SGK sản huế tiền sản giật.pdf quan trọng các bạn ạ
HỘI CHỨNG HELLP
1. Bệnh viện Từ Dũ
Chuyên đề:
HỘI CHỨNG HELLP
BS hướng dẫn:
BS Lê Quang Thanh
BS Hồng Công Danh
BS thực hiện:
BS Nguyễn Lệ Quyên
2. 2
HỘI CHỨNG HELLP
I. Đại cương:
- Hội chứng HELLP là một hội chứng được đặc trưng bởi tình trạng tán huyết vi thể,
tăng men gan và giảm số lượng tiểu cầu. Hội chứng này thường đại diện cho thể
nặng của bệnh lý tiền sản giật, tuy nhiên mối liên quan giữa chúng vẫn còn đang
tranh cãi.
- Khoảng 15-20% sản phụ bị ảnh hưởng bởi hội chứng này không có tăng huyết áp
hoặc tiểu đạm trước đó, điều này làm cho các chuyên gia tin rằng hội chứng HELLP
là một rối loạn riêng biệt so với tiền sản giật.
- Cả tiền sản giật nặng và hội chứng HELLP đều có thể liên quan đến những biểu
hiện ở gan bao gồm nhồi máu, xuất huyết và vỡ gan.
- Hội chứng HELLP có tỉ lệ khoảng 1-2%o sản phụ, và chiếm 10-20% trong số những
trường hợp bị TSG/SG nặng. Chủ yếu là được chẩn đoán từ tuần thứ 28 đến tuần
thứ 36 của thai kỳ.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
- Khó dự đoán được diễn tiến lâm sàng của hội chứng HELLP. Bệnh lý này có thể
phát triển dạng sóng, hoặc không liên tục hoặc phát triển nhanh chóng. Trong những
trường hợp diễn tiến bất thình lình, có thể dự kiến các biến chứng nặng có thể tử
vong:
o Nhau bong non 15-20%
o Suy thận 8%
o Phù phổi cấp 5%
o Xuất huyết não 5-10%
o Vỡ gan 2%
High risk pregnancy – Module 6
Collaborating Center for Postgraduate Training and Research in Reproductive Health
3. 3
II. Biểu hiện lâm sàng
- Biểu hiện lâm sàng của hội chứng HELLP thì thay đổi. Những triệu chứng điển hình
phát triển trong tam cá nguyệt cuối của thai kỳ, tuy nhiên, triệu chứng lâm sàng có
thể biểu hiện ở tam cá nguyệt thứ 2 hoặc sau sanh. Những triệu chứng lâm sàng
thường gặp nhất là đau bụng và nhạy cảm đau vùng thượng vị, ¼ trên phải hoặc
vùng dưới xương ức. Nhiều bệnh nhân cũng có các triệu chứng như là buồn nôn,
nôn và khó chịu, những triệu chứng này có thể bị lầm lẫn với bệnh lý nhiễm siêu vi
không đặc hiệu hoặc là bệnh lý viêm gan do virus, đặc biệt dễ nhầm lẫn trên bệnh
nhân có triệu chứng tăng men gan AST, LDH. Tình trạng tăng huyết áp (huyết áp
>= 140/90 mmHg) và hiện diện của đạm trong nước tiểu xuất hiện trong khoảng
85% các trường hợp, tuy nhiên điều quan trọng cần phải nhớ là những triệu chứng
này có thể không xuất hiện ở 1 số phụ nữ bị hội chứng HELLP thể nặng.
- Tử vong mẹ nghiêm trọng có thể xảy ra ngay khi có những biểu hiện ban đầu hoặc
chỉ 1 thời gian ngắn sau đó. Những biểu hiện nặng ban đầu có thể là đông máu nội
mạch lan tỏa (DIC), nhau bong non, suy thận cấp, phù phổi, khối máu tụ dưới bao
gan và bong võng mạc. Triệu chứng vàng da và cổ trướng cũng có thể hiện diện.
