SlideShare a Scribd company logo
1 of 255
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
--------- ---------
LÊ MINH HÙNG
HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62.38.50.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN HUY HỒNG
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung
thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
ii
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG........................8
1.1. Khái niệm, bản chất của hợp đồng .........................................................................................8
1.2. Khái niệm hiệu lực hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng .........................................16
1.3. Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng......................................................................29
Chương 2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG..........................................39
2.1. Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực..................................................................39
2.2. Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật
có qui định ...................................................................................................................................49
2.3. Một số bất cập trong các qui định pháp luật hiện hành về hình thức hợp đồng và định
hướng hoàn thiện.........................................................................................................................66
Chương 3. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG.........................................85
3.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: khái niệm và qui định chung ....................................85
3.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng .........................................................................................................................95
3.3. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng........116
Chương 4. HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG ............................................125
4.1. Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng: khái niệm và các qui định ...........................................125
4.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng.....................................................................................................................134
4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng ................................142
Chương 5. HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI......................154
5.1. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: khái niệm và nội dung cơ bản......155
5.2. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) trong pháp
luật các nước và trong tập quán thương mại quốc tế.................................................................161
5.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp lý Việt Nam về điều khoản sửa đổi hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi...............................................................................................................171
5.4. Kiến nghị xây dựng và hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về sửa đổi
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...............................................................................................186
KẾT LUẬN.............................................................................................................................198
NHỮNG CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
iii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự
BLDS 1995 Bộ luật Dân sự 1995
BLDS 2005 Bộ luật Dân sự 2005
DLB 1931 Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931
DLSG 1972 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972
DLT 1936 - 1939 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939
HĐND Hội đồng nhân dân
HĐTP Hội đồng thẩm phán
HP 1992
Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết
51/2001/QH10
LNO 2005 Luật Nhà ở 2005
LSHTT 2005 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
LTM 1997 Luật Thương mại 1997
LTM 2005 Luật Thương mại 2005
PECL
Principles of European Contract Law (Bộ Nguyên tắc Luật
Hợp đồng châu Âu)
PICC
Principles of International Commercial Contract (Bộ
Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT)
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân tối cao
UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ chức
trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Hợp đồng cũng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản
của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội. Trong hầu hết các BLDS cổ điển, hợp đồng
“chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế
định khác” do “vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường…”[336, tr.900]. Xã
hội càng phát triển, hợp đồng ngày càng được sử dụng như là một chuẩn mực ứng xử
phổ biến giữa tư nhân với nhau, giữa tư nhân với cơ quan nhà nước, thậm chí là giữa
xã hội với nhà nước (như quan niệm của Rousseau [229]) trong các lĩnh vực dân sự,
kinh doanh, thương mại và trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.
Ngày nay, chế định hợp đồng và hiệu lực hợp đồng trở thành một chế định quan
trọng trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam.Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu,
phân tích về chế định hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề hiệu lực hợp đồng. Hiệu lực
của hợp đồng nói ở đây chính là sự tạo lập ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên giao kết
[249, tr.24], là hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối với các bên tham gia [299, tr.
1550]. Một hợp đồng được ký kết, nếu không có hiệu lực thì hợp đồng đó chưa thể tạo
ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên, chưa ràng buộc các bên với nhau và pháp luật cũng
chưa tác động đến cách xử sự của các bên theo qui định của hợp đồng đó. Vì vậy,
trước khi giao kết hợp đồng, thậm chí ngay trong quá trình thực hiện hợp đồng, các
bên tham gia hợp đồng phải biết về hợp đồng và những qui định của pháp luật liên
quan đến tính hiệu lực của hợp đồng. Có thể nói, pháp luật về hợp đồng và hiệu lực
của hợp đồng càng hoàn thiện thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể
ngày càng thuận lợi.
Tuy vậy, xét trên nhiều phương diện, vấn đề hiệu lực của hợp đồng là một vấn
đề pháp lý rất phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.Về mặt
lý luận, các học giả vẫn chưa thống nhất được với nhau trong việc xác định nội dung
của hiệu lực hợp đồng. Nhận xét về thực tế này, có luật gia cho rằng: “Dù luật gia nào
cũng nói tới hiệu lực của hợp đồng, nhưng khi được hỏi nó là gì và nội dung ra sao thì
phần lớn chỉ nói tới điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng” [38, tr. 37].
2
Trong thực tiễn lập pháp, vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được qui định khá cụ
thể trong Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Tuy nhiên, một số quy định về hiệu lực
hợp đồng trong BLDS 2005 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho công tác
giải quyết các tranh chấp có liên quan. Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hiện
vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi trong giới luật học, đặc biệt là điều kiện hình
thức và đường lối xử lý các hợp đồng vi phạm hình thức. Qui định về thời điểm giao
kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực
tế và không khả thi. Những bất cập trên đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề
xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện.
So với pháp luật hợp đồng của một quốc gia (Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga…), các
Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế (PICC, PECL), qui định trong luật Việt Nam về hiệu
lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế đòi hỏi cần phải có sự
cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, theo hướng
tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật hợp đồng của các nước và của
các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế, làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng
hoàn thiện và có sự tương đồng hơn so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học
pháp lý trong và ngoài nước quan tâm, dưới những góc độ khác nhau.
2.1. Ở nước ngoài: Có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung,
trong đó có đề cập đến các vấn đề có liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, như: các sách
chuyên khảo về Luật hợp đồng The Modern Law of Contract, 5th
ed của Richard Stone
[341], European Contract Law, Vol 1 – Formation, Validity and Content of Contract…
của Hein Kotz & Axel Flessner [321], Elements of the Law of Contract của MacMillan
C.A. & R. Stone [324], The Oxford Handbook of Comparative Law của M. Reinmann
& R. Zimmermann [336], The German Law of Contract – A Comparative Treaties, 2nd
ed. của Basil Markesinis & others [328], Bài báo Competing Approaches to Force
Majeure and Hardship của Catherine Kessedjian [318]…
3
Các công trình này không nghiên cứu chuyên biệt về hiệu lực hợp đồng nói
chung, và hiệu lực hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam, nói riêng.
2.2. Ở trong nước: Có một số Luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên quan đến
hiệu lực hợp đồng, như đề tài “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm Hữu Nghị; “Hợp đồng kinh tế vô hiệu
và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ [247];
“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô
hiệu” của TS. Nguyễn Văn Cường [44]...
Hiện còn có một số sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới
một số khía cạnh pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, như quyển “Việt Nam Dân
luật - luợc khảo” của GS. Vũ Văn Mẫu, [168], “Pháp luật về hợp đồng” của TS.
Nguyễn Mạnh Bách [5], “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS.
Nguyễn Ngọc Khánh [108], “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại
điện tử” của GS.TS. Nguyễn Thị Mơ [174], “Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và
Bình luận bản án”, của TS. Đỗ Văn Đại [54]. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học
đăng trên các tạp chí, như “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của
PGS.TS. Đinh Văn Thanh [240], “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro
trong pháp luật hợp đồng Việt Nam” của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa [201], “Thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng” của TS. Phạm Công Lạc [115]…
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả có
thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, nhưng các công
trình kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng
theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật là không trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát
thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam,
trên cơ sở đối chiếu với qui định về hiệu lực hợp đồng của một số quốc gia trên thế
giới và một số Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế nhằm góp phần làm rõ và làm phong
4
phú thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tiếp thu
có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật quốc tế về hợp đồng; đồng thời đưa ra
những kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các qui định còn bất cập, thiếu sót trong
pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng theo xu
hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt
Nam về hiệu lực của hợp đồng.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau đây:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hiệu lực của hợp đồng, như: làm
rõ khái niệm và bản chất của vấn đề hiệu lực của hợp đồng, xây dựng khái niệm cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng; làm rõ cơ sở lý luận và các vấn đề pháp lý liên
quan đến hiệu lực của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ảnh hưởng
của nó đối với hiệu lực pháp luật của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng,
hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực
hợp đồng ở Việt Nam, bao gồm cả việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các văn bản
pháp luật liên quan và những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập của pháp
luật về hiệu lực của hợp đồng, đánh giá thực trạng của qui định pháp luật về hiệu lực
của hợp đồng, để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi, bổ khuyết trong các
văn bản pháp luật về hợp đồng hiện hành của Việt Nam.
- Trên cơ sở những bất cập đã được xác định để từ đó đề xuất những kiến nghị,
giải pháp pháp lý cụ thể trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật Việt Nam
hiện hành về hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định cơ sở lý luận và thực tiễn cần
thiết làm căn cứ cho việc đề xuất những kiến nghị và giải pháp cụ thể đó.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề rất rộng. Mặt khác, vấn đề
hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính nguyên lý chung của hợp đồng và được qui
định chủ yếu trong BLDS, nên nội dung của Luận án tập trung phân tích các qui định
trong phần chung về hợp đồng trong BLDS 2005. Điều này không có nghĩa Luận án
chỉ nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực dân sự. Bởi lẽ, khái niệm hiệu lực hợp đồng
được trình bày trong Luận án là khái niệm chung nhất cho mọi hợp đồng, bao gồm cả
5
hợp đồng dân sự, kinh doanh – thương mại và các hợp đồng khác. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn việc phân tích chỉ những vấn đề hiệu lực của hợp
đồng theo nghĩa rộng (bao gồm chủ yếu là các hợp đồng kinh doanh – thương mại và
hợp đồng dân sự), như qui định tại Điều 1 BLDS 2005,1
mà không phân tích các hợp
đồng trong lĩnh vực lao động. Bên cạnh đó, luận án còn phân tích về các qui định có
liên quan đến hiệu lực của hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản liên
quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này.
Ngoài ra, nội hàm của khái niệm hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất
phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác của
pháp luật hợp đồng, như qui định về việc thực hiện hợp đồng, tạm hoãn thực hiện hợp
đồng do có sự vi phạm hoặc dự đoán có sự vi phạm hợp đồng của bên kia, chấm dứt
hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, giải thích hợp đồng, hiệu lực của hợp
đồng đối với người thứ ba, phân chia rủi ro, thông tin bất cân xứng… Tuy nhiên,
đề tài cũng không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề khác có liên quan tới hiệu lực
của hợp đồng, mà chỉ đi sâu tìm hiểu các vấn đề về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, sự hạn
chế hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi.
- Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, đề tài
cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu
lực của hợp đồng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng (dân sự, kinh doanh – thương
mại) trên thực tế, tại Tòa án và Trọng tài Thương mại Việt Nam, tính từ ngày BLDS
1995 được ban hành, đặc biệt là từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lê
nin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và pháp lý liên quan đến các qui định về hiệu lực của hợp đồng. Trong đó, chú
trọng sử dụng phương pháp lô ghích pháp lý, phương pháp lịch sử và phương pháp so
sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa qui định về hiệu lực của hợp đồng trong
phần chung BLDS với các qui định về hiệu lực của các hợp đồng dân sự thông dụng
1
Điều 1 BLDS 2005 qui định: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của
cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)…”
6
trong BLDS, và với các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong các luật chuyên
ngành. Trong một số vấn đề cụ thể (thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực của
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi) cũng có so sánh với pháp luật hợp đồng của một số
nước như Pháp, Đức, Nga, Nhật, Trung Quốc... Đề tài cũng sử dụng phương pháp
phỏng vấn chuyên gia trong một vài vấn đề cụ thể, và phương pháp khảo sát đánh giá
thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của các luật gia làm công tác thực tiễn pháp lý,
qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng các qui định về hiệu lực của hợp
đồng trong việc giải quyết tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng tại Việt Nam từ khi
BLDS 1995 được ban hành đến nay.
Cách nghiên cứu vấn đề theo “chiều dọc” nhằm làm rõ toàn bộ các nội dung
pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng trong mối quan hệ biện chứng từ khi giao kết,
xác lập, thực hiện hợp đồng đến khi sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, và từ những qui định
mang tính nguyên tắc chung cho đến ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực hợp đồng. Mặt
khác, trong mỗi vấn đề, tác giả cũng sử dụng cách thức truyền thống là đi từ nghiên
cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, và cuối
cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu có hệ thống về các vấn đề pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp
đồng, đưa ra những định hướng và đề xuất các kiến nghị cụ thể mà kết quả của nó sẽ là
cơ sở khoa học cho việc xây và hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, góp phần
tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam, trong xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống pháp luật nói riêng
và của đất nước Việt Nam nói chung, vào trào lưu chung của thế giới.
Góp phần làm hoàn thiện pháp luật hợp đồng cũng là góp phần vào việc bảo
đảm cho các quan hệ hợp đồng ở Việt Nam được ổn định, an toàn pháp lý và tránh
được các rủi ro cho các bên chủ thể, bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng, quyền
được pháp luật bảo vệ khi tham gia các quan hệ hợp đồng và các quyền, lợi ích chính
đáng của các bên trong hợp đồng.
Kết quả nghiên cứu đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hợp đồng trong các trường
đào tạo về luật.
7
7. Những điểm mới của luận án
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận án có một số điểm mới sau đây:
- Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề hiệu lực hợp đồng, phân tích và
làm rõ nội hàm của các khái niệm hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng (chương 1) kiến nghị thay thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ trong qui
định tại Điều 388 BLDS 2005 bằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (chương 1);
- Hai là, xây dựng các khái niệm mới hiệu lực của hợp đồng (chương 1), cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng (chương 1), điều khoản điều chỉnh hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi theo quan niệm pháp lý Việt Nam (trên cơ sở tiếp thu từ khái niệm
hardship trong thực tiễn thương mại quốc tế), và làm rõ nội hàm của các khái niệm này
(chương 5). Đây là những khái niệm mới chưa được đề cập trong các công trình khoa
học pháp lý trước đây.
- Ba là, trong mỗi chương, tác giả đều chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót của
pháp luật hiện hành và của thực tiễn áp dụng, đồng thời dựa trên những kết quả đó để
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các qui định tương ứng, như các kiến
nghị: hoàn thiện các qui định về hình thức hợp đồng và hậu quả pháp lý khi hợp đồng
vi phạm qui định bắt buộc về hình thức (chương 2) [Xem Phụ lục 12]; sửa đổi, bổ sung
các qui định về thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực hợp đồng
(chương 3) [Phụ lục 13]; bổ sung qui định về nguyên tắc và ngoại lệ của nguyên tắc
hiệu lực ràng buộc hợp đồng, đồng thời hoàn thiện các giải pháp khắc phục do vi phạm
việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng (chương 4) [Phụ lục 14].
- Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về xu hướng cho phép điều chỉnh hiệu
lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng
và áp dụng pháp luật về nội dung tương ứng trong pháp luật của nước ngoài và của các
bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng, từ đó kiến nghị Việt hóa khái niệm này thành khái
niệm ‘sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi’, và đề xuất bổ sung vào trong BLDS
2005 căn cứ cho phép sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi với những tiêu chí,
đường lối, giải pháp cụ thể (chương 5) [Phụ lục 15].
8. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội
dung của Luận án gồm 5 chương.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG
Vấn đề hiệu lực của hợp đồng bao gồm và liên quan tới nhiều nội dung phức tạp
của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, hiệu lực ràng buộc của
hợp đồng… Để làm rõ nội dung và ý nghĩa pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tạo
tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu tiếp các phần sau của luận án, chương này trình
bày khái quát hiệu lực hợp đồng, gồm ba nội dung sau đây: khái niệm và bản chất của
hợp đồng, khái niệm hiệu lực hợp đồng và cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội phải tham gia vào các
giao dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và
nhận lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa mãn các nhu
cầu chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao
đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên, dựa trên các nguyên tắc tự
do, tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tượng đó
được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: ‘Hợp đồng’.
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người
thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Tuy vậy, trong
lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ
“hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay, là
việc không dễ dàng. Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (contractus) được
hình thành từ động từ ‘contrahere’ trong tiếng La-tinh, có nghĩa là ‘ràng buộc’, và
xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV TCN [108, tr.29; 291, tr.162-
3]. Ban đầu, người La Mã cũng không có khái niệm chung ‘contractus’ mà sử dụng
các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio),
vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum)… Mãi đến thời của
luật gia La-be-ôn (thế kỷ 1 sau CN), người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ
‘contractus’ trong luật, và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới
thời Justinnian [61, tr.81]. Sau này, pháp luật các nước phương Tây đã kế thừa và phát
triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ ‘hợp đồng’,
mà trong tiếng Anh được viết là ‘contract’, và trong tiếng Pháp là ‘contrat’.
9
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử
dụng để chỉ về hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ
ưng thuận… Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến ngày nay, thuật
ngữ ‘văn tự’ hay ‘văn khế’[289, Điều 363 và 366], hay mua, bán, cho, cầm đã được sử
dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật [167, tr.156; 286, tr.57- 8]. Sau này,
thuật ngữ ‘khế ước’ mới được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925
(được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần
thuộc Pháp, trong Bộ Dân luật Bắc 1931 (sau đây viết là DLB 1931), và trong Bộ Dân
luật Trung 1936 – 1939 (DLT 1936 – 1939). Thuật ngữ ‘khế ước’ cũng được sử dụng
trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch ký ban
hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Thuật ngữ “khế ước” cũng được sử dụng trong Bộ
Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước 30/4/1975 (DLSG
1972) (Điều 653). Ngoài ra, trong DLB 1931, DLT 1936 - 1939 và DLSG 1972 còn sử
dụng thuật ngữ ‘hiệp ước’, trong đó nhà làm luật xem ‘khế ước’ là một ‘hiệp ước’ [13,
Điều 664; 91, Điều 680] hoặc đồng nhất giữa ‘khế ước’ với ‘hiệp ước’ [14, Điều 653].
Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ
‘khế ước’ hay ‘hiệp ước’ như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức năng”,
