Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ : https://www.facebook.com/thuvienluanvan01 https://www.facebook.com/thuvienluanvan01 https://www.facebook.com/thuvienluanvan01 tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Các vấn đề pháp lý về dịch vụ Logistics tại Việt Nam.pdf
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ MẠNH HƯNG
CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH – 2013 LKD
Hà Nội - 2017
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ MẠNH HƯNG
CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH – 2013 LKD
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Ths. Nguyễn Đăng Duy
Hà Nội -2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan báo cáo này là nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu
được sử dụng trong báo cáo có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình
lao động trung thực của tôi.
Người cam đoan
Vũ Mạnh Hưng
4. 1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................................3
DANH MỤC BẢNG BIỂU.......................................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS VÀ THƯƠNG NHÂN KINH
DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS.............................................................................7
1. TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS ............................................................................7
1.1. Khái niệm logistics...............................................................................................7
1.2. Phân loại logistics.................................................................................................9
2. DỊCH VỤ LOGISTICS VÀ THƯƠNG NHÂN KINH DOANH DỊCH VỤ
LOGISTICS ..............................................................................................................10
2.1. Khái niệm dịch vụ logistics................................................................................10
2.2 Phân loại dịch vụ logistics...................................................................................12
3. Vai trò của dịch vụ logistics..................................................................................15
3.1 Nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng
cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.............................................................15
3.2. Tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông phân phối.......................16
3.3. Gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận.................16
3.4. Mở rộng thị trường trong thương mại quốc tế ...................................................16
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS.....................................18
1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS.........18
1.1. Quy định về đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics ............................................18
1.2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm các bên trong quan hệ dịch vụ logistics.........20
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.................21
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.................................................................21
1. 3. Giới hạn trách nhiệm và các trường hợp miễn trách nhiệm của người làm dịch
vụ logistics ................................................................................................................22
1.3.1. Về giới hạn trách nhiệm ..................................................................................22
5. 2
1.3.2. Về các trường hợp miễn trách nhiệm ..............................................................24
2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
DỊCH VỤ LOGISTICS.............................................................................................25
3.CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS.......28
4.Các quy định của pháp luật nước ngoài cũng như kinh nghiệm trong công tác
quản lý nhà nước về dịch vụ Logistics......................................................................31
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTIC VIỆT NAM VÀ
CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS 34
1. THỰC TRẠNG CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM............................34
1.1.Thuận lợi trong hoạt động Logistics tại Việt Nam..............................................34
1.2.Những mặt yếu kém trong hoạt động Logistics tại Việt Nam ............................38
2. ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH
VỤ LOGISTICS TẠI VIỆT NAM ........................................................................45
2.1. Đánh giá các quy định pháp luật điều chỉnh dịch vụ Logistics của Việt Nam ..45
2.2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về dịch vụ Logistics............................48
2.2.2. Tiến hành rà soát, xem xét lại các văn bản pháp luật hiện hành.....................50
2.2.3.Pháp luật về dịch vụ Logistics cần viện dẫn, áp dụng các văn kiện pháp lý của
các tổ chức quốc tế chuyên ngành.............................................................................50
2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về dịch vụ Logistics ở
Việt Nam ...................................................................................................................50
KẾT LUẬN..............................................................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................55
6. 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Tiếng Anh Tiếng Việt
ASEAN
Association of
Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
CEPT
Chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung
CIF
Cost, Insurance and
Freight
Tiền hàng , bảo hiểm và
cước phí
EU European Union Liên minh Châu Âu
FCL Full Container Load
Vận chuyển hàng
nguyên container
FDI
Foreign Direct
Investment
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài
LCL
Less Than Container
Load
Vận chuyển hàng lẻ
container
MTO Make To Order Vận tải đa phương thức
TPP
Trans-Pacific Strategic
Economic Partnership
Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương
UNCTAD
United Nation
Conference on Trade and
Development
Hội nghị của Liên hiệp
quốc về thương mại và phát
triển
VIFFAS
Vietnam Freight
Forwarders Association
Hiệp hội giao nhận kho
vận Việt Nam
WTO
World Trade
Organization
Tổ chức thương mại thế
giới
7. 4
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2006-2015.............35
Bảng 3.2 Thực trạng các phương pháp đào tạo Logistics tại doanh nghiệp....42
8. 5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế.
Trong đó, quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh của các thương nhân được bảo vệ
và khuyến khích phát triển. Môi trường kinh doanh này đã tạo điều kiện cho sự sáng
tạo, chuyên môn hóa cũng như thúc đẩy việc hình thành những lĩnh vực, ngành
nghề kinh doanh mới. Trong những ngành nghề kinh doanh mới không thể không
nhắc đến dịch vụ Logistics. Logistics ra đời khi nền sản xuất hàng hóa và thương
mại đã phát triển đến một mức độ nhất định. Theo đó, một số thương nhân nhận ra
rằng việc tự mình thực hiện tất cả các công đoạn từ sản xuất đến vận chuyển lưu
thông hàng hóa đến tay người tiêu dùng có thể không đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Một số thương nhân có điều kiện về trang thiết bị cơ sở vật chất cũng như kinh
nghiệm trong việc vận chuyển hàng hóa đã cung cấp dịch vụ này cho các thương
nhân khác để việc lưu thông hàng hóa được thuận lợi hơn. Sử dụng một số dịch vụ
vận chuyển, đóng gói hàng hóa của thương nhân nêu trên cũng giúp cho một số
thương nhân chỉ cần tập trung vào việc sản xuất, cải tiến hay duy trì chất lượng sản
phẩm hàng hóa của mình. Dịch vụ Logistics ra đời đã giúp cho việc lưu thông hàng
hóa diễn ra thuận lợi không chỉ trong phạm vi một quốc gia đơn lẻ mà còn trên
phạm vi khu vực hay toàn thế giới.
Trong thời buổi toàn cầu hóa hiện nay, kinh doanh dịch vụ Logistics là lĩnh vực
hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển. Thực tế thời gian qua, dịch vụ Logistics đã
chứng minh sự nổi trội tạo ra các giá trị lợi ích cho khách hàng trong nhu cầu về vận
tải đa phương thức, giao nhận kho vận…
Ở Việt Nam, Logistics là một ngành dịch vụ còn khá mới nhưng trong tương lai
sẽ có những đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân, mở ra những cơ hội
mới cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm là các
doanh nghiệp Việt Nam đang hoàn toàn lép vế trước các đối thủ cạnh tranh đến từ
nước ngoài. Có thể có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng trong đó
phải kế đến một trong những nguyên nhân chính là những thiếu sót, bất cập trong
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh hoạt động Logistics.
9. 6
Vì vậy, làm rõ nguyên nhân và hướng đến những giải pháp hoàn thiện pháp luật
Việt Nam để tạo điều kiện cho doanh nghiệp Logistics Việt Nam phát triển, tăng
sức cạnh tranh là việc làm cần thiết. Đây cũng là lý do em chọn đề tài “Các vấn đề
pháp lý về dịch vụ Logistics tại Việt Nam” là đề tài nghiên cứu khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về Logistics ở Việt Nam,
khóa luận hệ thống các chế định pháp lý cơ bản điều chỉnh dịch vụ Logistics, đồng
thời chỉ ra những bất cập, chưa hoàn thiện của pháp luật về dịch vụ Logistics và đưa
ra định hướng, các giải pháp cụ thể hoàn thiện các quy định pháp luật Logistics góp
phần tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành dịch vụ Logistics ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khóa luận đưa ra những nét khái quát nhất về dịch vụ Logistics, sau đó đi sâu
nghiên cứu dịch vụ Logistics dưới góc độ các vấn đề pháp lý, cụ thể là trong các
quy định của pháp luật Việt Nam và có tham khảo các quy định của một số nước
khác trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Khi nghiên cứu, tác giả có sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng và phương pháp tổng hợp, phân tích để rút ra kết luận và đi đến
đánh giá tổng quát .
5. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng
biểu, bảng ký hiệu viết tắt, kết cấu của khóa luận gồm ba chương:
Chương 1 Tổng quan về Logistics và thương nhân kinh doanh dịch vụ
Logistics
Chương 2 Pháp luật về dịch vụ Logistics
Chương 3 Thực trạng ngành dịch vụ Logistics Việt Nam và các kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về dịch vụ Logistics
10. 7
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS VÀ THƯƠNG NHÂN KINH
DOANH DỊCH VỤ LOGISTICS
1. TỔNG QUAN VỀ LOGISTICS
1.1. Khái niệm logistics
Bước vào thế kỷ XX, nhờ việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đặc biệt là
các thành tựu trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã giúp việc sản xuất của cải vật
chất của xã hội đạt được năng suất cao.Tuy nhiên muốn tối ưu hóa quá trình sản
xuất đồng thời giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên
thị trường thì cần hoàn thiện hệ thống quản lý phân phối vật chất để giảm tới mức
thấp nhất thiệt hại do tồn kho, tồn đọng nguyên vật liệu, bán thành phẩm trong quá
trình sản xuất và lưu thông. Hệ thống phân phối vật chất này được gọi là
Logistics.[17,20]
Thuật ngữ logistics là một thuật ngữ quân sự đã xuất hiện từ vài trăm năm
trước. Nó lần đầu tiên được sử dụng trong quân đội và mang nghĩa là “hậu cần”
hoặc “tiếp vận” . Tướng Chauncey B.Baker, tác giả cuốn “Transportation of Troop
and Merterial” nhà xuất bản Hudson thành phố Kansas có viết: “Một nhánh trong
nghệ thuật chiến đấu có liên quan đến việc di chuyển và cung cấp lương thực thực
phẩm, trang thiết bị cho quân đội và được gọi dưới cái tên “ Logistics ”. Trong suốt
thế chiến thứ II, lực lượng quân đội các nước tham chiến đều sử dụng phương thức
Logistics rất hiệu quả, đảm bảo hậu cần cho lực lượng chiến đấu. Ngày nay, thuật
ngữ Logistics tiếp tục được sử dụng rộng rãi cả trong và ngoài quân đội.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, Logistics được nghiên cứu chuyên
sâu và áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, kinh doanh. Thuật
ngữ Logistics ngày nay được hiểu với nghĩa quản lý (Management) hệ thống phân
phối vật chất của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong xã hội. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có bất kỳ định nghĩa đầy đủ nào về Logistics. Khái niệm Logistics
được đưa ra dựa trên nhiều góc độ nghiên cứu. Sau đây là một số khái niệm về
Logistics:
Theo hội đồng quản trị Logistics Mỹ - 1988 : Logistics là quá trình lên kế
hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và
11. 8
lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho, thành phẩm và các thông tin liên quan từ
điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu cầu của khách
hàng .[30,10]
Logistics được Uỷ Ban Quản Lý Logistics của Mỹ định nghĩa như sau:
Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản
lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời
gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ
giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để
đáp ứng yêu cầu của khách hàng .[30,11]
Luật Thương Mại Việt Nam 2005 không đưa ra khái niệm “ Logistics” mà đưa
ra khái niệm “dịch vụ logistics” tại Điều 233:
“ Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì,
ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo
thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo
tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stíc “.
