SlideShare a Scribd company logo
1 of 155
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN ĐẠI
VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN
HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN ĐẠI
VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN
HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS
MÃ SỐ: 92.29.002
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Đình Hòa
2. PGS,TS. Trương Quốc Chính
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Đình Hòa và PGS,TS. Trương Quốc
Chính; những kết quả và nội dung của luận án là trung thực; các tài liệu tham
khảo có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng 3 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Văn Đại
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ............................................................................................... 6
1.1. Một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án............................ 6
1.2. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố và nội dung
nghiên cứu mới của luận án................................................................ 24
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM...................... 28
2.1. Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở - khái
niệm, một số nội dung cơ bản............................................................. 28
2.2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò của nhân dân trong
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay ..................... 52
Chương 3: VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA................................................................... 71
3.1. Thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay......................................................... 71
3.2. Một số vấn đề đặt ra hiện nay............................................................ 106
Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY..................................................... 115
4.1. Một số quan điểm định hướng nhằm phát huy vai trò của nhân dân
trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay . 115
4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhân dân
trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay . 119
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....... 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 151
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCH: Ban Chấp hành
BTV: Ban Thường vụ
CNH: Công nghiệp hóa
DCCS: Dân chủ cơ sở
HĐH: Hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTCT: Hệ thống chính trị
KCN: Khu công nghiệp
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
QCDC: Quy chế dân chủ
UBMT: Ủy ban Mặt trận
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi quần
chúng nhân dân là chủ thể, lực lượng chân chính sáng tạo ra lịch sử. Để phát
huy vai trò to lớn đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết
lãnh đạo thực hiện phát huy dân chủ. Ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 30/CT-TW
về Quy chế dân chủ ở cơ sở; năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh 34/PL/2007 về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Xét ở
phạm vi quốc gia, qua 20 năm thực hiện, dân chủ ở cơ sở đã có những chuyển
biến tích cực: “Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là
trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe,
tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân” [25, tr. 167]. Nhờ vậy, kinh tế đất
nước phát triển cao, chính trị - xã hội ổn định, niềm tin của quần chúng nhân dân
với Đảng, Nhà nước ngày càng được tăng cường. Bên cạnh đó, việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở còn một số hạn chế như: “nhận thức về dân chủ trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế… có tình trạng lợi dụng dân
chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội” [25, tr. 168].
Tỉnh Hưng Yên nằm ở vị trí trung tâm của Đồng bằng sông Hồng, có diện
tích tự nhiên 930km2
, dân số hơn 1 triệu người. Trong những năm gần đây, tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh có những chuyển biến khá tích cực. Đó là
việc hình thành các khu công nghiệp, dịch vụ, thương mại, như khu công nghiệp
Phố Nối - Mỹ Hào, Như Quỳnh - Văn Lâm, Yên Mỹ, Văn Giang, thành phố
Hưng Yên, Kim Động…, đời sống vật chất, tinh thần của phần đông người dân
Hưng Yên đã được cải thiện.
2
Trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban
hành Đề án 01-ĐA/TU ngày 05/5/2011 về Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2011-2020; qua gần
7 năm thực hiện, nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về
dân chủ cơ sở được nâng lên. Chính quyền các cấp tích cực thực hiện cải cách
hành chính, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tích cực
tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây
dựng khu phố, làng, gia đình văn hóa… Thông qua thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền được tăng cường.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc phát huy vai trò của nhân dân
trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên cũng còn những hạn
chế, bất cập như:
Thứ nhất, một bộ phận nhân dân chưa chủ động, tích cực thực hiện các
quyền được biết, được bàn, kiểm tra, giám sát; nhiều người tỏ ra thờ ơ, thụ động
trong tìm hiểu, thực hiện các quyền dân chủ của mình.
Thứ hai, hiểu biết pháp luật về các quyền, nghĩa vụ của một bộ phận nhân
dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở còn hạn chế;
Thứ ba, chất lượng tham gia góp ý, thảo luận của nhân dân với các
chương trình, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội… chưa cao; có tình
trạng góp ý qua loa, chiếu lệ, chỉ quan tâm đến những phần việc liên quan trực
tiếp đến lợi ích của mình.
Thứ tư, trong thực tế thực hiện, cá biệt còn có tình trạng một số cá nhân
lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật.
Biểu hiện cụ thể của những hạn chế trên là tình trạng khiếu kiện đông
người, kéo dài, vượt cấp ở Hưng Yên có biểu hiện ngày càng phức tạp; tình
trạng chống người thi hành công vụ, không thực hiện các quyết định hành chính
3
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đặc biệt đã xuất hiện điểm nóng chính trị -
xã hội cục bộ tại các xã Xuân Quang, Phụng Công, Cửu Cao huyện Văn Giang
năm 2012 liên quan đến thu hồi đất đai là ví dụ tiêu biểu.
Những yếu tố trên đang tác động bất lợi đến phát huy vai trò của nhân
dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, ảnh hưởng đến giữ vững ổn định
chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong bối cảnh đó, phát
huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trở thành vấn
đề có tính chất quyết định. Có thể nói rằng, chưa bao giờ sự nghiệp đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội
của Hưng Yên đòi hỏi phải phát huy tối đa sức mạnh của toàn thể nhân dân lại
cấp thiết như hiện nay. Đồng thời, chưa bao giờ sức mạnh của nhân dân đòi hỏi
nhất thiết phải được xác lập trên cơ sở phát huy sự giác ngộ và khả năng cống
hiến của từng thành viên trong cộng đồng như hiện nay. Điều này có nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, việc phát huy cho được vai trò của quần
chúng nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ phải được xem là yếu tố chiến
lược, quyết định sự thành công của mục tiêu đưa Hưng Yên trở thành tỉnh
công nghiệp vào năm 2020 như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVII nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn chủ đề “Vai trò của nhân dân
trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề
tài luận án tiến sĩ Triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận,
thực tiễn vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; luận án
đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò
của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện
nay.
4
2.2. Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích trên, luận án thực
hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, tổng quan một số công trình tiêu biểu đã công bố liên quan đến đề tài
luận án;
Hai là, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò của nhân dân trong
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay;
Ba là, phân tích thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên từ năm 1998 đến nay và những vấn đề đặt
ra;
Bốn là, đề xuất một số quan điểm, nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát
huy vai trò của nhân dân tỉnh Hưng Yên trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu vai trò của nhân dân tỉnh
Hưng Yên trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, có nhiều loại hình cơ sở khác nhau, như doanh nghiệp nhà
nước; cơ quan, đơn vị, trường học; xã, phường, thị trấn… Luận án chỉ nghiên
cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị
trấn (theo Pháp lệnh 34/PL/2007-UBTVQH)
Về không gian: Tỉnh Hưng Yên (01 thành phố, 09 huyện, 161 xã,
phường, thị trấn)
Về thời gian: Từ năm 1998 (khi ban hành Chỉ thị 30/CT-BCT) đến nay.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
5
Nam; Tỉnh ủy Hưng Yên về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Đồng thời, luận
án có kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đi trước đã được công bố
có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, luận án cũng sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, điều tra -
khảo sát, thống kê - so sánh, sàng lọc số liệu, tổng kết thực tiễn…
5. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay trên phương diện triết học;
Thứ hai, đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp chủ yếu nhằm
tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
ở tỉnh Hưng Yên hiện nay
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về vai trò của nhân dân
trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở;
- Luận án cung cấp cơ sở lý luận, khoa học cho việc hoạch định chính
sách, pháp luật về phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở hiện nay;
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên
cứu, giảng dạy các chuyên đề liên quan đến vấn đề dân chủ và thực hiện dân
chủ tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh, Trường Cao đẳng sư phạm Hưng
Yên, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thành phố trong tỉnh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục
các công trình của tác giả đã công bố, luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận chung về vai trò của
nhân dân, Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Dân chủ nói chung, Quy chế dân chủ cơ sở nói riêng là những phạm trù
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu chủ đề này
không chỉ có ý nghĩa góp phần làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan, bản chất,
cách thức thực hành dân chủ, mà còn xây dựng lý luận để soi đường, chỉ đạo
thực tiễn, cung cấp luận cứ khoa học cho việc ban hành chủ trương, chính
sách thực hiện dân chủ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về quần chúng nhân dân và vai
trò của quần chúng nhân dân như: Lê Duẩn, “Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” [14]; Phạm Văn Đồng “Học tập quan điểm nhân dân, quan điểm
quần chúng của Hồ Chủ tịch” [26]; Việt Tiến, “Nhân dân trong tư tưởng Hồ
Chí Minh và trong Hiến pháp 2013” [89]; Vũ Lân, “Để quần chúng nhân dân
tham gia tốt hơn vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” [39]...
Trong các công trình này, các tác giả đã làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và vai trò của quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung, ở Việt Nam hiện nay nói
riêng.
Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trong công trình “Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng” khẳng định, quần chúng nhân dân là phạm trù mang tính
lịch sử, trong các thời kỳ khác nhau thì lực lượng quần chúng cũng khác nhau.
Theo tác giả, tính đặc thù của quần chúng nhân dân ở Việt Nam chủ yếu là
7
nông dân. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 là cuộc
nổi dậy của toàn dân, nhưng lực lượng chủ yếu là nông dân.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong cuốn “Học tập quan điểm nhân dân,
quan điểm quần chúng của Hồ Chủ tịch” cho rằng, quan điểm nhân dân của
Hồ Chủ tịch là đồng nhất với quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Với sự vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng, Hồ
Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam đoàn kết chiến đấu để giữ
vững thành quả cách mạng. Tác giả làm rõ vai trò của nhân dân theo quan
điểm của Người là tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh, năng lực sáng tạo, cách
mạng của quần chúng nhân dân. Để phát huy sức mạnh của nhân dân, Đảng,
Nhà nước phải biết huy động, tổ chức, lãnh đạo nhằm thực hiện những nhiệm
vụ cách mạng thích hợp với từng giai đoạn, từng địa phương, từng ngành
công tác.
Tác giả Việt Tiến trong bài “Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh và
trong Hiến pháp 2013” cho rằng, Hồ Chí Minh là người có tư tưởng đầy đủ,
đúng đắn về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân; coi nhân dân là lực
lượng có sức mạnh vô tận và nguyên nhân thắng lợi của cách mạng. Tư tưởng
của Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta
trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng. Đảng và Nhà
nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân,
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng.
Khi phân tích vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính
quyền, tác giả Vũ Lân cho rằng: “Cho đến nay, trong điều kiện, hoàn cảnh,
nhất là trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, trong điều kiện Đảng cầm
quyền, với những vấn đề cấp bách đặt ra trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì cần có cơ chế, quy chế,
quy định cụ thể thống nhất, đồng bộ, bài bản, cụ thể hơn trong công tác này”
[39, tr. 60]. Tác giả cũng nhấn mạnh: “Nhưng dù có quy định thế nào chăng
8
nữa, đối tượng giám sát nhất thiết phải có quần chúng nhân dân chứ không
phải chỉ có những người đại diện cho quần chúng” [39, tr .63]. Tác giả đề cao
vai trò của dân chủ trực tiếp trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước
trong điều kiện mới.
Một số công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở và quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở như: “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay”
của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [78]; “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Dương Xuân Ngọc [69]; “Thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” của Nguyễn Cúc; “Một số vấn đề rút ra từ đổi mới nhận thức về vai
trò của “Dân” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ” của Phạm Ngọc Quang [76]; "Cơ chế giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn" của Đào Trí Úc [96]; "Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý
thức trách nhiệm của Nhà nước" của Lê Thi [86]; Một số suy nghĩ về xây dựng
nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay" của Đỗ Trung Hiếu [33]; “Dân chủ trực tiếp
ở Việt Nam lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên [57];
“Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh
Tây nguyên thời kỳ đổi mới” của Đỗ Văn Dương [15]... Trong các công trình
trên, hầu hết các tác giả thống nhất quan điểm cho rằng: dân chủ ở cơ sở là hình
thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền tự quyết của mình được tiến hành
từ cấp xã xuống đến thôn/ tổ dân phố theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” đối với các nội dung có liên quan đến đời sống kinh tế, chính
trị, văn hóa - xã hội của người dân ở cơ sở bằng những hình thức nhất định, phù
hợp với các nguyên tắc và quy định của pháp luật [15, tr. 19].
Tác giả Lê Thi cho rằng, dân chủ ở cơ sở không phải là hình thức, mà là
một cấp độ của chế độ dân chủ. Nội dung của dân chủ cơ sở được thể hiện dưới
các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Củng cố và mở rộng dân chủ
9
ở cơ sở là một quá trình nâng cao sức mạnh và hiệu quả hoạt động của nhà nước,
trước hết ở cấp xã, phường, thị trấn. Đây cũng là quá trình hoàn thiện hệ thống
pháp luật, nâng cao hiệu quả tích cực của các cơ quan nhà nước [86, tr. 20].
Về chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra
ba laoij chủ thể chủ yếu sau: chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là đảng bộ các cấp từ tỉnh
đến xã, nòng cốt là Ban chấp hành đảng bộ, cấp ủy các cấp; chủ thể tổ chức thực
hiện là HĐND, UBND, UBMT Tổ quốc các cấp, các cá nhân Chủ tịch UBND
xã, trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, công chức cấp xã được giao nhiệm vụ;
chủ thể trực tiếp thực hiện là các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị
trấn [15, tr. 124-125].
Về nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhiều công trình đã phân tích
và chỉ ra một số nội dung chủ yếu sau: Nhân dân thực hiện quyền được biết
các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội ở xã, phường, thị trấn;
nhân dân được bàn và quyết định một số công việc ở cơ sở; nhân dân tham
gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định; nhân dân thực hiện
quyền giám sát.
Về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với phát triển nông thôn, trong
cuốn sách “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” [78], tác
giả Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông cho rằng, phát huy dân chủ là một trong
những động lực chủ yếu để phát triển nông thôn cả trong lịch sử và hiện tại của
dân tộc. Cũng trong công trình này, các tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của hệ
thống chính trị trong ổn định chính trị, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước ở nông thôn.
Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân
làm chủ, trong bài viết “Một số vấn đề rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò
của “Dân” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ” [76], tác giả Phạm Ngọc Quang cho rằng: Xuất phát từ nhận thức mới về
10
vai trò của dân đối với Đảng, đã đến lúc phải khẳng định rằng, tự nó, Đảng
không có quyền, mọi quyền lực mà Đảng có được là do nhân dân uỷ quyền
cho. Đảng và Nhà nước là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước là cơ chế có hiệu quả
nhất. Xét về thực chất, Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Tự nó, mọi cơ quan nhà nước không có quyền. Mọi quyền lực
nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền cho nó. Mặc dù không trực tiếp
bàn tới bản chất mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với Nhân
dân làm chủ, song từ phân tích trên đã gợi ý cho luận án hướng nghiên cứu về
bản chất của mối quan hệ này, đặc biệt là xác định vị trí của nhân dân trong