“công cụ” [110, tr.40] như hợp đồng dân sự [15, Điều 388], hợp đồng lao động [23,
Điều 26-43], hợp đồng thương mại [154, khoản 1 Điều 3]. Trong pháp luật của nhiều
nước (như sẽ trình bày ở các trang 3 – 5 dưới đây) chỉ sử dụng thuật ngữ ‘hợp đồng’,
chứ không sử dụng các thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng
lao động… như luật Việt Nam.
Ngoài việc chọn ‘hợp đồng’ làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong các văn bản
pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc làm rõ nội hàm của khái niệm ‘hợp
đồng’. Về mặt học thuật và pháp lý, các luật gia cũng đã gặp nhiều khó khăn trong
việc đưa ra một định nghĩa về hợp đồng. Đúng như một luật gia đã nhận xét, hợp đồng
“dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ dàng nhưng
thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó” [302, tr.14].
Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp luật cũng
khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem hợp đồng như
một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc pháp lý cơ bản
của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel,
10
Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất,
hợp đồng được xem là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp
luật do các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp
đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm
bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập
trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do
hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để
tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của
người khác [339, tr.278].
Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống
Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các
cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau
này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp đồng
như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên” [339, tr.283 - 84].
Có thể nói, thuật ngữ ‘hợp đồng’ là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem
xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm ‘hợp đồng’
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, ‘hợp
đồng’ là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui
phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
(chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các
chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc
cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa
thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về
quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện” [239, tr.19].
Trong phạm vi mục này, tác giả chỉ bàn về khái niệm hợp đồng hiểu theo nghĩa
chủ quan (nghĩa hẹp). Theo đó, ngoài việc được ghi nhận chính thức trong các văn bản
pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái niệm hợp đồng còn được nhiều học giả
đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa sớm nhất về hợp đồng
thường được nhiều học giả ngày nay nhắc đến và chấp nhận, là định nghĩa của học giả
người Pháp - Pothier trong tác phẩm “Traité des obligations” năm 1761: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận theo đó hai hoặc chỉ một bên hứa, cam kết với người khác để chuyển
giao một vật, để làm một công việc hoặc không làm một công việc” [321, tr.3]. Định
nghĩa này không khác gì so với định nghĩa hợp đồng trong các BLDS hiện đại ngày
11
nay. BLDS Pháp cũng có định nghĩa hợp đồng giống gần như hoàn toàn định nghĩa
của Pothier: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người
cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không
làm một công việc nào đó” [19, Điều 1101].
Theo qui định tại Điều 1378 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): “Hợp
đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam
kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Tuy có tính khái quát hơn,
nhưng định nghĩa này cũng không hoàn toàn “thoát ly” khỏi định nghĩa tại Điều 1101
BLDS Pháp. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự “thỏa
thuận” hay “thống nhất ý chí” giữa các bên. Tuy nhiên, nội dung định nghĩa chỉ thể
hiện chức năng của hợp đồng mà chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc trưng thứ hai của hợp
đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Định nghĩa “hợp đồng” cũng được qui định tại Điều 1-201 Bộ luật Thương mại
Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America, viết tắt là
UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự ‘thỏa thuận’ của
các bên…”. Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai (Restatement 2nd
) có nêu một định
nghĩa cụ thể hơn: Hợp đồng là “một hay một tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm
những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự cưỡng chế cuả pháp luật, hoặc
nói cách khác pháp luật công nhận việc thực hiện những cam kết này là một nghĩa
vụ”. Trong Bách Khoa toàn thư về Pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp
đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc
nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định”
[306, tr.53]. Định nghĩa này thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái
niệm hợp đồng và nội dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý
của các quốc gia khác trên thế giới.
Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) qui định: “Hợp đồng theo
qui định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa
thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với qui
định của các luật khác”. Tương tự, theo qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga
(1994): “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa hợp đồng trong Luật Hợp đồng Trung
12
quốc tương đối dài, vì bao hàm cả các nguyên tắc khái quát trong việc giao kết thực
hiện hợp đồng mà người Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc “bình đẳng”
giữa các bên tham gia hợp đồng. Định nghĩa “hợp đồng” trong BLDS của Nga cũng có
nội dung tương tự nhưng cách diễn đạt khái quát và ngắn gọn hơn cả. A.L Makovsky
và S.A. Khoklov đã bình luận về định nghĩa này như sau: “Hợp đồng được định nghĩa
ngắn gọn mang tính truyền thống. Đó là sự thoả thuận của hai hay nhiều người về việc
thiết lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420). Tuy
nhiên, về cơ bản không có điểm gì mới trong định nghĩa này. Quan trọng trên hết, cơ
sở của những thoả thuận như thế này không phải là ý chí cuả một bên, mà là ý chí của
nhiều bên để ràng buộc các bên trong thực hiện nghĩa vụ…” [325, tr. xciv].
Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Có thể dễ dàng thấy rằng, qui định tại Điều 388 BLDS Việt Nam (2005) cũng gần
giống như qui định của Luật hợp đồng Trung quốc (1999) và đặc biệt là hoàn toàn
giống với qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994).
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả
của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét
về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân
sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có thể
nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và
thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quan hệ pháp luật.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở
Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái
quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của
hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên. Đây là định nghĩa được hầu hết các luật gia
đồng tình và chấp nhận, trừ ‘cái đuôi’ ‘dân sự’ kèm theo [86, tr.57; 108, tr.38-41].
13
Tác giả cho rằng, cần bỏ từ ‘dân sự’ kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Bởi lẽ,
thuật ngữ ‘dân sự’ vừa có thể được hiểu theo nghĩa rộng, nhưng cũng vừa có thể được
hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, khái niệm ‘dân sự’ bao hàm cả các lĩnh vực
khác, như lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình [15, Điều 1]. Còn
theo nghĩa hẹp, khái niệm ‘dân sự’ chỉ được dùng trong các quan hệ dân sự (để phân
biệt với các quan hệ pháp luật khác: hình sự, hành chính…). Trong pháp luật tố tụng,
từ ‘dân sự’ cũng được hiểu theo nghĩa hẹp, nhằm phân biệt giữa các ‘Tòa dân sự’,
‘Tòa Kinh tế’, ‘Tòa lao động’… Trở lại khái niệm ‘hợp đồng dân sự’, câu hỏi đặt ra là,
từ ‘dân sự’ có ý nghĩa gì khi được đặt kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Về mặt lô
ghích, từ ‘dân sự’ được đặt ở vị trí này là nhằm xác định rõ nghĩa của khái niệm ‘hợp
đồng’, nhằm để chỉ đây là ‘hợp đồng dân sự’ chứ không phải là hợp đồng khác
(thương mại, lao động). Trong khi đó, khái niệm ‘hợp đồng dân sự’ được qui định tại
Điều 388 BLDS 2005 với chủ định xem đây khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi
hợp đồng, chứ không phải chỉ dành cho riêng ‘hợp đồng dân sự’. Do vậy, không nên
đặt từ ‘dân sự’ ngay sau khái niệm ‘hợp đồng’ vì dễ gây hiểu lầm, và không cần thiết.
Tóm lại, định nghĩa hợp đồng (dân sự) tại Điều 388 BLDS 2005 là chấp nhận
được. Tuy vậy, để đảm bảo tính chuẩn xác của thuật ngữ này, tác giả kiến nghị Quốc
hội cần sửa đổi Điều 388 BLDS 2005 theo hướng bỏ hai từ ‘dân sự’ kèm theo sau
thuật ngữ ‘hợp đồng’.
1.1.2. Bản chất của hợp đồng
Như đã được thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được
tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp
lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và
trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung qui lại, tất cả
các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận
giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng.
Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng.
Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo
ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng, “yếu tố thỏa thuận của các
chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối” [239, tr.20].
14
Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn
bạc” [217, tr.1578]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thỏa thuận là “sự nhất trí
chung được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào
trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua quá
trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hòa.”
[93, tr.238].
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật qui
định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí
chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng
sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa
tích cực hơn, so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm
‘thương lượng’ hay ‘bàn bạc’ dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các
bên và khái niệm ‘đồng ý’ dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm ‘thỏa
thuận’ ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự ‘thống nhất ý
chí’. Đó là quá trình ‘dung hòa’ giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên, đến
sự hiệp ý hay gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được ‘sự nhất
trí chung’, hay ‘sự đồng thuận’ giữa hai hay nhiều bên đó.
Bản chất của sự thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự
bày tỏ ý chí’ của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ‘ưng thuận’ tương
ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự ‘đồng thuận’ của các bên, nhằm đạt một
mục đích xác định. Bởi thế, có ý kiến cho rằng, “thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn
của các bên về một điều gì đó mà các bên mong muốn đạt được” [257, tr.10].
Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà
còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của
quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục
đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hoặc làm một việc gì cụ thể. Nếu một bên
thể hiện ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không
thể có một sự ‘hiệp ý’. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà,
nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn
giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập.
Tuy vậy, những thỏa thuận thiếu vắng các nội dung cụ thể là chuyện phổ biến
trong thực tế, vì có thể do các bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy.
15
Trong trường hợp có tranh chấp, những nội dung còn thiếu sẽ được tòa án xem xét và
áp dụng các điều khoản dự phòng của pháp luật, hoặc có thể bổ túc thông qua việc giải
thích hợp đồng. Hợp đồng được coi là hoàn thành, nếu các bên đã thỏa thuận được
những nội dung chủ yếu. Hợp đồng được coi là chưa hoàn thành, nếu thiếu những nội
dung chủ yếu mà tòa án không thể bổ túc được. Một thỏa thuận chỉ được coi là có giá
trị pháp lý, nếu nội dung và mục đích của nó không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội.
Ngoài ra, thỏa thuận chỉ có thể làm phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên
nếu tuân thủ các yêu cầu do pháp luật qui định như điều kiện về chủ thể, điều kiện về
nội dung và mục đích, điều kiện về sự tự nguyện, và điều kiện về hình thức hợp đồng
trong trường hợp pháp luật có qui định. Đây gọi là các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng. Các nội dung này sẽ được trình bày trong chương hai của Luận án.
Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa
thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn hợp đồng.
1.1.2.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
Một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng
buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các
quyền và nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi
hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hoặc một lời hứa danh dự, như lời
hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hoặc thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay
cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này
không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa
danh dự hoặc các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất
hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý
và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng.
Trong xã hội ngày nay, người ta cũng sử dụng nhiều hình thức cam kết mang
tính chất thỏa thuận nội bộ trong một khu vực dân cư, một đơn vị hành chính, một địa
phương để cùng làm một việc hay cùng thực hiện một cuộc vận động gì đó của địa
phương, đơn vị. Ví dụ như bản cam kết thực hiện cuộc vận động “nói không với tiêu
16
cực” giữa các nhà giáo với lãnh đạo ngành giáo dục, hay cam kết “thực hiện nếp sống
văn minh đô thị” của hộ gia đình với chính quyền địa phương. Những cam kết như vậy
cũng mang tính thỏa thuận, nhưng không phải là hợp đồng, vì không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Các cam kết này có thể mang tính “ràng
buộc”, thậm chí sự “vi phạm” các cam kết ấy có thể bị áp dụng các biện pháp “cưỡng
chế” (về mặt đạo đức) hay chế tài nhất định (như các chế tài hành chính), nhưng sự “vi
phạm” đó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng.
Cũng có những thỏa thuận đặt các bên vào một quan hệ nghĩa vụ luật định,
chẳng hạn như các thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận về việc nuôi con nuôi. Theo qui định
của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết đó không phải là hợp đồng. Quan điểm
của các luật gia cũng thừa nhận đây chỉ là những thỏa thuận tư nhân nhằm “thừa nhận
một qui chế pháp định”, chấp nhận thực hiện các nghĩa vụ “luật định sẵn”, chứ không
phải là hợp đồng [168, tr.59].
Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự
thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng [26, tr.96]. Chỉ những thỏa thuận tạo ra
một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự
tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng.
Nghiên cứu bản chất hợp đồng là tiền đề lý luận để xác định các điều kiện có hiệu lực
(hay tính hợp pháp) của hợp đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp
đồng, trình tự giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các vấn đề
pháp lý quan trọng khác của chế định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực hợp đồng.
1.2. KHÁI NIỆM HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG, HIỆU LỰC TƯƠNG ĐỐI CỦA HỢP
ĐỒNG
Hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính bản chất của hợp đồng, vì suy cho cùng,
các bên thiết lập hợp đồng là để ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Khi thiết
lập một hợp đồng, người ta luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp lý” đối
với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, nhằm
thỏa mãn các lợi ích các bên. Nội dung sau đây làm rõ khái niệm hiệu lực hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm hiệu lực hợp đồng
Hiệu lực của hợp đồng đối với sự tồn tại của hợp đồng có thể được ví giống như
là ‘hơi thở’ hay ‘linh hồn’ đối với sự sống của con người. Một hợp đồng không có hiệu
lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. Tuy nhận thức
17
được tính chất quan trọng của hiệu lực hợp đồng là như vậy, nhưng để đưa ra một định
nghĩa chính xác về hiệu lực của hợp đồng, quả là điều không dễ.
Trong hầu hết các quyển Từ điển Tiếng Việt và Từ điển chuyên ngành Luật ở
Việt Nam hiện nay (trừ quyển “Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học” của Trường Đại
học Luật Hà Nội) đều không có mục từ “hiệu lực của hợp đồng” mà chỉ có các mục từ
khác gần với nó, như “hiệu lực pháp luật của di chúc” hay “hiệu lực của các văn bản
pháp luật” [92, tr.289; 225, tr.203-4]. Theo các Từ điển này thì hiệu lực pháp luật (của
văn bản pháp luật nói chung) “là tính bắt buộc thi hành của văn bản…”, “là giá trị
pháp lý của văn bản…, hoặc (giá trị) áp dụng của văn bản đó,… thể hiện phạm vi tác
động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng
áp dụng” [225, tr.202; 287, tr.357-58].
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học có giải thích khái niệm “hiệu lực
của hợp đồng dân sự” là “giá trị bắt buộc thi hành đối các chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng” [241, tr.65]. Tuy ngắn gọn, nhưng định nghĩa này cũng phản ánh được bản
chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng. Tuy vậy, nội hàm của định nghĩa này vẫn chưa
đầy đủ, và nếu giải thích rõ ra thì cũng có phần chưa chính xác. Bởi lẽ, hiệu lực của
hợp đồng, hiểu theo đúng bản chất của nó, thì không chỉ là ‘giá trị bắt buộc thi hành’
mà còn bao gồm cả việc sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham
gia hợp đồng. Giá trị bắt buộc thi hành còn là đặc điểm chung của nhiều loại giao dịch
pháp lý khác, chứ không phải là đặc trưng riêng có của hiệu lực hợp đồng. Mặt khác,
trong định nghĩa này sử dụng cụm từ “đối với các chủ thể giao kết hợp đồng” là có
phần chưa chính xác. Bởi vì, chủ thể giao kết hợp đồng hoặc chủ thể thực hiện hợp
đồng chưa chắc là chủ thể của hợp đồng đó. Ở đây nếu sử dụng cụm từ “chủ thể tham
gia xác lập và thực hiện hợp đồng” thì đúng hơn và rõ nghĩa hơn.
Khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng không được tìm thấy trong một số từ điển
của nước ngoài bằng tiếng Anh, như quyển “Oran’s Dictionary of The Law - 3rd
ed.”
[334], “A Oxford Dictionary of Law – 5th
ed.” [329] hay quyển “Dictionary of Law -
4th
ed.” [307]. Tuy vậy, trong quyển Từ điển Bách khoa pháp luật Hoa Kỳ có đưa ra
định nghĩa về ‘hiệu lực’ (valid): “Hiệu lực là sự ràng buộc; sự cưỡng chế pháp lý…”
[306, tr.203]. Trong quyển “Black’ Law Dictionary – 6th
ed.” của Henry Campell
Black cũng không nêu khái niệm hiệu lực hợp đồng mà chỉ nêu khái niệm hợp đồng có
hiệu lực như sau: “Hợp đồng mà trong hợp đồng đó có đầy đủ các yếu tố pháp lý thì
18
có hiệu lực như pháp luật đối với các bên. Khi một hợp đồng được công nhận có hiệu
lực thì có sự ràng buộc pháp lý” [299, tr.1550]. Như vậy, trên phương diện giải thích
thuật ngữ, các từ điển trên đã đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng với dấu hiệu đặc
trưng cơ bản của nó là giá trị ràng buộc các bên phải thi hành nghiêm túc. Tuy vậy,
chỉ với dấu hiệu này, các khái niệm về hiệu lực hợp đồng trong các từ điển trên vẫn
chưa phản ánh đầy đủ các dấu hiệu thể hiện bản chất của hiệu lực hợp đồng.
Trong luật thực định, khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng được qui định trong
các văn bản pháp luật của một số quốc gia. Chẳng hạn, BLDS Pháp có qui định: “Hợp
đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật đối với các bên”, “chỉ có thể bị hủy bỏ
trên cơ sở có thỏa thuận chung, hoặc theo những căn cứ do pháp luật qui định” và
“phải được thực hiện một cách thiện chí” [19, Điều 1134]. Theo qui định này, hợp
đồng có hiệu lực thì có giá trị là luật đối với các bên, được pháp luật tôn trọng và bảo
vệ, được các bên phải tuân thủ và thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm túc, có
thiện chí. Các bên không thể hủy bỏ hợp đồng nếu không dựa trên ý chí tự nguyện của
tất cả các bên hoặc các căn cứ do pháp luật qui định.
Trong luật thực định Việt Nam, qui định về “hiệu lực hợp đồng” cũng được tìm
thấy trong một số BLDS ở Việt Nam trước đây. Theo Điều 673 DLB 1931 và Điều
713 DLT 1936-1939, “các hợp ước được kết lập theo pháp luật cũng có hiệu lực như
luật pháp đối với các bên kết ước”. Điều 687 DLSG 1972 cũng có qui định về “hiệu
lực của khế ước”, với nội dung cũng tương tự như Điều 1134 BLDS Pháp.
BLDS 1995 từng có qui định về hiệu lực hợp đồng như sau: “1. Hợp đồng được
giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; 2- Hợp đồng chỉ có thể bị sửa
đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định…” [16, Điều 404].
BLDS 2005 không qui định cụ thể về hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ qui định khái quát
là: “hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác” [15, Điều 405]. Có thể nói,
qui định này không thể hiện được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng – đó là giá
trị pháp lý ràng buộc đối với các bên, mà chủ yếu là để xác định thời điểm phát sinh
hiệu lực của hợp đồng. Ngoài ra, tại Điều 4 BLDS 2005 cũng có qui định chung về
hiệu lực của các cam kết dân sự: “cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc
thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.
19
Tóm lại, qua nghiên cứu khía cạnh pháp lý và từ điển của khái niệm hiệu lực
hợp đồng, chúng ta thấy có hai dấu hiệu thể hiện bản chất của nó, đó là: (i) giá trị pháp
lý của hợp đồng giống như pháp luật; và (ii) hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế
nhằm buộc các bên phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Giá
trị pháp lý và hiệu lực ràng buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng hợp đồng
là hai mặt không thể thiếu của hiệu lực hợp đồng. Trên cơ sở nhận thức bản chất của
‘hiệu lực hợp đồng’, tác giả xin đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng như sau:
Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia hợp
đồng phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó.
Về phương diện lý luận, việc nhận thức đúng khái niệm hiệu lực hợp đồng là cơ
sở để tiếp cận các vấn đề khác có liên quan đến việc nghiên cứu quá trình tạo lập, xác
nhận giá trị pháp lý và thực thi hợp đồng. Khái niệm này cũng thể hiện rõ các yếu tố
quan trọng mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng, đó là sáng tạo ra, làm thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các bên; đồng thời tạo ra sự ràng buộc pháp lý
nhằm bắt buộc các bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Khi bàn về hiệu lực của hợp đồng, người ta thường nhìn nhận hiệu lực hợp
đồng ở nhiều khía cạnh: điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, và hiệu lực tương đối của hợp đồng. Ba
nội dung đầu sẽ được lần lượt trình bày trong các chương 2, chương 3, chương 4 của
Luận án. Nội dung cuối được trình bày trong mục 1.2.2. dưới đây.
1.2.2. Hiệu lực tương đối của hợp đồng
Xét về phạm vi chủ thể, hiệu lực của hợp đồng chỉ ràng buộc đối với các bên
tham gia. Đây là hiệu lực tương đối của hợp đồng. Tuy nhiên, trong pháp luật hợp
đồng hiện đại, đôi khi hợp đồng còn có giá trị pháp lý đối với một số chủ thể khác.
Thậm chí có ý kiến còn cho rằng, “hợp đồng có hiệu lực áp dụng ngay cả đối với tòa
án” [227, tr.7].
1.2.2.1. Hiệu lực đối với các bên trực tiếp tham gia
Trong quan hệ hợp đồng thường có từ hai bên hoặc nhiều hơn hai bên tham gia,