Qua các khái niệm trên, chúng ta có thể thấy cho dù có sự diễn đạt khác nhau về
từ ngữ, cách trình bày, nhưng trong nội dung tất cả tác giả đều cho rằng Logistics là
hoạt động quản lý dòng lưu chuyển của nguyên vật liệu từ khâu mua sắm qua quá
trình lưu kho, sản xuất ra sản phẩm và phân phối tới tay người tiêu dùng. Mục đích
là để giảm tối đa chi phí phát sinh hoặc sẽ phát sinh với thời gian ngắn nhất trong
quá trình vận chuyển của nguyên vật liệu phục vụ quán trình sản xuất cũng như
phân phối hàng hóa một cách kịp thời.[17,22]
Như vậy chúng ta có thể hiểu Logistics như sau: Logistics là nghệ thuật tổ chức
sự vận động của hàng hóa, nguyên vật liệu từ khi mua sắm, qua các quá trình lưu
kho, sản xuất, phân phối cho đến khi đưa được đến tay người tiêu dùng.
Cho đến nay, Logistics chưa được dịch sang Tiếng Việt nên thuật ngữ này được
dùng như một từ mượn tại Việt Nam. Bởi, chưa có quan điểm chung thống nhất và
Logistics bao gồm nhiều loại hình dịch vụ và việc liệt kê đầy đủ các dịch vụ
Logistics đều chưa thỏa đáng.[17,22]
12. 9
1.2. Phân loại logistics
Logistics là một phạm trù rất rộng , nó bao trùm nhiều lĩnh vực và được phân
loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau .
1.2.1 Theo hình thức
- Logistics bên thứ nhất (1PL – First Party Logistics ): Người chủ sở hữu hàng
hóa tự mình tổ chức các hoạt động Logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân.
- Logistics bên thứ 2 (2PL – Second Party Logistics ): Người cung cấp dịch vụ
Logistics bên thứ 2 là người cung cấp dịch vụ cho các hoạt động đơn lẻ trong chuỗi
các hoạt động Logistics (như vận tải, kho bãi, thủ tục hải quan, thanh toán ) để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng .
- Logistics bên thứ 3 (3PL – Third Party Logistics ): Người này thay mặt cho
chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ Logistics cho từng bộ phận chức năng.
- Logistics bên thứ 4 (4PL – Forth Party Logistics ): là người tích hợp , gắn kết
các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật của mình với các tổ
chức khác để thiết kế, xây dựng, vận hành các giải pháp chuỗi Logistics .
- Logistics bên thứ 5 (5PL – Fifth Party Logistics ): Đã được nhắc đến trong
những năm gần đây. Đây là hình thức phát triển cao hơn của Logistics bên thứ tư đi
cùng với sự phát triển của thương mại điện tử.
1.2.2 Theo phạm vi
Được phân chia làm 4 loại sau : [29,8]
- Logistics trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh (Business Logistics ): Mỗi lĩnh
vực kinh doanh, đối tượng hàng hóa cụ thể sẽ có các cách thức bảo quản, vận
chuyển, quản lý hàng khác nhau. Do đó, chuỗi Logistics của mỗi đối tượng đó lại có
những đặc điểm riêng. Chẳng hạn :
+ Logistics hàng tiêu dùng nhanh (FMCG – Fast Moving Consumer Goods):
Với loại hàng hóa này yêu cầu quan trọng nhất là đảm bảo thời gian giao hàng, thời
gian từ khi hàng được sản xuất ra đến khi tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
+ Logistics ngành ô tô (Aumotive Logistic): Ngành này đòi hỏi sự liên kết phối
hợp nhịp nhàng giữa các nhà máy, bộ phận sản xuất các chi tiết phụ tùng riêng lẻ,
đảm bảo thời gian cuối cùng của công đoạn này là thời gian đầu của công đoạn sau,
13. 10
tránh thời gian chờ đợi. Đặc biệt quan trọng là việc dự trữ và phân phối phụ tùng
thay thế.
+ Ngoài ra còn có các loại như: Logistics ngành hóa chất (Chemical Logistics);
Logistics ngành dược phẩm (Pharmaceutical Logistics ); Logistics dầu khí
(Petroleum Logistics )...
- Logistics quân sự (Military Logistics ): Hoạch định, hợp nhất mọi phương
diện của sự hỗ trợ cho khả năng tác chiến của quân đội (trong việc khiển trai quân
đội hoặc đóng quân) và các thiết kế bị quân sự bảo đảm sẵn sàng , tin cậy và hiệu
quả. Nhiều tài liệu nêu hoạt động của đường mòn Hồ Chí Minh như là một điển
hình của Logistics trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
- Logistics sự kiện (Event Logistics ): Một mạng gồm các hoạt động, phương
tiện và con người cần thiết để tổ chức, lập kế hoạch và triển khai các nguồn lực trên
cho một sự kiện diễn ra và kết thúc một cách hiệu quả .
- Logistics dịch vụ (Service Logistics ): Cung cấp, lên kế hoạch và quản trị các
phương tiện/ vốn liếng, nhân lực và vật tư để hỗ trợ hoặc đảm bảo cho một tác
nghiệp dịch vụ hoặc kinh doanh .
1.2.3 Theo lĩnh vực
- Logistics đầu vào (Inbound Logistics): là hoạt động đảm bảo cung ứng tài
nguyên đầu vào (nguyên liệu, thông tin, vốn ...) cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian, chi phí.
- Logistics đầu ra (Outbound Logistics) : là các hoạt động đảm bảo cung cấp
thành phần đến tay người tiêu dùng một cách tốt đẹp cả về vị trí, thời gian và chi
phí nhằm đáp ứng các mục tiêu của doanh nghiệp.
- Logistics ngược (Reverse Logistics): là quá trình thu hồi các phụ phẩm, phế
liệu, phế phẩm, các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường phát sinh từ quá trình sản
xuất, phân phối và tiêu dùng trở về để tái chế hoặc xử lý.[29, 8 ]
2. DỊCH VỤ LOGISTICS VÀ THƯƠNG NHÂN KINH DOANH DỊCH VỤ
LOGISTICS
2.1. Khái niệm dịch vụ logistics
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, khối lượng hàng hóa và sản phẩm vật
14. 11
chất được sản xuất ra ngày một nhiều. Do khoảng cách trong các lĩnh vực cạnh
tranh truyền thống như chất lượng hàng hóa hay giá cả ngày càng thu hẹp, các nhà
sản xuất đã chuyển sang cạnh tranh trên các phương diện khác như: quản lý hàng
tồn kho, tốc độ giao hàng, hợp lý hóa quá trình lưu chuyển nguyên nhiên vật liệu và
bán thành phẩm,... trong đó có cả hệ thống quản lý phân phối vật chất của doanh
nghiệp. Trong quá trình ấy, Logistics chỉ đơn thuần được coi là một phương thức
kinh doanh mới, có tiềm năng phát triển và mang lại hiệu quả sản xuất cho doanh
nghiệp. Theo thời gian Logistics đã được chuyên môn hóa và phát triển để trở thành
một trong những ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc
tế.[21]
Khái niệm về dịch vụ Logistics lần đầu tiên được pháp điển hóa trong bộ luật
Thương mại 2005: “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương
nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng , vận chuyển,
lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng
gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng
hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”. Tuy vẫn còn xuất hiện nhiều
quan điểm khác nhau nhưng các khái niệm về dịch vụ Logistics có thể chia làm hai
nhóm :
- Nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương mại 2005
có nghĩa hẹp, coi Logistics gần tương tự với hoạt động giao nhận hàng hóa. Tuy
nhiên cũng cần chú ý định nghĩa trong Luật Thương mại có tính mở, thể hiện trong
đoạn in nghiêng “ hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa”. Khái niệm
Logistics trong một số lĩnh vực chuyên ngành cũng được coi là nghĩa hẹp, tức là chỉ
bó hẹp trong phạm vi, đối tượng của ngành đó (như ví dụ trong lĩnh vực quân sự).
Theo quan điểm này, bản chất của dịch vụ Logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ
trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Như vậy,
dịch vụ Logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch vụ Logistics theo
khái niệm này không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa
phương thức (MTO).
- Nhóm định nghĩa có phạm vi rộng: Theo quan điểm này, dịch vụ Logistics gắn
liền với cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất
15. 12
, sản xuất ra hàng hóa đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để đến tay người tiêu
dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này của dịch vụ Logistics góp phần phân định rõ
ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai
hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tư vấn quản lý... với một nhà cung cấp
dịch vụ Logistics chuyên nghiệp, người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá
trình hình thành và đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà
cung cấp dịch vụ Logistics chuyên nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng để cung cấp dịch vụ mang tính trọn gói cho các nhà sản xuất. Có thể nói
đây là công việc có tính chuyên môn hóa cao.[21]
2.2 Phân loại dịch vụ logistics
2.2.1 Theo phân loại của WTO
- Dịch vụ Logistics theo lõi (Core Logistics Service): Dịch vụ thiết yếu trong
hoạt động Logistics và cần phải tiến hành tự do hóa để thúc đẩy sự lưu chuyển dịch
vụ bao gồm: dịch vụ làm hàng, dịch vụ lưu kho, dịch vụ đại lý vận tải và các dịch
vụ hỗ trợ khác.
- Dịch vụ có liên quan tới vận tải: Các dịch vụ có liên quan tới cung cấp có hiệu
quả dịch vụ Logistics tích hợp cũng như cung cấp môi trường thuận lợi cho hoạt
động của Logistics bên thứ 3 phát triển gồm có vận tải hàng hóa (đường biển,
đường thủy nội địa, hàng không, đường sắt, đường bộ và cho thuê phương tiện
không có người vận hành) và các dịch vụ khác có liên quan tới dịch vụ Logistics
gồm dịch vụ phân tích và thử nghiệm kỹ thuật, dịch vụ chuyển phát, dịch vụ đại lý
hoa hồng, dịch vụ bán buôn và bán lẻ.