Triệu chứng chảy máu do giảm tiểu cầu cũng là một biểu hiện không thường gặp. Ở
một số bệnh nhân thì không có biểu hiện lâm sàng.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
- BN thường biểu hiện đau vùng hạ sườn phải hoặc thượng vị (40-90%), buồn nôn
hoặc nôn ói (29-84%) Hầu hết các bệnh nhân (90%) đều cảm thấy mệt mỏi khó chịu
một vài ngày trước khi có các biểu hiện lâm sàng và một số triệu chứng giống như
nhiễm siêu vi không đặc hiệu, các biểu hiện này gợi ý chỉ định thực hiện xét nghiệm
(huyết đồ và men gan) ở tất cả các sản phụ nghi ngờ TSG có triệu chứng này ở 3
tháng cuối thai kỳ. Nhức đầu dược báo cáo khoảng 33-60%. Rối loạn thị giác ít gặp
hơn (khoảng 10-20%). Một số bệnh nhân có các biểu hiện của giảm tiểu cầu như
chảy máu bề mặt niêm mạc, tiểu máu, đốm xuất huyết hoặc mảng xuất huyết.
- Mặc dù phần lớn Bn có tăng huyết áp (85%) nhưng 15-50% bệnh nhân chỉ tăng
huyết áp nhẹ và 12-18% không có tăng huyết áp. Đa số BN (87%) có tăng đạm niệu
khi thử bằng test nhanh; tuy nhiên khoảng 13% không có đạm niệu.
Sibai BM. Diagnosis and management of gestational hypertension
and preeclampsia.Obstet Gynecol 2003;102:181-92
- Các triệu chứng khởi đầu và diễn tiến rất nhanh, với độ nặng đạt đỉnh ở 24 tới 48 giờ sau
sinh. Phù cũng có nhiều ở BN hội chứng HELLP, nhưng phù không phải là một dấu hiệu điển
hình bởi vì 30% thai kỳ bình thường có phù.
Baxter JK, Weinstein L. HELLP syndrome: the state of the art.
Obstet Gynecol Surv. 2004 Dec;59(12):838-45
4. 4
III. Chẩn đoán
Việc chẩn đoán hội chứng HELLP dựa trên sự hiện diện của các xét nghiệm bất thường
liên quan đến tên của hội chứng, bao gồm:
- Tổng phân tích tế bào máu có đếm số lượng tiểu cầu
- Phết máu ngoại biên
- AST, Bilirubin, LDH
Những xét nghiệm này nên được làm một cách thường qui ở những bệnh nhân
bị tăng huyết áp thai kỳ, tiền sản giật hoặc là tiểu đạm kèm vớ những triệu chứng
của tiền sản giật.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
a. Tiêu chuẩn xét nghiệm:
- Hiện tại chưa có sự thống nhất về mức độ bất thường của xét nghiệm trong việc chẩn
đoán hội chứng HELLP. Một số nghiên cứu sử dụng AST( và hoặc ALT) và trị số LDH
cao hơn giới hạn trên của ngưỡng bình thường, trong khi đó những xét nghiệm khác đòi
hỏi phải cao ít nhất là gấp đôi giá trị trung bình trong ngưỡng bình thường của xét
nghiệm đó. Do có sự khác biệt trong xét nghiệm những loại enzym này nên 1 giá trị tăng
cao ở 1 bệnh viện có thể gần như bình thường ở 1 bệnh viện khác
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
- Hội chứng HELLP và tiền sản giật nặng là chắc chắn là chung 1 dạng bệnh lý. Định
nghĩa chắc chắn của hội chứng HELLP thì cần thiết cho dự đoán trước các biến chứng
cho mẹ.
Cần có tất cả những tiêu chuẩn sau để chẩn đoán hội chứng HELLP:
Thiếu máu tán huyết vi mạch được đặc trưng bởi sự hiện diện của các
mảnh vỡ hồng cầu ( còn được gọi là tế bào helmet) trên phết tế bào
máu ngoại vi. Một dấu hiệu gợi ý cho tán huyết là sự gia tăng của LDH
hoạc là bilirubin gián tiếp và nồng độ haptoglobin trong huyết thanh
thấp (<= 25 mg/dl)
Số lượng tiểu cầu dưới <100 000/ microL
LDH huyết thanh >= 600 IU/L hoặc là bilirubin toàn phần >= 1.2 mg/dl
AST huyết thanh >= 70 IU/L. Một số nhà nghiên cứu đưa vào thêm bên
cạnh AST là ALT. Một điểm lợi của AST là nó là 1 xét nghiệm đơn lẻ
phản ứng lại với sự hoại tử của tế bào gan và sự tán huyết của hồng
cầu.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
5. 5
b. Giải thích ý nghĩa các triệu chứng CLS
Tán huyết
Tán huyết là tiêu chuẩn đầu tiên và là nền tảng của hội chứng HELLP. Tán huyết
được định nghĩa là khi có hiện tượng thiếu máu tán huyết vi mạch. Cơ chế bệnh
sinh là do sự co mạch làm cho hồng cầu bị phá hủy khi lưu thông (tán huyết).
