SlideShare a Scribd company logo
1 of 175
Download to read offline
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI ANH TUẤN
thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra
cña ®¶ng giai ®o¹n hiÖn nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 31 23 01
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. NGÔ HUY TIẾP
2. TS. NGÔ KIM NGÂN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Bùi Anh Tuấn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6
Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN 31
1.1. Khái quát về công tác kiểm tra của Đảng 31
1.2. Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 39
Chương 2: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 73
2.1. Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng hiện nay 73
2.2. Nguyên nhân thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 89
2.3. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra qua thực trạng hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 103
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC
MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY 112
3.1. Dự báo một số tình hình có liên quan và phương hướng hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trong thời
gian tới 112
3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng 118
KẾT LUẬN 119
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 172
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt
quan tâm công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đảng ta luôn khẳng
định: lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo; kiểm tra là
chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội dung của phương thức lãnh đạo, là
bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra, xác
minh là một khâu hoạt động rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, nếu chưa
thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu đáo thì chưa thể
kết thúc kiểm tra và như thế cũng có nghĩa là chưa thể kết luận, xử lý đối với
nội dung và đối tượng kiểm tra. Chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm
tra, xác minh có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc kết luận và quyết định
xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra. Phương
châm “công minh, chính xác, kịp thời” của việc thi hành kỷ luật trong Đảng
được thực hiện tốt hay không, đạt được đến mức độ nào đều phụ thuộc vào
mức độ, hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh.
Nhiều năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới
toàn diện và sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, công tác kiểm tra nói chung và hoạt
động thẩm tra, xác minh nói riêng của các tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra
các cấp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực trong công
tác xây dựng Đảng. Khi tiến hành thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng, cán bộ kiểm tra các cấp đã bám sát và tuân thủ thực hiện đúng các
nguyên tắc thẩm tra, xác minh, bám sát nội dung kiểm tra; thực hiện dân chủ,
khách quan, công khai; thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và
phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Do làm tốt thẩm tra, xác minh nên
nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối tượng được kiểm tra “tâm phục”,
2
“khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý công minh, chính xác, kịp thời, có tác
dụng góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác xây dựng Đảng ở
nơi được kiểm tra.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những kết quả đạt được, hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra cũng đã và đang bộc lộ
những khó khăn, hạn chế cần nhanh chóng được khắc phục. Một số cấp ủy, tổ
chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra chưa thật sự
quan tâm, coi trọng vị trí, vai trò của hoạt động thẩm tra, xác minh. Một số vụ
việc tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, không đầy đủ, chưa sâu, chưa tìm
được bằng chứng xác thực, làm ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan khi
kết luận nội dung kiểm tra. Chất lượng chứng cứ sau một số cuộc thẩm tra,
xác minh không đầy đủ và xác đáng để làm cơ sở kết luận nội dung và đối
tượng kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác minh - theo nguyên tắc và phương
pháp công tác đảng - phải lấy việc tự phê bình và phê bình làm biện pháp
chính; tuy nhiên, trong thực tế, hiệu quả của việc thực hiện biện pháp chính
yếu này không phải là như nhau và lúc nào cũng có vai trò tích cực, nhất là
trong bối cảnh những tổ chức đảng mất đoàn kết nội bộ, ý thức đảng chưa
cao. Đặc biệt, nhiều vụ việc, hành vi của đối tượng kiểm tra không chỉ dừng
trong nội bộ Đảng, mà còn liên quan đến pháp luật, đến nhiều lĩnh vực khác,
kể cả những mối quan hệ xã hội của đối tượng kiểm tra… Điều đó đòi hỏi
hoạt động thẩm tra, xác minh muốn có hiệu quả cần phải có sự cộng tác, phối
hợp của nhiều hoạt động, nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Biện
pháp tự phê bình và phê bình trong nội bộ tổ chức đảng để tiến hành thẩm tra,
xác minh cũng cần được hoàn thiện, phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn
hiện nay trên cơ sở đặc điểm thực trạng của tổ chức cơ sở đảng có đối tượng
kiểm tra.
Những hạn chế trong hoạt động thẩm tra, xác minh dẫn đến quyết định
xử lý không chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi phạm,
3
tiêu cực hoặc không bảo vệ được chân lý và các nhân tố tích cực… Những
hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: tính phức tạp của các vụ
việc, sự yếu kém về tính tự giác của đối tượng kiểm tra, thực trạng nội bộ tổ
chức đảng thiếu tính chiến đấu,... song nguyên nhân cơ bản là về quan điểm
và phương pháp, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra cũng như quy trình
tiến hành thẩm tra, xác minh chưa có sự đổi mới, nâng cao chất lượng cho
phù hợp với tình hình mới.
Để tiếp tục phát huy kết quả cũng như góp phần khắc phục những mặt
hạn chế, yếu kém trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra,
xác minh nói riêng thời gian qua nhằm đáp ứng những yêu cầu của công cuộc
đổi mới và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, việc nghiên cứu đề tài
“Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay”
là rất cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất
một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, khái quát một số kinh
nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai
đoạn hiện nay.
- Phân tích những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và một số
giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về lĩnh vực nghiên cứu, luận án đi sâu nghiên cứu thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trên tất cả các đối
tượng, nhiệm vụ kiểm tra.
Phạm vi nghiên cứu của luận án về thời gian từ năm 2001 đến nay;
phương hướng giải pháp của luận án có giá trị định hướng đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, về hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; nghiên cứu một số
Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng, như: Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống
tham nhũng; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính… Luận án còn kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng việc tổng kết thực tiễn, điều
tra, khảo sát, phương pháp chuyên gia, hệ thống, kết hợp chặt chẽ lôgíc - lịch
sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh.
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận giải, làm rõ hơn, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về công tác
kiểm tra của Đảng, trong đó tập trung vào hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng.
5
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng, khái quát một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
- Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi nhằm thực hiện tốt hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối với
ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng; trong bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
kiểm tra của Đảng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng
Đảng và chính quyền Nhà nước trong các học viện, nhà trường trong cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận các danh muc công trình của tác giả liên
quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội chính của luận
án gồm 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu có tác giả là người nước ngoài
Lý Quang Diệu trong "Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965-
2000" [59], trong bài viết chủ đề “Xây dựng một Chính phủ trong sạch”, tác
giả - Thủ tướng đầu tiên (từ năm 1959-1990) và là người có vai trò to lớn
trong việc thay đổi và phát triển đất nước Singapore trở thành một trong
những “con rồng Châu Á” - đã khẳng định và nêu bật quyết tâm của Đảng
Hành động Nhân dân (tên viết tắt tiếng Anh là PAP) khi lên nắm chính
quyền vào năm 1959, là đã xác định và bắt tay xây dựng một chính quyền
trong sạch. Một trong những “công cụ được mài nhọn” để có thể ngăn
chặn, phát hiện và cản trở những thủ đoạn tham nhũng là cơ quan trọng yếu
thực hiện nhiệm vụ này: Ban Điều tra hành vi tham nhũng (tên viết tắt
tiếng Anh là CPIB), có quyền hạn được điều tra bất kỳ viên chức hay vị Bộ
trưởng nào. Nhân viên của Ban cũng được ủng hộ để thực thi luật, không e
dè hay thiên vị.
Đến năm 1960, chính quyền của Đảng PAP thực hiện việc nới rộng
quyền lực của các điều tra viên, kể cả quyền bắt giữ, khám xét, thanh tra tài
khoản, sổ ghi tiền gửi ngân hàng của những kẻ bị tình nghi cũng như của vợ,
con và thuộc hạ của họ. Một sự thay đổi nữa là cho phép những người xét xử
xem những chứng cứ cho thấy người bị tố cáo đang sống ở mức sống vượt
quá khả năng kinh tế của họ hoặc có những tài sản mà thu nhập của họ không
thể giải thích, là bằng chứng xác thực chứng minh rằng người bị tố cáo đã
nhận hối lộ.
7
Tác giả Lý Quang Diệu rút ra nhận định ở cuối bài viết: “Hệ thống
được lập ra điều tra và báo cáo trung thực sẽ chứng minh hệ thống ấy công
minh và hiệu quả, không ai ở ngoài lưới pháp luật cả” [59, tr.175].
Hồng Vĩ trong "Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc"
[197] đã nghiên cứu và trình bày rất sâu sắc về nạn tham nhũng, về cuộc đấu
tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trung Quốc và vai trò lĩnh ấn tiên phong của Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung
ương trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt này.
Sau khi phân tích những khó khăn trong việc chống tham nhũng, tác
giả cho rằng, các cơ quan chức năng phải không ngừng tăng cường công tác
điều tra xử lý các vụ án lớn, nghiêm trọng để trừng phạt nghiêm khắc và gây
sức ép mạnh mẽ, quyết không cho phép những phần tử tham nhũng ẩn náu
trong Đảng. Theo tác giả, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ
luật Trung ương ưu tiên, đặt trọng tâm là phải điều tra tỷ mỉ và xử lý nghiêm
các vụ án cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức quyền mưu lợi cá nhân, coi thường
chức trách, cương vị công tác, gây thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước;
điều tra thận trọng và xử lý các vụ án cán bộ cấp cơ sở nông thôn vi phạm kỷ
cương, luật pháp... Để làm được việc này, bên cạnh việc thực hiện một số
biện pháp, phải tăng cường sự phối hợp giữa các ngành kiểm tra kỷ luật, tòa
án, kiểm sát, giám sát, thẩm duyệt trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản
Trung Quốc (tháng 11-2012), Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã trình bày Báo cáo về tình hình công tác 5 năm
(2007-2012) và kiến nghị công tác thời gian tới [188], báo cáo đã được Đại
hội thẩm tra và thông qua. Trong Báo cáo có một số nội dung về công tác điều
tra trong Đảng như:
Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm pháp luật, bảo vệ tính
nghiêm túc của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặt việc điều tra xử lý
8
các vụ án lên vị trí quan trọng, điều tra xử lý trọng điểm những vụ án lạm
dụng chức quyền, tham ô hối lộ, tha hóa biến chất, không làm tròn chức trách
của cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo, những vụ án mà những người liên
quan tuy cấp bậc không cao nhưng số tiền lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng, và
những vụ án tham nhũng nảy sinh bên cạnh quần chúng… Tăng cường công
tác thẩm tra, xét xử khiếu nại, điều tra lại và quản lý giám sát vụ án, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của cán bộ, đảng viên. Cơ chế tổ chức phối hợp điều tra
vụ án ngày càng kiện toàn hơn. Các chức năng trị tận gốc, trong đó có điều tra
xử lý vụ án ngày càng được phát huy.
Báo cáo cũng nhận định: Hành vi tham nhũng ngày càng phức tạp, kín
đáo, độ khó của việc phát hiện và điều tra ngày càng tăng …
Báo cáo đã nêu lên bảy kinh nghiệm cơ bản trong công tác xây dựng
tác phong Đảng liêm chính và chống tham nhũng, trong đó có kinh nghiệm
(thứ năm): Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật, pháp luật,
đặc biệt là phải làm tốt việc điều tra xử lý các vụ án lớn, quan trọng…
Qua Báo cáo, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương đã đề xuất 8 kiến
nghị với với Đại hội XVIII, trong đó: Kiến nghị thứ nhất: Ủy ban kiểm tra kỷ
luật các cấp phải nghiêm khắc điều tra xử lý hành vi vi phạm kỷ luật chính trị,
kiên quyết bảo vệ sự tập trung thống nhất của Đảng; kiến nghị thứ tư tập trung
nhấn mạnh: Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật,
pháp luật, bảo đảm xu thế trừng trị tham nhũng mạnh mẽ; kiến nghị thứ năm
nêu: Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện, nghiêm túc điều tra
hành vi vi phạm và nâng cao năng lực thực hiện chế độ liêm khiết; kiến nghị
thứ sáu: Phát huy hơn nữa vai trò giám sát của chế độ tuần thị, tăng cường
năng lực phát hiện vấn đề. Kiên trì làm tốt việc thẩm tra trách nhiệm kinh tế
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt và nhân viên lãnh đạo công ty nhà nước, tăng
cường thẩm tra đối với vốn chuyên đề trọng điểm và công trình đầu tư lớn; kiến
nghị thứ tám nhấn mạnh về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cả về
9
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, trong đó: Cán bộ kiểm
tra, giám sát cần phải nắm vững mấu chốt là xây dựng, tăng cường năng lực
điều tra, phương pháp và trình độ thực hiện chức trách một cách khoa học…
Tác giả Phuthắc Phítthanuson trong “Công tác kiểm tra của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [137], tại chương 2, khi
đánh giá ưu điểm trong công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, tác giả viết: …Khi kiểm tra và xử lý kỷ luật đã làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh… Tuy nhiên, ở phần đánh giá nhược điểm, tác giả cũng thẳng thắn
thừa nhận: …Uỷ ban kiểm tra chưa đủ mạnh, chưa có phương pháp, phương
thức tiếp cận. Cho nên, trong thời gian qua, chỉ khi có vi phạm nghiêm trọng
đến mức phạm pháp thì mới tiến hành kiểm tra, thẩm tra, xác minh và phải tổ
chức thành đoàn kiểm tra theo chỉ thị, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng mới tiến hành kiểm tra được, nhất là cán bộ là ủy viên ban chấp hành
tỉnh ủy, huyện ủy…
Trong chương 3, ở giải pháp thứ hai (Kiện toàn bộ máy ủy ban kiểm tra
và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra), tác giả nêu: Người cán bộ
kiểm tra là người có khả năng triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ lập kế hoạch,
thẩm tra, xác minh, viết báo cáo, văn bản, theo dõi thực hiện quyết định và lập
hồ sơ lưu trữ;… Ở giải pháp thứ tư, tác giả đề xuất: phải phát huy trách nhiệm
xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở,
tạo điều kiện để quần chúng tham gia ý kiến, phản ảnh về đối tượng kiểm tra;
tuy nhiên, những ý kiến đó phải được chọn lọc, kiểm tra, xác minh.
Tác giả Chănsyseng Sômphu trong “Chất lượng công tác kiểm tra của
ủy ban kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” [143], tác giả luận án
đã đề xuất giải pháp “Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp, nguyên tắc,
hình thức kiểm tra, thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa công tác kiểm tra”,
trong đó phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Yêu cầu đặt ra khi đánh
10
giá, kết luận những ưu điểm và khuyết điểm của cán bộ, đảng viên hoặc tổ
chức đảng được kiểm tra phải đúng với bản chất của sự việc, sự kiện, do đó
trong quá trình kiểm tra nhất thiết phải có khâu thẩm tra, xác minh. Tác giả
cũng đặt ra yêu cầu là cần xác định đúng về đối tượng thẩm tra, xác minh và
phân biệt giữa đối tượng kiểm tra với đối tượng thẩm tra, xác minh; chọn
đúng nội dung, đồng thời phải có phương pháp thẩm tra, xác minh hết sức
khoa học, tinh vi mới đảm bảo hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác kiểm tra
Đảng và Nhà nước giai đoạn mới hiện nay.
1.1.2. Các công trình có tác giả là người Việt Nam nghiên cứu về
kinh nghiệm của nước ngoài
Sách "Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế
giới" của Ban Nội chính Trung ương [33], đã nêu và phân tích kinh nghiệm
của một số nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó có
những kinh nghiệm về biện pháp kiểm tra, điều tra của Đảng cầm quyền, như:
Lào thực hiện nhất thể các chức danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước;
kiểm tra Đảng và thanh tra Chính phủ sáp nhập thành Ban Kiểm tra Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào. Do đó, việc phối, kết hợp giữa kiểm tra đảng và
thanh tra nhà nước phát huy và khai thác được khả năng cán bộ, hỗ trợ, bổ
sung cho nhau về kết quả thẩm tra, xác minh trong quá trình thực hiện các
cuộc kiểm tra và thanh tra để kịp thời và đồng bộ trong xử lý.
Các đảng cầm quyền ở Australia luôn đề cao cơ chế bảo đảm sự liêm
chính trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền; áp dụng kỹ
thuật điều tra đặc biệt, các phiên điều trần theo quy định của luật pháp. Bên
cạnh đó, coi trọng công luận và dư luận quần chúng trong việc giám sát hành
vi của công chức, khuyến khích và phát huy vai trò báo chí có tính độc lập
tương đối trong điều tra, phòng, chống tham nhũng và công chức có sai phạm.
Đảng Hành động Nhân dân Singapore (là Đảng duy nhất nắm quyền ở
Singapore suốt từ thời lập quốc đến nay) xác định xem xét cả các đơn thư tố
11
giác không ghi tên người gửi, thậm chí xem xét cả các cuộc điện thoại gọi tới.
Khi xem xét, phải quyết định có tiến hành điều tra hay không, nếu có thì phải
điều tra ngay (không được để quá 4 ngày). Vì họ cho rằng, thư nặc danh là
một nguồn thông tin, còn kết luận công chức có sai phạm, có tham nhũng hay
không thuộc nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, nhiều nước cho phép cơ quan chức năng được sử dụng
một số biện pháp đặc biệt như nghe điện thoại bí mật, xây dựng cơ sở bí