- Dịch vụ thứ yếu hoặc mang tính bổ trợ (Non-core Logistics Service): gồm dịch
vụ máy tính và liên quan tới máy tính, dịch vụ đóng gói và dịch vụ tư vấn quản lý.
2.2.2 Theo quy định của Luật Thương Mại
Theo Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam 2005, dịch vụ Logistics được quy
định cụ thể như sau :
- Các dịch vụ Logistics chủ yếu bao gồm :
+ Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp containẻ.
+ Dịch vụ kho bãi, lưu trữ hàng hóa bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi
container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị.
16. 13
+ Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và
lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa
+ Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm các hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi
Logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa, hàng hóa tồn kho, hàng bị trả lại, lỗi mốt và
tái phân phối; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
- Các dịch vụ Logistics liên quan đến vận tải bao gồm :
+ Dịch vụ vận tải hàng hải
+ Dịch vụ vận tải thủy nội địa
+ Dịch vụ vận tải hàng không
+ Dịch vụ vận tải đường sắt.
+ Dịch vụ vận tải đường bộ .
+ Dịch vụ vận tải đường ống
- Các dịch vụ liên quan khác
+ Dịch vụ kiểm tra, phân tích kỹ thuật.
+ Dịch vụ bưu chính
+ Dịch vụ thương mại bán buôn.
+ Dịch vụ bán lẻ bao gồm hoạt động quản lý hàng kho, thu gom, tập hợp, phân
loại, phân phối và giao hàng,
+ Dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
Cách phân loại này phù hợp với Biểu cam kết về dịch vụ vận tải của Việt Nam
với WTO nhưng lại chưa thể hiện được những loại hình dịch vụ hiện đại trong điều
kiện hiện nay.[18,21]
2.2.3 Theo nội dung dịch vụ
- Nhóm dịch vụ thiết kế và hoạch định chiến lược Logistics cho các doanh
nghiệp (Designing/Planning): Cung cấp dịch vụ Logistics tiến hành thiết kế kế
hoạch cơ cấu lại dây chuyền cung ứng của khách hàng sao cho đạt kết quả tối ưu và
phát huy tối đa các lợi thế trong cạnh tranh. Ở đây, các công ty cung cấp dịch vụ
Logistics sẽ dựa trên thực trạng tổ chức sản xuất của khác hàng để xây dựng một
chuỗi cung ứng phù hợp, xây dựng quy trình sản xuất hợp lý, đảm bảo giảm tối đa
thời gian, chi phí không cần thiết .
17. 14
- Nhóm dịch vụ Logistics đầu vào (Inbound Logistics), bao gồm :
+ Kitting: quản lý công đoạn lựa chọn, đóng góp và chuyên chở các bộ phận
linh kiện chưa qua lắp ráp tới dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp.
+ Quality control / Quality assurance: Tiền hành kiểm tra chất lượng tại kho và
loại bỏ các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chuyên chở ngược lại cho nhà sản xuất
thay thế các linh kiện không đảm bảo chất lượng.
+ Sequencing : Sắp xếp các bộ phận, vật tư cho một dây chuyền sản xuất theo
thứ tự cụ thể để tiện sản xuất và đóng gói.
+ Milk runs: Tối ưu hóa dòng vận chuyển hàng hóa bằng cách gom hàng và
giao hàng cho nhiều khách hàng trong cùng một thời điểm. Thiết kệ lộ trình phức
hợp với nhiều điểm bốc xếp, kết hợp nhiều đơn hàng từ nhiều khách hàng tại cùng
một thời điểm . Mục đích là sử dụng tối đa năng lực chuyên chở của phương tiện và
tiết kiệm chi phí vận tải .[29]
+ VIM (Vendor Inventory Management ): Tiến hành gom hàng từ nhiều nhà
cung cấp nhỏ lẻ những mặt hàng hay vật tư cần thiết cho quá trình sản xuất kinh
doanh của khách hàng, lưu kho và phân phối tới khách hàng.
- Nhóm dịch vụ hỗ trợ sản xuất (Manufacturing Support), bao gồm :
+ Sub – Assembly: Áp dụng đối với các ngành điện tử, ô tô, hàng tiêu dùng
nhanh. Công ty Logistics sẽ đảm nhận luôn công việc lắp ráp các bộ phận cơ bản
của sản phẩm từ các linh kiện đơn lẻ.
+ Inventory Planning: Lên kế hoạch và kiểm soát quá trình lưu kho với các hệ
thồng quản lý kho hiện đại nhất đảm bảo tối ưu lượng dự trữ và giảm thiểu chi phí .
+ Packing/ Labeling: Đóng gói và dán nhãn hàng hóa.
- Nhóm dịch vụ Logistics đầu ra (Outbond Logistics/Warehousing and
Distribution) : Với hệ thống kho hiện đại và quy mô lớn, các công ty Logistics có
thể đảm nhiệm lưu kho thành phẩm và phân phối tới tay người tiê dùng với chi phí
thấp. Ngoài ra để phù hợp theo yêu cầu của khách hàng , các công ty này còn cung
cấp một số dịch vụ kho đặc biệt như: Contract warehousing (Kho thuê hợp đồng);
Dedicated warehousing (Kho chuyên dụng); Multi-user warehousing (Kho công
cộng); Bonded warehousing (Kho ngoại quan), Automated warehousing (Kho tự
động); Cross-docking warehousing (Kho đa năng).
18. 15
- Nhóm dịch vụ giao nhận vận tải và gom hàng liên quan tới toàn bộ dòng lưu
chuyển của vật tư và hàng hóa , bao gồm :
+ Ocean/Air freight (vận tải đường biển, đường hàng không): Vận chuyển hàng
nguyên container (FCL), hàng lẻ (LCL), hàng không.
+ Dedicated contract carriage (chuyên chở hàng hóa theo hợp đồng chuyên
dụng ).
+ Intermodal service (Vận tải đa phương thức).
+ Merge – in – Transit : áp dụng cho các công ty nhập bộ phận hoàn chỉnh từ
nhiều nhà cung cấp, công ty Logistics sẽ kết hợp đầu tư vào và đầu ra của dây
chuyền cung ứng một cách ăn khớp và hiệu quả, tiến hành lắp ráp thành sản phẩm
cuối cùng và giao trực tiếp cho khách hàng .
+ Customer Service (Dịch vụ khách hàng).
- Nhóm dịch vụ sau bán hàng (Aftermarket Logistics ): có thể giúp khách hàng
quản lý các yếu tố phát sinh sau giao dịch, bao gồm một số dịch vụ :
+ Return Logistics : quản lý quá trình thu hồi các hàng phế phẩm, tái chế hoặc
hủy bỏ giúp khách hàng.
+ Repair Logistics: tiếp nhận và sửa chữa thành phẩm hoặc bộ phận.
+ Revers Logistics: Thiết kế và quản lý dòng vật liệu hoặc thiết bị không sử
dụng ngược trở lại dây chuyền cung ứng.
+ Call center: tiếp nhận đơn hàng và đăng ký giao hàng giúp khách hàng
- Dịch vụ Logistics hàng đầu (Lead Logistics Provider): thay mặt khách hàng
quản lý toàn bộ chuỗi cung ứng hoặc khi cần thiết thuê lại dịch vụ của một số công
ty Logistics khác, khách hàng chỉ phải giao dịch vói một nhà cung cấp dịch vụ duy
nhất .
3. Vai trò của dịch vụ logistics
3.1 Nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất,
tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp
Logistics giúp giảm chi phí trong sản xuất, quá trình sản xuất kinh doanh tinh
giản, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao, từ đó tăng sức cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường [19]
19. 16
3.2. Tiết kiệm và giảm chi phí trong hoạt động lưu thông phân phối
Gía cả của hàng hóa bằng giá cả sản xuất cộng với chi phí lưu thông. Chi phí
vận tải chiếm một phvài ần không nhỏ trong bộ phận cấu thành giá cả hàng hóa trên
thị trường. Theo số liệu thống kê của UNCTAD thì chi phí vận tải đường biển
chiếm trung bình 10-15% giá FOB, hay 8-9% giá CIF, mà vận tải là yếu tố quan
trọng nhất trong hệ thống logistics vậy nên khi dịch vụ logistics ngày càng hoàn
thiện và phát triển nó sẽ tiết kiệm cho chi phí vận tải, góp phần giảm chi phí lưu
thông và các chi phí liên quan khác [19]
3.3. Gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải giao nhận
Dịch vụ logistics là loại hình dịch vụ có quy mô mở rộng và phức tạp hơn so
với hoạt động kinh doanh vận tải thuần túy. Trước đây, việc kinh doanh vận tải chỉ
bao gồm hoạt động cung cấp hàng hóa từ tay người bán đến tay người mua. Đến
nay, khi kinh tế phát triển với xu hướng toàn cầu hóa, quá trình hình thành sản
phẩm có thể trải qua nhiều giai đoạn bởi nhiều quốc gia cùng thực hiện sản xuất,
hơn thế nữa xu hướng toàn cầu hóa giữa các nền kinh tế mở giúp sản phẩm có thể
tiêu thụ tại nhiều quốc gia, nhiều thị trường. Vậy nên dịch vụ kinh doanh vận tải
không chỉ đơn giản dừng lại ở việc vận chuyển sản phẩm từ tay người bán đến tay
người mua trong một quốc gia nữa, mà đã phát triển lên một tầm cao mới để phù
hợp và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Doanh nghiệp vận tải nay
đã cung cấp dịch vụ logistics, từ đó góp phần làm gia tăng giá trị kinh doanh của
các doanh nghiệp vận tải. Theo kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy, thông
qua việc sử dụng dịch vụ logistics trọn gói, các doanh nghiệp sản xuất có thể rút
ngắn thời gian từ lúc nhận đơn hàng đến lúc giao sản phẩm cho khách từ tối thiểu 5
tháng xuống còn 2 tháng. Hiệu suất kinh doanh của doanh nghiệp vận tải cao gấp 4
lần sản xuất và gấp 2 lần các dịch vụ ngoại thương khác. [19]
3.4. Mở rộng thị trường trong thương mại quốc tế
Để đạt được lợi nhuận tối đa qua thời gian, các doanh nghiệp cần không ngừng
mở rộng, phát triển quy mô hoạt động sản xuất cũng như mở rộng thị trường tiêu
thụ. Từ đó , dịch vụ logistics trở thành cây cầu nối giữa doanh nghiệp sản xuất và
thị trường tiêu thụ mới trong việc chuyển dịch hàng hóa đúng yêu cầu về thời gian
20. 17
và địa điểm. Sự phát triển của dịch vụ Logistics ảnh hưởng lớn đến việc khai thác
và mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp [19]
3.5. Góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh
doanh quốc tế
Thực tế cho thấy, một giao dịch trong thương mại quốc tế thường liên quan đến
chứng từ, giấy tờ. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, chi phí liên quan đến các loại
chứng từ, giấy tờ này trên thế giới hàng năm là hơn 420 tỷ USD. Cũng theo nghiên
cứu của các chuyên gia, nó chiếm tới hơn 10% kim ngạch mậu dịch quốc tế, ảnh
hưởng rất lớn tới hoạt động thương mại quốc tế. Ngành dịch vụ logistics xuất hiện
đã giảm được nhiều chi phí cho các loại chứng từ, giấy tờ kèm theo này thông qua
việc nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ, giảm khối lượng công việc văn phòng trong
lưu thông hàng hóa, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả trong thương mại quốc tế.