Hiện tượng này gây nên sự lắng đọng fibrin (ngưng kết tiểu cầu) trong lòng
mạch dẫn tới tổn thương nội bì của vi mạch. Hậu quả cuối cùng là thiếu máu tán
huyết do tổn thương vi mạch. Sự phá hủy hồng cầu làm tăng nồng độ Lactate
dehydrogenase (LDH), giảm nồng độ Haptoglobin.
Khỏang 10% trường hợp quan sát đại thể thấy hemoglobin trong huyết tương
hoặc trong nước tiểu. Hemoglobin tự do được chuyển hóa thành Bilirubin gián
tiếp tại lách hoặc có thể được gắn kết trong huyết tương bằng haptoglobin. Phức
hợp hemoglobin-haptoglobin được chuyển hóa nhanh tại gan dẫn đến nồng độ
haptoglobin trong máu thấp, chỉ số này có thể được sử dụng và cũng là chỉ số
được ưa chuộng để chẩn đoán tán huyết. Do đó, chẩn đoán tán huyết vi mạch
dựa trên nồng độ LDH cao và có sự hiện diện của bilirubin gián tiếp hoặc nồng
độ thấp của Haptoglobin (đặc hiệu hơn)
Tăng men gan
Đây là tiêu chuẩn thứ 2 là hội chứng HELLP. Cơ chế bệnh sinh là do sự co mạch
gây nên thiếu máu ở gan, dẫn đến hoại tử như mô gan quanh tĩnh mạch cửa.
tổn thương gan được biểu hiện bằng sự tăng mên gan. Nhưng lưu ý là sự tăng
men gan không chỉ do tổn thương gan mà còn có thể phản ánh quá trình tán
huyết.
Giảm tiểu cầu
Nguyên nhân của giảm tiểu cầu là do sự tăng tiêu thụ tiểu cầu. Tiểu cầu được
hoạt hóa và ngưng kết ở những tế bào nội mô của thành mạch bị tổn thương,
hậu quả là tăng xoay vòng tiểu cầu với tuổi thọ ngắn hơn.
Những phụ nữ không có đầy đủ những kết quả xét nghiệm bất thường trên được
xem là có hội chứng HELLP bán phần. Những bệnh nhân này có thể sẽ diễn tiến
đến đầy đủ các biểu hiện đầy đủ của hội chứng HELLP
Baha Sibai, HELLP Syndrome
UpToDate 19.3, last updated May 2011
6. 6
Đạm niệu có thể hiện diện hoặc không trong những bệnh nhân bị hội chứng
HELLP.
Diagnosis and management of preeclamsia and ecclamsia ACOG Practice Bulletein No.