mối quan hệ.
Bàn về vai trò của nhân dân trong giám sát hoạt động của bộ máy
Đảng, chính quyền cấp cơ sở, tác giả Đào Trí Úc trong công trình "Cơ chế
giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước -
một số vấn đề lý luận và thực tiễn" cho rằng, cơ chế giám sát của nhân dân
đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua hai hình thức:
Một là, thông qua các tổ chức đại diện như Quốc hội, HĐND, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân…; hai là, nhân dân trực tiếp giám sát. Tuy nhiên,
tác giả cũng nhận định trên thực tế, quyền dân chủ, quyền giám sát của nhân
dân hiện nay còn mang tính hình thức, do đó, kết quả không đạt được như
mong muốn. Về kinh tế, nhìn chung có sự phát triển, nhưng nhịp độ tăng
trưởng kinh tế chưa đạt được yêu cầu đề ra. Tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn chưa đổi mới thực sự;
tình trạng vi phạm dân chủ, tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy đảng,
chính quyền vẫn chưa được khắc phục triệt để. Cho nên, cần phải tăng cường
mối liên hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, lắng nghe ý kiến của
nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước nhưng
11
nhất thiết phải có sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà
nước. Để đạt mục đích đó, các tác giả đã tập trung làm rõ vai trò của nhân dân
trong việc giám sát hoạt động của bộ máy của Đảng và Nhà nước và các thiết
chế tổ chức trong hệ thống chính trị; từ đó, đánh giá đúng thực trạng của các cơ
chế và các hình thức giám sát hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính
trị nước ta. Đồng thời nêu ra một số quan điểm, yêu cầu, nguyên tắc và khuyến
nghị về xây dựng các cơ chế và hình thức, các căn cứ pháp lý để nhân dân thực
hiện có hiệu quả vai trò giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, tác giả
Lê Thi cho rằng, năng lực làm chủ của người dân không phải tự nhiên mà có.
Nó liên quan đến hai vấn đề là quyền được thông tin và trình độ học vấn, sự
hiểu biết về xã hội của người dân [xem: 86, tr. 20].
Một số công trình nghiên cứu về cộng đồng làng xã, tâm lý nông dân
và tác động của nó đến thực hiện dân chủ cơ sở như: Đỗ Long, “Quan hệ
cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân” [45]; Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn
Thông, “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” [80]; Lê Hữu Xanh, “Tác
động của tâm lý làng xã trong việc xây dựng đời sống kinh tế xã hội ở nông
thôn đồng bằng Bắc bộ nước ta hiện nay” [101]; Đỗ Long, Vũ Dũng (đồng
chủ biên), “Tâm lý nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường”
[46]; John Kleinen, “Làng Việt - Đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ” [54];
Nguyễn Bình Yên, “Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người
Việt Nam hiện nay” [102]; Phạm Giang, “Lấy dân làm gốc ở thời Trần” [27];
Đề tài khoa học cấp Bộ, "Mối quan hệ giữa yếu tố tâm lý xã hội với quá trình
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay" (Qua khảo sát một số
tỉnh Vùng đồng bằng Bắc Bộ) [37]... Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ
căn cứ lý luận trong nghiên cứu tâm lý nông dân; những đặc trưng cơ bản của
đời sống làng xã Việt Nam; ảnh hưởng của tâm lý nông dân với thực hiện dân
12
chủ cơ sở. Trong công trình “Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý
nông dân”, tác giả Đỗ Long đã xem xét nhân cách người nông dân Việt Nam
qua các lăng kính đạo đức học và tâm lý học, chỉ ra những hạn chế trong nhân
cách này; đồng thời phân tích những biểu hiện mới trong nhu cầu, nhận thức,
tình cảm, năng lực, nhóm và chuẩn mực nhóm của nhân cách người nông dân
giai đoạn hiện nay.
Trong công trình “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay”, các tác giả
Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông đã làm rõ một số vấn đề cơ bản về cộng
đồng làng xã Việt Nam từ khi hình thành đến nay; mối quan hệ giữa tổ chức
Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức trong cải cách hành chính,
thực hiện dân chủ ở cơ sở... Đặc biệt, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra một số
hạn chế liên quan đến thể chế chính trị ở nông thôn như hiệu lực của thể chế
còn yếu kém, thiếu sức mạnh… dẫn đến quyền lực của Nhà nước, của nhân
dân, của pháp luật không được tôn trọng. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước chưa phát huy hết hiệu
quả, hiệu lực.
Nghiên cứu về tâm lý nông dân Việt Nam trong giai đoạn đầu phát triển
kinh tế thị trường, các tác giả Đỗ Long, Vũ Dũng trong công trình “Tâm lý
nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường” đã cho rằng, “trong
thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường với các nhu cầu của họ về đất đai, về
ứng dụng khoa học kỹ thuật, về thuê mướn sức lao động… nhưng do tâm lý
bao cấp, tự người nông dân đã đặt ra những rào cản cho mình” [46, 104].
Đồng thời, các tác giả cũng bước đầu làm rõ tâm trạng cũng như các nguyện
vọng của nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường. Đây chính
là một trong những giai đoạn ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cá nhân và cộng
đồng ở nông thôn Việt Nam.
13
Đánh giá về truyền thống dân chủ trong lịch sử Việt Nam, tác giả Phạm
Giang, trong công trình “Lấy dân làm gốc ở thời Trần” đã chỉ ra các đặc
điểm, hình thức thực hiện dân chủ thời nhà Trần. Tác giả đã khái lược tư
tưởng lấy dân làm gốc trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đặc biệt là dưới
triều đại nhà Trần, các vua tôi đã biết huy động sức mạnh của dân tộc lúc bấy
giờ, tạo nên sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi vĩ đại, ghi vào sử sách nước
nhà ba lần đại thắng quân Nguyên Mông. Qua đó, tác giả phân tích và nêu lên
tư tưởng của người xưa đã biết vận động, lắng nghe và rất quan tâm đến việc
“lấy dân làm gốc”, như việc vua nhà Trần ý thức đặt ra những giới hạn quyền
lực của triều đình, đặt ra chức Gián quan... Ít có triều đại phong kiến nào như
triều đại nhà Trần đã tổ chức nên Hội nghị Diên Hồng để lấy ý kiến của nhân
dân lo cho việc nước, khi đất nước lâm nguy. Hội nghị thể hiện quyết tâm sắt
đá kháng chiến vì chính nghĩa của toàn dân trước quân Nguyên Mông xâm
lược, biểu hiện sự kết hợp giữa tinh thần bất khuất của nhân dân và vì nhân
dân. Ở thời kỳ này, các vua Trần chú trọng lắng nghe ý kiến, tranh thủ sự
đồng thuận của đông đảo nhân dân. Vì vậy, “lịch sử khẳng định: Biết đặt
quyền lợi nhân dân lên trên, nhà Trần đã thực sự là người đại diện xứng đáng
cho dân tộc” [27, tr.114]; “Trần Quốc Tuấn tổng kết: “Vua tôi đồng lòng, anh
em hoà thuận, cả nước chung sức, giặc phải bị bắt” [27, tr.115] và “Khoan thư
sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”[27, tr.113]. Có
thể khẳng định rằng, ở bất cứ thời nào, các nhà “cầm quyền” biết dựa vào dân,
phát huy và huy động sức mạnh từ nhân dân (dân chủ là vô địch) để giữ nước,
phát triển đất nước, là biện chứng của phạm trù dân giàu thì nước mạnh, là
nguồn gốc của sự ổn định chính trị, làm cho cuộc sống bình yên, toàn dân
đoàn kết là tiền đề cho mọi thắng lợi.
Từ những khái quát trên có thể thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
vai trò của quần chúng nhân dân theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có thực hiện dân chủ ở cơ sở.
14
Một số công trình đã làm rõ khái niệm, nội dung, bản chất, sự ra đời Quy chế
dân chủ cơ sở ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; tác động của các nhân tố chủ quan,
khách quan đến thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, nhất là ở nông thôn. Đây là
những tư liệu cần thiết mà tác giả sẽ kế thừa trong quá trình thực hiện luận án.
1.1.2. Những nghiên cứu về thực trạng vai trò của nhân dân trong
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài “Không ngừng phát huy dân
chủ ở cơ sở, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của nhân dân”, Tạp chí
Cộng sản, số 139 (7/2018) đã đánh giá một số thành tựu cơ bản qua 20 năm
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở như: (1) Nhận thức về dân chủ và thực hành
dân chủ của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng lên; (2) Việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy vai trò, tiềm năng, sức
sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất
nước. Những thành tựu trên là do cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị -
xã hội đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện, đẩy mạnh tuyên
truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện; sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp
nhân dân [Xem: 93, tr. 6].
Tác giả Trần Quang Nhiếp trong công trình “Nhìn lại mười năm thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở” [71] cho rằng, qua mười năm thực hiện quy chế
dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt được những kết quả rất tích cực, góp
phần tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm chủ của người dân, thu hút
nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ
quan nhà nước, khắc phục một phần tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ,
xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức; đóng góp
tích cực vào cải cách hành chính; tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với dân.
Tác giả đã chỉ ra bốn thành tựu nổi bật là: (1) Nhận thức của cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội về dân chủ và dân chủ trực
15
tiếp của nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; (2) Góp phần đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa
phương; (3) Tác động tích cực vào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; (4)
Góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ngày càng vững mạnh, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả.
Tác giả Nguyễn Văn Hiển trong công trình “Về thi hành Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 2007” [31] đã chỉ ra một số thành
tựu chủ yếu về phát huy vai trò của người dân như: “Nhận thức của người dân
về các quyền dân chủ; năng lực, trách nhiệm của nhân dân trong giám sát,
tham gia góp ý kiến cho việc quản lý, điều hành của chính quyền, cán bộ ngày
càng cao. Nhân dân ở nhiều địa phương đã tích cực tham gia xây dựng, thực
hiện hương ước, quy ước qua nhiều hình thức khác nhau [31, tr.131-132]. Về
những hạn chế, tác giả cũng chỉ ra: Mặt bằng nhận thức của người dân về quy
chế dân chủ ở cơ sở còn hạn chế, còn có tâm lý chông chờ, ỷ lại, thụ động
trong nhận thức các quyền dân chủ; tình trạng cục bộ lợi ích trong thực hiện
dân chủ cơ sở ở nhiều nơi…[Xem: 31, tr132-133].
Tác giả Nguyễn Hồng Chuyên trong công trình “Thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” [10] đã chỉ ra một số thành tựu và hạn chế trong thực hiện dân chủ ở
cơ sở như: Về thành tựu: Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cấp xã đã được quan tâm thực hiện; nhận thức, hiểu biết pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cấp xã của cán bộ và nhân dân đã được nâng cao; chính
quyền cấp xã đã thực hiện niêm yết, thông báo những nội dung công khai để
nhân dân biết... Về hạn chế: công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật
thực hiện dân chủ ở cấp xã chưa đáp ứng được sự mong đợi của cán bộ và nhân
dân; kiến thức, hiểu biết của một bộ phận nhân dân về nội dung của pháp luật
dân chủ ở cấp xã còn hạn chế; việc thực hiện các nội dung dân biết, dân bàn, dân
giám sát ở một số nơi còn mang tính hình thức... [10, tr. 34-42].
16
Tác giả Huỳnh Đảm trong công trình “Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở” [16] đã tổng kết bốn thành tựu lớn là: (1) Nhận thức của
các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và toàn xã hội về dân chủ và dân
chủ trực tiếp của nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực; (2) Góp phần
đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội ở cơ sở; (3) Góp phần tích cực vào xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở; (4) Góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng trong
sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả [16, tr.18-20]. Tác giả cũng
chỉ ra một số hạn chế trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở như: Một bộ
phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết, ý nghĩa của thực
hiện dân chủ ở cơ sở cho nên thiếu trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ
đạo, thiếu gương mẫu trong thực hiện Quy chế. Tình trạng phô trương, hình
thức trong tổ chức thực hiện Quy chế ở nhiều nơi. Một bộ phận nhân dân có
hiểu biết pháp luật, ý thức thực hiện dân chủ còn thấp; tư tưởng tự do, vô tổ
chức, bè cánh, dòng họ còn khá nặng nề ; năng lực giám sát của nhân dân còn
hạn chế…[Xem 16, tr.20-22].
Tác giả Hà Thị Khiết trong bài “Những bài học kinh nghiệm về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở" đã chỉ ra bốn thành tựu chủ yếu
sau: (1) Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở; (2)
Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
và chất lượng đảng viên; (3) Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ
quan nhà nước và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức; (4) Góp phần đổi
mới phương thức hoạt động, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội [38, tr.23-26]. Tác giả cũng chỉ ra một số
hạn chế, yếu kém cần khắc phục như: (1) Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều
nơi còn bị vi phạm; (2) Việc công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, nhất
là chế độ, chính sách về nhà đất, tài chính, tài sản, quy hoạch, kế hoạch chưa
17
được nghiêm túc theo quy định; (3) Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được
quan tâm đúng mức, nhận thức và thực hiện Quy chế chưa đồng đều, thiếu
trách nhiệm; (4) Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể trong
công tác chỉ đạo, kiểm tra còn chưa đồng bộ, chặt chẽ… [38, tr. 26-27]
Công trình "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện
nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"[11] tác giả Nguyễn Cúc cho rằng,
xây dựng một chế độ thật sự do nhân dân lao động làm chủ không chỉ là mục
tiêu phấn đấu, mà còn phải được cụ thể hoá từng bước trong cuộc sống hàng
ngày, nhằm tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Để đáp ứng nhu cầu, nhiệm
vụ cách mạng, nhằm mở rộng, phát huy mạnh mẽ dân chủ ở cơ sở, ngày 18-2-
1998 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 30 CT/TW về thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở. Trên cơ sở Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành nhiều
Nghị định quan trọng về thực hiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở (xã,
phường, thị trấn...). Quy chế đi vào cuộc sống đã tạo ra bầu không khí dân
chủ cởi mở hơn trong xã hội, thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, củng
cố lòng tin của nhân dân vào chế độ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, tình trạng vi phạm quyền dân chủ của nhân dân,
cũng như tình trạng lợi dụng dân chủ, vi phạm kỷ cương, pháp luật còn xảy ra
ở nhiều nơi. Việc cải cách hành chính, giám sát, kiểm tra thực hiện quy chế
dân chủ còn hạn chế.
Trong cuốn “Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” [3],
tác giả Lương Gia Ban nhấn mạnh quan điểm của Lênin, cho rằng muốn thực
hiện một nền dân chủ thực sự cho những người lao động, một mặt, phải tăng
cường chuyên chính vô sản để bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động; mặt
khác, phải làm thế nào để cho quần chúng nhân dân lao động tham gia một
cách đông đảo vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, vì nếu không
tổ chức cho toàn dân tham gia quản lý một cách dân chủ những tư liệu sản
18
xuất đã tước đoạt của giai cấp tư sản thì không thể thực hiện được những biện
pháp cách mạng. Từ đó, rút ra những bài học và ý nghĩa lịch sử từ di sản tư
tưởng quý báu của V.I. Lênin và Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đây là cơ sở hữu ích để tác
giả luận án tiếp thu, tích luỹ kiến thức, đào sâu nghiên cứu thực hiện luận án.
Đề tài khoa học cấp Bộ "Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay" của Nguyễn Thị Ngân (chủ
nhiệm) [68]. Từ việc khảo sát điều tra, đánh giá công tác thực trạng triển khai
thực hiện QCDC ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, sơ kết giai đoạn 1998-
2001, các tác giả khẳng định tính thiết thực của phương châm "dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra", coi việc tiếp tục hoàn thiện, thực hiện QCDC cơ
sở (xã, phường, thị trấn) nhất là ở địa bàn nông thôn là bước đột phá trong
quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta; đồng thời, các tác giả cũng
nêu một số giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân
chủ ở cơ sở góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây
dựng nông thôn mới.
Trong bài "Phát huy quyền lực chính trị của dân trong thực hiện dân
chủ ở cơ sở"[81], tác giả Hoàng Đức Sơn cho rằng: việc thực hiện dân chủ ở
cơ sở gắn bó chặt chẽ với quá trình thực thi quyền lực chính trị của nhân dân.
Quyền lực chính trị của dân được xây dựng trên nền tảng khối đại đoàn kết
toàn dân, được tập hợp, tổ chức và dẫn dắt bởi hệ thống chính trị, trong đó
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo. Do vậy, để phát huy quyền lực
chính trị của dân cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh
toàn diện, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, tiếp tục thực hiện tốt QCDC ở cơ sở (nay là
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn).
Nhận xét chung, các công trình nêu trên đã khái quát, đánh giá thực
trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay, nhất
19
là từ sau khi ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Về
những thành tựu chủ yếu, hầu hết các công trình nghiên cứu cho rằng, nhận
thức và thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được nâng lên một bước. Cán bộ và
người dân đều hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của phát huy dân chủ ở cơ
sở. Nhờ thực hiện phát huy dân chủ, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội ở nông thôn có chuyển biến tích cực. Bên cạnh những thành tựu, các công
trình trên cũng chỉ ra một số, hạn chế chủ yếu, như một bộ phận nhân dân còn
thờ ơ với vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở; việc thực hiện quy chế chưa nghiêm
dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp ở nông thôn; một bộ phận
lợi dụng các quyền dân chủ dẫn đến vi phạm pháp luật, gây mất trật tự ở nông
thôn... Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan;
trong đó, có một số nguyên nhân chủ yếu như trình độ phát triển kinh tế - xã
hội ở nông thôn còn thấp, không đồng đều; ảnh hưởng từ tàn dư tư tưởng
phong kiến, các thiết chế truyền thống ở nông thôn; hệ thống văn bản còn