gọi là các bên chủ thể hợp đồng. Các bên chủ thể hợp đồng rất đa dạng, bao gồm cá
nhân, pháp nhân, và các loại chủ thể khác theo qui định của pháp luật.
20
Như đã trình bày, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo đó, trong quan hệ hợp đồng,
quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia; quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng thường đối lập nhau một cách tương xứng.
Thường thì các bên có thể nhân danh chính mình để trực tiếp xác lập, thực hiện
hợp đồng, hoặc có thể gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua trung gian là người đại
diện hợp pháp. Tuy vậy, người đại diện hợp pháp không phải là chủ thể của hợp đồng
mà chỉ là người thay mặt và nhân danh chủ thể hợp đồng để xác lập, thực hiện hợp
đồng. Trong trường hợp này, quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng không có giá trị pháp
lý ràng buộc người đại diện (trực tiếp giao kết, thực hiện hợp đồng) mà chỉ có giá trị
ràng buộc đối với người được đại diện.
Riêng đối với những hợp đồng mang tính chất “gia nhập” thì các bên không cần
phải tham gia ngay từ đầu, mà có thể tự nguyện tuyên bố gia nhập sau khi hợp đồng
xác lập. Việc chủ thể tuyên bố ý chí tham gia hợp đồng sau khi hợp đồng đã được xác
lập và được sự “chấp nhận” của các bên có liên quan trong hợp đồng, thì cũng được
xem là chủ thể, có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng kể từ thời điểm đó. Ví dụ: trong
hợp đồng hợp tác để thành lập tổ hợp tác. Ban đầu, hợp đồng chỉ được ký kết bởi các
thành viên “sáng lập” tổ hợp tác. Sau này, nếu có người muốn gia nhập, thì có thể làm
đơn xin gia nhập gửi cho tổ hợp tác [182, Điều 7]. Khi có sự đồng ý của đa số tổ viên,
thì người đó trở thành thành viên của tổ hợp tác [15, Điều 118], theo đó coi như người
xin “gia nhập” tổ hợp tác đã mặc nhiên chấp nhận nội dung hợp đồng hợp tác mà
không cần trực tiếp tham gia ký kết hợp đồng.
Như vậy, khác với hiệu lực của pháp luật có giá trị bắt buộc chung đối với mọi
người trong xã hội, hiệu lực của hợp đồng có giá trị ràng buộc trước hết và chủ yếu là
đối với các bên trực tiếp tham gia hợp đồng - những người đã tự nguyện thỏa thuận
xác lập hợp đồng. Sở dĩ hợp đồng chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia
là vì hợp đồng được tạo ra bằng sự thỏa thuận của các bên, dựa trên nguyên tắc tự
nguyện và tự do ý chí. Bởi vậy, đối với các bên đã tự nguyện thỏa thuận tạo lập hợp
đồng thì phải chấp nhận sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
Tóm lại, theo nguyên tắc hiệu lực tương đối, hợp đồng có hiệu lực ràng buộc
chủ yếu đối với các bên tham gia hợp đồng, trừ những trường hợp ngoại lệ sau đây:
1.2.2.2. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba là người kế vị pháp lý
21
Khái niệm các bên hợp đồng không phải chỉ dùng để chỉ người trực tiếp tham
gia hợp đồng hoặc người gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua người đại diện hợp
pháp, mà các bên hợp đồng nói ở đây còn bao gồm cả những người kế vị pháp lý.
Người kế vị pháp lý không phải là người thứ ba bên ngoài hợp đồng, mà là
người thay thế tư cách pháp lý của chủ thể hợp đồng để trở thành một bên chủ thể của
hợp đồng đó, bao gồm các trường hợp thay thế chủ thể hợp đồng do chuyển nhượng
quyền hoặc chuyển giao nghĩa vụ [15, các Điều 309-317], hoặc do cải tổ các pháp
nhân [15, điểm a khoản 1 Điều 99 và các Điều 94-97], hoặc do thừa kế tài sản có kèm
theo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ [15, Điều 634, 637]. Nhưng tư cách của người
kế vị pháp lý có hai điểm khác biệt so với các bên trực tiếp xác lập hợp đồng:
+ Một là, theo qui định của BLDS 2005, có những loại nghĩa vụ mà theo pháp
luật hoặc theo thỏa thuận, chủ thể phải tự mình thực hiện thì không thể chuyển giao
cho người kế vị pháp lý (Điều 424, khoản 8 & 9 Điều 374, Điều 384, Điều 385). Ví
dụ: khi người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền chấm
dứt (khoản 4 Điều 589); hay trong hợp đồng thuê nhà, khi bên thuê chết mà không có
ai cùng chung sống thì hợp đồng thuê chấm dứt (khoản 3 Điều 499). Trong các trường
hợp này, tuy người thừa kế của người đã chết không kế vị pháp lý đối với hiệu lực hợp
đồng, nhưng lại kế vị pháp lý để giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp
đồng. Ví dụ: đòi bồi thường, đòi thực hiện các nghĩa vụ chưa thực hiện hoặc đòi hoàn
lại các khoản thanh toán còn thừa, sau khi trừ đi giá trị của phần nghĩa vụ đã thực hiện.
+ Hai là, sự kế vị pháp lý thông qua việc thừa kế tổng quát hoặc thừa kế đặc
định một tài sản cụ thể có kèm theo nghĩa vụ thích ứng của người tham gia hợp đồng,
thì người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi giới hạn của giá trị phần di
sản mà mình được hưởng [15, Điều 637]. Về nguyên tắc, một bên trong hợp đồng có
thể loại trừ trong hợp đồng việc chuyển giao nghĩa vụ hợp đồng cho người thừa kế
thực hiện. Tuy nhiên, các bên hợp đồng không thể thỏa thuận và qui định trong hợp
đồng điều khoản chuyển giao nghĩa vụ trong hợp đồng đó cho người thừa kế thực hiện,
vì điều này trái với nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng, trừ trường hợp việc
chuyển giao cho người kế vị pháp lý những lợi ích gắn liền với nghĩa vụ hợp đồng. Ví
dụ: khi hợp đồng thuê nhà đang còn hiệu lực, bên cho thuê nhà chết để lại thừa kế ngôi
nhà đang cho thuê. Trường hợp này, người thừa kế được kế vị toàn bộ các quyền và
nghĩa vụ của hợp đồng thuê nhà.
22
Suy cho cùng thì sự chuyển giao nghĩa vụ cũng là một hợp đồng vì đó là sự thỏa
thuận giữa bên có nghĩa vụ với người thứ ba để giao nghĩa vụ cho người thứ ba thực
hiện, trên cơ sở có sự đồng ý của người có quyền. Bởi vậy, đây cũng có thể được xem
là ngoại lệ của sự kế vị pháp lý, tức là thỏa thuận tạo lập nghĩa vụ để người thứ ba thực
hiện. Tuy vậy, nghĩa vụ ở đây không phải là nghĩa vụ mới được tạo ra từ hợp đồng mà
chỉ là nghĩa vụ đã được xác định trước khi hợp đồng “chuyển nghĩa vụ” được thiết lập.
Mặt khác, dựa trên ý chí của các bên trong hợp đồng, ‘hiệu lực tương đối’ của
hợp đồng cũng có sự ràng buộc và ảnh hưởng đáng kể đối với người kế vị pháp lý. Đó
là việc các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận giới hạn hiệu lực của hợp đồng đối
với người kế vị pháp lý, bao gồm việc hạn chế phạm vi người được kế vị pháp lý, hoặc
loại trừ việc kế vị pháp lý. Điều này có nghĩa, theo lẽ thông thường, đối với nghĩa vụ
có thể chuyển giao được, thì khi một bên chủ thể không còn tồn tại do chết hoặc do
chuyển nhượng tài sản hoặc do cải tổ pháp nhân, thì người thế quyền sẽ được kế vị
pháp lý để tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Nhưng nếu các
bên thỏa thuận không cho kế vị pháp lý hoặc hạn chế phạm vi người được kế vị pháp
lý, thì khi tư cách chủ thể của một bên chấm dứt, hợp đồng sẽ được thanh lý mà không
chuyển giao cho người khác kế vị.
Ví dụ: trong hợp đồng thuê mua nhà có thời hạn thanh toán 15 năm, các bên có
thỏa thuận người thuê mua chết trước khi trả đủ tiền mua nhà, thì hợp đồng chấm dứt
và người thừa kế chỉ được nhận lại tiền mua nhà, sau khi trừ tiền thuê. Do đó, nếu
người thuê mua chết trước khi thanh toán xong tiền mua nhà, thì người thừa kế của họ
sẽ không được kế vị pháp lý đối với hợp đồng thuê mua nói trên. Như vậy, cam kết
này đã có hiệu lực làm hạn chế việc thế quyền của người kế vị pháp lý, theo đó tư cách
kế vị pháp lý của người thừa kế bị hợp đồng “từ chối”. Tuy vậy, trong trường hợp này,
người thừa kế của chủ thể hợp đồng vẫn kế vị pháp lý đối với hậu quả pháp lý của việc
chấm dứt hợp đồng theo qui định chung, như yêu cầu thanh toán tiền còn thiếu, hoặc
hoàn trả khoản tiền được thanh toán thừa, và các hậu quả vật chất khác.
1.2.2.3. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba không phải là người kế vị pháp lý
Một trong những vấn đề pháp lý rất đáng được quan tâm là, liệu một hợp đồng
do các bên thiết lập thì có hiệu lực đối với người khác, ngoài các bên trực tiếp tham gia
và người kế vị pháp lý của họ, hay không. Nói ngắn gọn, hợp đồng có hiệu đối với
người thứ ba ngoại cuộc hay không ?
23
Trước hết, nếu chỉ hiểu đơn giản hiệu lực của hợp đồng là “giá trị pháp lý” thì
khi hợp đồng được lập theo thể thức công chứng hoặc đăng ký thì hợp đồng đó có giá
trị pháp lý đối với người thứ ba. Ví dụ: hợp đồng bảo đảm có đăng ký, thì hợp đồng đó
“có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký” [15, khoản 3 Điều
323]. Nếu hiểu hiệu lực hợp đồng đối với người thứ ba theo nghĩa hiệu lực ràng buộc
phải thực thi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, thì vấn đề này không được thể
hiện rõ ràng trong luật thực định.
Về phương diện lịch sử, xuất phát từ câu tục dao La Tinh: “Res inter alios acta,
aliis neque nocere, neque prodesse potest” (một hợp đồng được ký kết giữa các bên
thường không làm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nhưng cũng
không mặc nhiên làm lợi cho các bên khác), các luật gia theo quan niệm cổ điển xem
hiệu lực tương đối của hợp đồng như là một nguyên tắc hiển nhiên. Tuy vậy, theo GS
Vũ Văn Mẫu, “nguyên tắc ấy, đối với các luật gia ngày nay, chỉ còn có một giá trị
tương đối” [168, tr.271]. Pháp luật hợp đồng hiện đại đã cho phép có những ngoại lệ
để thu hẹp hoặc nới rộng hiệu lực tương đối của hợp đồng [227, tr.6]. Theo đó, ngoài
việc thừa nhận nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng (chỉ có hiệu lực đối với
các bên tham gia), pháp luật còn chấp nhận ngoại lệ: hợp đồng có hiệu lực đối với
người thứ ba trong trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định
khác, nhưng đó là những trường hợp chấp nhận có điều kiện.
Có hai trường hợp hợp đồng được ký kết cho người thứ ba được hưởng lợi:
(i) Ký kết hợp đồng thay cho người thứ ba. Đó là những trường hợp một bên
trong hợp đồng tuy không có tư cách đại diện của bên thứ ba nhưng vẫn nhân danh bên
thứ ba để xác lập hợp đồng với bên kia. Đây là trường hợp vượt quá phạm vi đại diện,
hoặc không có tư cách đại diện. Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết trong trường
hợp này chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia chứ không có hiệu lực đối với người
thứ ba. Tuy vậy, hợp đồng này vẫn có hiệu lực ràng buộc đối với người thứ ba nếu có
hai điều kiện [15, Điều 145, 146]: một là bên xác lập hợp đồng phải thông báo cho
người thứ ba và được người thứ ba tuyên bố chấp nhận hợp đồng (đối với hợp đồng
được ký bởi người không có tư cách đại diện), hoặc người thứ ba biết mà không phản
đối (đối với hợp đồng được ký vượt quá phạm vi đại diện); thứ hai, bên kia là người
ngay tình (không biết và không buộc phải biết người ký hợp đồng với mình không có
tư cách đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện).
24
(ii) Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Khi hợp đồng được ký kết để người
thứ ba hưởng lợi thì được gọi là hợp đồng vì lợi của người thứ ba. “Hợp đồng vì lợi ích
của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa
vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó” [15, khoản 5
Điều 406], chẳng hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người được bảo hiểm là người
thứ ba hoặc chỉ định người thứ ba thụ hưởng, hợp đồng vận chuyển để giao hàng cho
người thứ ba (là bên mua hàng của bên thuê vận chuyển), hợp đồng dịch vụ chăm sóc
khách hàng, hợp đồng đại lý bảo hành sản phẩm hàng hóa…
Có ba dấu hiệu đặc trưng của người thứ ba được hưởng lợi ích từ hợp đồng:
Thứ nhất, người thứ ba phải là những cá nhân, tổ chức hoặc những chủ thể hiện
đang tồn tại và có năng lực pháp lý để thụ hưởng lợi ích mà họ được chỉ định thụ
hưởng. Các chủ thể không tồn tại trên thực tế (trừ trường hợp người đó đã thành thai
và sinh ra còn sống) vào thời điểm phát sinh quyền thụ hưởng, hoặc không có năng lực
pháp lý để thụ hưởng quyền lợi thì không thể trở thành người thứ ba của hợp đồng.
Thứ hai, người thứ ba là người được xác định rõ trong hợp đồng vào thời điểm
hợp đồng được thành lập. Việc xác định ở đây có thể là chỉ rõ danh tính hoặc chỉ rõ
các tính chất, đặc điểm xác định hoặc có thể xác định được vào lúc thực hiện quyền
thụ hưởng của người đó, hoặc vào lúc phát sinh nghĩa vụ của các bên để người đó
hưởng lợi ích. Ví dụ: trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa có thỏa thuận hàng hóa đó
sẽ được giao cho người có quyền sở hữu “sau cùng”2
tính đến thời điểm giao hàng.
Thứ ba, các lợi ích mà người thứ ba được hưởng phải được xác định rõ vào lúc
hợp đồng được xác lập.
Hiệu lực hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba được thể hiện ở các mặt sau:
+ Ngoài hiệu lực ràng buộc các bên tham gia, hợp đồng vì lợi ích của người thứ
ba còn ràng buộc các bên phải thực hiện hợp đồng để mang đến lợi ích cho người thứ
ba. Theo đó, người thứ ba cũng có quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng để mang đến lợi
ích cho mình [15, Điều 419]. Ví dụ: hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa doanh
nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm để người thứ ba được thụ hưởng lợi ích, thì
2
Trường hợp này, tuy người được nhận hàng không được chỉ rõ danh tính lúc ký hợp đồng, nhưng có thể xác
định được dựa vào đặc điểm: người được nhận hàng sau cùng, có vận đơn để nhận hàng vào thời điểm giao hàng.
25
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm người thụ hưởng có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm
trả tiền bảo hiểm [148, khoản 8 Điều 3].
+ Người thứ ba có quyền từ chối nhận lợi ích từ hợp đồng, trừ trường hợp việc
từ chối đó xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nếu trước khi hợp
đồng được thực hiện mà người thứ ba từ chối và sự từ chối của người thứ ba là hợp
pháp thì hợp đồng bị coi như hủy bỏ [15, Điều 420]. Nếu sự từ chối của người thứ ba
là trái pháp luật thì hợp đồng đó có thể vẫn được thực hiện theo nguyên tắc chung của
pháp luật. Ví dụ: bên bán ký hợp đồng vận chuyển hàng với bên vận chuyển để giao
cho bên mua, nhưng bên mua lại từ chối nhận hàng hoặc không có mặt để nhận hàng
tại nơi đến mà việc từ chối hoặc việc không có mặt đó không thuộc trường hợp được
pháp luật cho phép, thì việc giao hàng do bên thuê vận chuyển quyết định: việc giao
hàng có thể vẫn được tiếp tục thực hiện bằng cách gửi hàng vào nơi gửi giữ và thông
báo cho người mua biết về việc hàng hóa đã được giao và đã được gửi giữ theo đúng
qui định của pháp luật [15, khoản 1 Điều 376].
+ Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực
hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ
trường hợp được người thứ ba đồng ý [15, Điều 421].
+ Khi người thứ ba chấp nhận hợp đồng được ký kết vì lợi ích của mình thì
người thứ ba vẫn phải có những nghĩa vụ nhất định từ hợp đồng. Ví dụ: nếu người thứ
ba là người được bảo hiểm hoặc được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm thì họ phải có
nghĩa vụ thông báo về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, tuân thủ các qui tắc của hợp đồng
bảo hiểm khi tiến hành các thủ tục để hưởng lợi ích bảo hiểm; hoặc trong hợp đồng
vận chuyển hàng hóa cho bên thứ ba nhận hàng thì bên thứ ba phải nhận hàng đúng
thời gian, địa điểm, xuất trình vận đơn hợp lệ, chịu chi phí bốc dỡ hàng…
Nói tóm lại, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba kế vị pháp lý và người
thứ ba không kế vị pháp lý có sự khác biệt cơ bản. Người thứ ba kế vị pháp lý là người
thay thế vị trí của một bên chủ thể hợp đồng để có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp
đồng, kể từ khi bên mà họ kế vị pháp lý chấm dứt tư cách chủ thể hợp đồng. Ngược
lại, người thứ ba không phải là người kế vị pháp lý là một chủ thể độc lập, không có
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ thể hợp đồng, nhưng trong nhiều trường hợp,
người này có thể được hưởng nguyên tắc “song quyền” [108, tr.65] giống như chủ thể
hợp đồng, ngay cả khi chủ thể hợp đồng vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, họ còn có những
26
quyền và nghĩa vụ của riêng mình đối với một hoặc các bên của hợp đồng, mà đôi khi
chủ thể trực tiếp của hợp đồng hoặc người kế vị pháp lý không có các quyền đó.
1.2.2.4. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba là chủ sở hữu của đối tượng của
hợp đồng
Về nguyên tắc, một hợp đồng không thể làm thiệt hại cho quyền lợi của người
thứ ba. Mặt khác, theo nguyên tắc bảo vệ quyền của chủ sở hữu, thì không ai có quyền
xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu (Điều 164
và Điều 169 BLDS 2005). Theo đó, các bên không được phép xác lập các hợp đồng
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, nếu không được chủ sở hữu cho
phép hoặc đồng ý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, pháp luật cho phép
hoặc thừa nhận chủ thể khác có quyền được xác lập các hợp đồng để chuyển giao các
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, với
những điều kiện và căn cứ pháp luật xác định. Đó là các trường hợp:
(i) để bảo vệ quyền lợi của chính chủ sở hữu tài sản. Theo qui định của pháp
luật, chỉ có chủ sở hữu mới có quyền tự mình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình. Người khác chỉ được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản của chủ sở hữu nếu được chủ sở hữu cho phép, hoặc đồng ý, hoặc phải có căn cứ
do pháp luật qui định. Ví dụ: Để bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu đối với tài sản hoặc
hạn chế những tổn thất có thể gây ra cho tài sản (mà chủ sở hữu hiện không trực tiếp
quản lý), pháp luật cũng qui định cho phép bên giữ tài sản có quyền bán tài sản gửi giữ
đang có nguy cơ bị hư hỏng hoặc tiêu hủy để bảo vệ quyền lợi của bên gửi (khoản 3
Điều 288, khoản 4 Điều 563 BLDS 2005).
(ii) để bảo vệ quyền lợi của đồng sở hữu chủ tài sản. Đối với việc định đoạt nhà
ở thuộc quyền sở hữu chung (theo phần) mà có đồng sở hữu chủ vắng mặt, thì các
đồng sở hữu chủ đang quản lý nhà ở đó có thể bán nhà ở mà không cần phải được sự
đồng ý của đồng sở hữu chủ vắng mặt, nhưng phải thực hiện theo những trình tự, thủ
tục nhất định: yêu cầu tòa án có thẩm quyền tuyên bố mất tích đối với người vắng mặt,
sau đó bán nhà ở thuộc sở hữu chung và gửi tiền bán nhà thuộc phần quyền của người
đó vào ngân hàng… (Điều 96 Luật Nhà ở 2005, Điều 57 Nghị định 71/2010/NĐ-CP
ngày 23/6/2010 của Chính phủ hướng dẫn Luật Nhà ở).
(iii) để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Người thứ ba chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình có quyền khai thác, sử dụng, hưởng hoa
lợi, lợi tức từ tài sản theo qui định của pháp luật (khoản 3 Điều 194 BLDS 2005). Mặt
27
khác, nếu giao dịch dân sự vô hiệu mà tài sản là đối tượng của giao dịch đó đã được
chuyển cho người thứ ba ngay tình, thì chủ sở hữu tài sản phải tôn trọng giá trị pháp lý
của giao dịch với người thứ ba ngay tình. Theo đó, chủ sở hữu không có quyền đòi lại
các tài sản bị người khác chuyển nhượng cho người thứ ba ngay tình (Điều 138 BLDS
2005), trừ các trường hợp được qui định tại các Điều 257 và Điều 258 BLDS 2005.
(iv) để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ khi chủ sở hữu cố tình từ chối thực hiện
nghĩa vụ trả nợ. Theo qui định của Điều 46, Điều 101 Luật Thi hành án dân sự (2008)
và các qui định liên quan, nếu bên phải thi hành nghĩa vụ trả nợ theo quyết định, bản
án có hiệu lực của tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không tự nguyện thi
hành trong thời hạn qui định, thì bị cưỡng chế thi hành án. Cơ quan thi hành án có
quyền ra quyết định bán đấu giá tài sản dùng để thi hành án theo qui định của Nghị
định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về Bán đấu giá tài sản. Khi hợp
đồng bán tài sản đấu giá được xác lập, thì chủ sở hữu tài sản phải chuyển giao tài sản
đó cho người mua đấu giá theo thỏa thuận trong hợp đồng bán tài sản đấu giá giữa bên
bán đấu giá với người được mua tài sản đó (Điều 41 Nghị định 17/2010/NĐ-CP).
Như vậy, hiệu lực của các hợp đồng do người khác xác lập trong các trường
hợp trên phải được chủ sở hữu tôn trọng. Cơ sở pháp lý để buộc chủ sở hữu phải tôn
trọng các hợp đồng nói trên là nguyên tắc hạn chế quyền sở hữu - chủ sở hữu thực hiện
các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản của mình không được gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác (Điều 165 BLDS 2005) và nguyên tắc bảo vệ quyền lợi
của người chiếm hữu ngay tình, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của
các bên khác có liên quan.
1.2.2.5. Giá trị pháp lý của hợp đồng được các chủ thể pháp lý khác tôn trọng
Ngoài việc tạo ra hiệu lực ràng buộc các bên tham gia và người thứ ba trong
một số trường hợp nhất định như vừa trình bày trên đây, theo quan điểm của nhiều luật
gia, giá trị pháp lý của hợp đồng còn có hiệu lực áp dụng đối với các cơ quan tài phán
và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác trong việc thực hiện các hành vi pháp lý
liên quan tới hợp đồng. Theo ý kiến của một học giả thì ngoài hiệu lực ràng buộc đối
với các bên, “hợp đồng có hiện lực ngay cả đối với tòa án” [227, tr.7]. Ý kiến này
cũng được nhiều học giả khác đồng tình: “khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, xử lý vi
phạm hợp đồng, tòa án hoặc trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng
để ra bản án hoặc quyết định công bằng, đúng đắn” [177, tr.23]; hoặc: “Nếu trong hợp
đồng, các bên đã có những cam kết, thỏa thuận cụ thể về những nội dung cơ bản thì sự
28
ghi nhận cụ thể đó trong hợp đồng là căn cứ pháp lý để tòa án và các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng khi giải quyết tranh chấp” [239, tr.23].
Luật thực định Việt Nam thừa nhận các cam kết không trái pháp luật và đạo
đức, thì được “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ” [154, khoản 1 Điều 11]. Hơn nữa, giá
trị pháp lý của giao dịch dân sự nói chung, hợp đồng nói riêng, không chỉ “có hiệu lực
bắt buộc thực hiện đối với các bên” mà còn “phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác tôn trọng” [15, Điều 4]. Hiểu rộng ra, giá trị pháp lý của hợp đồng còn được bảo
đảm bởi pháp luật nhằm buộc cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác phải tôn trọng. Ví dụ:
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan
công chứng, cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất… phải tôn
trọng hiệu lực của hợp đồng và phải thực hiện các nghiệp vụ pháp lý cần thiết theo qui
định pháp luật để bảo đảm các hợp đồng được tôn trọng và thực thi nghiêm túc.
Giá trị pháp lý của hợp đồng còn có hiệu lực ràng buộc đối với tòa án khi xét xử
các tranh chấp liên quan tới quan hệ pháp luật giữa các bên tranh tụng. Ví dụ: Điều
khoản của hợp đồng về việc chọn lựa cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp giữa các
bên là tòa án Việt Nam; điều khoản chọn lựa luật áp dụng giải quyết tranh chấp hợp
đồng là luật Việt Nam; điều khoản xác định trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng; điều
khoản miễn trừ trách nhiệm… là những điều khoản mà tòa án phải tôn trọng, và được
xem là căn cứ để giải giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng.
Hơn nữa, tòa án cũng phải tôn trọng và phải đảm bảo rằng, các hợp đồng được
thiết lập hợp pháp thì có giá trị pháp lý và được pháp luật tôn trọng và bảo đảm thực
hiện. Khi giải quyết quyền lợi của các bên, tòa án cần dựa trên căn cứ pháp lý là qui
định cụ thể của các điều khoản trong hợp đồng, mà không được can thiệp một cách tùy
tiện vào hiệu lực của hợp đồng. Nếu cần thiết phải can thiệp vào hiệu lực của hợp
đồng, tòa án phải chỉ ra căn cứ pháp lý được qui định minh thị, và cũng chỉ được can
thiệp trong giới hạn mà pháp luật cho phép. Nếu nội dung của hợp đồng không đầy đủ
thì tòa án cần áp dụng các qui phạm bổ khuyết của luật để làm căn cứ xem xét việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nếu có những điều khoản chưa rõ ràng, tòa
án cần giải thích hợp đồng, thì tòa án phải giải thích hợp đồng sao cho theo hướng duy
trì hiệu lực của hợp đồng hơn là phủ nhận hiệu lực của hợp đồng [15, Điều 409].
Có thể nói, hiệu lực tương đối của hợp đồng và hiệu lực ràng buộc của hợp
trong luật thực định Việt Nam là vấn đề phức tạp và hiện vẫn còn nhiều vấn đề gây
tranh cãi. Những bất cập của luật thực định về vấn đề này sẽ được bàn đến trong
chương bốn của Luận án này.
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam
Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam

More Related Content

What's hot

Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAYĐề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
Đề tài: Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật, HAY
 
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hônĐề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đìnhLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
 
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOTLuận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
Luận văn: Giải thích hợp đồng theo pháp luật dân sự, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docxBáo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAYLuận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
Luận văn: Xử lý hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đấtLuận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của ...
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động 2012
Luận văn: Giao kết hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động 2012Luận văn: Giao kết hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động 2012
Luận văn: Giao kết hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động 2012
 
Luận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóa
Luận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóaLuận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóa
Luận văn: Pháp luật về đề nghị giao kết hợp đồng trong toàn cầu hóa
 
Luận văn: Pháp luật hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp, HAYLuận văn: Pháp luật hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật hợp đồng lao động tại các doanh nghiệp, HAY
 
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luậtLuận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docxBáo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
 
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOTCăn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 

Viewers also liked

Phu luc tt21 hop dong lao dong
Phu luc tt21 hop dong lao dongPhu luc tt21 hop dong lao dong
Phu luc tt21 hop dong lao dongChơi Ngông
 
100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường Biển
100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường Biển100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường Biển
100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường BiểnTrung Tâm Kiến Tập
 
Quy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồng
Quy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồngQuy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồng
Quy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồnghoasengroup
 
Tài liệu luật hình sự
Tài liệu luật hình sựTài liệu luật hình sự
Tài liệu luật hình sựLinh Nguyen
 
Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...
Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...
Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...https://www.facebook.com/garmentspace
 
các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...
các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...
các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...Red Sky
 
Diario Resumen 20150317
Diario Resumen 20150317Diario Resumen 20150317
Diario Resumen 20150317Diario Resumen
 
Taking a long view
Taking a long viewTaking a long view
Taking a long viewWesley Fogel
 

Viewers also liked (16)

Phu luc tt21 hop dong lao dong
Phu luc tt21 hop dong lao dongPhu luc tt21 hop dong lao dong
Phu luc tt21 hop dong lao dong
 
100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường Biển
100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường Biển100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường Biển
100 câu hỏi về Hợp đồng Vận Chuyển Đường Biển
 
Quy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồng
Quy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồngQuy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồng
Quy trình soạn thảo và thẩm định hợp đồng
 
Tài liệu luật hình sự
Tài liệu luật hình sựTài liệu luật hình sự
Tài liệu luật hình sự
 
Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...
Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...
Luận án tiến sĩ luật học vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước v...
 
các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...
các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...
các tình tiết giảm nhẹ được xem là tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết đ...
 