33 American Collegge of Obstetricians and Gynecologist 2002; 99; 159 -167
c. Hình ảnh học
Xét nghiệm hình ảnh học, đặc biệt là CT scan hoặc MRI, thường được sử
dụng trong những trường hợp biến chứng như là nhồi máu gan, xuât huyết
trong gan hoặc là vỡ gan. Trong một nghiên cứu trên 33 phụ nữ bị hội chứng
HELLP có than phiền có đau nhiều ở ¼ trên phải bụng có liên quan tới đau
vai, đau cổ và hạ huyết áp tái phát, xét nghiệm hình ảnh học phát hiện những
bất thường ở gan trong 15 trường hợp ( tỉ lệ 45%). Triệu chứng bất thường
thường gặp nhất là xuất huyết dưới bao gan và xuất huyết trong nhu mô gan.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
UpToDate 19.3, last updated May 2011
Máu tụ dưới bao gan
Nguồn: Collaborating Center for Postgraduate Training and Research in Reproductive Health
High risk pregnancy – Module 6
7. 7
IV. Chẩn đoán phân biệt
- Hội chứng HELLP có thể thừơng xuyên gây sự khó khăn trong chẩn đoán phân biệt
với những bệnh lý khác gây biến chứng trong thai kỳ như: gan nhiễm mỡ cấp trong
thai kỳ, viêm dạ dày ruột, viêm gan, viêm ruột thừa, bệnh lý túi mật, xuất huyết giảm
tiểu cầu, bùng phát của bệnh lý lupus, hội chứng kháng phospholipid, hội chứng tán
huyết urê huyết, xuất huyết giảm tiểu cầu
- Trong 1 nghiên cứu, trong số 46 phụ nữ có phát triển bệnh lý gan trong thai kỳ nặng
đến mức phải nhập đơn vị đặc biết điều trị suy gan (a liver failure unit), thì 70% là
gan nhiễm mỡ cấp và 15% là có Hội chứng HELLP. Hầu hết những bệnh nhân còn
lại là có bệnh gan không liên quan đến thai kỳ.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
UpToDate 19.3, last updated May 2011
Gan nhiễm mỡ cấp trong thai kỳ -- Hội chứng HELLP khó mà phân biệt với bệnh
lý gan nhiễm mỡ cấp nếu chỉ đựa vào những triệu chứng lâm sàng bởi vì cả 2 đều
xuất hiện vào cùng 1 thời điểm trong thai kỳ và cùng có những triệu chứng lâm sàng
chính giống nhau, tuy nhiên vẫn có những điểm khác biệt quan trọng giữa chúng.
Những xét nghiệm thêm vào có thể hữu ích trong chẩn đoán phân biệt 2 loại rối loạn
này. Trong bệnh lý gan nhiễm mỡ cấp trong thai kỳ thì có các triệu chứng như:
prothrombin kéo dài, tăng aPTT ( activated partial thromboplastin time)
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
Trong giai đoạn sớm có thể rất khó phân biệt gan nhiễm mỡ trong thai kỳ với hội
chứng HELLP. BN thoái hóa mỡ cấp tính trong thai kỳ biểu hiện điển hình là buồn
nôn, nôn ói, đau bụng và vàng da; tuy nhiên thường khôngc ó cao huyết áp và đạm
niệu. Hơn nữa hầu hết bệnh nhân bị gan nhiễm mỡ cấp sẽ có thời gian prothrombin
và thromboplastin kéo dài với fibrinogen và đường huyết thấp. Những triệu chứng
này hiếm khi có ở hội chứng HELLP không kèm nhau bong non.
Sibai BM. Diagnosis and management of gestational hypertension
and preeclampsia. Obstet Gynecol 2003;102:181-92
8. 8
Bệnh lý vi mạch do huyết khối (Thrombotic microangiopathy) Giảm tiểu cầu,
suy thận, thiếu máu xuất hiện muộn trong thai kỳ, cũng có thể xuất hiên hội
chứng tán huyết urê huyết (HUS – hemolytic-uremic syndrome) và xuất huyết
giảm tiểu cầu (TTP- thrombocytopenic purpura). HUS và TTP có thể cần được
xem xét trong tất cả các trường hợp thai phụ có giảm tiểu cầu nặng, thiếu máu
nặng và tăng LDH và tăng nhẹ AST. Điểm phân biệt giữa TTP-HUS và tiền sản
giật nặng và hội chứng HELLP thì rất quan trọng trong diều trị và tiên lượng
bệnh. Tuy nhiên, bệnh sử cũng như các dấu hiệu lâm sàng quá giống nhau nên
việc chẩn đoán chính xác rất khó khăn, hơn nữa, chúng có thể xuất hiện đồng
thời.