chồng chéo; năng lực của một bộ phận cán bộ cơ sở còn bất cập...
1.1.3. Những nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò của nhân
dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở hiện nay
Để phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở trong thời gian sắp tới, trong bài “Không ngừng phát huy dân chủ ở cơ
sở, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số
139 (7/2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo thực hiện năm nhóm
giải pháp cụ thể là: (1) Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa các
quan điểm chỉ đạo của Đảng, nhất là Chỉ thị 30-CT/TW và Kết luận 120-
KL/TW; (2) Các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật
được thực thi có hiệu quả; (3) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
20
chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, nhất là
những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân; (4) Phát
huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở; (5) Nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền để
nâng cao nhận thức của nhân dân, giúp người dân tự giác thực thi pháp luật và
thực hiện tốt dân chủ trực tiếp theo quy định của pháp luật [93, tr. 8-9].
Cùng mục tiêu trên, tác giả Lê Thi đề xuất một số giải pháp như: Bản
thân người dân cần có ý thức giữ gìn trật tự công cộng, biết tôn trọng pháp
luật, thực thi đúng pháp luật, có tinh thần dám phê phán, tố cáo, ngăn chặn
những hoạt động tiêu cực, vi phạm pháp luật, khắc phục thái độ né tránh, thờ
ơ, bỏ mặc vì sợ liên lụy đến bản thân [86, tr. 21].
Tác giả Huỳnh Đảm, trong công trình Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đã đề xuất năm nhóm giải pháp để nâng
cao chất lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở là: (1) Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, giáo dục, quán triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở
cơ sở; (2) Nâng cao trình độ dân trí nói chung, đặc biệt là kiến thức pháp luật
để nhân dân hiểu biết quyền và nghĩa vụ của mình, có ý thức sống và làm việc
theo Hiến pháp, pháp luật; (3) Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận cần phối hợp
chặt chẽ, thường xuyên trong tổ chức, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; (4)
Gắn xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của địa phương [Xem: 16, tr.24-26].
Tác giả Nguyễn Văn Hiển, trong công trình “Về thi hành Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007” [31], đề xuất một số giải
pháp sau: (1) Hoàn thiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
và các văn bản pháp luật khác có liên quan; (2) Xây dựng, hoàn thiện một số
đạo luật làm cơ sở cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; (3) Nâng cao năng lực
21
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cơ sở; (4) Nâng cao hiệu quả công
tác tuyên truyền.
Trong đó, tác giả kiến nghị: “Trong thời gian sắp tới, để tổ chức thực hiện
Hiến pháp năm 2013, nâng cao chất lượng, bảo đảm quyền dân chủ ở cấp xã của
công dân, cần nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm
2007 lên thành Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” [31, tr. 295-
296]. Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nên tiếp tục ghi nhận các
nội dung cơ bản của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 2007,
đặc biệt là nhóm các quyền thực hiện dân chủ của người dân (công khai, bàn
bạc, quyết định, giám sát). Bên cạnh đó, Luật thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn cần bổ sung các nội dung như: Quy định về bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng
tổ dân phố; quy định vấn đề thực hiện dân chủ ở các huyện đảo không có chính
quyền cấp xã; bổ sung các chế tài để xử lý cơ quan không thực hiện/ thực hiện
không đầy đủ các quy định về dân chủ, công khai...[31, tr. 296-297].
Tác giả Nguyễn Hồng Chuyên trong công trình “Thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” cho rằng: Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã theo hướng xây dựng, ban hành Luật
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Luật này cần tập trung vào các nội
dung: (i) Kế thừa các quy phạm pháp luật phù hợp, đã được thực tiễn kiểm
nghiệm trong quá trình thực hiện Pháp lệnh 34/PL/2007; (ii) Mở rộng hơn
nữa nội dung các quyền dân chủ của công dân, trao cho nhân dân địa phương
quyền được bàn và quyết định trực tiếp nhiều hơn các vấn đề, nội dung liên
quan thiết thực đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội và lợi ích chung của cộng
đồng; (iii) Bổ sung các hình thức công khai những nội dung nhân dân phải
được biết như phát miễn phí tài liệu tới từng hộ gia đình để người dân có thời
gian đọc, nắm bắt kỹ hơn nội dung thông tin... [10, tr. 331-333].
22
Đồng ý kiến trên, tác giả Đỗ Văn Dương trong công trình “Thực hiện
pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên
thời kỳ đổi mới” cho rằng, Pháp lệnh 34/2007/UBTVQH11 vẫn còn hạn chế
với tầm vóc của vấn đề, nếu cứ để hình thức Pháp lệnh thì tính ổn định không
cao và giá trị pháp lý thấp hơn luật. Do vậy, cần phải nâng Pháp lệnh thực
hiện dân chủ thành bộ luật để bảo vệ tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân,
đảm bảo tính hiệu lực và tính khả thi cao trong thực tiễn [15; tr. 218-219].
Tác giả Lưu Ngọc Tố Tâm trong công trình: “Một số giải pháp phát
huy dân chủ ở cơ sở” [108] đã đề xuất bốn nhóm giải pháp nhằm phát huy
dân chủ cơ sở ở Việt Nam giai đoạn hiện nay là: (1) Tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ,
đảng viên và nhân dân về dân chủ; (2) Lấy mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm tiêu chí thực hiện dân chủ
cơ sở; (3) Xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm dân chủ trong thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; (4) Nâng cao hiệu
quả hoạt động của chế độ thực hành dân chủ trong các cơ quan, đơn vị nhằm
phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức, vai trò của người
đứng đầu đơn vị. Tác giả cho rằng “tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao năng lực của
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, để cán bộ, công chức thực sự là công bộc
của nhân dân; làm việc vì lợi ích của nhân dân, góp phần xây dựng niềm tin
của nhân dân vào Đảng, Nhà nước” [82, tr. 45].
Trong công trình “Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình
đổi mới” [5], tác giả Hoàng Chí Bảo đề xuất một số khuyến nghị chủ yếu để
nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở nông thôn như: (1) “Giáo dục nhận thức
mới về dân chủ như một trọng điểm, trước hết là trong Đảng, trong Nhà nước và
hệ thống chính trị” [5, tr. 250]; (2) Xây dựng hệ thống các văn bản quy định thực
hiện dân chủ theo hướng ngắn gọn, giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ làm” [5, 250-
251]; (3) Chú ý đúng mức đến vai trò của thôn và trưởng thôn; đổi mới căn bản
23
nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ cơ sở ở
nông thôn cho thích hợp với điều kiện hiện nay….
Trong công trình “Tiếp cận và giải quyết công việc cho dân trong tiến
trình đổi mới” [85], tác giả Nguyễn Văn Thâm cho rằng, để nâng cao chất
lượng giải quyết công việc cho dân, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ
sau: (1) Đổi mới nhận thức về cách tiếp cận và giải quyết công việc cho dân;
(2) Đổi mới cơ chế và hình thức tiếp cận và giải quyết công việc cho dân; (3)
Hoàn thiện các cơ sở pháp lý về tiếp cận và giải quyết công việc cho dân; (4)
Nâng cao nhận thức, năng lực của cán bộ tham gia hoạt động tiếp cận và giải
quyết công việc cho dân… [Xem: 85, tr. 173-230].
Tác giả Nguyễn Dương Hùng trong công trình “Kiện toàn hệ thống
chính trị ở xã nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân vùng đồng bằng
sông Hồng hiện nay” [35], đã đề xuất ba nhóm giải pháp để kiện toàn hệ
thống chính trị, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân vùng đồng bằng sông
Hồng gồm: (1) Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; (2)
Hoàn thiện hệ thống pháp luật; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở và
nâng cao các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của hệ thống chính trị.
Trong bài viết “Ý nghĩa của Quy chế dân chủ cơ sở với phát triển kinh tế
- xã hội” [83], tác giả Đỗ Thị Thạch đã làm rõ những tác động tích cực của
Quy chế dân chủ cơ sở đối với phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, nhất là ở
các vùng nông thôn qua 8 năm thực hiện. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến vai
trò chủ thể quyền lực nhân của dân được phát huy, sự đổi mới trong hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ngày càng rõ nét hơn…
Trong bài “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Hưng Yên” [70], sau khi
đánh giá kết quả khảo sát thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở ở Hưng Yên giai
đoạn từ năm 1998 đến năm 2012, Tác giả Đức Nhuận đã chỉ ra những thành
tựu, hạn chế và đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu: (1) Tăng cường công
24
tác lãnh đạo của cấp ủy cơ sở về thực hiện pháp lệnh dân chủ; (2) Gắn thực
hiện dân chủ cơ sở với các nhiệm vụ chính trị của địa phương; (3) Phát huy
tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên; (4) Phát huy vai trò các tổ
chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở.
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết trong bài “Thực hiện pháp luật về dân chủ
trên địa bàn huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên hiện nay” [94], đề xuất năm
nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ cấp xã ở huyện Kim
Động là: (1) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ; (2) Tăng cường sự
lãnh đạo của cấp ủy đảng về thực hiện dân chủ; (3) Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân chủ; (4) Nâng cao chất lượng hoạt
động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc cấp xã; (5) Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
Đánh giá chung: Các tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp cụ thể khác nhau,
trong đó tập trung vào bốn nhóm giải pháp cơ bản sau: Trước hết, phải nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ trong cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân; thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống các văn bản
quy định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhất là các văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước; thứ ba, phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; thứ
tư, nâng cao trình độ dân trí nói chung, hiểu biết pháp luật của nhân dân về dân
chủ nói riêng. Đây là những tư liệu rất cần thiết để tác giả tham khảo trong
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của nhân dân trong thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
1.2. GIÁ TRỊ THAM KHẢO CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ VÀ
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU MỚI CỦA LUẬN ÁN
1.2.1. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố đối với tác
giả luận án
Một là, các công trình đã công bố có liên quan đến chủ đề dân chủ cơ
sở đã bước đầu làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản như: Nhân dân, vai trò
25
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; Quy chế dân chủ cơ sở, những
nội dung chủ yếu của Quy chế dân chủ cơ sở; sự phát triển nhận thức về Quy
chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; những nhân tố chủ yếu ảnh
hưởng đến vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở... Đặc biệt, một
số công trình đã phân tích khá sâu sắc nội dung các quyền được biết, được
bàn, được kiểm tra, giám sát của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở.
Hai là, các công trình đã đánh giá kết quả thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở ở Việt Nam nói chung, tỉnh Hưng Yên nói riêng qua 20 năm thực hiện
Chỉ thị 30/CT-TW; chỉ ra những thành tựu cơ bản như: Nhận thức về Quy chế
dân chủ cơ sở của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng tăng lên; việc
thực hiện dân chủ đã từng bước đi vào nền nếp; nhân dân đã tích cực, chủ
động tham gia bàn bạc, quyết định, giám sát các công việc ở cơ sở... Các công
trình nghiên cứu cũng khẳng định, nhờ thực hiện dân chủ ở cơ sở nên đời
sống kinh tế ngày càng phát triển, chính trị - xã hội được bảo đảm, mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước ngày càng bền chặt.
Ba là, các công trình đã công bố chỉ ra một số quan điểm, giải pháp
nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
như: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về dân
chủ; hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ cơ sở; đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội tạo nền tảng vật chất thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; tăng cường
công tác lãnh đạo của cấp ủy cơ sở...
Những kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đã công bố
được tác giả trân trọng kế thừa trong luận án.
Những khoảng trống mà các công trình hiện có chưa làm được: Một là,
chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về vai trò của nhân dân trong thực
hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Hầu hết các nghiên cứu chỉ nghiên cứu chung về
thực hiện quy chế hay pháp luật dân chủ cơ sở. Trong đó, đánh giá về vai trò
26
của nhân dân chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu. Hai là, chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò của nhân dân trong
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay trên phương diện
triết học. Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật
dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên, nhưng đây là những công trình nghiên cứu
trên phương diện luật học và bàn chung về thực hiện pháp luật dân chủ ở tỉnh
Hưng Yên, chứ chưa đi sâu nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên. Hiện cũng chưa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu nội dung, hình thức, thực trạng vai trò của nhân dân trong
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên. Đây chính là nội dung mới
mà luận án triển khai thực hiện.
1.2.2. Nội dung nghiên cứu mới của luận án
Một là, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò của nhân dân trong
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Trong đó, tác giả sẽ làm rõ nội dung, hình
thức và những nhân tố tác động đến vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, đánh giá thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Hưng Yên từ năm 1998 đến nay; chỉ rõ
những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt ra.
Ba là, đề xuất một số quan điểm, nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục
phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh
Hưng Yên trong thời gian sắp tới.
27
Tiểu kết chương 1
Vấn đề dân chủ và phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở được xác định là một trong những vấn đề lớn cả về lý luận
và thực tiễn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đề tài này
đã được nhiều nhà khoa học, quản lý nghiên cứu trên nhiều phương diện khác
nhau, như triết học, chính trị học, xã hội học, luật học...
Các công trình nghiên cứu tập trung vào phân tích, đánh giá những nội
dung cơ bản như quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nguồn gốc,
bản chất, chức năng của dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; quá
trình hình thành và sự phát triển nhận thức của Đảng về thực hiện dân chủ
trong thời kỳ đổi mới; những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thực hiện dân
chủ ở cơ sở. Nhiều công trình nghiên cứu đã đánh giá những thành tựu, hạn
chế trong việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; một số công
trình nghiên cứu các kinh nghiệm trong việc phát huy dân chủ cơ sở, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở một số quốc gia trên thế giới.
Trong các công trình đã công bố, đã có một số công trình nghiên cứu
việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên gần đây. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu đó được thực hiện trên phương diện luật học và nghiên cứu
thực hiện quy chế dân chủ nói chung, chưa có công trình nào nghiên cứu về
vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trên phương diện
triết học. Đây là nội dung mà luận án sẽ tập trung nghiên cứu.
28
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ
CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
CƠ SỞ Ở VIỆT NAM
2.1. VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ CƠ SỞ - KHÁI NIỆM, MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm nhân dân, vai trò của nhân dân
"Nhân dân" trong tiếng Hy Lạp là “demos”, trong tiếng Anh là
“People”, về cơ bản được giải thích là cộng đồng người sinh sống trong một
quốc gia hay khu vực địa lý nhất định. Trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay,
có các khái niệm tương đồng như: Dân, quần chúng nhân dân, người dân…
Đây là khái niệm được dùng trong nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn
khác nhau.
Trong Từ điển Triết học (1986), các học giả Liên Xô tiếp cận khái niệm
nhân dân theo các nghĩa: Thứ nhất, theo nghĩa thông thường, nhân dân là “cư
dân của một quốc gia, của một nước” [95, tr. 401], tức toàn bộ những người
thực hiện hoạt động sinh sống của mình trong phạm vi một cộng đồng xã hội
nhất định. Tuy nhiên, chỉ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khái niệm "nhân dân"
mới bao quát toàn bộ dân cư, tất cả các nhóm xã hội của nó. Bởi vì, trong các
xã hội có đối kháng giai cấp, dân cư bao gồm trong đó cả giai cấp, tầng lớp
thống trị - bộ phận không thể nằm trong thành phần nhân dân. Thứ hai, với
nghĩa khoa học chặt chẽ, nhân dân là: “cộng đồng người thay đổi trong lịch
sử, bao gồm một bộ phận, những tầng lớp, những giai cấp của dân cư mà theo
địa vị khách quan của mình, có khả năng cùng nhau tham gia giải quyết
những nhiệm vụ phát triển tiến bộ của một nước trong một thời kỳ nhất định”
[95, tr.401]. Theo V.I.Lênin, khi dùng danh từ "nhân dân", C.Mác đã gộp vào
29
danh từ ấy những thành phần nhất định, có khả năng làm cách mạng đến
cùng. Nhân dân bao gồm những người sản xuất trực tiếp - những người lao
động, các nhóm dân cư không bóc lột - với tư cách là những thành phần chủ
yếu của mình, tuy nhiên, không phải lúc nào nhân dân cũng có thể được quy
vào những giai cấp và tầng lớp đó. Trong tiến trình phát triển xã hội, khi tiến
hành những cải cách cách mạng nhất định, bản thân những nhiệm vụ khách
quan, nội dung của cách mạng cũng thay đổi, cho nên cả thành phần xã hội
của các tầng lớp tạo nên nhân dân trong giai đoạn đó cũng không thể không
thay đổi. Tính tiến bộ, cách mạng - tiêu chí quan trọng để xác định thành phần
nhân dân - không phải là bất biến ở mỗi người, bộ phận người, giai cấp, tầng
lớp. Một bộ phận người dù trước đó tiến bộ nhưng một khi trở nên phản động
