau khi ra tù có thể tái hòa nhập cộng đồng, tuy nhiên do trình độ hiểu biết về kiến thức pháp luật, cũng như tuổi tác của các phạm nhân có sự chênh lệch, lại cách biệt với xã hội một thời gian dài nên nhiều phạm nhân cũng có sự bỡ ngỡ. Chính vì vậy, cần phải tuyên truyền sâu cho các phạm nhân về các kiến thức pháp luật hiện hành và các kỹ năng để tái hòa nhập cộng đồng. Từ đó, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của các phạm nhân sau khi ra trại, cán bộ giáo dục sẽ tư vấn cho các phạm nhân về nghề nghiệp sao cho phù hợp với hoàn cảnh, và tình hình thực tế của mỗi phạm nhân. Việc mở các lớp học dạy kiến thức cho phạm nhân sẽ nhằm trang bị, và cập nhật cho phạm nhân những điều cơ bản về quyền lợi và nghĩa vụ sau khi chấp hành xong hình phạt tù để có thể nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của mình khi tái hòa nhập cộng đồng, từ đó lao động tốt để cống hiến cho xã hội. Tất cả những phạm nhân nếu có nhu cầu vay vốn khi trở về địa phương làm đơn xin vay vốn hỗ trợ sản xuất sẽ được xét duyệt như mọi công dân khác. Ví dụ, phạm nhân Hưng Vĩnh phạm tội giết người bị kết án 8 năm, thụ án tại trại giam Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phúc tính từ năm 2003 đến năm 2011, nhờ học được nghề xây dựng, ra trại anh đã mở công ty riêng, hiện nay công ty của anh cho doanh thu 200 tỷ đồng mỗi năm. Trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm định kỳ
  • 37. 37 06 tháng một lần thông báo tình hình chấp hành án của phạm nhân cho thân nhân của họ để khi tái hòa nhập xã hội người phạm tội không mặc cảm và thường xuyên liên lạc được với gia đình, người thân, là chỗ dựa về tinh thần cũng như tâm lý quay trở lại xã hội sau một thời gian cách ly của người phạm tội. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phối hợp với gia đình phạm nhân, chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm động viên phạm nhân tích cực học tập, lao động, rèn luyện để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước; hỗ trợ các hoạt động giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù. Tái hòa nhập sau khi ra khỏi trại giam cho người phạm tội có một ý nghĩa quan trọng, tuy nhiên hiện nay các văn bản hầu như rất ít quy định về vấn đề này. Do vậy cần có những nỗ lực nhằm tạo ra các cơ sở bán giam giữ như nhà chuyển tiếp, nhà giáo dục, trung tâm dạy nghề ban ngày và các mô hình phù hợp khác nhằm hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập thành công vào cộng đồng. Các cơ quan, tổ chức nhà nước và tư nhân có khả năng cung cấp các dịch vụ chăm sóc sau giam giữ hiệu quả cho tù nhân ra trại nhằm làm giảm những định kiến đối với họ và hỗ trợ quá trình phục hồi của họ về mặt xã hội. Với sự tham gia của cộng đồng, hỗ trợ của cộng đồng và các định chế xã hội vần tạo những điều kiện tốt nhất có thể để hỗ trợ tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội. Đồng thời các Nhà nước có các biện pháp kêu gọi các cá nhân, tổ chức tình nguyện, các cơ quan đoàn thể địa phương và các nguồn lực khác trong cộng đồng đóng góp có hiệu quả vào việc phục hồi cho người phạm tội trong môi trường cộng đồng và gia đình người phạm tội. 1.2. CÁC CHƢƠNG TRÌNH TÁI HÒA NHẬP XÃ HỘI Tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội là hoạt động mang tính hành, xã hội chính đồng thời mang tính pháp luật và nghiệp vụ. Do đó vấn đề tái hòa nhập cộng đồng đối với người phạm tội được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
  • 38. 38 Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới, theo đó: "Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật để phục vụ kịp thời, có hiệu quả cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trước mắt và lâu dài. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục, cải tạo người phạm tội bằng nhiều hình thức, giúp họ cải tạo tiền bộ, hoàn lương, tái hòa nhập gia đình và cộng đồng xã hội. Thành lập Ban chỉ đạo của Chính phủ thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm do đồng chí Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ làm Trưởng ban, Bộ trưởng Bộ Công an làm Phó Trưởng ban; Thứ trưởng Bộ Công an phụ trách cảnh sát nhân dân làm ủy viên thường trực; Thứ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa - Thông tin, Giáo dục và Đào tạo, Tài chính, ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em là ủy viên. Mời đại diện lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Nội chính Trung ương, ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân tập thể, Hội Cựu chiến binh Việt Nam tham gia Ban chỉ đạo; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương làm Trưởng ban, các thành viên tương ứng như Ban chỉ đạo của Chính phủ, giúp ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm ở địa phương; Hàng tháng, quý, năm các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp cần kiểm điểm công tác phòng, chống tội phạm ở Bộ, ngành, địa phương mình và báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ và Ban chỉ đạo của Chính phủ thực hiện Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
  • 39. 39 ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này; Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết này và thường xuyên tổng hợp tình hình báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm trong tình hình mới đã đề cập rất nhiều đến vấn đề tái hòa nhập cộng động đối với người phạm tội: Từng bước xây dựng nếp sống lành mạnh tại các cộng đồng dân cư, trong nhà trường và gia đình tạo ra những chuyển biến rõ rệt về trật tự an toàn xã hội. Nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong cộng động và đẩy mạnh tính chủ động sáng tạo của các cấp trong công tác phòng, chống tội phạm, tổ chức giáo dục có hiệu quả đối với những người phạm tội, giúp họ tái hòa nhập vào cộng đồng xã hội [7]. Bên cạnh đó trong tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở nước ta hiện nay, việc tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người mãn hạn tù là một vấn đề cấp thiết nhưng lại rất phức tạp, đây là một phần trong bốn đề án chủ yếu của chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm. Chính vì vậy, Quyết định 138/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ đã chỉ rõ: "Tổ chức vận động toàn dân tham gia quản lý, giáo dục người vi phạm pháp luật tại cộng động dân cư, tổ chức hướng nghiệp giúp đỡ tạo việc làm, lôi cuốn họ, cải tạo họ trở thành người lương thiện tái hòa nhập cộng đồng xã hội" [7]. Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg ngày 08/11/2004 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình Quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ đến năm 2010. Tiếp tục thực hiện 4 đề án của Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm trong đó đáng lưu ý là đề án thức nhất: "Phát động toàn dân tham gia phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm; cảm hóa, giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng
  • 40. 40 dân cư". Giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015, Quyết định số 1217/QĐ-TTg ngày 06/9/2012 phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2012 - 2015, theo đó: Kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội phạm, nhất là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm mới, không để tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống, tạo môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân [16]. 1.3. CÁC CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƢỚC Tái hòa nhập xã hội ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề được Nhà nước và xã hội quan tâm. Tuy nhiên nghiên cứu công tác này ở một số quốc gia trên thế giới để rút ra được những kinh nghiệm trong việc tái hòa nhập xã hội cho người phạm tội ở Việt Nam. Nghị quyết của Hội nghị phòng chống phạm tội lần thứ haia Liên hợp quốc có đưa ra quyết định về vấn đề bố trí việc làm cho người mãn hạn tù như sau: "để giải quyết những khó khăn cho người mãn hạn tù, phải đặc biệt chú ý đến vấn đề các vấn đề xã hội, giáo dục, việc làm, đãi ngộ ở địa phương và những vấn đề về nhà ở", "bảo đảm cuộc sống cho phạm nhân sau khi ra tù và không được từ chối cho họ đảm nhận công việc" [24, tr. 86]. Nội dung công tác bảo đảm cho người mãn hạn tù này bao gồm: Bố trí, sắp xếp chỗ ở tạm cho những người không có nhà hoặc chưa có chỗ ở thích hợp; bảo đảm về y tế và sức khỏe; bố trí dạy nghề cho phạm nhân trong tù; việc làm và hướng dẫn tìm việc làm; bảo hộ quyền công dân; giáo dục và quản lý giáo dục. Ở Trung Quốc, ngoài các nội dung đảm bảo công tác tái hòa nhập cho người mãn hạn tù, chính phủ Trung Quốc còn thực hiện việc điều tra và đánh giá tình hình tái hòa nhập cộng đồng của những người mãn hạn tù. Việc làm