Thời gian khởi phát cũng có thể giúp phần nào gợi ý 1 hội chứng so với các hội
chứng khác. Thời điểm khởi phát của TTP có khuynh hướng xuất hiện sớm hơn
trong thai kỳ với tiền sản giật và hội chứng HELLP, khoảng 12% TTP xuất hiện
trong tam cá nguyệt đầu tiên, 56% xuất hiện trong tam cá nguyệt thứ 2 và 33%
xuất hiện trong tam cá nguyệt thứ 3 hoặc sau sanh, còn tiền sản giật và hội
chứng HELLP không xuất hiên trước tuần thứ 20 của thai kỳ và hầu hết các
trường hơp được chẩn đoán trong tam cá nguyệt thứ 3
Bệnh sử có tiểu đạm và cao huyết áp trước khi khởi phát tán huyết, các bất
thường ở gan và giảm tiểu cầu nghiêng về hướng chẩn đoán tiền sản giật hơn,
trong khi đó LDH tăng cao trong khi AST chỉ tăng nhẹ thì có khuynh hướng chẩn
đoán nghiêng về TTP.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
9. 9
Việc rối loạn đông cầm máu trong những trường hợp này cũng khác nhau.
HELLP có liên quan đến giẩm tiểu cầu và trong 1 số trường hợp nặng, có thể có
đông máu nội mạch lan tỏa (DIC) với sự hiện diện của kéo dài PT và aPTT, và
giảm độ tập trung trong huyết thanh của yếu tố V và yếu tố VIII. Ngược lại, TTP
và HUS thường liên quan đến sưu phát hủy tiểu cầu đơn thuần, vì vậy, dù ta
thấy rằng có giảm số lượng tiểu cầu, mặc dù các dấu hiệu khác không thấy
được. Xét nghiệm phét tế bào máu ngoại vi có thể hữu dụng. Trong TTP, tỉ lệ
phần trăm lượng mảnh vỡ hồng cầu thường là tù 2-5% cao hơn so với hội
chứng HELLP (<1%)
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
Collaborating Center for Postgraduate Training and Research in Reproductive Health
High risk pregnancy – Module 6
10. 10
V. Điều trị
a. Tiếp cận ban đầu – Sau khi đã xác định chẩn đoán, những bước đầu tiên trong
điều trị là làm ổn định tình trạng của người mẹ, đánh giá tình trạng thai, và quyết
định có cần thiết phải chấm dứt thai kỳ hay không. Những thai kỳ dưới 34 tuần
tuổi thai và những trường hợp mà tình trạng của mẹ không ổn định thì nên được
có sự hợp tác trong điều trị với các chuyên gia.
Nền tảng của điều trị là chấm dứt thai kỳ. Có sự nhất trí giữa các chuyên gia là
nên khởi phát chuyển dạ trong những trường hợp sau:
- Thai kỳ trên 34 tuần tuổi thai
- Các xét nghiệm đánh giá tình trạng thai bất thường( như bảng sinh
tắc học thai nhi, hoặc xét nghiệm đánh giá tim thai)
- Có sự hiện diện của bệnh lý nặng của mẹ: suy đa cơ quan, đông máu
nội mạch lan tỏa, hoại tử gan hoặc xuất huyết trong gan, suy thận
hoặc nhau bong non.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
Nguyên tắc xử trí là sức khỏe sản phụ được ưu tiên hơn sức khỏe thai nhi và
điều trị triệt để là chấm dứt thai kỳ. Nói chung, 3 chọn lựa chính trong xử trí thai
phụ bị hội chứng HELLP gồm:
- Chấm dứt thai kỳ khi thai >= 34 tuần, hoặc thai <=24 tuần.
- Trì hoãn trong vòng 48h sau khi ổn định tình trạng mẹ và điều trị hổ trợ
phổi thai nhi bằng corticosteroids.Ở thai 27-34 tuần, chọn lựa này là phù
hợp với đa số các trường hợp.