thì bị loại trừ khỏi thành phần nhân dân; trái lại, từ phản động trải qua quá
trình cải biến sâu sắc, triệt để, trở thành lực lượng tiến bộ, có chung lợi ích
với đông đảo bộ phận khác trong xã hội thì được đưa vào thành phần nhân
dân. Thứ ba, với tính cách là một phạm trù xã hội học, “nội dung của khái
niệm nhân dân phản ánh sự thay đổi kết cấu xã hội của xã hội” [95, tr. 401].
Trong xã hội công xã nguyên thủy, sự khác nhau giữa các thuật ngữ “dân cư”
và “nhân dân” là không có ý nghĩa đáng kể. Còn trong các hình thái kinh tế -
xã hội có đối kháng giai cấp, sự khác nhau này hết sức quan trọng, bởi vì diễn
ra sự chia rẽ ngày càng sâu sắc giữa các nhóm dân cư thống trị, bóc lột với
đông đảo quần chúng nhân dân.
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, do Nguyễn Như Ý chủ biên, nhân dân
được hiểu là "bộ phận gồm đông đảo những người thuộc nhiều giai cấp, tầng
lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là những người lao động, phân biệt với bộ phận
khác là giai cấp và tầng lớp thống trị xã hội" [103, tr.1238]. Quan niệm này kế
thừa cách tiếp cận nhân dân theo quan điểm mác-xít, đó là xem xét nhân dân
trong mối quan hệ với địa vị xã hội (thống trị và bị thống trị). Tuy nhiên, trong
điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với mục tiêu, lý tưởng xây
30
dựng xã hội dân chủ, công bằng; với quan điểm cán bộ, đảng viên là người đầy
tớ của nhân dân, thì việc xác định nhân dân như trên cần phải được bổ sung,
điều chỉnh. Hơn nữa, ngay cả những người làm việc trong cơ quan công quyền
- cán bộ, công chức, viên chức,... – thì không phải lúc nào họ cũng tồn tại với
tư cách và vị thế đó. Khi không thực thi công vụ, trong sinh hoạt đời thường thì
họ cũng tồn tại với tư cách công dân, một thành phần trong nhân dân.
Trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau, khái niệm
nhân dân cũng được hiểu khác nhau. Trong khoa học pháp lý, nhân dân tương
đồng với khái niệm công dân là những người mang quốc tịch và được bảo hộ
của một nhà nước nơi họ sinh sống.
Trong khoa học chính trị, nhân dân là khái niệm dùng để chỉ địa vị
pháp lý của người dân trong một nước dân chủ, khác với “thần dân”, “thảo
dân” trong xã hội phong kiến.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, từ rất sớm, cả ở phương Đông lẫn
phương Tây, đều đề cập đến "nhân dân" như là khái niệm cơ bản trong hoạt
động chính trị. Các triều đại phong kiến Trung Quốc xem "nhân dân" là một
tập hợp người được xác định bởi địa vị bị trị trong mối quan hệ với giai cấp
phong kiến thống trị. Nói cách khác, nhân dân là tập hợp những người trong
xã hội mà đặc điểm lớn nhất là không nắm giữ quyền lực chính trị, không làm
việc trong bộ máy triều đình, không thừa hưởng vị thế xã hội từ quan hệ huyết
thống với người nắm giữ quyền lực chính trị. Quan niệm này tiến bộ hơn so
với thời chiếm hữu nô lệ ở chỗ đã xác định được nhân dân với hai đặc điểm:
Chiếm số đông và là lực lượng lao động sản xuất chính trong xã hội. Tuy
nhiên, hạn chế cơ bản của quan niệm này là lấy quan hệ đẳng cấp làm tiêu chí
quan trọng nhất để xác định nhân dân và xem nhẹ vai trò của nhân dân.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, cụ thể ở Hy Lạp và La Mã, nhân dân
được xem là một tập hợp bao gồm trong đó thành phần chủ yếu là chủ nô,
tăng lữ, thương gia, trí thức và dân tự do. Người nô lệ chiếm đa số và là lực
31
lượng lao động chính của xã hội không được xem là thành phần trong nhân
dân. Quan niệm này chọn lọc những thành phần riêng biệt trong toàn thể xã
hội, không tùy thuộc vào số lượng hay vai trò đối với lao động sản xuất như
thế nào, mà dựa trên quan niệm đẳng cấp của giới cầm quyền, để đưa vào
thành phần cấu thành tập hợp người được gọi là nhân dân. Với quan niệm
này, nhân dân không phải là lực lượng chiếm số đông, càng không phải là lực
lượng lao động chính của xã hội. Đó là tập hợp những người giữ địa vị thống
trị (chủ nô) và những người được hưởng quyền lợi từ quan niệm đẳng cấp của
giai cấp thống trị đó (dân tự do).
Quan niệm về nhân dân của các học giả tư sản: Từ thời Cận đại đến
nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân dân và vai trò của nhân dân.
Tựu trung lại, phần đông sử dụng khái niệm nhân dân thường với nghĩa chỉ
chung cho toàn thể thành viên trong xã hội giới hạn bởi chủ quyền quốc gia
dân tộc - quốc dân - hay chỉ các thành viên trong xã hội được giới hạn bởi
quyền công dân do pháp luật quy định - công dân.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp cận phạm trù "nhân
dân" dưới góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử. "Nhân dân" không phải là phạm
trù “nhất thành bất biến” mà có sự thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội
và tương quan lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp ở mỗi quốc gia. C.Mác
và Ph.Ăngghen xem nhân dân là cộng đồng xã hội nhất định mà các thành
viên trong đó được gắn kết với nhau bởi lợi ích chung. Đó là quần chúng
đông đảo những người bị trị so với thiểu số giai cấp thống trị. Theo nghĩa đó,
V.I.Lênin cho rằng: "quần chúng là toàn bộ những người lao động và những
người bị tư bản bóc lột" [42, tr.235]; "... quần chúng là đa số, và hơn nữa
chẳng những chỉ là đa số công nhân, mà là đa số tất cả những người bị bóc
lột" [42, tr.38]. Cũng theo quan điểm của V.I.Lênin, trong mỗi giai đoạn lịch
32
sử, ở điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, phạm trù nhân dân bao gồm các giai
cấp, tầng lớp đóng vai trò tiến bộ, cách mạng.
Quan niệm về nhân dân của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin có những đặc điểm nổi bật sau:
Một là, trong khi chỉ ra nhân dân là cộng đồng người đông đảo của xã
hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không xem thành phần cấu
thành cộng đồng đó là một khối đồng nhất. V.I.Lênin cho rằng: “Khi dùng
danh từ “nhân dân”, Mác không thông qua danh từ ấy xoá mờ mất sự khác
biệt về giai cấp..." [40, tr.159]. Cụ thể hơn, nhân dân là cộng đồng người có
sự khác nhau về thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp,... Nhân
dân là khái niệm vừa mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp; là khái niệm
có ý nghĩa chính trị, nói về một xã hội đã phân chia thành giai cấp, các tập
đoàn người có địa vị và lợi ích khác nhau. Mặc dù khẳng định có sự khác biệt
dẫn đến nhân dân không phải là khối đồng nhất, nhưng các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin không vì thế mà xem nhẹ tính thống nhất. Đó là cộng
đồng có sự khác biệt nhưng được gắn kết thống nhất bởi nhiều yếu tố.
Hai là, yếu tố chủ yếu gắn kết các thành phần để tạo nên cộng đồng
nhân dân là sự tương đồng về địa vị kinh tế - xã hội. Ở nhiều quan niệm,
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin xác định trên nghĩa chung nhất nhân dân là tất
cả những người bị thống trị, bị bóc lột. Hoàn cảnh đó dẫn đến sự gần gũi về
lợi ích chung, như thế vẫn chưa đủ bởi trong đông đảo những người bị bóc
lột, không phải ai cũng nằm trong thành phần nhân dân. Nhân dân chỉ bao
gồm tất cả những người bị bóc lột đóng vai trò tiến bộ, cách mạng. Những ai
trong số đông người bị bóc lột thể hiện vai trò phản động, phản cách mạng, đi
ngược lại lợi ích chung tiến bộ của đông đảo người trong xã hội thì không
được xem là nhân dân. Như vậy, yếu tố tiến bộ, cách mạng cũng được các nhà
kinh điển Mác - Lênin xem trọng khi quan niệm về nhân dân.
33
Ba là, nhân dân vừa được quan niệm trên bình diện chung bao gồm tất
cả các thành phần trong xã hội bị bóc lột, đóng vai trò tiến bộ, cách mạng,
đồng thời không ít lần, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng xác
định nhân dân trong phạm vi hẹp hơn - phạm vi nòng cốt - chỉ gồm những
người lao động, hẹp hơn nữa là những người lao động đông đảo nhất, đóng
vai trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Với C.Mác và
Ph.Ăngghen, đó là công nhân, nông dân. V.I.Lênin thì bổ sung thêm vào đó
một lực lượng mới là binh lính.
Ở Việt Nam, phạm trù "nhân dân" đã được đề cập trong tư tưởng chính
trị từ rất sớm. Các triều đại phong kiến, các nhà tư tưởng, nhà chính trị lớn
đều đề cập, xem nhân dân là bộ phận đông đảo của xã hội đặt dưới sự trị vì
của nhà nước phong kiến.
Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, nhân dân là số đông, là cơ sở của xã
hội, là lực lượng có vai trò quyết định đến việc ủng hộ hay phế truất một triều
đại, một ông vua; là người dân lao động - những người chịu nhiều đau khổ và
bị áp bức bóc lột nhiều nhất không chỉ khi có nạn ngoại xâm mà ngay cả khi
đất nước yên bình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa tinh hoa của tư tưởng tiến bộ
nhất thế giới ngày nay là lý luận Mác - Lênin gắn với thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam, đi đến khẳng định nhân dân, quần chúng là lực lượng
cách mạng cốt yếu. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm nhân dân bao giờ
cũng gắn với một bối cảnh và mục đích cụ thể. Ví như, trong phát động các
phong trào cách mạng, Người hay dùng chữ “nhân dân ta”, “nhân dân ta có
truyền thống yêu nước nồng nàn”; để giải thích với một chủ đề cụ thể, Người
hay dùng các hình tượng cho người nghe dễ hiểu, có lúc Người nói, nhân dân ta
gồm “gái, trai, già, trẻ” của “năm lớp sĩ, nông, công, thương, binh” như là đỉnh
của ngôi sao năm cánh trên Quốc kỳ; cũng có lúc, Người chỉ rõ: “Nhân dân là
34
bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu
nước”; đồng thời Người còn nhấn mạnh nhân dân là nền tảng của quốc dân.
Những người sống và theo chế độ cũ, theo bọn phản động nhưng sau này đã cải
tà quy chính vẫn được xếp vào hàng nhân dân; ngược lại, những kẻ phản bội thì
bị loại ra khỏi thuật ngữ nhân dân mà Người dùng.
Vậy, có thể nói, vì lợi ích cách mạng, vì phục vụ cách mạng, vì nhân
dân, vì dân tộc mà tùy theo thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã sử dụng
danh từ nhân dân rất hợp lý, qua đó, đã góp phần không nhỏ để tập hợp được
đông đảo lực lượng cách mạng và phát huy được sức mạnh của toàn thể dân
tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay luôn tồn tại trong
mối quan hệ máu thịt với nhân dân Việt Nam. Tư tưởng thể hiện xuyên suốt
qua nhiều văn kiện của Đảng là: "Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo,
giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người
đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong
nước hay ở nước ngoài" [24, tr.45]. Như vậy, nhân dân là toàn thể dân tộc,
không phân biệt giai cấp, tầng lớp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo… cùng tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phạm trù "nhân dân" không chỉ gồm cộng đồng
dân cư trên lãnh thổ Việt Nam mà còn gồm cả những người Việt Nam sinh
sống ở nước ngoài. Trong sự đồng thuận, thống nhất, đoàn kết toàn dân, lực
lượng nền tảng, nòng cốt là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức. Quan niệm về dân của Đảng ta hiện nay có thể được xem là một bước
nhảy vọt, một sự biến đổi về chất so với truyền thống lịch sử, phù hợp với thực
tế khách quan và yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại.
35
Từ sự phân tích các quan niệm nhân dân trên đây, trong luận án này,
khái niệm nhân dân được hiểu là toàn thể những người có quyền công dân
đang sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quyền, nghĩa vụ tham gia vào thực
hiện các quy định trong Quy chế dân chủ cơ sở. Với quan niệm như vậy, cán
bộ, công chức, viên chức, đảng viên đều là nhân dân vì họ đều có quyền và
nghĩa vụ tham gia thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
Quan niệm về vai trò của nhân dân:
Theo cách hiểu chung nhất, vai trò là khái niệm dùng để chỉ tác dụng,
chức năng của một bộ phận trong quá trình vận hành của một hệ thống. Trong
giới tự nhiên hay xã hội, mỗi bộ phận nhất định đều có một hay nhiều vai trò cụ
thể. Ví như, vai trò của thổ nhưỡng đối với quá trình sinh trưởng của thực vật;
vai trò của nước trong hệ sinh thái… Xét trong phạm vi xã hội, khái niệm vai
trò dùng để chỉ tác dụng, chức năng của một cá nhân, tổ chức trong quá trình
vận hành của một chỉnh thể xã hội. Ví dụ, vai trò của người hướng dẫn khoa
học trong quá trình thực hiện luận án của nghiên cứu sinh; vai trò của Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong phát triển khoa học Xã hội và nhân văn ở
Việt Nam hiện nay.
Khái niệm vai trò khác với khái niệm nhiệm vụ, nhiệm vụ chỉ công việc
do tập thể (cơ quan, đơn vị, tổ chức) giao cho một cá nhân hay tổ chức phải
làm theo một mục đích trong một thời gian nhất định.
Trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, vai trò thường hay nhấn mạnh
đến nhân dân - người thực hiện; còn nhiệm vụ thường hay nhấn mạnh đến cán
bộ - người lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Trong xã hội, vai trò, nhiệm vụ của cá
nhân, tập thể thường được quy định rõ ràng trong luật hay các quy định, quy
chế cụ thể.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhân dân. Trên cơ
sở thế giới quan duy vật và phép biện chứng, khi đánh giá về đời sống xã hội,
36
chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định
sự phát triển lịch sử. Điều đó được thể hiện ở những mặt sau đây:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là chủ thể trực tiếp sản xuất ra mọi của cải
vật chất, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì, xã hội không thể
thỏa mãn nhu cầu của mình bằng những cái đã có sẵn trong tự nhiên; do vậy, sản
xuất ra của cải vật chất là yêu cầu khách quan. Để duy trì và ngày càng nâng cao
đời sống của mình, con người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất, nếu
không có sản xuất thì xã hội sẽ tiêu vong. Trong quá trình lao động sản xuất, lực
lượng sản xuất cơ bản là quần chúng nhân dân lao động (gồm cả lao động chân
tay và lao động trí óc). Hiện nay, khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ và
được coi là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, thực
tiễn hoạt động sản xuất của loài người cho thấy quần chúng nhân dân mới là cơ
sở và động lực của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Quần chúng nhân dân là lực
lượng sản xuất cơ bản của xã hội, nền sản xuất của một xã hội sẽ bị sa sút và
kém hiệu quả nếu như tài năng, trí tuệ của quần chúng nhân dân không được
phát huy.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn hóa,
tinh thần. Quần chúng nhân dân không chỉ đóng vai trò quyết định trong sản
xuất vật chất, trong cách mạng xã hội mà còn đóng vai trò to lớn trong sự
nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật, khoa học, đồng thời áp dụng những
thành tựu đó vào trong thực tiễn. Những thành tựu về văn học, nghệ thuật, khoa
học, quân sự, kinh tế… của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc
đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại.
Những sáng tạo văn hóa tinh thần đó đều có quan hệ mật thết với quần chúng
nhân dân. Sở dĩ như vậy là vì, chính hoạt động và cuộc sống sinh động của
quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng vô tận quyết định cho sự ra đời mọi
sáng tác tinh thần trong đời sống xã hội. Chính chủ thể tạo ra những giá trị tinh
37
thần là những người sinh ra từ quần chúng. Họ là tác giả, đồng thời là khán giả
thưởng thức những giá trị tinh thần ấy. Mặt khác, quần chúng nhân dân còn là
người bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa. Các giá trị văn hóa tinh thần
chỉ có thể trường tồn khi nó phản ánh chính đời sống, tâm tư nguyện vọng của
quần chúng, đồng thời kế thừa những tinh hoa văn học dân gian, được quần
chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản, chủ yếu của mọi
cuộc cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng xã
hội. Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn đó
được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng và dẫn tới đấu
tranh giai cấp mà đỉnh cao là cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh,
trong các cuộc cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực
lượng đóng vai trò quyết định mọi thắng lợi. Cách mạng là ngày hội của quần
chúng, là sự nghiệp của quần chúng, không có một chuyển biến chế độ, cách
mạng xã hội nào mà không là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân.
Từ đó cho thấy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần
chúng nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, vừa
là chủ thể của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân.
Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng
mà rất cụ thể. Đó là người nông dân, người công nhân, nhà trí thức, các chiến sĩ
bộ đội, công an, các cháu thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, học sinh, sinh viên, các
bậc phụ lão, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài... Hồ Chí
Minh cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng
nhân dân. Theo Người, nhân dân bao gồm mọi tầng lớp người trong xã hội
cùng có chung một vận mệnh, cuộc sống, tương lai, tiền đồ, truyền thống lịch
sử, nền văn minh, văn hóa. Cho nên, khi đất nước có ngoại xâm, nhân dân có
38
chung một kẻ thù, một nhiệm vụ là cùng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Khi hòa
bình xây dựng đất nước, nhân dân có chung một nhiệm vụ là kiến quốc, bảo vệ,
xây dựng giang sơn gấm vóc ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, Hồ
Chí Minh càng thấm sâu chân lý “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Trong tư tưởng, tình cảm và hành động, Người luôn thể hiện nhất quán chân lý
ấy. Quần chúng cách mạng chính là các tầng lớp nhân dân nước ta mà Hồ Chí
Minh đã tìm thấy sức mạnh to lớn ở họ. Cơ sở của tư tưởng ấy là lòng tin vào
con người của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, nhân dân rất thông minh, sáng
tạo; nhân dân là lực lượng đông đảo của toàn xã hội; nhân dân là người hiểu
biết tất cả; nhân dân là nguồn sức mạnh vô tận ở mọi nơi, mọi lúc. Chính vì thế,
Người cho rằng trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân được hình thành trên
cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và
phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của các
phong trào ấy đều được Người nghiên cứu, rút ra những bài học cần thiết cho
việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng
cách mạng là sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân. Người nhắc nhở,
công tác dân vận của Đảng phải tìm mọi cách giải thích cho từng người dân
hiểu rõ, việc mình làm là vì lợi ích của chính họ, nên họ phải hăng hái làm cho
kỳ được. Người cũng cho rằng làm bất cứ việc gì cũng phải bàn với dân, hỏi ý
kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Đảng phải
lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới
do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của
nhân dân. Nhân dân mới chính là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