Ngoài ra, sự phát triển của logistics điện tử trong tương lai sẽ tạo ra cuộc cách mạng
trong ngành dịch vụ vận tải, thu hẹp những khó khăn, thách thức về mặt đía lý trong
dòng lưu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa. [19]
21. 18
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
So với Điều 9 Luật Thương mại năm 1997 về “ dịch vụ giao nhận hàng hóa “
thì về cơ bạn, Luật Thương mại năm 2005 không có thay đổi nhiều. Tuy về nội
dung có điểm đáng lưu ý :
- Đổi tên mục là dịch vụ Logistics .
- Mở rộng khái niệm giao nhận hàng hóa tương đương với khái niệm dịch vụ
Logistics .
1.1. Quy định về đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics
1.1.1. Điều kiện chung
Thương nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ Logistics cũng giống
như những thương nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh các dịch vụ khác đều
phải tuân theo những quy định chung tại chương II Luật doanh nghiệp năm 2014 về
“ thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh “ ( Điều 18 và 19 Luật Doanh
nghiệp năm 2005 )
1.1.2. Quy định đặc thù
Theo Điều 234 Luật Thương mại năm 2005 quy định về “ Đăng ký kinh doanh
dịch vụ Logistics “ :
- Thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics là doanh nghiệp có đủ điều kiện
kinh doanh dịch vụ Logistics theo quy định của pháp luật .
- Chính phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics .
Từ những quy định chung đó, Nghị định 140/2007/NĐ – CP đã hướng dẫn cụ thể :
a. Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics trong nước, điều kiện cụ thể :
+) 1. Là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt
Nam ( khoản 1 Điều 5 , 6 và 7 ).
+) Các dịch vụ Logistics chủ yếu, bao gồm : Dịch vụ bốc xếp hàng hóa , bao
gồm cả hoạt động bốc xếp container ; dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa , bao
gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu , thiết bị ;
dịch vụ đại lý vận tải , bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế
hoạch bốc dỡ hàng hóa ; dịch vụ bổ trợ khác ,bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu
22. 19
kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt
cả chuỗi Logistics ; hoạt động xử lý hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn
kho , hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó ; hoạt động cho thuê
và thuê mua container (khoản 1 Điều 4 ).
Có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn, kỹ thuật và có
đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu ( khoản 2 Điều 5 ).
+) Các dịch vụ Logistics liên quan đến vận tải, bao gồm: Dịch vụ vận tải hàng
hải; Dịch vụ vận tải thủy nội địa, Dịch vụ vận tải hàng không, Dịch vụ vận tải
đường sắt, Dịch vụ vận tải đường bộ, Dịch vụ vận tải đường ống ( khoản 2 Điều 4 )
Tuân thủ các điều kiện về kinh doanh vận tải theo quy định của pháp luật Việt
Nam ( khoản 2 Điều 6 ).
Cụm từ “Đăng ký kinh doanh hợp pháp theo pháp luật Việt Nam” được hiểu là
doanh nghiệp đó đã tuân thủ những quy định chung về đăng ký kinh doanh theo
LDN. Các dịch vụ Logistics chủ yếu và các dịch vụ Logistics liên quan đến vận tải
yêu cầu thương nhân phải đáp ứng những điều kiện mang tính đặc trưng của nó.
Những dịch vụ Logistics chủ yếu như : dịch vụ bốc xếp hàng hóa, dịch vụ kho bãi
và lưu giữ, dịch vụ đại lý vận tải, dịch vụ bổ trợ khác đóng vai trò quan trọng và đặc
trưng công việc có liên quan đến kho bãi, bốc dỡ đòi hỏi thương nhân kinh doanh
phải có đủ phương tiện, thiết bị chuyên môn để đảm bảo an toàn lao động và bảo
đảm cho công việc được thực hiện .[19,25]
b.Đối với những thương nhân nước ngoài .
Thương nhân nước ngoài muốn kinh doanh dịch vụ Logistics phải đáp ứng
được các điều kiện Quy định tại khoản 2, 3 Điều 5 và 6 Nghị định số 140/2007/
NĐ-CP.
Từ những quy định dành riêng cho các nhà cung cấp dịch vụ Logistics nước
ngoài nêu trên có thể nhận thấy trong quá trình hội nhập, Việt Nam đang mở cửa
cho thương nhân nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ này, tuy nhiên vẫn còn
những thận trọng thể hiện qua tỷ lệ phần trăm góp vốn còn hạn chế, có những lĩnh
vực không được phép đầu tư, mô hình công ty được phép thành lập không toàn
diện.[19,25]
Có thể đưa ra một số nguyên nhân như sau :[19,26]
23. 20
- Do đây là lĩnh vực còn mới ở nước ta nên các doanh nghiệp trong nước chưa
có nhiều kinh nghiệm và dày dạn chuyên môn để cạnh tranh, do đó nếu mở cửa
hoàn toàn thì khả năng bị các doanh nghiệp nước ngoài lấn át, chiếm lĩnh thị trường
là rất cao.
- Sự hạn chế trong hình thức doanh nghiệp cũng là một trong những nguyên
nhân. Trong nhiều trường hợp, chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập dưới
mô hình liên doanh như trường hợp kinh doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hóa trong dịch
vụ Logistics chủ yếu mà không cho các thương nhân nước ngoài thành lập doanh
nghiệp 100% vốn, lý do là để đảm bảo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
nước được tham gia vào dịch vụ Logistics .
- Sự hạn chế trong tỷ lệ góp vốn của doanh nghiệp nước ngoài với việc thành
lập công ty liên doanh từ 49% đến không quá 51% là nhằm tạo điều kiện cho doanh
nghiệp Việt Nam không bị lép vế trước doanh nghiệp nước ngoài sở hữu dồi dào cả
về nguồn vốn cũng như kinh nghiệm.
- Có những lĩnh vực kinh doanh luật không cho phép đầu tư: không được kinh
doanh dịch vụ kiểm định và giấy chứng nhận cho phương tiện vận tải ( điểm a ,
khoản 2 Điều 7 Nghị định 140/2007/NĐ-CP ). Lý do vì đây là những dịch vụ quan
trọng và ảnh hưởng đến quy định của pháp luật, liên quan đến yếu tố chính chị và
các chính sách của Nhà nước .
- Logistics hiện tại vẫn còn là một ngành dịch vụ khá mới nên cần có sự bảo trợ
của Nhà nước để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và cạnh tranh. Tuy nhiên, việc hạn
chế góp vốn khi thành lập các doanh nghiệp liên doanh phần lớn sẽ dần dỡ bỏ kể từ
năm 2014 khi Việt Nam đã gia nhập WTO
1.2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm các bên trong quan hệ dịch vụ logistics
Bản chất của hoạt động dịch vụ là sự thỏa thuận , bên cạnh quyết định cho các
bên quyền tự do thỏa thuận, quyền thỏa thuận áp dụng luật nước ngoài và tập quán
thương mại, Luật Thương mại năm 2005 có quy định quyền và nghĩa vụ các bên
nếu các bên không thỏa thuận cụ thể. Những quy định khung này là cơ sở để đảm
bảo quyền cơ bản của các bên trong quan hệ dịch vụ Logistics được quy định tại
mục 2 chương III (Luật Thương mại năm 2005) : Quyền và nghĩa vụ của các bên
24. 21
trong hoạt động dịch vụ từ Điều 78 đến Điều 87 cụ thể hơn ở mục 4 chương IV “
Dịch vụ Logistics “ từ Điều 235 đến Điều 240.
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán tiền thu lao và các khoản chi phí hợp lý khác,
người làm dịch vụ Logistics có quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa. Theo quy
định tại Điều 239 Luật Thương mại năm 2005 thì người làm dịch vụ giao nhận hàng
hóa có quyền cầm giữ số hàng hóa để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách hàng. Tuy
nhiên quyền cầm giữ chi phí phát sinh khi có các điều kiện sau :
- Thứ nhất, khách hàng không thanh toán số nợ đến hạn như khoản thù lao dịch
vụ và chi phí hợp lý khác v.v..;
- Thứ hai, chỉ được cầm giữ số lượng hàng hóa có giá trị tương đương với giá
trị nợ mà khách hàng chưa thanh toán;
- Thứ ba, người làm dịch vụ phải thông báo bằng văn bản ngay cho khách hàng
về việc cầm giữ hàng hóa.
Sau khi cầm giữ hàng hóa 45 ngày kể từ ngày cầm giữ, nếu khách hàng không
thanh toán nợ cho người giao nhận hàng hóa thì họ có quyền định đoạt với hàng hóa
đó. Nếu hàng hóa có dấu hiệu hư hỏng , quyền định đoạt phát sinh khi có bất cứ
khoản nợ nào của khách hàng. Trước khi định đoạt đối với hàng hóa để thu hồi nợ,
người cầm giữ phải thông báo cho khách hàng về việc cầm giữ hàng hóa.