- Điều trị không can thiệp (bảo tồn) kéo dài thai kỳ hơn 48-72 giờ nên
xem xét khi tuổi thai dưới 27 tuần, trong trường hợp này điều trị
corticosteroid được chỉ định nhưng chế độ điều trị thay đổi rất nhiều
Sibai BM. Diagnosis and management of gestational hypertension
and preeclampsia. Obstet Gynecol 2003;102:181-92
b. Thuốc hạ áp: thường được sử dụng để điều trị những trường hợp cao huyết áp
nặng. Mức huyết áp được cho là được kiểm soát là <= 160/105 mmHg. Với
huyết áp cao hơn mức này, có thể điều trị bằng Labetalol, hydralazine, nifedipine
hoặc trong những trường hợp nặng có thể điều trị bằng sodium nitroprusside
c. Truyền tiểu cầu – Việc truyền tiểu cầu được chỉ định nếu có xuất huyết nhiều ở
mẹ (chảy máu tự phát hay chảy máu từ những vết rạch phẫu thuật), hoặc là khi
số lượng tiểu cầu < 20 000/ microL. Nếu dự định sẽ mổ lấy thai thì một số
chuyên gia cho rằng số lượng tiểu cầu trước khi phẫu thuật phải
> 40 000-50 000/ microL
Sibai BM. Diagnosis, controversies, and management of the syndrome of hemolysis,
elevated liver enzymes, and low platelet count. Obstet Gynecol 2004; 103:981.
11. 11
Không cần truyền tiểu cầu lập lại ở những bệnh nhân này vì tiểu cầu đuợc truyền
có thời gian bán hủy rất ngắn. Sibai khuyến cáo truyền 6 đơn vị tiểu cầu cho tất
cả các sản phụ có tiểu cầu dưới 40 000/mm3
ngay trước khi đặt nội khí quản nếu
cần mổ lấy thai. Sư rịn máu vết mổ có thể xảy ra trong quá trình phẫu thuật hoặc
ngay sau mổ bởi vì có sự tụt giảm tiểu cầu ở những bệnh nhân này. Do đó nên
dẫn lưu dưới cân và để hở da tối thiểu 48 giờ ở tất cả BN mổ lấy thai.
Sibai BM. Diagnosis and management of gestational hypertension
and preeclampsia.Obstet Gynecol 2003;102:181-92
d. Lưa chọn cách sanh
- Sanh ngã âm đạo được ưu tiên hơn ở những trường hợp ngôi chẩm và đã vỡ
ối, bất chấp tuổi thai. Chuyển dạ có thể được khởi phát nếu cổ tử cung thuận
tiện và tuổi thai từ 30 -32 tuần trở lên.
- Mổ lấy thai được thực hiện do các chỉ định sản khoa như ngôi mông, hoặc tình
trạng thai không ổn định.
- Tuy nhiên, việc lựa chọn mổ lấy thai thì hợp lý hơn ở những trượng hợp thai
nhỏ hơn 30-32 tuần tuổi thai nếu cổ tử cung không thuận tiện để khởi phát
chuyển dạ, đặc biệt là trong trường hợp có các dấu hiệu tổn thương như thai
chậm tăng trưởng trong tử cung, nhau bong non hoặc là thiểu ối. Việc khởi phát
chuyển dạ ở những thai kỳ này thường có nguy cơ thất bại cao và thường kéo
dài, có thể dẫn đến đưa cả mẹ và thai nhi vào nguy cơ cao hơn bị các biến
chứng của hội chứng HELLP.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
e. Phương pháp vô cảm/giảm đau
Việc sử dụng thuốc dạng opioids tiêm đường tĩnh mạch được áp dụng để giảm
đau nếu mẹ không có nguy cơ bị chảy máu, có thể tiêm bắp hoặc tiêm tủy sống.
Không có chống chỉ định cho tê vùng tầng sinh môn khi thực hiện cắt tầng sinh
môn hoặc may phục hồi tầng sinh môn.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
Chống chỉ định gây tê đám rồi thần kinh thẹn vì nguy cơ chảy máu và tụ máu.
Gây tê tủy sống cũng bị chống chỉ định, đặc biệt là khi tiểu cầu thấp dưới
75 000/mm3
. Do đó, gây mê toàn thân được chọn lựa nếu mổ lấy thai
Sibai BM. Diagnosis and management of gestational hypertension and preeclampsia.
Obstet Gynecol 2003;102:181-92
12. 12
f. Vai trò của dexamethasone
- Những nghiên cứu quan sát ban đầu và những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
ở qui mô nhỏ cho thấy rằng việc sử dụng glucocorticoids có thể liên quan đến
việc cải thiện nhanh các xét nghiệm và các thông số trên lâm sàng. Những phát
hiện này vẫn chưa được ủng hộ bởi những chứng cứ là những nghiên cứu lâm
sàng ngẫu nhiên được thiết kế bài bản, mù đôi và những thử nghiệm lâm sàng
có nhóm chứng placebo đánh giá việc sử dụng dexamethasone trong việc cải
thiện tình trạng của mẹ ở những bệnh nhân bị hội chứng HELLP.
- Đối với những thai kỳ dưới 34 tuần: Nếu có thể yên tâm về tình trạng của cả mẹ
và thai nhi, chúng ta điều trị 1 đợt corticosteroids trước khi chấm dứt cho những
thai kỳ có hội chứng HELLP dưới 34 tuần tuổi thai. Không cố gắng kéo dài thai
kỳ quá 48 giờ bởi vì bệnh có thể tiến triển nặng hơn và gây ảnh hưởng xấu
nhanh chóng cho mẹ.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
- Trong 1 thử nghiệm lâm sàng, tổng cộng có 132 phụ nữ > 20 tuần tuổi thai bị hội
chứng HELLP ( trong đó có 60 trước sanh và 72 sau sanh), trong đó 1 nhóm
được chọn ngẫu nhiên để điều trị bằng dexamethasone (10 mg tiêm tĩnh mạch
mỗi 12 giờ cho tới lúc sanh và thêm 3 liều nữa sau sanh) và 1 nhóm điều trị
bằng placebo, những trường hợp hội chứng HELLP phát hiện sau sanh chỉ sử
dụng liều sau sanh. Tất cả những bệnh nhân này đều có tiểu cầu < 100 000/
microL, AST >70 IU/L và LDH > 600 IU/L. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Dexamethasone không làm giảm thời gian nằm viện, không làm giảm tỉ lệ
truyền tiểu cầu hay truyền huyết tương tươi đông lạnh, và cũng không
làm giảm biến chứng cho mẹ ( suy thận cấp, phù phổi)
Thời gian hồi phục về bình thường của các xét nghiệm cận lâm sàng
cũng không ngắn hơn khi điều trị bằng dexamethasone
Tuy nhiên khi phân tích theo nhóm nhỏ thì thấy những bệnh nhân bị hội
chứng HELLP mức độ nặng với tiểu cầu <50 000/microL thì thời gian tiểu
cầu trở về bình thường và thời gian nằm viện của những bẹnh nhân này
ngắn hơn so với nhóm chứng. Chúng tôi tin rằng phát hiện này cần phải
có nghiên cứ xa hơn bằng những nghiên cứu tiền cứu, việc đưa ra phân
tích này nằm ngoài kế hoạch ban đầu của nghiên cứu và mức độ nặng
của bệnh không được đưa vào tính toán 1 cách ngẫu nhiên.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
13. 13
Trong một thử nghiệm lâm sàng khác, 114 trường hợp bị hội chứng HELLP
được chọn ngẫu nhiên để điều trị bằng dexamethsone (10 mg) hoặc giả
dược. Kết quả cho thấy việc sử dụng dexamethasone không làm cải thiện
quá trình hồi phục sau sanh của những bệnh nhân này: không có sự khác
biệt giữa nhóm diều trị và nhóm chứng về sự hồi phục của các chỉ số trên
lâm sàng cũng như các bất thường về xét nghiệm, tỉ lệ biến chứng của mẹ
và thời gian nằm viện.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
Hơn nữa, một tổng quan nghiên cứu của Cochrane dựa trên 11 thử nghiệm
lâm sàng so sánh sử dụng corticosteroids và giả dược cho thấy rằng không
có sự khác biệt giữa 2 nhóm này về tỉ lệ tử vong mẹ, tỉ lệ chết chu sinh và
cũng không có bằng chứng rõ ràng cho lợi ích của việc điều trị cho việc cải
thiện kết cục lâm sàng cho 1 bộ phận nhóm nhỏ riêng biệt trong nghiên cứu.
Mặc dù vậy, một số chuyên gia nghiên cứu vẫn khuyên sử dụng
dexamethasone với mục đích điều trị trên những bệnh nhân có tiểu cầu <
100 000/ microL dựa trên kinh nghiệm lâm sàng của họ và mối tương quan
phù hợp giữa 1 số phát hiện trong nhiều nghiên cứu quan sát và những thử
nghiêm lâm sàng trên qui mô nhỏ.
Baha Sibai, HELLP Syndrome
Uptodate 19.3, last updated May 2011
Betamethasone > dexamethasone: hiệu quả bảo vệ cao hơn đối với não trẻ
non tháng
Tại bệnh viên Từ Dũ, để hỗ trợ trưởng thành phổi thai nhi trong trường hợp
sinh non bao gồm tiền sản giật nặng, chỉ sử dụng betamethasone 1 đợt duy
nhất (2 liều tiêm bắp cách nhau 12 giờ hoặc 24 giờ tùy từng trường hợp và
sinh trong vòng 24 giờ sau liều thứ 2. Đối với hội chứng HELLP chỉ định
dùng khi thai <=34 tuần với điều kiện tình trạng thai phụ và tình trạng thai nhi
ổn định, có thể trì hoãn chấp dứt thai kỳ tối thiểu 24 giờ. Không sử dụng
trong trường hợp phải chấm dứt thai kỳ cấp cứu. Có 19 trường hợp HC
HELLP dưới 34 tuần được sử dụng Corticoids, không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỉ lệ biến chứng giữa nhóm sử dụng và nhóm không sử
dụng(p=0.464)
Lê Quang Thanh, Xác đinh tỉ lệ biến chứng của sản phụ hội chứng HELLP
và yếu tố tiên lượng nặng tại BV Từ Dũ 6/2010-6/2011
14. 14
VI. Điều trị trong thời kỳ hậu sản
- Sau sinh, BN bị hội chứng HELLP nên được theo dõi sát sinh hiệu, lượng dịch nhập
xuất, dấu hiệu cận lâm sàng và nồng độ Oxy trong ít nhất 48 giờ . Nên tiếp tục sử
dụng MgSO4 dự phòng co giật trong vòng 48 giờ sau sanh và sử dụng thuốc hạ áp
nếu huyết áp tâm trương >= 105 mmHg. Nói chung, phần lớn bệnh nhân sẽ có biểu
hiện hồi phục trong vòng 48 giờ sau sinh. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt là
nhau bong non có DIC, tiểu cầu giảm nhiều <20 000/mm3
và báng bụng nặng hoặc
rối loạn chức năng thận nặng có thể quá trình hồi phục sẽ rất chậm hoặc xấu đi.
- Có những trường hợp đặc biệt biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng
HELLP bắt đầu trong thời kỳ hậu sản. Đối với những bệnh nhân này, thời điểm bắt
đầu biểu hiện trong khoảng từ vài giờ đến 7 ngày hậu sản, nhưng hầu hết là biểu
hiện trong vòng 48 giờ hậu sản. Do đó cần nhận biết được dấu hiệu và triệu chứng
của hội cứng HELLP ở thời kỳ hậu sản. Chẩn đoán phân biệt và chế độ điều trị hội
chứng HELLP trong thời kỳ hậu sản cũng giống như trước sinh gồm cả MgSO4
Sibai BM. Diagnosis and management of gestational hypertension
and preeclampsia. Obstet Gynecol 2003;102:181-92
VII. Tiên lượng lâu dài và dự hậu:
- Thai kỳ bị hội chứng HELLP có thể đi kèm với nhiều biến chứng nguy hiểm đến
tính mạng của cả mẹ và con.
- Khoảng 20% phụ nữ bị hội chứng HELLP có nguy cơ bị tiền sản giật trong thai
kỳ tiếp theo., tỉ lệ này sẽ càng cao nếu ở thai kỳ trước đó sản phụ được phát
hiện hội chứng HELLP ở 3 tháng giữa thai kỳ.
- Xét nghiệm chức năng gan được khảo sát ở 54 bệnh nhân sau thai kỳ bị hội
chứng HELLP trung bình là hồi phục sau 31 tháng (3-101). Hội chứng HELLP dù
có kèm suy thận cũng không gây ảnh hưởng lâu dài chức năng thận.
- Thuốc viên tránh thai được kết luận là an toàn cho những phụ nữ có tiền căn bị
hội chứng HELLP
Sibai BM. Diagnosis and management of gestational hypertension
and preeclampsia. Obstet Gynecol 2003;102:181-92