Diario Resumen 20150317
Diario Resumen 20150317Diario Resumen 20150317
Diario Resumen 20150317
 
La gènesi del document
La gènesi del documentLa gènesi del document
La gènesi del document
 
Resume
ResumeResume
Resume
 
Avgusta 2003
Avgusta 2003Avgusta 2003
Avgusta 2003
 
Margarita
Margarita Margarita
Margarita
 
Kombajny ceny
Kombajny cenyKombajny ceny
Kombajny ceny
 
Vidin 2011
Vidin 2011Vidin 2011
Vidin 2011
 
BestPoint
BestPointBestPoint
BestPoint
 
Taking a long view
Taking a long viewTaking a long view
Taking a long view
 
Como viaja la información jesus
Como viaja la información jesusComo viaja la información jesus
Como viaja la información jesus
 

Similar to Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam

Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂMLuận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂMViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfHanaTiti
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...hieu anh
 

Similar to Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam (20)

Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hotLuan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
Luan van giai thich hop dong theo phap luat dan su viet nam, hot
 
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mạiLuận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
 
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đ
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đThỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đ
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại, 9đ
 
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mạiĐề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
 
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂMLuận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
Luận văn: Các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại, 9 ĐIỂM
 
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các thể loại chế tài đối với vi phạm hợp đồn...
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
 
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAYĐề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
 
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAYĐề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng -  vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật - Gửi miễn phí qu...
 
Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019
Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019
Đề tài: Vấn đề về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT, 2019
 
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAYLuận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂMLuận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAYLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
 
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động theo pháp lu...
 
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAYĐề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 

More from https://www.facebook.com/garmentspace

Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...
Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...
Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdfKhóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdfhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...
Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...
Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...
Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...
Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Đề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.doc
Đề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.docĐề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.doc
Đề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.dochttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...
Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...
Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...https://www.facebook.com/garmentspace
 

More from https://www.facebook.com/garmentspace (20)

Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu...
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty cổ phần...
 
Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...
Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...
Khóa luận tốt nghiệp Xây dựng hệ thống hỗ trợ tương tác trong quá trình điều ...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi ...
 
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...
Khóa luận tốt nghiệp Quản trị kinh doanh Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phân qu...
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ...
 
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự t...
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cung ứng dịch vụ vận tải hàng ...
 
Khóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdfKhóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Tuyển dụng nhân lực tại Công ty Cổ phần Miken Việt Nam.pdf
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Nâng cao hiệu quả áp dụng chính sách tiền lươ...
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về an toàn lao động và vệ sinh lao ...
 
Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...
Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...
Khóa luận tốt nghiệp Giải pháp phát triển hoạt động marketing điện tử cho Côn...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Th...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng...
 
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...
Khóa luận tốt nghiệp Kinh tế Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng ...
 
Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...
Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...
Khóa luận tốt nghiệp Hoàn thiện công tác hoạch định của Công ty Cổ phần Đầu t...
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn ...
 
Đề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.doc
Đề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.docĐề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.doc
Đề tài Tác động của đầu tư đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.doc
 
Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...
Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...
Luận văn đề tài Nâng cao sự hài lòng về chất lượng dịch vụ tại công ty TNHH D...
 
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...
Khóa luận tốt nghiệp Phân tích và thiết kế hệ thống thông tin quản lý nhân sự...
 

Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật việt nam

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH --------- --------- LÊ MINH HÙNG HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 62.38.50.01 LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN HUY HỒNG PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
  • 2. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án
  • 3. ii MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG........................8 1.1. Khái niệm, bản chất của hợp đồng .........................................................................................8 1.2. Khái niệm hiệu lực hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng .........................................16 1.3. Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng......................................................................29 Chương 2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG..........................................39 2.1. Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực..................................................................39 2.2. Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có qui định ...................................................................................................................................49 2.3. Một số bất cập trong các qui định pháp luật hiện hành về hình thức hợp đồng và định hướng hoàn thiện.........................................................................................................................66 Chương 3. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG.........................................85 3.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: khái niệm và qui định chung ....................................85 3.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng .........................................................................................................................95 3.3. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng........116 Chương 4. HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG ............................................125 4.1. Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng: khái niệm và các qui định ...........................................125 4.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng.....................................................................................................................134 4.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng ................................142 Chương 5. HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI......................154 5.1. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: khái niệm và nội dung cơ bản......155 5.2. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) trong pháp luật các nước và trong tập quán thương mại quốc tế.................................................................161 5.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp lý Việt Nam về điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...............................................................................................................171 5.4. Kiến nghị xây dựng và hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...............................................................................................186 KẾT LUẬN.............................................................................................................................198 NHỮNG CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 4. iii DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLDS 1995 Bộ luật Dân sự 1995 BLDS 2005 Bộ luật Dân sự 2005 DLB 1931 Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931 DLSG 1972 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 DLT 1936 - 1939 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939 HĐND Hội đồng nhân dân HĐTP Hội đồng thẩm phán HP 1992 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết 51/2001/QH10 LNO 2005 Luật Nhà ở 2005 LSHTT 2005 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 LTM 1997 Luật Thương mại 1997 LTM 2005 Luật Thương mại 2005 PECL Principles of European Contract Law (Bộ Nguyên tắc Luật Hợp đồng châu Âu) PICC Principles of International Commercial Contract (Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT) TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân tối cao UBND Ủy ban nhân dân
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Hợp đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội. Trong hầu hết các BLDS cổ điển, hợp đồng “chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế định khác” do “vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường…”[336, tr.900]. Xã hội càng phát triển, hợp đồng ngày càng được sử dụng như là một chuẩn mực ứng xử phổ biến giữa tư nhân với nhau, giữa tư nhân với cơ quan nhà nước, thậm chí là giữa xã hội với nhà nước (như quan niệm của Rousseau [229]) trong các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại và trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Ngày nay, chế định hợp đồng và hiệu lực hợp đồng trở thành một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam.Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu, phân tích về chế định hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề hiệu lực hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng nói ở đây chính là sự tạo lập ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên giao kết [249, tr.24], là hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối với các bên tham gia [299, tr. 1550]. Một hợp đồng được ký kết, nếu không có hiệu lực thì hợp đồng đó chưa thể tạo ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên, chưa ràng buộc các bên với nhau và pháp luật cũng chưa tác động đến cách xử sự của các bên theo qui định của hợp đồng đó. Vì vậy, trước khi giao kết hợp đồng, thậm chí ngay trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên tham gia hợp đồng phải biết về hợp đồng và những qui định của pháp luật liên quan đến tính hiệu lực của hợp đồng. Có thể nói, pháp luật về hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng càng hoàn thiện thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể ngày càng thuận lợi. Tuy vậy, xét trên nhiều phương diện, vấn đề hiệu lực của hợp đồng là một vấn đề pháp lý rất phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.Về mặt lý luận, các học giả vẫn chưa thống nhất được với nhau trong việc xác định nội dung của hiệu lực hợp đồng. Nhận xét về thực tế này, có luật gia cho rằng: “Dù luật gia nào cũng nói tới hiệu lực của hợp đồng, nhưng khi được hỏi nó là gì và nội dung ra sao thì phần lớn chỉ nói tới điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” [38, tr. 37].
  • 6. 2 Trong thực tiễn lập pháp, vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được qui định khá cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Tuy nhiên, một số quy định về hiệu lực hợp đồng trong BLDS 2005 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho công tác giải quyết các tranh chấp có liên quan. Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hiện vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi trong giới luật học, đặc biệt là điều kiện hình thức và đường lối xử lý các hợp đồng vi phạm hình thức. Qui định về thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế và không khả thi. Những bất cập trên đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện. So với pháp luật hợp đồng của một quốc gia (Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga…), các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế (PICC, PECL), qui định trong luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế đòi hỏi cần phải có sự cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, theo hướng tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật hợp đồng của các nước và của các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế, làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng hoàn thiện và có sự tương đồng hơn so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm, dưới những góc độ khác nhau. 2.1. Ở nước ngoài: Có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập đến các vấn đề có liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, như: các sách chuyên khảo về Luật hợp đồng The Modern Law of Contract, 5th ed của Richard Stone [341], European Contract Law, Vol 1 – Formation, Validity and Content of Contract… của Hein Kotz & Axel Flessner [321], Elements of the Law of Contract của MacMillan C.A. & R. Stone [324], The Oxford Handbook of Comparative Law của M. Reinmann & R. Zimmermann [336], The German Law of Contract – A Comparative Treaties, 2nd ed. của Basil Markesinis & others [328], Bài báo Competing Approaches to Force Majeure and Hardship của Catherine Kessedjian [318]…
  • 7. 3 Các công trình này không nghiên cứu chuyên biệt về hiệu lực hợp đồng nói chung, và hiệu lực hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam, nói riêng. 2.2. Ở trong nước: Có một số Luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên quan đến hiệu lực hợp đồng, như đề tài “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm Hữu Nghị; “Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ [247]; “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu” của TS. Nguyễn Văn Cường [44]... Hiện còn có một số sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới một số khía cạnh pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, như quyển “Việt Nam Dân luật - luợc khảo” của GS. Vũ Văn Mẫu, [168], “Pháp luật về hợp đồng” của TS. Nguyễn Mạnh Bách [5], “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh [108], “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử” của GS.TS. Nguyễn Thị Mơ [174], “Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án”, của TS. Đỗ Văn Đại [54]. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí, như “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của PGS.TS. Đinh Văn Thanh [240], “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam” của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa [201], “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của TS. Phạm Công Lạc [115]… Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, nhưng các công trình kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật là không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam, trên cơ sở đối chiếu với qui định về hiệu lực hợp đồng của một số quốc gia trên thế giới và một số Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế nhằm góp phần làm rõ và làm phong
  • 8. 4 phú thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật quốc tế về hợp đồng; đồng thời đưa ra những kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các qui định còn bất cập, thiếu sót trong pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng theo xu hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hiệu lực của hợp đồng, như: làm rõ khái niệm và bản chất của vấn đề hiệu lực của hợp đồng, xây dựng khái niệm cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng; làm rõ cơ sở lý luận và các vấn đề pháp lý liên quan đến hiệu lực của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ảnh hưởng của nó đối với hiệu lực pháp luật của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. - Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam, bao gồm cả việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật liên quan và những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập của pháp luật về hiệu lực của hợp đồng, đánh giá thực trạng của qui định pháp luật về hiệu lực của hợp đồng, để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi, bổ khuyết trong các văn bản pháp luật về hợp đồng hiện hành của Việt Nam. - Trên cơ sở những bất cập đã được xác định để từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp pháp lý cụ thể trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết làm căn cứ cho việc đề xuất những kiến nghị và giải pháp cụ thể đó. 4. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung: Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề rất rộng. Mặt khác, vấn đề hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính nguyên lý chung của hợp đồng và được qui định chủ yếu trong BLDS, nên nội dung của Luận án tập trung phân tích các qui định trong phần chung về hợp đồng trong BLDS 2005. Điều này không có nghĩa Luận án chỉ nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực dân sự. Bởi lẽ, khái niệm hiệu lực hợp đồng được trình bày trong Luận án là khái niệm chung nhất cho mọi hợp đồng, bao gồm cả
  • 9. 5 hợp đồng dân sự, kinh doanh – thương mại và các hợp đồng khác. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn việc phân tích chỉ những vấn đề hiệu lực của hợp đồng theo nghĩa rộng (bao gồm chủ yếu là các hợp đồng kinh doanh – thương mại và hợp đồng dân sự), như qui định tại Điều 1 BLDS 2005,1 mà không phân tích các hợp đồng trong lĩnh vực lao động. Bên cạnh đó, luận án còn phân tích về các qui định có liên quan đến hiệu lực của hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản liên quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này. Ngoài ra, nội hàm của khái niệm hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác của pháp luật hợp đồng, như qui định về việc thực hiện hợp đồng, tạm hoãn thực hiện hợp đồng do có sự vi phạm hoặc dự đoán có sự vi phạm hợp đồng của bên kia, chấm dứt hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, giải thích hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, phân chia rủi ro, thông tin bất cân xứng… Tuy nhiên, đề tài cũng không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề khác có liên quan tới hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ đi sâu tìm hiểu các vấn đề về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, sự hạn chế hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. - Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, đề tài cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng (dân sự, kinh doanh – thương mại) trên thực tế, tại Tòa án và Trọng tài Thương mại Việt Nam, tính từ ngày BLDS 1995 được ban hành, đặc biệt là từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lê nin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến các qui định về hiệu lực của hợp đồng. Trong đó, chú trọng sử dụng phương pháp lô ghích pháp lý, phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa qui định về hiệu lực của hợp đồng trong phần chung BLDS với các qui định về hiệu lực của các hợp đồng dân sự thông dụng 1 Điều 1 BLDS 2005 qui định: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)…”
  • 10. 6 trong BLDS, và với các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong các luật chuyên ngành. Trong một số vấn đề cụ thể (thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi) cũng có so sánh với pháp luật hợp đồng của một số nước như Pháp, Đức, Nga, Nhật, Trung Quốc... Đề tài cũng sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia trong một vài vấn đề cụ thể, và phương pháp khảo sát đánh giá thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của các luật gia làm công tác thực tiễn pháp lý, qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong việc giải quyết tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng tại Việt Nam từ khi BLDS 1995 được ban hành đến nay. Cách nghiên cứu vấn đề theo “chiều dọc” nhằm làm rõ toàn bộ các nội dung pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng trong mối quan hệ biện chứng từ khi giao kết, xác lập, thực hiện hợp đồng đến khi sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, và từ những qui định mang tính nguyên tắc chung cho đến ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực hợp đồng. Mặt khác, trong mỗi vấn đề, tác giả cũng sử dụng cách thức truyền thống là đi từ nghiên cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, và cuối cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 6. Ý nghĩa khoa học Đề tài nghiên cứu có hệ thống về các vấn đề pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng, đưa ra những định hướng và đề xuất các kiến nghị cụ thể mà kết quả của nó sẽ là cơ sở khoa học cho việc xây và hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, góp phần tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống pháp luật nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung, vào trào lưu chung của thế giới. Góp phần làm hoàn thiện pháp luật hợp đồng cũng là góp phần vào việc bảo đảm cho các quan hệ hợp đồng ở Việt Nam được ổn định, an toàn pháp lý và tránh được các rủi ro cho các bên chủ thể, bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng, quyền được pháp luật bảo vệ khi tham gia các quan hệ hợp đồng và các quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong hợp đồng. Kết quả nghiên cứu đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hợp đồng trong các trường đào tạo về luật.
  • 11. 7 7. Những điểm mới của luận án Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận án có một số điểm mới sau đây: - Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề hiệu lực hợp đồng, phân tích và làm rõ nội hàm của các khái niệm hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng (chương 1) kiến nghị thay thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ trong qui định tại Điều 388 BLDS 2005 bằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (chương 1); - Hai là, xây dựng các khái niệm mới hiệu lực của hợp đồng (chương 1), cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng (chương 1), điều khoản điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi theo quan niệm pháp lý Việt Nam (trên cơ sở tiếp thu từ khái niệm hardship trong thực tiễn thương mại quốc tế), và làm rõ nội hàm của các khái niệm này (chương 5). Đây là những khái niệm mới chưa được đề cập trong các công trình khoa học pháp lý trước đây. - Ba là, trong mỗi chương, tác giả đều chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót của pháp luật hiện hành và của thực tiễn áp dụng, đồng thời dựa trên những kết quả đó để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các qui định tương ứng, như các kiến nghị: hoàn thiện các qui định về hình thức hợp đồng và hậu quả pháp lý khi hợp đồng vi phạm qui định bắt buộc về hình thức (chương 2) [Xem Phụ lục 12]; sửa đổi, bổ sung các qui định về thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực hợp đồng (chương 3) [Phụ lục 13]; bổ sung qui định về nguyên tắc và ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực ràng buộc hợp đồng, đồng thời hoàn thiện các giải pháp khắc phục do vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng (chương 4) [Phụ lục 14]. - Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về xu hướng cho phép điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và áp dụng pháp luật về nội dung tương ứng trong pháp luật của nước ngoài và của các bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng, từ đó kiến nghị Việt hóa khái niệm này thành khái niệm ‘sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi’, và đề xuất bổ sung vào trong BLDS 2005 căn cứ cho phép sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi với những tiêu chí, đường lối, giải pháp cụ thể (chương 5) [Phụ lục 15]. 8. Kết cấu của luận án Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội dung của Luận án gồm 5 chương.
  • 12. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG Vấn đề hiệu lực của hợp đồng bao gồm và liên quan tới nhiều nội dung phức tạp của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng… Để làm rõ nội dung và ý nghĩa pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tạo tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu tiếp các phần sau của luận án, chương này trình bày khái quát hiệu lực hợp đồng, gồm ba nội dung sau đây: khái niệm và bản chất của hợp đồng, khái niệm hiệu lực hợp đồng và cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. 1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG 1.1.1. Khái niệm hợp đồng Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội phải tham gia vào các giao dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và nhận lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên, dựa trên các nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tượng đó được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: ‘Hợp đồng’. Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Tuy vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay, là việc không dễ dàng. Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (contractus) được hình thành từ động từ ‘contrahere’ trong tiếng La-tinh, có nghĩa là ‘ràng buộc’, và xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV TCN [108, tr.29; 291, tr.162- 3]. Ban đầu, người La Mã cũng không có khái niệm chung ‘contractus’ mà sử dụng các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio), vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum)… Mãi đến thời của luật gia La-be-ôn (thế kỷ 1 sau CN), người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ ‘contractus’ trong luật, và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới thời Justinnian [61, tr.81]. Sau này, pháp luật các nước phương Tây đã kế thừa và phát triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ ‘hợp đồng’, mà trong tiếng Anh được viết là ‘contract’, và trong tiếng Pháp là ‘contrat’.
  • 13. 9 Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để chỉ về hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ ưng thuận… Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến ngày nay, thuật ngữ ‘văn tự’ hay ‘văn khế’[289, Điều 363 và 366], hay mua, bán, cho, cầm đã được sử dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật [167, tr.156; 286, tr.57- 8]. Sau này, thuật ngữ ‘khế ước’ mới được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925 (được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần thuộc Pháp, trong Bộ Dân luật Bắc 1931 (sau đây viết là DLB 1931), và trong Bộ Dân luật Trung 1936 – 1939 (DLT 1936 – 1939). Thuật ngữ ‘khế ước’ cũng được sử dụng trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Thuật ngữ “khế ước” cũng được sử dụng trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước 30/4/1975 (DLSG 1972) (Điều 653). Ngoài ra, trong DLB 1931, DLT 1936 - 1939 và DLSG 1972 còn sử dụng thuật ngữ ‘hiệp ước’, trong đó nhà làm luật xem ‘khế ước’ là một ‘hiệp ước’ [13, Điều 664; 91, Điều 680] hoặc đồng nhất giữa ‘khế ước’ với ‘hiệp ước’ [14, Điều 653]. Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ ‘khế ước’ hay ‘hiệp ước’ như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức năng”, “công cụ” [110, tr.40] như hợp đồng dân sự [15, Điều 388], hợp đồng lao động [23, Điều 26-43], hợp đồng thương mại [154, khoản 1 Điều 3]. Trong pháp luật của nhiều nước (như sẽ trình bày ở các trang 3 – 5 dưới đây) chỉ sử dụng thuật ngữ ‘hợp đồng’, chứ không sử dụng các thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động… như luật Việt Nam. Ngoài việc chọn ‘hợp đồng’ làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong các văn bản pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc làm rõ nội hàm của khái niệm ‘hợp đồng’. Về mặt học thuật và pháp lý, các luật gia cũng đã gặp nhiều khó khăn trong việc đưa ra một định nghĩa về hợp đồng. Đúng như một luật gia đã nhận xét, hợp đồng “dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ dàng nhưng thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó” [302, tr.14]. Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp luật cũng khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem hợp đồng như một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc pháp lý cơ bản của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel,
  • 14. 10 Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất, hợp đồng được xem là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp luật do các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của người khác [339, tr.278]. Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp đồng như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên” [339, tr.283 - 84]. Có thể nói, thuật ngữ ‘hợp đồng’ là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm ‘hợp đồng’ theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, ‘hợp đồng’ là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội (chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện” [239, tr.19]. Trong phạm vi mục này, tác giả chỉ bàn về khái niệm hợp đồng hiểu theo nghĩa chủ quan (nghĩa hẹp). Theo đó, ngoài việc được ghi nhận chính thức trong các văn bản pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái niệm hợp đồng còn được nhiều học giả đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa sớm nhất về hợp đồng thường được nhiều học giả ngày nay nhắc đến và chấp nhận, là định nghĩa của học giả người Pháp - Pothier trong tác phẩm “Traité des obligations” năm 1761: “Hợp đồng là sự thỏa thuận theo đó hai hoặc chỉ một bên hứa, cam kết với người khác để chuyển giao một vật, để làm một công việc hoặc không làm một công việc” [321, tr.3]. Định nghĩa này không khác gì so với định nghĩa hợp đồng trong các BLDS hiện đại ngày
  • 15. 11 nay. BLDS Pháp cũng có định nghĩa hợp đồng giống gần như hoàn toàn định nghĩa của Pothier: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó” [19, Điều 1101]. Theo qui định tại Điều 1378 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Tuy có tính khái quát hơn, nhưng định nghĩa này cũng không hoàn toàn “thoát ly” khỏi định nghĩa tại Điều 1101 BLDS Pháp. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự “thỏa thuận” hay “thống nhất ý chí” giữa các bên. Tuy nhiên, nội dung định nghĩa chỉ thể hiện chức năng của hợp đồng mà chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc trưng thứ hai của hợp đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Định nghĩa “hợp đồng” cũng được qui định tại Điều 1-201 Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America, viết tắt là UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự ‘thỏa thuận’ của các bên…”. Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai (Restatement 2nd ) có nêu một định nghĩa cụ thể hơn: Hợp đồng là “một hay một tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự cưỡng chế cuả pháp luật, hoặc nói cách khác pháp luật công nhận việc thực hiện những cam kết này là một nghĩa vụ”. Trong Bách Khoa toàn thư về Pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định” [306, tr.53]. Định nghĩa này thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái niệm hợp đồng và nội dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý của các quốc gia khác trên thế giới. Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) qui định: “Hợp đồng theo qui định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với qui định của các luật khác”. Tương tự, theo qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994): “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa hợp đồng trong Luật Hợp đồng Trung
  • 16. 12 quốc tương đối dài, vì bao hàm cả các nguyên tắc khái quát trong việc giao kết thực hiện hợp đồng mà người Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc “bình đẳng” giữa các bên tham gia hợp đồng. Định nghĩa “hợp đồng” trong BLDS của Nga cũng có nội dung tương tự nhưng cách diễn đạt khái quát và ngắn gọn hơn cả. A.L Makovsky và S.A. Khoklov đã bình luận về định nghĩa này như sau: “Hợp đồng được định nghĩa ngắn gọn mang tính truyền thống. Đó là sự thoả thuận của hai hay nhiều người về việc thiết lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420). Tuy nhiên, về cơ bản không có điểm gì mới trong định nghĩa này. Quan trọng trên hết, cơ sở của những thoả thuận như thế này không phải là ý chí cuả một bên, mà là ý chí của nhiều bên để ràng buộc các bên trong thực hiện nghĩa vụ…” [325, tr. xciv]. Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Có thể dễ dàng thấy rằng, qui định tại Điều 388 BLDS Việt Nam (2005) cũng gần giống như qui định của Luật hợp đồng Trung quốc (1999) và đặc biệt là hoàn toàn giống với qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994). Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có thể nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên. Đây là định nghĩa được hầu hết các luật gia đồng tình và chấp nhận, trừ ‘cái đuôi’ ‘dân sự’ kèm theo [86, tr.57; 108, tr.38-41].
  • 17. 13 Tác giả cho rằng, cần bỏ từ ‘dân sự’ kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Bởi lẽ, thuật ngữ ‘dân sự’ vừa có thể được hiểu theo nghĩa rộng, nhưng cũng vừa có thể được hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, khái niệm ‘dân sự’ bao hàm cả các lĩnh vực khác, như lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình [15, Điều 1]. Còn theo nghĩa hẹp, khái niệm ‘dân sự’ chỉ được dùng trong các quan hệ dân sự (để phân biệt với các quan hệ pháp luật khác: hình sự, hành chính…). Trong pháp luật tố tụng, từ ‘dân sự’ cũng được hiểu theo nghĩa hẹp, nhằm phân biệt giữa các ‘Tòa dân sự’, ‘Tòa Kinh tế’, ‘Tòa lao động’… Trở lại khái niệm ‘hợp đồng dân sự’, câu hỏi đặt ra là, từ ‘dân sự’ có ý nghĩa gì khi được đặt kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Về mặt lô ghích, từ ‘dân sự’ được đặt ở vị trí này là nhằm xác định rõ nghĩa của khái niệm ‘hợp đồng’, nhằm để chỉ đây là ‘hợp đồng dân sự’ chứ không phải là hợp đồng khác (thương mại, lao động). Trong khi đó, khái niệm ‘hợp đồng dân sự’ được qui định tại Điều 388 BLDS 2005 với chủ định xem đây khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi hợp đồng, chứ không phải chỉ dành cho riêng ‘hợp đồng dân sự’. Do vậy, không nên đặt từ ‘dân sự’ ngay sau khái niệm ‘hợp đồng’ vì dễ gây hiểu lầm, và không cần thiết. Tóm lại, định nghĩa hợp đồng (dân sự) tại Điều 388 BLDS 2005 là chấp nhận được. Tuy vậy, để đảm bảo tính chuẩn xác của thuật ngữ này, tác giả kiến nghị Quốc hội cần sửa đổi Điều 388 BLDS 2005 theo hướng bỏ hai từ ‘dân sự’ kèm theo sau thuật ngữ ‘hợp đồng’. 1.1.2. Bản chất của hợp đồng Như đã được thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên. 1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung qui lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng. Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng. Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng, “yếu tố thỏa thuận của các chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối” [239, tr.20].
  • 18. 14 Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn bạc” [217, tr.1578]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thỏa thuận là “sự nhất trí chung được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua quá trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hòa.” [93, tr.238]. Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật qui định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa tích cực hơn, so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm ‘thương lượng’ hay ‘bàn bạc’ dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các bên và khái niệm ‘đồng ý’ dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm ‘thỏa thuận’ ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự ‘thống nhất ý chí’. Đó là quá trình ‘dung hòa’ giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên, đến sự hiệp ý hay gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được ‘sự nhất trí chung’, hay ‘sự đồng thuận’ giữa hai hay nhiều bên đó. Bản chất của sự thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự bày tỏ ý chí’ của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ‘ưng thuận’ tương ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự ‘đồng thuận’ của các bên, nhằm đạt một mục đích xác định. Bởi thế, có ý kiến cho rằng, “thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn của các bên về một điều gì đó mà các bên mong muốn đạt được” [257, tr.10]. Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hoặc làm một việc gì cụ thể. Nếu một bên thể hiện ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không thể có một sự ‘hiệp ý’. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà, nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập. Tuy vậy, những thỏa thuận thiếu vắng các nội dung cụ thể là chuyện phổ biến trong thực tế, vì có thể do các bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy.
  • 19. 15 Trong trường hợp có tranh chấp, những nội dung còn thiếu sẽ được tòa án xem xét và áp dụng các điều khoản dự phòng của pháp luật, hoặc có thể bổ túc thông qua việc giải thích hợp đồng. Hợp đồng được coi là hoàn thành, nếu các bên đã thỏa thuận được những nội dung chủ yếu. Hợp đồng được coi là chưa hoàn thành, nếu thiếu những nội dung chủ yếu mà tòa án không thể bổ túc được. Một thỏa thuận chỉ được coi là có giá trị pháp lý, nếu nội dung và mục đích của nó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Ngoài ra, thỏa thuận chỉ có thể làm phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên nếu tuân thủ các yêu cầu do pháp luật qui định như điều kiện về chủ thể, điều kiện về nội dung và mục đích, điều kiện về sự tự nguyện, và điều kiện về hình thức hợp đồng trong trường hợp pháp luật có qui định. Đây gọi là các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Các nội dung này sẽ được trình bày trong chương hai của Luận án. Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn hợp đồng. 1.1.2.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên Một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy. Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hoặc một lời hứa danh dự, như lời hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hoặc thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa danh dự hoặc các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng. Trong xã hội ngày nay, người ta cũng sử dụng nhiều hình thức cam kết mang tính chất thỏa thuận nội bộ trong một khu vực dân cư, một đơn vị hành chính, một địa phương để cùng làm một việc hay cùng thực hiện một cuộc vận động gì đó của địa phương, đơn vị. Ví dụ như bản cam kết thực hiện cuộc vận động “nói không với tiêu
  • 20. 16 cực” giữa các nhà giáo với lãnh đạo ngành giáo dục, hay cam kết “thực hiện nếp sống văn minh đô thị” của hộ gia đình với chính quyền địa phương. Những cam kết như vậy cũng mang tính thỏa thuận, nhưng không phải là hợp đồng, vì không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Các cam kết này có thể mang tính “ràng buộc”, thậm chí sự “vi phạm” các cam kết ấy có thể bị áp dụng các biện pháp “cưỡng chế” (về mặt đạo đức) hay chế tài nhất định (như các chế tài hành chính), nhưng sự “vi phạm” đó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng. Cũng có những thỏa thuận đặt các bên vào một quan hệ nghĩa vụ luật định, chẳng hạn như các thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận về việc nuôi con nuôi. Theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết đó không phải là hợp đồng. Quan điểm của các luật gia cũng thừa nhận đây chỉ là những thỏa thuận tư nhân nhằm “thừa nhận một qui chế pháp định”, chấp nhận thực hiện các nghĩa vụ “luật định sẵn”, chứ không phải là hợp đồng [168, tr.59]. Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng [26, tr.96]. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng. Nghiên cứu bản chất hợp đồng là tiền đề lý luận để xác định các điều kiện có hiệu lực (hay tính hợp pháp) của hợp đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp đồng, trình tự giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các vấn đề pháp lý quan trọng khác của chế định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực hợp đồng. 1.2. KHÁI NIỆM HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG, HIỆU LỰC TƯƠNG ĐỐI CỦA HỢP ĐỒNG Hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính bản chất của hợp đồng, vì suy cho cùng, các bên thiết lập hợp đồng là để ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Khi thiết lập một hợp đồng, người ta luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp lý” đối với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, nhằm thỏa mãn các lợi ích các bên. Nội dung sau đây làm rõ khái niệm hiệu lực hợp đồng. 1.2.1. Khái niệm hiệu lực hợp đồng Hiệu lực của hợp đồng đối với sự tồn tại của hợp đồng có thể được ví giống như là ‘hơi thở’ hay ‘linh hồn’ đối với sự sống của con người. Một hợp đồng không có hiệu lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. Tuy nhận thức
  • 21. 17 được tính chất quan trọng của hiệu lực hợp đồng là như vậy, nhưng để đưa ra một định nghĩa chính xác về hiệu lực của hợp đồng, quả là điều không dễ. Trong hầu hết các quyển Từ điển Tiếng Việt và Từ điển chuyên ngành Luật ở Việt Nam hiện nay (trừ quyển “Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học” của Trường Đại học Luật Hà Nội) đều không có mục từ “hiệu lực của hợp đồng” mà chỉ có các mục từ khác gần với nó, như “hiệu lực pháp luật của di chúc” hay “hiệu lực của các văn bản pháp luật” [92, tr.289; 225, tr.203-4]. Theo các Từ điển này thì hiệu lực pháp luật (của văn bản pháp luật nói chung) “là tính bắt buộc thi hành của văn bản…”, “là giá trị pháp lý của văn bản…, hoặc (giá trị) áp dụng của văn bản đó,… thể hiện phạm vi tác động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng áp dụng” [225, tr.202; 287, tr.357-58]. Trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học có giải thích khái niệm “hiệu lực của hợp đồng dân sự” là “giá trị bắt buộc thi hành đối các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng” [241, tr.65]. Tuy ngắn gọn, nhưng định nghĩa này cũng phản ánh được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng. Tuy vậy, nội hàm của định nghĩa này vẫn chưa đầy đủ, và nếu giải thích rõ ra thì cũng có phần chưa chính xác. Bởi lẽ, hiệu lực của hợp đồng, hiểu theo đúng bản chất của nó, thì không chỉ là ‘giá trị bắt buộc thi hành’ mà còn bao gồm cả việc sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng. Giá trị bắt buộc thi hành còn là đặc điểm chung của nhiều loại giao dịch pháp lý khác, chứ không phải là đặc trưng riêng có của hiệu lực hợp đồng. Mặt khác, trong định nghĩa này sử dụng cụm từ “đối với các chủ thể giao kết hợp đồng” là có phần chưa chính xác. Bởi vì, chủ thể giao kết hợp đồng hoặc chủ thể thực hiện hợp đồng chưa chắc là chủ thể của hợp đồng đó. Ở đây nếu sử dụng cụm từ “chủ thể tham gia xác lập và thực hiện hợp đồng” thì đúng hơn và rõ nghĩa hơn. Khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng không được tìm thấy trong một số từ điển của nước ngoài bằng tiếng Anh, như quyển “Oran’s Dictionary of The Law - 3rd ed.” [334], “A Oxford Dictionary of Law – 5th ed.” [329] hay quyển “Dictionary of Law - 4th ed.” [307]. Tuy vậy, trong quyển Từ điển Bách khoa pháp luật Hoa Kỳ có đưa ra định nghĩa về ‘hiệu lực’ (valid): “Hiệu lực là sự ràng buộc; sự cưỡng chế pháp lý…” [306, tr.203]. Trong quyển “Black’ Law Dictionary – 6th ed.” của Henry Campell Black cũng không nêu khái niệm hiệu lực hợp đồng mà chỉ nêu khái niệm hợp đồng có hiệu lực như sau: “Hợp đồng mà trong hợp đồng đó có đầy đủ các yếu tố pháp lý thì
  • 22. 18 có hiệu lực như pháp luật đối với các bên. Khi một hợp đồng được công nhận có hiệu lực thì có sự ràng buộc pháp lý” [299, tr.1550]. Như vậy, trên phương diện giải thích thuật ngữ, các từ điển trên đã đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng với dấu hiệu đặc trưng cơ bản của nó là giá trị ràng buộc các bên phải thi hành nghiêm túc. Tuy vậy, chỉ với dấu hiệu này, các khái niệm về hiệu lực hợp đồng trong các từ điển trên vẫn chưa phản ánh đầy đủ các dấu hiệu thể hiện bản chất của hiệu lực hợp đồng. Trong luật thực định, khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng được qui định trong các văn bản pháp luật của một số quốc gia. Chẳng hạn, BLDS Pháp có qui định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật đối với các bên”, “chỉ có thể bị hủy bỏ trên cơ sở có thỏa thuận chung, hoặc theo những căn cứ do pháp luật qui định” và “phải được thực hiện một cách thiện chí” [19, Điều 1134]. Theo qui định này, hợp đồng có hiệu lực thì có giá trị là luật đối với các bên, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, được các bên phải tuân thủ và thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm túc, có thiện chí. Các bên không thể hủy bỏ hợp đồng nếu không dựa trên ý chí tự nguyện của tất cả các bên hoặc các căn cứ do pháp luật qui định. Trong luật thực định Việt Nam, qui định về “hiệu lực hợp đồng” cũng được tìm thấy trong một số BLDS ở Việt Nam trước đây. Theo Điều 673 DLB 1931 và Điều 713 DLT 1936-1939, “các hợp ước được kết lập theo pháp luật cũng có hiệu lực như luật pháp đối với các bên kết ước”. Điều 687 DLSG 1972 cũng có qui định về “hiệu lực của khế ước”, với nội dung cũng tương tự như Điều 1134 BLDS Pháp. BLDS 1995 từng có qui định về hiệu lực hợp đồng như sau: “1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; 2- Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định…” [16, Điều 404]. BLDS 2005 không qui định cụ thể về hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ qui định khái quát là: “hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác” [15, Điều 405]. Có thể nói, qui định này không thể hiện được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng – đó là giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên, mà chủ yếu là để xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Ngoài ra, tại Điều 4 BLDS 2005 cũng có qui định chung về hiệu lực của các cam kết dân sự: “cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.
  • 23. 19 Tóm lại, qua nghiên cứu khía cạnh pháp lý và từ điển của khái niệm hiệu lực hợp đồng, chúng ta thấy có hai dấu hiệu thể hiện bản chất của nó, đó là: (i) giá trị pháp lý của hợp đồng giống như pháp luật; và (ii) hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế nhằm buộc các bên phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Giá trị pháp lý và hiệu lực ràng buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng hợp đồng là hai mặt không thể thiếu của hiệu lực hợp đồng. Trên cơ sở nhận thức bản chất của ‘hiệu lực hợp đồng’, tác giả xin đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng như sau: Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia hợp đồng phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó. Về phương diện lý luận, việc nhận thức đúng khái niệm hiệu lực hợp đồng là cơ sở để tiếp cận các vấn đề khác có liên quan đến việc nghiên cứu quá trình tạo lập, xác nhận giá trị pháp lý và thực thi hợp đồng. Khái niệm này cũng thể hiện rõ các yếu tố quan trọng mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng, đó là sáng tạo ra, làm thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các bên; đồng thời tạo ra sự ràng buộc pháp lý nhằm bắt buộc các bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Khi bàn về hiệu lực của hợp đồng, người ta thường nhìn nhận hiệu lực hợp đồng ở nhiều khía cạnh: điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, và hiệu lực tương đối của hợp đồng. Ba nội dung đầu sẽ được lần lượt trình bày trong các chương 2, chương 3, chương 4 của Luận án. Nội dung cuối được trình bày trong mục 1.2.2. dưới đây. 1.2.2. Hiệu lực tương đối của hợp đồng Xét về phạm vi chủ thể, hiệu lực của hợp đồng chỉ ràng buộc đối với các bên tham gia. Đây là hiệu lực tương đối của hợp đồng. Tuy nhiên, trong pháp luật hợp đồng hiện đại, đôi khi hợp đồng còn có giá trị pháp lý đối với một số chủ thể khác. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng, “hợp đồng có hiệu lực áp dụng ngay cả đối với tòa án” [227, tr.7]. 1.2.2.1. Hiệu lực đối với các bên trực tiếp tham gia Trong quan hệ hợp đồng thường có từ hai bên hoặc nhiều hơn hai bên tham gia, gọi là các bên chủ thể hợp đồng. Các bên chủ thể hợp đồng rất đa dạng, bao gồm cá nhân, pháp nhân, và các loại chủ thể khác theo qui định của pháp luật.
  • 24. 20 Như đã trình bày, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo đó, trong quan hệ hợp đồng, quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia; quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thường đối lập nhau một cách tương xứng. Thường thì các bên có thể nhân danh chính mình để trực tiếp xác lập, thực hiện hợp đồng, hoặc có thể gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua trung gian là người đại diện hợp pháp. Tuy vậy, người đại diện hợp pháp không phải là chủ thể của hợp đồng mà chỉ là người thay mặt và nhân danh chủ thể hợp đồng để xác lập, thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này, quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng không có giá trị pháp lý ràng buộc người đại diện (trực tiếp giao kết, thực hiện hợp đồng) mà chỉ có giá trị ràng buộc đối với người được đại diện. Riêng đối với những hợp đồng mang tính chất “gia nhập” thì các bên không cần phải tham gia ngay từ đầu, mà có thể tự nguyện tuyên bố gia nhập sau khi hợp đồng xác lập. Việc chủ thể tuyên bố ý chí tham gia hợp đồng sau khi hợp đồng đã được xác lập và được sự “chấp nhận” của các bên có liên quan trong hợp đồng, thì cũng được xem là chủ thể, có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng kể từ thời điểm đó. Ví dụ: trong hợp đồng hợp tác để thành lập tổ hợp tác. Ban đầu, hợp đồng chỉ được ký kết bởi các thành viên “sáng lập” tổ hợp tác. Sau này, nếu có người muốn gia nhập, thì có thể làm đơn xin gia nhập gửi cho tổ hợp tác [182, Điều 7]. Khi có sự đồng ý của đa số tổ viên, thì người đó trở thành thành viên của tổ hợp tác [15, Điều 118], theo đó coi như người xin “gia nhập” tổ hợp tác đã mặc nhiên chấp nhận nội dung hợp đồng hợp tác mà không cần trực tiếp tham gia ký kết hợp đồng. Như vậy, khác với hiệu lực của pháp luật có giá trị bắt buộc chung đối với mọi người trong xã hội, hiệu lực của hợp đồng có giá trị ràng buộc trước hết và chủ yếu là đối với các bên trực tiếp tham gia hợp đồng - những người đã tự nguyện thỏa thuận xác lập hợp đồng. Sở dĩ hợp đồng chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia là vì hợp đồng được tạo ra bằng sự thỏa thuận của các bên, dựa trên nguyên tắc tự nguyện và tự do ý chí. Bởi vậy, đối với các bên đã tự nguyện thỏa thuận tạo lập hợp đồng thì phải chấp nhận sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Tóm lại, theo nguyên tắc hiệu lực tương đối, hợp đồng có hiệu lực ràng buộc chủ yếu đối với các bên tham gia hợp đồng, trừ những trường hợp ngoại lệ sau đây: 1.2.2.2. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba là người kế vị pháp lý
  • 25. 21 Khái niệm các bên hợp đồng không phải chỉ dùng để chỉ người trực tiếp tham gia hợp đồng hoặc người gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua người đại diện hợp pháp, mà các bên hợp đồng nói ở đây còn bao gồm cả những người kế vị pháp lý. Người kế vị pháp lý không phải là người thứ ba bên ngoài hợp đồng, mà là người thay thế tư cách pháp lý của chủ thể hợp đồng để trở thành một bên chủ thể của hợp đồng đó, bao gồm các trường hợp thay thế chủ thể hợp đồng do chuyển nhượng quyền hoặc chuyển giao nghĩa vụ [15, các Điều 309-317], hoặc do cải tổ các pháp nhân [15, điểm a khoản 1 Điều 99 và các Điều 94-97], hoặc do thừa kế tài sản có kèm theo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ [15, Điều 634, 637]. Nhưng tư cách của người kế vị pháp lý có hai điểm khác biệt so với các bên trực tiếp xác lập hợp đồng: + Một là, theo qui định của BLDS 2005, có những loại nghĩa vụ mà theo pháp luật hoặc theo thỏa thuận, chủ thể phải tự mình thực hiện thì không thể chuyển giao cho người kế vị pháp lý (Điều 424, khoản 8 & 9 Điều 374, Điều 384, Điều 385). Ví dụ: khi người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền chấm dứt (khoản 4 Điều 589); hay trong hợp đồng thuê nhà, khi bên thuê chết mà không có ai cùng chung sống thì hợp đồng thuê chấm dứt (khoản 3 Điều 499). Trong các trường hợp này, tuy người thừa kế của người đã chết không kế vị pháp lý đối với hiệu lực hợp đồng, nhưng lại kế vị pháp lý để giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng. Ví dụ: đòi bồi thường, đòi thực hiện các nghĩa vụ chưa thực hiện hoặc đòi hoàn lại các khoản thanh toán còn thừa, sau khi trừ đi giá trị của phần nghĩa vụ đã thực hiện. + Hai là, sự kế vị pháp lý thông qua việc thừa kế tổng quát hoặc thừa kế đặc định một tài sản cụ thể có kèm theo nghĩa vụ thích ứng của người tham gia hợp đồng, thì người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi giới hạn của giá trị phần di sản mà mình được hưởng [15, Điều 637]. Về nguyên tắc, một bên trong hợp đồng có thể loại trừ trong hợp đồng việc chuyển giao nghĩa vụ hợp đồng cho người thừa kế thực hiện. Tuy nhiên, các bên hợp đồng không thể thỏa thuận và qui định trong hợp đồng điều khoản chuyển giao nghĩa vụ trong hợp đồng đó cho người thừa kế thực hiện, vì điều này trái với nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng, trừ trường hợp việc chuyển giao cho người kế vị pháp lý những lợi ích gắn liền với nghĩa vụ hợp đồng. Ví dụ: khi hợp đồng thuê nhà đang còn hiệu lực, bên cho thuê nhà chết để lại thừa kế ngôi nhà đang cho thuê. Trường hợp này, người thừa kế được kế vị toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của hợp đồng thuê nhà.
  • 26. 22 Suy cho cùng thì sự chuyển giao nghĩa vụ cũng là một hợp đồng vì đó là sự thỏa thuận giữa bên có nghĩa vụ với người thứ ba để giao nghĩa vụ cho người thứ ba thực hiện, trên cơ sở có sự đồng ý của người có quyền. Bởi vậy, đây cũng có thể được xem là ngoại lệ của sự kế vị pháp lý, tức là thỏa thuận tạo lập nghĩa vụ để người thứ ba thực hiện. Tuy vậy, nghĩa vụ ở đây không phải là nghĩa vụ mới được tạo ra từ hợp đồng mà chỉ là nghĩa vụ đã được xác định trước khi hợp đồng “chuyển nghĩa vụ” được thiết lập. Mặt khác, dựa trên ý chí của các bên trong hợp đồng, ‘hiệu lực tương đối’ của hợp đồng cũng có sự ràng buộc và ảnh hưởng đáng kể đối với người kế vị pháp lý. Đó là việc các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận giới hạn hiệu lực của hợp đồng đối với người kế vị pháp lý, bao gồm việc hạn chế phạm vi người được kế vị pháp lý, hoặc loại trừ việc kế vị pháp lý. Điều này có nghĩa, theo lẽ thông thường, đối với nghĩa vụ có thể chuyển giao được, thì khi một bên chủ thể không còn tồn tại do chết hoặc do chuyển nhượng tài sản hoặc do cải tổ pháp nhân, thì người thế quyền sẽ được kế vị pháp lý để tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Nhưng nếu các bên thỏa thuận không cho kế vị pháp lý hoặc hạn chế phạm vi người được kế vị pháp lý, thì khi tư cách chủ thể của một bên chấm dứt, hợp đồng sẽ được thanh lý mà không chuyển giao cho người khác kế vị. Ví dụ: trong hợp đồng thuê mua nhà có thời hạn thanh toán 15 năm, các bên có thỏa thuận người thuê mua chết trước khi trả đủ tiền mua nhà, thì hợp đồng chấm dứt và người thừa kế chỉ được nhận lại tiền mua nhà, sau khi trừ tiền thuê. Do đó, nếu người thuê mua chết trước khi thanh toán xong tiền mua nhà, thì người thừa kế của họ sẽ không được kế vị pháp lý đối với hợp đồng thuê mua nói trên. Như vậy, cam kết này đã có hiệu lực làm hạn chế việc thế quyền của người kế vị pháp lý, theo đó tư cách kế vị pháp lý của người thừa kế bị hợp đồng “từ chối”. Tuy vậy, trong trường hợp này, người thừa kế của chủ thể hợp đồng vẫn kế vị pháp lý đối với hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng theo qui định chung, như yêu cầu thanh toán tiền còn thiếu, hoặc hoàn trả khoản tiền được thanh toán thừa, và các hậu quả vật chất khác. 1.2.2.3. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba không phải là người kế vị pháp lý Một trong những vấn đề pháp lý rất đáng được quan tâm là, liệu một hợp đồng do các bên thiết lập thì có hiệu lực đối với người khác, ngoài các bên trực tiếp tham gia và người kế vị pháp lý của họ, hay không. Nói ngắn gọn, hợp đồng có hiệu đối với người thứ ba ngoại cuộc hay không ?
  • 27. 23 Trước hết, nếu chỉ hiểu đơn giản hiệu lực của hợp đồng là “giá trị pháp lý” thì khi hợp đồng được lập theo thể thức công chứng hoặc đăng ký thì hợp đồng đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba. Ví dụ: hợp đồng bảo đảm có đăng ký, thì hợp đồng đó “có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký” [15, khoản 3 Điều 323]. Nếu hiểu hiệu lực hợp đồng đối với người thứ ba theo nghĩa hiệu lực ràng buộc phải thực thi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, thì vấn đề này không được thể hiện rõ ràng trong luật thực định. Về phương diện lịch sử, xuất phát từ câu tục dao La Tinh: “Res inter alios acta, aliis neque nocere, neque prodesse potest” (một hợp đồng được ký kết giữa các bên thường không làm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nhưng cũng không mặc nhiên làm lợi cho các bên khác), các luật gia theo quan niệm cổ điển xem hiệu lực tương đối của hợp đồng như là một nguyên tắc hiển nhiên. Tuy vậy, theo GS Vũ Văn Mẫu, “nguyên tắc ấy, đối với các luật gia ngày nay, chỉ còn có một giá trị tương đối” [168, tr.271]. Pháp luật hợp đồng hiện đại đã cho phép có những ngoại lệ để thu hẹp hoặc nới rộng hiệu lực tương đối của hợp đồng [227, tr.6]. Theo đó, ngoài việc thừa nhận nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng (chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia), pháp luật còn chấp nhận ngoại lệ: hợp đồng có hiệu lực đối với người thứ ba trong trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác, nhưng đó là những trường hợp chấp nhận có điều kiện. Có hai trường hợp hợp đồng được ký kết cho người thứ ba được hưởng lợi: (i) Ký kết hợp đồng thay cho người thứ ba. Đó là những trường hợp một bên trong hợp đồng tuy không có tư cách đại diện của bên thứ ba nhưng vẫn nhân danh bên thứ ba để xác lập hợp đồng với bên kia. Đây là trường hợp vượt quá phạm vi đại diện, hoặc không có tư cách đại diện. Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết trong trường hợp này chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia chứ không có hiệu lực đối với người thứ ba. Tuy vậy, hợp đồng này vẫn có hiệu lực ràng buộc đối với người thứ ba nếu có hai điều kiện [15, Điều 145, 146]: một là bên xác lập hợp đồng phải thông báo cho người thứ ba và được người thứ ba tuyên bố chấp nhận hợp đồng (đối với hợp đồng được ký bởi người không có tư cách đại diện), hoặc người thứ ba biết mà không phản đối (đối với hợp đồng được ký vượt quá phạm vi đại diện); thứ hai, bên kia là người ngay tình (không biết và không buộc phải biết người ký hợp đồng với mình không có tư cách đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện).
  • 28. 24 (ii) Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Khi hợp đồng được ký kết để người thứ ba hưởng lợi thì được gọi là hợp đồng vì lợi của người thứ ba. “Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó” [15, khoản 5 Điều 406], chẳng hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người được bảo hiểm là người thứ ba hoặc chỉ định người thứ ba thụ hưởng, hợp đồng vận chuyển để giao hàng cho người thứ ba (là bên mua hàng của bên thuê vận chuyển), hợp đồng dịch vụ chăm sóc khách hàng, hợp đồng đại lý bảo hành sản phẩm hàng hóa… Có ba dấu hiệu đặc trưng của người thứ ba được hưởng lợi ích từ hợp đồng: Thứ nhất, người thứ ba phải là những cá nhân, tổ chức hoặc những chủ thể hiện đang tồn tại và có năng lực pháp lý để thụ hưởng lợi ích mà họ được chỉ định thụ hưởng. Các chủ thể không tồn tại trên thực tế (trừ trường hợp người đó đã thành thai và sinh ra còn sống) vào thời điểm phát sinh quyền thụ hưởng, hoặc không có năng lực pháp lý để thụ hưởng quyền lợi thì không thể trở thành người thứ ba của hợp đồng. Thứ hai, người thứ ba là người được xác định rõ trong hợp đồng vào thời điểm hợp đồng được thành lập. Việc xác định ở đây có thể là chỉ rõ danh tính hoặc chỉ rõ các tính chất, đặc điểm xác định hoặc có thể xác định được vào lúc thực hiện quyền thụ hưởng của người đó, hoặc vào lúc phát sinh nghĩa vụ của các bên để người đó hưởng lợi ích. Ví dụ: trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa có thỏa thuận hàng hóa đó sẽ được giao cho người có quyền sở hữu “sau cùng”2 tính đến thời điểm giao hàng. Thứ ba, các lợi ích mà người thứ ba được hưởng phải được xác định rõ vào lúc hợp đồng được xác lập. Hiệu lực hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba được thể hiện ở các mặt sau: + Ngoài hiệu lực ràng buộc các bên tham gia, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba còn ràng buộc các bên phải thực hiện hợp đồng để mang đến lợi ích cho người thứ ba. Theo đó, người thứ ba cũng có quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng để mang đến lợi ích cho mình [15, Điều 419]. Ví dụ: hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm để người thứ ba được thụ hưởng lợi ích, thì 2 Trường hợp này, tuy người được nhận hàng không được chỉ rõ danh tính lúc ký hợp đồng, nhưng có thể xác định được dựa vào đặc điểm: người được nhận hàng sau cùng, có vận đơn để nhận hàng vào thời điểm giao hàng.
  • 29. 25 khi xảy ra sự kiện bảo hiểm người thụ hưởng có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm [148, khoản 8 Điều 3]. + Người thứ ba có quyền từ chối nhận lợi ích từ hợp đồng, trừ trường hợp việc từ chối đó xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nếu trước khi hợp đồng được thực hiện mà người thứ ba từ chối và sự từ chối của người thứ ba là hợp pháp thì hợp đồng bị coi như hủy bỏ [15, Điều 420]. Nếu sự từ chối của người thứ ba là trái pháp luật thì hợp đồng đó có thể vẫn được thực hiện theo nguyên tắc chung của pháp luật. Ví dụ: bên bán ký hợp đồng vận chuyển hàng với bên vận chuyển để giao cho bên mua, nhưng bên mua lại từ chối nhận hàng hoặc không có mặt để nhận hàng tại nơi đến mà việc từ chối hoặc việc không có mặt đó không thuộc trường hợp được pháp luật cho phép, thì việc giao hàng do bên thuê vận chuyển quyết định: việc giao hàng có thể vẫn được tiếp tục thực hiện bằng cách gửi hàng vào nơi gửi giữ và thông báo cho người mua biết về việc hàng hóa đã được giao và đã được gửi giữ theo đúng qui định của pháp luật [15, khoản 1 Điều 376]. + Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý [15, Điều 421]. + Khi người thứ ba chấp nhận hợp đồng được ký kết vì lợi ích của mình thì người thứ ba vẫn phải có những nghĩa vụ nhất định từ hợp đồng. Ví dụ: nếu người thứ ba là người được bảo hiểm hoặc được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm thì họ phải có nghĩa vụ thông báo về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, tuân thủ các qui tắc của hợp đồng bảo hiểm khi tiến hành các thủ tục để hưởng lợi ích bảo hiểm; hoặc trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa cho bên thứ ba nhận hàng thì bên thứ ba phải nhận hàng đúng thời gian, địa điểm, xuất trình vận đơn hợp lệ, chịu chi phí bốc dỡ hàng… Nói tóm lại, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba kế vị pháp lý và người thứ ba không kế vị pháp lý có sự khác biệt cơ bản. Người thứ ba kế vị pháp lý là người thay thế vị trí của một bên chủ thể hợp đồng để có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp đồng, kể từ khi bên mà họ kế vị pháp lý chấm dứt tư cách chủ thể hợp đồng. Ngược lại, người thứ ba không phải là người kế vị pháp lý là một chủ thể độc lập, không có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ thể hợp đồng, nhưng trong nhiều trường hợp, người này có thể được hưởng nguyên tắc “song quyền” [108, tr.65] giống như chủ thể hợp đồng, ngay cả khi chủ thể hợp đồng vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, họ còn có những
  • 30. 26 quyền và nghĩa vụ của riêng mình đối với một hoặc các bên của hợp đồng, mà đôi khi chủ thể trực tiếp của hợp đồng hoặc người kế vị pháp lý không có các quyền đó. 1.2.2.4. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba là chủ sở hữu của đối tượng của hợp đồng Về nguyên tắc, một hợp đồng không thể làm thiệt hại cho quyền lợi của người thứ ba. Mặt khác, theo nguyên tắc bảo vệ quyền của chủ sở hữu, thì không ai có quyền xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu (Điều 164 và Điều 169 BLDS 2005). Theo đó, các bên không được phép xác lập các hợp đồng đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, nếu không được chủ sở hữu cho phép hoặc đồng ý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, pháp luật cho phép hoặc thừa nhận chủ thể khác có quyền được xác lập các hợp đồng để chuyển giao các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, với những điều kiện và căn cứ pháp luật xác định. Đó là các trường hợp: (i) để bảo vệ quyền lợi của chính chủ sở hữu tài sản. Theo qui định của pháp luật, chỉ có chủ sở hữu mới có quyền tự mình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Người khác chỉ được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu nếu được chủ sở hữu cho phép, hoặc đồng ý, hoặc phải có căn cứ do pháp luật qui định. Ví dụ: Để bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu đối với tài sản hoặc hạn chế những tổn thất có thể gây ra cho tài sản (mà chủ sở hữu hiện không trực tiếp quản lý), pháp luật cũng qui định cho phép bên giữ tài sản có quyền bán tài sản gửi giữ đang có nguy cơ bị hư hỏng hoặc tiêu hủy để bảo vệ quyền lợi của bên gửi (khoản 3 Điều 288, khoản 4 Điều 563 BLDS 2005). (ii) để bảo vệ quyền lợi của đồng sở hữu chủ tài sản. Đối với việc định đoạt nhà ở thuộc quyền sở hữu chung (theo phần) mà có đồng sở hữu chủ vắng mặt, thì các đồng sở hữu chủ đang quản lý nhà ở đó có thể bán nhà ở mà không cần phải được sự đồng ý của đồng sở hữu chủ vắng mặt, nhưng phải thực hiện theo những trình tự, thủ tục nhất định: yêu cầu tòa án có thẩm quyền tuyên bố mất tích đối với người vắng mặt, sau đó bán nhà ở thuộc sở hữu chung và gửi tiền bán nhà thuộc phần quyền của người đó vào ngân hàng… (Điều 96 Luật Nhà ở 2005, Điều 57 Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ hướng dẫn Luật Nhà ở). (iii) để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Người thứ ba chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình có quyền khai thác, sử dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo qui định của pháp luật (khoản 3 Điều 194 BLDS 2005). Mặt
  • 31. 27 khác, nếu giao dịch dân sự vô hiệu mà tài sản là đối tượng của giao dịch đó đã được chuyển cho người thứ ba ngay tình, thì chủ sở hữu tài sản phải tôn trọng giá trị pháp lý của giao dịch với người thứ ba ngay tình. Theo đó, chủ sở hữu không có quyền đòi lại các tài sản bị người khác chuyển nhượng cho người thứ ba ngay tình (Điều 138 BLDS 2005), trừ các trường hợp được qui định tại các Điều 257 và Điều 258 BLDS 2005. (iv) để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ khi chủ sở hữu cố tình từ chối thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Theo qui định của Điều 46, Điều 101 Luật Thi hành án dân sự (2008) và các qui định liên quan, nếu bên phải thi hành nghĩa vụ trả nợ theo quyết định, bản án có hiệu lực của tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn qui định, thì bị cưỡng chế thi hành án. Cơ quan thi hành án có quyền ra quyết định bán đấu giá tài sản dùng để thi hành án theo qui định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về Bán đấu giá tài sản. Khi hợp đồng bán tài sản đấu giá được xác lập, thì chủ sở hữu tài sản phải chuyển giao tài sản đó cho người mua đấu giá theo thỏa thuận trong hợp đồng bán tài sản đấu giá giữa bên bán đấu giá với người được mua tài sản đó (Điều 41 Nghị định 17/2010/NĐ-CP). Như vậy, hiệu lực của các hợp đồng do người khác xác lập trong các trường hợp trên phải được chủ sở hữu tôn trọng. Cơ sở pháp lý để buộc chủ sở hữu phải tôn trọng các hợp đồng nói trên là nguyên tắc hạn chế quyền sở hữu - chủ sở hữu thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản của mình không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 165 BLDS 2005) và nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của các bên khác có liên quan. 1.2.2.5. Giá trị pháp lý của hợp đồng được các chủ thể pháp lý khác tôn trọng Ngoài việc tạo ra hiệu lực ràng buộc các bên tham gia và người thứ ba trong một số trường hợp nhất định như vừa trình bày trên đây, theo quan điểm của nhiều luật gia, giá trị pháp lý của hợp đồng còn có hiệu lực áp dụng đối với các cơ quan tài phán và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác trong việc thực hiện các hành vi pháp lý liên quan tới hợp đồng. Theo ý kiến của một học giả thì ngoài hiệu lực ràng buộc đối với các bên, “hợp đồng có hiện lực ngay cả đối với tòa án” [227, tr.7]. Ý kiến này cũng được nhiều học giả khác đồng tình: “khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, xử lý vi phạm hợp đồng, tòa án hoặc trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng để ra bản án hoặc quyết định công bằng, đúng đắn” [177, tr.23]; hoặc: “Nếu trong hợp đồng, các bên đã có những cam kết, thỏa thuận cụ thể về những nội dung cơ bản thì sự
  • 32. 28 ghi nhận cụ thể đó trong hợp đồng là căn cứ pháp lý để tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi giải quyết tranh chấp” [239, tr.23]. Luật thực định Việt Nam thừa nhận các cam kết không trái pháp luật và đạo đức, thì được “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ” [154, khoản 1 Điều 11]. Hơn nữa, giá trị pháp lý của giao dịch dân sự nói chung, hợp đồng nói riêng, không chỉ “có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên” mà còn “phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng” [15, Điều 4]. Hiểu rộng ra, giá trị pháp lý của hợp đồng còn được bảo đảm bởi pháp luật nhằm buộc cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác phải tôn trọng. Ví dụ: các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan công chứng, cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất… phải tôn trọng hiệu lực của hợp đồng và phải thực hiện các nghiệp vụ pháp lý cần thiết theo qui định pháp luật để bảo đảm các hợp đồng được tôn trọng và thực thi nghiêm túc. Giá trị pháp lý của hợp đồng còn có hiệu lực ràng buộc đối với tòa án khi xét xử các tranh chấp liên quan tới quan hệ pháp luật giữa các bên tranh tụng. Ví dụ: Điều khoản của hợp đồng về việc chọn lựa cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp giữa các bên là tòa án Việt Nam; điều khoản chọn lựa luật áp dụng giải quyết tranh chấp hợp đồng là luật Việt Nam; điều khoản xác định trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng; điều khoản miễn trừ trách nhiệm… là những điều khoản mà tòa án phải tôn trọng, và được xem là căn cứ để giải giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng. Hơn nữa, tòa án cũng phải tôn trọng và phải đảm bảo rằng, các hợp đồng được thiết lập hợp pháp thì có giá trị pháp lý và được pháp luật tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Khi giải quyết quyền lợi của các bên, tòa án cần dựa trên căn cứ pháp lý là qui định cụ thể của các điều khoản trong hợp đồng, mà không được can thiệp một cách tùy tiện vào hiệu lực của hợp đồng. Nếu cần thiết phải can thiệp vào hiệu lực của hợp đồng, tòa án phải chỉ ra căn cứ pháp lý được qui định minh thị, và cũng chỉ được can thiệp trong giới hạn mà pháp luật cho phép. Nếu nội dung của hợp đồng không đầy đủ thì tòa án cần áp dụng các qui phạm bổ khuyết của luật để làm căn cứ xem xét việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nếu có những điều khoản chưa rõ ràng, tòa án cần giải thích hợp đồng, thì tòa án phải giải thích hợp đồng sao cho theo hướng duy trì hiệu lực của hợp đồng hơn là phủ nhận hiệu lực của hợp đồng [15, Điều 409]. Có thể nói, hiệu lực tương đối của hợp đồng và hiệu lực ràng buộc của hợp trong luật thực định Việt Nam là vấn đề phức tạp và hiện vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi. Những bất cập của luật thực định về vấn đề này sẽ được bàn đến trong chương bốn của Luận án này.