What's hot

What's hot (15)

Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhĐề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở quận Sơn Trà
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở quận Sơn TràLuận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở quận Sơn Trà
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở quận Sơn Trà
 
Luận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOT
Luận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOTLuận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOT
Luận văn: Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ, HOT
 
Luận văn thạc sĩ chính sách công thực hiện chính sách người có công với cách ...
Luận văn thạc sĩ chính sách công thực hiện chính sách người có công với cách ...Luận văn thạc sĩ chính sách công thực hiện chính sách người có công với cách ...
Luận văn thạc sĩ chính sách công thực hiện chính sách người có công với cách ...
 
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOTLuận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
Luận văn: Ưu đãi xã hội theo pháp luật Việt Nam tại Đà Nẵng, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc ít người, HOT
 
Luận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAY
Luận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAYLuận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAY
Luận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAY
 
Luận văn: Chính sách ưu đãi đối với người có công tại quận Thanh Xuân
Luận văn: Chính sách ưu đãi đối với người có công tại quận Thanh XuânLuận văn: Chính sách ưu đãi đối với người có công tại quận Thanh Xuân
Luận văn: Chính sách ưu đãi đối với người có công tại quận Thanh Xuân
 
Giao duc phap luat
Giao duc phap luatGiao duc phap luat
Giao duc phap luat
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình ĐịnhLuận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà NẵngLuận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà Nẵng
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
 

Similar to Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

Similar to Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Luận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên
Luận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viênLuận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên
Luận văn: Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên
 
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAYBÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
BÀI MẪU Luận văn chủ nghĩa xã hội khoa học, HAY
 
Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, HAY - Gửi miễn phí q...
Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, HAY - Gửi miễn phí q...Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, HAY - Gửi miễn phí q...
Quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, HAY - Gửi miễn phí q...
 
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình ThuậnLuận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở
Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sởẢnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở
Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xãLuận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
Luận văn: Thực hiện pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã
 
Luận văn: Pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã huyện Thường Tín
Luận văn: Pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã huyện Thường TínLuận văn: Pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã huyện Thường Tín
Luận văn: Pháp luật tiếp công dân của UBND cấp xã huyện Thường Tín
 
Vai trò của hệ thống chính trị trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân - Gử...
Vai trò của hệ thống chính trị trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân - Gử...Vai trò của hệ thống chính trị trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân - Gử...
Vai trò của hệ thống chính trị trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân - Gử...
 
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docÝ thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
 
Luận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAY
Luận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAYLuận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAY
Luận văn: Tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Ủy ban Mặt trận trong thực hiện quy chế dân chủ
Luận văn: Vai trò của Ủy ban Mặt trận trong thực hiện quy chế dân chủLuận văn: Vai trò của Ủy ban Mặt trận trong thực hiện quy chế dân chủ
Luận văn: Vai trò của Ủy ban Mặt trận trong thực hiện quy chế dân chủ
 
Đề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOT
Đề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOTĐề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOT
Đề tài: Tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận Tổ quốc phường, HOT
 
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
 
Luận án: Các tỉnh ủy ở ĐB sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp - Gửi miễn phí...
Luận án: Các tỉnh ủy ở ĐB sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp  - Gửi miễn phí...Luận án: Các tỉnh ủy ở ĐB sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp  - Gửi miễn phí...
Luận án: Các tỉnh ủy ở ĐB sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp - Gửi miễn phí...
 
Các tỉnh ủy ở sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp hiện nay
Các tỉnh ủy ở sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp hiện nayCác tỉnh ủy ở sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp hiện nay
Các tỉnh ủy ở sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp hiện nay
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 

Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN ĐẠI VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN ĐẠI VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS MÃ SỐ: 92.29.002 Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Đình Hòa 2. PGS,TS. Trương Quốc Chính HÀ NỘI - 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Đình Hòa và PGS,TS. Trương Quốc Chính; những kết quả và nội dung của luận án là trung thực; các tài liệu tham khảo có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng 3 năm 2019 Tác giả Nguyễn Văn Đại
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................... 6 1.1. Một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án............................ 6 1.2. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố và nội dung nghiên cứu mới của luận án................................................................ 24 Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM...................... 28 2.1. Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở - khái niệm, một số nội dung cơ bản............................................................. 28 2.2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay ..................... 52 Chương 3: VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA................................................................... 71 3.1. Thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay......................................................... 71 3.2. Một số vấn đề đặt ra hiện nay............................................................ 106 Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY..................................................... 115 4.1. Một số quan điểm định hướng nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay . 115 4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay . 119 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....... 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 151
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BCH: Ban Chấp hành BTV: Ban Thường vụ CNH: Công nghiệp hóa DCCS: Dân chủ cơ sở HĐH: Hiện đại hóa HĐND: Hội đồng nhân dân HTCT: Hệ thống chính trị KCN: Khu công nghiệp MTTQ: Mặt trận Tổ quốc QCDC: Quy chế dân chủ UBMT: Ủy ban Mặt trận UBND: Ủy ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi quần chúng nhân dân là chủ thể, lực lượng chân chính sáng tạo ra lịch sử. Để phát huy vai trò to lớn đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo thực hiện phát huy dân chủ. Ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 30/CT-TW về Quy chế dân chủ ở cơ sở; năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh 34/PL/2007 về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Xét ở phạm vi quốc gia, qua 20 năm thực hiện, dân chủ ở cơ sở đã có những chuyển biến tích cực: “Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân” [25, tr. 167]. Nhờ vậy, kinh tế đất nước phát triển cao, chính trị - xã hội ổn định, niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước ngày càng được tăng cường. Bên cạnh đó, việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở còn một số hạn chế như: “nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế… có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” [25, tr. 168]. Tỉnh Hưng Yên nằm ở vị trí trung tâm của Đồng bằng sông Hồng, có diện tích tự nhiên 930km2 , dân số hơn 1 triệu người. Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh có những chuyển biến khá tích cực. Đó là việc hình thành các khu công nghiệp, dịch vụ, thương mại, như khu công nghiệp Phố Nối - Mỹ Hào, Như Quỳnh - Văn Lâm, Yên Mỹ, Văn Giang, thành phố Hưng Yên, Kim Động…, đời sống vật chất, tinh thần của phần đông người dân Hưng Yên đã được cải thiện.
  • 7. 2 Trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Đề án 01-ĐA/TU ngày 05/5/2011 về Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2011-2020; qua gần 7 năm thực hiện, nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về dân chủ cơ sở được nâng lên. Chính quyền các cấp tích cực thực hiện cải cách hành chính, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khu phố, làng, gia đình văn hóa… Thông qua thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền được tăng cường. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên cũng còn những hạn chế, bất cập như: Thứ nhất, một bộ phận nhân dân chưa chủ động, tích cực thực hiện các quyền được biết, được bàn, kiểm tra, giám sát; nhiều người tỏ ra thờ ơ, thụ động trong tìm hiểu, thực hiện các quyền dân chủ của mình. Thứ hai, hiểu biết pháp luật về các quyền, nghĩa vụ của một bộ phận nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở còn hạn chế; Thứ ba, chất lượng tham gia góp ý, thảo luận của nhân dân với các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội… chưa cao; có tình trạng góp ý qua loa, chiếu lệ, chỉ quan tâm đến những phần việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của mình. Thứ tư, trong thực tế thực hiện, cá biệt còn có tình trạng một số cá nhân lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật. Biểu hiện cụ thể của những hạn chế trên là tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp ở Hưng Yên có biểu hiện ngày càng phức tạp; tình trạng chống người thi hành công vụ, không thực hiện các quyết định hành chính
  • 8. 3 của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đặc biệt đã xuất hiện điểm nóng chính trị - xã hội cục bộ tại các xã Xuân Quang, Phụng Công, Cửu Cao huyện Văn Giang năm 2012 liên quan đến thu hồi đất đai là ví dụ tiêu biểu. Những yếu tố trên đang tác động bất lợi đến phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, ảnh hưởng đến giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong bối cảnh đó, phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trở thành vấn đề có tính chất quyết định. Có thể nói rằng, chưa bao giờ sự nghiệp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Hưng Yên đòi hỏi phải phát huy tối đa sức mạnh của toàn thể nhân dân lại cấp thiết như hiện nay. Đồng thời, chưa bao giờ sức mạnh của nhân dân đòi hỏi nhất thiết phải được xác lập trên cơ sở phát huy sự giác ngộ và khả năng cống hiến của từng thành viên trong cộng đồng như hiện nay. Điều này có nghĩa, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, việc phát huy cho được vai trò của quần chúng nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ phải được xem là yếu tố chiến lược, quyết định sự thành công của mục tiêu đưa Hưng Yên trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn chủ đề “Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; luận án đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
  • 9. 4 2.2. Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Một là, tổng quan một số công trình tiêu biểu đã công bố liên quan đến đề tài luận án; Hai là, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay; Ba là, phân tích thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên từ năm 1998 đến nay và những vấn đề đặt ra; Bốn là, đề xuất một số quan điểm, nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân tỉnh Hưng Yên trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong thời gian tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu vai trò của nhân dân tỉnh Hưng Yên trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Hiện nay, có nhiều loại hình cơ sở khác nhau, như doanh nghiệp nhà nước; cơ quan, đơn vị, trường học; xã, phường, thị trấn… Luận án chỉ nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn (theo Pháp lệnh 34/PL/2007-UBTVQH) Về không gian: Tỉnh Hưng Yên (01 thành phố, 09 huyện, 161 xã, phường, thị trấn) Về thời gian: Từ năm 1998 (khi ban hành Chỉ thị 30/CT-BCT) đến nay. 4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
  • 10. 5 Nam; Tỉnh ủy Hưng Yên về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Đồng thời, luận án có kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đi trước đã được công bố có liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, điều tra - khảo sát, thống kê - so sánh, sàng lọc số liệu, tổng kết thực tiễn… 5. Những đóng góp mới của luận án Thứ nhất, nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay trên phương diện triết học; Thứ hai, đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án - Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; - Luận án cung cấp cơ sở lý luận, khoa học cho việc hoạch định chính sách, pháp luật về phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay; - Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy các chuyên đề liên quan đến vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh, Trường Cao đẳng sư phạm Hưng Yên, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thành phố trong tỉnh. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các công trình của tác giả đã công bố, luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
  • 11. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận chung về vai trò của nhân dân, Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Dân chủ nói chung, Quy chế dân chủ cơ sở nói riêng là những phạm trù được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu chủ đề này không chỉ có ý nghĩa góp phần làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan, bản chất, cách thức thực hành dân chủ, mà còn xây dựng lý luận để soi đường, chỉ đạo thực tiễn, cung cấp luận cứ khoa học cho việc ban hành chủ trương, chính sách thực hiện dân chủ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân như: Lê Duẩn, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” [14]; Phạm Văn Đồng “Học tập quan điểm nhân dân, quan điểm quần chúng của Hồ Chủ tịch” [26]; Việt Tiến, “Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong Hiến pháp 2013” [89]; Vũ Lân, “Để quần chúng nhân dân tham gia tốt hơn vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” [39]... Trong các công trình này, các tác giả đã làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung, ở Việt Nam hiện nay nói riêng. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trong công trình “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” khẳng định, quần chúng nhân dân là phạm trù mang tính lịch sử, trong các thời kỳ khác nhau thì lực lượng quần chúng cũng khác nhau. Theo tác giả, tính đặc thù của quần chúng nhân dân ở Việt Nam chủ yếu là
  • 12. 7 nông dân. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 là cuộc nổi dậy của toàn dân, nhưng lực lượng chủ yếu là nông dân. Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong cuốn “Học tập quan điểm nhân dân, quan điểm quần chúng của Hồ Chủ tịch” cho rằng, quan điểm nhân dân của Hồ Chủ tịch là đồng nhất với quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Với sự vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam đoàn kết chiến đấu để giữ vững thành quả cách mạng. Tác giả làm rõ vai trò của nhân dân theo quan điểm của Người là tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh, năng lực sáng tạo, cách mạng của quần chúng nhân dân. Để phát huy sức mạnh của nhân dân, Đảng, Nhà nước phải biết huy động, tổ chức, lãnh đạo nhằm thực hiện những nhiệm vụ cách mạng thích hợp với từng giai đoạn, từng địa phương, từng ngành công tác. Tác giả Việt Tiến trong bài “Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong Hiến pháp 2013” cho rằng, Hồ Chí Minh là người có tư tưởng đầy đủ, đúng đắn về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân; coi nhân dân là lực lượng có sức mạnh vô tận và nguyên nhân thắng lợi của cách mạng. Tư tưởng của Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng. Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng. Khi phân tích vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, tác giả Vũ Lân cho rằng: “Cho đến nay, trong điều kiện, hoàn cảnh, nhất là trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, trong điều kiện Đảng cầm quyền, với những vấn đề cấp bách đặt ra trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì cần có cơ chế, quy chế, quy định cụ thể thống nhất, đồng bộ, bài bản, cụ thể hơn trong công tác này” [39, tr. 60]. Tác giả cũng nhấn mạnh: “Nhưng dù có quy định thế nào chăng
  • 13. 8 nữa, đối tượng giám sát nhất thiết phải có quần chúng nhân dân chứ không phải chỉ có những người đại diện cho quần chúng” [39, tr .63]. Tác giả đề cao vai trò của dân chủ trực tiếp trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước trong điều kiện mới. Một số công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở như: “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [78]; “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Dương Xuân Ngọc [69]; “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Cúc; “Một số vấn đề rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò của “Dân” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” của Phạm Ngọc Quang [76]; "Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Đào Trí Úc [96]; "Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức trách nhiệm của Nhà nước" của Lê Thi [86]; Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay" của Đỗ Trung Hiếu [33]; “Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên [57]; “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên thời kỳ đổi mới” của Đỗ Văn Dương [15]... Trong các công trình trên, hầu hết các tác giả thống nhất quan điểm cho rằng: dân chủ ở cơ sở là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền tự quyết của mình được tiến hành từ cấp xã xuống đến thôn/ tổ dân phố theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các nội dung có liên quan đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của người dân ở cơ sở bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc và quy định của pháp luật [15, tr. 19]. Tác giả Lê Thi cho rằng, dân chủ ở cơ sở không phải là hình thức, mà là một cấp độ của chế độ dân chủ. Nội dung của dân chủ cơ sở được thể hiện dưới các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Củng cố và mở rộng dân chủ
  • 14. 9 ở cơ sở là một quá trình nâng cao sức mạnh và hiệu quả hoạt động của nhà nước, trước hết ở cấp xã, phường, thị trấn. Đây cũng là quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả tích cực của các cơ quan nhà nước [86, tr. 20]. Về chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra ba laoij chủ thể chủ yếu sau: chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là đảng bộ các cấp từ tỉnh đến xã, nòng cốt là Ban chấp hành đảng bộ, cấp ủy các cấp; chủ thể tổ chức thực hiện là HĐND, UBND, UBMT Tổ quốc các cấp, các cá nhân Chủ tịch UBND xã, trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, công chức cấp xã được giao nhiệm vụ; chủ thể trực tiếp thực hiện là các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn [15, tr. 124-125]. Về nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhiều công trình đã phân tích và chỉ ra một số nội dung chủ yếu sau: Nhân dân thực hiện quyền được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội ở xã, phường, thị trấn; nhân dân được bàn và quyết định một số công việc ở cơ sở; nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định; nhân dân thực hiện quyền giám sát. Về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với phát triển nông thôn, trong cuốn sách “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” [78], tác giả Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông cho rằng, phát huy dân chủ là một trong những động lực chủ yếu để phát triển nông thôn cả trong lịch sử và hiện tại của dân tộc. Cũng trong công trình này, các tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của hệ thống chính trị trong ổn định chính trị, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước ở nông thôn. Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, trong bài viết “Một số vấn đề rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò của “Dân” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” [76], tác giả Phạm Ngọc Quang cho rằng: Xuất phát từ nhận thức mới về
  • 15. 10 vai trò của dân đối với Đảng, đã đến lúc phải khẳng định rằng, tự nó, Đảng không có quyền, mọi quyền lực mà Đảng có được là do nhân dân uỷ quyền cho. Đảng và Nhà nước là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước là cơ chế có hiệu quả nhất. Xét về thực chất, Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tự nó, mọi cơ quan nhà nước không có quyền. Mọi quyền lực nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền cho nó. Mặc dù không trực tiếp bàn tới bản chất mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với Nhân dân làm chủ, song từ phân tích trên đã gợi ý cho luận án hướng nghiên cứu về bản chất của mối quan hệ này, đặc biệt là xác định vị trí của nhân dân trong mối quan hệ. Bàn về vai trò của nhân dân trong giám sát hoạt động của bộ máy Đảng, chính quyền cấp cơ sở, tác giả Đào Trí Úc trong công trình "Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" cho rằng, cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua hai hình thức: Một là, thông qua các tổ chức đại diện như Quốc hội, HĐND, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân…; hai là, nhân dân trực tiếp giám sát. Tuy nhiên, tác giả cũng nhận định trên thực tế, quyền dân chủ, quyền giám sát của nhân dân hiện nay còn mang tính hình thức, do đó, kết quả không đạt được như mong muốn. Về kinh tế, nhìn chung có sự phát triển, nhưng nhịp độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt được yêu cầu đề ra. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn chưa đổi mới thực sự; tình trạng vi phạm dân chủ, tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy đảng, chính quyền vẫn chưa được khắc phục triệt để. Cho nên, cần phải tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước nhưng
  • 16. 11 nhất thiết phải có sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước. Để đạt mục đích đó, các tác giả đã tập trung làm rõ vai trò của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của bộ máy của Đảng và Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị; từ đó, đánh giá đúng thực trạng của các cơ chế và các hình thức giám sát hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị nước ta. Đồng thời nêu ra một số quan điểm, yêu cầu, nguyên tắc và khuyến nghị về xây dựng các cơ chế và hình thức, các căn cứ pháp lý để nhân dân thực hiện có hiệu quả vai trò giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước. Về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, tác giả Lê Thi cho rằng, năng lực làm chủ của người dân không phải tự nhiên mà có. Nó liên quan đến hai vấn đề là quyền được thông tin và trình độ học vấn, sự hiểu biết về xã hội của người dân [xem: 86, tr. 20]. Một số công trình nghiên cứu về cộng đồng làng xã, tâm lý nông dân và tác động của nó đến thực hiện dân chủ cơ sở như: Đỗ Long, “Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân” [45]; Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông, “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” [80]; Lê Hữu Xanh, “Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây dựng đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ nước ta hiện nay” [101]; Đỗ Long, Vũ Dũng (đồng chủ biên), “Tâm lý nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường” [46]; John Kleinen, “Làng Việt - Đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ” [54]; Nguyễn Bình Yên, “Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam hiện nay” [102]; Phạm Giang, “Lấy dân làm gốc ở thời Trần” [27]; Đề tài khoa học cấp Bộ, "Mối quan hệ giữa yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay" (Qua khảo sát một số tỉnh Vùng đồng bằng Bắc Bộ) [37]... Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ căn cứ lý luận trong nghiên cứu tâm lý nông dân; những đặc trưng cơ bản của đời sống làng xã Việt Nam; ảnh hưởng của tâm lý nông dân với thực hiện dân
  • 17. 12 chủ cơ sở. Trong công trình “Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân”, tác giả Đỗ Long đã xem xét nhân cách người nông dân Việt Nam qua các lăng kính đạo đức học và tâm lý học, chỉ ra những hạn chế trong nhân cách này; đồng thời phân tích những biểu hiện mới trong nhu cầu, nhận thức, tình cảm, năng lực, nhóm và chuẩn mực nhóm của nhân cách người nông dân giai đoạn hiện nay. Trong công trình “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay”, các tác giả Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông đã làm rõ một số vấn đề cơ bản về cộng đồng làng xã Việt Nam từ khi hình thành đến nay; mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức trong cải cách hành chính, thực hiện dân chủ ở cơ sở... Đặc biệt, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra một số hạn chế liên quan đến thể chế chính trị ở nông thôn như hiệu lực của thể chế còn yếu kém, thiếu sức mạnh… dẫn đến quyền lực của Nhà nước, của nhân dân, của pháp luật không được tôn trọng. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước chưa phát huy hết hiệu quả, hiệu lực. Nghiên cứu về tâm lý nông dân Việt Nam trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường, các tác giả Đỗ Long, Vũ Dũng trong công trình “Tâm lý nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường” đã cho rằng, “trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường với các nhu cầu của họ về đất đai, về ứng dụng khoa học kỹ thuật, về thuê mướn sức lao động… nhưng do tâm lý bao cấp, tự người nông dân đã đặt ra những rào cản cho mình” [46, 104]. Đồng thời, các tác giả cũng bước đầu làm rõ tâm trạng cũng như các nguyện vọng của nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường. Đây chính là một trong những giai đoạn ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cá nhân và cộng đồng ở nông thôn Việt Nam.
  • 18. 13 Đánh giá về truyền thống dân chủ trong lịch sử Việt Nam, tác giả Phạm Giang, trong công trình “Lấy dân làm gốc ở thời Trần” đã chỉ ra các đặc điểm, hình thức thực hiện dân chủ thời nhà Trần. Tác giả đã khái lược tư tưởng lấy dân làm gốc trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đặc biệt là dưới triều đại nhà Trần, các vua tôi đã biết huy động sức mạnh của dân tộc lúc bấy giờ, tạo nên sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi vĩ đại, ghi vào sử sách nước nhà ba lần đại thắng quân Nguyên Mông. Qua đó, tác giả phân tích và nêu lên tư tưởng của người xưa đã biết vận động, lắng nghe và rất quan tâm đến việc “lấy dân làm gốc”, như việc vua nhà Trần ý thức đặt ra những giới hạn quyền lực của triều đình, đặt ra chức Gián quan... Ít có triều đại phong kiến nào như triều đại nhà Trần đã tổ chức nên Hội nghị Diên Hồng để lấy ý kiến của nhân dân lo cho việc nước, khi đất nước lâm nguy. Hội nghị thể hiện quyết tâm sắt đá kháng chiến vì chính nghĩa của toàn dân trước quân Nguyên Mông xâm lược, biểu hiện sự kết hợp giữa tinh thần bất khuất của nhân dân và vì nhân dân. Ở thời kỳ này, các vua Trần chú trọng lắng nghe ý kiến, tranh thủ sự đồng thuận của đông đảo nhân dân. Vì vậy, “lịch sử khẳng định: Biết đặt quyền lợi nhân dân lên trên, nhà Trần đã thực sự là người đại diện xứng đáng cho dân tộc” [27, tr.114]; “Trần Quốc Tuấn tổng kết: “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước chung sức, giặc phải bị bắt” [27, tr.115] và “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”[27, tr.113]. Có thể khẳng định rằng, ở bất cứ thời nào, các nhà “cầm quyền” biết dựa vào dân, phát huy và huy động sức mạnh từ nhân dân (dân chủ là vô địch) để giữ nước, phát triển đất nước, là biện chứng của phạm trù dân giàu thì nước mạnh, là nguồn gốc của sự ổn định chính trị, làm cho cuộc sống bình yên, toàn dân đoàn kết là tiền đề cho mọi thắng lợi. Từ những khái quát trên có thể thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của quần chúng nhân dân theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có thực hiện dân chủ ở cơ sở.