mật... để phát hiện công chức sai phạm, tham nhũng.
Trong "Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về công tác kiểm tra, kỷ luật của
Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc" của
các đoàn công tác của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Đối ngoại Trung
ương, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng -
Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ (giai đoạn 2008-2014) [182]
đã tổng hợp rất sâu sắc nhiều nội dung như:
Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc có các quyền hạn:
Quyền giám sát, quyền kiểm tra, quyền điều tra, quyền kiến nghị và quyền xử
lý kỷ luật. Nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra, kỷ luật trong công tác kiểm tra vụ việc
có nội dung: điều tra rõ sự việc; thu thập chứng cứ xác đáng, đầy đủ; người vi
phạm bị kỷ luật và trừng trị thích đáng; người không vi phạm không bị truy cứu.
Yêu cầu đặt ra là sự thật rõ ràng; chứng cứ xác đáng, chuẩn xác (rất quan trọng);
xử lý đúng mức; thủ tục hoàn chỉnh và trình tự phải hợp pháp.
Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất chú trọng
những kỹ năng cơ bản của công tác kiểm tra, cụ thể là 4 kỹ năng: Kỹ năng kết
hợp giữa tiến hành thẩm tra, xác minh trực tiếp, công khai với gián tiếp, bí
mật; Kỹ năng kết hợp công tác tư tưởng để phát huy tính tự giác của đối
tượng kiểm tra với thẩm tra, xác minh, tìm bằng chứng; Kỹ năng nắm tình
hình tại chỗ (qua việc thành lập các tổ thị sát) và Kỹ năng xem xét nguồn gốc
phát sinh sai phạm ("trị tận gốc, trị lý tổng hợp, coi trọng phòng ngừa").
12
Trình tự và phương pháp khi xử lý một vụ án của uỷ ban kiểm tra kỷ
luật Đảng Cộng sản Trung Quốc được tiến hành theo các bước như sau:
Thứ nhất, thụ lý vụ án
Sau khi xem xét sơ bộ tài liệu và tiến hành xử lý, nếu tài liệu cán bộ bị
xử lý thuộc thẩm quyền của ủy ban kiểm tra kỷ luật thì xác định có thể điều
tra xử lý trực tiếp, làm rõ vấn đề có lập án không; những tài liệu ủy ban kiểm
tra kỷ luật đang làm rõ bước đầu, lập án phải chuyển các đội điều tra chuyên
môn. Tài liệu phát hiện chưa rõ dấu hiệu vi phạm chuyển ủy ban kiểm tra kỷ
luật cấp dưới làm rõ hơn; tài liệu không cụ thể, không có khả năng điều tra thì
lưu trữ lại.
Thứ hai, xác minh, làm rõ bước đầu
Về trình tự trong xác minh: Ủy ban kiểm tra kỷ luật, cơ quan thanh
tra quyết định lập tổ làm rõ bước đầu, làm rõ bước đầu tài liệu tố cáo, đơn
khiếu nại trước khi lập án (vấn đề trong đơn thư có thật hay không, có cần
xử lý kỷ luật đối với đối tượng được phản ánh trong đơn thư không; cung
cấp được chứng cứ cho việc lập án hay không). Giai đoạn này phải điều tra
lấy chứng cứ cho chặt chẽ, phải giữ gìn bí mật với bên ngoài và trong nội
bộ. Nếu đủ chứng cứ thì lập án, nếu chưa đủ thì chưa lập án. Trong tài liệu
phản ánh cán bộ có nhiều vấn đề, tiến hành làm rõ vấn đề chính, nếu thu
thập một chứng cứ khi trao đổi trực tiếp với đối tượng, họ không khai thì
tìm giải pháp khác; những vấn đề chính tìm ra càng nhiều chứng cứ càng
tốt. Quá trình làm rõ bước đầu, chú ý nhân vật đặc biệt, việc đặc biệt, thời
điểm đặc biệt. Kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị, khẳng định rõ có hoặc
không. Vì đối tượng điều tra là cán bộ đảm nhiệm chức vụ nhất định, để
tránh hiệu ứng tiêu cực không cần thiết, chú trọng xử lý khéo léo. Có giải
pháp điều tra hợp lý, điều tra cấp trên tiến hành từ cấp dưới, bên trong từ
bên ngoài, điều tra đối tượng A từ đối tượng B, qua đó nắm bắt được nhiều
chứng cứ.
13
Về xử lý kết quả xác minh: Khi kết thúc làm rõ bước đầu, đánh giá kết
quả làm rõ, đưa ra kiến nghị xử lý. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm, phải
truy cứu thì lập án để điều tra sâu hơn.
Thứ ba, lập án để điều tra
Chỉ ủy ban kiểm tra, kỷ luật theo thẩm quyền quy định của Điều lệ
Đảng phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm phải truy cứu thì quyết
định lập án để điều tra.
Thứ tư, điều tra sau khi lập án
Thông qua điều tra làm rõ vấn đề trái kỷ luật đối với những vấn đề đã
được lập án. Hiệu quả của vụ án phụ thuộc vào giai đoạn điều tra. Thời hạn
điều tra là 3 tháng, nếu vụ án phức tạp có thể kéo dài thêm 1 tháng, gia hạn
thêm không quá 3 tháng (không vượt thời hạn điều tra trong 6 tháng).
Trình tự điều tra theo 3 bước sau:
Một là, bước chuẩn bị:
Thành lập tổ điều tra vụ án: trong khi lập tổ điều tra vụ án phải bổ sung
thêm cán bộ tham gia để điều tra các mặt vi phạm của cán bộ. Trong tổ điều
tra án chuyên môn có 3 tiểu tổ: tiểu tổ trao đổi trực tiếp với đối tượng chính;
tiểu tổ điều tra những vấn đề phản ánh và tiểu tổ tổng hợp. Tiến hành nghiên
cứu về những tình tiết, thiết kế, xây dựng, xem xét phương án điều tra, trong
đó chú ý quyết định bước đi, công tác trọng điểm. Khi phương án điều tra
được phê duyệt thì chuyển sang bước thực thi.
Hai là, bước thực thi:
Công bố quyết định lập án: Sau khi có quyết định lập án phải công bố
quyết định này trước đối tượng bị kiểm tra. Tổ điều tra phải tỏ rõ thái độ lập
án, nêu yêu cầu đối với đối tượng kiểm tra về: tích cực phối hợp làm rõ vấn
đề của mình; đối xử đúng đắn, không có hành vi câu kết với người khác,
không có thái độ phản ứng, thiếu hợp tác hoặc tiêu hủy chứng cứ; không trả
thù người tố cáo (tổ điều tra phải coi trọng việc bảo vệ người tố cáo trong quá
trình điều tra, không để lộ cho người bị điều tra biết).
14
Thu thập, điều tra chứng cứ một cách toàn diện: thu thập nhân chứng,
vật chứng, tài liệu tố cáo; xem xét, phân tích hiện trường thông qua kỹ thuật
hiện đại. Yêu cầu đối với việc điều tra phải toàn diện, khách quan, phải thực
sự cầu thị, không được chủ quan; không chỉ thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ
hành vi trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng bị điều tra, mà phải thu thập, tổng
hợp cả tài liệu chứng minh hành vi không trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng
bị điều tra. Việc điều tra lấy chứng cứ, lực lượng chủ chốt là cán bộ trong tổ
điều tra chuyên môn, đồng thời chú trọng huy động nhân dân tham gia vào
việc điều tra. Khi xảy ra vụ việc sẽ để lại chứng cứ, sẽ có người biết việc, nên
yêu cầu công tác điều tra phải đi sâu hơn, kỹ lưỡng hơn. Vì vậy, trong quá
trình điều tra thu thập chứng cứ, cần yêu cầu cơ quan hữu quan giúp đỡ, phối
hợp (cơ quan thuế vụ điều tra nộp thuế của đối tượng; trung tâm chống rửa
tiền điều tra tiền vốn của đối tượng…). Thông qua sự cố gắng chung, phối
hợp cơ quan hữu quan làm rõ sự thật, chứng cứ của vụ án.
Ba là, bước cuối cùng (bước kết thúc):
Phân tích vụ án, tìm ra sự thật hành vi sai trái, cho người bị điều tra
xem xét lại nội dung hành vi vi phạm; đưa ra ý kiến thẩm định và đề xuất việc
xem xét, xử lý. Hoàn chỉnh báo cáo xử lý, đồng thời hoàn chỉnh giai đoạn
điều tra, chuyển cơ quan hữu quan. Giai đoạn điều tra xử lý vụ án có nhiều cơ
quan hữu quan, như: cơ quan tiếp dân tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của quần
chúng; cơ quan phụ trách vụ án; đơn vị làm rõ sơ bộ, lập án điều tra. Khi kết
thúc điều tra lập án, chuyển hồ sơ, tài liệu điều tra sang văn phòng xét xử vụ
án; văn phòng xét xử vụ án căn cứ tình tiết vi phạm, đưa ra kiến nghị xử lý.
Các biện pháp điều tra được sử dụng, bao gồm:
Một là, các biện pháp điều tra chung: Song quy (yêu cầu đảng viên
trong vụ án trình bày rõ vấn đề trong thời gian quy định, địa điểm quy định;
đồng thời, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp chứng cứ
đúng sự thật, tài liệu liên quan đến vụ án, không được từ chối, quấy nhiễu vụ
15
án); ghi âm, chụp ảnh, quay phim về những nhân viên, vụ việc liên quan đến
vụ án khi cần thiết (hình thức này làm chặt chẽ chứng cứ thu thập được và
giám sát chặt chẽ cán bộ xử lý vụ án); thẩm tra tài liệu và sao tài liệu liên
quan (khi cần thiết có thể tiến hành niêm phong tài liệu); điều tra tài khoản
đơn vị và nhân viên liên quan (có thể mời tòa án phong tỏa tài khoản của cán
bộ bị điều tra tại ngân hàng); mời cơ quan hữu quan thực hiện việc giám định
kỹ thuật những vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ.
Hai là, biện pháp điều tra đột phá vụ án quan trọng, vụ án lớn:
Công tác chính trong xử lý vụ án phải tập trung đối thoại với đối tượng
bị điều tra, tranh thủ đột phá vào trung tâm. Thực tiễn phải dựa vào "4 dùng":
dùng sức đe dọa của kỷ luật đảng; dùng thuyết minh chính sách; dùng quan
điểm tính nhân văn; dùng chính trị của mình. Phải nắm bắt trạng thái tâm lý,
hiểu mong muốn, nỗi sợ, suy nghĩ của đối tượng điều tra. Trường hợp đối
tượng bị điều tra cố tình không khai báo, tổ điều tra phải tự tiến hành việc thu
thập chứng cứ và đề phòng họ có nhiều hình thức biện bạch về vi phạm của
mình. Đối tượng - kể cả là cán bộ lãnh đạo - càng cố giấu hành vi vi phạm của
mình, mặc dù họ chưa khai báo, qua chứng cứ chặt chẽ thu được vẫn làm rõ
được sự thật. Yêu cầu quá trình xử lý vụ án phải trọng chứng cứ, không chỉ
dựa vào lời khai, đây là hai mặt của vụ án. Xử lý quá trình trung tâm rút ngắn
thời gian xử lý vụ án và giảm chi phí là rất quan trọng.
Đột phá không lời khai cung phải đầu tư nhiều sức người, tiền của, tốn
kém thời gian. Nếu để thời gian kéo dài gây hiệu ứng tiêu cực cho quá trình
xử lý vụ án. Vì vậy, khi cần thiết phải dựa vào trinh sát điều tra thu thập
chứng cứ để đột phá nhanh vào trung tâm.
Khi kết thúc điều tra, cho đối tượng bị điều tra xem tài liệu thu thập
được và cho các đối tượng này gặp nhau để họ thực sự tâm phục, khẩu phục.
Nếu các đối tượng điều tra có ý kiến bất đồng đúng đắn thì chấp nhận, không
đúng đắn thì giải thích lại, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, xác định tính chất
16
trái kỷ luật của họ, đưa ra kiến nghị kết quả xử lý thích hợp. Sau đó, hoàn
thành báo cáo, chuyển cơ quan có chức năng xử lý.
Như vậy, có thể thấy trong trình tự và phương pháp kiểm tra xử lý vụ
án (vụ việc), ủy ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm
và tôn trọng các bước thẩm tra, xác minh từ khâu ban đầu đến khi kết thúc vụ
việc. Trong thông tin ban đầu là cơ sở để lập hồ sơ điều tra vụ án, vì vậy đây
được coi là khâu quan trọng có tính quyết định tới các bước tiếp theo. Trong
khi điều tra vụ án phải tuân theo nguyên tắc và trình tự điều tra vụ án (trình
tự, thủ tục thẩm tra, xác minh) để làm rõ vụ việc.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
1.2.1. Các đề tài khoa học
Tác giả Nguyễn Anh Liên trong “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và
nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng”
[115], đây là đề tài khoa học đầu tiên về thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng. Đề tài được thực hiện với mục tiêu tập trung đề xuất, kiến
nghị những giải pháp đổi mới về phương pháp, nghiệp vụ và quy trình tiến
hành thẩm tra xác minh, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ nhiệm vụ kiểm tra
Đảng. Các tác giả của đề tài đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của hoạt động thẩm tra, xác minh và cũng là đóng góp mới về khoa
học và thực tiễn, như: đã luận giải có sức thuyết phục tư tưởng Hồ Chí Minh
về tự phê bình và phê bình là cơ sở phương pháp luận của hoạt động thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; do vậy, hoạt động thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng phải lấy tự phê bình và phê bình trong
tổ chức đảng làm biện pháp chính yếu; đã đi sâu nghiên cứu những khái niệm
như "thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng"; những vấn đề về
quan niệm như: "trọng chứng", "trọng cung", "án tại hồ sơ"… trong công tác
kiểm tra của Đảng; làm nổi bật được hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng nhất thiết và chủ yếu phải dựa vào hệ thống tổ chức
17
đảng; người được kiểm tra cũng đồng thời là người kiểm tra; đã đề xuất được
ba giải pháp hợp lý, có tính khả thi nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất
lượng thẩm tra, xác minh...
Tuy nhiên, vì một số lý do, đề tài có thể cần phân tích sâu hơn mối
quan hệ giữa hoạt động thẩm tra, xác minh và các hoạt động khác, trong đó
chú trọng hoạt động phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên,
của phương pháp cơ bản trong công tác kiểm tra của Đảng, có những kiến
nghị cụ thể hơn việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn của
ủy ban kiểm tra các cấp, góp phần theo dõi, giúp đỡ ủy ban kiểm tra các cấp
vận dụng quy trình trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài…
Mặc dù vậy, tuy có dung lượng không lớn (khoảng 60 trang đánh máy)
nhưng đây là lần đầu tiên, một đề tài đã nêu lên những vấn đề rất mới mẻ,
khái quát một cách có hệ thống, luận chứng khá sâu sắc, cụ thể về thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Những nội dung, kiến thức,
những luận cứ khoa học, những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài là nguồn
tham khảo hết sức quý báu, hữu ích và sát thực cho luận án.
Tác giả Phạm Thị Ngạn trong “Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng” [121], đã phân tích cụ thể hệ thống kỹ
năng nghiệp vụ kiểm tra, bao gồm: các kỹ năng chung của công tác kiểm tra,
kỷ luật đảng và các kỹ năng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định tại
Điều 32 Điều lệ Đảng. Trong các kỹ năng chung có: Kỹ năng giao tiếp; kỹ
năng vận động, thuyết phục và cảm hóa con người; kỹ năng phối hợp nhóm;
kỹ năng thu thập và xử lý thông tin; kỹ năng thẩm tra, xác minh.
Tác giả Tô Quang Thu trong “Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ
năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra trong giai đoạn mới” [157], đã đề xuất
các nhóm giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, trong đó
có kỹ năng thẩm tra, xác minh, qua việc đào tạo, bồi dưỡng và tự đào tạo, bồi
dưỡng (về nghiệp vụ) và việc rèn luyện trong thực tiễn (trong quá trình giải
18
quyết vụ việc của các đoàn kiểm tra; rèn luyện phương pháp tư duy, phương
pháp làm việc khoa học; tổng kết kinh nghiệm,…).
1.2.2. Sách
Tác giả Nguyễn Thị Doan trong “Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật
nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới”
[60], trong chương 3, phần "Quan điểm và định hướng đổi mới công tác kiểm
tra, kỷ luật đảng", các tác giả cuốn sách khẳng định: Khi kiểm tra phải làm tốt
thẩm tra, xác minh, chưa thẩm tra, xác minh để có chứng cứ cụ thể, rõ ràng
bảo đảm tính pháp lý, hợp lý thì chưa kết luận. Về yêu cầu đổi mới công tác
kiểm tra, kỷ luật trong Đảng, cụ thể là đổi mới phương thức hoạt động kiểm
tra trong Đảng, các tác giả đã nhấn mạnh tính đặc trưng của phương pháp
kiểm tra, nhất là phương pháp nghiệp vụ tiến hành thẩm tra, xác minh - một
khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động kiểm tra và bảo
đảm phương châm "công minh, chính xác, kịp thời" trong việc thi hành kỷ
luật. Theo các tác giả, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng rất quan trọng bởi trong giai đoạn cách mạng mới, dưới tác động
của các mặt tiêu cực, tính tự giác và tự phê bình của một số cán bộ, đảng viên
giảm sút, trong khi cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, thậm chí không có, không
đồng bộ nên thiếu chuẩn mực để xem xét, kết luận.
Ở chương 4, vấn đề lý luận thứ năm được các tác giả rút ra qua hoạt
động thực tiễn là: Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp cơ bản có tính
nguyên tắc của công tác kiểm tra, trong đó có việc làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh. Các tác giả cho rằng: Trong các phương pháp cơ bản, thẩm tra, xác
minh là phương pháp đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay…
Chưa thẩm tra, xác minh thì chưa thể kết luận. Trường hợp tự phê bình và phê
bình càng yếu, tự giác càng kém thì đòi hỏi thẩm tra, xác minh càng phải công
phu, tỷ mỉ, thận trọng, chính xác. Mặt khác, thẩm tra, xác minh cũng là một
biện pháp nhằm hỗ trợ nâng cao tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên…
19
Tác giả Bùi Văn Thể trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng”
[147], trong chương 1, các tác giả cuốn sách nhận định: Để thực hiện tốt việc
phê bình, chủ thể kiểm tra phải nắm vững: mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra;
nội dung cần kiểm tra, thẩm tra, xác minh; chủ trương, đường lối, chính sách,
nghị quyết, chỉ thị… có liên quan đến các vấn đề cần thẩm tra, xác minh để
làm cơ sở cho việc thẩm tra, xác minh.
Ở chương 2, khi đề cập về vai trò của thẩm tra, xác minh đối với việc
thực hiện tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, các
tác giả cho rằng: Nhiều chứng cứ thu thập được qua thẩm tra, xác minh đã có
sức thuyết phục trong đấu tranh phê bình với những đảng viên vi phạm kỷ
luật đảng, pháp luật của Nhà nước.
Ở chương 3, trong giải pháp thứ năm, các tác giả nhấn mạnh: Trường
hợp đối tượng kiểm tra tính chiến đấu kém, không thành khẩn, thiếu tự giác tự
phê bình, cố tình không nhận thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm, trong khi
chứng lý của chủ thể kiểm tra đưa ra chưa chắc chắn, chưa đủ sức thuyết
phục, thì phải kết hợp chặt chẽ với công tác thẩm tra, xác minh để thu thập, tài
liệu, chứng lý có cơ sở vững chắc để kết luận vụ việc, đồng thời, phải chú ý
phát huy trách nhiệm phê bình, góp ý của tổ chức đảng và đảng viên có liên
quan đến đối tượng kiểm tra để làm rõ trách nhiệm, thiếu sót, vi phạm của đối
tượng kiểm tra...
Tác giả Lê Hồng Liêm trong “Một số giải pháp cơ bản tháo gỡ khó
khăn, trở ngại khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp” [112], ở chương
II, khi đề cập đến khó khăn, trở ngại trong thực hiện phương pháp, quy trình
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả cuốn sách đã đánh giá: …Việc
phối hợp trao đổi thông tin, đánh giá nhận định dấu hiệu vi phạm có trường
hợp "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", có trường hợp không cung cấp thông
20
tin cho là "bảo mật", gây trở ngại cho công tác thẩm tra, xác minh do chạy
theo thành tích, bảo vệ lẫn nhau, ngại va chạm, có trường hợp thiếu trách
nhiệm đến mức né tránh, vòng vo, không hợp tác theo yêu cầu của uỷ ban
kiểm tra… Khi đề cập đến nguyên nhân những khó khăn, trở ngại của uỷ ban
kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, ban chủ nhiệm đề tài đã cho rằng: Việc
kiểm tra phải đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng, không được sử
dụng các phương pháp thẩm tra, xác minh của các cơ quan tư pháp, thanh tra
nhà nước,... Một trong những bài học kinh nghiệm qua tháo gỡ khó khăn, trở
ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm - theo các tác giả - là: Uỷ
ban kiểm tra các cấp vừa phải chủ động làm tốt công tác tư tưởng đối với đối
tượng kiểm tra, vừa nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình, đồng thời coi
trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, xác minh.
Ở chương III, khi phân tích các giải pháp, các tác giả đã đề cập đến việc:
Đổi mới và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra (kể cả kỹ năng
nghiệp vụ) cho tổ chức đảng, cán bộ kiểm tra các cấp, trong đó có kỹ năng thu
thập thông tin, nhận biết, phân tích dấu hiệu vi phạm; kỹ năng thẩm tra, xác
minh, thu thập chứng cứ; kỹ năng thiết lập các báo cáo thẩm tra, xác minh;…
Tác giả Lê Hồng Liêm với “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với
phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay - Thực trạng và giải
pháp” [113], trong chương 2, phần về bài học kinh nghiệm, các tác giả đã
khẳng định: Việc tổ chức thu thập thông tin phải nhiều phía, kiểm tra xử lý
chọn lọc thông tin để phục vụ kiểm tra, giám sát chống tham nhũng có hiệu
quả, việc lưu trữ thông tin rất cần quy củ, khoa học để khai thác khi cần thiết.
Thực tế cho thấy, cần chú trọng chọn lọc các thông tin về quan hệ nhiều mặt
của cán bộ, đảng viên và thân nhân,... khi có dấu hiệu bất minh cần có biện
pháp thẩm tra, xác minh thích hợp, chặt chẽ, kịp thời.
21
Tác giả Lê Văn Giảng trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng” [94], đã đánh giá việc thực hiện dân chủ qua các phương
pháp, quy trình kiểm tra, kỷ luật đảng, các tác giả cuốn sách đã nhận định:
Một nội dung cơ bản trong phương pháp kiểm tra của Đảng là thực hiện dân
chủ trong công tác thẩm tra, xác minh... Qua công tác kiểm tra, nhiều đoàn
kiểm tra đã thực hiện tốt dân chủ trong thẩm tra, xác minh. Việc chủ động thu
thập bằng chứng, chứng cứ được thực hiện bằng nhiều cách như nghiên cứu
hồ sơ, tài liệu có liên quan; tiếp xúc đối với tổ chức đảng và cá nhân để yêu
cầu, động viên họ cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung kiểm
tra để có cơ sở loại bỏ những thông tin sai sự thật, những chứng cứ giả hoặc
không đủ cơ sở để kết luận, gây oan ức cho đối tượng kiểm tra… Trường hợp
giữa cấp uỷ, tổ chức đảng và đoàn kiểm tra có vấn đề chưa thống nhất thì
đoàn kiểm tra yêu cầu cung cấp thêm bằng chứng để cùng trao đổi, thảo luận
hoặc tiếp tục thẩm tra, xác minh làm rõ.
Tác giả Cao Văn Thống trong “Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật của Đảng” [154], tác giả đã dành riêng một chương
(chương 8) để bàn về thẩm tra, xác minh - nghiệp vụ quan trọng, cơ bản của
công tác kiểm tra. Trong Chương này, tác giả đã nêu lên một số khái niệm
(thẩm tra; xác minh; thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng…);
phân tích đặc điểm, vị trí, ý nghĩa, tác dụng của thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng; nội dung, đối tượng và phương pháp thẩm tra,
xác minh. Ở cuối chương, tác giả cũng nêu lên những vấn đề cần lưu ý và
nắm vững khi tiến hành thẩm tra, xác minh.
Các tác giả đã khẳng định: Công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra là
công tác đảng, có đặc thù riêng là tiến hành kiểm tra, kết luận, xử lý hoặc giúp
cấp ủy xử lý kỷ luật những trường hợp có vi phạm đến mức phải xử lý. Đặc
thù này không những khác với các ban của cấp ủy mà còn khác với các cơ
22
quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước (điều tra, truy tố, xét xử đều do từng cơ
quan độc lập tiến hành). Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng và làm tốt các
phương pháp cơ bản của công tác đảng, cần đặc biệt coi trọng và làm tốt công
tác thẩm tra, xác minh để phục vụ cho việc kiểm tra, kết luận, xử lý được
công minh, chính xác, kịp thời.
Nguyễn Công Học trong “Một số giải pháp đảm bảo việc chấp hành kỷ
luật và việc thi hành kỷ luật đảng trong tình hình hiện nay” [98], tại chương
1, các tác giả cuốn sách đã nêu một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam khi xem xét, thi hành kỷ luật Đảng là: phải điều
tra, nghiên cứu kỹ càng, thận trọng, đi sâu tìm hiểu bản chất và căn cứ vào
những bằng chứng xác thực.
Ở chương 3, trong Nhóm giải pháp bảo đảm việc thi hành kỷ luật trong
Đảng, tại giải pháp thứ 3, các tác giả đề xuất: Trong điều kiện tự phê bình và
phê bình của đối tượng kiểm tra ngày càng giảm sút, phải đề cao và làm tốt
khâu thẩm tra, xác minh;... Chú trọng công tác thẩm tra, xác minh để làm rõ
đúng, sai, xác định cụ thể chứng lý, với thái độ công tâm, khách quan, thận
trọng và chặt chẽ, bảo đảm việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ
luật đảng được dân chủ, chính xác, công bằng, nghiêm minh.
Các tác giả Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất trong “Nâng cao chất
lượng kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm”
[156], đã phân tích cả về lý luận lẫn thực tiễn, đánh giá thực trạng hay đề ra
các giải pháp để nâng cao chất lượng việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả đều
nhấn mạnh một vấn đề quan trọng là: Chỉ được khẳng định tổ chức đảng hoặc
đảng viên có vi phạm khi được tổ chức đảng có thẩm quyền qua kiểm tra,
xem xét, kết luận. Do vậy, phải hết sức coi trọng công tác thẩm tra, xác minh,
chưa thẩm tra, xác minh thì chưa được kết luận.
23
1.2.3. Luận án, luận văn
Tác giả Trương Thị Thông trong “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
kiểm tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay” [148], ở chương 1,
tác giả cho rằng một trong những yêu cầu của tình hình mới là sự phát triển
của xã hội đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách phải thực sự có năng
lực, có phẩm chất, có bản lĩnh vững vàng để phân biệt rõ cái đúng - cái sai,
cái tiến bộ - cái lạc hậu…
Ở chương 2, khi đánh giá nguyên nhân khách quan của những khó
khăn, trở ngại về đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách, tác giả có đề cập đến
việc hệ thống luật pháp, nhiều chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước chưa
theo kịp sự phát triển của công cuộc đổi mới, chưa đồng bộ, thống nhất, thậm
chí mâu thuẫn nhau; chuẩn mực để phân biệt đúng - sai chưa rõ ràng và thiếu
nhất quán. Cũng trong chương này, tác giả đã chỉ ra bảy bài học kinh nghiệm
qua thực tiễn hoạt động của uỷ ban kiểm tra các cấp và của đội ngũ cán bộ
kiểm tra chuyên trách trong những năm qua, trong đó có kinh nghiệm thứ tư:
Phải nắm vững và chấp hành đúng phương pháp, quy trình công tác kiểm tra.
Tác giả phân tích: Trong quá trình kiểm tra, không được lẫn lộn và thay
phương pháp kiểm tra của Đảng với phương pháp kiểm tra của các cơ quan
Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Vận dụng phương pháp kiểm tra
phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nội dung, đối tượng kiểm tra và tình hình
cụ thể của đơn vị đó, nhưng dù linh hoạt đến đâu công tác kiểm tra cũng phải
dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của đảng viên để làm tốt công
tác thẩm tra, xác minh. Tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên càng yếu, đòi
hỏi công tác thẩm tra, xác minh phải tỷ mỉ và chính xác mới bảo đảm cho những
đánh giá, kết luận, xử lý có căn cứ xác đáng, khách quan và khoa học.
Luận án thực sự đã đóng góp vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm
tra chuyên trách nói riêng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
24
Lê Tiến Hào trong “Công tác kiểm tra của Thành uỷ Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay” [95], đã phân tích những quan điểm cơ bản về lý luận và thực
tiễn về công tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm tra của Thành ủy Hà
Nội; quan niệm và một số tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm tra của Thành ủy Hà Nội... Luận án đánh giá thực trạng công tác kiểm
tra của Thành ủy Hà Nội trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ
XII, XIII (1996 - 2002), trong đó có việc thực hiện các phương pháp công tác
kiểm tra của Đảng; tổng kết một số kinh nghiệm về công tác kiểm tra... Trong
các giải pháp tác giả đưa ra, đáng chú ý có giải pháp thứ ba, nâng cao chất
lượng các cuộc kiểm tra của Thành ủy, chú trọng về các phương pháp kiểm
tra, trong đó trọng tâm là phương pháp thẩm tra, xác minh.
Luận án thực sự đã có những đóng góp mới về mặt khoa học, góp phần
vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra của
Đảng nói chung, công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội nói riêng, nhằm thúc
đẩy công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong thời gian sau đạt được
những kết quả tốt hơn.
Tác giả Nguyễn Thế Tư trong “Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên
hải miền Trung hiện nay” [162], đã phân tích những vấn đề cơ bản về lý luận
và thực tiễn về kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; thực trạng công
tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện ủy
ở các tỉnh duyên hải miền Trung, chỉ ra những nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm. Từ những cơ sở trên, cùng với việc chỉ rõ mục tiêu, phương hướng
và quan điểm chỉ đạo, tác giả luận án đã đề ra sáu giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra
huyện ủy ở các tỉnh Duyên hải miền Trung thời gian tới, trong đó có giải pháp
thứ tư: chủ động phát hiện sớm dấu hiệu vi phạm, kiên quyết đấu tranh làm rõ
đúng, sai, kết luận chính xác, kịp thời, đã đề cập sâu đến phương pháp thẩm
tra, xác minh.
25
Tác giả Nguyễn Hoàng Minh trong “Công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” [120], đã khẳng định, trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh, cán bộ
ủy ban kiểm tra phải biết tranh thủ ý kiến của cả đảng viên và quần chúng ngoài
Đảng, biết phát huy vai trò xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân để phân
tích, tổng hợp, góp phần kết luận các vấn đề kiểm tra thật sự khách quan, chính
xác về các hiện tượng vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước.
1.2.4. Các bài báo khoa học
Tác giả Lê Khắc Khoa trong “Về ngôn ngữ nói trong thẩm tra, xác
minh” [100], tác giả viết: Lời nói trở thành một cơ sở không thể thiếu và hết
sức quan trọng để dùng làm căn cứ xác thực chứng tỏ sự việc với tính chân
thật khách quan, từ đó làm căn cứ kết luận đúng sai. Đặc biệt, tác giả còn nêu
lên hai ví dụ thực tiễn sinh động: trường hợp thứ nhất, dấu hiệu vi phạm của
đối tượng kiểm tra chỉ là những chỉ đạo bằng miệng, “khẩu dụ”, không có
bằng chứng, dấu vết bằng chữ viết, nhưng dựa vào cơ sở lập luận, lý lẽ sắc
bén, qua đấu tranh, cán bộ kiểm đã khiến đối tượng kiểm tra thừa nhận vi phạm
của mình; trường hợp thứ hai, đối tượng kiểm tra không thừa nhận lời nói của
mình, nhưng nhờ việc ghi âm công khai hội nghị kiểm điểm đã trở thành chứng
cứ quan trọng để bác bỏ nội dung khiếu nại của đối tượng kiểm tra.
Để “lời nói… gió không bay”, theo tác giả: phải áp dụng các phương
pháp lưu trữ lời nói bằng cách ghi biên bản, ghi âm, ghi hình.
Tác giả Phạm Đình Phi trong “Kinh nghiệm thẩm tra, xác minh trong
giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng” [136], đã khẳng định: Để thực hiện tốt
công tác thẩm tra, xác minh trong giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, cần thực
hiện tốt các phương pháp thu thập chứng cứ; nghiên cứu, phân tích, xử lý tài
liệu, thông tin; trưng cầu giám định của các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ
đối với những vấn đề cần thiết. Trên cơ sở đó, tổ chức đảng có thẩm quyền
xem xét, đánh giá, kết luận những nội dung vi phạm, quy trình, nguyên tắc,
26
thủ tục và phương hướng, phương châm thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp
dưới trong quá trình xem xét, xử lý kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật
đảng. Khi thu thập tài liệu, bằng chứng, cán bộ kiểm tra phải trực tiếp gặp đối
tượng, trực tiếp đọc những thông tin, tài liệu, nhìn thấy các vật chứng, nếu cần
thì đến tận nơi xảy ra sự việc để thẩm tra, xác minh; không được chỉ nghe qua
người khác, dư luận. Muốn đánh giá đúng sự thật, phải thu thập được bằng
chứng xác thực qua các tài liệu, thông tin nhiều phía, nhiều kênh, nhiều chiều
có liên quan đến sự việc cần làm rõ.
Tác giả còn nêu thêm một kinh nghiệm rằng: Việc thu thập đầy đủ tài
liệu, thông tin, bằng chứng là rất quan trọng, nhưng việc nghiên cứu, phân
tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng ấy một cách khoa học, khách quan,
chính xác lại càng quan trọng, vì đó là cơ sở để kết luận và xử lý đúng.
Tác giả Đỗ Hùng Cường trong “Một số vấn đề về thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra” [56], đã nhận định: Kết quả và chất lượng của thẩm
tra, xác minh có ý nghĩa quyết định việc kết luận và xử lý đối với đối tượng
kiểm tra; đồng thời chỉ ra: Một thực tế cho thấy thực trạng tình hình vi phạm,
tiêu cực nhất là tệ tham nhũng đã, đang và sẽ vẫn tiếp tục xảy ra nghiêm trọng,
có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất đó
là khâu thẩm tra, xác minh còn một số bất cập; nổi lên là không tìm ra được
chứng cứ vững chắc để kết luận vụ việc và quyết định xử lý kỷ luật.
Tác giả kết luận: Phương pháp tư duy khoa học làm cho quá trình thẩm
tra, xác minh được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, phương pháp, biện pháp
rõ ràng, khoa học và được thực hiện một cách khách quan, linh hoạt, sáng tạo
để có thể đưa ra các kết luận chính xác.
Tác giả Phạm Thành Đồng trong “Chứng cứ trong kiểm tra dấu hiệu vi
phạm khi phải tiến hành trưng cầu giám định” [93], tác giả cho rằng: chứng
cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật để từ đó
các cơ quan tiến hành tố tụng làm căn cứ xác định hành vi vi phạm và tội
27
phạm. Chứng cứ được xác định bằng vật chứng, lời khai của bị can, bị cáo,
của những người liên quan, người biết sự việc, kết luận giám định, các biên
bản và những tài liệu thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh. Mỗi chứng
cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, khách quan, toàn diện và
đầy đủ các tình tiết.
Tác giả cũng kiến nghị với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương một số vấn đề về
việc đề nghị trưng cầu giám định chứng cứ trong quá trình thẩm tra, xác minh.
Tác giả Phạm Thị Ngạn trong“Các yếu tố cấu thành trình độ nghiệp vụ
thẩm tra, xác minh của cán bộ kiểm tra” [122], theo tác giả: Hiện nay, các vi
phạm của tổ chức đảng và đảng viên đang có xu hướng gia tăng về số lượng
và đa dạng, phức tạp hơn về nội dung, tính chất với nhiều hình thức tinh vi và
cách thức khôn khéo. Để phân định rõ đúng sai, kết luận chính xác và xử lý
nghiêm minh các trường hợp vi phạm, đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra phải có
nghiệp vụ vững vàng, trong đó khả năng thẩm tra, xác minh, tìm chứng cứ để
kết luận kiểm tra có ý nghĩa quyết định. Trình độ nghiệp vụ thẩm tra, xác
minh của mỗi cán bộ kiểm tra được cấu thành bởi 5 yếu tố chủ yếu: Kiến thức
và vốn sống thực tiễn; mức độ nắm vững và khả năng vận dụng lý luận về
thẩm tra, xác minh; khả năng vận dụng phương pháp thẩm tra, xác minh; vốn
kinh nghiệm cá nhân về thẩm tra, xác minh; phong cách làm việc của cá nhân.
Các yếu tố đó có mối liên kết chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Mỗi yếu tố vừa
là một bộ phận trong tổng thể, vừa có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển và phát
huy tác dụng của các yếu tố khác; nếu có một yếu tố bị thiếu hoặc yếu thì các
yếu tố còn lại sẽ khó phát huy tác dụng.
Vũ Đình Lợi trong “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan trọng trong
giải quyết tố cáo” [116], tác giả khẳng định: Chỉ khi làm tốt công tác thẩm
tra, xác minh, trên cơ sở bằng chứng xác thực thì việc kết luận giải quyết tố
cáo mới chính xác. Trong bài báo, tác giả nêu lên kinh nghiệm thực tiễn qua
một vụ việc giải quyết tố cáo cụ thể (về việc giả mạo bằng cấp). Qua dẫn
28
chứng đó, tác giả càng khẳng định thẩm tra, xác minh làm một khâu rất quan
trọng trong toàn bộ quá trình thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra của Đảng nói
chung, đặc biệt trong việc giải quyết đơn thư tố cáo nói riêng.
Tác giả rút ra: Để việc thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đạt
kết quả, cán bộ giải quyết tố cáo phải có quyết tâm cao, thể hiện rõ bản lĩnh,
chính kiến, nhạy bén trước mọi tình huống xảy ra; có kỹ năng nghiệp vụ
thuần thục. Đặc biệt, phải có đầu óc phán đoán đề ra phương án, kế hoạch
thẩm tra, xác minh tối ưu, phù hợp với nội dung tố cáo cần giải quyết, nhất là
đối với những đơn thư có nội dung tố cáo phức tạp, kéo dài, thời gian xảy ra
đã lâu, gây nhiều bức xúc trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân,
liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền các cấp.
Tác giả Nguyễn Trung Dong trong “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác
minh trong giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị,
Ban Bí thư quản lý” [61], tác giả thẳng thắn nhận định: Thẩm tra, xác minh
trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản
lý trên địa bàn Vụ Địa phương III, Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương gặp
rất nhiều khó khăn, vì: đối tượng bị tố cáo, nội dung tố cáo rất đa dạng; một
số vụ tố cáo với tính chất phức tạp, nhiều nội dung, sự việc, có liên quan đến
nhiều người, nhiều cấp, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, quản lý tài chính,
phụ trách công trình, dự án, đất đai,… Một số cán bộ bị tố cáo có thái độ phản
ứng, đối phó, bất hợp tác, không nhận khuyết điểm, vi phạm hoặc tuy có nhận
nhưng chưa tương xứng với tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi
phạm, thậm chí có trường hợp còn “tố cáo ngược” cán bộ giải quyết tố cáo.
Tác giả cũng rút ra một số kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong
giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý,
đồng thời nhấn mạnh: Khâu thẩm tra, xác minh để tìm ra chứng cứ là một
khâu có tính quyết định trực tiếp đến nhiệm vụ giải quyết tố cáo. Hiệu quả
của việc giải quyết tố cáo phụ thuộc rất lớn vào việc tìm ra hay không tìm ra
29
chứng cứ. Mọi kết luận đúng, sai, có vi phạm hay không vi phạm của đối
tượng bị tố cáo đều bắt buộc phải dựa trên những chứng cứ xác thực, liên
quan. Qua đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ
Chính trị, Ban Bí thư quản lý trong thời gian tới.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nêu trên đều là những sản phẩm
khoa học trí tuệ, nghiêm túc, chất lượng, hết sức có giá trị dù ở những mức độ
khác nhau. Các công trình hoặc nghiên cứu bình diện chung, mang tính tổng
thể, hoặc đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể trong công tác kiểm tra của Đảng.
Mỗi công trình đều có đề cập đến hoạt động thẩm tra, xác minh - một phương
pháp, một nghiệp vụ rất quan trọng trong công tác kiểm tra của Đảng. Tuy
nhiên, các công trình đều chỉ nghiên cứu về thẩm tra, xác minh ở những khía
cạnh, góc độ nhất định, một “bộ phận” cần phân tích, đánh giá trong tổng thể
chung về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Ngoại trừ Đề tài khoa học cấp
Bộ KHBĐ-0015 “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm
tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng”, đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt về thẩm tra, xác minh. Mặc dù, nội
dung Đề tài KHBĐ-0015 rất có giá trị, cung cấp nhiều luận cứ, luận chứng,
luận điểm để tác giả luận án lĩnh hội, tiếp thu, song do thời gian nghiên cứu
(từ năm 2000-2001) so với tình hình thực tế hiện tại đã có nhiều thay đổi, ảnh
hưởng, tác động đến công tác kiểm tra nói chung, đến hoạt động thẩm tra, xác
minh nói riêng nên một số điểm cần nhìn nhận, đánh giá, phân tích, luận giải
thêm. Mặt khác, do yếu tố đặc thù và một số điều kiện, dung lượng nghiên
cứu của đề tài KHBĐ-0015 nêu trên cũng cần được bổ sung, hoàn chỉnh thêm.
Ở một bình diện khác, vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng Cộng sản cầm quyền nói riêng, của các đảng chính trị cầm
quyền nói chung một phần do hoàn cảnh, điều kiện, yếu tố chính trị, một phần
do điều kiện sưu tầm, tìm tòi, thu thập (cả ở trong nước và ngoài nước) còn
30
hạn chế, nên cho thấy các công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều.
Các tài liệu đề cập đến chủ yếu qua hình thức các giáo trình, bài giảng, tài liệu
huấn luyện nghiệp vụ về kiểm tra, điều tra vụ việc, được các đoàn nghiên cứu
của các cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước ta tổng hợp lại; hoặc được
giới thiệu một cách sơ lược, khái quát trong một số tài liệu của các cơ quan
chức năng của các nước bạn khi tham dự các cuộc hội đàm, hội thảo. Một vấn
đề nữa cũng cần đặt ra là, do đặc điểm, hoàn cảnh, yếu tố, thể chế chính trị
(ngay cả trong những nước có Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền) khác
nhau, nên kinh nghiệm, bài học của mỗi nước cũng có những điểm đặc thù,
không thể tiếp nhận, tiếp thu một cách tuyệt đối, máy móc, cơ học mà đòi hỏi có
sự gạn lọc, đánh giá, suy xét hợp lý để cùng trao đổi, thực hiện cho phù hợp.
Tình hình nghiên cứu trên đặt ra cho tác giả luận án yêu cầu phải
nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện hơn, hệ thống cả về phương diện lý
luận cũng như hoạt động nghiệp vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng Cộng sản Việt Nam; việc tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh
cả trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng cũng
như trong thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao của ủy ban kiểm tra các cấp. Tình
hình mới với những đặc điểm, hoàn cảnh mới tác động đến công tác kiểm tra,
đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cũng là
vấn đề, yêu cầu nhiệm vụ xuyên suốt mà luận án sẽ phải giải quyết.
31
Chương 2
THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng
2.1.1.1. Khái niệm về công tác kiểm tra của Đảng
* Khái niệm kiểm tra
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để
đánh giá, nhận xét" [196, tr.523]. Từ điển Luật học nêu: kiểm tra là "xem xét
tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung
hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét" [135, tr.265].
Còn theo Sách tra cứu các mục từ về tổ chức thì kiểm tra là: "Xem xét
tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung
hay một công tác cụ thể được giao của một cơ quan, đơn vị hoặc một người
để đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc người
đó" [126, tr.468]. Như vậy, kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước, của tổ chức đảng, đoàn thể cấp trên đối với cấp dưới, của thủ
trưởng hoặc người lãnh đạo đối với nhân viên dưới quyền.
* Khái niệm kiểm tra của Đảng
Theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI
(ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban
Chấp hành Trung ương):
Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của
Đảng, là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu
điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
32
và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của
Nhà nước [20, tr.02].
* Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng
Theo Từ điển Tiếng Việt, “công tác” được hiểu là “công việc của nhà
nước hoặc của đoàn thể” [196, tr.48]. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ
chức chính trị, một bộ phận trong hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời có
vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn xã hội. Công tác kiểm tra
của Đảng có thể được hiểu là: việc chủ thể kiểm tra thông qua thực hiện các
phương pháp, hình thức, biện pháp để xem xét tình hình thực tế, nhận xét,
đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối
tượng kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đưa ra
những yêu cầu, kiến nghị với đối tượng kiểm tra, các tổ chức, cá nhân có liên
quan theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra.
Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thức về công tác kiểm tra của Đảng
ở một số điểm cụ thể như sau:
Một là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng. Điều lệ Đảng quy
định tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng và
đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
Chủ thể kiểm tra là tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra đối với tổ
chức đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao
thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý. Đối tượng kiểm tra là tổ chức đảng và đảng
viên chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền. Các tổ chức đảng vừa
là chủ thể kiểm tra (có trách nhiệm tiến hành công tác kiểm tra), vừa là đối
tượng kiểm tra (chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên).
Do các tổ chức đảng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nên
phạm vi trách nhiệm, nội dung, đối tượng, cách tiến hành kiểm tra của các tổ
chức đảng được quy định cũng khác nhau.
33
Hai là, công tác kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là công
tác xây dựng Đảng, sinh hoạt nội bộ Đảng, do các tổ chức đảng tiến hành căn
cứ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền được Điều lệ Đảng
quy định. Do đó, tiến hành công tác kiểm tra phải theo đúng nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng, đúng tính chất công tác đảng, đúng tư tưởng chỉ đạo,
phương pháp cơ bản tiến hành công tác kiểm tra, đúng phạm vi trách nhiệm
của từng tổ chức đảng và đều phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công tác ấy.
Ba là, qua việc thực hiện hệ thống các cách thức, biện pháp mà chủ thể
và đối tượng kiểm tra phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công
tác kiểm tra, phải xem xét đúng tình hình thực tế khách quan; phát hiện ưu
điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm, lệch lạc để uốn nắn, khắc phục, sửa
chữa; làm rõ đúng sai, nhận xét, đánh giá chính xác có vi phạm hay không vi
phạm để kết luận rõ ràng, một mặt để tiếp tục kiện toàn, củng cố, phát huy tổ
chức và cá nhân, mặt khác để chấn chỉnh, xử lý kịp thời, nghiêm minh vi
phạm; cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Bên
cạnh đó, qua công tác kiểm tra, phát hiện những sơ hở, thiếu sót, bất cập trong
các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình
hình thực tế, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động lãnh đạo, quản lý.
2.1.1.2. Vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng
Một là, kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn đã khẳng định, lãnh đạo không chỉ là đề ra chủ trương,
đường lối, tổ chức thực hiện, bố trí cán bộ, động viên tư tưởng, mà còn phải
kiểm tra, giám sát. Không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối,
Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách, mà kiểm tra ngay từ chính
Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách đó và kiểm tra cả các tổ chức tiến
34
hành kiểm tra nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được
quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính nguyên
tắc; vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp,
quy trình lãnh đạo của Đảng.
V.I.Lênin đã khẳng định: khi đường lối, chính sách đã được xác định,
phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên
hàng đầu và sự lãnh đạo phải "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc
lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện" [105,
tr.450]. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành
công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa
chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng
mấy cũng vô ích" [118, tr.520].
Đảng ta luôn xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo
của Đảng. Trong suốt quá trình hoạt động, Đảng không những luôn coi trọng,
mà xác định kiểm tra là chức năng, nội dung lãnh đạo của Đảng. Công tác
kiểm tra là khâu rất quan trọng vì nó là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ
quan lãnh đạo và chỉ đạo. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền càng
phải tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.
Hai là, kiểm tra là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây
dựng Đảng.
Xây dựng Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn là
đòi hỏi cấp thiết và có tính khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên, cán bộ làm trọn nhiệm
vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó,
mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức” [118, tr.133].
Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận: công tác kiểm tra là “một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” [81, tr.122], là "một khâu quan
trọng của tổ chức thực hiện” [81, tr.123].
35
Ba là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng; là nhiệm vụ trực
tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên.
Công tác kiểm tra là công tác đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, được
tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn xác định: "Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm
vụ của toàn Đảng. Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng, Bộ Chính
trị và các ban thường vụ cấp uỷ, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng
các ban để tổ chức thường xuyên nhiệm vụ kiểm tra" [82, tr.150-151]. Để bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm
tra các cấp phải chú trọng và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra các tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng.
2.1.2. Nội dung, phương pháp công tác kiểm tra của Đảng
2.1.2.1. Nội dung công tác kiểm tra
Nội dung công tác kiểm tra của Đảng bao gồm kiểm tra việc thực hiện
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng... - những vấn đề có tính nguyên tắc đã
được Đảng xác định, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ, chấp hành
và trở thành nội dung kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng cũng như nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng bao gồm nhiều vấn đề lớn, rất rộng. Mặt khác, do
chức năng, nhiệm vụ và phạm vi kiểm tra của mỗi tổ chức đảng khác nhau
nên khi tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng phải căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn
kiểm tra của cấp mình và tình hình, đặc điểm, yêu cầu của việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị trong
từng thời gian và trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo của mình để xác định nội
dung kiểm tra phù hợp.
36
Tóm lại, nội dung kiểm tra là kiểm tra việc thực hiện những nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng có quan hệ đến chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên. Mỗi tổ chức đảng phải căn cứ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình để xác
định nội dung kiểm tra cụ thể, phù hợp. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể chính trị - xã hội
cũng là một nội dung kỷ luật của Đảng, đương nhiên trở thành một nội dung
kiểm tra đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên.
2.1.2.2. Phương pháp công tác kiểm tra
Phương pháp công tác kiểm tra của Đảng là hệ thống các cách thức tiến
hành trong hoạt động kiểm tra của Đảng mà mọi tổ chức đảng và đảng viên
(chủ thể, đối tượng) phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác
kiểm tra. Khi tiến hành công tác kiểm tra, phải sử dụng đồng bộ, linh hoạt
năm phương pháp cơ bản có mối quan hệ mật thiết, không tách rời của công
tác kiểm tra đảng.
Thứ nhất: Dựa vào tổ chức đảng
Đây vừa là phương pháp cơ bản, vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong
công tác xây dựng Đảng nói chung. Tổ chức đảng là cơ quan lãnh đạo, quản
lý, giám sát, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới; nơi nắm
vững tình hình, đặc điểm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; nơi tổ chức
thực hiện và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng, các kết luận kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên; là nơi chịu
trách nhiệm trước tổ chức đảng cấp trên về hoạt động của tổ chức đảng và
đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình. Do đó, dựa vào tổ chức đảng quản
lý đối tượng kiểm tra vừa có tính nguyên tắc vừa đảm bảo tính hiệu quả, thực
tiễn của công tác kiểm tra. Có dựa vào tổ chức đảng và đảng viên, chủ thể
kiểm tra mới hiểu rõ đặc điểm tình hình, điều kiện, hoàn cảnh, khó khăn,
37
thuận lợi, ưu điểm, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của đối tượng kiểm tra để có cơ sở nhận xét, đánh giá, xem xét, kết luận
một cách chính xác.
Thứ hai: Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc. Đội ngũ đảng viên bao gồm những phần tử tiên tiến, giác ngộ lý
tưởng, giác ngộ giai cấp, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng; là những
chiến sĩ cách mạng phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng. Đó là cơ sở tư
tưởng và tổ chức để tổ chức đảng và đảng viên tự giác chấp hành Điều lệ
Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và nhiệm vụ được giao; tự giác tự kiểm tra và chịu sự kiểm tra, giám sát của
tổ chức đảng có thẩm quyền.
Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên cũng là một
vấn đề có tính nguyên tắc. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm tra, thi hành kỷ
luật đảng, chủ thể kiểm tra cần coi trọng và làm tốt công tác tư tưởng đối với
đối tượng kiểm tra, dựa vào tính tự giác của đối tượng kiểm tra để giúp cho
việc xem xét, kết luận được khách quan, chuẩn xác. Đồng thời, không ngừng
xây dựng, phát huy và nâng cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình,
tính chiến đấu của đối tượng kiểm tra là mục đích của công tác xây dựng
Đảng. Đối với những trường hợp quanh co, giấu diếm sai lầm, khuyết điểm,
cần kiên trì động viên, thuyết phục, kết hợp với đấu tranh phê bình và công
tác thẩm tra, xác minh để làm rõ đúng sai, giúp việc kết luận và xử lý được
chuẩn xác.
Thứ ba: Phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng không có mục đích tự thân, mục đích của Đảng là phụng sự Tổ quốc,
38
phụng sự nhân dân. Một trong những phương châm xây dựng Đảng là tổ
chức, động viên quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra,
giám sát hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
Mọi hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên luôn được nhân
dân quan tâm, nhận biết và giám sát, kiểm tra. Thực tiễn đã chứng minh có
nhiều vụ việc tiêu cực xảy ra trong nội bộ Đảng là do nhân dân phát hiện và
phản ảnh với tổ chức đảng có thẩm quyền. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng phải coi trọng việc phát huy tinh thần trách
nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân. Những ý kiến nhân dân đóng góp đúng
phải trân trọng tiếp thu, khuyến khích, cổ vũ; nếu có ý kiến chưa đúng phải
giải thích để nhân dân hiểu rõ, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất giữa tổ chức
đảng, đảng viên với quần chúng.
Thứ tư: Làm tốt công tác thẩm tra, xác minh
Một trong những yêu cầu cơ bản của công tác kiểm tra là phải làm
rõ đúng, sai; đánh giá, kết luận đúng ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu
có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để có quyết định chính
xác. Ngoài việc phải dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của
tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, phát huy trách nhiệm xây dựng
Đảng của nhân dân, phải hết sức coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh.
Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh chính là thực hiện tốt mối
quan hệ giữa tự giác và bắt buộc trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật
đảng. Trong điều kiện tính tự giác, tự phê bình và phê bình trong Đảng nói
chung, trong không ít tổ chức đảng và đảng viên nói riêng bị giảm sút, tính
chiến đấu không cao, có nơi bị tê liệt, để làm rõ đúng sai, phải, trái, tìm ra
chứng lý của vụ việc, làm rõ vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, đòi hỏi
phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh.
39
Thứ năm: Khi tiến hành công tác kiểm tra, cần có sự phối hợp giữa ủy
ban kiểm tra với các tổ chức đảng, thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và
các đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan
Một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, thi hành
kỷ luật đảng là phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, xã
hội nghề nghiệp và phối hợp với các ban, ngành có liên quan của Đảng và
Nhà nước.
Đảng ta là đảng cầm quyền, có đặc điểm đảng viên vừa là thành viên
của Đảng, vừa là công dân, là thành viên của tổ chức nhà nước và các đoàn
thể chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, nếu không có cơ chế phối hợp
chặt chẽ, phù hợp, nhất là trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng đối
với cán bộ, đảng viên của Đảng dễ dẫn đến tình trạng thiếu tập trung, thống
nhất, chồng chéo, sơ hở, kiểm tra, giải quyết vụ việc không kịp thời, chính
xác. Sự phối hợp trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng với công tác
thanh tra nhà nước, thanh tra của đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức
đảng trong khối nội chính đã trở thành tất yếu. Để công tác kiểm tra, thi hành
kỷ luật đảng bảo đảm có chất lượng và hiệu quả, phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật của Đảng với thanh tra của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, thanh tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, phối hợp giữa
uỷ ban kiểm tra với các ban của cấp uỷ, với tổ chức đảng trong các cơ quan
bảo vệ pháp luật.
2.2. THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.2.1. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
2.2.1.1. Khái niệm thẩm tra trong công tác kiểm tra của Đảng
Thẩm tra là "điều tra, xem xét lại có đúng, có chính xác không một vấn
đề, một sự việc nào đó" [196, tr.922], hay diễn đạt một cách khác, là “điều tra,
tìm hiểu để xem xét lại điều đã kết luận hoặc khai báo trước có đúng, có chính
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY
Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY

More Related Content

What's hot

Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C...
 Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra  giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C... Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra  giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C...
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C...anh hieu
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh MônBáo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Mônphuongqtvpk1d
 

What's hot (20)

Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.
 
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nướcLuận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước
 
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOTLuận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, HOT
 
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C...
 Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra  giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C... Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra  giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C...
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra giám sát của Đảng trên địa bàn tỉnh C...
 
lv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phong
lv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phonglv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phong
lv: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại huyện Triệu Phong
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAYLuận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, HAY
 
Luận văn, Cải cách hành chính cấp Xã, TÀI LIỆU HOT, HAY
Luận văn, Cải cách hành chính cấp Xã, TÀI LIỆU HOT, HAYLuận văn, Cải cách hành chính cấp Xã, TÀI LIỆU HOT, HAY
Luận văn, Cải cách hành chính cấp Xã, TÀI LIỆU HOT, HAY
 
Đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOT
Đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOTĐề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOT
Đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOT
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương  - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo tại tỉnh Bình Dương - Gửi miễn phí qu...
 
Đề tài: Chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ TPHCM, HOT
Đề tài: Chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ TPHCM, HOTĐề tài: Chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ TPHCM, HOT
Đề tài: Chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ TPHCM, HOT
 
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộLuận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ
 
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOTLuận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
 
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh MônBáo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
 
Luận văn: Chất lượng công chức phường thuộc quận Hoàn Kiếm
Luận văn: Chất lượng công chức phường thuộc quận Hoàn KiếmLuận văn: Chất lượng công chức phường thuộc quận Hoàn Kiếm
Luận văn: Chất lượng công chức phường thuộc quận Hoàn Kiếm
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOT
Luận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOTLuận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOT
Luận văn: Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo của Đảng bộ, HOT
 
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAYLuận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
 
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú ThọBáo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
 
Luận văn: Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của các chi bộ ấp
Luận văn: Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của các chi bộ ấpLuận văn: Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của các chi bộ ấp
Luận văn: Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của các chi bộ ấp
 
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOT
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOTLuận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOT
Luận văn: Giáo dục đạo đức cho thanh niên tỉnh Bình Dương, HOT
 

Similar to Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY

Chuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdf
Chuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdfChuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdf
Chuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdfNuioKila
 
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...nataliej4
 
Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...
Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...
Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...
Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...
Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdf
2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdf2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdf
2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdfHa Nguyen
 

Similar to Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY (20)

Kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quận 6
Kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quận 6Kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quận 6
Kiểm tra, giám sát của tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ Quận 6
 
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ...
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ...Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ...
Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ Quận 6 thành phố Hồ...
 
Chuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdf
Chuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdfChuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdf
Chuyên Đề Công Tác Kiểm Tra Giám Sát Và Thi Hành Kỷ Luật Của Đảng.pdf
 
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái NguyênLuận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
 
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức tỉnh Quảng Bình, HAY
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức tỉnh Quảng Bình, HAYLuận văn: Đánh giá cán bộ, công chức tỉnh Quảng Bình, HAY
Luận văn: Đánh giá cán bộ, công chức tỉnh Quảng Bình, HAY
 
Thẩm định dự thảo kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ, 9đ
Thẩm định dự thảo kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ, 9đThẩm định dự thảo kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ, 9đ
Thẩm định dự thảo kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ, 9đ
 
Luận văn: Giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán, HAY, 9đ
Luận văn: Giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán, HAY, 9đLuận văn: Giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán, HAY, 9đ
Luận văn: Giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán, HAY, 9đ
 
Luận văn: Kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên cùng cấp tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên cùng cấp tại TPHCM, 9đLuận văn: Kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên cùng cấp tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên cùng cấp tại TPHCM, 9đ
 
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đTổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
 
Đề tài: Công tác kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên thuộc TPHCM, HOT
Đề tài: Công tác kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên thuộc TPHCM, HOTĐề tài: Công tác kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên thuộc TPHCM, HOT
Đề tài: Công tác kiểm tra, giám sát cấp uỷ viên thuộc TPHCM, HOT
 
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của cả nước và của tỉnh trong thời gia...
 
Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...
Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...
Pháp luật về quản lý công chức cơ quan ngang bộ ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Môi trường pháp lý hiện hành về kiểm toán độc lập
Luận văn: Môi trường pháp lý hiện hành về kiểm toán độc lậpLuận văn: Môi trường pháp lý hiện hành về kiểm toán độc lập
Luận văn: Môi trường pháp lý hiện hành về kiểm toán độc lập
 
Luận văn: Hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán độc lập theo luật
Luận văn: Hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán độc lập theo luậtLuận văn: Hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán độc lập theo luật
Luận văn: Hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán độc lập theo luật
 
Luận án: Tổ chức kiểm toán nội bộ tại Tập đoàn Bảo Việt, HAY
Luận án: Tổ chức kiểm toán nội bộ tại Tập đoàn Bảo Việt, HAYLuận án: Tổ chức kiểm toán nội bộ tại Tập đoàn Bảo Việt, HAY
Luận án: Tổ chức kiểm toán nội bộ tại Tập đoàn Bảo Việt, HAY
 
Luận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận án: Cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Đề tài: Công tác kiểm tra giám sát của quận huyện TPHCM, HAY
Đề tài: Công tác kiểm tra giám sát của quận huyện TPHCM, HAYĐề tài: Công tác kiểm tra giám sát của quận huyện TPHCM, HAY
Đề tài: Công tác kiểm tra giám sát của quận huyện TPHCM, HAY
 
Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...
Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...
Các Yếu Tố Chất Lượng Dịch Vụ Ảnh Hưởng Đến Sự Hài Lòng Của Người Dân Tại Bộ ...
 
2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdf
2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdf2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdf
2. HD Tu danh gia CTDT, CSGD (29.10.22).pdf
 
Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng với tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội
Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng với tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hộiSự lãnh đạo của cấp ủy Đảng với tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội
Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng với tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận án: Thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của đảng, HAY

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI ANH TUẤN thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ®o¹n hiÖn nay LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 31 23 01 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. NGÔ HUY TIẾP 2. TS. NGÔ KIM NGÂN HÀ NỘI - 2015
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Bùi Anh Tuấn
  • 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 31 1.1. Khái quát về công tác kiểm tra của Đảng 31 1.2. Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 39 Chương 2: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 73 2.1. Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 73 2.2. Nguyên nhân thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 89 2.3. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra qua thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 103 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 112 3.1. Dự báo một số tình hình có liên quan và phương hướng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian tới 112 3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 118 KẾT LUẬN 119 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC 172
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đảng ta luôn khẳng định: lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo; kiểm tra là chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội dung của phương thức lãnh đạo, là bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra, xác minh là một khâu hoạt động rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, nếu chưa thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu đáo thì chưa thể kết thúc kiểm tra và như thế cũng có nghĩa là chưa thể kết luận, xử lý đối với nội dung và đối tượng kiểm tra. Chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm tra, xác minh có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc kết luận và quyết định xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra. Phương châm “công minh, chính xác, kịp thời” của việc thi hành kỷ luật trong Đảng được thực hiện tốt hay không, đạt được đến mức độ nào đều phụ thuộc vào mức độ, hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh. Nhiều năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng của các tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực trong công tác xây dựng Đảng. Khi tiến hành thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, cán bộ kiểm tra các cấp đã bám sát và tuân thủ thực hiện đúng các nguyên tắc thẩm tra, xác minh, bám sát nội dung kiểm tra; thực hiện dân chủ, khách quan, công khai; thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Do làm tốt thẩm tra, xác minh nên nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối tượng được kiểm tra “tâm phục”,
  • 5. 2 “khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý công minh, chính xác, kịp thời, có tác dụng góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác xây dựng Đảng ở nơi được kiểm tra. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những kết quả đạt được, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra cũng đã và đang bộc lộ những khó khăn, hạn chế cần nhanh chóng được khắc phục. Một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra chưa thật sự quan tâm, coi trọng vị trí, vai trò của hoạt động thẩm tra, xác minh. Một số vụ việc tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, không đầy đủ, chưa sâu, chưa tìm được bằng chứng xác thực, làm ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan khi kết luận nội dung kiểm tra. Chất lượng chứng cứ sau một số cuộc thẩm tra, xác minh không đầy đủ và xác đáng để làm cơ sở kết luận nội dung và đối tượng kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác minh - theo nguyên tắc và phương pháp công tác đảng - phải lấy việc tự phê bình và phê bình làm biện pháp chính; tuy nhiên, trong thực tế, hiệu quả của việc thực hiện biện pháp chính yếu này không phải là như nhau và lúc nào cũng có vai trò tích cực, nhất là trong bối cảnh những tổ chức đảng mất đoàn kết nội bộ, ý thức đảng chưa cao. Đặc biệt, nhiều vụ việc, hành vi của đối tượng kiểm tra không chỉ dừng trong nội bộ Đảng, mà còn liên quan đến pháp luật, đến nhiều lĩnh vực khác, kể cả những mối quan hệ xã hội của đối tượng kiểm tra… Điều đó đòi hỏi hoạt động thẩm tra, xác minh muốn có hiệu quả cần phải có sự cộng tác, phối hợp của nhiều hoạt động, nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Biện pháp tự phê bình và phê bình trong nội bộ tổ chức đảng để tiến hành thẩm tra, xác minh cũng cần được hoàn thiện, phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay trên cơ sở đặc điểm thực trạng của tổ chức cơ sở đảng có đối tượng kiểm tra. Những hạn chế trong hoạt động thẩm tra, xác minh dẫn đến quyết định xử lý không chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi phạm,
  • 6. 3 tiêu cực hoặc không bảo vệ được chân lý và các nhân tố tích cực… Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: tính phức tạp của các vụ việc, sự yếu kém về tính tự giác của đối tượng kiểm tra, thực trạng nội bộ tổ chức đảng thiếu tính chiến đấu,... song nguyên nhân cơ bản là về quan điểm và phương pháp, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra cũng như quy trình tiến hành thẩm tra, xác minh chưa có sự đổi mới, nâng cao chất lượng cho phù hợp với tình hình mới. Để tiếp tục phát huy kết quả cũng như góp phần khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng thời gian qua nhằm đáp ứng những yêu cầu của công cuộc đổi mới và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, việc nghiên cứu đề tài “Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay” là rất cấp thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. - Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, khái quát một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay. - Phân tích những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
  • 7. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về lĩnh vực nghiên cứu, luận án đi sâu nghiên cứu thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trên tất cả các đối tượng, nhiệm vụ kiểm tra. Phạm vi nghiên cứu của luận án về thời gian từ năm 2001 đến nay; phương hướng giải pháp của luận án có giá trị định hướng đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; nghiên cứu một số Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, như: Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính… Luận án còn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng việc tổng kết thực tiễn, điều tra, khảo sát, phương pháp chuyên gia, hệ thống, kết hợp chặt chẽ lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh. 5. Đóng góp khoa học của luận án - Luận giải, làm rõ hơn, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về công tác kiểm tra của Đảng, trong đó tập trung vào hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
  • 8. 5 - Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, khái quát một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. - Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối với ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; trong bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kiểm tra của Đảng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước trong các học viện, nhà trường trong cả nước. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận các danh muc công trình của tác giả liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội chính của luận án gồm 3 chương, 7 tiết.
  • 9. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Các công trình nghiên cứu có tác giả là người nước ngoài Lý Quang Diệu trong "Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965- 2000" [59], trong bài viết chủ đề “Xây dựng một Chính phủ trong sạch”, tác giả - Thủ tướng đầu tiên (từ năm 1959-1990) và là người có vai trò to lớn trong việc thay đổi và phát triển đất nước Singapore trở thành một trong những “con rồng Châu Á” - đã khẳng định và nêu bật quyết tâm của Đảng Hành động Nhân dân (tên viết tắt tiếng Anh là PAP) khi lên nắm chính quyền vào năm 1959, là đã xác định và bắt tay xây dựng một chính quyền trong sạch. Một trong những “công cụ được mài nhọn” để có thể ngăn chặn, phát hiện và cản trở những thủ đoạn tham nhũng là cơ quan trọng yếu thực hiện nhiệm vụ này: Ban Điều tra hành vi tham nhũng (tên viết tắt tiếng Anh là CPIB), có quyền hạn được điều tra bất kỳ viên chức hay vị Bộ trưởng nào. Nhân viên của Ban cũng được ủng hộ để thực thi luật, không e dè hay thiên vị. Đến năm 1960, chính quyền của Đảng PAP thực hiện việc nới rộng quyền lực của các điều tra viên, kể cả quyền bắt giữ, khám xét, thanh tra tài khoản, sổ ghi tiền gửi ngân hàng của những kẻ bị tình nghi cũng như của vợ, con và thuộc hạ của họ. Một sự thay đổi nữa là cho phép những người xét xử xem những chứng cứ cho thấy người bị tố cáo đang sống ở mức sống vượt quá khả năng kinh tế của họ hoặc có những tài sản mà thu nhập của họ không thể giải thích, là bằng chứng xác thực chứng minh rằng người bị tố cáo đã nhận hối lộ.
  • 10. 7 Tác giả Lý Quang Diệu rút ra nhận định ở cuối bài viết: “Hệ thống được lập ra điều tra và báo cáo trung thực sẽ chứng minh hệ thống ấy công minh và hiệu quả, không ai ở ngoài lưới pháp luật cả” [59, tr.175]. Hồng Vĩ trong "Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc" [197] đã nghiên cứu và trình bày rất sâu sắc về nạn tham nhũng, về cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và vai trò lĩnh ấn tiên phong của Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt này. Sau khi phân tích những khó khăn trong việc chống tham nhũng, tác giả cho rằng, các cơ quan chức năng phải không ngừng tăng cường công tác điều tra xử lý các vụ án lớn, nghiêm trọng để trừng phạt nghiêm khắc và gây sức ép mạnh mẽ, quyết không cho phép những phần tử tham nhũng ẩn náu trong Đảng. Theo tác giả, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương ưu tiên, đặt trọng tâm là phải điều tra tỷ mỉ và xử lý nghiêm các vụ án cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức quyền mưu lợi cá nhân, coi thường chức trách, cương vị công tác, gây thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước; điều tra thận trọng và xử lý các vụ án cán bộ cấp cơ sở nông thôn vi phạm kỷ cương, luật pháp... Để làm được việc này, bên cạnh việc thực hiện một số biện pháp, phải tăng cường sự phối hợp giữa các ngành kiểm tra kỷ luật, tòa án, kiểm sát, giám sát, thẩm duyệt trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 11-2012), Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trình bày Báo cáo về tình hình công tác 5 năm (2007-2012) và kiến nghị công tác thời gian tới [188], báo cáo đã được Đại hội thẩm tra và thông qua. Trong Báo cáo có một số nội dung về công tác điều tra trong Đảng như: Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm pháp luật, bảo vệ tính nghiêm túc của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặt việc điều tra xử lý
  • 11. 8 các vụ án lên vị trí quan trọng, điều tra xử lý trọng điểm những vụ án lạm dụng chức quyền, tham ô hối lộ, tha hóa biến chất, không làm tròn chức trách của cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo, những vụ án mà những người liên quan tuy cấp bậc không cao nhưng số tiền lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng, và những vụ án tham nhũng nảy sinh bên cạnh quần chúng… Tăng cường công tác thẩm tra, xét xử khiếu nại, điều tra lại và quản lý giám sát vụ án, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cán bộ, đảng viên. Cơ chế tổ chức phối hợp điều tra vụ án ngày càng kiện toàn hơn. Các chức năng trị tận gốc, trong đó có điều tra xử lý vụ án ngày càng được phát huy. Báo cáo cũng nhận định: Hành vi tham nhũng ngày càng phức tạp, kín đáo, độ khó của việc phát hiện và điều tra ngày càng tăng … Báo cáo đã nêu lên bảy kinh nghiệm cơ bản trong công tác xây dựng tác phong Đảng liêm chính và chống tham nhũng, trong đó có kinh nghiệm (thứ năm): Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật, pháp luật, đặc biệt là phải làm tốt việc điều tra xử lý các vụ án lớn, quan trọng… Qua Báo cáo, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương đã đề xuất 8 kiến nghị với với Đại hội XVIII, trong đó: Kiến nghị thứ nhất: Ủy ban kiểm tra kỷ luật các cấp phải nghiêm khắc điều tra xử lý hành vi vi phạm kỷ luật chính trị, kiên quyết bảo vệ sự tập trung thống nhất của Đảng; kiến nghị thứ tư tập trung nhấn mạnh: Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật, pháp luật, bảo đảm xu thế trừng trị tham nhũng mạnh mẽ; kiến nghị thứ năm nêu: Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện, nghiêm túc điều tra hành vi vi phạm và nâng cao năng lực thực hiện chế độ liêm khiết; kiến nghị thứ sáu: Phát huy hơn nữa vai trò giám sát của chế độ tuần thị, tăng cường năng lực phát hiện vấn đề. Kiên trì làm tốt việc thẩm tra trách nhiệm kinh tế của cán bộ lãnh đạo chủ chốt và nhân viên lãnh đạo công ty nhà nước, tăng cường thẩm tra đối với vốn chuyên đề trọng điểm và công trình đầu tư lớn; kiến nghị thứ tám nhấn mạnh về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cả về
  • 12. 9 bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, trong đó: Cán bộ kiểm tra, giám sát cần phải nắm vững mấu chốt là xây dựng, tăng cường năng lực điều tra, phương pháp và trình độ thực hiện chức trách một cách khoa học… Tác giả Phuthắc Phítthanuson trong “Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [137], tại chương 2, khi đánh giá ưu điểm trong công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, tác giả viết: …Khi kiểm tra và xử lý kỷ luật đã làm tốt công tác thẩm tra, xác minh… Tuy nhiên, ở phần đánh giá nhược điểm, tác giả cũng thẳng thắn thừa nhận: …Uỷ ban kiểm tra chưa đủ mạnh, chưa có phương pháp, phương thức tiếp cận. Cho nên, trong thời gian qua, chỉ khi có vi phạm nghiêm trọng đến mức phạm pháp thì mới tiến hành kiểm tra, thẩm tra, xác minh và phải tổ chức thành đoàn kiểm tra theo chỉ thị, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới tiến hành kiểm tra được, nhất là cán bộ là ủy viên ban chấp hành tỉnh ủy, huyện ủy… Trong chương 3, ở giải pháp thứ hai (Kiện toàn bộ máy ủy ban kiểm tra và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra), tác giả nêu: Người cán bộ kiểm tra là người có khả năng triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ lập kế hoạch, thẩm tra, xác minh, viết báo cáo, văn bản, theo dõi thực hiện quyết định và lập hồ sơ lưu trữ;… Ở giải pháp thứ tư, tác giả đề xuất: phải phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở, tạo điều kiện để quần chúng tham gia ý kiến, phản ảnh về đối tượng kiểm tra; tuy nhiên, những ý kiến đó phải được chọn lọc, kiểm tra, xác minh. Tác giả Chănsyseng Sômphu trong “Chất lượng công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” [143], tác giả luận án đã đề xuất giải pháp “Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp, nguyên tắc, hình thức kiểm tra, thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa công tác kiểm tra”, trong đó phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Yêu cầu đặt ra khi đánh
  • 13. 10 giá, kết luận những ưu điểm và khuyết điểm của cán bộ, đảng viên hoặc tổ chức đảng được kiểm tra phải đúng với bản chất của sự việc, sự kiện, do đó trong quá trình kiểm tra nhất thiết phải có khâu thẩm tra, xác minh. Tác giả cũng đặt ra yêu cầu là cần xác định đúng về đối tượng thẩm tra, xác minh và phân biệt giữa đối tượng kiểm tra với đối tượng thẩm tra, xác minh; chọn đúng nội dung, đồng thời phải có phương pháp thẩm tra, xác minh hết sức khoa học, tinh vi mới đảm bảo hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác kiểm tra Đảng và Nhà nước giai đoạn mới hiện nay. 1.1.2. Các công trình có tác giả là người Việt Nam nghiên cứu về kinh nghiệm của nước ngoài Sách "Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới" của Ban Nội chính Trung ương [33], đã nêu và phân tích kinh nghiệm của một số nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó có những kinh nghiệm về biện pháp kiểm tra, điều tra của Đảng cầm quyền, như: Lào thực hiện nhất thể các chức danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước; kiểm tra Đảng và thanh tra Chính phủ sáp nhập thành Ban Kiểm tra Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Do đó, việc phối, kết hợp giữa kiểm tra đảng và thanh tra nhà nước phát huy và khai thác được khả năng cán bộ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau về kết quả thẩm tra, xác minh trong quá trình thực hiện các cuộc kiểm tra và thanh tra để kịp thời và đồng bộ trong xử lý. Các đảng cầm quyền ở Australia luôn đề cao cơ chế bảo đảm sự liêm chính trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền; áp dụng kỹ thuật điều tra đặc biệt, các phiên điều trần theo quy định của luật pháp. Bên cạnh đó, coi trọng công luận và dư luận quần chúng trong việc giám sát hành vi của công chức, khuyến khích và phát huy vai trò báo chí có tính độc lập tương đối trong điều tra, phòng, chống tham nhũng và công chức có sai phạm. Đảng Hành động Nhân dân Singapore (là Đảng duy nhất nắm quyền ở Singapore suốt từ thời lập quốc đến nay) xác định xem xét cả các đơn thư tố
  • 14. 11 giác không ghi tên người gửi, thậm chí xem xét cả các cuộc điện thoại gọi tới. Khi xem xét, phải quyết định có tiến hành điều tra hay không, nếu có thì phải điều tra ngay (không được để quá 4 ngày). Vì họ cho rằng, thư nặc danh là một nguồn thông tin, còn kết luận công chức có sai phạm, có tham nhũng hay không thuộc nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó, nhiều nước cho phép cơ quan chức năng được sử dụng một số biện pháp đặc biệt như nghe điện thoại bí mật, xây dựng cơ sở bí mật... để phát hiện công chức sai phạm, tham nhũng. Trong "Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc" của các đoàn công tác của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ (giai đoạn 2008-2014) [182] đã tổng hợp rất sâu sắc nhiều nội dung như: Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc có các quyền hạn: Quyền giám sát, quyền kiểm tra, quyền điều tra, quyền kiến nghị và quyền xử lý kỷ luật. Nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra, kỷ luật trong công tác kiểm tra vụ việc có nội dung: điều tra rõ sự việc; thu thập chứng cứ xác đáng, đầy đủ; người vi phạm bị kỷ luật và trừng trị thích đáng; người không vi phạm không bị truy cứu. Yêu cầu đặt ra là sự thật rõ ràng; chứng cứ xác đáng, chuẩn xác (rất quan trọng); xử lý đúng mức; thủ tục hoàn chỉnh và trình tự phải hợp pháp. Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất chú trọng những kỹ năng cơ bản của công tác kiểm tra, cụ thể là 4 kỹ năng: Kỹ năng kết hợp giữa tiến hành thẩm tra, xác minh trực tiếp, công khai với gián tiếp, bí mật; Kỹ năng kết hợp công tác tư tưởng để phát huy tính tự giác của đối tượng kiểm tra với thẩm tra, xác minh, tìm bằng chứng; Kỹ năng nắm tình hình tại chỗ (qua việc thành lập các tổ thị sát) và Kỹ năng xem xét nguồn gốc phát sinh sai phạm ("trị tận gốc, trị lý tổng hợp, coi trọng phòng ngừa").
  • 15. 12 Trình tự và phương pháp khi xử lý một vụ án của uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc được tiến hành theo các bước như sau: Thứ nhất, thụ lý vụ án Sau khi xem xét sơ bộ tài liệu và tiến hành xử lý, nếu tài liệu cán bộ bị xử lý thuộc thẩm quyền của ủy ban kiểm tra kỷ luật thì xác định có thể điều tra xử lý trực tiếp, làm rõ vấn đề có lập án không; những tài liệu ủy ban kiểm tra kỷ luật đang làm rõ bước đầu, lập án phải chuyển các đội điều tra chuyên môn. Tài liệu phát hiện chưa rõ dấu hiệu vi phạm chuyển ủy ban kiểm tra kỷ luật cấp dưới làm rõ hơn; tài liệu không cụ thể, không có khả năng điều tra thì lưu trữ lại. Thứ hai, xác minh, làm rõ bước đầu Về trình tự trong xác minh: Ủy ban kiểm tra kỷ luật, cơ quan thanh tra quyết định lập tổ làm rõ bước đầu, làm rõ bước đầu tài liệu tố cáo, đơn khiếu nại trước khi lập án (vấn đề trong đơn thư có thật hay không, có cần xử lý kỷ luật đối với đối tượng được phản ánh trong đơn thư không; cung cấp được chứng cứ cho việc lập án hay không). Giai đoạn này phải điều tra lấy chứng cứ cho chặt chẽ, phải giữ gìn bí mật với bên ngoài và trong nội bộ. Nếu đủ chứng cứ thì lập án, nếu chưa đủ thì chưa lập án. Trong tài liệu phản ánh cán bộ có nhiều vấn đề, tiến hành làm rõ vấn đề chính, nếu thu thập một chứng cứ khi trao đổi trực tiếp với đối tượng, họ không khai thì tìm giải pháp khác; những vấn đề chính tìm ra càng nhiều chứng cứ càng tốt. Quá trình làm rõ bước đầu, chú ý nhân vật đặc biệt, việc đặc biệt, thời điểm đặc biệt. Kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị, khẳng định rõ có hoặc không. Vì đối tượng điều tra là cán bộ đảm nhiệm chức vụ nhất định, để tránh hiệu ứng tiêu cực không cần thiết, chú trọng xử lý khéo léo. Có giải pháp điều tra hợp lý, điều tra cấp trên tiến hành từ cấp dưới, bên trong từ bên ngoài, điều tra đối tượng A từ đối tượng B, qua đó nắm bắt được nhiều chứng cứ.
  • 16. 13 Về xử lý kết quả xác minh: Khi kết thúc làm rõ bước đầu, đánh giá kết quả làm rõ, đưa ra kiến nghị xử lý. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm, phải truy cứu thì lập án để điều tra sâu hơn. Thứ ba, lập án để điều tra Chỉ ủy ban kiểm tra, kỷ luật theo thẩm quyền quy định của Điều lệ Đảng phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm phải truy cứu thì quyết định lập án để điều tra. Thứ tư, điều tra sau khi lập án Thông qua điều tra làm rõ vấn đề trái kỷ luật đối với những vấn đề đã được lập án. Hiệu quả của vụ án phụ thuộc vào giai đoạn điều tra. Thời hạn điều tra là 3 tháng, nếu vụ án phức tạp có thể kéo dài thêm 1 tháng, gia hạn thêm không quá 3 tháng (không vượt thời hạn điều tra trong 6 tháng). Trình tự điều tra theo 3 bước sau: Một là, bước chuẩn bị: Thành lập tổ điều tra vụ án: trong khi lập tổ điều tra vụ án phải bổ sung thêm cán bộ tham gia để điều tra các mặt vi phạm của cán bộ. Trong tổ điều tra án chuyên môn có 3 tiểu tổ: tiểu tổ trao đổi trực tiếp với đối tượng chính; tiểu tổ điều tra những vấn đề phản ánh và tiểu tổ tổng hợp. Tiến hành nghiên cứu về những tình tiết, thiết kế, xây dựng, xem xét phương án điều tra, trong đó chú ý quyết định bước đi, công tác trọng điểm. Khi phương án điều tra được phê duyệt thì chuyển sang bước thực thi. Hai là, bước thực thi: Công bố quyết định lập án: Sau khi có quyết định lập án phải công bố quyết định này trước đối tượng bị kiểm tra. Tổ điều tra phải tỏ rõ thái độ lập án, nêu yêu cầu đối với đối tượng kiểm tra về: tích cực phối hợp làm rõ vấn đề của mình; đối xử đúng đắn, không có hành vi câu kết với người khác, không có thái độ phản ứng, thiếu hợp tác hoặc tiêu hủy chứng cứ; không trả thù người tố cáo (tổ điều tra phải coi trọng việc bảo vệ người tố cáo trong quá trình điều tra, không để lộ cho người bị điều tra biết).
  • 17. 14 Thu thập, điều tra chứng cứ một cách toàn diện: thu thập nhân chứng, vật chứng, tài liệu tố cáo; xem xét, phân tích hiện trường thông qua kỹ thuật hiện đại. Yêu cầu đối với việc điều tra phải toàn diện, khách quan, phải thực sự cầu thị, không được chủ quan; không chỉ thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ hành vi trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng bị điều tra, mà phải thu thập, tổng hợp cả tài liệu chứng minh hành vi không trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng bị điều tra. Việc điều tra lấy chứng cứ, lực lượng chủ chốt là cán bộ trong tổ điều tra chuyên môn, đồng thời chú trọng huy động nhân dân tham gia vào việc điều tra. Khi xảy ra vụ việc sẽ để lại chứng cứ, sẽ có người biết việc, nên yêu cầu công tác điều tra phải đi sâu hơn, kỹ lưỡng hơn. Vì vậy, trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ, cần yêu cầu cơ quan hữu quan giúp đỡ, phối hợp (cơ quan thuế vụ điều tra nộp thuế của đối tượng; trung tâm chống rửa tiền điều tra tiền vốn của đối tượng…). Thông qua sự cố gắng chung, phối hợp cơ quan hữu quan làm rõ sự thật, chứng cứ của vụ án. Ba là, bước cuối cùng (bước kết thúc): Phân tích vụ án, tìm ra sự thật hành vi sai trái, cho người bị điều tra xem xét lại nội dung hành vi vi phạm; đưa ra ý kiến thẩm định và đề xuất việc xem xét, xử lý. Hoàn chỉnh báo cáo xử lý, đồng thời hoàn chỉnh giai đoạn điều tra, chuyển cơ quan hữu quan. Giai đoạn điều tra xử lý vụ án có nhiều cơ quan hữu quan, như: cơ quan tiếp dân tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của quần chúng; cơ quan phụ trách vụ án; đơn vị làm rõ sơ bộ, lập án điều tra. Khi kết thúc điều tra lập án, chuyển hồ sơ, tài liệu điều tra sang văn phòng xét xử vụ án; văn phòng xét xử vụ án căn cứ tình tiết vi phạm, đưa ra kiến nghị xử lý. Các biện pháp điều tra được sử dụng, bao gồm: Một là, các biện pháp điều tra chung: Song quy (yêu cầu đảng viên trong vụ án trình bày rõ vấn đề trong thời gian quy định, địa điểm quy định; đồng thời, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp chứng cứ đúng sự thật, tài liệu liên quan đến vụ án, không được từ chối, quấy nhiễu vụ
  • 18. 15 án); ghi âm, chụp ảnh, quay phim về những nhân viên, vụ việc liên quan đến vụ án khi cần thiết (hình thức này làm chặt chẽ chứng cứ thu thập được và giám sát chặt chẽ cán bộ xử lý vụ án); thẩm tra tài liệu và sao tài liệu liên quan (khi cần thiết có thể tiến hành niêm phong tài liệu); điều tra tài khoản đơn vị và nhân viên liên quan (có thể mời tòa án phong tỏa tài khoản của cán bộ bị điều tra tại ngân hàng); mời cơ quan hữu quan thực hiện việc giám định kỹ thuật những vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ. Hai là, biện pháp điều tra đột phá vụ án quan trọng, vụ án lớn: Công tác chính trong xử lý vụ án phải tập trung đối thoại với đối tượng bị điều tra, tranh thủ đột phá vào trung tâm. Thực tiễn phải dựa vào "4 dùng": dùng sức đe dọa của kỷ luật đảng; dùng thuyết minh chính sách; dùng quan điểm tính nhân văn; dùng chính trị của mình. Phải nắm bắt trạng thái tâm lý, hiểu mong muốn, nỗi sợ, suy nghĩ của đối tượng điều tra. Trường hợp đối tượng bị điều tra cố tình không khai báo, tổ điều tra phải tự tiến hành việc thu thập chứng cứ và đề phòng họ có nhiều hình thức biện bạch về vi phạm của mình. Đối tượng - kể cả là cán bộ lãnh đạo - càng cố giấu hành vi vi phạm của mình, mặc dù họ chưa khai báo, qua chứng cứ chặt chẽ thu được vẫn làm rõ được sự thật. Yêu cầu quá trình xử lý vụ án phải trọng chứng cứ, không chỉ dựa vào lời khai, đây là hai mặt của vụ án. Xử lý quá trình trung tâm rút ngắn thời gian xử lý vụ án và giảm chi phí là rất quan trọng. Đột phá không lời khai cung phải đầu tư nhiều sức người, tiền của, tốn kém thời gian. Nếu để thời gian kéo dài gây hiệu ứng tiêu cực cho quá trình xử lý vụ án. Vì vậy, khi cần thiết phải dựa vào trinh sát điều tra thu thập chứng cứ để đột phá nhanh vào trung tâm. Khi kết thúc điều tra, cho đối tượng bị điều tra xem tài liệu thu thập được và cho các đối tượng này gặp nhau để họ thực sự tâm phục, khẩu phục. Nếu các đối tượng điều tra có ý kiến bất đồng đúng đắn thì chấp nhận, không đúng đắn thì giải thích lại, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, xác định tính chất
  • 19. 16 trái kỷ luật của họ, đưa ra kiến nghị kết quả xử lý thích hợp. Sau đó, hoàn thành báo cáo, chuyển cơ quan có chức năng xử lý. Như vậy, có thể thấy trong trình tự và phương pháp kiểm tra xử lý vụ án (vụ việc), ủy ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm và tôn trọng các bước thẩm tra, xác minh từ khâu ban đầu đến khi kết thúc vụ việc. Trong thông tin ban đầu là cơ sở để lập hồ sơ điều tra vụ án, vì vậy đây được coi là khâu quan trọng có tính quyết định tới các bước tiếp theo. Trong khi điều tra vụ án phải tuân theo nguyên tắc và trình tự điều tra vụ án (trình tự, thủ tục thẩm tra, xác minh) để làm rõ vụ việc. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC 1.2.1. Các đề tài khoa học Tác giả Nguyễn Anh Liên trong “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng” [115], đây là đề tài khoa học đầu tiên về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Đề tài được thực hiện với mục tiêu tập trung đề xuất, kiến nghị những giải pháp đổi mới về phương pháp, nghiệp vụ và quy trình tiến hành thẩm tra xác minh, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ nhiệm vụ kiểm tra Đảng. Các tác giả của đề tài đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động thẩm tra, xác minh và cũng là đóng góp mới về khoa học và thực tiễn, như: đã luận giải có sức thuyết phục tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình là cơ sở phương pháp luận của hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; do vậy, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng phải lấy tự phê bình và phê bình trong tổ chức đảng làm biện pháp chính yếu; đã đi sâu nghiên cứu những khái niệm như "thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng"; những vấn đề về quan niệm như: "trọng chứng", "trọng cung", "án tại hồ sơ"… trong công tác kiểm tra của Đảng; làm nổi bật được hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng nhất thiết và chủ yếu phải dựa vào hệ thống tổ chức
  • 20. 17 đảng; người được kiểm tra cũng đồng thời là người kiểm tra; đã đề xuất được ba giải pháp hợp lý, có tính khả thi nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất lượng thẩm tra, xác minh... Tuy nhiên, vì một số lý do, đề tài có thể cần phân tích sâu hơn mối quan hệ giữa hoạt động thẩm tra, xác minh và các hoạt động khác, trong đó chú trọng hoạt động phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên, của phương pháp cơ bản trong công tác kiểm tra của Đảng, có những kiến nghị cụ thể hơn việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn của ủy ban kiểm tra các cấp, góp phần theo dõi, giúp đỡ ủy ban kiểm tra các cấp vận dụng quy trình trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài… Mặc dù vậy, tuy có dung lượng không lớn (khoảng 60 trang đánh máy) nhưng đây là lần đầu tiên, một đề tài đã nêu lên những vấn đề rất mới mẻ, khái quát một cách có hệ thống, luận chứng khá sâu sắc, cụ thể về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Những nội dung, kiến thức, những luận cứ khoa học, những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài là nguồn tham khảo hết sức quý báu, hữu ích và sát thực cho luận án. Tác giả Phạm Thị Ngạn trong “Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng” [121], đã phân tích cụ thể hệ thống kỹ năng nghiệp vụ kiểm tra, bao gồm: các kỹ năng chung của công tác kiểm tra, kỷ luật đảng và các kỹ năng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định tại Điều 32 Điều lệ Đảng. Trong các kỹ năng chung có: Kỹ năng giao tiếp; kỹ năng vận động, thuyết phục và cảm hóa con người; kỹ năng phối hợp nhóm; kỹ năng thu thập và xử lý thông tin; kỹ năng thẩm tra, xác minh. Tác giả Tô Quang Thu trong “Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra trong giai đoạn mới” [157], đã đề xuất các nhóm giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, trong đó có kỹ năng thẩm tra, xác minh, qua việc đào tạo, bồi dưỡng và tự đào tạo, bồi dưỡng (về nghiệp vụ) và việc rèn luyện trong thực tiễn (trong quá trình giải
  • 21. 18 quyết vụ việc của các đoàn kiểm tra; rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp làm việc khoa học; tổng kết kinh nghiệm,…). 1.2.2. Sách Tác giả Nguyễn Thị Doan trong “Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới” [60], trong chương 3, phần "Quan điểm và định hướng đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật đảng", các tác giả cuốn sách khẳng định: Khi kiểm tra phải làm tốt thẩm tra, xác minh, chưa thẩm tra, xác minh để có chứng cứ cụ thể, rõ ràng bảo đảm tính pháp lý, hợp lý thì chưa kết luận. Về yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật trong Đảng, cụ thể là đổi mới phương thức hoạt động kiểm tra trong Đảng, các tác giả đã nhấn mạnh tính đặc trưng của phương pháp kiểm tra, nhất là phương pháp nghiệp vụ tiến hành thẩm tra, xác minh - một khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động kiểm tra và bảo đảm phương châm "công minh, chính xác, kịp thời" trong việc thi hành kỷ luật. Theo các tác giả, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng rất quan trọng bởi trong giai đoạn cách mạng mới, dưới tác động của các mặt tiêu cực, tính tự giác và tự phê bình của một số cán bộ, đảng viên giảm sút, trong khi cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, thậm chí không có, không đồng bộ nên thiếu chuẩn mực để xem xét, kết luận. Ở chương 4, vấn đề lý luận thứ năm được các tác giả rút ra qua hoạt động thực tiễn là: Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp cơ bản có tính nguyên tắc của công tác kiểm tra, trong đó có việc làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Các tác giả cho rằng: Trong các phương pháp cơ bản, thẩm tra, xác minh là phương pháp đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay… Chưa thẩm tra, xác minh thì chưa thể kết luận. Trường hợp tự phê bình và phê bình càng yếu, tự giác càng kém thì đòi hỏi thẩm tra, xác minh càng phải công phu, tỷ mỉ, thận trọng, chính xác. Mặt khác, thẩm tra, xác minh cũng là một biện pháp nhằm hỗ trợ nâng cao tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên…
  • 22. 19 Tác giả Bùi Văn Thể trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng” [147], trong chương 1, các tác giả cuốn sách nhận định: Để thực hiện tốt việc phê bình, chủ thể kiểm tra phải nắm vững: mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra; nội dung cần kiểm tra, thẩm tra, xác minh; chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị… có liên quan đến các vấn đề cần thẩm tra, xác minh để làm cơ sở cho việc thẩm tra, xác minh. Ở chương 2, khi đề cập về vai trò của thẩm tra, xác minh đối với việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, các tác giả cho rằng: Nhiều chứng cứ thu thập được qua thẩm tra, xác minh đã có sức thuyết phục trong đấu tranh phê bình với những đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước. Ở chương 3, trong giải pháp thứ năm, các tác giả nhấn mạnh: Trường hợp đối tượng kiểm tra tính chiến đấu kém, không thành khẩn, thiếu tự giác tự phê bình, cố tình không nhận thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm, trong khi chứng lý của chủ thể kiểm tra đưa ra chưa chắc chắn, chưa đủ sức thuyết phục, thì phải kết hợp chặt chẽ với công tác thẩm tra, xác minh để thu thập, tài liệu, chứng lý có cơ sở vững chắc để kết luận vụ việc, đồng thời, phải chú ý phát huy trách nhiệm phê bình, góp ý của tổ chức đảng và đảng viên có liên quan đến đối tượng kiểm tra để làm rõ trách nhiệm, thiếu sót, vi phạm của đối tượng kiểm tra... Tác giả Lê Hồng Liêm trong “Một số giải pháp cơ bản tháo gỡ khó khăn, trở ngại khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp” [112], ở chương II, khi đề cập đến khó khăn, trở ngại trong thực hiện phương pháp, quy trình kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả cuốn sách đã đánh giá: …Việc phối hợp trao đổi thông tin, đánh giá nhận định dấu hiệu vi phạm có trường hợp "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", có trường hợp không cung cấp thông
  • 23. 20 tin cho là "bảo mật", gây trở ngại cho công tác thẩm tra, xác minh do chạy theo thành tích, bảo vệ lẫn nhau, ngại va chạm, có trường hợp thiếu trách nhiệm đến mức né tránh, vòng vo, không hợp tác theo yêu cầu của uỷ ban kiểm tra… Khi đề cập đến nguyên nhân những khó khăn, trở ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, ban chủ nhiệm đề tài đã cho rằng: Việc kiểm tra phải đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng, không được sử dụng các phương pháp thẩm tra, xác minh của các cơ quan tư pháp, thanh tra nhà nước,... Một trong những bài học kinh nghiệm qua tháo gỡ khó khăn, trở ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm - theo các tác giả - là: Uỷ ban kiểm tra các cấp vừa phải chủ động làm tốt công tác tư tưởng đối với đối tượng kiểm tra, vừa nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình, đồng thời coi trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, xác minh. Ở chương III, khi phân tích các giải pháp, các tác giả đã đề cập đến việc: Đổi mới và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra (kể cả kỹ năng nghiệp vụ) cho tổ chức đảng, cán bộ kiểm tra các cấp, trong đó có kỹ năng thu thập thông tin, nhận biết, phân tích dấu hiệu vi phạm; kỹ năng thẩm tra, xác minh, thu thập chứng cứ; kỹ năng thiết lập các báo cáo thẩm tra, xác minh;… Tác giả Lê Hồng Liêm với “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay - Thực trạng và giải pháp” [113], trong chương 2, phần về bài học kinh nghiệm, các tác giả đã khẳng định: Việc tổ chức thu thập thông tin phải nhiều phía, kiểm tra xử lý chọn lọc thông tin để phục vụ kiểm tra, giám sát chống tham nhũng có hiệu quả, việc lưu trữ thông tin rất cần quy củ, khoa học để khai thác khi cần thiết. Thực tế cho thấy, cần chú trọng chọn lọc các thông tin về quan hệ nhiều mặt của cán bộ, đảng viên và thân nhân,... khi có dấu hiệu bất minh cần có biện pháp thẩm tra, xác minh thích hợp, chặt chẽ, kịp thời.
  • 24. 21 Tác giả Lê Văn Giảng trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng” [94], đã đánh giá việc thực hiện dân chủ qua các phương pháp, quy trình kiểm tra, kỷ luật đảng, các tác giả cuốn sách đã nhận định: Một nội dung cơ bản trong phương pháp kiểm tra của Đảng là thực hiện dân chủ trong công tác thẩm tra, xác minh... Qua công tác kiểm tra, nhiều đoàn kiểm tra đã thực hiện tốt dân chủ trong thẩm tra, xác minh. Việc chủ động thu thập bằng chứng, chứng cứ được thực hiện bằng nhiều cách như nghiên cứu hồ sơ, tài liệu có liên quan; tiếp xúc đối với tổ chức đảng và cá nhân để yêu cầu, động viên họ cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung kiểm tra để có cơ sở loại bỏ những thông tin sai sự thật, những chứng cứ giả hoặc không đủ cơ sở để kết luận, gây oan ức cho đối tượng kiểm tra… Trường hợp giữa cấp uỷ, tổ chức đảng và đoàn kiểm tra có vấn đề chưa thống nhất thì đoàn kiểm tra yêu cầu cung cấp thêm bằng chứng để cùng trao đổi, thảo luận hoặc tiếp tục thẩm tra, xác minh làm rõ. Tác giả Cao Văn Thống trong “Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng” [154], tác giả đã dành riêng một chương (chương 8) để bàn về thẩm tra, xác minh - nghiệp vụ quan trọng, cơ bản của công tác kiểm tra. Trong Chương này, tác giả đã nêu lên một số khái niệm (thẩm tra; xác minh; thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng…); phân tích đặc điểm, vị trí, ý nghĩa, tác dụng của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng; nội dung, đối tượng và phương pháp thẩm tra, xác minh. Ở cuối chương, tác giả cũng nêu lên những vấn đề cần lưu ý và nắm vững khi tiến hành thẩm tra, xác minh. Các tác giả đã khẳng định: Công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra là công tác đảng, có đặc thù riêng là tiến hành kiểm tra, kết luận, xử lý hoặc giúp cấp ủy xử lý kỷ luật những trường hợp có vi phạm đến mức phải xử lý. Đặc thù này không những khác với các ban của cấp ủy mà còn khác với các cơ
  • 25. 22 quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước (điều tra, truy tố, xét xử đều do từng cơ quan độc lập tiến hành). Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng và làm tốt các phương pháp cơ bản của công tác đảng, cần đặc biệt coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra, xác minh để phục vụ cho việc kiểm tra, kết luận, xử lý được công minh, chính xác, kịp thời. Nguyễn Công Học trong “Một số giải pháp đảm bảo việc chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật đảng trong tình hình hiện nay” [98], tại chương 1, các tác giả cuốn sách đã nêu một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khi xem xét, thi hành kỷ luật Đảng là: phải điều tra, nghiên cứu kỹ càng, thận trọng, đi sâu tìm hiểu bản chất và căn cứ vào những bằng chứng xác thực. Ở chương 3, trong Nhóm giải pháp bảo đảm việc thi hành kỷ luật trong Đảng, tại giải pháp thứ 3, các tác giả đề xuất: Trong điều kiện tự phê bình và phê bình của đối tượng kiểm tra ngày càng giảm sút, phải đề cao và làm tốt khâu thẩm tra, xác minh;... Chú trọng công tác thẩm tra, xác minh để làm rõ đúng, sai, xác định cụ thể chứng lý, với thái độ công tâm, khách quan, thận trọng và chặt chẽ, bảo đảm việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng được dân chủ, chính xác, công bằng, nghiêm minh. Các tác giả Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất trong “Nâng cao chất lượng kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm” [156], đã phân tích cả về lý luận lẫn thực tiễn, đánh giá thực trạng hay đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả đều nhấn mạnh một vấn đề quan trọng là: Chỉ được khẳng định tổ chức đảng hoặc đảng viên có vi phạm khi được tổ chức đảng có thẩm quyền qua kiểm tra, xem xét, kết luận. Do vậy, phải hết sức coi trọng công tác thẩm tra, xác minh, chưa thẩm tra, xác minh thì chưa được kết luận.
  • 26. 23 1.2.3. Luận án, luận văn Tác giả Trương Thị Thông trong “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay” [148], ở chương 1, tác giả cho rằng một trong những yêu cầu của tình hình mới là sự phát triển của xã hội đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách phải thực sự có năng lực, có phẩm chất, có bản lĩnh vững vàng để phân biệt rõ cái đúng - cái sai, cái tiến bộ - cái lạc hậu… Ở chương 2, khi đánh giá nguyên nhân khách quan của những khó khăn, trở ngại về đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách, tác giả có đề cập đến việc hệ thống luật pháp, nhiều chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước chưa theo kịp sự phát triển của công cuộc đổi mới, chưa đồng bộ, thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau; chuẩn mực để phân biệt đúng - sai chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Cũng trong chương này, tác giả đã chỉ ra bảy bài học kinh nghiệm qua thực tiễn hoạt động của uỷ ban kiểm tra các cấp và của đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách trong những năm qua, trong đó có kinh nghiệm thứ tư: Phải nắm vững và chấp hành đúng phương pháp, quy trình công tác kiểm tra. Tác giả phân tích: Trong quá trình kiểm tra, không được lẫn lộn và thay phương pháp kiểm tra của Đảng với phương pháp kiểm tra của các cơ quan Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Vận dụng phương pháp kiểm tra phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nội dung, đối tượng kiểm tra và tình hình cụ thể của đơn vị đó, nhưng dù linh hoạt đến đâu công tác kiểm tra cũng phải dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của đảng viên để làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên càng yếu, đòi hỏi công tác thẩm tra, xác minh phải tỷ mỉ và chính xác mới bảo đảm cho những đánh giá, kết luận, xử lý có căn cứ xác đáng, khách quan và khoa học. Luận án thực sự đã đóng góp vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách nói riêng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
  • 27. 24 Lê Tiến Hào trong “Công tác kiểm tra của Thành uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” [95], đã phân tích những quan điểm cơ bản về lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội; quan niệm và một số tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội... Luận án đánh giá thực trạng công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XII, XIII (1996 - 2002), trong đó có việc thực hiện các phương pháp công tác kiểm tra của Đảng; tổng kết một số kinh nghiệm về công tác kiểm tra... Trong các giải pháp tác giả đưa ra, đáng chú ý có giải pháp thứ ba, nâng cao chất lượng các cuộc kiểm tra của Thành ủy, chú trọng về các phương pháp kiểm tra, trong đó trọng tâm là phương pháp thẩm tra, xác minh. Luận án thực sự đã có những đóng góp mới về mặt khoa học, góp phần vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra của Đảng nói chung, công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội nói riêng, nhằm thúc đẩy công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong thời gian sau đạt được những kết quả tốt hơn. Tác giả Nguyễn Thế Tư trong “Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay” [162], đã phân tích những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; thực trạng công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung, chỉ ra những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Từ những cơ sở trên, cùng với việc chỉ rõ mục tiêu, phương hướng và quan điểm chỉ đạo, tác giả luận án đã đề ra sáu giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh Duyên hải miền Trung thời gian tới, trong đó có giải pháp thứ tư: chủ động phát hiện sớm dấu hiệu vi phạm, kiên quyết đấu tranh làm rõ đúng, sai, kết luận chính xác, kịp thời, đã đề cập sâu đến phương pháp thẩm tra, xác minh.
  • 28. 25 Tác giả Nguyễn Hoàng Minh trong “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [120], đã khẳng định, trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh, cán bộ ủy ban kiểm tra phải biết tranh thủ ý kiến của cả đảng viên và quần chúng ngoài Đảng, biết phát huy vai trò xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân để phân tích, tổng hợp, góp phần kết luận các vấn đề kiểm tra thật sự khách quan, chính xác về các hiện tượng vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước. 1.2.4. Các bài báo khoa học Tác giả Lê Khắc Khoa trong “Về ngôn ngữ nói trong thẩm tra, xác minh” [100], tác giả viết: Lời nói trở thành một cơ sở không thể thiếu và hết sức quan trọng để dùng làm căn cứ xác thực chứng tỏ sự việc với tính chân thật khách quan, từ đó làm căn cứ kết luận đúng sai. Đặc biệt, tác giả còn nêu lên hai ví dụ thực tiễn sinh động: trường hợp thứ nhất, dấu hiệu vi phạm của đối tượng kiểm tra chỉ là những chỉ đạo bằng miệng, “khẩu dụ”, không có bằng chứng, dấu vết bằng chữ viết, nhưng dựa vào cơ sở lập luận, lý lẽ sắc bén, qua đấu tranh, cán bộ kiểm đã khiến đối tượng kiểm tra thừa nhận vi phạm của mình; trường hợp thứ hai, đối tượng kiểm tra không thừa nhận lời nói của mình, nhưng nhờ việc ghi âm công khai hội nghị kiểm điểm đã trở thành chứng cứ quan trọng để bác bỏ nội dung khiếu nại của đối tượng kiểm tra. Để “lời nói… gió không bay”, theo tác giả: phải áp dụng các phương pháp lưu trữ lời nói bằng cách ghi biên bản, ghi âm, ghi hình. Tác giả Phạm Đình Phi trong “Kinh nghiệm thẩm tra, xác minh trong giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng” [136], đã khẳng định: Để thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh trong giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, cần thực hiện tốt các phương pháp thu thập chứng cứ; nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu, thông tin; trưng cầu giám định của các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ đối với những vấn đề cần thiết. Trên cơ sở đó, tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, đánh giá, kết luận những nội dung vi phạm, quy trình, nguyên tắc,
  • 29. 26 thủ tục và phương hướng, phương châm thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới trong quá trình xem xét, xử lý kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng. Khi thu thập tài liệu, bằng chứng, cán bộ kiểm tra phải trực tiếp gặp đối tượng, trực tiếp đọc những thông tin, tài liệu, nhìn thấy các vật chứng, nếu cần thì đến tận nơi xảy ra sự việc để thẩm tra, xác minh; không được chỉ nghe qua người khác, dư luận. Muốn đánh giá đúng sự thật, phải thu thập được bằng chứng xác thực qua các tài liệu, thông tin nhiều phía, nhiều kênh, nhiều chiều có liên quan đến sự việc cần làm rõ. Tác giả còn nêu thêm một kinh nghiệm rằng: Việc thu thập đầy đủ tài liệu, thông tin, bằng chứng là rất quan trọng, nhưng việc nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng ấy một cách khoa học, khách quan, chính xác lại càng quan trọng, vì đó là cơ sở để kết luận và xử lý đúng. Tác giả Đỗ Hùng Cường trong “Một số vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra” [56], đã nhận định: Kết quả và chất lượng của thẩm tra, xác minh có ý nghĩa quyết định việc kết luận và xử lý đối với đối tượng kiểm tra; đồng thời chỉ ra: Một thực tế cho thấy thực trạng tình hình vi phạm, tiêu cực nhất là tệ tham nhũng đã, đang và sẽ vẫn tiếp tục xảy ra nghiêm trọng, có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất đó là khâu thẩm tra, xác minh còn một số bất cập; nổi lên là không tìm ra được chứng cứ vững chắc để kết luận vụ việc và quyết định xử lý kỷ luật. Tác giả kết luận: Phương pháp tư duy khoa học làm cho quá trình thẩm tra, xác minh được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, phương pháp, biện pháp rõ ràng, khoa học và được thực hiện một cách khách quan, linh hoạt, sáng tạo để có thể đưa ra các kết luận chính xác. Tác giả Phạm Thành Đồng trong “Chứng cứ trong kiểm tra dấu hiệu vi phạm khi phải tiến hành trưng cầu giám định” [93], tác giả cho rằng: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật để từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng làm căn cứ xác định hành vi vi phạm và tội
  • 30. 27 phạm. Chứng cứ được xác định bằng vật chứng, lời khai của bị can, bị cáo, của những người liên quan, người biết sự việc, kết luận giám định, các biên bản và những tài liệu thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh. Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết. Tác giả cũng kiến nghị với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương một số vấn đề về việc đề nghị trưng cầu giám định chứng cứ trong quá trình thẩm tra, xác minh. Tác giả Phạm Thị Ngạn trong“Các yếu tố cấu thành trình độ nghiệp vụ thẩm tra, xác minh của cán bộ kiểm tra” [122], theo tác giả: Hiện nay, các vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên đang có xu hướng gia tăng về số lượng và đa dạng, phức tạp hơn về nội dung, tính chất với nhiều hình thức tinh vi và cách thức khôn khéo. Để phân định rõ đúng sai, kết luận chính xác và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm, đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra phải có nghiệp vụ vững vàng, trong đó khả năng thẩm tra, xác minh, tìm chứng cứ để kết luận kiểm tra có ý nghĩa quyết định. Trình độ nghiệp vụ thẩm tra, xác minh của mỗi cán bộ kiểm tra được cấu thành bởi 5 yếu tố chủ yếu: Kiến thức và vốn sống thực tiễn; mức độ nắm vững và khả năng vận dụng lý luận về thẩm tra, xác minh; khả năng vận dụng phương pháp thẩm tra, xác minh; vốn kinh nghiệm cá nhân về thẩm tra, xác minh; phong cách làm việc của cá nhân. Các yếu tố đó có mối liên kết chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Mỗi yếu tố vừa là một bộ phận trong tổng thể, vừa có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển và phát huy tác dụng của các yếu tố khác; nếu có một yếu tố bị thiếu hoặc yếu thì các yếu tố còn lại sẽ khó phát huy tác dụng. Vũ Đình Lợi trong “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan trọng trong giải quyết tố cáo” [116], tác giả khẳng định: Chỉ khi làm tốt công tác thẩm tra, xác minh, trên cơ sở bằng chứng xác thực thì việc kết luận giải quyết tố cáo mới chính xác. Trong bài báo, tác giả nêu lên kinh nghiệm thực tiễn qua một vụ việc giải quyết tố cáo cụ thể (về việc giả mạo bằng cấp). Qua dẫn
  • 31. 28 chứng đó, tác giả càng khẳng định thẩm tra, xác minh làm một khâu rất quan trọng trong toàn bộ quá trình thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra của Đảng nói chung, đặc biệt trong việc giải quyết đơn thư tố cáo nói riêng. Tác giả rút ra: Để việc thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đạt kết quả, cán bộ giải quyết tố cáo phải có quyết tâm cao, thể hiện rõ bản lĩnh, chính kiến, nhạy bén trước mọi tình huống xảy ra; có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục. Đặc biệt, phải có đầu óc phán đoán đề ra phương án, kế hoạch thẩm tra, xác minh tối ưu, phù hợp với nội dung tố cáo cần giải quyết, nhất là đối với những đơn thư có nội dung tố cáo phức tạp, kéo dài, thời gian xảy ra đã lâu, gây nhiều bức xúc trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền các cấp. Tác giả Nguyễn Trung Dong trong “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý” [61], tác giả thẳng thắn nhận định: Thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý trên địa bàn Vụ Địa phương III, Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương gặp rất nhiều khó khăn, vì: đối tượng bị tố cáo, nội dung tố cáo rất đa dạng; một số vụ tố cáo với tính chất phức tạp, nhiều nội dung, sự việc, có liên quan đến nhiều người, nhiều cấp, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, quản lý tài chính, phụ trách công trình, dự án, đất đai,… Một số cán bộ bị tố cáo có thái độ phản ứng, đối phó, bất hợp tác, không nhận khuyết điểm, vi phạm hoặc tuy có nhận nhưng chưa tương xứng với tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi phạm, thậm chí có trường hợp còn “tố cáo ngược” cán bộ giải quyết tố cáo. Tác giả cũng rút ra một số kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, đồng thời nhấn mạnh: Khâu thẩm tra, xác minh để tìm ra chứng cứ là một khâu có tính quyết định trực tiếp đến nhiệm vụ giải quyết tố cáo. Hiệu quả của việc giải quyết tố cáo phụ thuộc rất lớn vào việc tìm ra hay không tìm ra
  • 32. 29 chứng cứ. Mọi kết luận đúng, sai, có vi phạm hay không vi phạm của đối tượng bị tố cáo đều bắt buộc phải dựa trên những chứng cứ xác thực, liên quan. Qua đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý trong thời gian tới. Tóm lại, các công trình nghiên cứu nêu trên đều là những sản phẩm khoa học trí tuệ, nghiêm túc, chất lượng, hết sức có giá trị dù ở những mức độ khác nhau. Các công trình hoặc nghiên cứu bình diện chung, mang tính tổng thể, hoặc đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể trong công tác kiểm tra của Đảng. Mỗi công trình đều có đề cập đến hoạt động thẩm tra, xác minh - một phương pháp, một nghiệp vụ rất quan trọng trong công tác kiểm tra của Đảng. Tuy nhiên, các công trình đều chỉ nghiên cứu về thẩm tra, xác minh ở những khía cạnh, góc độ nhất định, một “bộ phận” cần phân tích, đánh giá trong tổng thể chung về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Ngoại trừ Đề tài khoa học cấp Bộ KHBĐ-0015 “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng”, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt về thẩm tra, xác minh. Mặc dù, nội dung Đề tài KHBĐ-0015 rất có giá trị, cung cấp nhiều luận cứ, luận chứng, luận điểm để tác giả luận án lĩnh hội, tiếp thu, song do thời gian nghiên cứu (từ năm 2000-2001) so với tình hình thực tế hiện tại đã có nhiều thay đổi, ảnh hưởng, tác động đến công tác kiểm tra nói chung, đến hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng nên một số điểm cần nhìn nhận, đánh giá, phân tích, luận giải thêm. Mặt khác, do yếu tố đặc thù và một số điều kiện, dung lượng nghiên cứu của đề tài KHBĐ-0015 nêu trên cũng cần được bổ sung, hoàn chỉnh thêm. Ở một bình diện khác, vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản cầm quyền nói riêng, của các đảng chính trị cầm quyền nói chung một phần do hoàn cảnh, điều kiện, yếu tố chính trị, một phần do điều kiện sưu tầm, tìm tòi, thu thập (cả ở trong nước và ngoài nước) còn
  • 33. 30 hạn chế, nên cho thấy các công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều. Các tài liệu đề cập đến chủ yếu qua hình thức các giáo trình, bài giảng, tài liệu huấn luyện nghiệp vụ về kiểm tra, điều tra vụ việc, được các đoàn nghiên cứu của các cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước ta tổng hợp lại; hoặc được giới thiệu một cách sơ lược, khái quát trong một số tài liệu của các cơ quan chức năng của các nước bạn khi tham dự các cuộc hội đàm, hội thảo. Một vấn đề nữa cũng cần đặt ra là, do đặc điểm, hoàn cảnh, yếu tố, thể chế chính trị (ngay cả trong những nước có Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền) khác nhau, nên kinh nghiệm, bài học của mỗi nước cũng có những điểm đặc thù, không thể tiếp nhận, tiếp thu một cách tuyệt đối, máy móc, cơ học mà đòi hỏi có sự gạn lọc, đánh giá, suy xét hợp lý để cùng trao đổi, thực hiện cho phù hợp. Tình hình nghiên cứu trên đặt ra cho tác giả luận án yêu cầu phải nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện hơn, hệ thống cả về phương diện lý luận cũng như hoạt động nghiệp vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam; việc tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh cả trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng cũng như trong thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao của ủy ban kiểm tra các cấp. Tình hình mới với những đặc điểm, hoàn cảnh mới tác động đến công tác kiểm tra, đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cũng là vấn đề, yêu cầu nhiệm vụ xuyên suốt mà luận án sẽ phải giải quyết.
  • 34. 31 Chương 2 THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng 2.1.1.1. Khái niệm về công tác kiểm tra của Đảng * Khái niệm kiểm tra Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét" [196, tr.523]. Từ điển Luật học nêu: kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét" [135, tr.265]. Còn theo Sách tra cứu các mục từ về tổ chức thì kiểm tra là: "Xem xét tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung hay một công tác cụ thể được giao của một cơ quan, đơn vị hoặc một người để đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc người đó" [126, tr.468]. Như vậy, kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ quan nhà nước, của tổ chức đảng, đoàn thể cấp trên đối với cấp dưới, của thủ trưởng hoặc người lãnh đạo đối với nhân viên dưới quyền. * Khái niệm kiểm tra của Đảng Theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI (ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương): Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
  • 35. 32 và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước [20, tr.02]. * Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Theo Từ điển Tiếng Việt, “công tác” được hiểu là “công việc của nhà nước hoặc của đoàn thể” [196, tr.48]. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị, một bộ phận trong hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn xã hội. Công tác kiểm tra của Đảng có thể được hiểu là: việc chủ thể kiểm tra thông qua thực hiện các phương pháp, hình thức, biện pháp để xem xét tình hình thực tế, nhận xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối tượng kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đưa ra những yêu cầu, kiến nghị với đối tượng kiểm tra, các tổ chức, cá nhân có liên quan theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra. Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thức về công tác kiểm tra của Đảng ở một số điểm cụ thể như sau: Một là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng. Điều lệ Đảng quy định tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Chủ thể kiểm tra là tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý. Đối tượng kiểm tra là tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền. Các tổ chức đảng vừa là chủ thể kiểm tra (có trách nhiệm tiến hành công tác kiểm tra), vừa là đối tượng kiểm tra (chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên). Do các tổ chức đảng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nên phạm vi trách nhiệm, nội dung, đối tượng, cách tiến hành kiểm tra của các tổ chức đảng được quy định cũng khác nhau.
  • 36. 33 Hai là, công tác kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là công tác xây dựng Đảng, sinh hoạt nội bộ Đảng, do các tổ chức đảng tiến hành căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền được Điều lệ Đảng quy định. Do đó, tiến hành công tác kiểm tra phải theo đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đúng tính chất công tác đảng, đúng tư tưởng chỉ đạo, phương pháp cơ bản tiến hành công tác kiểm tra, đúng phạm vi trách nhiệm của từng tổ chức đảng và đều phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công tác ấy. Ba là, qua việc thực hiện hệ thống các cách thức, biện pháp mà chủ thể và đối tượng kiểm tra phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, phải xem xét đúng tình hình thực tế khách quan; phát hiện ưu điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm, lệch lạc để uốn nắn, khắc phục, sửa chữa; làm rõ đúng sai, nhận xét, đánh giá chính xác có vi phạm hay không vi phạm để kết luận rõ ràng, một mặt để tiếp tục kiện toàn, củng cố, phát huy tổ chức và cá nhân, mặt khác để chấn chỉnh, xử lý kịp thời, nghiêm minh vi phạm; cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Bên cạnh đó, qua công tác kiểm tra, phát hiện những sơ hở, thiếu sót, bất cập trong các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý. 2.1.1.2. Vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng Một là, kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã khẳng định, lãnh đạo không chỉ là đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức thực hiện, bố trí cán bộ, động viên tư tưởng, mà còn phải kiểm tra, giám sát. Không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách, mà kiểm tra ngay từ chính Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách đó và kiểm tra cả các tổ chức tiến
  • 37. 34 hành kiểm tra nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc; vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng. V.I.Lênin đã khẳng định: khi đường lối, chính sách đã được xác định, phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và sự lãnh đạo phải "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện" [105, tr.450]. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích" [118, tr.520]. Đảng ta luôn xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Trong suốt quá trình hoạt động, Đảng không những luôn coi trọng, mà xác định kiểm tra là chức năng, nội dung lãnh đạo của Đảng. Công tác kiểm tra là khâu rất quan trọng vì nó là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan lãnh đạo và chỉ đạo. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền càng phải tăng cường công tác kiểm tra của Đảng. Hai là, kiểm tra là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn là đòi hỏi cấp thiết và có tính khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên, cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó, mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức” [118, tr.133]. Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận: công tác kiểm tra là “một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” [81, tr.122], là "một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện” [81, tr.123].
  • 38. 35 Ba là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng; là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên. Công tác kiểm tra là công tác đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, được tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định: "Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng, Bộ Chính trị và các ban thường vụ cấp uỷ, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng các ban để tổ chức thường xuyên nhiệm vụ kiểm tra" [82, tr.150-151]. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp phải chú trọng và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng. 2.1.2. Nội dung, phương pháp công tác kiểm tra của Đảng 2.1.2.1. Nội dung công tác kiểm tra Nội dung công tác kiểm tra của Đảng bao gồm kiểm tra việc thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng... - những vấn đề có tính nguyên tắc đã được Đảng xác định, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ, chấp hành và trở thành nội dung kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng cũng như nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng bao gồm nhiều vấn đề lớn, rất rộng. Mặt khác, do chức năng, nhiệm vụ và phạm vi kiểm tra của mỗi tổ chức đảng khác nhau nên khi tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng phải căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn kiểm tra của cấp mình và tình hình, đặc điểm, yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị trong từng thời gian và trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo của mình để xác định nội dung kiểm tra phù hợp.
  • 39. 36 Tóm lại, nội dung kiểm tra là kiểm tra việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng có quan hệ đến chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên. Mỗi tổ chức đảng phải căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình để xác định nội dung kiểm tra cụ thể, phù hợp. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể chính trị - xã hội cũng là một nội dung kỷ luật của Đảng, đương nhiên trở thành một nội dung kiểm tra đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. 2.1.2.2. Phương pháp công tác kiểm tra Phương pháp công tác kiểm tra của Đảng là hệ thống các cách thức tiến hành trong hoạt động kiểm tra của Đảng mà mọi tổ chức đảng và đảng viên (chủ thể, đối tượng) phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra. Khi tiến hành công tác kiểm tra, phải sử dụng đồng bộ, linh hoạt năm phương pháp cơ bản có mối quan hệ mật thiết, không tách rời của công tác kiểm tra đảng. Thứ nhất: Dựa vào tổ chức đảng Đây vừa là phương pháp cơ bản, vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng nói chung. Tổ chức đảng là cơ quan lãnh đạo, quản lý, giám sát, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới; nơi nắm vững tình hình, đặc điểm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; nơi tổ chức thực hiện và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, các kết luận kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên; là nơi chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng cấp trên về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình. Do đó, dựa vào tổ chức đảng quản lý đối tượng kiểm tra vừa có tính nguyên tắc vừa đảm bảo tính hiệu quả, thực tiễn của công tác kiểm tra. Có dựa vào tổ chức đảng và đảng viên, chủ thể kiểm tra mới hiểu rõ đặc điểm tình hình, điều kiện, hoàn cảnh, khó khăn,
  • 40. 37 thuận lợi, ưu điểm, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng kiểm tra để có cơ sở nhận xét, đánh giá, xem xét, kết luận một cách chính xác. Thứ hai: Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đội ngũ đảng viên bao gồm những phần tử tiên tiến, giác ngộ lý tưởng, giác ngộ giai cấp, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng; là những chiến sĩ cách mạng phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng. Đó là cơ sở tư tưởng và tổ chức để tổ chức đảng và đảng viên tự giác chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ được giao; tự giác tự kiểm tra và chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng có thẩm quyền. Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên cũng là một vấn đề có tính nguyên tắc. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng, chủ thể kiểm tra cần coi trọng và làm tốt công tác tư tưởng đối với đối tượng kiểm tra, dựa vào tính tự giác của đối tượng kiểm tra để giúp cho việc xem xét, kết luận được khách quan, chuẩn xác. Đồng thời, không ngừng xây dựng, phát huy và nâng cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình, tính chiến đấu của đối tượng kiểm tra là mục đích của công tác xây dựng Đảng. Đối với những trường hợp quanh co, giấu diếm sai lầm, khuyết điểm, cần kiên trì động viên, thuyết phục, kết hợp với đấu tranh phê bình và công tác thẩm tra, xác minh để làm rõ đúng sai, giúp việc kết luận và xử lý được chuẩn xác. Thứ ba: Phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không có mục đích tự thân, mục đích của Đảng là phụng sự Tổ quốc,
  • 41. 38 phụng sự nhân dân. Một trong những phương châm xây dựng Đảng là tổ chức, động viên quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Mọi hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên luôn được nhân dân quan tâm, nhận biết và giám sát, kiểm tra. Thực tiễn đã chứng minh có nhiều vụ việc tiêu cực xảy ra trong nội bộ Đảng là do nhân dân phát hiện và phản ảnh với tổ chức đảng có thẩm quyền. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng phải coi trọng việc phát huy tinh thần trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân. Những ý kiến nhân dân đóng góp đúng phải trân trọng tiếp thu, khuyến khích, cổ vũ; nếu có ý kiến chưa đúng phải giải thích để nhân dân hiểu rõ, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất giữa tổ chức đảng, đảng viên với quần chúng. Thứ tư: Làm tốt công tác thẩm tra, xác minh Một trong những yêu cầu cơ bản của công tác kiểm tra là phải làm rõ đúng, sai; đánh giá, kết luận đúng ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để có quyết định chính xác. Ngoài việc phải dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân, phải hết sức coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh chính là thực hiện tốt mối quan hệ giữa tự giác và bắt buộc trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng. Trong điều kiện tính tự giác, tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung, trong không ít tổ chức đảng và đảng viên nói riêng bị giảm sút, tính chiến đấu không cao, có nơi bị tê liệt, để làm rõ đúng sai, phải, trái, tìm ra chứng lý của vụ việc, làm rõ vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, đòi hỏi phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh.
  • 42. 39 Thứ năm: Khi tiến hành công tác kiểm tra, cần có sự phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng, thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và các đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan Một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng là phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp và phối hợp với các ban, ngành có liên quan của Đảng và Nhà nước. Đảng ta là đảng cầm quyền, có đặc điểm đảng viên vừa là thành viên của Đảng, vừa là công dân, là thành viên của tổ chức nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, nếu không có cơ chế phối hợp chặt chẽ, phù hợp, nhất là trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng đối với cán bộ, đảng viên của Đảng dễ dẫn đến tình trạng thiếu tập trung, thống nhất, chồng chéo, sơ hở, kiểm tra, giải quyết vụ việc không kịp thời, chính xác. Sự phối hợp trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng với công tác thanh tra nhà nước, thanh tra của đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức đảng trong khối nội chính đã trở thành tất yếu. Để công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng bảo đảm có chất lượng và hiệu quả, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật của Đảng với thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra với các ban của cấp uỷ, với tổ chức đảng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. 2.2. THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 2.2.1. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 2.2.1.1. Khái niệm thẩm tra trong công tác kiểm tra của Đảng Thẩm tra là "điều tra, xem xét lại có đúng, có chính xác không một vấn đề, một sự việc nào đó" [196, tr.922], hay diễn đạt một cách khác, là “điều tra, tìm hiểu để xem xét lại điều đã kết luận hoặc khai báo trước có đúng, có chính