SlideShare a Scribd company logo
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG MINH HIẾU
BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN
CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG MINH HIẾU
BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN
CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ: 62 38 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn: GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
HÀ NỘI, 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các
số liệu trình bày trong luận án hoàn toàn trung
thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được công bố trong bất kỳ các công trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hoàng Minh Hiếu
3
DANH MỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 CHLB Cộng hoà liên bang
2 ĐBQH Đại biểu Quốc hội
3 GS Giáo sư
4 HĐDT Hội đồng dân tộc
5 MTTQ Mặt trận Tổ quốc
6 NXB Nhà xuất bản
7 QH Quốc hội
8 Tr. Trang
9 TS Tiến sĩ
10 TSKH Tiến sĩ khoa học
11 TT-TV-NCKH Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học
12 UB Uỷ ban
13 UBTVQH Uỷ ban thường vụ Quốc hội
14 VN Việt Nam
15 XHCN Xã hội chủ nghĩa
i
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 7
1.1. Nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp
đến đề tài luận án
7
1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp
đến đề tài luận án
13
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐẠI DIỆN VÀ VIỆC BẢO
ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI
33
2.1. Khái niệm tính đại diện của Quốc hội 33
2.2. Tính đại diện của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 59
2.3. Các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
72
Chương 3: THỰC TRẠNG VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA
QUỐC HỘI
88
3.1. Bảo đảm tính đại diện trong các giai đoạn phát triển của Quốc hội Việt
Nam
88
3.2. Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong
giai đoạn hiện nay
97
Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI
DIỆN CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
129
4.1. Các yêu cầu đặt ra đối với việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội 129
4.2. Các giải pháp bảo đảm và nâng cao tính đại diện của Quốc hội 139
KẾT LUẬN 165
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
168
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 169
PHỤ LỤC 182
ii
CÁC MINH HOẠ
Các bảng Trang
Bảng 3.1: Số lượng ĐBQH pháp định qua các thời kỳ 101
Bảng 3.2: Nhiệm kỳ của Quốc hội từ năm 1945 đến nay 103
Bảng 4.1: Các đơn vị bầu cử ở hải ngoại của Cộng hoà Pháp 146
Các biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ cử tri đi bầu trên cả nước qua các cuộc bầu cử 99
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ ĐBQH là nông dân trong các nhiệm kỳ Quốc hội 105
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ ĐBQH là công nhân trong các nhiệm kỳ Quốc hội 106
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ ĐBQH là phụ nữ trong các kỳ bầu cử 107
Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ ĐBQH là người dân tộc thiểu số trong các kỳ bầu cử 108
Biểu đồ 3.6: Các tiêu chí lựa chọn người trúng cử đại biểu Quốc hội 112
Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ tiếp nhận thông tin từ các cử tri ở các khu vực khác nhau 115
Biểu đồ 3.8: Việc sử dụng các nguồn thông tin để tìm hiểu ý chí, nguyện
vọng của cử tri
119
Các hình
Hình 1.1: Cấu trúc hình thức của tính đại diện của Quốc hội 58
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong tiến trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, bắt đầu từ Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (01/1994), Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết
phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sau đó, chủ trương
này liên tục được khẳng định tại các kỳ đại hội của Đảng. Gần đây nhất, Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ XI (01/2011) nhấn mạnh: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và trong công cuộc đổi
mới đất nước, cần tiếp tục “đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam” [10, tr. 52-53].
Một trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
là đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong đó, việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của Quốc hội có vai trò rất quan trọng do Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Trong thời gian vừa qua, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội
mặc dù đã có những thành tựu nhất định nhưng chưa được như mong đợi. Thực tiễn tổ
chức và hoạt động của Quốc hội chỉ ra rằng, so với nhiệm vụ và quyền hạn mà Hiến
pháp và pháp luật qui định, thì tổ chức bộ máy của Quốc hội nhìn chung chưa ngang
tầm, chưa đáp ứng công việc một cách đầy đủ [87].
Trong khi đó, nhiều kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy để đáp ứng được những
yêu cầu của quá trình phát triển của đất nước, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội trong thời gian sắp tới còn gặp nhiều thách thức hơn nữa.
Một trong những thách thức cơ bản đối với hoạt động của Quốc hội là việc bảo
đảm và nâng cao tính đại diện của Quốc hội. Khi nhận định về những thách thức đối với
Quốc hội trong thời kỳ đổi mới tại dịp kỉ niệm 60 năm bầu cử Quốc hội khoá I, cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ ra 3 thách thức và trong đó có đến 2 thách thức liên quan đến
tính đại diện của Quốc hội. Đó là các vấn đề liên quan đến khả năng đại diện cho nhân
dân của các đại biểu Quốc hội và sự chồng chéo của các mối quan hệ đại diện trong
Quốc hội [126]. Nhận định này cũng nhận được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu
2
khác nhau [69]. Bên cạnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI vừa
qua, Đảng ta cũng đã nhận định cần tiếp tục “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc
hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân […] có
cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri” [9].
Trên thực tế, xung quanh việc đảm bảo tính đại diện của Quốc hội nước ta đang
có rất nhiều vấn đề tồn tại. Đó là những vấn đề về cơ cấu thành phần của đại biểu, về
mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri, việc xác định đại diện cho lợi ích của địa
phương và lợi ích của quốc gia v.v.... Đây vốn là những vấn đề phức tạp, liên quan đến
rất nhiều khía cạnh khác nhau của thiết chế nghị viện từ quá trình bầu cử cho đến việc
tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quốc hội. Và thực tế cho thấy dường như có mối
liên hệ giữa khả năng đại diện của Quốc hội với hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong
việc thực hiện các chức năng lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước. Việc ban hành các đạo luật chưa đạt yêu cầu trong thời gian gần đây được cho
là có một phần nguyên nhân do các cuộc thảo luận tại Quốc hội chưa phản ánh hết thực
tế của cuộc sống. Các hoạt động giám sát của Quốc hội chưa được như mong muốn của
cử tri trong nhiều trường hợp là do những mối quan hệ đại diện chồng chéo, làm giảm
động lực giám sát của các đại biểu Quốc hội.
Hơn thế nữa, việc tăng cường tính đại diện của Quốc hội còn đồng nghĩa với việc
mở rộng dân chủ, và do vậy có thể góp phần nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và
hoạt động giám sát của Quốc hội. Đây là một phần trong những nội dung cơ bản của
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong khi đó, các vấn đề về tính đại diện của Quốc hội nước ta lại là một trong
những nội dung ít được tập trung nghiên cứu và đổi mới trong thời gian vừa qua. Đã có
khá nhiều báo cáo và các đề án tập trung nghiên cứu việc đổi mới chức năng lập pháp,
giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội nhưng chưa
có những chương trình, đề án nghiên cứu tổng thể liên quan đến việc bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội để Quốc hội đại diện tốt hơn cho nhân dân.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm tính đại diện của Quốc
hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” là một yêu cầu hết sức cấp thiết. Nội dung nghiên cứu cơ bản của đề tài này
tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu, làm rõ tính đại diện của Quốc hội, việc
3
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội
ở Việt Nam; và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính đại diện của
Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
2.1. Mục đích của luận án
Mục đích của Luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo đảm
tính đại diện của Quốc hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Luận án đưa ra những kiến nghị
nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Làm rõ cơ sở lí luận về tính đại diện của Quốc hội qua đó một số nội dung sẽ
được giải quyết như làm rõ khái niệm về tính đại diện của Quốc hội, cấu trúc của tính
đại diện của Quốc hội; việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội nhằm đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Phân tích, đánh giá việc bảo đảm tính đại diện ở Quốc hội nước ta trong thời
gian vừa qua cả về khuôn khổ chính sách, pháp luật và quá trình thực hiện trên thực tiễn.
- Phân tích làm rõ các yêu cầu của việc bảo đảm tính đại diện và mối quan hệ
giữa việc bảo đảm tính đại diện đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc
hội Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Những vấn đề lí luận về tính đại diện và bảo đảm tính đại diện của Quốc hội sẽ
được làm rõ trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, để đáp ứng mục đích chính của đề tài là
nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội Việt Nam, Luận án sẽ chủ yếu tập trung phân
tích, tìm hiểu và giải thích những nhận thức hiện tại về tính đại diện của Quốc hội trong
bối cảnh nước ta, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân được khởi xướng từ năm 1994 đến nay.
4
4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Việc giải quyết các vấn đề lí luận và thực tiễn về bảo đảm tính đại diện của Quốc
hội trong luận án được thực hiện trên cơ sở nền tảng phương pháp luận duy vật biện
chứng của triết học Mác – Lênin với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp phân tích theo hệ thống, phương pháp kết hợp
lý luận với thực tiễn, phương pháp lịch sử…
Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng trong luận án để so sánh, tìm hiểu
những đặc thù của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ở một số nước để từ đó đề
xuất những giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp
ứng yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Để có những luận cứ thuyết phục liên quan đến các lập luận về tính đại diện của
Quốc hội, phương pháp phân tích các trường hợp điển hình sẽ được áp dụng trong quá
trình nghiên cứu của đề tài này. Thông qua việc quan sát hoạt động của Quốc hội, các
thông tin về tiến trình làm việc, các tình huống thực tế trong hoạt động của Quốc hội sẽ
được ghi nhận để xây dựng các lập luận của đề tài
Để những lập luận của Luận án bảo đảm tính khoa học, tác giả Luận án đã sử
dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập số liệu về nhận thức của các đại
biểu Quốc hội đối với một số vấn đề thuộc nội dung của luận án. Việc điều tra xã hội
học được tiến hành vào tháng 5 năm 2013 tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XIII với
số phiếu phát ra là 318 phiếu, số phiếu thu về là 310 phiếu. Các số liệu thu thập được
làm sạch và xử lý bằng phần mềm SPSS (xem thêm Phụ lục về Phiếu khảo sát việc bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội).
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN
Luận án có những đóng góp mới như sau:
- Khẳng định tính đại diện của Quốc hội là một khái niệm liên quan đến các vấn
đề lý luận mang tính cơ bản về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong đó có cách hiểu
thuần tuý về mặt ngôn ngữ về khái niệm đại diện, về các vấn đề lý luận liên quan đến
chủ quyền nhân dân, về các lý luận về đại diện chính trị và về dân chủ đại diện. Để hiểu
tính đại diện một cách đầy đủ và có hệ thống, cần phải hiểu tính đại diện của Quốc hội
là tính chất các thành viên của Quốc hội do các cử tri trực tiếp bầu ra, có năng lực đại
5
diện một cách xứng đáng cho các cử tri, phản ánh cơ cấu thành phần xã hội, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của các cử tri để thay mặt các cử tri xác định nên ý chí chung
của xã hội. Tính đại diện thể hiện qua cách thức hình thành mối quan hệ đại diện; qua
mối tương đồng giữa các đại biểu Quốc hội với cử tri; qua năng lực đại diện của đại biểu
Quốc hội và qua nội dung đại diện là đại diện cho ý chí chung của xã hội.
Từ thực trạng của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong thời gian vừa
qua và yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, Luận án cho rằng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra các yêu cầu cơ
bản gồm:
- nâng cao nhận thức về việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
- việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội phải được xem xét một cách toàn diện;
- việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội phải gắn với việc bảo đảm thực hiện
chủ quyền nhân dân;
- bảo đảm việc thực hiện hình thức uỷ quyền tự do và;
- bảo đảm tăng cường các hoạt động giáo dục ý thức của cử tri để tăng cường sự
tham gia của các cử tri vào các hoạt động chính trị của đất nước.
Để tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội, Luận án đề xuất ba nhóm
giải pháp cơ bản gồm: hoàn thiện chế độ bầu cử, nâng cao vị thế của đại biểu Quốc hội
và hoàn thiện quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội. Trong đó có một số giải pháp
nổi bật gồm:
- Áp dụng phương pháp bầu cử theo đa số hai vòng để bầu cử đại biểu Quốc hội.
Các đơn vị bầu cử được tổ chức với số dân gần tương đương nhau không phụ thuộc vào
địa giới hành chính; mỗi đơn vị bầu cử được bầu một đại biểu Quốc hội;
- Việc bầu cử đại biểu Quốc hội phải được tiến hành trên cơ sở có tính cạnh tranh
cao, theo đó cần nâng cao số dư các đại biểu Quốc hội tại mỗi đơn vị bầu cử, cho phép
các ứng cử viên vận động tranh cử để cung cấp thông tin tới các cử tri và giới thiệu về
khả năng của mình;
6
- Để bảo đảm sự tự do trong việc xét đoán của các đại biểu Quốc hội và tăng
cường động lực đại diện của các đại biểu Quốc hội, cần ghi nhận nguyên tắc uỷ quyền
tự do, khôi phục các quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội;
về lâu dài áp dụng hình thức đại biểu Quốc hội chuyên trách đối với toàn bộ các đại biểu
Quốc hội;
- Để tăng cường điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc
phản ánh ý chí chung của xã hội, cần bổ sung hình thức điều trần trong hoạt động của
Quốc hội và áp dụng nguyên tắc quyết định theo đa số nhưng bảo vệ ý kiến của thiểu số
trong quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm có: Phần mở đầu; Bốn chương; Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận về tính đại diện của Quốc hội và việc bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội;
Chương 3: Thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội;
Chương 4: Các giải pháp và kiến nghị bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân, Quốc hội là đối tượng được rất nhiều công trình nghiên cứu về chính trị, pháp
lý ở nước ta đề cập đến. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, với định hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhiều công trình nghiên cứu đã tập trung
làm rõ vị trí, vai trò của Quốc hội trong mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, phù hợp với khuôn khổ phạm vi của Luận án này, việc khảo sát các công
trình nghiên cứu về Quốc hội sẽ được tập trung vào các nội dung sau đây:
Thứ nhất, về khái niệm tính đại diện và các yếu tố bảo đảm tính đại diện của
Quốc hội;
Thứ hai, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
Thứ ba, thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội;
Thứ tư, các giải pháp, kiến nghị tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc
hội.
1.1.1. Luận văn, luận án, đề tài khoa học
Trong những năm vừa qua, có khá nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ luật học
và đề tài khoa học nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Tuy nhiên, như
một nhà nghiên cứu đã nhận xét, các công trình nghiên cứu về Quốc hội thường ít quan
tâm đến tính đại diện nhân dân của Quốc hội mà chú ý nhiều hơn đến các chức năng,
nhiệm vụ Hiến định của Quốc hội như lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước [64]. Vì vậy, chỉ một số luận văn, luận án, đề tài có nội dung liên
quan trực tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung của đề tài luận án. Có thể kể đến gồm:
Thứ nhất, Luận án tiến sỹ của Chu Văn Thành: Đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan đại diện ở nước ta hiện nay, bảo vệ vào năm 1992 (105 trang) [7].
8
Luận án này nghiên cứu các vấn đề liên quan đến quá trình đổi mới các cơ quan
đại diện ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1992. Trong Luận án, khái niệm
dân chủ đại diện cũng đã được tác giả tập trung phân tích, qua đó khẳng định dân chủ
đại diện là phương thức chủ yếu để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Luận
án này được thực hiện trước khi công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được thực hiện ở nước ta.
Thứ hai, Luận án tiến sỹ của Trương Thị Hồng Hà: Hoàn thiện cơ chế pháp lý
bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
bảo vệ vào năm 2007 (197 trang) [112].
Luận án đưa ra nhiều vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức và hoạt động của Quốc
hội và quyền giám sát tối cao của Quốc hội; nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt
động của bộ máy giám sát của Nghị viện nước ngoài; đánh giá thực trạng của cơ chế
pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội; tìm ra nguyên nhân yếu kém của cơ
chế pháp lý, đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội. Mặc dù không nghiên cứu trực
tiếp về tính đại diện của Quốc hội nhưng trong phần cơ sở lý luận, tác giả đã dành một
dung lượng khá lớn để phân tích về tính đại diện và các biểu hiện của tính đại diện của
Quốc hội. Nhưng các phân tích này chủ yếu đề cập đến tính đại diện của Quốc hội theo
quan niệm truyền thống trong mô hình nhà nước Xô-Viết.
Thứ ba, Luận án tiến sỹ của Vũ Văn Nhiêm: Chế độ bầu cử ở nước ta: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, bảo vệ vào năm 2009 (221 trang) [128].
Luận án làm rõ cơ sở lý luận về chế độ bầu cử trong xã hội dân chủ nói chung và
ở Việt Nam nói riêng. Thực tiễn tổ chức thực hiện chế độ bầu cử ở Việt Nam; đưa ra
những kiến nghị nhằm đổi mới chế độ bầu cử để phát huy dân chủ. Luận án cũng dành
một dung lượng khá lớn để phân tích về việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội thông
qua cơ chế bầu cử. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến chế độ bầu cử nên tính đại diện
của Quốc hội trong luận án chưa được đề cập ở góc độ tổng thể.
Thứ tư, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quang Hương: Nâng cao hiệu quả hoạt
động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay, bảo vệ năm 2006
(119 trang) [63].
Luận văn nghiên cứu về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc nâng cao hiệu
quả hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội. Đồng thời, Luận văn cũng
9
tập trung đánh giá thực trạng hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội ở
nước ta hiện nay (chủ yếu là hoạt động của đại biểu Quốc hội khóa X và khóa XI). Trên
cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực đại
diện của đại biểu Quốc hội. Ở mức độ một luận văn thạc sĩ luật học, các vấn đề lý luận
về tính đại diện của Quốc hội mới dừng lại ở mức độ chung, chưa đi sâu phân tích các
lý luận nền tảng tạo nên tính đại diện của Quốc hội.
Thứ năm, Đề tài cấp nhà nước: “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt
động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân ở nước ta” (năm 2004), do GS.TS Trần Ngọc Đường làm Chủ nhiệm
đề tài [98];
Công trình này làm rõ cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề tài đã phần nào đề cập
đến cơ sở lí luận về tính đại diện của Quốc hội nói chung và ở nước ta nói riêng. Tuy
nhiên, nội dung về tính đại diện của Quốc hội không phải là trọng tâm của nghiên cứu
này nên tính đại diện của Quốc hội chưa được tập trung phân tích, làm rõ.
Thứ sáu, Đề tài cấp bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị Việt Nam (qua 4
bản Hiến pháp), (năm 2002) do TS. Ngô Đức Mạnh làm Chủ nhiệm [51].
Đề tài đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ
và quyền hạn của Quốc hội qua bốn bản Hiến pháp. Trong phần cơ sở lý luận, đề tài đã
có những phân tích sơ bộ về những biểu hiện của tính đại diện của Quốc hội. Về cơ sở
thực tiễn, đề tài đã có sự khảo sát đầy đủ và khoa học về quá trình hình thành và phát
triển của Quốc hội theo các giai đoạn gắn với sự phát triển của Hiến pháp ở nước ta.
Tuy nhiên, cũng như nhiều công trình nghiên cứu khác, đề tài này tập trung nhiều vào
các nội dung liên quan đến các chức năng Hiến định của Quốc hội mà chưa tập trung
phân tích sâu về tính đại diện của Quốc hội.
1.1.2. Sách chuyên khảo
Tổ chức và hoạt động của Quốc hội là một trong những chủ đề được rất nhiều
sách tham khảo trong và ngoài nước đề cập đến. Ở trong nước, chủ đề về tính đại diện
của Quốc hội chưa được nhiều nhà nghiên cứu chú trọng. Trong khi đó, ở nước ngoài,
10
việc nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội là khá phong phú, đa dạng. Ngoài các tác
phẩm kinh điển của Jean Jacques Rousseau, A. Hamilton, J.Madison, John Stuart Mill…
về dân chủ đại diện, trong thời gian gần đây đã có nhiều công trình tập trung nghiên cứu
về tính đại diện của Quốc hội.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ở nước ngoài cũng có nhận xét tương tự rằng “đã
có nhiều công trình nghiên cứu về nghị viện tập trung vào thiết chế nghị viện và mối
quan hệ của nó với hành pháp nhưng có ít nghiên cứu tập trung vào mỗi quan hệ giữa
nghị sĩ với các công dân” [157].
Trực tiếp liên quan đến đề tài của luận án này có một số công trình nổi bật sau:
Thứ nhất, cuốn: “Chức năng đại diện của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền”
(2007) do Văn phòng Quốc hội xuất bản [120]. Cuốn sách là tập hợp các bài viết tại Hội
thảo cùng tên được thực hiện vào năm 2007 với sự tham gia của các nhà nghiên cứu
trong nước và quốc tế. Các bài nghiên cứu trong Hội thảo này tập trung làm rõ khái niệm
chức năng đại diện và thực tiễn bảo đảm tính đại diện ở Quốc hội một số nước và Việt
Nam. Đây là tập hợp các bài nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau nên chưa hình
thành nên tính hệ thống các quan điểm về tính đại diện của Quốc hội.
Thứ hai, cuốn: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” (2007) do GS.TSKH Đào Trí Úc làm chủ biên [13]. Các tác giả
của cuốn sách đã phân tích, làm rõ mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Quốc hội đóng một vai trò quan trọng. Mặc dù không
đi sâu phân tích về cơ sở lý luận của tính đại diện nhưng các nhà nghiên cứu đã cho rằng
để Quốc hội hoạt động hiệu quả trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là rất quan trọng, là điều kiện nhằm bảo đảm chủ
quyền thuộc về nhân dân.
Thứ ba, cuốn: “Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền” (2007) do
GS.TS Nguyễn Đăng Dung làm chủ biên [56]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân
tích những yêu cầu chung đối với Quốc hội theo những tiêu chí của Nhà nước pháp
quyền, chỉ ra những đòi hỏi của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cuốn sách cũng đề xuất, làm rõ những cách
thức làm cho Quốc hội thực hiện tốt sự uỷ thác của nhân dân trong điều kiện của việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
11
Thứ tư, cuốn: The Concept of Representation, của Hana Pitkin xuất bản năm 1967
[143]. Trong công trình nghiên cứu toàn diện nhất về khái niệm đại diện chính trị này,
tác giả Hana Pitkin đã đề xuất khái niệm đại diện chính trị và phân tích cấu trúc của khái
niệm này một cách thấu đáo. Cách tiếp cận của bà đã được chấp nhận một cách phổ biến
trong các phân tích về sau đối với tính đại diện của Quốc hội. Tuy nhiên, theo một số
nhà nghiên cứu thì trong tác phẩm này, Pitkin mới tập trung nghiên cứu về mặt lý luận
mà chưa khảo nghiệm các lý luận đó trên thực tiễn [138].
Thứ năm, cuốn: Parliaments and Citizens in Western Europe, (2002) do Philip
Norton làm chủ biên [157]. Các tác giả của cuốn sách đã làm rõ mối quan hệ giữa nghị
viện với các công dân ở các quốc gia Tây Âu có nền dân chủ lâu đời. Vấn đề được đề
cập sâu trong cuốn sách này là về bản chất của mối quan hệ giữa nghị sĩ và cử tri cũng
như mức độ của nó để bảo đảm nghị viện có thể đại diện tốt nhất cho người dân. Tuy
nhiên, phạm vi của các bài viết trong cuốn sách này chỉ mới được giới hạn ở các nước
Tây Âu mà chưa đề cập đến mối quan hệ đại diện giữa các đại biểu Quốc hội với cử tri
ở các nước khác với mức độ phát triển và văn hoá chính trị khác nhau.
Thứ sáu, cuốn: Representation: Key Concepts, (2008) của Monica Brito Vieira
và David Runciman [155]. Nội dung của cuốn sách tập trung làm rõ các khái niệm liên
quan đến đại diện chính trị như khái niệm đại diện; quan hệ đại diện giữa các cá nhân;
quan hệ đại diện đối với một tập thể và đại diện cho một quốc gia. Cũng như nghiên cứu
của Hana Pitkin, cuốn sách này cũng chưa đề cập đến việc khảo sát thực tế về mức độ
đại diện của Quốc hội trong mối quan hệ với các cử tri.
Thứ bảy, cuốn: Political Representation, (2009) do Ian Shapiro làm chủ biên
[146]. Sách là một tuyển tập các bài nghiên cứu được phân chia theo tiến trình phát triển
của khái niệm đại diện chính trị, từ đại diện trước khi hình thành nền dân chủ đại diện,
cho đến các luận thuyết về dân chủ đại diện và các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan
đến đại diện chính trị hiện nay. Do là một tuyển tập nên các bài nghiên cứu chưa có tính
hệ thống, xuyên suốt về các quan điểm về tính đại diện của Quốc hội.
Thứ tám, cuốn: Representation And Institutional Design, (2011) của Rebekah L.
Herrick [158]. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu phân tích những tác động của việc
thiết kế các thiết chế đối với tính đại diện của Quốc hội. Thông qua việc thông kê số
liệu, phân tích các xu hướng, tác giả đã đánh giá và phân tích ảnh hưởng của các yếu tố
12
như bầu cử, cơ cấu tổ chức của Quốc hội, nhiệm kỳ của Quốc hội v.v… tới việc bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội. Đây là công trình nghiên cứu thực định, có giá trị tham
khảo cao nhưng phần lớn các số liệu được giới hạn trong phạm vi Nghị viện Liên bang
và một số tiểu bang của Hoa Kỳ.
1.1.3. Bài báo khoa học
Trong những năm vừa qua, đã có một số bài báo khoa học được đăng trên các tạp
chí chuyên ngành đề cập đến một số nội dung cụ thể về tính đại diện của Quốc hội nước
ta, trong đó, có thể nêu ra một số bài báo như sau:
Thứ nhất, bài: “Phát huy vai trò đại diện nhân dân của đại biểu Quốc hội trong
hoạt động lập pháp”, (2007) Tạp chí Cộng sản, của GS.TS. Trần Ngọc Đường [99]. Bài
viết đã tập trung phân tích về mối quan hệ giữa vai trò đại diện cho nhân dân của Quốc
hội và hoạt động lập pháp
Thứ hai, bài: “Bàn về tính đại diện nhân dân của Quốc hội”, (2001), Nghiên cứu
lập pháp, của Nguyễn Quang Minh [64]. Bài viết mang tính gợi mở về những vấn đề
cần nghiên cứu về tính đại diện nhân dân của Quốc hội, những biểu hiện của tính đại
diện của Quốc hội và các kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường tính đại diện nhân dân
của Quốc hội.
Thứ ba, bài: “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội”,
(2010), Nghiên cứu Lập pháp, của Trần Thị Hạnh Dung [102]. Tác giả của bài viết đưa
ra nhận định đại diện phải được xem là một chức năng của Quốc hội và liệt kê, phân tích
những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội.
Thứ tư, bài: “Tiêu chí và yếu tố bảo đảm hiệu quả tính đại diện của Quốc hội”,
(2010), Nghiên cứu Lập pháp, của Vũ Văn Nhiêm. Trong bài viết này, tác giả đã phân
tích khái niệm tính đại diện của Quốc hội và cố gắng xác định các tiêu chí và yếu tố bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội.
Thứ năm, bài: “Dân chủ đại diện và vấn đề bầu cử” (2011), Dân chủ và Pháp
luật, của Trần Nho Thìn [101]. Bài viết phân tích sự tác động hai chiều giữa dân chủ đại
diện và vấn đề bầu cử, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của
nền dân chủ đại diện.
13
Thứ sáu, bài: “Power and Representation at the Vietnamese National Assembly:
The Scope and Limits of Political Doi Moi”, (2007), của Matthieu Salomon, trong cuốn
Vietnam’s New Order: International Perspectives on the State and Reform in Vietnam
[154]. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng việc thực hiện
quyền lực và đại diện của Quốc hội nước ta trong thời kỳ đổi mới. Tác giả cũng đã đưa
ra một số nhận định và bình luận về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tính đại diện của
Quốc hội Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết có liên quan đăng trên các tạp chí chuyên ngành
ở nước ngoài. Tuy không trực tiếp nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội Việt Nam
nhưng những lý luận và thực tiễn được đề cập trong các nghiên cứu này có giá trị tham
khảo và so sánh to lớn trong quá trình thực hiện đề tài luận án.
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.2.1. Về cơ sở lý luận về bảo đảm tính đại diện của Quốc hội
a) Về tính đại diện của Quốc hội
Có một điểm thống nhất dễ nhận thấy trong các nghiên cứu về tính đại diện của
Quốc hội là xác định tính đại diện là một tính chất quan trọng của Quốc hội. Các nhà
nghiên cứu đều cho rằng tính đại diện là một trong những đặc tính quan trọng nhất của
Quốc hội. GS.TS Trần Ngọc Đường nhấn mạnh: “Tính đại diện cao nhất của nhân dân
xuyên suốt quá trình thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề trọng
đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước” [99]. Có nhà
nghiên cứu đã mạnh dạn cho rằng: “tính đại diện nhân dân là tính chất cơ bản nhất, đặc
trưng nhất, quan trọng nhất của Quốc hội nước ta” [64]. Những người khác lại khẳng
định: “Đại diện là “sứ mệnh” của Quốc hội - sứ mệnh bao trùm lên hoạt động lập pháp,
giám sát và các hoạt động khác của Quốc hội” [130]; “Tính đại diện đã mang lại tính
quyền lực nhà nước cho Quốc hội” [104]; hoặc “chức năng đại diện chính là cội nguồn
của các chức năng khác” của Quốc hội [102]. Không dừng lại ở việc nhận định, TS. Ngô
Huy Cương đi xa hơn khi phân tích: “chức năng đại diện là quan trọng nhất bởi nó xác
định vai trò, vị trí của Quốc hội. Còn các chức năng khác là sự phát triển logic từ chức
năng đại diện, mang tính phái sinh” [53]. Như vậy, có thể nói cơ sở của các nhận định
14
về tầm quan trọng của tính đại diện là ở chỗ Quốc hội là cơ quan được nhân dân bầu ra
để thay mặt nhân dân, thực thi quyền lực của nhân dân trong việc quản lý nhà nước, biến
ý chí của nhân dân thành pháp luật để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội vì lợi ích của nhân
dân và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Một điểm thống nhất khác trong các nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội đó
là phần lớn các nhà nghiên cứu đều nhận xét rằng, ở nước ta trong thời gian vừa qua
việc nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội còn chưa tương xứng với tầm quan trọng
của vấn đề này. TS. Nguyễn Quang Minh đã nhận xét rằng các công trình nghiên cứu
về Quốc hội thường ít quan tâm đề cập đến tính đại diện nhân dân của Quốc hội mà dành
sự quan tâm nhiều hơn đến các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội [64]. Tiến
sĩ Bùi Xuân Đức quyền cũng có nhận định tương tự:
“các nhà khoa học pháp lý dựa theo quy định trong Hiến pháp hiện hành […]
chỉ ra 3 chức năng cơ bản của Quốc hội là: chức năng lập pháp, chức năng
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, hay 4 chức năng là: lập hiến và lập
pháp, thành lập các cơ quan tối cao của nhà nước; quyết định những vấn đề
quan trọng của quốc gia, và thực hiện quyền giám sát tối cao … mà không
thấy nhắc riêng chức năng đại diện” [6].
Tình trạng nói trên đã dẫn đến một thực tế là khi bàn về tính đại diện của Quốc
hội, các tác giả thường xem đại diện là một tính chất đương nhiên của Quốc hội mà ít
khi lí giải sâu về cơ sở lí luận và nguồn gốc của tính chất này. Đúng như một tác giả đã
nhận xét: “hiện nay vẫn chưa có sự nhận thức chính xác và thấu đáo về tính đại diện của
thiết chế nghị viện. Và như vậy, tất yếu dẫn đến một hệ quả là vai trò của Quốc hội trong
bộ máy nhà nước ta chưa được đặt đúng vị trí của nó” [130, tr. 22].
Sự chưa thấu đáo trong nhận thức về tính đại diện của Quốc hội được thể hiện
trước hết ở những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Trước hết, trong khi một số nhà nghiên cứu cho rằng đại diện cần phải được xem
là một tính chất hay một thuộc tính của Quốc hội thì một số khác lại nhận định đại diện
phải là một chức năng của Quốc hội.
Ý kiến cho rằng đại diện là một tính chất của Quốc hội là tương đối phổ biến.
Một nhà nghiên cứu đã khẳng định “Đại diện cao nhất của nhân dân là thuộc tính cơ bản
trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
15
[99]. Việc xem đại diện là một tính chất, hay thuộc tính của Quốc hội được các tác giả
lí giải thông qua cơ cấu thành phần của Quốc hội và cách thức hình thành nên Quốc hội.
Theo đó, tính đại diện của Quốc hội được thể hiện qua tính chất phản ánh đầy đủ thành
phần, tầng lớp nhân dân của Quốc hội. Quốc hội được xem là một “hình ảnh thu nhỏ”
của xã hội, bao gồm những đại biểu ưu tú thuộc mọi thành phần, giai cấp, dân tộc rộng
lớn trong cả nước do nhân dân cả nước bầu nên [112, tr. 28].
Trong khi đó, một số tác giả lại cho rằng không thể xem đại diện là một thuộc
tính của Quốc hội vì bản thân cơ cấu thành phần của Quốc hội không thực sự phản ánh
một cách “đồng dạng” thành phần của toàn xã hội [20], hoặc vì nếu xem đại diện như
một thuộc tính của Quốc hội thì đã mở quá rộng phạm vi của khái niệm này [6]. Củng
cố thêm, có tác giả đã chỉ ra những hoạt động cụ thể mà các đại biểu Quốc hội phải thực
hiện như là một phương diện hoạt động chính của mình như: Liên hệ chặt chẽ với cử tri,
chịu sự giám sát của cử tri; Thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của
cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; Thực hiện chế độ tiếp xúc và
báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; Trả lời những yêu cầu và
kiến nghị của cử tri; Xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó (quy định tại Điều 97,
Hiến pháp 92). Từ đó, một số tác giả còn nhận định: “nếu xem đại diện là một tính chất
hay thuộc tính thì sẽ không nói lên được tầm quan trọng của đại diện, tính đại diện sẽ
không đầy đủ” [102, tr. 15].
Bên cạnh đó, cũng có tác giả lại quan niệm không có sự phân biệt giữa việc xem
đại diện là một thuộc tính hay là chức năng của Quốc hội. Điều này được thể hiện qua
nhận định sau đây của TS. Lương Minh Tuân: “Thuộc tính đại diện của Quốc hội là
chức năng quan trọng nhất mà đại biểu phải thực hiện” [44].
Mặc dù việc nhận định đại diện là một thuộc tính của Quốc hội được thừa nhận
một cách khá phổ biến, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu chưa đưa ra một khái niệm
cụ thể về thuộc tính này. Thay vào đó, phần lớn các tác giả tập trung phân tích những
biểu hiện của nó. Khi nghiên cứu về những thuộc tính của Quốc hội, TS. Trương Thị
Hồng Hà đã đưa ra ba biểu hiện cơ bản của thuộc tính đại diện là: (i) do nhân dân cả
nước trực tiếp bầu nên; (ii) thành phần đại biểu Quốc hội phản ánh một cách đầy đủ cơ
cấu của xã hội, và (iii) được biểu hiện thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm
16
vụ của Quốc hội [112, tr. 28 - 36]. Cách thức tiếp cận này cũng được một số nhà nghiên
cứu khác chia sẻ tuy góc độ phân tích có sự khác biệt nhất định. Chẳng hạn, có tác giả
đã phân tích các biểu hiện của tính đại diện của Quốc hội thông qua: (i) các hoạt động
của đại biểu Quốc hội; (ii) các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, và (iii) các hoạt động
thực tiễn của Quốc hội [64].
Đối với các nhà nghiên cứu ở nước ngoài, tính đại diện của nghị viện nói chung
cũng có tính thu hút rất cao mặc dù đây không phải là vấn đề mới. Đại diện cũng được
các nhà nghiên cứu nước ngoài xem là một trong những tính chất quan trọng của nghị
viện. GS.Phillip Norton và TS. Cristina Leston-Bandeira nhận xét: “Chức năng đại diện
là trung tâm của các lí do vì sao Quốc hội tồn tại” [84].
Nghiên cứu sâu về tính đại diện của nghị viện, các nhà nghiên cứu nước ngoài
cho rằng tính đại diện của nghị viện được hình thành nên từ hai nền tảng lý luận cơ bản,
đó là lý thuyết về đại diện chính trị và lý thuyết về chủ quyền nhân dân [133, tr. 10].
Về lý thuyết đại diện chính trị, theo nhiều nhà nghiên cứu, sự ra đời của lý thuyết
này ban đầu là nhằm giải thích cho tính chính đáng của quyền lực của các thế lực cầm
quyền trong xã hội. Điểm lại quá trình phát triển của lý thuyết đại diện chính trị, Rebekka
Gohring cho rằng trong lịch sử có một số dạng đại diện chính trị cơ bản là: (i) đại diện
biểu tượng, (ii) đại diện hấp thu, (iii) đại diện chức năng, và (iv) dân chủ đại diện, trong
đó dân chủ đại diện là hình thức phát triển nhất [159, tr. 42-44].
Về lý thuyết chủ quyền nhân dân, tác giả nổi tiếng nhất của lý thuyết này là Jean
Jacques Rousseau (1712 – 1778) với tác phẩm Bàn về khế ước xã hội [32]. Trong tác
phẩm của mình, Rousseau đã khẳng định chủ quyền nhân dân là tổng cộng tất cả mọi
phân số chủ quyền của mỗi một cá nhân trong xã hội, mỗi công dân nắm trong tay một
phân số của chủ quyền, có quyền tham gia thiết lập nên ý chí chung của xã hội. Do đó,
mọi quyết định phải được mọi công dân chấp thuận. Đây là quan điểm chủ trương về
một nền dân chủ trực tiếp, thể hiện quyền lực tuyệt đối của nhân dân. Tuy nhiên, ngay
bản thân Rousseau cũng nhận xét nền dân chủ như vậy chỉ có thể thực hiện được trong
những điều kiện lý tưởng [32, tr. 136 - 137].
Khi không có những điều kiện lý tưởng như vậy, dân chủ đại diện là một giải
pháp hữu hiệu. Lý thuyết dân chủ đại diện bắt đầu được phổ biến vào thế kỷ 18 – 19,
đặc biệt là trong giai đoạn sau Cách mạng tư sản Hoa Kỳ (1776) và Cách mạng tư sản
17
Pháp (1789) gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà triết học về chính trị pháp lý nổi tiếng
như Emmanuel Sieyes, John Stuart Mill, James Madison.
Về cơ bản, lý thuyết dân chủ đại diện được xây dựng trên cơ sở thừa nhận chủ
quyền thuộc về nhân dân như các lập luận của Rousseau. Tuy nhiên, chủ quyền nhân
dân chỉ có thể thực hiện được một cách hiệu quả trên thực tế thông qua những người đại
diện. Thậm chí, Emmanuel Sieyes, dựa trên các lập luận về ưu thế của sự phân công lao
động, còn khẳng định rằng dân chủ đại diện có nhiều điểm ưu việt hơn dân chủ trực tiếp
[159, tr. 50]. Chia sẻ quan điểm này, trong tác phẩm Người Liên bang nổi tiếng của
mình, James Madison đã nhận xét nền dân chủ trực tiếp chỉ phù hợp với các nhà nước
thành bang quy mô nhỏ và luôn nổi bật với những hỗn loạn và tranh cãi thường trực về
các quyết định vội vàng, nóng vội và không sáng suốt. Trong khi đó, một chính thể đại
diện được xây dựng như trong bản hiến pháp (của Hoa Kỳ) sẽ không chỉ cho phép xây
dựng một nền cộng hòa rộng lớn mà còn cho phép điều chỉnh quan điểm của những
người dân bình thường thông qua một bộ lọc là những người đại diện có trách nhiệm,
tinh hoa và thông thái, có thể nhận thức được những lợi ích đúng đắn nhất của đất nước
[131, tr. 43-45].
Từ những cơ sở lý luận về chủ quyền nhân dân và đại diện chính trị như trên, một
số nhà nghiên cứu nước ngoài đã đi sâu phân tích khái niệm về tính đại diện của Quốc
hội. Hanna Patkin, trong tác phẩm nổi tiếng của mình đã định nghĩa chung về đại diện
chính trị của Quốc hội là tính chất làm cho các tiếng nói, các ý kiến và các quan điểm
của người dân được thể hiện trong quy trình xây dựng chính sách. Hanna Patkin thậm
chí còn phân tích rất kĩ càng về cấu trúc của tính đại diện. Bà cho rằng đại diện có bốn
dạng cơ bản gồm: (i) Đại diện hình thức, (ii) đại diện biểu tượng, (iii) đại diện đồng
dạng, và (iv) đại diện nội dung [143]. Đây là cách thức tiếp cận có ảnh hưởng nhất hiện
nay về tính đại diện của Quốc hội.
Quan điểm cho rằng tính đại diện của nghị viện chính là đại diện cho các tiếng
nói, các ý kiến và các quan điểm của người dân cũng được nhiều nhà nghiên cứu khác
chia sẻ. Chẳng hạn, trong cuộc Hội thảo về chức năng đại diện và mối quan hệ giữa lập
pháp và hành pháp do Văn phòng Quốc hội và Dự án UNDP tổ chức tại thành phố Hồ
Chí Minh năm 2004, GS. John K. Johnson, Đại học Quốc gia New York cũng khẳng
định tính chất đại diện của Quốc hội là tính đại diện cho những sự khác biệt vào quá
18
trình làm luật. Hay nói cách khác, tính đại diện của Quốc hội được thể hiện như “những
đầu dây thần kinh của xã hội” với trách nhiệm lắng nghe và trả lời những nhu cầu của
các cá nhân và các nhóm trong xã hội [33].
b) Về các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội
Về các yếu tố tác động đến tính đại diện của Quốc hội, hiện tại ở trong nước cũng
như ở nước ngoài đã có khá nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Trong bài viết về
“Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội”, tác giả Trần Thị Hạnh
Dung đã phân tích mười yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng đại diện gồm:
1) Các đại biểu phải được bầu trực tiếp, tự do, bình đẳng thông qua bầu cử phổ
thông và bỏ phiếu kín;
2) Nhiệm kỳ của các đại diện không nên quá dài;
3) Tần suất hoạt động của Quốc hội;
4) Các đại biểu hoạt động chuyên trách và luôn tiếp xúc với cử tri;
5) Sự trung thành của đại biểu đối với cử tri trước các nhóm lợi ích khác nhau;
6) Nguồn lực đảm bảo cho hoạt động của các đại biểu;
7) Quốc hội cần hoạt động công khai;
8) Tính đại diện đa dạng trong Quốc hội;
9) Cơ chế dân chủ trực tiếp;
10) Sự kiểm soát, chế ngự quyền lực của cơ quan đại diện.
Tuy nhiên, phải nói rằng các yếu tố này mới được đưa ra theo dạng liệt kê mà
chưa có sự phân tích về cách thức tác động đến tính đại diện của Quốc hội. Đồng thời,
dường như chưa có sự thống nhất trong việc xác định các tiêu chí ảnh hưởng đến tính
đại diện. Chẳng hạn, yếu tố “tính đại diện đa dạng của Quốc hội” mang tính yêu cầu
nhiều hơn là yếu tố tác động đến tính đại diện của Quốc hội. Hơn nữa, do các phân tích
này chưa có tính hệ thống nên chưa chỉ ra mối liên hệ, tác động qua lại của những yếu
tố này đến các hình thức đại diện khác nhau của Quốc hội.
Một tác giả khác đã tiến hành phân tích kĩ hơn các yếu tố bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội với bốn yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là:
Một là, tính đại diện theo đảng phái là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của
sự ủy trị;
19
Hai là, bảo đảm sự bình đẳng và cơ hội như nhau cho các đại biểu Quốc hội;
Ba là, cơ chế ràng buộc chế độ trách nhiệm của đại biểu trước cử tri đã bầu ra họ;
Bốn là, bảo đảm tính đại diện cho các tầng lớp “yếu thế: trong xã hội như phụ
nữ, dân tộc thiểu số, nông dân [130, tr. 26 - 27].
Một nghiên cứu khác lại phân tích những yếu tố đảm bảo tính đại diện của Quốc
hội thông qua một số yếu tố như:
Một là, cơ cấu đại biểu trong mỗi khóa Quốc hội là một trong những yếu tố quan
trọng xác định tính đại diện của Quốc hội;
Hai là, mô hình tổ chức một viện hay hai viện;
Ba là, chất lượng đại biểu Quốc hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc
thực thi vai trò đại diện của Quốc hội;
Bốn là, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri, tạo cơ chế, kiểm
tra, giám sát của cử tri đối với các đại biểu Quốc hội [38, tr. 224 - 238].
Do việc xác định các yếu tố này chưa dựa trên các phân tích có tính hệ thống nên
rõ ràng còn thiếu một số yếu tố nhất định ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội.
Chẳng hạn như các yếu tố liên quan đến cách thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
về tính công khai trong hoạt động của Quốc hội …
Việc xác định các yếu tố tác động đến tính đại diện của Quốc hội cũng được các
nhà nghiên cứu ở nước ngoài rất quan tâm. GS. John K. Johnson đề cập đến ba yếu tố
cơ bản ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội như sau:
Thứ nhất, hệ thống bầu cử. Theo đó, hệ thống tranh cử sẽ ảnh hưởng đến cách
các đại biểu Quốc hội đại diện cho các cử tri và tính độc lập của họ khi được bầu.
Thứ hai, hệ thống chính trị. Theo đó, mức độ ngăn cách và thống nhất giữa các
nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp cũng ảnh hưởng đến cách thực hiện các chức
năng đại diện của những nhà làm luật.
Thứ ba, các nguồn lực và năng lực kỹ thuật của nghị viện. Theo đó, việc tổ chức
các phiên họp mở, thiết lập các văn phòng ở khu vực bầu cử để tạo điều kiện tiếp xúc,
gặp gỡ với cử tri và các nhóm xã hội, sử dụng ý kiến đóng góp của họ để xây dựng hoặc
sửa đổi dự án luật đều có những tác động đến tính đại diện của Quốc hội [33].
20
Trong một số nghiên cứu của mình, Liên minh nghị viện thế giới (IPU) cũng đã
xác định những nội dung gần tương tự như: (i) quy tắc và thủ tục bầu cử; (ii) tính công
bằng và toàn diện của các quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội [148, tr. 13 - 20].
Theo một cách tiếp cận khác, một số nhà nghiên cứu ở ngoài nước đưa ra những
tiêu chí để đánh giá mức độ đại diện của Quốc hội, qua đó phần nào cho thấy những yếu
tố ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội. GS.TS Jugen Meyer đưa ra 8 tiêu chí để
thực hiện công việc này, gồm:
i) Nghị sĩ phải được bầu trực tiếp, tự do, bình đẳng và thông qua bầu cử phổ thông
và bỏ phiếu kín;
ii) Đại biểu phải là chuyên trách;
iii) Mức độ tiếp xúc cử tri ở khu vực cử tri;
iv) Đại biểu được quyền thể hiện chính kiến của mình;
v) Các đại biểu được trang bị đầy đủ các nguồn lực để hoàn thành nhiệm vụ của
mình;
vi) Sự tin tưởng của người dân;
vii) Hệ thống đại diện cho toàn quốc hay địa phương;
viii) Sự tham gia của người dân vào các quyết định của Quốc hội (dân chủ tham
gia) [35, tr. 239 - 247].
1.2.2. Về thực trạng bảo đảm tính đại diện của Quốc hội Việt Nam
Rất nhiều nghiên cứu ở Việt Nam trong thời gian vừa qua thống nhất với nhận
định “hiện nay vẫn chưa có sự nhận thức chính xác và thấu đáo về tính đại diện của thiết
chế nghị viện” [130, tr. 22]. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đánh giá về mức độ
đại diện của Quốc hội nước ta là không nhiều. Trong hệ thống đề tài nghiên cứu khoa
học do Văn phòng Quốc hội chủ trì thực hiện cũng chưa có một đề tài nghiên cứu nào
tiến hành đánh giá về thực trạng bảo đảm tính đại diện của Quốc hội nước ta. Bên cạnh
đó, do chưa tiếp cận các yếu tố ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội một cách tổng
thể như là một cơ chế nên việc đánh giá thực trạng bảo đảm tính đại diện của Quốc hội
còn theo nhiều xu hướng khác nhau. Cụ thể, các công trình nghiên cứu hiện tại chủ yếu
tập trung vào một số điểm sau đây:
21
- Về bầu cử và các tác động đến tính đại diện của Quốc hội, trong luận án của
mình, TS. Vũ Văn Nhiêm đã có sự đánh giá rất chi tiết về những tác động của cơ chế
bầu cử đến tính đại diện của Quốc hội [128]. Phát hiện nổi bật nhất trong công công
trình nghiên cứu này là thực trạng đại diện không đồng đều giữa các cử tri ở các địa
phương khác nhau trong cả nước. Chẳng hạn, trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XII, nếu
ở thành phố Hồ Chí Minh, mỗi đại biểu Quốc hội đại diện cho 226.581 người dân thì ở
tỉnh Đắc Nông, tỉ lệ này 66.250 người. Như vậy, tính một cách số học thì mức độ được
đại diện của người dân ở Đắc Nông đang gấp 3,5 lần so với người dân ở thành phố Hồ
Chí Minh [127].
Bên cạnh đó, cách thức thành lập các khu vực bầu cử ở nước ta hiện nay cũng
dẫn đến một số hạn chế nhất định đối với tính đại diện của Quốc hội. Một số nhà nghiên
cứu đã nhận xét việc thiết lập các khu vực bầu cử trùng khít với các khu vực hành chính
đã dẫn đến tình trạng các đại biểu Quốc hội có thiên hướng đại diện cho các địa phương
nhiều hơn là đại diện cho lợi ích của Quốc gia. Điều này được phản ánh qua việc các đại
biểu thường phát biểu để bảo vệ cho lợi ích của địa phương nhiều hơn là lợi ích của quốc
gia khi tham gia thảo luận tại Quốc hội [65].
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cũng đánh giá việc bầu cử theo hình thức mỗi
khu vực bầu cử bầu ra nhiều hơn một đại biểu cũng dẫn tới tình trạng mức độ liên kết
giữa các cử tri và các đại biểu Quốc hội không được chặt chẽ [130]. Hệ quả của vấn đề
này là, như TS. Nguyễn Ngọc Điện đã nhận định, cho đến nay, đại biểu Quốc hội ở nước
ta vẫn chưa có điều kiện xây dựng đội ngũ cử tri trung thành của mình [62].
- Về cơ cấu thành phần các đại biểu Quốc hội và tính đại diện của Quốc hội, các
nghiên cứu hiện tại đã có những đánh giá khác nhau về tác động của cơ cấu thành phần
của các đại biểu Quốc hội tới tính đại diện của Quốc hội. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
tính đa dạng trong cơ cấu của các thành phần đại biểu Quốc hội là một điểm ưu việt
trong tính đại diện của Quốc hội nước ta. Nó thể hiện sự đại diện “đồng dạng” với các
thành phần trong xã hội, nói lên “tiếng nói” của đầy đủ các thành phần trong xã hội [99].
Mặc dù vậy, các ý kiến này mới chỉ dừng lại ở góc độ phân tích lí luận mà chưa đưa ra
các thực tiễn chứng minh về sự phản ánh ý kiến của người dân thuộc các thành phần mà
các đại biểu được cơ cấu.
22
Trong khi đó, nhiều ý kiến khác lại cho rằng việc mang nhiều “gánh nặng về mặt
cơ cấu” thực ra lại có ảnh hưởng tiêu cực đến tính đại diện của Quốc hội. Bởi vì, để lựa
chọn được một cơ cấu phù hợp phải có sự can thiệp chủ quan và do vậy phần nào đã bỏ
qua quyền của người dân trong việc tự lựa chọn người đại diện của mình cũng như có
thể bỏ qua những người có năng lực thực sự để có thể làm đại biểu [56, tr. 422 - 430].
Ngoài ra, việc cơ cấu để đảm bảo đầy đủ các thành phần trong xã hội cũng được
một số nhà nghiên cứu nhận định sẽ dẫn tới tình trạng xung đột về mặt lợi ích và do vậy
ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội. Chẳng hạn, những người được xem là mang
trong mình cơ cấu của một ngành thường gặp rất nhiều khó khăn và rào cản trong việc
tiến hành chất vấn đối với bộ trưởng của ngành mình [69].
Cuối cùng, một số nghiên cứu dựa trên việc thống kê cũng cho thấy các nỗ lực
để thiết lập một cơ cấu cho phép Quốc hội có thể đại diện một cách “đồng dạng” với các
thành phần trong xã hội là rất khó khăn. Chẳng hạn, mặc dù vào thời điểm hiện tại ở
nước ta có khoảng 70% dân số đang làm việc trong khu vực kinh tế nông nghiệp nhưng
tỉ lệ đại biểu Quốc hội trong lĩnh vực này càng ngày càng giảm. Ngược lại, trong khi số
lượng quân nhân ngày càng trở nên chuyên nghiệp, tinh gọn thì tỉ lệ đại biểu Quốc hội
là quân nhân vẫn luôn ở mức độ từ 10 đến 12% [107].
- Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội với tính đại diện của Quốc hội, các nhà nghiên
cứu hiện nay cũng có những đánh giá khác nhau về vấn đề này. Đánh giá về mô hình tổ
chức Quốc hội một viện như hiện nay ở nước ta, tác giả Nguyễn Quang Minh cho rằng
“với cách thức tổ chức và hoạt động như vậy, tổ chức và hoạt động của Quốc hội dường
như được gắn kết, là một khâu trong sinh hoạt xã hội, không tách rời hoặc đứng bên trên
sinh hoạt xã hội, đứng bên trên đời sống của nhân dân” [64]. Tuy nhiên, một số tác giả
khác lại cho rằng việc tổ chức mô hình tổ chức một viện sẽ không đảm bảo được sự đại
diện cân đối giữa đại diện cho toàn thể quốc dân và đại diện cho các địa phương. Thậm
chí, xuất phát từ đánh giá này GS.TS. Nguyễn Đăng Dung còn đề nghị cần phải thành
lập một viện thứ hai của Quốc hội [57, tr. 320 - 321].
- Về mối liên hệ giữa các cử tri với đại biểu Quốc hội, có thể nói đây là nội dung
nhận được nhiều sự đánh giá nhất và có tính tương đồng nhất. Hầu hết các nhà nghiên
cứu đều cho rằng tiếp xúc cử tri như hiện nay ở nước ta còn mang nặng tính hình thức,
không đi vào thực chất và do vậy làm giảm tính đại diện của Quốc hội. Điều này được
23
phân tích khá rõ trong Đề án đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
Theo đó, nội dung, chương trình hội nghị tiếp xúc cử tri còn đơn điệu, thông tin chuyển
tải đến cử tri chưa đáp ứng được nhu cầu của cử tri, chưa dành nhiều thời gian để cử tri
phát biểu tâm tư, nguyện vọng của mình [2, tr. 11].
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu còn tiếp cận vấn đề này ở góc độ rộng hơn,
đó là về sự giám sát của các cử tri đối với hoạt động của các đại biểu Quốc hội. Đánh
giá về cơ chế giám sát hiện hành, nhiều chuyên gia nhấn mạnh hiện nay việc quy định
cử tri có thể bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội là một ưu điểm làm tăng tính đại diện của
Quốc hội. GS.TS Trần Ngọc Đường nhận xét: “Bãi nhiệm là một chế định pháp lý thể
hiện bản chất ưu việt và mang tính chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Đại biểu được nhân dân bầu ra phải chịu sự giám sát của nhân dân, khi đại biểu
không được sự tín nhiệm của nhân dân thì bị nhân dân bãi miễn” [100].
Một góc độ đánh giá khá đặc biệt trong mối quan hệ giữa các đại biểu Quốc hội
và cử tri có liên quan đến tính đại diện của Quốc hội nước ta đó là về sự quan tâm của
người dân tới hoạt động của Quốc hội nói chung và các đại biểu Quốc hội nói riêng.
Theo tác giả Đặng Đình Luyến, sự quan tâm, đánh giá của cử tri đối với hoạt động của
Quốc hội có tác động rất lớn đối với hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội. Sự quan
tâm này được thực hiện thông qua quá trình tiếp xúc cử tri cũng như qua các phương
tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn cần có những nỗ lực để tiếp tục
nâng cao sự quan tâm của công chúng tới các hoạt động của Quốc hội [11].
- Về thời gian hoạt động của Quốc hội và tính đại diện, nhiều tác giả đã nhận xét
rằng với thời gian hoạt động chỉ là 2 kì họp, mỗi kì họp thường kéo dài một tháng như
hiện nay sẽ ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội. Việc có thời gian làm việc dài
hơn sẽ giúp cho Quốc hội giải quyết tốt các chức năng của mình, đảm bảo ban hành các
chính sách, pháp luật và ra các quyết định nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng được nguyện
vọng và lợi ích chính đáng của cử tri [102, tr. 15].
- Điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội cũng là một yếu tố được nhiều
nhà nghiên cứu đề cập đến khi khảo sát về thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của
Quốc hội. Khi thảo luận về vấn đề này, TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã so sánh thực trạng điều
kiện hoạt động hiện tại của các đại biểu Quốc hội nước ta với một số nước khác trên thế
24
giới. Việc không có điều kiện tài chính để phục vụ cho khu vực bầu cử của mình làm
cho “việc thực hiện chức năng đại diện ở nước ta là khó khăn hơn” [66].
- Liên quan đến các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, việc đánh giá về đảm
bảo tính đại diện của Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội cũng
được nhiều công trình nghiên cứu đề cập. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đa số các công
trình nghiên cứu hiện tại mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá tính đại diện của Quốc hội
như là một điều kiện để hỗ trợ thêm cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác
của Quốc hội. Nói cách khác, trọng tâm của các nghiên cứu này không phải là về bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội mà là các chức năng, nhiệm vụ khác của Quốc hội.
Trong hoạt động lập pháp, một báo cáo nghiên cứu mang tính toàn diện về việc
sửa đổi quy trình, thủ tục lập pháp của Quốc hội vào năm 2008 (phục vụ cho việc sửa
đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008) đã đưa ra những số
liệu cụ thể về mức độ phản ánh ý kiến của người dân trong các chính sách lập pháp của
Quốc hội. Theo đó, một tỉ lệ lớn người dân được hỏi cho rằng họ cảm thấy chưa được
đại diện một cách hữu hiệu trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Kết quả điều tra của
nghiên cứu này cho thấy có tới 77.5% số công chức, viên chức, cán bộ nghiên cứu và
63.7% số đại biểu Quốc hội được hỏi cho rằng việc lấy ý kiến nhân dân vào các dự án
luật, pháp lệnh thời gian qua còn mang tính hình thức; 84.3% số công chức, viên chức,
cán bộ nghiên cứu được hỏi đã cho rằng việc tiếp thu và giải trình còn hạn chế hoặc hầu
như ít tiếp thu các ý kiến của họ vào các dự án luật, pháp lệnh [106, tr. 61 - 68].
Trong một nghiên cứu hiếm hoi lấy việc đánh giá tính đại diện của Quốc hội làm
trọng tâm để xem xét việc thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội, GS.TS. Trần
Ngọc Đường đã đánh giá cần phải xem lại nhận định Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập pháp, Quốc hội cần phải tự mình làm lấy luật. Từ góc độ đại diện, cần phải
quan niệm: “Quốc hội lập pháp có nghĩa là Quốc hội đại diện cho nhân dân tiến hành
kiểm tra các dự án luật, đảm bảo cho các dự án luật khi đã được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực thi hành thể hiện đầy đủ, đúng với ý chí, nguyện vọng của nhân dân” [99].
Đối với hoạt động giám sát của Quốc hội, các đánh giá về tính đại diện hiện nay
chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ thiếu sự liên hệ giữa các đại biểu và cử tri nên ảnh
hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội [39]. TS. Trương Thị Hồng Hà,
trong luận án của mình, đã nhận xét rằng trong khi có các đại biểu kiêm nhiệm có thể bị
25
xung đột về lợi ích nên không tiến hành tốt hoạt động chất vấn, thì có các đại biểu khác
được bầu làm đại biểu do “lợi thế về cơ cấu” mà không do “lợi thế năng lực” nên không
có đủ năng lực cần thiết trong việc tiến hành hoạt động giám sát [112, tr. 314 - 315].
- Bên cạnh các nghiên cứu đánh giá thực trạng mang tính định tính như trên, cũng
có một số nghiên cứu đánh giá về thực trạng đại diện của Quốc hội mang tính định
lượng. Góc độ tiếp cận của các nghiên cứu này có tính thực tiễn hơn. Theo đó, việc đo
lường tính đại diện của Quốc hội được khảo sát bằng việc đo mức độ hài lòng của người
dân đối với sự đại diện của Quốc hội. Đây cũng là cách đánh giá tương đối phổ biến ở
nước ngoài và được Liên minh nghị viện thế giới khuyến khích sử dụng [149].
Trong một báo cáo nghiên cứu được tổ chức vào năm 2006, các nhà nghiên cứu
đã đưa ra một số số liệu đáng chú ý như: 75% số đại biểu Quốc hội thường tiếp xúc cử
tri theo đoàn hơn là tiếp xúc cử tri mang tính cá nhân, 50% số đại biểu Quốc hội tiếp
xúc cử tri từ 1 đến 2 lần mỗi tháng, 66% cử tri trả lời không biết tên đại biểu Quốc hội
do mình bầu ra, 54% cử tri đô thị chưa bao giờ tham gia các buổi tiếp xúc cử tri của đại
biểu Quốc hội [73, tr. 57-60].
Một nghiên cứu có tính cập nhật hơn cũng cho thấy những số liệu không mấy
khả quan từ phía người dân khi đánh giá về tính đại diện của Quốc hội. Chẳng hạn, chỉ
có 36,8% số người dân được hỏi trả lời đúng vị trí của Quốc hội là cơ quan đại diện cho
ý chí và nguyện vọng của nhân dân; chỉ có 21% số người dân được hỏi nhớ được từ 1
đến 5 tên người đại biểu ở địa phương mình, có đến 92,5% số người dân không biết đến
trụ sở của Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương; có khoảng 71,3% người dân chưa bao
giờ tham gia các hoạt động tiếp xúc cử tri (cao hơn số liệu của nghiên cứu năm 2006).
Đặc biệt, có đến 88,5% số người được hỏi cho rằng đại biểu Quốc hội cần tìm hiểu sâu
sát nguyện vọng của người dân hơn [109]. Điều này cho thấy mặc dù về mặt lí luận, các
nhà nghiên cứu có thể có những đánh giá khá lạc quan về tính đại diện nhân dân của
Quốc hội, tuy nhiên, trên thực tế đánh giá của bản thân người được đại diện thì số liệu
cho thấy chưa hẳn đã có sự tương xứng giữa việc đánh giá định tính và định lượng.
26
1.2.3. Về các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội
a) Về yêu cầu tăng cường tính đại diện của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong thời gian vừa qua đã có khá nhiều nghiên cứu về các
yêu cầu đặt ra đối với Quốc hội trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Trong những yêu cầu đó, nhiều tác giả đã dành thời gian để phân tích về yêu
cầu tăng cường tính đại diện của Quốc hội.
Khi bàn về mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, GS.TSKH Đào Trí Úc đã xem việc đảm bảo tính đại diện của Quốc hội
là một trong những nguyên tắc của việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của
Quốc hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền, tính đại diện của Quốc hội càng phải thể hiện rõ nét không
chỉ dưới góc độ tổ chức, phương thức hoạt động mà còn ở các sản phẩm lập pháp [13,
tr. 321 - 322].
Cùng với GS.TS Nguyễn Đăng Dung, các tác giả của công trình nghiên cứu
“Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền” cũng đánh giá: “Quốc hội trong nhà
nước pháp quyền phải biết phát huy chức năng đại diện” [56, tr. 478]. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu này chưa làm rõ nguyên nhân tại sao cần phải tăng cường tính đại
diện của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong khi đó, các tác
giả của công trình nghiên cứu “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của
Quốc hội và Chính phủ trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân ở nước ta” cho rằng sự tồn tại của Quốc hội với vị trí là cơ quan đại diện cao nhất
của nhân dân là đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện
sự đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp trong
việc đề cao quyền con người, quyền công dân … [98, tr. 17 - 40]
b) Về một số đề xuất kiến nghị, giải pháp
Xuất phát từ thực tiễn chưa có các cơ sở lý luận đầy đủ và thấu đáo về tính đại
diện của Quốc hội, nhiều nghiên cứu đã đặt ra vấn đề đầu tiên trong việc nâng cao tính
đại diện của Quốc hội là cần phải nghiên cứu, làm rõ về tính đại diện của Quốc hội về
27
mặt lí luận. Một số tác giả còn đề nghị thể hiện nội dung này vào Hiến pháp theo hướng
nên tách hẳn đoạn quy định “ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân” trong
Hiến pháp 1992 thành một điều riêng biệt, đặt ở vị trí đầu tiên trong Chương về Quốc
hội của Hiến pháp để nhấn mạnh tính đại diện của Quốc hội [130].
Đi vào các nội dung cụ thể, trong các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ
chế bảo đảm tính đại diện của Quốc hội, nội dung được nhiều tác giả đề cập đến nhất là
cần phải nâng cao vị thế, năng lực của các đại biểu Quốc hội.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh đến giải pháp này. PGS.TS Bùi Xuân
Đức cho rằng để nâng cao chức năng đại diện của Quốc hội, cần có “cái tâm và cái tầm
của đại biểu” [6]. Nhận xét này được nhiều nhà nghiên cứu khác chia sẻ. Trong đề tài
nghiên cứu cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của
Quốc hội trong bộ máy Nhà nước và hệ thống chính trị Việt Nam (qua 4 bản Hiến
pháp)”, TS. Ngô Đức Mạnh cũng nhấn mạnh “đổi mới Quốc hội phải nhằm mục đích
phát huy dân chủ đại diện, mà trước hết đòi hỏi đại biểu Quốc hội phải thực sự là người
đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân thuộc các dân tộc, tôn giáo,
các vùng, miền khắp trong cả nước” [51, tr. 105 - 107]. Trong khi đó, PGS.TS Lê Minh
Thông kết luận rằng: “chất lượng đại biểu Quốc hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối
với việc thực thi vai trò đại diện của Quốc hội” [38]. Đi xa hơn một số nghiên cứu trước,
PGS.TS Lê Minh Thông còn đưa ra các phương diện cụ thể để xác định năng lực đại
diện của các đại biểu Quốc hội như:
i) Năng lực nắm bắt, phân tích, đánh giá ý chí, nguyện vọng, mong muốn và lợi
ích của các cử tri mà người đại biểu đại diện;
ii) Năng lực diễn đạt, trình bày, đề xuất các vấn đề mà cử tri quan tâm trước Quốc
hội;
iii) Năng lực kết hợp lợi ích của cử tri với lợi ích của quốc gia;
iv) Năng lực của người đại biểu trong đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng đắn và kịp
thời các quyết định của Quốc hội liên quan đến lợi ích và quyền hợp pháp của các cử tri
mà người đại biểu đại diện [38].
Bên cạnh đó, năng lực của người đại biểu Quốc hội là một vấn đề có sự gắn kết
chặt chẽ với vấn đề cơ cấu thành phần của Quốc hội. Ở đây, các nhà nghiên cứu khác
nhau còn có những phân tích, nhận định khác nhau. Một số tác giả, một mặt yêu cầu
28
tăng cường năng lực của các đại biểu, nhưng mặt khác cũng đề nghị cẩn phải đảm bảo
tính đa dạng trong cơ cấu thành phần của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội phải có thành
phần đa dạng, đại diện cho “các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, bảo đảm thích hợp các
đại biểu Quốc hội là phụ nữ, người dân tộc, người ngoài Đảng trong Quốc hội; cần tăng
cường số đại biểu Quốc hội là cán bộ đang công tác trong các cơ quan của Đảng, tổ chức
chính trị, xã hội, hội đồng nhân dân” [11]. Trong khi đó, một số tác giả yêu cầu phải
xem xét lại tính cơ cấu trong thành phần của các đại biểu và xem việc phải gánh trên
mình quá nhiều “cơ cấu” chính là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của đại biểu Quốc
hội. Ở góc độ này, có tác giả đã nhấn mạnh: “Không nên quan niệm rằng cứ phải có một
chị nông dân trong Quốc hội thì mới có người đại diện cho giai cấp nông dân, cũng như
không phải cứ có một nhà khoa học ngồi trong Quốc hội thì mới có tiếng nói của tầng
lớp trí thức trong Quốc hội. “Đại diện” ở đây cần là đại diện cho cái “tâm”, cái “trí”, cái
“dũng” hơn là đại diện bởi con người cụ thể” [64]. Tác giả này cũng đề nghị cần giảm
bớt số lượng các đại biểu Quốc hội là công chức nhà nước bởi vì như vậy vô hình chung
thành phần tính đại diện của Quốc hội đã trở thành “đại diện cho các cơ quan nhà nước”
chứ không phải là “đại diện cao nhất của nhân dân”.
Tuy không đề nghị cần phải đảm bảo tính cơ cấu trong thành phần của Quốc hội
phải “đồng dạng” với cơ cấu thành phần của xã hội, nhưng một số nhà nghiên cứu đưa
ra lưu ý cần phải dành sự đại diện nhất định cho những thành phần yếu thế trong xã hội
trong Quốc hội [130]. Đây là một lưu ý chính đáng bởi vì việc bảo đảm tính đại diện của
Quốc hội bao gồm cả việc bảo đảm bình đẳng giữa những người dân trong đó có việc
bảo đảm ý kiến của nhóm thiểu số được ghi nhận. Chi tiết hơn đề nghị này, các nhà
nghiên cứu đề nghị cần tính đến giải pháp dành một số ghế nhất định trong Quốc hội
cho một số đối tượng đặc biệt như phụ nữ, dân tộc thiểu số, nông dân, hoặc cho người
Việt định cư ở nước ngoài [130, tr. 27].
Cần phải thấy rằng nếu đi đến tận cùng của việc làm thế nào để có được những
đại biểu Quốc hội có chất lượng thì vấn đề sẽ trở lại với việc đổi mới cơ chế bầu cử đại
biểu Quốc hội ở nước ta. Chỉ thông qua cơ chế bầu cử tự do trong đó có sự tôn trọng
quyền tranh cử của các ứng cử viên thì mới có thể giúp các cử tri có thể tìm ra được
những đại biểu Quốc hội xứng đáng. Trong luận án của mình, TS. Vũ Văn Nhiêm cũng
29
đã đưa ra những đề xuất cụ thể trong cơ chế bầu cử nhằm tăng cường tính đại diện của
Quốc hội. Trong đó, có hai đề xuất có tính đột phá là:
Thứ nhất, cần chuyển đơn vị bầu cử nhiều đại diện sang đơn vị bầu cử một đại
diện. Với cách thức tổ chức đơn vị bầu cử như vậy, các đại biểu Quốc hội sẽ có mối
quan hệ “máu thịt” hơn giữa các đại biểu với cử tri, tạo cơ chế rõ ràng hơn về chế độ
trách nhiệm và chế độ giải trình của các đại biểu Quốc hội. GS.TS Thái Vĩnh Thắng
cũng nhấn mạnh đến kiến nghị này ở góc độ việc tổ chức các khu vực bầu cử đơn danh
sẽ tăng thêm khả năng lựa chọn của công dân, tức là quyền làm chủ của người dân sẽ
được thể hiện mạnh mẽ hơn [91, tr. 14 -15];
Thứ hai, đảm bảo hợp lý về tính đại diện. Theo đó, chế độ bầu cử cần phải được
thiết kế sao cho kết quả bầu cử phải phản ánh tính đại diện của nhân dân trong địa dư
bầu cử [128, tr. 170 - 175].
Để đảm bảo tính đại diện đồng đều của Quốc hội, nhiều tác giả cũng đề xuất cần
phải thành lập mô hình Quốc hội hai viện ở nước ta. Theo đó, để hạn chế tình trạng cơ
chế đại diện có xu hướng dịch chuyển về việc bảo vệ lợi ích của các địa phương, nên
thành lập thêm Viện thứ hai để cân bằng giữa lợi ích của quốc gia và lợi ích của các địa
phương. Hoặc một giải pháp có tính dung hòa hơn là vẫn giữ mô hình một viện như hiện
nay nhưng phải dành cho ít nhất là một nửa số đại biểu được bầu không theo các địa
phương cấp tỉnh [57, tr. 321 - 322].
Cùng với cơ chế bầu cử, việc tạo điều kiện để tăng cường sự giám sát của nhân
dân đối với việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội cũng là một giải pháp
quan trọng để tăng cường tính đại diện của Quốc hội. Trong đó, một trong những giải
pháp quan trọng là cần phải tăng cường tính công khai trong hoạt động của Quốc hội,
chẳng hạn như việc tổ chức truyền hình trực tiếp các phiên họp của Quốc hội, tổ chức
các phiên điều trần công khai v.v… [68, tr. 7 - 10]. Bên cạnh đó, giải pháp bổ sung các
quy định pháp luật để hiện thực hóa quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội của các cử
tri cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Theo họ, đây có thể được xem là biện
pháp mạnh nhất nhằm tăng động lực đại diện của các đại biểu Quốc hội [100].
Ở nhóm các giải pháp mang nhiều tính kĩ thuật hơn, các nhà nghiên cứu cũng đã
đưa ra nhiều luận điểm khác nhau nhằm tăng cường tính đại diện của Quốc hội. Chẳng
30
hạn, có tác giả đề nghị cần đổi mới nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội theo hướng để
Quốc hội có thực quyền hơn, làm tròn mọi nhiệm vụ được nhân dân giao cho [64].
Có tác giả đề nghị cần giảm bớt thời gian nhiệm kì của đại biêu Quốc hội để
người dân có thể trực tiếp lựa chọn người đại diện của mình một cách dày hơn; thời gian
hoạt động của Quốc hội trong mỗi năm cần phải kéo dài hơn, không chỉ ở mức hơn hai
tháng như hiện nay để có thể phản ánh được tốt hơn ý chí, nguyện vọng của cử tri; đổi
mới cách thức tiếp xúc cử tri theo hướng cần phải tạo ra cơ chế tiếp xúc cử tri một cách
liên tục, ở nhiều địa điểm khác nhau [102].
Một vấn đề kĩ thuật nhưng cũng có tính quan trọng tác động đến tính đại diện của
Quốc hội là cần tạo ra những điều kiện làm việc thuận lợi đối với các đại biểu Quốc hội
để họ có thể đại diện một cách thuận lợi cho các cử tri. Ở đây, có hai góc độ thường
được các nhà nghiên cứu đề cập đến.
Thứ nhất, đó là các điều kiện về vật chất giúp các đại biểu Quốc hội có thể tiếp
xúc một cách thuận lợi với công chúng để tìm hiểu về ý chí, nguyện vọng của các cử tri
của mình. Các nội dung cụ thể thường được nhắc đến gồm các khoản kinh phí để hỗ trợ
cho các đại biểu trong việc phục vụ cử tri [66]; các điều kiện về văn phòng làm việc ở
khu vực bầu cử để thuận lợi cho việc tiếp xúc cử tri [102] v.v…
Thứ hai, đó là các điều kiện để các đại biểu có thể tự do phát biểu những suy
nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của cử tri mà không bị hạn chế hoặc can thiệp của một bên
thứ ba. Điều này được coi là một trong những điều kiện rất quan trọng đối với hoạt động
của Quốc hội. Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa có các quy định cụ thể về vấn đề này.
Do vậy, các nhà nghiên cứu đề xuất cần bổ sung thêm quy định này vào Hiến pháp [22].
Cuối cùng, việc tăng cường tính đại diện của Quốc hội còn có sự gắn bó chặt chẽ
với năng lực của những người được đại diện là các cử tri. Theo nhiều nhà nghiên cứu,
khi các cử tri trở nên hiểu biết hơn về thiết chế đại diện thì họ cũng đặt ra nhiều yêu cầu
hơn đối với những người đại diện cho mình. Điều này có nghĩa là tính đại diện của Quốc
hội từ đó được tăng cường mạnh mẽ hơn. TS. Nguyễn Sĩ Dũng phân tích: “Những người
chủ có ý thức sẽ là những người chủ đòi hỏi nhiều hơn. Người dân đang mong muốn
Quốc hội đại diện cho mình tốt hơn [31].
Như vậy, từ việc khảo sát các nghiên cứu hiện nay có liên quan đến đề tài luận
án, có thể nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến tính đại
31
diện của Quốc hội cần được làm rõ. Trước hết, khái niệm về tính đại diện của Quốc hội
cần phải được nghiên cứu, làm rõ trên cơ sở phân tích nền tảng lý luận của việc hình
thành nên cơ quan đại diện của dân chúng. Các yêu cầu của việc bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng cần
được xác định để qua đó làm rõ các yếu tố cụ thể để bảo đảm tính đại diện của Quốc
hội. Việc đánh giá thực trạng của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong giai
đoạn hiện nay cũng cần được thực hiện một cách tổng thể, trên mọi góc độ của khái
niệm về tính đại diện của Quốc hội để qua đó hình thành nên các kiến nghị, giải pháp
cụ thể nhằm tăng cường bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Kết luận Chương 1:
1. Qua khảo sát có thể nhận thấy các nghiên cứu về Quốc hội nước ta từ trước
đến nay chủ yếu tập trung vào các chức năng của Quốc hội được ghi nhận chính thức
trong Hiến pháp mà ít đề cập đến tính đại diện của Quốc hội. Các công trình nghiên cứu
về tính đại diện của Quốc hội ở Việt Nam chủ yếu mới là các bài viết nghiên cứu ngắn,
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành hoặc tại một số cuộc hội thảo khoa học mà chưa
có những công trình nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về nội dung này. Một số bài viết đã
tập trung làm rõ những vấn đề lí luận về tính đại diện của Quốc hội. Tuy nhiên, xunh
quanh tính đại diện của Quốc hội còn có khá nhiều tranh luận. Một số tác giả cho rằng
đại diện chỉ là thuộc tính của Quốc hội mà không phải là chức năng của Quốc hội. Trong
khi đó, một số tác giả lại cho rằng không thể xem đại diện là một thuộc tính của Quốc
hội vì bản thân cơ cấu thành phần của Quốc hội không thể được xem là đương nhiên đại
diện cho toàn xã hội, hoặc vì nếu xem đại diện như một thuộc tính của Quốc hội thì đã
mở quá rộng phạm vi của khái niệm này. Trong khi đó một số tác giả lại quan niệm
không có sự phân biệt giữa việc xem đại diện là một thuộc tính hay là chức năng của
Quốc hội. Như vậy, có thể thấy rằng trong các nghiên cứu đã có hiện nay, xung quanh
việc nhận thức về chức năng đại diện của Quốc hội còn có những vấn đề lí luận chưa
được giải quyết.
2. Mối liên hệ giữa việc bảo đảm tính đại diện và hiệu quả hoạt động của Quốc
hội để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng đã được đề cập
đến trong một số nghiên cứu. Ví dụ như về mối quan hệ giữa đại diện và hoạt động lập
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN

More Related Content

What's hot

Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Cap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoaCap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoa
buixuan
 
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đTổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAYLuận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOTLuận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAYLuận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Hoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyền
Hoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyềnHoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyền
Hoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyền
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)
tuyencongchuc
 
Đề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chungĐề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chung
Nguyễn Ngọc Phan Văn
 
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)
Nguyễn Ngọc Phan Văn
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (15)

Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
Luận văn: Hoạt động tham gia xây dựng đảng của mặt trận tổ quốc phường, HAY!
 
Cap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoaCap xa thanh hoa
Cap xa thanh hoa
 
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đTổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
Tổ chức và hoạt động của UNBD phường theo Luật Tổ chức, 9đ
 
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAYLuận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
 
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
Luận văn: Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta
 
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOTLuận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
Luận văn: Hệ thống bầu cử ở một số quốc gia trên thế giới, HOT
 
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAYLuận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
Luận văn: Đổi mới tổ chức của cơ quan quản lý bầu cử, HAY
 
Hoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyền
Hoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyềnHoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyền
Hoạt động của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức chính quyền
 
kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)kien_thuc_chung_2014(1)
kien_thuc_chung_2014(1)
 
Đề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chungĐề thi công chức môn kiến thức chung
Đề thi công chức môn kiến thức chung
 
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)
Đề thi công chức chuyên ngành thanh tra nhà nước ( trắc nghiệm)
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
 
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 

Similar to Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN

Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAYQuốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAYLuận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước taGiám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAMBÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Viết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
Báo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt NamBáo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
Báo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nướcLuận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nướcLuận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.docLUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
💖Nhận Làm Đề Tài Trọn Gói 💖 Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
jackjohn45
 
Bài tập nhóm Hiến Pháp
Bài tập nhóm Hiến Pháp Bài tập nhóm Hiến Pháp
Bài tập nhóm Hiến Pháp
Long Nguyễn
 

Similar to Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN (20)

Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
 
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAYQuốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
Quốc hội cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt Nam, HAY
 
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAYLuận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
Luận án: Quốc Hội cơ quan đại diện cao nhất của Việt Nam, HAY
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docxĐổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, HAY.docx
 
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước taGiám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
Giám sát của Quốc hội đối về thực hiện quyền hành pháp ở nước ta
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOTĐề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Pháp luật về tổ chức Hội đồng nhân dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội, HAY
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAMBÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
Báo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt NamBáo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
Báo Cáo Thực Tập Tại Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Luận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nướcLuận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
 
Luận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nướcLuận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
Luận án: Lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
 
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.docLUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
LUẬN VĂN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.doc
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
 
Bài tập nhóm Hiến Pháp
Bài tập nhóm Hiến Pháp Bài tập nhóm Hiến Pháp
Bài tập nhóm Hiến Pháp
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
onLongV
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
ChuPhan32
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
vivan030207
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
PhiTrnHngRui
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 

Recently uploaded (18)

Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô HàNgân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
Ngân hàng điện tử số ptit - giảng viên cô Hà
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation ManagementQuan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
Quan Tri Doi Moi Sang Tao_ Innovation Management
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsgSinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
Sinh-12-Chuyên-2022-2023.dành cho ôn thi hsg
 
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.pptChương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
Chương 3 Linh kien ban dan và KD dien tu - Copy.ppt
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 

Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI HOÀNG MINH HIẾU BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2014
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI HOÀNG MINH HIẾU BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MÃ SỐ: 62 38 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn: GS.TS. Thái Vĩnh Thắng HÀ NỘI, 2014
  • 3. 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận án hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ các công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hoàng Minh Hiếu
  • 4. 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 CHLB Cộng hoà liên bang 2 ĐBQH Đại biểu Quốc hội 3 GS Giáo sư 4 HĐDT Hội đồng dân tộc 5 MTTQ Mặt trận Tổ quốc 6 NXB Nhà xuất bản 7 QH Quốc hội 8 Tr. Trang 9 TS Tiến sĩ 10 TSKH Tiến sĩ khoa học 11 TT-TV-NCKH Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu Khoa học 12 UB Uỷ ban 13 UBTVQH Uỷ ban thường vụ Quốc hội 14 VN Việt Nam 15 XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 5. i MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 7 1.1. Nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án 7 1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án 13 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐẠI DIỆN VÀ VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI 33 2.1. Khái niệm tính đại diện của Quốc hội 33 2.2. Tính đại diện của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 59 2.3. Các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 72 Chương 3: THỰC TRẠNG VIỆC BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI 88 3.1. Bảo đảm tính đại diện trong các giai đoạn phát triển của Quốc hội Việt Nam 88 3.2. Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay 97 Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 129 4.1. Các yêu cầu đặt ra đối với việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội 129 4.2. Các giải pháp bảo đảm và nâng cao tính đại diện của Quốc hội 139 KẾT LUẬN 165 NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 168 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 169 PHỤ LỤC 182
  • 6. ii CÁC MINH HOẠ Các bảng Trang Bảng 3.1: Số lượng ĐBQH pháp định qua các thời kỳ 101 Bảng 3.2: Nhiệm kỳ của Quốc hội từ năm 1945 đến nay 103 Bảng 4.1: Các đơn vị bầu cử ở hải ngoại của Cộng hoà Pháp 146 Các biểu đồ Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ cử tri đi bầu trên cả nước qua các cuộc bầu cử 99 Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ ĐBQH là nông dân trong các nhiệm kỳ Quốc hội 105 Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ ĐBQH là công nhân trong các nhiệm kỳ Quốc hội 106 Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ ĐBQH là phụ nữ trong các kỳ bầu cử 107 Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ ĐBQH là người dân tộc thiểu số trong các kỳ bầu cử 108 Biểu đồ 3.6: Các tiêu chí lựa chọn người trúng cử đại biểu Quốc hội 112 Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ tiếp nhận thông tin từ các cử tri ở các khu vực khác nhau 115 Biểu đồ 3.8: Việc sử dụng các nguồn thông tin để tìm hiểu ý chí, nguyện vọng của cử tri 119 Các hình Hình 1.1: Cấu trúc hình thức của tính đại diện của Quốc hội 58
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Trong tiến trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (01/1994), Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sau đó, chủ trương này liên tục được khẳng định tại các kỳ đại hội của Đảng. Gần đây nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI (01/2011) nhấn mạnh: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và trong công cuộc đổi mới đất nước, cần tiếp tục “đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [10, tr. 52-53]. Một trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong đó, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội có vai trò rất quan trọng do Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Trong thời gian vừa qua, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội mặc dù đã có những thành tựu nhất định nhưng chưa được như mong đợi. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội chỉ ra rằng, so với nhiệm vụ và quyền hạn mà Hiến pháp và pháp luật qui định, thì tổ chức bộ máy của Quốc hội nhìn chung chưa ngang tầm, chưa đáp ứng công việc một cách đầy đủ [87]. Trong khi đó, nhiều kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy để đáp ứng được những yêu cầu của quá trình phát triển của đất nước, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong thời gian sắp tới còn gặp nhiều thách thức hơn nữa. Một trong những thách thức cơ bản đối với hoạt động của Quốc hội là việc bảo đảm và nâng cao tính đại diện của Quốc hội. Khi nhận định về những thách thức đối với Quốc hội trong thời kỳ đổi mới tại dịp kỉ niệm 60 năm bầu cử Quốc hội khoá I, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ ra 3 thách thức và trong đó có đến 2 thách thức liên quan đến tính đại diện của Quốc hội. Đó là các vấn đề liên quan đến khả năng đại diện cho nhân dân của các đại biểu Quốc hội và sự chồng chéo của các mối quan hệ đại diện trong Quốc hội [126]. Nhận định này cũng nhận được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu
  • 8. 2 khác nhau [69]. Bên cạnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI vừa qua, Đảng ta cũng đã nhận định cần tiếp tục “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân […] có cơ chế để đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri” [9]. Trên thực tế, xung quanh việc đảm bảo tính đại diện của Quốc hội nước ta đang có rất nhiều vấn đề tồn tại. Đó là những vấn đề về cơ cấu thành phần của đại biểu, về mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội và cử tri, việc xác định đại diện cho lợi ích của địa phương và lợi ích của quốc gia v.v.... Đây vốn là những vấn đề phức tạp, liên quan đến rất nhiều khía cạnh khác nhau của thiết chế nghị viện từ quá trình bầu cử cho đến việc tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quốc hội. Và thực tế cho thấy dường như có mối liên hệ giữa khả năng đại diện của Quốc hội với hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Việc ban hành các đạo luật chưa đạt yêu cầu trong thời gian gần đây được cho là có một phần nguyên nhân do các cuộc thảo luận tại Quốc hội chưa phản ánh hết thực tế của cuộc sống. Các hoạt động giám sát của Quốc hội chưa được như mong muốn của cử tri trong nhiều trường hợp là do những mối quan hệ đại diện chồng chéo, làm giảm động lực giám sát của các đại biểu Quốc hội. Hơn thế nữa, việc tăng cường tính đại diện của Quốc hội còn đồng nghĩa với việc mở rộng dân chủ, và do vậy có thể góp phần nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát của Quốc hội. Đây là một phần trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, các vấn đề về tính đại diện của Quốc hội nước ta lại là một trong những nội dung ít được tập trung nghiên cứu và đổi mới trong thời gian vừa qua. Đã có khá nhiều báo cáo và các đề án tập trung nghiên cứu việc đổi mới chức năng lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội nhưng chưa có những chương trình, đề án nghiên cứu tổng thể liên quan đến việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội để Quốc hội đại diện tốt hơn cho nhân dân. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là một yêu cầu hết sức cấp thiết. Nội dung nghiên cứu cơ bản của đề tài này tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu, làm rõ tính đại diện của Quốc hội, việc
  • 9. 3 bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ở Việt Nam; và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 2.1. Mục đích của luận án Mục đích của Luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Luận án đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Làm rõ cơ sở lí luận về tính đại diện của Quốc hội qua đó một số nội dung sẽ được giải quyết như làm rõ khái niệm về tính đại diện của Quốc hội, cấu trúc của tính đại diện của Quốc hội; việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Phân tích, đánh giá việc bảo đảm tính đại diện ở Quốc hội nước ta trong thời gian vừa qua cả về khuôn khổ chính sách, pháp luật và quá trình thực hiện trên thực tiễn. - Phân tích làm rõ các yêu cầu của việc bảo đảm tính đại diện và mối quan hệ giữa việc bảo đảm tính đại diện đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội Việt Nam. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN Những vấn đề lí luận về tính đại diện và bảo đảm tính đại diện của Quốc hội sẽ được làm rõ trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, để đáp ứng mục đích chính của đề tài là nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội Việt Nam, Luận án sẽ chủ yếu tập trung phân tích, tìm hiểu và giải thích những nhận thức hiện tại về tính đại diện của Quốc hội trong bối cảnh nước ta, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân được khởi xướng từ năm 1994 đến nay.
  • 10. 4 4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Việc giải quyết các vấn đề lí luận và thực tiễn về bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong luận án được thực hiện trên cơ sở nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác – Lênin với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp phân tích theo hệ thống, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lịch sử… Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng trong luận án để so sánh, tìm hiểu những đặc thù của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ở một số nước để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Để có những luận cứ thuyết phục liên quan đến các lập luận về tính đại diện của Quốc hội, phương pháp phân tích các trường hợp điển hình sẽ được áp dụng trong quá trình nghiên cứu của đề tài này. Thông qua việc quan sát hoạt động của Quốc hội, các thông tin về tiến trình làm việc, các tình huống thực tế trong hoạt động của Quốc hội sẽ được ghi nhận để xây dựng các lập luận của đề tài Để những lập luận của Luận án bảo đảm tính khoa học, tác giả Luận án đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập số liệu về nhận thức của các đại biểu Quốc hội đối với một số vấn đề thuộc nội dung của luận án. Việc điều tra xã hội học được tiến hành vào tháng 5 năm 2013 tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XIII với số phiếu phát ra là 318 phiếu, số phiếu thu về là 310 phiếu. Các số liệu thu thập được làm sạch và xử lý bằng phần mềm SPSS (xem thêm Phụ lục về Phiếu khảo sát việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội). 5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN Luận án có những đóng góp mới như sau: - Khẳng định tính đại diện của Quốc hội là một khái niệm liên quan đến các vấn đề lý luận mang tính cơ bản về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong đó có cách hiểu thuần tuý về mặt ngôn ngữ về khái niệm đại diện, về các vấn đề lý luận liên quan đến chủ quyền nhân dân, về các lý luận về đại diện chính trị và về dân chủ đại diện. Để hiểu tính đại diện một cách đầy đủ và có hệ thống, cần phải hiểu tính đại diện của Quốc hội là tính chất các thành viên của Quốc hội do các cử tri trực tiếp bầu ra, có năng lực đại
  • 11. 5 diện một cách xứng đáng cho các cử tri, phản ánh cơ cấu thành phần xã hội, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các cử tri để thay mặt các cử tri xác định nên ý chí chung của xã hội. Tính đại diện thể hiện qua cách thức hình thành mối quan hệ đại diện; qua mối tương đồng giữa các đại biểu Quốc hội với cử tri; qua năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội và qua nội dung đại diện là đại diện cho ý chí chung của xã hội. Từ thực trạng của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong thời gian vừa qua và yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Luận án cho rằng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra các yêu cầu cơ bản gồm: - nâng cao nhận thức về việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; - việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội phải được xem xét một cách toàn diện; - việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội phải gắn với việc bảo đảm thực hiện chủ quyền nhân dân; - bảo đảm việc thực hiện hình thức uỷ quyền tự do và; - bảo đảm tăng cường các hoạt động giáo dục ý thức của cử tri để tăng cường sự tham gia của các cử tri vào các hoạt động chính trị của đất nước. Để tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội, Luận án đề xuất ba nhóm giải pháp cơ bản gồm: hoàn thiện chế độ bầu cử, nâng cao vị thế của đại biểu Quốc hội và hoàn thiện quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội. Trong đó có một số giải pháp nổi bật gồm: - Áp dụng phương pháp bầu cử theo đa số hai vòng để bầu cử đại biểu Quốc hội. Các đơn vị bầu cử được tổ chức với số dân gần tương đương nhau không phụ thuộc vào địa giới hành chính; mỗi đơn vị bầu cử được bầu một đại biểu Quốc hội; - Việc bầu cử đại biểu Quốc hội phải được tiến hành trên cơ sở có tính cạnh tranh cao, theo đó cần nâng cao số dư các đại biểu Quốc hội tại mỗi đơn vị bầu cử, cho phép các ứng cử viên vận động tranh cử để cung cấp thông tin tới các cử tri và giới thiệu về khả năng của mình;
  • 12. 6 - Để bảo đảm sự tự do trong việc xét đoán của các đại biểu Quốc hội và tăng cường động lực đại diện của các đại biểu Quốc hội, cần ghi nhận nguyên tắc uỷ quyền tự do, khôi phục các quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội; về lâu dài áp dụng hình thức đại biểu Quốc hội chuyên trách đối với toàn bộ các đại biểu Quốc hội; - Để tăng cường điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc phản ánh ý chí chung của xã hội, cần bổ sung hình thức điều trần trong hoạt động của Quốc hội và áp dụng nguyên tắc quyết định theo đa số nhưng bảo vệ ý kiến của thiểu số trong quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Luận án gồm có: Phần mở đầu; Bốn chương; Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án Chương 2: Cơ sở lý luận về tính đại diện của Quốc hội và việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; Chương 3: Thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; Chương 4: Các giải pháp và kiến nghị bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
  • 13. 7 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, Quốc hội là đối tượng được rất nhiều công trình nghiên cứu về chính trị, pháp lý ở nước ta đề cập đến. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhiều công trình nghiên cứu đã tập trung làm rõ vị trí, vai trò của Quốc hội trong mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, phù hợp với khuôn khổ phạm vi của Luận án này, việc khảo sát các công trình nghiên cứu về Quốc hội sẽ được tập trung vào các nội dung sau đây: Thứ nhất, về khái niệm tính đại diện và các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; Thứ hai, việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Thứ ba, thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; Thứ tư, các giải pháp, kiến nghị tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội. 1.1.1. Luận văn, luận án, đề tài khoa học Trong những năm vừa qua, có khá nhiều luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ luật học và đề tài khoa học nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Tuy nhiên, như một nhà nghiên cứu đã nhận xét, các công trình nghiên cứu về Quốc hội thường ít quan tâm đến tính đại diện nhân dân của Quốc hội mà chú ý nhiều hơn đến các chức năng, nhiệm vụ Hiến định của Quốc hội như lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước [64]. Vì vậy, chỉ một số luận văn, luận án, đề tài có nội dung liên quan trực tiếp đến các vấn đề thuộc nội dung của đề tài luận án. Có thể kể đến gồm: Thứ nhất, Luận án tiến sỹ của Chu Văn Thành: Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan đại diện ở nước ta hiện nay, bảo vệ vào năm 1992 (105 trang) [7].
  • 14. 8 Luận án này nghiên cứu các vấn đề liên quan đến quá trình đổi mới các cơ quan đại diện ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1992. Trong Luận án, khái niệm dân chủ đại diện cũng đã được tác giả tập trung phân tích, qua đó khẳng định dân chủ đại diện là phương thức chủ yếu để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Luận án này được thực hiện trước khi công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thực hiện ở nước ta. Thứ hai, Luận án tiến sỹ của Trương Thị Hồng Hà: Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ vào năm 2007 (197 trang) [112]. Luận án đưa ra nhiều vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức và hoạt động của Quốc hội và quyền giám sát tối cao của Quốc hội; nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của bộ máy giám sát của Nghị viện nước ngoài; đánh giá thực trạng của cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội; tìm ra nguyên nhân yếu kém của cơ chế pháp lý, đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội. Mặc dù không nghiên cứu trực tiếp về tính đại diện của Quốc hội nhưng trong phần cơ sở lý luận, tác giả đã dành một dung lượng khá lớn để phân tích về tính đại diện và các biểu hiện của tính đại diện của Quốc hội. Nhưng các phân tích này chủ yếu đề cập đến tính đại diện của Quốc hội theo quan niệm truyền thống trong mô hình nhà nước Xô-Viết. Thứ ba, Luận án tiến sỹ của Vũ Văn Nhiêm: Chế độ bầu cử ở nước ta: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, bảo vệ vào năm 2009 (221 trang) [128]. Luận án làm rõ cơ sở lý luận về chế độ bầu cử trong xã hội dân chủ nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Thực tiễn tổ chức thực hiện chế độ bầu cử ở Việt Nam; đưa ra những kiến nghị nhằm đổi mới chế độ bầu cử để phát huy dân chủ. Luận án cũng dành một dung lượng khá lớn để phân tích về việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội thông qua cơ chế bầu cử. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến chế độ bầu cử nên tính đại diện của Quốc hội trong luận án chưa được đề cập ở góc độ tổng thể. Thứ tư, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quang Hương: Nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay, bảo vệ năm 2006 (119 trang) [63]. Luận văn nghiên cứu về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội. Đồng thời, Luận văn cũng
  • 15. 9 tập trung đánh giá thực trạng hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay (chủ yếu là hoạt động của đại biểu Quốc hội khóa X và khóa XI). Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội. Ở mức độ một luận văn thạc sĩ luật học, các vấn đề lý luận về tính đại diện của Quốc hội mới dừng lại ở mức độ chung, chưa đi sâu phân tích các lý luận nền tảng tạo nên tính đại diện của Quốc hội. Thứ năm, Đề tài cấp nhà nước: “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta” (năm 2004), do GS.TS Trần Ngọc Đường làm Chủ nhiệm đề tài [98]; Công trình này làm rõ cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề tài đã phần nào đề cập đến cơ sở lí luận về tính đại diện của Quốc hội nói chung và ở nước ta nói riêng. Tuy nhiên, nội dung về tính đại diện của Quốc hội không phải là trọng tâm của nghiên cứu này nên tính đại diện của Quốc hội chưa được tập trung phân tích, làm rõ. Thứ sáu, Đề tài cấp bộ: “Cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị Việt Nam (qua 4 bản Hiến pháp), (năm 2002) do TS. Ngô Đức Mạnh làm Chủ nhiệm [51]. Đề tài đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội qua bốn bản Hiến pháp. Trong phần cơ sở lý luận, đề tài đã có những phân tích sơ bộ về những biểu hiện của tính đại diện của Quốc hội. Về cơ sở thực tiễn, đề tài đã có sự khảo sát đầy đủ và khoa học về quá trình hình thành và phát triển của Quốc hội theo các giai đoạn gắn với sự phát triển của Hiến pháp ở nước ta. Tuy nhiên, cũng như nhiều công trình nghiên cứu khác, đề tài này tập trung nhiều vào các nội dung liên quan đến các chức năng Hiến định của Quốc hội mà chưa tập trung phân tích sâu về tính đại diện của Quốc hội. 1.1.2. Sách chuyên khảo Tổ chức và hoạt động của Quốc hội là một trong những chủ đề được rất nhiều sách tham khảo trong và ngoài nước đề cập đến. Ở trong nước, chủ đề về tính đại diện của Quốc hội chưa được nhiều nhà nghiên cứu chú trọng. Trong khi đó, ở nước ngoài,
  • 16. 10 việc nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội là khá phong phú, đa dạng. Ngoài các tác phẩm kinh điển của Jean Jacques Rousseau, A. Hamilton, J.Madison, John Stuart Mill… về dân chủ đại diện, trong thời gian gần đây đã có nhiều công trình tập trung nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ở nước ngoài cũng có nhận xét tương tự rằng “đã có nhiều công trình nghiên cứu về nghị viện tập trung vào thiết chế nghị viện và mối quan hệ của nó với hành pháp nhưng có ít nghiên cứu tập trung vào mỗi quan hệ giữa nghị sĩ với các công dân” [157]. Trực tiếp liên quan đến đề tài của luận án này có một số công trình nổi bật sau: Thứ nhất, cuốn: “Chức năng đại diện của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền” (2007) do Văn phòng Quốc hội xuất bản [120]. Cuốn sách là tập hợp các bài viết tại Hội thảo cùng tên được thực hiện vào năm 2007 với sự tham gia của các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Các bài nghiên cứu trong Hội thảo này tập trung làm rõ khái niệm chức năng đại diện và thực tiễn bảo đảm tính đại diện ở Quốc hội một số nước và Việt Nam. Đây là tập hợp các bài nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau nên chưa hình thành nên tính hệ thống các quan điểm về tính đại diện của Quốc hội. Thứ hai, cuốn: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2007) do GS.TSKH Đào Trí Úc làm chủ biên [13]. Các tác giả của cuốn sách đã phân tích, làm rõ mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Quốc hội đóng một vai trò quan trọng. Mặc dù không đi sâu phân tích về cơ sở lý luận của tính đại diện nhưng các nhà nghiên cứu đã cho rằng để Quốc hội hoạt động hiệu quả trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là rất quan trọng, là điều kiện nhằm bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân. Thứ ba, cuốn: “Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền” (2007) do GS.TS Nguyễn Đăng Dung làm chủ biên [56]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích những yêu cầu chung đối với Quốc hội theo những tiêu chí của Nhà nước pháp quyền, chỉ ra những đòi hỏi của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cuốn sách cũng đề xuất, làm rõ những cách thức làm cho Quốc hội thực hiện tốt sự uỷ thác của nhân dân trong điều kiện của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
  • 17. 11 Thứ tư, cuốn: The Concept of Representation, của Hana Pitkin xuất bản năm 1967 [143]. Trong công trình nghiên cứu toàn diện nhất về khái niệm đại diện chính trị này, tác giả Hana Pitkin đã đề xuất khái niệm đại diện chính trị và phân tích cấu trúc của khái niệm này một cách thấu đáo. Cách tiếp cận của bà đã được chấp nhận một cách phổ biến trong các phân tích về sau đối với tính đại diện của Quốc hội. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu thì trong tác phẩm này, Pitkin mới tập trung nghiên cứu về mặt lý luận mà chưa khảo nghiệm các lý luận đó trên thực tiễn [138]. Thứ năm, cuốn: Parliaments and Citizens in Western Europe, (2002) do Philip Norton làm chủ biên [157]. Các tác giả của cuốn sách đã làm rõ mối quan hệ giữa nghị viện với các công dân ở các quốc gia Tây Âu có nền dân chủ lâu đời. Vấn đề được đề cập sâu trong cuốn sách này là về bản chất của mối quan hệ giữa nghị sĩ và cử tri cũng như mức độ của nó để bảo đảm nghị viện có thể đại diện tốt nhất cho người dân. Tuy nhiên, phạm vi của các bài viết trong cuốn sách này chỉ mới được giới hạn ở các nước Tây Âu mà chưa đề cập đến mối quan hệ đại diện giữa các đại biểu Quốc hội với cử tri ở các nước khác với mức độ phát triển và văn hoá chính trị khác nhau. Thứ sáu, cuốn: Representation: Key Concepts, (2008) của Monica Brito Vieira và David Runciman [155]. Nội dung của cuốn sách tập trung làm rõ các khái niệm liên quan đến đại diện chính trị như khái niệm đại diện; quan hệ đại diện giữa các cá nhân; quan hệ đại diện đối với một tập thể và đại diện cho một quốc gia. Cũng như nghiên cứu của Hana Pitkin, cuốn sách này cũng chưa đề cập đến việc khảo sát thực tế về mức độ đại diện của Quốc hội trong mối quan hệ với các cử tri. Thứ bảy, cuốn: Political Representation, (2009) do Ian Shapiro làm chủ biên [146]. Sách là một tuyển tập các bài nghiên cứu được phân chia theo tiến trình phát triển của khái niệm đại diện chính trị, từ đại diện trước khi hình thành nền dân chủ đại diện, cho đến các luận thuyết về dân chủ đại diện và các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến đại diện chính trị hiện nay. Do là một tuyển tập nên các bài nghiên cứu chưa có tính hệ thống, xuyên suốt về các quan điểm về tính đại diện của Quốc hội. Thứ tám, cuốn: Representation And Institutional Design, (2011) của Rebekah L. Herrick [158]. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu phân tích những tác động của việc thiết kế các thiết chế đối với tính đại diện của Quốc hội. Thông qua việc thông kê số liệu, phân tích các xu hướng, tác giả đã đánh giá và phân tích ảnh hưởng của các yếu tố
  • 18. 12 như bầu cử, cơ cấu tổ chức của Quốc hội, nhiệm kỳ của Quốc hội v.v… tới việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội. Đây là công trình nghiên cứu thực định, có giá trị tham khảo cao nhưng phần lớn các số liệu được giới hạn trong phạm vi Nghị viện Liên bang và một số tiểu bang của Hoa Kỳ. 1.1.3. Bài báo khoa học Trong những năm vừa qua, đã có một số bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập đến một số nội dung cụ thể về tính đại diện của Quốc hội nước ta, trong đó, có thể nêu ra một số bài báo như sau: Thứ nhất, bài: “Phát huy vai trò đại diện nhân dân của đại biểu Quốc hội trong hoạt động lập pháp”, (2007) Tạp chí Cộng sản, của GS.TS. Trần Ngọc Đường [99]. Bài viết đã tập trung phân tích về mối quan hệ giữa vai trò đại diện cho nhân dân của Quốc hội và hoạt động lập pháp Thứ hai, bài: “Bàn về tính đại diện nhân dân của Quốc hội”, (2001), Nghiên cứu lập pháp, của Nguyễn Quang Minh [64]. Bài viết mang tính gợi mở về những vấn đề cần nghiên cứu về tính đại diện nhân dân của Quốc hội, những biểu hiện của tính đại diện của Quốc hội và các kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường tính đại diện nhân dân của Quốc hội. Thứ ba, bài: “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội”, (2010), Nghiên cứu Lập pháp, của Trần Thị Hạnh Dung [102]. Tác giả của bài viết đưa ra nhận định đại diện phải được xem là một chức năng của Quốc hội và liệt kê, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội. Thứ tư, bài: “Tiêu chí và yếu tố bảo đảm hiệu quả tính đại diện của Quốc hội”, (2010), Nghiên cứu Lập pháp, của Vũ Văn Nhiêm. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích khái niệm tính đại diện của Quốc hội và cố gắng xác định các tiêu chí và yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội. Thứ năm, bài: “Dân chủ đại diện và vấn đề bầu cử” (2011), Dân chủ và Pháp luật, của Trần Nho Thìn [101]. Bài viết phân tích sự tác động hai chiều giữa dân chủ đại diện và vấn đề bầu cử, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của nền dân chủ đại diện.
  • 19. 13 Thứ sáu, bài: “Power and Representation at the Vietnamese National Assembly: The Scope and Limits of Political Doi Moi”, (2007), của Matthieu Salomon, trong cuốn Vietnam’s New Order: International Perspectives on the State and Reform in Vietnam [154]. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng việc thực hiện quyền lực và đại diện của Quốc hội nước ta trong thời kỳ đổi mới. Tác giả cũng đã đưa ra một số nhận định và bình luận về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết có liên quan đăng trên các tạp chí chuyên ngành ở nước ngoài. Tuy không trực tiếp nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội Việt Nam nhưng những lý luận và thực tiễn được đề cập trong các nghiên cứu này có giá trị tham khảo và so sánh to lớn trong quá trình thực hiện đề tài luận án. 1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.2.1. Về cơ sở lý luận về bảo đảm tính đại diện của Quốc hội a) Về tính đại diện của Quốc hội Có một điểm thống nhất dễ nhận thấy trong các nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội là xác định tính đại diện là một tính chất quan trọng của Quốc hội. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng tính đại diện là một trong những đặc tính quan trọng nhất của Quốc hội. GS.TS Trần Ngọc Đường nhấn mạnh: “Tính đại diện cao nhất của nhân dân xuyên suốt quá trình thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước” [99]. Có nhà nghiên cứu đã mạnh dạn cho rằng: “tính đại diện nhân dân là tính chất cơ bản nhất, đặc trưng nhất, quan trọng nhất của Quốc hội nước ta” [64]. Những người khác lại khẳng định: “Đại diện là “sứ mệnh” của Quốc hội - sứ mệnh bao trùm lên hoạt động lập pháp, giám sát và các hoạt động khác của Quốc hội” [130]; “Tính đại diện đã mang lại tính quyền lực nhà nước cho Quốc hội” [104]; hoặc “chức năng đại diện chính là cội nguồn của các chức năng khác” của Quốc hội [102]. Không dừng lại ở việc nhận định, TS. Ngô Huy Cương đi xa hơn khi phân tích: “chức năng đại diện là quan trọng nhất bởi nó xác định vai trò, vị trí của Quốc hội. Còn các chức năng khác là sự phát triển logic từ chức năng đại diện, mang tính phái sinh” [53]. Như vậy, có thể nói cơ sở của các nhận định
  • 20. 14 về tầm quan trọng của tính đại diện là ở chỗ Quốc hội là cơ quan được nhân dân bầu ra để thay mặt nhân dân, thực thi quyền lực của nhân dân trong việc quản lý nhà nước, biến ý chí của nhân dân thành pháp luật để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội vì lợi ích của nhân dân và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Một điểm thống nhất khác trong các nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội đó là phần lớn các nhà nghiên cứu đều nhận xét rằng, ở nước ta trong thời gian vừa qua việc nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội còn chưa tương xứng với tầm quan trọng của vấn đề này. TS. Nguyễn Quang Minh đã nhận xét rằng các công trình nghiên cứu về Quốc hội thường ít quan tâm đề cập đến tính đại diện nhân dân của Quốc hội mà dành sự quan tâm nhiều hơn đến các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội [64]. Tiến sĩ Bùi Xuân Đức quyền cũng có nhận định tương tự: “các nhà khoa học pháp lý dựa theo quy định trong Hiến pháp hiện hành […] chỉ ra 3 chức năng cơ bản của Quốc hội là: chức năng lập pháp, chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, hay 4 chức năng là: lập hiến và lập pháp, thành lập các cơ quan tối cao của nhà nước; quyết định những vấn đề quan trọng của quốc gia, và thực hiện quyền giám sát tối cao … mà không thấy nhắc riêng chức năng đại diện” [6]. Tình trạng nói trên đã dẫn đến một thực tế là khi bàn về tính đại diện của Quốc hội, các tác giả thường xem đại diện là một tính chất đương nhiên của Quốc hội mà ít khi lí giải sâu về cơ sở lí luận và nguồn gốc của tính chất này. Đúng như một tác giả đã nhận xét: “hiện nay vẫn chưa có sự nhận thức chính xác và thấu đáo về tính đại diện của thiết chế nghị viện. Và như vậy, tất yếu dẫn đến một hệ quả là vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà nước ta chưa được đặt đúng vị trí của nó” [130, tr. 22]. Sự chưa thấu đáo trong nhận thức về tính đại diện của Quốc hội được thể hiện trước hết ở những quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trước hết, trong khi một số nhà nghiên cứu cho rằng đại diện cần phải được xem là một tính chất hay một thuộc tính của Quốc hội thì một số khác lại nhận định đại diện phải là một chức năng của Quốc hội. Ý kiến cho rằng đại diện là một tính chất của Quốc hội là tương đối phổ biến. Một nhà nghiên cứu đã khẳng định “Đại diện cao nhất của nhân dân là thuộc tính cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
  • 21. 15 [99]. Việc xem đại diện là một tính chất, hay thuộc tính của Quốc hội được các tác giả lí giải thông qua cơ cấu thành phần của Quốc hội và cách thức hình thành nên Quốc hội. Theo đó, tính đại diện của Quốc hội được thể hiện qua tính chất phản ánh đầy đủ thành phần, tầng lớp nhân dân của Quốc hội. Quốc hội được xem là một “hình ảnh thu nhỏ” của xã hội, bao gồm những đại biểu ưu tú thuộc mọi thành phần, giai cấp, dân tộc rộng lớn trong cả nước do nhân dân cả nước bầu nên [112, tr. 28]. Trong khi đó, một số tác giả lại cho rằng không thể xem đại diện là một thuộc tính của Quốc hội vì bản thân cơ cấu thành phần của Quốc hội không thực sự phản ánh một cách “đồng dạng” thành phần của toàn xã hội [20], hoặc vì nếu xem đại diện như một thuộc tính của Quốc hội thì đã mở quá rộng phạm vi của khái niệm này [6]. Củng cố thêm, có tác giả đã chỉ ra những hoạt động cụ thể mà các đại biểu Quốc hội phải thực hiện như là một phương diện hoạt động chính của mình như: Liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; Thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; Thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; Trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; Xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó (quy định tại Điều 97, Hiến pháp 92). Từ đó, một số tác giả còn nhận định: “nếu xem đại diện là một tính chất hay thuộc tính thì sẽ không nói lên được tầm quan trọng của đại diện, tính đại diện sẽ không đầy đủ” [102, tr. 15]. Bên cạnh đó, cũng có tác giả lại quan niệm không có sự phân biệt giữa việc xem đại diện là một thuộc tính hay là chức năng của Quốc hội. Điều này được thể hiện qua nhận định sau đây của TS. Lương Minh Tuân: “Thuộc tính đại diện của Quốc hội là chức năng quan trọng nhất mà đại biểu phải thực hiện” [44]. Mặc dù việc nhận định đại diện là một thuộc tính của Quốc hội được thừa nhận một cách khá phổ biến, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về thuộc tính này. Thay vào đó, phần lớn các tác giả tập trung phân tích những biểu hiện của nó. Khi nghiên cứu về những thuộc tính của Quốc hội, TS. Trương Thị Hồng Hà đã đưa ra ba biểu hiện cơ bản của thuộc tính đại diện là: (i) do nhân dân cả nước trực tiếp bầu nên; (ii) thành phần đại biểu Quốc hội phản ánh một cách đầy đủ cơ cấu của xã hội, và (iii) được biểu hiện thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm
  • 22. 16 vụ của Quốc hội [112, tr. 28 - 36]. Cách thức tiếp cận này cũng được một số nhà nghiên cứu khác chia sẻ tuy góc độ phân tích có sự khác biệt nhất định. Chẳng hạn, có tác giả đã phân tích các biểu hiện của tính đại diện của Quốc hội thông qua: (i) các hoạt động của đại biểu Quốc hội; (ii) các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, và (iii) các hoạt động thực tiễn của Quốc hội [64]. Đối với các nhà nghiên cứu ở nước ngoài, tính đại diện của nghị viện nói chung cũng có tính thu hút rất cao mặc dù đây không phải là vấn đề mới. Đại diện cũng được các nhà nghiên cứu nước ngoài xem là một trong những tính chất quan trọng của nghị viện. GS.Phillip Norton và TS. Cristina Leston-Bandeira nhận xét: “Chức năng đại diện là trung tâm của các lí do vì sao Quốc hội tồn tại” [84]. Nghiên cứu sâu về tính đại diện của nghị viện, các nhà nghiên cứu nước ngoài cho rằng tính đại diện của nghị viện được hình thành nên từ hai nền tảng lý luận cơ bản, đó là lý thuyết về đại diện chính trị và lý thuyết về chủ quyền nhân dân [133, tr. 10]. Về lý thuyết đại diện chính trị, theo nhiều nhà nghiên cứu, sự ra đời của lý thuyết này ban đầu là nhằm giải thích cho tính chính đáng của quyền lực của các thế lực cầm quyền trong xã hội. Điểm lại quá trình phát triển của lý thuyết đại diện chính trị, Rebekka Gohring cho rằng trong lịch sử có một số dạng đại diện chính trị cơ bản là: (i) đại diện biểu tượng, (ii) đại diện hấp thu, (iii) đại diện chức năng, và (iv) dân chủ đại diện, trong đó dân chủ đại diện là hình thức phát triển nhất [159, tr. 42-44]. Về lý thuyết chủ quyền nhân dân, tác giả nổi tiếng nhất của lý thuyết này là Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778) với tác phẩm Bàn về khế ước xã hội [32]. Trong tác phẩm của mình, Rousseau đã khẳng định chủ quyền nhân dân là tổng cộng tất cả mọi phân số chủ quyền của mỗi một cá nhân trong xã hội, mỗi công dân nắm trong tay một phân số của chủ quyền, có quyền tham gia thiết lập nên ý chí chung của xã hội. Do đó, mọi quyết định phải được mọi công dân chấp thuận. Đây là quan điểm chủ trương về một nền dân chủ trực tiếp, thể hiện quyền lực tuyệt đối của nhân dân. Tuy nhiên, ngay bản thân Rousseau cũng nhận xét nền dân chủ như vậy chỉ có thể thực hiện được trong những điều kiện lý tưởng [32, tr. 136 - 137]. Khi không có những điều kiện lý tưởng như vậy, dân chủ đại diện là một giải pháp hữu hiệu. Lý thuyết dân chủ đại diện bắt đầu được phổ biến vào thế kỷ 18 – 19, đặc biệt là trong giai đoạn sau Cách mạng tư sản Hoa Kỳ (1776) và Cách mạng tư sản
  • 23. 17 Pháp (1789) gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà triết học về chính trị pháp lý nổi tiếng như Emmanuel Sieyes, John Stuart Mill, James Madison. Về cơ bản, lý thuyết dân chủ đại diện được xây dựng trên cơ sở thừa nhận chủ quyền thuộc về nhân dân như các lập luận của Rousseau. Tuy nhiên, chủ quyền nhân dân chỉ có thể thực hiện được một cách hiệu quả trên thực tế thông qua những người đại diện. Thậm chí, Emmanuel Sieyes, dựa trên các lập luận về ưu thế của sự phân công lao động, còn khẳng định rằng dân chủ đại diện có nhiều điểm ưu việt hơn dân chủ trực tiếp [159, tr. 50]. Chia sẻ quan điểm này, trong tác phẩm Người Liên bang nổi tiếng của mình, James Madison đã nhận xét nền dân chủ trực tiếp chỉ phù hợp với các nhà nước thành bang quy mô nhỏ và luôn nổi bật với những hỗn loạn và tranh cãi thường trực về các quyết định vội vàng, nóng vội và không sáng suốt. Trong khi đó, một chính thể đại diện được xây dựng như trong bản hiến pháp (của Hoa Kỳ) sẽ không chỉ cho phép xây dựng một nền cộng hòa rộng lớn mà còn cho phép điều chỉnh quan điểm của những người dân bình thường thông qua một bộ lọc là những người đại diện có trách nhiệm, tinh hoa và thông thái, có thể nhận thức được những lợi ích đúng đắn nhất của đất nước [131, tr. 43-45]. Từ những cơ sở lý luận về chủ quyền nhân dân và đại diện chính trị như trên, một số nhà nghiên cứu nước ngoài đã đi sâu phân tích khái niệm về tính đại diện của Quốc hội. Hanna Patkin, trong tác phẩm nổi tiếng của mình đã định nghĩa chung về đại diện chính trị của Quốc hội là tính chất làm cho các tiếng nói, các ý kiến và các quan điểm của người dân được thể hiện trong quy trình xây dựng chính sách. Hanna Patkin thậm chí còn phân tích rất kĩ càng về cấu trúc của tính đại diện. Bà cho rằng đại diện có bốn dạng cơ bản gồm: (i) Đại diện hình thức, (ii) đại diện biểu tượng, (iii) đại diện đồng dạng, và (iv) đại diện nội dung [143]. Đây là cách thức tiếp cận có ảnh hưởng nhất hiện nay về tính đại diện của Quốc hội. Quan điểm cho rằng tính đại diện của nghị viện chính là đại diện cho các tiếng nói, các ý kiến và các quan điểm của người dân cũng được nhiều nhà nghiên cứu khác chia sẻ. Chẳng hạn, trong cuộc Hội thảo về chức năng đại diện và mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp do Văn phòng Quốc hội và Dự án UNDP tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, GS. John K. Johnson, Đại học Quốc gia New York cũng khẳng định tính chất đại diện của Quốc hội là tính đại diện cho những sự khác biệt vào quá
  • 24. 18 trình làm luật. Hay nói cách khác, tính đại diện của Quốc hội được thể hiện như “những đầu dây thần kinh của xã hội” với trách nhiệm lắng nghe và trả lời những nhu cầu của các cá nhân và các nhóm trong xã hội [33]. b) Về các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội Về các yếu tố tác động đến tính đại diện của Quốc hội, hiện tại ở trong nước cũng như ở nước ngoài đã có khá nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Trong bài viết về “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội”, tác giả Trần Thị Hạnh Dung đã phân tích mười yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng đại diện gồm: 1) Các đại biểu phải được bầu trực tiếp, tự do, bình đẳng thông qua bầu cử phổ thông và bỏ phiếu kín; 2) Nhiệm kỳ của các đại diện không nên quá dài; 3) Tần suất hoạt động của Quốc hội; 4) Các đại biểu hoạt động chuyên trách và luôn tiếp xúc với cử tri; 5) Sự trung thành của đại biểu đối với cử tri trước các nhóm lợi ích khác nhau; 6) Nguồn lực đảm bảo cho hoạt động của các đại biểu; 7) Quốc hội cần hoạt động công khai; 8) Tính đại diện đa dạng trong Quốc hội; 9) Cơ chế dân chủ trực tiếp; 10) Sự kiểm soát, chế ngự quyền lực của cơ quan đại diện. Tuy nhiên, phải nói rằng các yếu tố này mới được đưa ra theo dạng liệt kê mà chưa có sự phân tích về cách thức tác động đến tính đại diện của Quốc hội. Đồng thời, dường như chưa có sự thống nhất trong việc xác định các tiêu chí ảnh hưởng đến tính đại diện. Chẳng hạn, yếu tố “tính đại diện đa dạng của Quốc hội” mang tính yêu cầu nhiều hơn là yếu tố tác động đến tính đại diện của Quốc hội. Hơn nữa, do các phân tích này chưa có tính hệ thống nên chưa chỉ ra mối liên hệ, tác động qua lại của những yếu tố này đến các hình thức đại diện khác nhau của Quốc hội. Một tác giả khác đã tiến hành phân tích kĩ hơn các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội với bốn yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là: Một là, tính đại diện theo đảng phái là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của sự ủy trị;
  • 25. 19 Hai là, bảo đảm sự bình đẳng và cơ hội như nhau cho các đại biểu Quốc hội; Ba là, cơ chế ràng buộc chế độ trách nhiệm của đại biểu trước cử tri đã bầu ra họ; Bốn là, bảo đảm tính đại diện cho các tầng lớp “yếu thế: trong xã hội như phụ nữ, dân tộc thiểu số, nông dân [130, tr. 26 - 27]. Một nghiên cứu khác lại phân tích những yếu tố đảm bảo tính đại diện của Quốc hội thông qua một số yếu tố như: Một là, cơ cấu đại biểu trong mỗi khóa Quốc hội là một trong những yếu tố quan trọng xác định tính đại diện của Quốc hội; Hai là, mô hình tổ chức một viện hay hai viện; Ba là, chất lượng đại biểu Quốc hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc thực thi vai trò đại diện của Quốc hội; Bốn là, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri, tạo cơ chế, kiểm tra, giám sát của cử tri đối với các đại biểu Quốc hội [38, tr. 224 - 238]. Do việc xác định các yếu tố này chưa dựa trên các phân tích có tính hệ thống nên rõ ràng còn thiếu một số yếu tố nhất định ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội. Chẳng hạn như các yếu tố liên quan đến cách thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội, về tính công khai trong hoạt động của Quốc hội … Việc xác định các yếu tố tác động đến tính đại diện của Quốc hội cũng được các nhà nghiên cứu ở nước ngoài rất quan tâm. GS. John K. Johnson đề cập đến ba yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội như sau: Thứ nhất, hệ thống bầu cử. Theo đó, hệ thống tranh cử sẽ ảnh hưởng đến cách các đại biểu Quốc hội đại diện cho các cử tri và tính độc lập của họ khi được bầu. Thứ hai, hệ thống chính trị. Theo đó, mức độ ngăn cách và thống nhất giữa các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp cũng ảnh hưởng đến cách thực hiện các chức năng đại diện của những nhà làm luật. Thứ ba, các nguồn lực và năng lực kỹ thuật của nghị viện. Theo đó, việc tổ chức các phiên họp mở, thiết lập các văn phòng ở khu vực bầu cử để tạo điều kiện tiếp xúc, gặp gỡ với cử tri và các nhóm xã hội, sử dụng ý kiến đóng góp của họ để xây dựng hoặc sửa đổi dự án luật đều có những tác động đến tính đại diện của Quốc hội [33].
  • 26. 20 Trong một số nghiên cứu của mình, Liên minh nghị viện thế giới (IPU) cũng đã xác định những nội dung gần tương tự như: (i) quy tắc và thủ tục bầu cử; (ii) tính công bằng và toàn diện của các quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội [148, tr. 13 - 20]. Theo một cách tiếp cận khác, một số nhà nghiên cứu ở ngoài nước đưa ra những tiêu chí để đánh giá mức độ đại diện của Quốc hội, qua đó phần nào cho thấy những yếu tố ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội. GS.TS Jugen Meyer đưa ra 8 tiêu chí để thực hiện công việc này, gồm: i) Nghị sĩ phải được bầu trực tiếp, tự do, bình đẳng và thông qua bầu cử phổ thông và bỏ phiếu kín; ii) Đại biểu phải là chuyên trách; iii) Mức độ tiếp xúc cử tri ở khu vực cử tri; iv) Đại biểu được quyền thể hiện chính kiến của mình; v) Các đại biểu được trang bị đầy đủ các nguồn lực để hoàn thành nhiệm vụ của mình; vi) Sự tin tưởng của người dân; vii) Hệ thống đại diện cho toàn quốc hay địa phương; viii) Sự tham gia của người dân vào các quyết định của Quốc hội (dân chủ tham gia) [35, tr. 239 - 247]. 1.2.2. Về thực trạng bảo đảm tính đại diện của Quốc hội Việt Nam Rất nhiều nghiên cứu ở Việt Nam trong thời gian vừa qua thống nhất với nhận định “hiện nay vẫn chưa có sự nhận thức chính xác và thấu đáo về tính đại diện của thiết chế nghị viện” [130, tr. 22]. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đánh giá về mức độ đại diện của Quốc hội nước ta là không nhiều. Trong hệ thống đề tài nghiên cứu khoa học do Văn phòng Quốc hội chủ trì thực hiện cũng chưa có một đề tài nghiên cứu nào tiến hành đánh giá về thực trạng bảo đảm tính đại diện của Quốc hội nước ta. Bên cạnh đó, do chưa tiếp cận các yếu tố ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội một cách tổng thể như là một cơ chế nên việc đánh giá thực trạng bảo đảm tính đại diện của Quốc hội còn theo nhiều xu hướng khác nhau. Cụ thể, các công trình nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào một số điểm sau đây:
  • 27. 21 - Về bầu cử và các tác động đến tính đại diện của Quốc hội, trong luận án của mình, TS. Vũ Văn Nhiêm đã có sự đánh giá rất chi tiết về những tác động của cơ chế bầu cử đến tính đại diện của Quốc hội [128]. Phát hiện nổi bật nhất trong công công trình nghiên cứu này là thực trạng đại diện không đồng đều giữa các cử tri ở các địa phương khác nhau trong cả nước. Chẳng hạn, trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa XII, nếu ở thành phố Hồ Chí Minh, mỗi đại biểu Quốc hội đại diện cho 226.581 người dân thì ở tỉnh Đắc Nông, tỉ lệ này 66.250 người. Như vậy, tính một cách số học thì mức độ được đại diện của người dân ở Đắc Nông đang gấp 3,5 lần so với người dân ở thành phố Hồ Chí Minh [127]. Bên cạnh đó, cách thức thành lập các khu vực bầu cử ở nước ta hiện nay cũng dẫn đến một số hạn chế nhất định đối với tính đại diện của Quốc hội. Một số nhà nghiên cứu đã nhận xét việc thiết lập các khu vực bầu cử trùng khít với các khu vực hành chính đã dẫn đến tình trạng các đại biểu Quốc hội có thiên hướng đại diện cho các địa phương nhiều hơn là đại diện cho lợi ích của Quốc gia. Điều này được phản ánh qua việc các đại biểu thường phát biểu để bảo vệ cho lợi ích của địa phương nhiều hơn là lợi ích của quốc gia khi tham gia thảo luận tại Quốc hội [65]. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cũng đánh giá việc bầu cử theo hình thức mỗi khu vực bầu cử bầu ra nhiều hơn một đại biểu cũng dẫn tới tình trạng mức độ liên kết giữa các cử tri và các đại biểu Quốc hội không được chặt chẽ [130]. Hệ quả của vấn đề này là, như TS. Nguyễn Ngọc Điện đã nhận định, cho đến nay, đại biểu Quốc hội ở nước ta vẫn chưa có điều kiện xây dựng đội ngũ cử tri trung thành của mình [62]. - Về cơ cấu thành phần các đại biểu Quốc hội và tính đại diện của Quốc hội, các nghiên cứu hiện tại đã có những đánh giá khác nhau về tác động của cơ cấu thành phần của các đại biểu Quốc hội tới tính đại diện của Quốc hội. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tính đa dạng trong cơ cấu của các thành phần đại biểu Quốc hội là một điểm ưu việt trong tính đại diện của Quốc hội nước ta. Nó thể hiện sự đại diện “đồng dạng” với các thành phần trong xã hội, nói lên “tiếng nói” của đầy đủ các thành phần trong xã hội [99]. Mặc dù vậy, các ý kiến này mới chỉ dừng lại ở góc độ phân tích lí luận mà chưa đưa ra các thực tiễn chứng minh về sự phản ánh ý kiến của người dân thuộc các thành phần mà các đại biểu được cơ cấu.
  • 28. 22 Trong khi đó, nhiều ý kiến khác lại cho rằng việc mang nhiều “gánh nặng về mặt cơ cấu” thực ra lại có ảnh hưởng tiêu cực đến tính đại diện của Quốc hội. Bởi vì, để lựa chọn được một cơ cấu phù hợp phải có sự can thiệp chủ quan và do vậy phần nào đã bỏ qua quyền của người dân trong việc tự lựa chọn người đại diện của mình cũng như có thể bỏ qua những người có năng lực thực sự để có thể làm đại biểu [56, tr. 422 - 430]. Ngoài ra, việc cơ cấu để đảm bảo đầy đủ các thành phần trong xã hội cũng được một số nhà nghiên cứu nhận định sẽ dẫn tới tình trạng xung đột về mặt lợi ích và do vậy ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội. Chẳng hạn, những người được xem là mang trong mình cơ cấu của một ngành thường gặp rất nhiều khó khăn và rào cản trong việc tiến hành chất vấn đối với bộ trưởng của ngành mình [69]. Cuối cùng, một số nghiên cứu dựa trên việc thống kê cũng cho thấy các nỗ lực để thiết lập một cơ cấu cho phép Quốc hội có thể đại diện một cách “đồng dạng” với các thành phần trong xã hội là rất khó khăn. Chẳng hạn, mặc dù vào thời điểm hiện tại ở nước ta có khoảng 70% dân số đang làm việc trong khu vực kinh tế nông nghiệp nhưng tỉ lệ đại biểu Quốc hội trong lĩnh vực này càng ngày càng giảm. Ngược lại, trong khi số lượng quân nhân ngày càng trở nên chuyên nghiệp, tinh gọn thì tỉ lệ đại biểu Quốc hội là quân nhân vẫn luôn ở mức độ từ 10 đến 12% [107]. - Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội với tính đại diện của Quốc hội, các nhà nghiên cứu hiện nay cũng có những đánh giá khác nhau về vấn đề này. Đánh giá về mô hình tổ chức Quốc hội một viện như hiện nay ở nước ta, tác giả Nguyễn Quang Minh cho rằng “với cách thức tổ chức và hoạt động như vậy, tổ chức và hoạt động của Quốc hội dường như được gắn kết, là một khâu trong sinh hoạt xã hội, không tách rời hoặc đứng bên trên sinh hoạt xã hội, đứng bên trên đời sống của nhân dân” [64]. Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng việc tổ chức mô hình tổ chức một viện sẽ không đảm bảo được sự đại diện cân đối giữa đại diện cho toàn thể quốc dân và đại diện cho các địa phương. Thậm chí, xuất phát từ đánh giá này GS.TS. Nguyễn Đăng Dung còn đề nghị cần phải thành lập một viện thứ hai của Quốc hội [57, tr. 320 - 321]. - Về mối liên hệ giữa các cử tri với đại biểu Quốc hội, có thể nói đây là nội dung nhận được nhiều sự đánh giá nhất và có tính tương đồng nhất. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng tiếp xúc cử tri như hiện nay ở nước ta còn mang nặng tính hình thức, không đi vào thực chất và do vậy làm giảm tính đại diện của Quốc hội. Điều này được
  • 29. 23 phân tích khá rõ trong Đề án đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội. Theo đó, nội dung, chương trình hội nghị tiếp xúc cử tri còn đơn điệu, thông tin chuyển tải đến cử tri chưa đáp ứng được nhu cầu của cử tri, chưa dành nhiều thời gian để cử tri phát biểu tâm tư, nguyện vọng của mình [2, tr. 11]. Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu còn tiếp cận vấn đề này ở góc độ rộng hơn, đó là về sự giám sát của các cử tri đối với hoạt động của các đại biểu Quốc hội. Đánh giá về cơ chế giám sát hiện hành, nhiều chuyên gia nhấn mạnh hiện nay việc quy định cử tri có thể bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội là một ưu điểm làm tăng tính đại diện của Quốc hội. GS.TS Trần Ngọc Đường nhận xét: “Bãi nhiệm là một chế định pháp lý thể hiện bản chất ưu việt và mang tính chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại biểu được nhân dân bầu ra phải chịu sự giám sát của nhân dân, khi đại biểu không được sự tín nhiệm của nhân dân thì bị nhân dân bãi miễn” [100]. Một góc độ đánh giá khá đặc biệt trong mối quan hệ giữa các đại biểu Quốc hội và cử tri có liên quan đến tính đại diện của Quốc hội nước ta đó là về sự quan tâm của người dân tới hoạt động của Quốc hội nói chung và các đại biểu Quốc hội nói riêng. Theo tác giả Đặng Đình Luyến, sự quan tâm, đánh giá của cử tri đối với hoạt động của Quốc hội có tác động rất lớn đối với hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội. Sự quan tâm này được thực hiện thông qua quá trình tiếp xúc cử tri cũng như qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn cần có những nỗ lực để tiếp tục nâng cao sự quan tâm của công chúng tới các hoạt động của Quốc hội [11]. - Về thời gian hoạt động của Quốc hội và tính đại diện, nhiều tác giả đã nhận xét rằng với thời gian hoạt động chỉ là 2 kì họp, mỗi kì họp thường kéo dài một tháng như hiện nay sẽ ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội. Việc có thời gian làm việc dài hơn sẽ giúp cho Quốc hội giải quyết tốt các chức năng của mình, đảm bảo ban hành các chính sách, pháp luật và ra các quyết định nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích chính đáng của cử tri [102, tr. 15]. - Điều kiện hoạt động của các đại biểu Quốc hội cũng là một yếu tố được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến khi khảo sát về thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội. Khi thảo luận về vấn đề này, TS. Nguyễn Sĩ Dũng đã so sánh thực trạng điều kiện hoạt động hiện tại của các đại biểu Quốc hội nước ta với một số nước khác trên thế
  • 30. 24 giới. Việc không có điều kiện tài chính để phục vụ cho khu vực bầu cử của mình làm cho “việc thực hiện chức năng đại diện ở nước ta là khó khăn hơn” [66]. - Liên quan đến các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, việc đánh giá về đảm bảo tính đại diện của Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng của Quốc hội cũng được nhiều công trình nghiên cứu đề cập. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đa số các công trình nghiên cứu hiện tại mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá tính đại diện của Quốc hội như là một điều kiện để hỗ trợ thêm cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác của Quốc hội. Nói cách khác, trọng tâm của các nghiên cứu này không phải là về bảo đảm tính đại diện của Quốc hội mà là các chức năng, nhiệm vụ khác của Quốc hội. Trong hoạt động lập pháp, một báo cáo nghiên cứu mang tính toàn diện về việc sửa đổi quy trình, thủ tục lập pháp của Quốc hội vào năm 2008 (phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008) đã đưa ra những số liệu cụ thể về mức độ phản ánh ý kiến của người dân trong các chính sách lập pháp của Quốc hội. Theo đó, một tỉ lệ lớn người dân được hỏi cho rằng họ cảm thấy chưa được đại diện một cách hữu hiệu trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Kết quả điều tra của nghiên cứu này cho thấy có tới 77.5% số công chức, viên chức, cán bộ nghiên cứu và 63.7% số đại biểu Quốc hội được hỏi cho rằng việc lấy ý kiến nhân dân vào các dự án luật, pháp lệnh thời gian qua còn mang tính hình thức; 84.3% số công chức, viên chức, cán bộ nghiên cứu được hỏi đã cho rằng việc tiếp thu và giải trình còn hạn chế hoặc hầu như ít tiếp thu các ý kiến của họ vào các dự án luật, pháp lệnh [106, tr. 61 - 68]. Trong một nghiên cứu hiếm hoi lấy việc đánh giá tính đại diện của Quốc hội làm trọng tâm để xem xét việc thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội, GS.TS. Trần Ngọc Đường đã đánh giá cần phải xem lại nhận định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, Quốc hội cần phải tự mình làm lấy luật. Từ góc độ đại diện, cần phải quan niệm: “Quốc hội lập pháp có nghĩa là Quốc hội đại diện cho nhân dân tiến hành kiểm tra các dự án luật, đảm bảo cho các dự án luật khi đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành thể hiện đầy đủ, đúng với ý chí, nguyện vọng của nhân dân” [99]. Đối với hoạt động giám sát của Quốc hội, các đánh giá về tính đại diện hiện nay chủ yếu được nhìn nhận dưới góc độ thiếu sự liên hệ giữa các đại biểu và cử tri nên ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội [39]. TS. Trương Thị Hồng Hà, trong luận án của mình, đã nhận xét rằng trong khi có các đại biểu kiêm nhiệm có thể bị
  • 31. 25 xung đột về lợi ích nên không tiến hành tốt hoạt động chất vấn, thì có các đại biểu khác được bầu làm đại biểu do “lợi thế về cơ cấu” mà không do “lợi thế năng lực” nên không có đủ năng lực cần thiết trong việc tiến hành hoạt động giám sát [112, tr. 314 - 315]. - Bên cạnh các nghiên cứu đánh giá thực trạng mang tính định tính như trên, cũng có một số nghiên cứu đánh giá về thực trạng đại diện của Quốc hội mang tính định lượng. Góc độ tiếp cận của các nghiên cứu này có tính thực tiễn hơn. Theo đó, việc đo lường tính đại diện của Quốc hội được khảo sát bằng việc đo mức độ hài lòng của người dân đối với sự đại diện của Quốc hội. Đây cũng là cách đánh giá tương đối phổ biến ở nước ngoài và được Liên minh nghị viện thế giới khuyến khích sử dụng [149]. Trong một báo cáo nghiên cứu được tổ chức vào năm 2006, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số số liệu đáng chú ý như: 75% số đại biểu Quốc hội thường tiếp xúc cử tri theo đoàn hơn là tiếp xúc cử tri mang tính cá nhân, 50% số đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri từ 1 đến 2 lần mỗi tháng, 66% cử tri trả lời không biết tên đại biểu Quốc hội do mình bầu ra, 54% cử tri đô thị chưa bao giờ tham gia các buổi tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội [73, tr. 57-60]. Một nghiên cứu có tính cập nhật hơn cũng cho thấy những số liệu không mấy khả quan từ phía người dân khi đánh giá về tính đại diện của Quốc hội. Chẳng hạn, chỉ có 36,8% số người dân được hỏi trả lời đúng vị trí của Quốc hội là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân; chỉ có 21% số người dân được hỏi nhớ được từ 1 đến 5 tên người đại biểu ở địa phương mình, có đến 92,5% số người dân không biết đến trụ sở của Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương; có khoảng 71,3% người dân chưa bao giờ tham gia các hoạt động tiếp xúc cử tri (cao hơn số liệu của nghiên cứu năm 2006). Đặc biệt, có đến 88,5% số người được hỏi cho rằng đại biểu Quốc hội cần tìm hiểu sâu sát nguyện vọng của người dân hơn [109]. Điều này cho thấy mặc dù về mặt lí luận, các nhà nghiên cứu có thể có những đánh giá khá lạc quan về tính đại diện nhân dân của Quốc hội, tuy nhiên, trên thực tế đánh giá của bản thân người được đại diện thì số liệu cho thấy chưa hẳn đã có sự tương xứng giữa việc đánh giá định tính và định lượng.
  • 32. 26 1.2.3. Về các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội a) Về yêu cầu tăng cường tính đại diện của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong thời gian vừa qua đã có khá nhiều nghiên cứu về các yêu cầu đặt ra đối với Quốc hội trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong những yêu cầu đó, nhiều tác giả đã dành thời gian để phân tích về yêu cầu tăng cường tính đại diện của Quốc hội. Khi bàn về mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, GS.TSKH Đào Trí Úc đã xem việc đảm bảo tính đại diện của Quốc hội là một trong những nguyên tắc của việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, tính đại diện của Quốc hội càng phải thể hiện rõ nét không chỉ dưới góc độ tổ chức, phương thức hoạt động mà còn ở các sản phẩm lập pháp [13, tr. 321 - 322]. Cùng với GS.TS Nguyễn Đăng Dung, các tác giả của công trình nghiên cứu “Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền” cũng đánh giá: “Quốc hội trong nhà nước pháp quyền phải biết phát huy chức năng đại diện” [56, tr. 478]. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chưa làm rõ nguyên nhân tại sao cần phải tăng cường tính đại diện của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong khi đó, các tác giả của công trình nghiên cứu “Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta” cho rằng sự tồn tại của Quốc hội với vị trí là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân là đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp trong việc đề cao quyền con người, quyền công dân … [98, tr. 17 - 40] b) Về một số đề xuất kiến nghị, giải pháp Xuất phát từ thực tiễn chưa có các cơ sở lý luận đầy đủ và thấu đáo về tính đại diện của Quốc hội, nhiều nghiên cứu đã đặt ra vấn đề đầu tiên trong việc nâng cao tính đại diện của Quốc hội là cần phải nghiên cứu, làm rõ về tính đại diện của Quốc hội về
  • 33. 27 mặt lí luận. Một số tác giả còn đề nghị thể hiện nội dung này vào Hiến pháp theo hướng nên tách hẳn đoạn quy định “ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân” trong Hiến pháp 1992 thành một điều riêng biệt, đặt ở vị trí đầu tiên trong Chương về Quốc hội của Hiến pháp để nhấn mạnh tính đại diện của Quốc hội [130]. Đi vào các nội dung cụ thể, trong các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính đại diện của Quốc hội, nội dung được nhiều tác giả đề cập đến nhất là cần phải nâng cao vị thế, năng lực của các đại biểu Quốc hội. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh đến giải pháp này. PGS.TS Bùi Xuân Đức cho rằng để nâng cao chức năng đại diện của Quốc hội, cần có “cái tâm và cái tầm của đại biểu” [6]. Nhận xét này được nhiều nhà nghiên cứu khác chia sẻ. Trong đề tài nghiên cứu cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong bộ máy Nhà nước và hệ thống chính trị Việt Nam (qua 4 bản Hiến pháp)”, TS. Ngô Đức Mạnh cũng nhấn mạnh “đổi mới Quốc hội phải nhằm mục đích phát huy dân chủ đại diện, mà trước hết đòi hỏi đại biểu Quốc hội phải thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân thuộc các dân tộc, tôn giáo, các vùng, miền khắp trong cả nước” [51, tr. 105 - 107]. Trong khi đó, PGS.TS Lê Minh Thông kết luận rằng: “chất lượng đại biểu Quốc hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc thực thi vai trò đại diện của Quốc hội” [38]. Đi xa hơn một số nghiên cứu trước, PGS.TS Lê Minh Thông còn đưa ra các phương diện cụ thể để xác định năng lực đại diện của các đại biểu Quốc hội như: i) Năng lực nắm bắt, phân tích, đánh giá ý chí, nguyện vọng, mong muốn và lợi ích của các cử tri mà người đại biểu đại diện; ii) Năng lực diễn đạt, trình bày, đề xuất các vấn đề mà cử tri quan tâm trước Quốc hội; iii) Năng lực kết hợp lợi ích của cử tri với lợi ích của quốc gia; iv) Năng lực của người đại biểu trong đảm bảo thực hiện đầy đủ, đúng đắn và kịp thời các quyết định của Quốc hội liên quan đến lợi ích và quyền hợp pháp của các cử tri mà người đại biểu đại diện [38]. Bên cạnh đó, năng lực của người đại biểu Quốc hội là một vấn đề có sự gắn kết chặt chẽ với vấn đề cơ cấu thành phần của Quốc hội. Ở đây, các nhà nghiên cứu khác nhau còn có những phân tích, nhận định khác nhau. Một số tác giả, một mặt yêu cầu
  • 34. 28 tăng cường năng lực của các đại biểu, nhưng mặt khác cũng đề nghị cẩn phải đảm bảo tính đa dạng trong cơ cấu thành phần của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội phải có thành phần đa dạng, đại diện cho “các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, bảo đảm thích hợp các đại biểu Quốc hội là phụ nữ, người dân tộc, người ngoài Đảng trong Quốc hội; cần tăng cường số đại biểu Quốc hội là cán bộ đang công tác trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị, xã hội, hội đồng nhân dân” [11]. Trong khi đó, một số tác giả yêu cầu phải xem xét lại tính cơ cấu trong thành phần của các đại biểu và xem việc phải gánh trên mình quá nhiều “cơ cấu” chính là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của đại biểu Quốc hội. Ở góc độ này, có tác giả đã nhấn mạnh: “Không nên quan niệm rằng cứ phải có một chị nông dân trong Quốc hội thì mới có người đại diện cho giai cấp nông dân, cũng như không phải cứ có một nhà khoa học ngồi trong Quốc hội thì mới có tiếng nói của tầng lớp trí thức trong Quốc hội. “Đại diện” ở đây cần là đại diện cho cái “tâm”, cái “trí”, cái “dũng” hơn là đại diện bởi con người cụ thể” [64]. Tác giả này cũng đề nghị cần giảm bớt số lượng các đại biểu Quốc hội là công chức nhà nước bởi vì như vậy vô hình chung thành phần tính đại diện của Quốc hội đã trở thành “đại diện cho các cơ quan nhà nước” chứ không phải là “đại diện cao nhất của nhân dân”. Tuy không đề nghị cần phải đảm bảo tính cơ cấu trong thành phần của Quốc hội phải “đồng dạng” với cơ cấu thành phần của xã hội, nhưng một số nhà nghiên cứu đưa ra lưu ý cần phải dành sự đại diện nhất định cho những thành phần yếu thế trong xã hội trong Quốc hội [130]. Đây là một lưu ý chính đáng bởi vì việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội bao gồm cả việc bảo đảm bình đẳng giữa những người dân trong đó có việc bảo đảm ý kiến của nhóm thiểu số được ghi nhận. Chi tiết hơn đề nghị này, các nhà nghiên cứu đề nghị cần tính đến giải pháp dành một số ghế nhất định trong Quốc hội cho một số đối tượng đặc biệt như phụ nữ, dân tộc thiểu số, nông dân, hoặc cho người Việt định cư ở nước ngoài [130, tr. 27]. Cần phải thấy rằng nếu đi đến tận cùng của việc làm thế nào để có được những đại biểu Quốc hội có chất lượng thì vấn đề sẽ trở lại với việc đổi mới cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta. Chỉ thông qua cơ chế bầu cử tự do trong đó có sự tôn trọng quyền tranh cử của các ứng cử viên thì mới có thể giúp các cử tri có thể tìm ra được những đại biểu Quốc hội xứng đáng. Trong luận án của mình, TS. Vũ Văn Nhiêm cũng
  • 35. 29 đã đưa ra những đề xuất cụ thể trong cơ chế bầu cử nhằm tăng cường tính đại diện của Quốc hội. Trong đó, có hai đề xuất có tính đột phá là: Thứ nhất, cần chuyển đơn vị bầu cử nhiều đại diện sang đơn vị bầu cử một đại diện. Với cách thức tổ chức đơn vị bầu cử như vậy, các đại biểu Quốc hội sẽ có mối quan hệ “máu thịt” hơn giữa các đại biểu với cử tri, tạo cơ chế rõ ràng hơn về chế độ trách nhiệm và chế độ giải trình của các đại biểu Quốc hội. GS.TS Thái Vĩnh Thắng cũng nhấn mạnh đến kiến nghị này ở góc độ việc tổ chức các khu vực bầu cử đơn danh sẽ tăng thêm khả năng lựa chọn của công dân, tức là quyền làm chủ của người dân sẽ được thể hiện mạnh mẽ hơn [91, tr. 14 -15]; Thứ hai, đảm bảo hợp lý về tính đại diện. Theo đó, chế độ bầu cử cần phải được thiết kế sao cho kết quả bầu cử phải phản ánh tính đại diện của nhân dân trong địa dư bầu cử [128, tr. 170 - 175]. Để đảm bảo tính đại diện đồng đều của Quốc hội, nhiều tác giả cũng đề xuất cần phải thành lập mô hình Quốc hội hai viện ở nước ta. Theo đó, để hạn chế tình trạng cơ chế đại diện có xu hướng dịch chuyển về việc bảo vệ lợi ích của các địa phương, nên thành lập thêm Viện thứ hai để cân bằng giữa lợi ích của quốc gia và lợi ích của các địa phương. Hoặc một giải pháp có tính dung hòa hơn là vẫn giữ mô hình một viện như hiện nay nhưng phải dành cho ít nhất là một nửa số đại biểu được bầu không theo các địa phương cấp tỉnh [57, tr. 321 - 322]. Cùng với cơ chế bầu cử, việc tạo điều kiện để tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội cũng là một giải pháp quan trọng để tăng cường tính đại diện của Quốc hội. Trong đó, một trong những giải pháp quan trọng là cần phải tăng cường tính công khai trong hoạt động của Quốc hội, chẳng hạn như việc tổ chức truyền hình trực tiếp các phiên họp của Quốc hội, tổ chức các phiên điều trần công khai v.v… [68, tr. 7 - 10]. Bên cạnh đó, giải pháp bổ sung các quy định pháp luật để hiện thực hóa quyền bãi nhiệm các đại biểu Quốc hội của các cử tri cũng được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Theo họ, đây có thể được xem là biện pháp mạnh nhất nhằm tăng động lực đại diện của các đại biểu Quốc hội [100]. Ở nhóm các giải pháp mang nhiều tính kĩ thuật hơn, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều luận điểm khác nhau nhằm tăng cường tính đại diện của Quốc hội. Chẳng
  • 36. 30 hạn, có tác giả đề nghị cần đổi mới nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội theo hướng để Quốc hội có thực quyền hơn, làm tròn mọi nhiệm vụ được nhân dân giao cho [64]. Có tác giả đề nghị cần giảm bớt thời gian nhiệm kì của đại biêu Quốc hội để người dân có thể trực tiếp lựa chọn người đại diện của mình một cách dày hơn; thời gian hoạt động của Quốc hội trong mỗi năm cần phải kéo dài hơn, không chỉ ở mức hơn hai tháng như hiện nay để có thể phản ánh được tốt hơn ý chí, nguyện vọng của cử tri; đổi mới cách thức tiếp xúc cử tri theo hướng cần phải tạo ra cơ chế tiếp xúc cử tri một cách liên tục, ở nhiều địa điểm khác nhau [102]. Một vấn đề kĩ thuật nhưng cũng có tính quan trọng tác động đến tính đại diện của Quốc hội là cần tạo ra những điều kiện làm việc thuận lợi đối với các đại biểu Quốc hội để họ có thể đại diện một cách thuận lợi cho các cử tri. Ở đây, có hai góc độ thường được các nhà nghiên cứu đề cập đến. Thứ nhất, đó là các điều kiện về vật chất giúp các đại biểu Quốc hội có thể tiếp xúc một cách thuận lợi với công chúng để tìm hiểu về ý chí, nguyện vọng của các cử tri của mình. Các nội dung cụ thể thường được nhắc đến gồm các khoản kinh phí để hỗ trợ cho các đại biểu trong việc phục vụ cử tri [66]; các điều kiện về văn phòng làm việc ở khu vực bầu cử để thuận lợi cho việc tiếp xúc cử tri [102] v.v… Thứ hai, đó là các điều kiện để các đại biểu có thể tự do phát biểu những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của cử tri mà không bị hạn chế hoặc can thiệp của một bên thứ ba. Điều này được coi là một trong những điều kiện rất quan trọng đối với hoạt động của Quốc hội. Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa có các quy định cụ thể về vấn đề này. Do vậy, các nhà nghiên cứu đề xuất cần bổ sung thêm quy định này vào Hiến pháp [22]. Cuối cùng, việc tăng cường tính đại diện của Quốc hội còn có sự gắn bó chặt chẽ với năng lực của những người được đại diện là các cử tri. Theo nhiều nhà nghiên cứu, khi các cử tri trở nên hiểu biết hơn về thiết chế đại diện thì họ cũng đặt ra nhiều yêu cầu hơn đối với những người đại diện cho mình. Điều này có nghĩa là tính đại diện của Quốc hội từ đó được tăng cường mạnh mẽ hơn. TS. Nguyễn Sĩ Dũng phân tích: “Những người chủ có ý thức sẽ là những người chủ đòi hỏi nhiều hơn. Người dân đang mong muốn Quốc hội đại diện cho mình tốt hơn [31]. Như vậy, từ việc khảo sát các nghiên cứu hiện nay có liên quan đến đề tài luận án, có thể nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến tính đại
  • 37. 31 diện của Quốc hội cần được làm rõ. Trước hết, khái niệm về tính đại diện của Quốc hội cần phải được nghiên cứu, làm rõ trên cơ sở phân tích nền tảng lý luận của việc hình thành nên cơ quan đại diện của dân chúng. Các yêu cầu của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng cần được xác định để qua đó làm rõ các yếu tố cụ thể để bảo đảm tính đại diện của Quốc hội. Việc đánh giá thực trạng của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay cũng cần được thực hiện một cách tổng thể, trên mọi góc độ của khái niệm về tính đại diện của Quốc hội để qua đó hình thành nên các kiến nghị, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Kết luận Chương 1: 1. Qua khảo sát có thể nhận thấy các nghiên cứu về Quốc hội nước ta từ trước đến nay chủ yếu tập trung vào các chức năng của Quốc hội được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp mà ít đề cập đến tính đại diện của Quốc hội. Các công trình nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội ở Việt Nam chủ yếu mới là các bài viết nghiên cứu ngắn, đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành hoặc tại một số cuộc hội thảo khoa học mà chưa có những công trình nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về nội dung này. Một số bài viết đã tập trung làm rõ những vấn đề lí luận về tính đại diện của Quốc hội. Tuy nhiên, xunh quanh tính đại diện của Quốc hội còn có khá nhiều tranh luận. Một số tác giả cho rằng đại diện chỉ là thuộc tính của Quốc hội mà không phải là chức năng của Quốc hội. Trong khi đó, một số tác giả lại cho rằng không thể xem đại diện là một thuộc tính của Quốc hội vì bản thân cơ cấu thành phần của Quốc hội không thể được xem là đương nhiên đại diện cho toàn xã hội, hoặc vì nếu xem đại diện như một thuộc tính của Quốc hội thì đã mở quá rộng phạm vi của khái niệm này. Trong khi đó một số tác giả lại quan niệm không có sự phân biệt giữa việc xem đại diện là một thuộc tính hay là chức năng của Quốc hội. Như vậy, có thể thấy rằng trong các nghiên cứu đã có hiện nay, xung quanh việc nhận thức về chức năng đại diện của Quốc hội còn có những vấn đề lí luận chưa được giải quyết. 2. Mối liên hệ giữa việc bảo đảm tính đại diện và hiệu quả hoạt động của Quốc hội để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu. Ví dụ như về mối quan hệ giữa đại diện và hoạt động lập