Sau khi cầm giữ hàng hóa 45 ngày kể từ ngày cầm giữ, nếu khách hàng không
thanh toán nợ cho người giao nhận hàng hóa thì họ có quyền định đoạt phát sinh khi
có bất cứ khoản nợ nào của khách hàng. Trước khi định đoạt đối với hàng hóa để
thu hồi nợ, người cầm giữ phải thông báo cho khách hàng biết bằng văn bản. Các
chi phí liên quan đến việc định đoạt hàng hóa do khách hàng chịu.
Trường hợp cầm giữ và định đoạt sai trái gây thiệt hại cho khách hàng thì người
làm dịch vụ phải bồi thường theo quy định pháp luật.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng
Với tính chất là một hoạt động dịch vụ quyền của các bên này sẽ tương ứng với
trách nhiệm cuả bên kia khi sử dụng dịch vụ Logistics . Nếu không có thỏa thuận
khác khách hàng được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ.
- Hướng dẫn, kiểm tra , giám sát thực hiện hợp đồng;
25. 22
- Cung cấp đầy đủ chỉ dẫn cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic ;
- Thông tin chi tiết, đầy đủ, chính xác và kịp thời về hàng hóa cho thương nhân
kinh doanh dịch vụ Logistics;
- Đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hóa theo hợp đồng mua bán hàng hóa, trừ
trường hợp có thỏa thuận để thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics đảm nhận
công việc này;
- Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh
doanh dịch vụ Logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc
trong trường hợp do lỗi của mình gây ra;
- Bồi thường thiệt hại, trả các chi phí hợp lý phát sinh cho thương nhân kinh
doanh dịch vụ Logistics nếu người đó đã thực hiện đúng chỉ dẫn của mình hoặc
trong trường hợp do lỗi của mình gây ra;
- Thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics mọi khoản tiền đã
đến hạn thanh toán
1. 3. Giới hạn trách nhiệm và các trường hợp miễn trách nhiệm của người làm
dịch vụ logistics
Trong quá trình kinh doanh dịch vụ logistics, các chủ thể có thể thực hiện một
hoặc một số hoạt động trong chuỗi dịch vụ logistics, chính vì tính chất phức tạp và
đòi hỏi nhiều yếu tố kỹ thuật của hoạt động này nên nó tiềm ẩn tính rủi ro cao. Nếu
một bên không thực hiện nghiêm túc sẽ làm phát sinh trách nhiệm hợp đồng. Trách
nhiệm này có thể là trách nhiệm buộc “bên không thực hiện nghiêm túc” phải thực
hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại phát sinh từ vi phạm hợp đồng hoặc chịu
phạt hợp đồng hay phải để bên bị vi phạm hủy hợp đồng. Để xác định chính xác
trách nhiệm thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics đến đâu trong trường hợp xảy
ra tranh chấp giữa các bên cần xem xét các quy định của pháp luật về giới hạn trách
nhiệm
1.3.1. Về giới hạn trách nhiệm
Theo khoản 4 Điều 3 Nghị định 140/2007/NĐ-CP thì: “ Giới hạn trách nhiệm là
hạn mức tối đa mà thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho khách hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ
chức thực hiện dịch vụ logistics.
26. 23
Một nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thương thiệt hại mà Bộ luật dân sự
quy định là bên vi phạm hợp đồng gây hại bao nhiêu thì phải chịu trách nhiệm bồi
thường bấy nhiêu. Cụ thể, Điều 238 Luật Thương Mại 2005 quy định: “Trừ khi các
bên có thỏa thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ
Logistics không vượt quá giới hạn trách nhiệm với tổn thất hàng hóa”. Với quy định
này thì giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người làm dịch vụ giao nhận
hàng hóa là một ngoại lệ của chế tài bồi thường trong luật thương mại nói chung.
Cụ thể. Theo điều 302 Luật Thương mại 2005 :
“ Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị
vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm .”
Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 238 Luật Thương mại 2005: “Người làm dịch vụ
logistics không được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu
người có quyền và lợi ích liên quan chứng minh được sự mất mát, hư hỏng hoặc
giao trả hàng chậm là do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic cố ý gây ra hoặc
không hành động để gây ra mất mát, hư hỏng; chậm trễ hoặc đã hành động hoặc
không hành động một cách mạo hiển và biết rằng sự mất mát, hư hỏng và chậm trễ
đó chắc chắn xảy ra” . Như vậy, để xác định một thương nhân kinh doanh dịch vụ
logistics có được hưởng quyền miễn trừ giới hạn trách nhiệm hay không thì bên
cạnh sự thỏa thuận của các bên còn cần xem xét đến lỗi của bên vi phạm trong từng
trường hợp cụ thể.
Nghị định 140/2007/NĐ-CP cũng có quy định cụ thể về giới hạn trách nhiệm
của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tại Điều 8 :
“Điều 8. Giới hạn trách nhiệm
1. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc liên
quan đến vận tải thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan về giới hạn
trách nhiệm trong lĩnh vực vận tải.
2. Giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc không
thuộc phạm vi khoản 1 Điều này do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không
có thoả thuận thì thực hiện như sau:
27. 24
a) Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về giá trị của hàng hoá thì
giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường.
b) Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về giá trị của hàng hoá và được
thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-gi-stíc xác nhận thì giới hạn trách nhiệm là toàn
bộ giá trị của hàng hoá đó.
3. Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ lô-
gi-stíc tổ chức thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác
nhau là giới hạn trách nhiệm của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất. ”
1.3.2. Về các trường hợp miễn trách nhiệm
Luật thương mại 2005 quy định cụ thể về các trường hợp miễn trách nhiệm đối
với bên vi phạm hợp đồng nói chung tại Điều 294 và đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistíc nói riêng tại Điều 237.
Điều 294 “ Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm
1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách
nhiệm .“ Điều 237 “ Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics
1. Ngoài những trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật
này, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về
những tổn thất đối với hàng hoá phát sinh trong các trường hợp sau đây:
a) Tổn thất là do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền;
b) Tổn thất phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm đúng
theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền;
c) Tổn thất là do khuyết tật của hàng hoá;
28. 25
d) Tổn thất phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định
của pháp luật và tập quán vận tải nếu thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ
chức vận tải;
đ) Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về
khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch
vụ logistics giao hàng cho người nhận;
e) Sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận
được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn chín tháng,
kể từ ngày giao hàng.
2. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu trách nhiệm về
việc mất khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực
hiện dịch vụ logistics sai địa điểm không do lỗi của mình.”
Như đã đề cập, kinh doanh dịch vụ logistics là ngành nghề luôn tiềm ẩn tính rủi
ro cao với hợp đồng dịch vụ có giá trị lớn, cần đưa ra những quy định chung làm
khung cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp giữa các bên nếu có phát sinh để bảo vệ
quyền lợi của chủ thể kinh doanh dịch vụ logistics nói riêng và các chủ thể tham gia
quan hệ hợp đồng nói chung .
2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN DỊCH VỤ LOGISTICS
Dịch vụ logistics được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau:
Thứ nhất, Luật Thương Mại 2005 (từ điều 233 đến điều 240) và nghị định
hướng dẫn thi hành (Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05-09-2007)
Khác với khung pháp luật của nhiều nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam
định nghĩa khá cụ thể về dịch vụ logistics trong văn bản pháp luật (Luật Thương
mại năm 2005 và Nghị định số 140/2007/NĐ-CP).
Luật thương mại năm 2005 định nghĩa dịch vụ logistics (Điều 233) và quy định
khái quát về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics (Điều 234); quyền và nghĩa vụ
của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng (các Điều 235, 236);
các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
29. 26
(Điều 237); giới hạn trách nhiệm (Điều 238); quyền cầm giữ và định đoạt hàng hoá
và nghĩa vụ của người cầm giữ hàng (các Điều 239, 240).
Điều 233 Luật thương mại năm 2005 quy định:
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì,
ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo
thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Theo Điều 4 Nghị định số 140/2007/NĐ-CP, dịch vụ logistics được phân loại
như sau:
“1. Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;
b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hoá, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho
bãi container và kho xử lí nguyên liệu, thiết bị;
c) Dịch vụ đại lí vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lí làm thủ tục hải quan và lập
kế hoạch bốc dỡ hàng hoá;
d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lí
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hoá trong suốt cả chuỗi
logistics; hoạt động xử lí lại hàng hoá bị khách hàng trả lại, hàng hoá tồn kho, hàng
hoá quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hoá đó; hoạt động cho thuê và thuê mua
container.
2. Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải;
b) Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa;
c) Dịch vụ vận tải hàng không;
d) Dịch vụ vận tải đường sắt;
đ) Dịch vụ vận tải đường bộ.
e) Dịch vụ vận tải đường ống.
3. Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kĩ thuật;
b) Dịch vụ bưu chính;
30. 27
c) Dịch vụ thương mại bán buôn;
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lí hàng lưu kho, thu
gom, tập hợp, phân loại hàng hoá, phân phối lại và giao hàng;
đ) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác”.
Về cơ bản, cách hiểu của pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics đã hài hoà với
thông lệ quốc tế.
Thứ hai , dịch vụ Logistics cũng được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự thông qua
lĩnh vực hợp đồng dịch vụ Logistics . Về cơ bản, hợp đồng dịch vụ Logistics cũng
là một dạng của hợp đồng dân sự . Vì vậy, hợp đồng dịch vụ Logistics chịu sự điều
chỉnh và tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau :
- Nguyên tắc tự do thỏa thuận. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về
rất nhiều nội dung trong hợp đồng như trách nhiệm đối với hàng hóa, thời hạn, giá
cả thực hiện hợp đồng , trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm đối với hàng hóa bị hư
hỏng ,mất mát , thỏa thuận chọn hình thức, luật và nơi giải quyết tranh chấp. Mặc
dùg vậy, các bên trong hợp đồng có trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ
như đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ.
- Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế.
Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, nếu các bên tham gia hợp đồng có
yếu tố nước ngoài thì được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán
thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế đó không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam ( Điều 5, Luật Thương mại 2005)
Thứ ba, như đã trình bày ở trên , Thương nhân, doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh dịch vụ Logistics cũng giống như những thương nhân, doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh các dịch vụ khác đều phải tuân theo những quy định về “ thành lập
doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh “ của Luật doanh nghiệp năm 2014 ( Điều 18
và 19 Luật Doanh nghiệp năm 2005 ).