  • 19. 14 Một số công trình đã làm rõ khái niệm, nội dung, bản chất, sự ra đời Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; tác động của các nhân tố chủ quan, khách quan đến thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, nhất là ở nông thôn. Đây là những tư liệu cần thiết mà tác giả sẽ kế thừa trong quá trình thực hiện luận án. 1.1.2. Những nghiên cứu về thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài “Không ngừng phát huy dân chủ ở cơ sở, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số 139 (7/2018) đã đánh giá một số thành tựu cơ bản qua 20 năm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở như: (1) Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng lên; (2) Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước. Những thành tựu trên là do cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện; sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân [Xem: 93, tr. 6]. Tác giả Trần Quang Nhiếp trong công trình “Nhìn lại mười năm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở” [71] cho rằng, qua mười năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt được những kết quả rất tích cực, góp phần tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm chủ của người dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, khắc phục một phần tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức; đóng góp tích cực vào cải cách hành chính; tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với dân. Tác giả đã chỉ ra bốn thành tựu nổi bật là: (1) Nhận thức của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội về dân chủ và dân chủ trực
  • 20. 15 tiếp của nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; (2) Góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương; (3) Tác động tích cực vào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; (4) Góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ngày càng vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tác giả Nguyễn Văn Hiển trong công trình “Về thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 2007” [31] đã chỉ ra một số thành tựu chủ yếu về phát huy vai trò của người dân như: “Nhận thức của người dân về các quyền dân chủ; năng lực, trách nhiệm của nhân dân trong giám sát, tham gia góp ý kiến cho việc quản lý, điều hành của chính quyền, cán bộ ngày càng cao. Nhân dân ở nhiều địa phương đã tích cực tham gia xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước qua nhiều hình thức khác nhau [31, tr.131-132]. Về những hạn chế, tác giả cũng chỉ ra: Mặt bằng nhận thức của người dân về quy chế dân chủ ở cơ sở còn hạn chế, còn có tâm lý chông chờ, ỷ lại, thụ động trong nhận thức các quyền dân chủ; tình trạng cục bộ lợi ích trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nhiều nơi…[Xem: 31, tr132-133]. Tác giả Nguyễn Hồng Chuyên trong công trình “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [10] đã chỉ ra một số thành tựu và hạn chế trong thực hiện dân chủ ở cơ sở như: Về thành tựu: Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã được quan tâm thực hiện; nhận thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã của cán bộ và nhân dân đã được nâng cao; chính quyền cấp xã đã thực hiện niêm yết, thông báo những nội dung công khai để nhân dân biết... Về hạn chế: công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã chưa đáp ứng được sự mong đợi của cán bộ và nhân dân; kiến thức, hiểu biết của một bộ phận nhân dân về nội dung của pháp luật dân chủ ở cấp xã còn hạn chế; việc thực hiện các nội dung dân biết, dân bàn, dân giám sát ở một số nơi còn mang tính hình thức... [10, tr. 34-42].
  • 21. 16 Tác giả Huỳnh Đảm trong công trình “Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” [16] đã tổng kết bốn thành tựu lớn là: (1) Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và toàn xã hội về dân chủ và dân chủ trực tiếp của nhân dân đã có nhiều chuyển biến tích cực; (2) Góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở; (3) Góp phần tích cực vào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; (4) Góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả [16, tr.18-20]. Tác giả cũng chỉ ra một số hạn chế trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở như: Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết, ý nghĩa của thực hiện dân chủ ở cơ sở cho nên thiếu trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu gương mẫu trong thực hiện Quy chế. Tình trạng phô trương, hình thức trong tổ chức thực hiện Quy chế ở nhiều nơi. Một bộ phận nhân dân có hiểu biết pháp luật, ý thức thực hiện dân chủ còn thấp; tư tưởng tự do, vô tổ chức, bè cánh, dòng họ còn khá nặng nề ; năng lực giám sát của nhân dân còn hạn chế…[Xem 16, tr.20-22]. Tác giả Hà Thị Khiết trong bài “Những bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở" đã chỉ ra bốn thành tựu chủ yếu sau: (1) Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở; (2) Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên; (3) Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức; (4) Góp phần đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội [38, tr.23-26]. Tác giả cũng chỉ ra một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục như: (1) Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi còn bị vi phạm; (2) Việc công khai, minh bạch các chế độ, chính sách, nhất là chế độ, chính sách về nhà đất, tài chính, tài sản, quy hoạch, kế hoạch chưa
  • 22. 17 được nghiêm túc theo quy định; (3) Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, nhận thức và thực hiện Quy chế chưa đồng đều, thiếu trách nhiệm; (4) Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể trong công tác chỉ đạo, kiểm tra còn chưa đồng bộ, chặt chẽ… [38, tr. 26-27] Công trình "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"[11] tác giả Nguyễn Cúc cho rằng, xây dựng một chế độ thật sự do nhân dân lao động làm chủ không chỉ là mục tiêu phấn đấu, mà còn phải được cụ thể hoá từng bước trong cuộc sống hàng ngày, nhằm tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Để đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ cách mạng, nhằm mở rộng, phát huy mạnh mẽ dân chủ ở cơ sở, ngày 18-2- 1998 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 30 CT/TW về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trên cơ sở Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định quan trọng về thực hiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở (xã, phường, thị trấn...). Quy chế đi vào cuộc sống đã tạo ra bầu không khí dân chủ cởi mở hơn trong xã hội, thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân vào chế độ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tình trạng vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như tình trạng lợi dụng dân chủ, vi phạm kỷ cương, pháp luật còn xảy ra ở nhiều nơi. Việc cải cách hành chính, giám sát, kiểm tra thực hiện quy chế dân chủ còn hạn chế. Trong cuốn “Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” [3], tác giả Lương Gia Ban nhấn mạnh quan điểm của Lênin, cho rằng muốn thực hiện một nền dân chủ thực sự cho những người lao động, một mặt, phải tăng cường chuyên chính vô sản để bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động; mặt khác, phải làm thế nào để cho quần chúng nhân dân lao động tham gia một cách đông đảo vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, vì nếu không tổ chức cho toàn dân tham gia quản lý một cách dân chủ những tư liệu sản
  • 23. 18 xuất đã tước đoạt của giai cấp tư sản thì không thể thực hiện được những biện pháp cách mạng. Từ đó, rút ra những bài học và ý nghĩa lịch sử từ di sản tư tưởng quý báu của V.I. Lênin và Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đây là cơ sở hữu ích để tác giả luận án tiếp thu, tích luỹ kiến thức, đào sâu nghiên cứu thực hiện luận án. Đề tài khoa học cấp Bộ "Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay" của Nguyễn Thị Ngân (chủ nhiệm) [68]. Từ việc khảo sát điều tra, đánh giá công tác thực trạng triển khai thực hiện QCDC ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, sơ kết giai đoạn 1998- 2001, các tác giả khẳng định tính thiết thực của phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", coi việc tiếp tục hoàn thiện, thực hiện QCDC cơ sở (xã, phường, thị trấn) nhất là ở địa bàn nông thôn là bước đột phá trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta; đồng thời, các tác giả cũng nêu một số giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Trong bài "Phát huy quyền lực chính trị của dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở"[81], tác giả Hoàng Đức Sơn cho rằng: việc thực hiện dân chủ ở cơ sở gắn bó chặt chẽ với quá trình thực thi quyền lực chính trị của nhân dân. Quyền lực chính trị của dân được xây dựng trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, được tập hợp, tổ chức và dẫn dắt bởi hệ thống chính trị, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo. Do vậy, để phát huy quyền lực chính trị của dân cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, tiếp tục thực hiện tốt QCDC ở cơ sở (nay là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn). Nhận xét chung, các công trình nêu trên đã khái quát, đánh giá thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay, nhất
  • 24. 19 là từ sau khi ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Về những thành tựu chủ yếu, hầu hết các công trình nghiên cứu cho rằng, nhận thức và thực hiện dân chủ ở cơ sở đã được nâng lên một bước. Cán bộ và người dân đều hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của phát huy dân chủ ở cơ sở. Nhờ thực hiện phát huy dân chủ, đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở nông thôn có chuyển biến tích cực. Bên cạnh những thành tựu, các công trình trên cũng chỉ ra một số, hạn chế chủ yếu, như một bộ phận nhân dân còn thờ ơ với vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở; việc thực hiện quy chế chưa nghiêm dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp ở nông thôn; một bộ phận lợi dụng các quyền dân chủ dẫn đến vi phạm pháp luật, gây mất trật tự ở nông thôn... Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan; trong đó, có một số nguyên nhân chủ yếu như trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn còn thấp, không đồng đều; ảnh hưởng từ tàn dư tư tưởng phong kiến, các thiết chế truyền thống ở nông thôn; hệ thống văn bản còn chồng chéo; năng lực của một bộ phận cán bộ cơ sở còn bất cập... 1.1.3. Những nghiên cứu về giải pháp phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở hiện nay Để phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong thời gian sắp tới, trong bài “Không ngừng phát huy dân chủ ở cơ sở, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số 139 (7/2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo thực hiện năm nhóm giải pháp cụ thể là: (1) Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa các quan điểm chỉ đạo của Đảng, nhất là Chỉ thị 30-CT/TW và Kết luận 120- KL/TW; (2) Các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực thi có hiệu quả; (3) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
  • 25. 20 chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, nhất là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân; (4) Phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; (5) Nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của nhân dân, giúp người dân tự giác thực thi pháp luật và thực hiện tốt dân chủ trực tiếp theo quy định của pháp luật [93, tr. 8-9]. Cùng mục tiêu trên, tác giả Lê Thi đề xuất một số giải pháp như: Bản thân người dân cần có ý thức giữ gìn trật tự công cộng, biết tôn trọng pháp luật, thực thi đúng pháp luật, có tinh thần dám phê phán, tố cáo, ngăn chặn những hoạt động tiêu cực, vi phạm pháp luật, khắc phục thái độ né tránh, thờ ơ, bỏ mặc vì sợ liên lụy đến bản thân [86, tr. 21]. Tác giả Huỳnh Đảm, trong công trình Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đã đề xuất năm nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở là: (1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở; (2) Nâng cao trình độ dân trí nói chung, đặc biệt là kiến thức pháp luật để nhân dân hiểu biết quyền và nghĩa vụ của mình, có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật; (3) Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong tổ chức, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; (4) Gắn xây dựng và thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương [Xem: 16, tr.24-26]. Tác giả Nguyễn Văn Hiển, trong công trình “Về thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007” [31], đề xuất một số giải pháp sau: (1) Hoàn thiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các văn bản pháp luật khác có liên quan; (2) Xây dựng, hoàn thiện một số đạo luật làm cơ sở cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở; (3) Nâng cao năng lực
  • 26. 21 lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cơ sở; (4) Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền. Trong đó, tác giả kiến nghị: “Trong thời gian sắp tới, để tổ chức thực hiện Hiến pháp năm 2013, nâng cao chất lượng, bảo đảm quyền dân chủ ở cấp xã của công dân, cần nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 lên thành Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” [31, tr. 295- 296]. Luật về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nên tiếp tục ghi nhận các nội dung cơ bản của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 2007, đặc biệt là nhóm các quyền thực hiện dân chủ của người dân (công khai, bàn bạc, quyết định, giám sát). Bên cạnh đó, Luật thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cần bổ sung các nội dung như: Quy định về bầu Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố; quy định vấn đề thực hiện dân chủ ở các huyện đảo không có chính quyền cấp xã; bổ sung các chế tài để xử lý cơ quan không thực hiện/ thực hiện không đầy đủ các quy định về dân chủ, công khai...[31, tr. 296-297]. Tác giả Nguyễn Hồng Chuyên trong công trình “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cho rằng: Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã theo hướng xây dựng, ban hành Luật thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Luật này cần tập trung vào các nội dung: (i) Kế thừa các quy phạm pháp luật phù hợp, đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá trình thực hiện Pháp lệnh 34/PL/2007; (ii) Mở rộng hơn nữa nội dung các quyền dân chủ của công dân, trao cho nhân dân địa phương quyền được bàn và quyết định trực tiếp nhiều hơn các vấn đề, nội dung liên quan thiết thực đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội và lợi ích chung của cộng đồng; (iii) Bổ sung các hình thức công khai những nội dung nhân dân phải được biết như phát miễn phí tài liệu tới từng hộ gia đình để người dân có thời gian đọc, nắm bắt kỹ hơn nội dung thông tin... [10, tr. 331-333].
  • 27. 22 Đồng ý kiến trên, tác giả Đỗ Văn Dương trong công trình “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên thời kỳ đổi mới” cho rằng, Pháp lệnh 34/2007/UBTVQH11 vẫn còn hạn chế với tầm vóc của vấn đề, nếu cứ để hình thức Pháp lệnh thì tính ổn định không cao và giá trị pháp lý thấp hơn luật. Do vậy, cần phải nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ thành bộ luật để bảo vệ tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo tính hiệu lực và tính khả thi cao trong thực tiễn [15; tr. 218-219]. Tác giả Lưu Ngọc Tố Tâm trong công trình: “Một số giải pháp phát huy dân chủ ở cơ sở” [108] đã đề xuất bốn nhóm giải pháp nhằm phát huy dân chủ cơ sở ở Việt Nam giai đoạn hiện nay là: (1) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ; (2) Lấy mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm tiêu chí thực hiện dân chủ cơ sở; (3) Xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm dân chủ trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; (4) Nâng cao hiệu quả hoạt động của chế độ thực hành dân chủ trong các cơ quan, đơn vị nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức, vai trò của người đứng đầu đơn vị. Tác giả cho rằng “tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, để cán bộ, công chức thực sự là công bộc của nhân dân; làm việc vì lợi ích của nhân dân, góp phần xây dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước” [82, tr. 45]. Trong công trình “Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới” [5], tác giả Hoàng Chí Bảo đề xuất một số khuyến nghị chủ yếu để nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở nông thôn như: (1) “Giáo dục nhận thức mới về dân chủ như một trọng điểm, trước hết là trong Đảng, trong Nhà nước và hệ thống chính trị” [5, tr. 250]; (2) Xây dựng hệ thống các văn bản quy định thực hiện dân chủ theo hướng ngắn gọn, giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ làm” [5, 250- 251]; (3) Chú ý đúng mức đến vai trò của thôn và trưởng thôn; đổi mới căn bản
  • 28. 23 nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ cơ sở ở nông thôn cho thích hợp với điều kiện hiện nay…. Trong công trình “Tiếp cận và giải quyết công việc cho dân trong tiến trình đổi mới” [85], tác giả Nguyễn Văn Thâm cho rằng, để nâng cao chất lượng giải quyết công việc cho dân, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau: (1) Đổi mới nhận thức về cách tiếp cận và giải quyết công việc cho dân; (2) Đổi mới cơ chế và hình thức tiếp cận và giải quyết công việc cho dân; (3) Hoàn thiện các cơ sở pháp lý về tiếp cận và giải quyết công việc cho dân; (4) Nâng cao nhận thức, năng lực của cán bộ tham gia hoạt động tiếp cận và giải quyết công việc cho dân… [Xem: 85, tr. 173-230]. Tác giả Nguyễn Dương Hùng trong công trình “Kiện toàn hệ thống chính trị ở xã nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” [35], đã đề xuất ba nhóm giải pháp để kiện toàn hệ thống chính trị, nâng cao quyền làm chủ của nhân dân vùng đồng bằng sông Hồng gồm: (1) Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; (2) Hoàn thiện hệ thống pháp luật; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở và nâng cao các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của hệ thống chính trị. Trong bài viết “Ý nghĩa của Quy chế dân chủ cơ sở với phát triển kinh tế - xã hội” [83], tác giả Đỗ Thị Thạch đã làm rõ những tác động tích cực của Quy chế dân chủ cơ sở đối với phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, nhất là ở các vùng nông thôn qua 8 năm thực hiện. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đến vai trò chủ thể quyền lực nhân của dân được phát huy, sự đổi mới trong hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ngày càng rõ nét hơn… Trong bài “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Hưng Yên” [70], sau khi đánh giá kết quả khảo sát thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở ở Hưng Yên giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2012, Tác giả Đức Nhuận đã chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu: (1) Tăng cường công
  • 29. 24 tác lãnh đạo của cấp ủy cơ sở về thực hiện pháp lệnh dân chủ; (2) Gắn thực hiện dân chủ cơ sở với các nhiệm vụ chính trị của địa phương; (3) Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên; (4) Phát huy vai trò các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Tác giả Nguyễn Thị Tuyết trong bài “Thực hiện pháp luật về dân chủ trên địa bàn huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên hiện nay” [94], đề xuất năm nhóm giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ cấp xã ở huyện Kim Động là: (1) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ; (2) Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng về thực hiện dân chủ; (3) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dân chủ; (4) Nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc cấp xã; (5) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đánh giá chung: Các tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp cụ thể khác nhau, trong đó tập trung vào bốn nhóm giải pháp cơ bản sau: Trước hết, phải nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhất là các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước; thứ ba, phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; thứ tư, nâng cao trình độ dân trí nói chung, hiểu biết pháp luật của nhân dân về dân chủ nói riêng. Đây là những tư liệu rất cần thiết để tác giả tham khảo trong nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 1.2. GIÁ TRỊ THAM KHẢO CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU MỚI CỦA LUẬN ÁN 1.2.1. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố đối với tác giả luận án Một là, các công trình đã công bố có liên quan đến chủ đề dân chủ cơ sở đã bước đầu làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản như: Nhân dân, vai trò
  • 30. 25 của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; Quy chế dân chủ cơ sở, những nội dung chủ yếu của Quy chế dân chủ cơ sở; sự phát triển nhận thức về Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò của nhân dân trong thực hiện dân chủ cơ sở... Đặc biệt, một số công trình đã phân tích khá sâu sắc nội dung các quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, giám sát của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Hai là, các công trình đã đánh giá kết quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam nói chung, tỉnh Hưng Yên nói riêng qua 20 năm thực hiện Chỉ thị 30/CT-TW; chỉ ra những thành tựu cơ bản như: Nhận thức về Quy chế dân chủ cơ sở của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng tăng lên; việc thực hiện dân chủ đã từng bước đi vào nền nếp; nhân dân đã tích cực, chủ động tham gia bàn bạc, quyết định, giám sát các công việc ở cơ sở... Các công trình nghiên cứu cũng khẳng định, nhờ thực hiện dân chủ ở cơ sở nên đời sống kinh tế ngày càng phát triển, chính trị - xã hội được bảo đảm, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước ngày càng bền chặt. Ba là, các công trình đã công bố chỉ ra một số quan điểm, giải pháp nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở như: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về dân chủ; hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ cơ sở; đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội tạo nền tảng vật chất thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; tăng cường công tác lãnh đạo của cấp ủy cơ sở... Những kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đã công bố được tác giả trân trọng kế thừa trong luận án. Những khoảng trống mà các công trình hiện có chưa làm được: Một là, chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Hầu hết các nghiên cứu chỉ nghiên cứu chung về thực hiện quy chế hay pháp luật dân chủ cơ sở. Trong đó, đánh giá về vai trò