Thứ tư, đối với hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới, dịch vụ Logistics sẽ
chịu sự điều chỉnh của Luật Hải quan về thủ tục kê khai, đăng ký hồ sơ hải quan của
hàng hóa đó ( Điều 24,25,29 và 30 Luật Hải quan năm 2014 )
Bên cạnh đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics có liên quan đến vận
tải ngoài việc áp dụng thủ tục đăng ký kinh doanh thông thường còn phải đáp ứng
31. 28
các điều kiện được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành như : vận tải
đường biển sẽ tuân theo quy định của Bộ luật Hàng hải, Nghị định số 49/2006/NĐ-
CP ngày 18-05-2006 về thủ tục đăng ký tàu biển ( bao gồm thế chấp tàu biển ),
Nghị định số 115/2007/NĐ-CP ngày 05-07-2007 về điều kiện kinh doanh dịch vụ
vận tải biển ; vận tải đường bộ sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ
(2001), Thể lệ vận chuyển hàng hóa bằng đường ô- tô , Nghị định số 110/2006/NĐ-
CP ngày 28-09-2006 về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô ; vận tải đường thủy
tuân theo quy định của Luật Giao thông đường thủy nội địa (2004) ; vận tải hàng
không theo Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006 , Điều lệ vận chuyển hàng
hóa quốc tế của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam 1993...
3. CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
Trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới, hoạt động kinh doanh dịch vụ
Logistics ở Việt Nam không chỉ chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật, tập
quán trong nước mà còn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm, cam kết và thông lệ
quốc tế. Theo dòng chảy của sự phát triển kinh tế, dịch vụ vận tải là một trong
những ưu tiên hàng đầu với thương mại hàng hóa quốc tế. Vì lý do đó, các thành
viên WTO luôn dành sự quan tâm đến việc tự do hóa thị trường dịch vụ vận tải, đặc
biệt là đối với vận tải hàng hải và các dịch vụ hỗ trợ khác như dịch vụ xếp dỡ hàng
hóa, dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa, dịch vụ giao nhận và dịch vụ kho bãi. Theo
thống kê, trong số 28 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu đàm phán song phương với
Việt Nam, có tới 11 đối tác yêu cầu đàm phán về dịch vụ vận tải (gồm Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Na Uy, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ, Canada, Australia, New
Zealand, Đài Loan).
Về dịch vụ vận tải
Cam kết về dịch vụ vận tải hàng hải của Việt Nam là tương đối cao nhưng theo
đánh giá thì mức độ ảnh hưởng của từng cam kết với các doanh nghiệp còn phụ
thuộc vào tình hình thực tiễn của thị trường cung cấp dịch vụ đó.
Theo đó, Việt Nam cam kết “không hạn chế” về dịch vụ vận tải hàng hải nhưng
xét về thực chất cam kết này không ảnh hưởng quá nhiều đến các doanh nghiệp vận
tải hàng hải Việt Nam vì trên thực tế thị trường này hoàn toàn thuộc về các hãng tàu
biển nước ngoài. Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực đại
32. 29
lý vận tải hàng hóa đường biển và đại lý tàu biển sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi
cam kết cho phép các công ty vận tải hàng hải nước ngoài được thành lập liên
doanh với tỉ lệ góp vốn quá 51% ngay từ khi gia nhập và được thành lập doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập. Điểm mấu chốt của cam
kết này doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do công ty vận tải hàng hải nước ngoài
thành lập chỉ được phép thực hiện cádc hoạt động phục vụ cho chính công ty mẹ mà
không được phép cung cấp dịch vụ cho khách hàng khác. Các công ty vận tải hàng
hải nước ngoài vận chuyển hàng hóa đi, đến Việt Nam, nếu không thành lập đại
diện thương mại tại Việt Nam thì vẫn phải sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp Việt
Nam.
Bên cạnh đó, đối với dịch vụ xếp dỡ container, Việt Nam cam kết cho phép nhà
cung cấp dịch vụ nước ngoài thành lập liên doanh với tỉ lệ góp vốn không quá 50%
và không có lộ trình mở rộng hơn nữa. Mặt khác, dịch vụ đại lý tàu biển không
được đưa vào biểu cam kết dịch vụ nhằm mục đích bảo hộ các doanh nghiệp trong
nước. Việt Nam không có bất kì cam kết nào với Hoa Kì theo BTA về dịch vụ vận
tải hàng hải nhưng có cam kết với EU theo Hiệp định Việt Nam - EU về tiếp cận thị
trường ngày 03/12/2004 và Hiệp định song phương Việt Nam - EU về việc Việt
Nam gia nhập WTO ngày 09/10/2004. Theo các cam kết này, Việt Nam cho phép
nhà cung cấp dịch vụ vận tải hàng hải được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài. Bộ luật hàng hải năm 2005 điều chỉnh dịch vụ vận tải hàng hải của cả người
Việt Nam lẫn người nước ngoài. Bộ luật cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
thực hiện rất nhiều dịch vụ vận tải hàng hải, kể cả vận tải nội địa trong những
trường hợp nhất định. Về nguyên tắc, Bộ luật hàng hải năm 2005 cho phép đầu tư
nước ngoài vào lĩnh vực cảng biển. [13]
Cụ thể,trên tinh thần của thỏa thuận VN-EU về mở cửa thị trường ký ngày 3-
12-2004 và thỏa thuận gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới giữa VN-EU ký tắt
ngày 9-10-2004, tháng 03/2005, Công ty Maersk A/S (Đan Mạch) được cấp phép
thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam với số vốn điều lệ 1 triệu
USD%, cung cấp dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa đường biển bao gồm các hoạt động
như đại diện cho chủ hàng, hoạt động giao nhận kho bãi, dịch vụ vận tải hàng hóa
bằng đường biển... . Đây là công ty 100% vốn nước ngoài đầu tiên tham gia lĩnh
33. 30
vực giao nhận vận tải của Việt Nam, giới hạn tỉ lệ tham gia của bên nước ngoài
trong các liên doanh ở mức 4:9 [27]
- Về dịch vụ vận tải hàng không
WTO không điều chỉnh về vận tải hàng không mà tập trung điều chỉnh về một
số dịch vụ hỗ trợ như tiếp thị và bán sản phẩm hàng không , đặt giữ chỗ bằng máy
tính và dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa tàu bay. Việt Nam đã cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ bảo dưỡng và sửa chữa máy bay, cho phép doanh nghiệp nước ngoài
liên doanh với đối tác Việt Nam vào thời điểm gia nhập WTO, được thành lập vốn
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5 năm gia nhập WTO.[15, 18-25]
- Về các dịch vụ vận tải khác
Các phân ngành dịch vụ khác đều có cam kết chặt chẽ nhằm tạo điều kiện cho
các nhà cung cấp dịch vụ trong nước có thời gian để tự chuyển giao, đổi mới nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Dịch vụ vận tải đường
sắt chuyển sang hướng tự do hóa cung cấp dịch vụ cho mọi thành phần kinh tế nên
được xem xét cam kết ở mức độ thận trọng hơn với quy định cho phép thành lập
liên doanh tối đa với tỉ lệ 49% vốn nước ngoài.
- Về dịch vụ chuyển phát nhanh
Tuy không có cam kết về dịch vụ chuyển phát nhanh BTA giữa Việt Nam và
Hoa Kì nhưng có thỏa thuận đàm phán song phương của Việt Nam khi gia nhập
WTO với Hoa Kì cho phép các công ti chuyển phát nhanh nước ngoài hoạt động với
tư cách bên góp vốn đa số trong liên danh với đối tác Việt Nam ở thời diểm gia
nhập và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập
WTO
Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên bao gồm :
- Công ước của Liên Hơp Quốc về vận tải hàng hóa quốc tế đa phương thức 1980
- Công ước Vascxava về vận chuyển hàng không quốc tế năm 1929
- Công ước Kyoto
- Điều kiện thương mại quốc tế Incoterm 2000
- Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức được ký kết trong
khuôn khổ Hội nghị lần thứ 11 các Bộ trưởng Giao thông vận tải ASEAN diễn ra tại
Lào vào cuối tháng 11-2005
34. 31
- Hiệp định về hàng hóa quá cảnh Lào - Việt Nam được kí kết ngày 13 tháng 3
năm 2009 tại Viêng Chăn, Thủ đô nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
- Cam kết quốc tế trong các Hiệp định song phương và trong khu vực và trên
thế giới như Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hiệp định ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung của CEPT, và các cam kết của Việt Nam trong WTO về mở ra
một vài phân ngành của dịch vụ Logistics khi Việt Nam khi tham gia WTO. Ngoài
ra còn các hoạt động dịch vụ Logistics được điều chỉnh trong một vài văn bản khác
liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể.[11]
4. Các quy định của pháp luật nước ngoài cũng như kinh nghiệm trong công
tác quản lý nhà nước về dịch vụ Logistics
- Singapore
Singapore hiện tại là nước đi đầu về quản lý và phát triển dịch vụ Logistics trong
khu vực và trên thế giới. Không chỉ áp dụng thành công những thành tựu về công
nghệ thông tin và trong quản lý dịch vụ Logistics , Singapore đã trở nên lớn mạnh
hơn trong lĩnh vực dịch vụ Logistics bằng cách đề ra chính sách “ một cửa “ nhằm
đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu, thông
quan và trung chuyển. Cụ thể:
Thứ nhất, về chính sách ưu đãi thuế đối với các công ty vận tải và logistics :
khuyến khích các công ty đa quốc gia và các nhà cung ứng dịch vụ Logistics quốc
tế xây dựng và đặt trụ sở tại Singapore với nhiều ưu đãi như giảm thuế với lợi
nhuận doanh nghiệm, miễn thuế đối với đầu tư mạo hiểm , miễn thuế thu nhập từ
tàu biển trong 10 năm, hưởng tỷ lệ thuế ưu đãi nhỏ hơn 10% trên mức tăng doanh
thu trong 5 năm, cho vay ưu đãi với tàu và container.
Thứ hai, về chính sách hải quan : áp dụng Trade net giúp quy trình làm thủ tục
hải quan được tự động hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại và
trung chuyển hàng hóa.
Thứ ba, về chính sách phát triển nguồn nhân lực : Singapore thường xuyên giới
thuệu kỹ thuật Logistics mới nhất cho các chúng và công ty, hợp tác giữa nhà
trường với nhà nước và tổ chức quốc tế trong việc đào tạo về ngành dịch vụ
Logistics . [28]
35. 32
Cùng với đó là việc nâng cao vai trò đặc biệt quan trọng của Hiệp hội dịch vụ
Logistics Singapore (SLA – Singapore Logistics Associations).
- Trung Quốc
Cùng với Singapore, Trung Quốc là quốc gia có một ngành dịch vụ Logistics vô
cùng phát triển với những chính sách mở cửa. Trong Bảng xếp hạng hiệu quả hoạt
động dịch vụ Logistics (Logistics Performance Index – LPI) của Ngân hàng thế giới
Trung Quốc đứng ở vị trí thứ 30, Hongkong đứng thứ 8 trong tổng số 150 quốc gia,
vùng lãnh thổ về dịch vụ Logistics . Nổi bật trong thành công ấy không thể không
thể keẻ đến sự đổi mới quản lý nhà nước đối với dịch vụ Logistics một cách đúng
đắn, đồng bộ từ các cấp quản lý nhà nước và sự quan tâm đầu tư hợp lý của doanh
nghiệp. Đặc biệt, Chính phủ cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, tạo
điều kiện cho công ty nước ngoài có thể thâm nhập sâu vào thị trường. Bên cạnh đó
là việc chú trọng xây dựng hệ thống kho bãi và phát triển hệ thống thông tin liên
lạc, áp dụng công nghệ tiên tến của thế giới vào dịch vụ Logistics .1
[20, 22]
- Malaysia
Malaysia dù là quốc gia có xuất phát điểm thấp hơn Singapore nhưng bằng sự
nhận thức kịp thời của Chính phủ, Malaysia đã có những sự đột biến trong quá trình
phát triển ngành dịch vụ Logistics. Cụ thể, chính phủ Malaysia đã tái cơ cấu và khởi
động lại Uỷ ban Logistics Malaysia, đơn giản hóa thủ tục hải quan, thông quan, áp
dụng công nghệ cao vào các khâu quản lý , giám sát và điều hành hoạt động
Logistics ; thay đổi quy định thông quan, khuyến khích hợp nhất, chuyển đổi mô
hình hoạt động cung cấp dịch vụ Logistics tích hợp, ưu đãi thuế nhằm khuyến khích
các công ty địa phương đầu tư ra nước ngoài, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn
cầu...
Bên cạnh đó , Malaysia chú trọng đến lựa chọn con đường phát triển toàn diện
mọi loại hình vận tải, trong đó lấy hàng không làm bàn đạp để tạo cú hích cho dịch
vụ Logistics phát triển là bước đi quan trọng. [28]
Maylaysia thành lập các cảng nội địa và các khu thương mại tự do là những
hướng đi có tính đột phá và mới mẻ, giúp tăng khả năng trung chuyển hàng hóa
trong chuỗi cung ứng, hình thành hệ thống vận chuyển liên thông giữa Thái Lan-
Malaysia – Indonesia – Singapore.
36. 33
- Nhật Bản
Đồng thời , Nhật Bản cũng là một quốc gia rất chú trọng tới ngàng dịch vụ
Logistics đầy tiềm năng bằng việc sửa đổi chính sách, đường lối phát triển dịch vụ
Logistics với mục tiêu ủng hộ công cuộc cải tổ cơ cấu thị trường dịch vụ Logistics .
Ưu tiên cho hệ thống phân phối hiệu quả, chính xác nhằm nâng cao tính cạnh tranh
quốc tế của dịch vụ Logistics , chú trọng vào 2 chiến lược phát triển cơ bản là tập
trung hợp lý hóa dịch vụ Logistics thành phố, vùng , ngành chính phủ trực tiếp chỉ
đạo, dẫn dắt việc phát triển đối với dịch vụ Logistics cảng biển. [20,22]
37. 34
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTIC VIỆT
NAM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ
LOGISTICS
1. THỰC TRẠNG CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM
1.1.Thuận lợi trong hoạt động Logistics tại Việt Nam
1.1.1. Việt Nam là một thị trường tiềm năng với nhiều chính sách hội nhập
Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thông qua những cải cách
về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế và
tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc trở thành thành viên chính thức của
WTO sẽ đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mở cửa trên mọi lĩnh vực.
Việc cải cách hành chính đã giúp nhiều doanh nghiệp Việt Nam phát huy tối đa
tính dân chủ, sáng tạo, góp phần khôi phục và phát triển nền kinh tế đất nước, đồng
thời thu hút được nhiều nhà đầu từ nước ngoài. Chính sách đối ngoại đã bắt đầu gắn
kết với việc chấn hưng nền kinh tế đất nước và đưa nền kinh tế Việt Nam từng bước
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Trong 20 năm đổi mới Việt Nam đã thiết lập quan
hệ ngoại giao thêm với 57 nước, nâng tổng số quốc gia có quan hệ chính thức với
Việt Nam lên đến 169 nước và quan hệ buôn bán với 224/255 thị trường các nước
và vùng lãnh thổ.
Định hướng chính sách đối ngoại trong những năm tiếp theo đến năm 2020, đặc
biệt là ngoại giao phục vụ kinh tế và hội nhập quốc tế, như tăng cường quan hệ đối
tác hàng đầu với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc...;Tạo mọi điều
thuận lợi về chính sách, thông thoáng về thủ tục hành chính để thực sự mở cửa thu
hút đầu tư của các đối tác trên... Ngoài ra sẽ tăng cường tiếp thị để tìm kiếm, mở
rộng thị trường đối với các nước Trung Đông, Châu Phi và Ấn Độ; thông qua việc
giao lưu văn hóa, du lịch, hội thảo về đường lối chính sách mở cửa của Việt Nam là
điểm đến đầy tiềm năng và hứa hẹn đối với các quốc gia đang phát triển.
1.1.2. Vị trí địa lý thuận lợi
Việt Nam là quốc gia nằm ở khu vực chiến lược ở Đông Nam Á, sở hữu vị trí
địa lý thuận lợi phục vụ cho vận tải quốc tế. Nằm ở phía Đông của bán đảo Đông
38. 35
Dương, phía tây giáp với Lào, Campuchia, phía Đông và Nam trông ra biển Đông
và Thái Bình Dương. Việt Nam cũng nằm ngay ở trung tâm biển Đông , nơi có các
tuyến đường biển nhộn nhịp bởi vậy các luồng hóa hóa, thông thương trong khu vực
và giữa khu vực với thế giới rất lớn, tạo cơ hội cho Logistics phát triển. Biên giới
đất liền dài 3730 km , bờ biển trải dài trên 3260 km, có nhiều cảng nước sâu và sân
bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia... là tiền đề khả quan để phát triển
Logistics.
1.1.3. Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng
Trong bối cảnh vốn vay ODA giảm, tình hình thu hút FDI vào Việt Nam trong
những năm qua có nhiều triển vọng khả quan và với tác động của việc ký kết các
Hiệp định thương mại tự do (FTA), nhiều tổ chức quốc tế và các chuyên gia nhìn
nhận sẽ có sự dịch chuyển của dòng vốn FDI vào Việt Nam trong những năm tới
với xu hướng tăng mạnh.
Hình 3.1: Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam giai đoạn 2006-2015
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), số dự án đầu
tư năm 2015 đạt mức cao nhất so với các năm trước. Vốn đầu tư trong 3 năm liên
tiếp gần đây (2013 - 2015) đã vượt qua con số 20 tỷ USD. Trong số các quốc gia và
vùng lãnh thổ có vốn FDI vào Việt Nam, năm 2015, Hàn Quốc vẫn dẫn đầu, chiếm
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
80000
2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
71726
FDI thực
hiện
FDI đăng
ký
39. 36
khoảng 30% trên tổng số vốn FDI vào Việt Nam, tiếp tục cho thấy sự hiện diện
mạnh mẽ của doanh nghiệp Hàn Quốc. Hàn Quốc cũng dẫn đầu cả về số dự án, số
vốn đăng ký mới cũng như mở rộng. Nhật Bản đứng vị trí thứ 3 xét về tổng số vốn
đầu tư và xếp thứ 2 về số dự án đầu tư vào nước ta.
Đánh giá của Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy, việc
các nhà đầu tư nhìn nhận và dự đoán trước về hiệu lực của TPP đã khiến đầu tư vào
ngành may mặc, dệt may tăng trong thời gian qua. Trong Top 10 dự án đầu tư mới
vào Việt Nam năm 2015, có 01 dự án thuộc lĩnh vực GTVT (Dự án BOT Xây dựng
cầu Bạch Đằng, nhà đầu tư Nhật Bản - Công ty Cổ phần SE Corporation), trong khi
có 3 dự án thuộc lĩnh vực may mặc, dệt may và 02 dự án về bất động sản.
Số liệu thống kê mới nhất về tình hình thu hút FDI cho thấy, lĩnh vực GTVT
chưa thu hút được nhiều FDI dù tiềm năng rất lớn. Các quốc gia và và vùng lãnh thổ
có số dự án và số vốn FDI vào Việt Nam lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông
đã tăng vốn đầu tư vào dệt may.
Trong khi đó, Nhật Bản - một trong những quốc gia có lượng vốn FDI hàng đầu
đổ vào Việt Nam thì năm 2014 cũng chỉ có 13 dự án thuộc lĩnh vực xây dựng
(chiếm 4%) và 16 dự án FDI lĩnh vực vận tải (chiếm 5%) trong tổng số 342 dự án
FDI của Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Con số tương ứng cho năm 2015 là 9 dự án
xây dựng (bao gồm cả dự án BOT Xây dựng cầu Bạch Đằng) và 0 dự án giao thông
trong tổng số 299 dự án. Xét về vốn, con số tương ứng cho năm 2014 là 27 triệu
USD cho lĩnh vực xây dựng (chiếm 2%) và 64 triệu USD cho lĩnh vực vận tải
(chiếm 5%) trong tổng số 1 tỷ 337 triệu USD. Năm 2015, các con số này lần lượt là
355 triệu USD (38%) và 0 USD trong tổng số 1 tỷ 285 triệu USD.
Một trong những cơ hội lớn của Việt Nam trong việc tăng thu hút FDI, trong đó
có FDI vào lĩnh vực GTVT, nhờ gia nhập TPP. Việt Nam có mối liên kết thương
mại và đầu tư mạnh mẽ với các thành viên TPP. Các thành viên TPP chiếm 38,8%
xuất khẩu, 22,2% nhập khẩu và 38,3% lượng vốn FDI của Việt Nam. Đánh giá mới
đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy, TPP được kì vọng sẽ tạo ra những lợi ích
đáng kể cho Việt Nam về thương mại, đầu tư, tăng trưởng và tạo việc làm. Trong
đó, tác động của TPP tới tăng trưởng kinh tế và đầu tư thể hiện qua mức độ tác động
40. 37
tới các chỉ số kinh tế chính: GDP thực tế (từ 3,6% năm 2020 lên 6,8% năm 2025 và
8,2% năm 2030); đầu tư thực tế (từ 13,6% năm 2020 lên 21,3% năm 2025 và 15%
năm 2030); dự trữ vốn (từ 3,1 năm 2020 lên 9,3 năm 2025 và 12,9 năm 2030).2
1.1.4. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã mang lại rất nhiều lợi ích cho hoạt
động Logistics nói chung và hoạt đồng điều hành khai thác cảng nói riêng. Internet
đã trở thành một công cụ hữu hiệu để tiến hành các hoạt động thương mại điện tử.
Trên nền tảng của mạng Internet, Chính phủ mà đại diện là chính quyền cảng
cùng với các nhà khai thác cảng biển đã phát triển và hoàn thiện hệ thống trao đổi
dữ liệu điện tử (EDI – Electronic Data Interchange) . Hệ thống này cho phép kết nối
giữa các cảng cùng với nhau, và giữa cảng với các đối tác thương mại của họ , bao
gồm cả cơ quan quản lý như cơ quan Hải quan, cơ quan thống kê...
Hệ thống này góp phần giúp các khu vực cảng biển đơn giản hóa thủ tục giấy
tờ, giảm thiểu khả năng sai sót, tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí trong vận
hành khai thác cảng. Tháng 7/2005 chúng ta đã bắt đầu thực hiện thông quan điện
tử thí điểm ở một số địa phương.
Bên cạnh đó, các hoạt động xếp dỡ và vận chuyển container tại cảng biển cũng
được tự động hóa hoàn toàn nhằm tối ưu hóa việc vận chuyển và xếp dỡ. Các thao
tác xếp dỡ container tại các cầu cảng của các cảng lớn đa phần đều được vi tính hóa.
Các cẩu bờ đặt tại cầu cảng được điểu khiển bởi máy tính và sau đó máy tính sẽ tự
động thực hiện các thao tác xếp dỡ container từ tàu xuống và kéo container ngược
lại. Công nghệ niêm phong điện tử cũng sẽ giúp giảm tối đa thời gian làm thủ tục
kiểm tra container và vận tải container, đồng thời tạo ra một quy trình thông thoáng
hơn tại các khu cảng biển.
Với sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật, hiện nay các công ty chuyên
nghiên cứu cung cấp các giải pháp và thiết bị cho chuỗi cung ứng đã ứng dụng
thành công công nghệ định vị sóng vô tuyến (RFDI – Radio Frequency
Identification) và đang từng bước thương mại hóa công nghệ này. Khi được ứng
dụng rộng rãi, công nghệ này hứa hẹn sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực
quản lý chuỗi cung ứng. VICT là cảng đầu tiên ở Việt Nam cho phép ứng dụng và
thử nghiệm hệ thống này. Hệ thống là giải pháp kịp thời và thiết thực đã giúp cho
41. 38
VICT tận dụng tối đa không gian kho bãi, tránh tình trạng di chuyển container
không hợp lý, tận dụng thời gian để thiết bị nghỉ ngơi. Điều này cũng giúp làm giảm
các chi phí cảng, giúp xác định vị trí chính xác của container và tiết kiệm thời gian
bốc dỡ hàng.
Đây chính là một trong những điều kiện tiên quyết để ngành công nghiệp
Logistics Việt Nam phát triển , đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế .
1.2.Những mặt yếu kém trong hoạt động Logistics tại Việt Nam
1.2.1. Cơ sở hạ tầng Logistics còn nghèo nàn, quy mô nhỏ và chưa đồng bộ
Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam bao gồm trên 17,000 km
đường nhựa, gần 3,200 km đường sắt; 41,000 km đường thủy, 126 cảng biển và
135 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đồng đều ,thậm chí có
những nơi còn yếu kém và chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng
20 cảng biển có thể tham gia vào vận tải hàng hóa quốc tế, các cảng đang trong quá
trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa được trang bị
các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ
container. Bản thân các công ty Logistics sẽ tốn nhiều chi phí đầu tư, làm giảm lợi
nhuận cũng như khả năng mở rộng thị trường dịch vụ. Điều này khiến chi phí dịch
vụ Logistics cao hơn,ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của dịch vụ Logistics ở
Việt Nam .
Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy bay)
cho việc vận chuyển mùa cao điểm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn
thấp, đường hàng không được thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải
chuyên dùng hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải đường sắt không được vận dụng hiệu
quả do chưa được hiện đại hóa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng hàng
hóa vận chuyển đường sắt chiếm khoảng 15% tổng lượng hàng hóa lưu thông. Tuy
nhiên, đường sắt Việt Nam vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau
(1,000 và 1,435mm) với trọng tải thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà Nội –
TP Hồ Chí Minh (1,726km) hiện vẫn cần đến 32 tiếng đồng hồ. Và khá nhiều tuyến
đường liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.
42. 39
Trang thiết bị dành cho Logistics còn yếu kém, lạc hậu, thiếu đồng bộ; hệ thống
kho bãi quy mô nhỏ, rời rạc; các phương tiện, trang thiết bị như xe nâng hạ hàng
hóa, dây chuyền, băng tải, phương tiện đóng gói mã hóa, hệ thống đường ống, đèn
chiếu sáng còn khá thô sơ.
Thêm vào đó thì hạ tầng thông tin chính là điểm yếu nhất của các doanh nghiệp
Logistics Việt Nam. Mặc dù liên tục hoàn thiện và áp dụng công nghệ thông tin vào
trong hoạt động kinh doanh tuy nhiên công ty về dịch vụ Logistics trong nước vẫn
còn kém xa so với công ty Logistics nước ngoài. Nếu chỉ xét về khía cạnh xây dựng
website thì phần lớn website của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đơn thuần giới thiệu
về mình và dịch vụ của mình, thiếu hẳn các tiện ích như công cụ track and trace
(theo dõi đơn hàng), lịch tàu, e-booking, theo dõi chứng từ ...Chúng ta cần phải hiểu
rằng visibility (khả năng nhìn thấy và kiểm soát đơn hàng) là yếu tố luôn được
khách hàng đánh giá cao khi họ lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ Logistics cho mình.
Bản thân các công ty lớn như APL Logistics, Maersk Logistics được Nike chọn là
nhà cung cấp dịch vụ cho mình vì họ có khả năng cung cấp công cụ visibility ở mọi
lúc mọi nơi bởi bất cứ nhân viên nào của Nike. Điều này góp phần giúp Nike tính
toán tốt những dự báo, kiểm soát hàng tồn, đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng
ở chi phí tối ưu nhất.
1.2.2 Quy mô doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Logistics nhỏ
Có thể nói nguồn thu hàng tỷ đô đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài
thay vì được dành cho các doanh nghiệp trong nước khi mà thị trường dịch vụ
Logistics ngày càng phát triển và đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ. Doanh nghiệp
trong nước đang tỏ ra thất thế , thậm chí đang làm thuê tại chính sân chơi của mình.
Theo tính toán của Cục Hàng hải Việt Nam, cho đến nay, Việt Nam mới tự đáp ứng
được 25% nhu cầu thị trường dịch vụ Logistics. Cụ thể, dịch vụ quan trọng nhất là
vận tải biển, các doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáng ứng chuyên chở được 18%
tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu. Đây thực sự là một cú đanh mạnh vào các
doanh nghiệp trong nước khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận
chuyển bằng đường biển. Số liệu báo cáo 8 tháng năm 2016 (ước lượng) cuả cục
Hàng hải Việt Nam cho thấy sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng đạt 306
43. 40
triệu tấn (tăng 10% so với cùng kỳ)3
Đây thực sự là mảnh đất màu mỡ khiến các tập
đoàn nước ngoài phải thể hiện sự thèm muốn và tích cực tập trung khai phá.[26]
Hiện tại trong cả nước có khoảng 800-900 doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực
Logistics. Trong đó, VIFFAS có 101 hội viên (80 hội viên chính thức và 21 hội viên
liên kết) nhưng có thể đếm trên đầu ngón tay số doanh nghiệp đủ sức để tổ chức và
điều hành toàn bộ quy trình hoạt động Logistics. Các doanh nghiệp Việt Nam đa
phần còn nhỏ, hạn chế về vốn, công nghệ và trình độ nhân lực, có thể vì thế nên chỉ
đủ khả năng làm thuê một vài công đoạn trong cả chuỗi dịch vụ mà các doanh
nghiệp nước ngoài giành được ngay tại thị trường Việt Nam. Thời gian hoạt động
trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký 1,5 tỷ đồng/doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp Logistics tại Việt Nam hiện vẫn đang trong quá trình
hình thành và phát triển, phần lớn hệ thống Logistics chưa được thực hiện một cách
thống nhất.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Logistics chưa tạo
được sự kết nối với nhau, chỉ dựa vào năng lực sẵn có nên sức cạnh tranh còn hạn
chế, thậm chí còn xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh
nghiệp trong ngành. Trong xu hướng hiện nay, ngoài việc tập trung phát triển thế
mạnh của mình, các doanh nghiệp cần tìm đến các đối tác ở những lĩnh vực chưa
phải thế mạnh của mình để hợp tác cùng phát triển .
1.2.3. Nguồn nhân lực ngành Logistics còn thiếu về số lượng và yếu về chất
lượng
Sự gia tăng hoạt động Logistics của doanh nghiệp đang dẫn đến tình trạng thiếu
hụt trầm trọng nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ Logistics. Báo cáo của Bộ GTVT
về thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics tháng 12/2014 chỉ ra
rằng, hiện nay có khoảng 1.200 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này,
hơn 6.000 nhân viên chuyên nghiệp trong tổng số gần 1 triệu người hoạt động trong
lĩnh vực logistics. Hầu hết các doanh nghiệp trên đều thuộc nhóm doanh nghiệp vừa
và nhỏ, trừ các doanh nghiệp quốc doanh và cổ phần có quy mô tương đối lớn (từ
100 - 300 nhân viên), số còn lại trung bình từ dưới 50 nhân viên, năng lực cạnh
tranh và hoạt động còn hạn chế. Thực trạng lực lượng lao động trong lĩnh vực dịch
vụ này được tuyển chọn dựa trên một số ngành nghề chính như kinh tế, tài chính,