  • 31. 26 của nhân dân chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu. Hai là, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay trên phương diện triết học. Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên, nhưng đây là những công trình nghiên cứu trên phương diện luật học và bàn chung về thực hiện pháp luật dân chủ ở tỉnh Hưng Yên, chứ chưa đi sâu nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên. Hiện cũng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu nội dung, hình thức, thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên. Đây chính là nội dung mới mà luận án triển khai thực hiện. 1.2.2. Nội dung nghiên cứu mới của luận án Một là, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Trong đó, tác giả sẽ làm rõ nội dung, hình thức và những nhân tố tác động đến vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Hai là, đánh giá thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Hưng Yên từ năm 1998 đến nay; chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt ra. Ba là, đề xuất một số quan điểm, nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian sắp tới.
  • 32. 27 Tiểu kết chương 1 Vấn đề dân chủ và phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở được xác định là một trong những vấn đề lớn cả về lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đề tài này đã được nhiều nhà khoa học, quản lý nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau, như triết học, chính trị học, xã hội học, luật học... Các công trình nghiên cứu tập trung vào phân tích, đánh giá những nội dung cơ bản như quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nguồn gốc, bản chất, chức năng của dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; quá trình hình thành và sự phát triển nhận thức của Đảng về thực hiện dân chủ trong thời kỳ đổi mới; những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Nhiều công trình nghiên cứu đã đánh giá những thành tựu, hạn chế trong việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; một số công trình nghiên cứu các kinh nghiệm trong việc phát huy dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở một số quốc gia trên thế giới. Trong các công trình đã công bố, đã có một số công trình nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên gần đây. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đó được thực hiện trên phương diện luật học và nghiên cứu thực hiện quy chế dân chủ nói chung, chưa có công trình nào nghiên cứu về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trên phương diện triết học. Đây là nội dung mà luận án sẽ tập trung nghiên cứu.
  • 33. 28 Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM 2.1. VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ - KHÁI NIỆM, MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN 2.1.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Khái niệm nhân dân, vai trò của nhân dân "Nhân dân" trong tiếng Hy Lạp là “demos”, trong tiếng Anh là “People”, về cơ bản được giải thích là cộng đồng người sinh sống trong một quốc gia hay khu vực địa lý nhất định. Trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay, có các khái niệm tương đồng như: Dân, quần chúng nhân dân, người dân… Đây là khái niệm được dùng trong nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau. Trong Từ điển Triết học (1986), các học giả Liên Xô tiếp cận khái niệm nhân dân theo các nghĩa: Thứ nhất, theo nghĩa thông thường, nhân dân là “cư dân của một quốc gia, của một nước” [95, tr. 401], tức toàn bộ những người thực hiện hoạt động sinh sống của mình trong phạm vi một cộng đồng xã hội nhất định. Tuy nhiên, chỉ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, khái niệm "nhân dân" mới bao quát toàn bộ dân cư, tất cả các nhóm xã hội của nó. Bởi vì, trong các xã hội có đối kháng giai cấp, dân cư bao gồm trong đó cả giai cấp, tầng lớp thống trị - bộ phận không thể nằm trong thành phần nhân dân. Thứ hai, với nghĩa khoa học chặt chẽ, nhân dân là: “cộng đồng người thay đổi trong lịch sử, bao gồm một bộ phận, những tầng lớp, những giai cấp của dân cư mà theo địa vị khách quan của mình, có khả năng cùng nhau tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển tiến bộ của một nước trong một thời kỳ nhất định” [95, tr.401]. Theo V.I.Lênin, khi dùng danh từ "nhân dân", C.Mác đã gộp vào
  • 34. 29 danh từ ấy những thành phần nhất định, có khả năng làm cách mạng đến cùng. Nhân dân bao gồm những người sản xuất trực tiếp - những người lao động, các nhóm dân cư không bóc lột - với tư cách là những thành phần chủ yếu của mình, tuy nhiên, không phải lúc nào nhân dân cũng có thể được quy vào những giai cấp và tầng lớp đó. Trong tiến trình phát triển xã hội, khi tiến hành những cải cách cách mạng nhất định, bản thân những nhiệm vụ khách quan, nội dung của cách mạng cũng thay đổi, cho nên cả thành phần xã hội của các tầng lớp tạo nên nhân dân trong giai đoạn đó cũng không thể không thay đổi. Tính tiến bộ, cách mạng - tiêu chí quan trọng để xác định thành phần nhân dân - không phải là bất biến ở mỗi người, bộ phận người, giai cấp, tầng lớp. Một bộ phận người dù trước đó tiến bộ nhưng một khi trở nên phản động thì bị loại trừ khỏi thành phần nhân dân; trái lại, từ phản động trải qua quá trình cải biến sâu sắc, triệt để, trở thành lực lượng tiến bộ, có chung lợi ích với đông đảo bộ phận khác trong xã hội thì được đưa vào thành phần nhân dân. Thứ ba, với tính cách là một phạm trù xã hội học, “nội dung của khái niệm nhân dân phản ánh sự thay đổi kết cấu xã hội của xã hội” [95, tr. 401]. Trong xã hội công xã nguyên thủy, sự khác nhau giữa các thuật ngữ “dân cư” và “nhân dân” là không có ý nghĩa đáng kể. Còn trong các hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp, sự khác nhau này hết sức quan trọng, bởi vì diễn ra sự chia rẽ ngày càng sâu sắc giữa các nhóm dân cư thống trị, bóc lột với đông đảo quần chúng nhân dân. Trong Đại từ điển Tiếng Việt, do Nguyễn Như Ý chủ biên, nhân dân được hiểu là "bộ phận gồm đông đảo những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, chủ yếu là những người lao động, phân biệt với bộ phận khác là giai cấp và tầng lớp thống trị xã hội" [103, tr.1238]. Quan niệm này kế thừa cách tiếp cận nhân dân theo quan điểm mác-xít, đó là xem xét nhân dân trong mối quan hệ với địa vị xã hội (thống trị và bị thống trị). Tuy nhiên, trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với mục tiêu, lý tưởng xây
  • 35. 30 dựng xã hội dân chủ, công bằng; với quan điểm cán bộ, đảng viên là người đầy tớ của nhân dân, thì việc xác định nhân dân như trên cần phải được bổ sung, điều chỉnh. Hơn nữa, ngay cả những người làm việc trong cơ quan công quyền - cán bộ, công chức, viên chức,... – thì không phải lúc nào họ cũng tồn tại với tư cách và vị thế đó. Khi không thực thi công vụ, trong sinh hoạt đời thường thì họ cũng tồn tại với tư cách công dân, một thành phần trong nhân dân. Trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác nhau, khái niệm nhân dân cũng được hiểu khác nhau. Trong khoa học pháp lý, nhân dân tương đồng với khái niệm công dân là những người mang quốc tịch và được bảo hộ của một nhà nước nơi họ sinh sống. Trong khoa học chính trị, nhân dân là khái niệm dùng để chỉ địa vị pháp lý của người dân trong một nước dân chủ, khác với “thần dân”, “thảo dân” trong xã hội phong kiến. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, từ rất sớm, cả ở phương Đông lẫn phương Tây, đều đề cập đến "nhân dân" như là khái niệm cơ bản trong hoạt động chính trị. Các triều đại phong kiến Trung Quốc xem "nhân dân" là một tập hợp người được xác định bởi địa vị bị trị trong mối quan hệ với giai cấp phong kiến thống trị. Nói cách khác, nhân dân là tập hợp những người trong xã hội mà đặc điểm lớn nhất là không nắm giữ quyền lực chính trị, không làm việc trong bộ máy triều đình, không thừa hưởng vị thế xã hội từ quan hệ huyết thống với người nắm giữ quyền lực chính trị. Quan niệm này tiến bộ hơn so với thời chiếm hữu nô lệ ở chỗ đã xác định được nhân dân với hai đặc điểm: Chiếm số đông và là lực lượng lao động sản xuất chính trong xã hội. Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của quan niệm này là lấy quan hệ đẳng cấp làm tiêu chí quan trọng nhất để xác định nhân dân và xem nhẹ vai trò của nhân dân. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, cụ thể ở Hy Lạp và La Mã, nhân dân được xem là một tập hợp bao gồm trong đó thành phần chủ yếu là chủ nô, tăng lữ, thương gia, trí thức và dân tự do. Người nô lệ chiếm đa số và là lực
  • 36. 31 lượng lao động chính của xã hội không được xem là thành phần trong nhân dân. Quan niệm này chọn lọc những thành phần riêng biệt trong toàn thể xã hội, không tùy thuộc vào số lượng hay vai trò đối với lao động sản xuất như thế nào, mà dựa trên quan niệm đẳng cấp của giới cầm quyền, để đưa vào thành phần cấu thành tập hợp người được gọi là nhân dân. Với quan niệm này, nhân dân không phải là lực lượng chiếm số đông, càng không phải là lực lượng lao động chính của xã hội. Đó là tập hợp những người giữ địa vị thống trị (chủ nô) và những người được hưởng quyền lợi từ quan niệm đẳng cấp của giai cấp thống trị đó (dân tự do). Quan niệm về nhân dân của các học giả tư sản: Từ thời Cận đại đến nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân dân và vai trò của nhân dân. Tựu trung lại, phần đông sử dụng khái niệm nhân dân thường với nghĩa chỉ chung cho toàn thể thành viên trong xã hội giới hạn bởi chủ quyền quốc gia dân tộc - quốc dân - hay chỉ các thành viên trong xã hội được giới hạn bởi quyền công dân do pháp luật quy định - công dân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tiếp cận phạm trù "nhân dân" dưới góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử. "Nhân dân" không phải là phạm trù “nhất thành bất biến” mà có sự thay đổi tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội và tương quan lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp ở mỗi quốc gia. C.Mác và Ph.Ăngghen xem nhân dân là cộng đồng xã hội nhất định mà các thành viên trong đó được gắn kết với nhau bởi lợi ích chung. Đó là quần chúng đông đảo những người bị trị so với thiểu số giai cấp thống trị. Theo nghĩa đó, V.I.Lênin cho rằng: "quần chúng là toàn bộ những người lao động và những người bị tư bản bóc lột" [42, tr.235]; "... quần chúng là đa số, và hơn nữa chẳng những chỉ là đa số công nhân, mà là đa số tất cả những người bị bóc lột" [42, tr.38]. Cũng theo quan điểm của V.I.Lênin, trong mỗi giai đoạn lịch
  • 37. 32 sử, ở điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, phạm trù nhân dân bao gồm các giai cấp, tầng lớp đóng vai trò tiến bộ, cách mạng. Quan niệm về nhân dân của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin có những đặc điểm nổi bật sau: Một là, trong khi chỉ ra nhân dân là cộng đồng người đông đảo của xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không xem thành phần cấu thành cộng đồng đó là một khối đồng nhất. V.I.Lênin cho rằng: “Khi dùng danh từ “nhân dân”, Mác không thông qua danh từ ấy xoá mờ mất sự khác biệt về giai cấp..." [40, tr.159]. Cụ thể hơn, nhân dân là cộng đồng người có sự khác nhau về thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp,... Nhân dân là khái niệm vừa mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp; là khái niệm có ý nghĩa chính trị, nói về một xã hội đã phân chia thành giai cấp, các tập đoàn người có địa vị và lợi ích khác nhau. Mặc dù khẳng định có sự khác biệt dẫn đến nhân dân không phải là khối đồng nhất, nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không vì thế mà xem nhẹ tính thống nhất. Đó là cộng đồng có sự khác biệt nhưng được gắn kết thống nhất bởi nhiều yếu tố. Hai là, yếu tố chủ yếu gắn kết các thành phần để tạo nên cộng đồng nhân dân là sự tương đồng về địa vị kinh tế - xã hội. Ở nhiều quan niệm, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin xác định trên nghĩa chung nhất nhân dân là tất cả những người bị thống trị, bị bóc lột. Hoàn cảnh đó dẫn đến sự gần gũi về lợi ích chung, như thế vẫn chưa đủ bởi trong đông đảo những người bị bóc lột, không phải ai cũng nằm trong thành phần nhân dân. Nhân dân chỉ bao gồm tất cả những người bị bóc lột đóng vai trò tiến bộ, cách mạng. Những ai trong số đông người bị bóc lột thể hiện vai trò phản động, phản cách mạng, đi ngược lại lợi ích chung tiến bộ của đông đảo người trong xã hội thì không được xem là nhân dân. Như vậy, yếu tố tiến bộ, cách mạng cũng được các nhà kinh điển Mác - Lênin xem trọng khi quan niệm về nhân dân.
  • 38. 33 Ba là, nhân dân vừa được quan niệm trên bình diện chung bao gồm tất cả các thành phần trong xã hội bị bóc lột, đóng vai trò tiến bộ, cách mạng, đồng thời không ít lần, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng xác định nhân dân trong phạm vi hẹp hơn - phạm vi nòng cốt - chỉ gồm những người lao động, hẹp hơn nữa là những người lao động đông đảo nhất, đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Với C.Mác và Ph.Ăngghen, đó là công nhân, nông dân. V.I.Lênin thì bổ sung thêm vào đó một lực lượng mới là binh lính. Ở Việt Nam, phạm trù "nhân dân" đã được đề cập trong tư tưởng chính trị từ rất sớm. Các triều đại phong kiến, các nhà tư tưởng, nhà chính trị lớn đều đề cập, xem nhân dân là bộ phận đông đảo của xã hội đặt dưới sự trị vì của nhà nước phong kiến. Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, nhân dân là số đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có vai trò quyết định đến việc ủng hộ hay phế truất một triều đại, một ông vua; là người dân lao động - những người chịu nhiều đau khổ và bị áp bức bóc lột nhiều nhất không chỉ khi có nạn ngoại xâm mà ngay cả khi đất nước yên bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa tinh hoa của tư tưởng tiến bộ nhất thế giới ngày nay là lý luận Mác - Lênin gắn với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, đi đến khẳng định nhân dân, quần chúng là lực lượng cách mạng cốt yếu. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm nhân dân bao giờ cũng gắn với một bối cảnh và mục đích cụ thể. Ví như, trong phát động các phong trào cách mạng, Người hay dùng chữ “nhân dân ta”, “nhân dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn”; để giải thích với một chủ đề cụ thể, Người hay dùng các hình tượng cho người nghe dễ hiểu, có lúc Người nói, nhân dân ta gồm “gái, trai, già, trẻ” của “năm lớp sĩ, nông, công, thương, binh” như là đỉnh của ngôi sao năm cánh trên Quốc kỳ; cũng có lúc, Người chỉ rõ: “Nhân dân là
  • 39. 34 bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước”; đồng thời Người còn nhấn mạnh nhân dân là nền tảng của quốc dân. Những người sống và theo chế độ cũ, theo bọn phản động nhưng sau này đã cải tà quy chính vẫn được xếp vào hàng nhân dân; ngược lại, những kẻ phản bội thì bị loại ra khỏi thuật ngữ nhân dân mà Người dùng. Vậy, có thể nói, vì lợi ích cách mạng, vì phục vụ cách mạng, vì nhân dân, vì dân tộc mà tùy theo thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã sử dụng danh từ nhân dân rất hợp lý, qua đó, đã góp phần không nhỏ để tập hợp được đông đảo lực lượng cách mạng và phát huy được sức mạnh của toàn thể dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay luôn tồn tại trong mối quan hệ máu thịt với nhân dân Việt Nam. Tư tưởng thể hiện xuyên suốt qua nhiều văn kiện của Đảng là: "Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài" [24, tr.45]. Như vậy, nhân dân là toàn thể dân tộc, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo… cùng tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phạm trù "nhân dân" không chỉ gồm cộng đồng dân cư trên lãnh thổ Việt Nam mà còn gồm cả những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Trong sự đồng thuận, thống nhất, đoàn kết toàn dân, lực lượng nền tảng, nòng cốt là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Quan niệm về dân của Đảng ta hiện nay có thể được xem là một bước nhảy vọt, một sự biến đổi về chất so với truyền thống lịch sử, phù hợp với thực tế khách quan và yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại.
  • 40. 35 Từ sự phân tích các quan niệm nhân dân trên đây, trong luận án này, khái niệm nhân dân được hiểu là toàn thể những người có quyền công dân đang sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quyền, nghĩa vụ tham gia vào thực hiện các quy định trong Quy chế dân chủ cơ sở. Với quan niệm như vậy, cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên đều là nhân dân vì họ đều có quyền và nghĩa vụ tham gia thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Quan niệm về vai trò của nhân dân: Theo cách hiểu chung nhất, vai trò là khái niệm dùng để chỉ tác dụng, chức năng của một bộ phận trong quá trình vận hành của một hệ thống. Trong giới tự nhiên hay xã hội, mỗi bộ phận nhất định đều có một hay nhiều vai trò cụ thể. Ví như, vai trò của thổ nhưỡng đối với quá trình sinh trưởng của thực vật; vai trò của nước trong hệ sinh thái… Xét trong phạm vi xã hội, khái niệm vai trò dùng để chỉ tác dụng, chức năng của một cá nhân, tổ chức trong quá trình vận hành của một chỉnh thể xã hội. Ví dụ, vai trò của người hướng dẫn khoa học trong quá trình thực hiện luận án của nghiên cứu sinh; vai trò của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong phát triển khoa học Xã hội và nhân văn ở Việt Nam hiện nay. Khái niệm vai trò khác với khái niệm nhiệm vụ, nhiệm vụ chỉ công việc do tập thể (cơ quan, đơn vị, tổ chức) giao cho một cá nhân hay tổ chức phải làm theo một mục đích trong một thời gian nhất định. Trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, vai trò thường hay nhấn mạnh đến nhân dân - người thực hiện; còn nhiệm vụ thường hay nhấn mạnh đến cán bộ - người lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Trong xã hội, vai trò, nhiệm vụ của cá nhân, tập thể thường được quy định rõ ràng trong luật hay các quy định, quy chế cụ thể. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhân dân. Trên cơ sở thế giới quan duy vật và phép biện chứng, khi đánh giá về đời sống xã hội,
  • 41. 36 chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định sự phát triển lịch sử. Điều đó được thể hiện ở những mặt sau đây: Thứ nhất, quần chúng nhân dân là chủ thể trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Vì, xã hội không thể thỏa mãn nhu cầu của mình bằng những cái đã có sẵn trong tự nhiên; do vậy, sản xuất ra của cải vật chất là yêu cầu khách quan. Để duy trì và ngày càng nâng cao đời sống của mình, con người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất, nếu không có sản xuất thì xã hội sẽ tiêu vong. Trong quá trình lao động sản xuất, lực lượng sản xuất cơ bản là quần chúng nhân dân lao động (gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc). Hiện nay, khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ và được coi là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động sản xuất của loài người cho thấy quần chúng nhân dân mới là cơ sở và động lực của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, nền sản xuất của một xã hội sẽ bị sa sút và kém hiệu quả nếu như tài năng, trí tuệ của quần chúng nhân dân không được phát huy. Thứ hai, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần. Quần chúng nhân dân không chỉ đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất, trong cách mạng xã hội mà còn đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật, khoa học, đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào trong thực tiễn. Những thành tựu về văn học, nghệ thuật, khoa học, quân sự, kinh tế… của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Những sáng tạo văn hóa tinh thần đó đều có quan hệ mật thết với quần chúng nhân dân. Sở dĩ như vậy là vì, chính hoạt động và cuộc sống sinh động của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng vô tận quyết định cho sự ra đời mọi sáng tác tinh thần trong đời sống xã hội. Chính chủ thể tạo ra những giá trị tinh
  • 42. 37 thần là những người sinh ra từ quần chúng. Họ là tác giả, đồng thời là khán giả thưởng thức những giá trị tinh thần ấy. Mặt khác, quần chúng nhân dân còn là người bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa. Các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi nó phản ánh chính đời sống, tâm tư nguyện vọng của quần chúng, đồng thời kế thừa những tinh hoa văn học dân gian, được quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến. Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản, chủ yếu của mọi cuộc cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn đó được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng và dẫn tới đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh, trong các cuộc cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lượng đóng vai trò quyết định mọi thắng lợi. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng, không có một chuyển biến chế độ, cách mạng xã hội nào mà không là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân. Từ đó cho thấy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, vừa là chủ thể của mọi cuộc cách mạng xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân. Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chung chung, trừu tượng mà rất cụ thể. Đó là người nông dân, người công nhân, nhà trí thức, các chiến sĩ bộ đội, công an, các cháu thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài... Hồ Chí Minh cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng nhân dân. Theo Người, nhân dân bao gồm mọi tầng lớp người trong xã hội cùng có chung một vận mệnh, cuộc sống, tương lai, tiền đồ, truyền thống lịch sử, nền văn minh, văn hóa. Cho nên, khi đất nước có ngoại xâm, nhân dân có
  • 43. 38 chung một kẻ thù, một nhiệm vụ là cùng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Khi hòa bình xây dựng đất nước, nhân dân có chung một nhiệm vụ là kiến quốc, bảo vệ, xây dựng giang sơn gấm vóc ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh càng thấm sâu chân lý “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Trong tư tưởng, tình cảm và hành động, Người luôn thể hiện nhất quán chân lý ấy. Quần chúng cách mạng chính là các tầng lớp nhân dân nước ta mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy sức mạnh to lớn ở họ. Cơ sở của tư tưởng ấy là lòng tin vào con người của Hồ Chí Minh. Người cho rằng, nhân dân rất thông minh, sáng tạo; nhân dân là lực lượng đông đảo của toàn xã hội; nhân dân là người hiểu biết tất cả; nhân dân là nguồn sức mạnh vô tận ở mọi nơi, mọi lúc. Chính vì thế, Người cho rằng trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của các phong trào ấy đều được Người nghiên cứu, rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng cách mạng là sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân. Người nhắc nhở, công tác dân vận của Đảng phải tìm mọi cách giải thích cho từng người dân hiểu rõ, việc mình làm là vì lợi ích của chính họ, nên họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Người cũng cho rằng làm bất cứ việc gì cũng phải bàn với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Đảng phải lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của nhân dân. Nhân dân mới chính là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch