Cơ sở lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý, gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc tài, vô chính phủ, vô pháp luật, đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng thời cổ đại như Xocrat, Đemocrit, Platon, Arixtot, Xixeron… trong đó nổi bật nhất là quan điểm của Đemocrit, Arixtot và Xixeron.
Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài người đã bắt đầu tìm kiếm những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã được các nhà tư tưởng phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Những tư tưởng này được hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII-V tr. CN) gắn sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V-nửa đầu thế kỷ IV tr. CN) gắn liền sự phát triển cao của các thể chế Nhà nước. Giai đoạn thứ ba (nửa sau thế kỷ IV - thế kỷ II tr. CN) gắn liền với sự suy vong của Nhà nước thành bang Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy những tư tưởng này đã có mầm mống ở nhiều nơi trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây.
Tiểu Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh Quan Điểm Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Về Vấn Đề Dân Chủ. Tìm hiểu sâu và rõ ràng về những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ. Nhằm giải đáp được thế nào là dân chủ, giúp chúng ta hiểu sâu thêm về quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Đặc biệt là đã làm rõ được vấn đề về dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như làm bật lên nội dung của thực hành dân chủ, làm thế nào để xây dựng Đảng bộ, Nhà nước, Mặt trận và các ban ngành đoàn thể đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội.
Cơ sở lý luận, pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn. Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do hai từ hợp thành: Demos là nhân dân và Kuatos là quyền lực hay chính quyền. Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân, là một trong những hình thức tổ chức chính trị nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Khi bàn về khái niệm dân chủ là gì, các nhà khoa học đề xuất khá nhiều ý kiến:
Cơ sở lý luận của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài người đã bắt đầu tìm kiếm những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã được các nhà tư tưởng phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Những tư tưởng này được hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII-V tr. CN) gắn sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V-nửa đầu thế kỷ IV tr. CN) gắn liền sự phát triển cao của các thể chế Nhà nước. Giai đoạn thứ ba (nửa sau thế kỷ IV - thế kỷ II tr. CN) gắn liền với sự suy vong của Nhà nước thành bang Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy những tư tưởng này đã có mầm mống ở nhiều nơi trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương Tây.
Tiểu Luận Tư Tưởng Hồ Chí Minh Quan Điểm Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Về Vấn Đề Dân Chủ. Tìm hiểu sâu và rõ ràng về những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ. Nhằm giải đáp được thế nào là dân chủ, giúp chúng ta hiểu sâu thêm về quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ. Đặc biệt là đã làm rõ được vấn đề về dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như làm bật lên nội dung của thực hành dân chủ, làm thế nào để xây dựng Đảng bộ, Nhà nước, Mặt trận và các ban ngành đoàn thể đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội.
Cơ sở lý luận, pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn. Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do hai từ hợp thành: Demos là nhân dân và Kuatos là quyền lực hay chính quyền. Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân, là một trong những hình thức tổ chức chính trị nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Khi bàn về khái niệm dân chủ là gì, các nhà khoa học đề xuất khá nhiều ý kiến:
Bài thu hoạch lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính, 9 điểm
Xây dựng, hoàn thiện Nhà n¬ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả là vừa nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, vừa là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. Đây là quá trình khó khăn, phức tạp, cần có lộ trình và bước đi thích hợp. Qúa trình đó đòi hỏi phải tiến hành nhiều nội dung khác nhau với sự tham gia của mọi tổ chức, lực lượng.
Đại hội XIII của Đảng là một dấu mốc, một bước chuyển hết sức quan trọng, làm tiền đề cho các nhiệm kỳ tiếp theo. Chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là cơ sở vững chắc để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà n¬ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quán triệt quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta cần quán triệt sâu rộng trên nhiều nội dung, trong đó, cần tập trung quán triệt cơ sở, thực trạng, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần đưa Nghị quyết của Đại hội vào thực tiễn đời sống, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội” [21, tr.226]. Quan điểm học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn,
Download luận án tiến sĩ ngành chủ nghĩa duy vật với đề tài: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời của nó đối với Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Tải bài mẫu tiểu luận môn quản lý nhà nước với đề tài: Tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước Việt Nam hiện nay. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu quả. Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền-nhà nước “cuả dân, do dân, vì dân”, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng, dân chủ văn minh, thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền “TRONG SẠCH-VỮNG MẠNH-HIỆU QUẢ” nói riêng đã có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng,là nền tảng để Đảng ta xây dựng mô hình Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một cách hoàn thiện nhất. Do đó, tôi chọn đề tài này để có thể nghiên cứu chi tiết hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Sự sáng tạo của hồ chí minh về sự ra đời của nhà nước sau cách mạng tháng 8 n...akirahitachi
☞ Đề tài: Tìm hiểu về hôn nhân trong luật hôn nhân gia đinh.
By Phạm Anh Tài - Law K35D
My Fb: https://www.facebook.com/akirahitachi1992
Web: http://akirahitachi.blogspot.com
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở. Ngay từ khi xã hội loài ngƣời có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [20, tr.1]. Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh thƣờng xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã. Thuật ngữ "chính quyền cấp xã" từ lâu đã được sử dụng khá phổ biến, nhất là trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền cấp trên đối với HĐND và UBND cấp xã, song hầu như chưa có một văn bản, tài liệu chính thống nào có quy định hoặc giải thích rõ, đầy đủ về khái niệm chính quyền cấp xã, về cơ cấu tổ chức, mối quan hệ hay cơ chế hoạt động của các bộ phận cấu thành. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bộ máy Nhà nước ta được thiết lập ở 4 cấp hành chính lãnh thổ. Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được gọi là các cấp chính quyền địa phương, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân nhất, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền nước ta. Tuy nhiên, để đưa ra được khái niệm về chính quyền cấp xã, chúng ta cần phải làm rõ quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của chính quyền cấp xã.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.docx
Bài thu hoạch lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính, 9 điểm
Xây dựng, hoàn thiện Nhà n¬ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả là vừa nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, vừa là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. Đây là quá trình khó khăn, phức tạp, cần có lộ trình và bước đi thích hợp. Qúa trình đó đòi hỏi phải tiến hành nhiều nội dung khác nhau với sự tham gia của mọi tổ chức, lực lượng.
Đại hội XIII của Đảng là một dấu mốc, một bước chuyển hết sức quan trọng, làm tiền đề cho các nhiệm kỳ tiếp theo. Chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là cơ sở vững chắc để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà n¬ước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quán triệt quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta cần quán triệt sâu rộng trên nhiều nội dung, trong đó, cần tập trung quán triệt cơ sở, thực trạng, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần đưa Nghị quyết của Đại hội vào thực tiễn đời sống, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội” [21, tr.226]. Quan điểm học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn,
Download luận án tiến sĩ ngành chủ nghĩa duy vật với đề tài: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời của nó đối với Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Tải bài mẫu tiểu luận môn quản lý nhà nước với đề tài: Tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước Việt Nam hiện nay. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh hiệu quả. Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền-nhà nước “cuả dân, do dân, vì dân”, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng, dân chủ văn minh, thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền “TRONG SẠCH-VỮNG MẠNH-HIỆU QUẢ” nói riêng đã có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng,là nền tảng để Đảng ta xây dựng mô hình Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một cách hoàn thiện nhất. Do đó, tôi chọn đề tài này để có thể nghiên cứu chi tiết hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Sự sáng tạo của hồ chí minh về sự ra đời của nhà nước sau cách mạng tháng 8 n...akirahitachi
☞ Đề tài: Tìm hiểu về hôn nhân trong luật hôn nhân gia đinh.
By Phạm Anh Tài - Law K35D
My Fb: https://www.facebook.com/akirahitachi1992
Web: http://akirahitachi.blogspot.com
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở. Ngay từ khi xã hội loài ngƣời có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [20, tr.1]. Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh thƣờng xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã. Thuật ngữ "chính quyền cấp xã" từ lâu đã được sử dụng khá phổ biến, nhất là trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền cấp trên đối với HĐND và UBND cấp xã, song hầu như chưa có một văn bản, tài liệu chính thống nào có quy định hoặc giải thích rõ, đầy đủ về khái niệm chính quyền cấp xã, về cơ cấu tổ chức, mối quan hệ hay cơ chế hoạt động của các bộ phận cấu thành. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bộ máy Nhà nước ta được thiết lập ở 4 cấp hành chính lãnh thổ. Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được gọi là các cấp chính quyền địa phương, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân nhất, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền nước ta. Tuy nhiên, để đưa ra được khái niệm về chính quyền cấp xã, chúng ta cần phải làm rõ quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của chính quyền cấp xã.
Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong nông nghiệp. HTX xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (giữa thế kỷ XIX), bởi trong nền kinh tế tự do cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau chống lại sự chèn ép, khống chế và bần cùng hóa của tư bản lớn. Trên thực tế, ở mỗi nước có những điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau, nên sự ra đời và phát triển của các HTX có những đặc điểm khác nhau. Có nhiều định nghĩa về HTX, tiêu biểu là định nghĩa của Liên minh HTX quốc tế (ICA), của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).
Cơ sở lý luận về động lực và tạo động lực làm việc cho công chức nữ. Các hoạt động thuộc chức năng công vụ do các công chức của bộ máy nhà nước thực hiện, đó cũng chính là lý do chủ yếu khi nói đến công vụ, các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn luôn đề cập đội ngũ công chức. Mặc dù hiện nay quan niệm và phạm vi công chức ở mỗi quốc gia có khác nhau. Có nơi hiểu công chức theo nghĩa rất rộng như ở Pháp là bao gồm tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính nhà nước, tất cả những người tham gia dịch vụ công. Hay hẹp hơn như tại Anh, nơi công chức là những người thay mặt nhà nước giải quyết công việc công, nhất là ở tại Trung ương, nên phạm vi công chức thu hẹp hơn rất nhiều.
Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng. Dịch vụ công công trong tiếng Việt thường được gọi là dịch vụ công. Theo từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công. Như vậy: Dịch vụ chính là sản phẩm hàng hóa giữa một bên cung ứng và một bên thụ hưởng thông qua các hoạt động nhất định và có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong nông nghiệp. Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm này cho thấy, ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp.Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành khác không có, cụ thể:
Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên bậc đại học. Giáo dục đại học nói chung thường được hiểu là bao gồm giảng dạy, NCKH và chuyển giao ứng dụng. Thực ra, khi phân tích kỹ những quan điểm khác nhau về GDĐH, chúng ta có thể kể ra nhiều vai trò khác nhau của GDĐH trong xã hội. GDĐH đóng vai trò là “hệ thống nuôi dưỡng” (feeder system) của mọi lĩnh vực trong đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực tối cần thiết để phục vụ các công tác quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một quốc gia muốn phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết phải có cả hai yếu tố: một hệ thống GDĐH và một lực lượng lao động. GDĐH truyền cho người học những kiến
Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc. Cho đến nay, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, khái niệm "dân tộc" có hai nội hàm. Thứ nhất nó dùng để chỉ dân tộc ở cấp độ quốc gia tức là dân tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam, một thể chế chính trị - xã hội nhất định, một lãnh thổ, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Thứ hai, "dân tộc" dùng để chỉ cộng đồng tộc người cụ thể, có chung tiếng nói, có chung các đặc điểm sinh hoạt văn hóa, các phong tục, tập quán, ví dụ khi ta nói đến các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Bana, Êđê…
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cộng đồng người thống nhất, có chung một nhà nước, một lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - xã hội, có ngôn ngữ và văn hoá chung, thống nhất[55]. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc là nói tới quốc gia. Sự hình thành dân tộc gắn liền với sự ra đời của nhà nƣớc, đó là nhà nƣớc dân tộc. Nhà nƣớc dân tộc có thể là một tộc ngƣời, là dân tộc đơn nhất nhƣ Nhật Bản, Triều Tiên; cũng có thể là nhiều tộc ngƣời, là dân tộc đa tộc ngƣời nhƣ Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nƣớc khác. Nhà nƣớc dân tộc phải là nhà nƣớc độc lập, có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền. Dân tộc không chỉ là một cộng đồng ngƣời hay cộng đồng đa tộc ngƣời mà còn là một cộng đồng kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá gắn với nhà nƣớc và những điều kiện lịch sử nhất định.
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hoá. Di sản văn hóa là tài sản do các thế hệ đi trước để lại, có vai trò vô cùng quan trọng trong diễn trình văn hóa của một dân tộc nói riêng, và hiểu theo nghĩa rộng là của cả nhân loại nói chung. Phần mở đầu của Luật Di sản Văn hóa (sau đây gọi là DSVH) của Việt Nam đã viết: " DSVH Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta" [37].
Cơ sở lý luận về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng, chống tham nhũng. Mặc dù tồn tại từ lâu trong lịch sử nhân loại, nhƣng đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tham nhũng mới thật sự đƣợc cảnh báo nhƣ là hiểm họa đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, bất kể chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đến nay chƣa có một định nghĩa nào mang tính tổng hợp và đƣợc chấp nhận trên phạm vi toàn về tham nhũng. Các nỗ lực xây dựng một định nghĩa nhƣ vậy đã gặp phải những vấn đề luật pháp, tội phạm học và ở nhiều quốc gia trên thế giới, là cả về chính trị [24, tr.18].
Cơ sở lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội. Thu BHXH không ra đời cùng với khái niệm BHXH bởi hình thức sơ khai nhất của BHXH là những quỹ được hình thành do sự tự nguyện đóng góp của một cộng đồng người nhất định. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, BHXH ngày càng hướng tới nhiều đối tượng và các chế độ trợ cấp khác nhau. Bởi vậy, nguồn quỹ BHXH cũng đặt ra yêu cầu cần được bảo vệ và tăng trưởng tương xứng với mức độ chi. Dần dần quỹ BHXH được hình thành không phải từ sự tự nguyện của một nhóm nhỏ lẻ mà trở thành quy định bắt buộc đối với cộng đồng, sau đó là mỗi quốc gia và hiện nay nó được công nhận trên toàn thế giới. Cũng từ đó, thuật ngữ “thu BHXH” được xuất hiện và sử dụng rộng rãi. Có thể nói, thu BHXH ra đời cũng là một tất yếu khách quan xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của BHXH như sau:
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế. Trên thế giới, do tính chất đặc thù của từng quốc gia nên khái niệm về biên chế cũng khác nhau, có nƣớc chỉ giới hạn biên chế trong cơ quan quản lý nhà nƣớc, thi hành pháp luật. Cũng có nƣớc biên chế áp dụng cho những ngƣời làm việc trong các đơn vị sự nghiệp, thực hiện dịch vụ công.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI. Đối tƣợng tham gia của BHXH là NLĐ và ngƣời SDLĐ. Họ là những ngƣời trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản phần trăm nhất định so với tiền lƣơng của NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nƣớc mà đối tƣợng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó trong xã hội.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG. Dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là một loại sản phẩm kinh tế, không phải là vật phẩm, mà là công việc của một con người dưới hình thái là lao động thể lực, kiến thức và kỹ năng chuyên môn, khả năng tổ chức và thương mại. Sản phẩm dịch vụ là một loại sản phẩm đặc biệt không nhìn thấy trước và chỉ được biết đến khi nó được sử dụng. Có thể hiểu “dịch vụ là hoạt động phục vụ thỏa mãn những nhu cầu cá nhân hay tập thể trong sản xuất và sinh hoạt”.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC. Ở góc độ tổ chức quá trình lao động: “Quản lý nhân lực là lĩnh vực theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh, kiểm tra sự trao đổi chất (năng lượng, thần kinh, bắp thịt) giữa con người với các yếu tố vật chất của tự nhiên (công cụ lao động, đối tượng lao động, năng lượng...) trong quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần để thoả mãn nhu cầu của con người và xã hội nhằm duy trì, bảo vệ và phát triển tiềm năng của con người”. [2, tr4]
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ. Viên chức ngành y tế có vai trò quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, là những người trực tiếp tham gia các hoạt động khám chữa bệnh cho người dân. Viên chức ngành y tế phải đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực, y đức để đảm bảo theo từng vị trí việc làm. Hiện nay, viên chức ngành y tế chiếm khoảng 15% trên tổng số viên chức cả nước, đứng thứ hai sau khu vực giáo dục, đào tạo [4, tr.16]. Viên chức ngành y tế hiện nay bao gồm những người làm công tác quản lý, chuyên môn nghiệp vụ trong các bệnh viện chuyên khoa, đa khoa, bệnh viện tuyến quận, huyện, phường xã, thị trấn và cả những người làm công tác y tế dự phòng,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP. Thuật ngữ “Hiến pháp” có gốc La tinh là “Constitutio” xuất hiện từ rất xa xưa với nghĩa: xác định, quy định [5, tr71]. Nhà nước La Mã cổ đại dùng thuật ngữ này để chỉ các văn bản quy định của Nhà nước. Nhưng với nghĩa hiện nay, Hiến pháp được hiểu là một đạo luật cơ bản của một quốc gia do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành, dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Mọi cá nhân, cơ quan và tổ chức phải có nghĩa vụ tuân thủ hiến pháp. [7, tr13]
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH. Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Tonos nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được đưa vào hệ ngữ La tinh thành Turnur và sau đó thành Tour trong tiếng Pháp với nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Theo Robert Langquar (1980), từ Tourism (du lịch) lần đầu tiên được sử dụng trong tiếng Anh vào năm 1800 và được quốc tế hóa, nhiều nước đã sử dụng trực tiếp từ này mà không dịch nghĩa. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch là một từ gốc Hán - Việt, tạm hiểu là đi chơi, trải nghiệm.
Cơ sở lý luận về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai. Quyền tài sản: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ” [39, Điều 181]. Hiện nay pháp luật nước ta công nhận một số quyền tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền sở hữu công nghiệp…Như vậy việc coi quyền tài sản là tài sản và việc định lượng giá trị quyền tài sản bằng tiền quy về giá trị chung như bao tài sản khác.
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤ (20)
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCNGTRC3
Cháy, nổ trong công nghiệp không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế, con người mà còn gây ra bất ổn, mất an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Vì vậy phòng chông cháy nổ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của cơ sở sản xuất, của mổi công dân và của toàn thể xã hội. Để hạn chế các vụ tai nạn do cháy, nổ xảy ra thì chúng ta cần phải đi tìm hiểu nguyên nhân gây ra các vụ cháy nố là như thế nào cũng như phải hiểu rõ các kiến thức cơ bản về nó từ đó chúng ta mới đi tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống và sử lý sự cố cháy nổ.
Mục tiêu:
- Nêu rõ các nguy cơ xảy ra cháy, nổ trong công nghiệp và đời sống; nguyên nhân và các biện pháp đề phòng phòng;
- Sử dụng được vật liệu và phương tiện vào việc phòng cháy, chữa cháy;
- Thực hiện được việc cấp cứa khẩn cấp khi tai nạn xảy ra;
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực sáng tạo trong học tập.
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfLngHu10
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về triết học nói chung,
những điều kiện ra đời của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, giúp sinh viên nhận thức được
thực chất cuộc cách mạng trong triết học do
C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện và các giai đoạn hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin;
vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong thời đại ngày nay.
2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng tri thức đã học làm cơ sở cho việc nhận
thức những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin; biết đấu tranh chống lại những luận
điểm sai trái phủ nhận sự hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin.
3. Về tư tưởng: Giúp sinh viên củng cố niềm tin vào bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng.
B. NỘI DUNG
I- TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a) Nguồn gốc của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả phương Đông và
phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện
không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của
sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu
cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung
nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết
học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân
loại.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về mặt lịch
sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con
người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết nối những hiểu
biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgích... của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang
tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn
9
giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là
thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo
nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng
nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và có
tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng với sự tiến
bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn
trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Cơ sở lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về Nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền qua các thời kỳ
1.1.1.1. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cổ đại
ở Châu Âu
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư
tưởng chính trị - pháp lý, gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, loại trừ
chuyên quyền, độc tài, vô chính phủ, vô pháp luật, đã hình thành ngay từ thời
cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng thời cổ đại như Xocrat,
Đemocrit, Platon, Arixtot, Xixeron… trong đó nổi bật nhất là quan điểm của
Đemocrit, Arixtot và Xixeron.
Đemocrit (460 - 370 tr. CN): Được coi là người đầu tiên lý giải một cách
khoa học về sự xuất hiện và sự hình thành con người, xã hội loài người. Ông cho
rằng Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người
nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng. Nhà nước là sự thể hiện quyền lực chung
của công dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật.
Arixtot (384 - 322 tr. CN): Ông được C.Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ
đại nhất của thời cổ đại cho rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông
thì yếu tố cấu thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong pháp luật là sự phù
hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có
pháp luật nếu như việc cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp
luật, mưu toan thống trị bằng bạo lực. Những quan điểm nêu trên được Arixtot
trình bày trong tác phẩm “Đạo đức học” và “Thuật hùng biện”.
Xixeron (106 - 43 tr. CN): Ông là nhà hoạt động nhà nước, nhà luật học
và nhà hùng biện của thời kỳ La Mã cổ đại, tác giả của những tác phẩm nổi
4
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tiếng như “Về nhà nước”, “Về những đạo luật” và “Về các nghĩa vụ”… Ông đã
có những tư tưởng tiến bộ như: nhà nước là công việc chung của nhân dân;
phân biệt ba hình thức nhà nước: dân chủ, quý tộc và quân chủ; người điều hành
công việc nhà nước phải sáng suốt, công minh, có khả năng hùng biện và hiểu
biết những nguyên lý cơ bản của pháp luật… Đặc biệt, Xixeron đưa ra quan
điểm nổi tiếng: tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và nhân dân
phải coi pháp luật như chốn nương thân của mình.
Như vậy, theo các nhà triết học thời kỳ này, pháp luật không chỉ là công
cụ cai trị của nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối
với các quan hệ xã hội, bản thân nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật.
1.1.1.2. Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời kỳ cách
mạng tư sản
Những quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên được tiếp
tục phát triển, nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản đánh đổ chế độ
phong kiến chuyên chế, độc tài ở châu Âu thế kỷ XVII, XVIII. Trong thời kỳ
này tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được phát triển khá phong phú, toàn
diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính trị - pháp lý.
Những người có công xây dựng tư tưởng ấy là các học giả tư sản tự do ở châu
Âu như J.Locke, S.L.Montesquieu, I.Kant, Heghel…trong đó đáng chú ý là học
thuyết của S.L.Montesquieu và J.J.Rút - xô
Nhà tư tưởng vĩ đại nước Pháp S.L.Montesquieu (1698 - 1755) đã xây
dựng thuyết phân quyền trong tổ chức nhà nước, ông là tác giả của cuốn sách
nổi tiếng Bàn về tinh thần pháp luật (1748). Trong tác phẩm này từ việc phân
tích chế độ chuyên quyền độc đoán, chuyên quyền, tùy tiện xâm hại tự do dân
chủ, Montesquieu đề cao cơ quan đại biểu của nhân dân, lập luận về sự cần thiết
phải phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Ông cho rằng ba thứ quyền này phải được tổ chức
5
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
một cách độc lập và kiềm chế lẫn nhau để chống tư tưởng độc đoán, lạm quyền.
Để tránh lạm quyền, ba quyền đó cần nằm trong tay ba cơ quan khác nhau,
kiềm chế lẫn nhau. Đây cũng chính là điều kiện chủ yếu để đảm bảo tự do chính
trị trong nhà nước.
Tư tưởng về mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân thật sự được nâng
lên một đỉnh cao mới với tư tưởng về “nguồn gốc quyền lực nhà nước” và “chủ
quyền nhân dân” của J.J Rút - xô. Ông là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng
học lỗi lạc của triết học khai sáng thế kỷ XVIII. Quan điểm về nhà nước và
pháp luật của ông được nêu chủ yếu trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
Trong tác phẩm này Rút - xô đề cập đến sự cần thiết của việc thiết lập công ước
xã hội, các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp. Ông đề cao chủ quyền của nhân dân, quyền lực nhà nước phải
có sự phân chia rành mạch giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp; pháp luật phải
kết tinh ý chí và lợi ích của nhân dân, phải đảm bảo tính độc lập của Tòa án.
Triết lý giải phóng quyền, tư tưởng về giá trị tự nhiên bằng nhau của các cá
nhân và nguyên tắc dành cho cá nhân “Tất cả những gì pháp luật không cấm thì
được phép tự do ý chí” đã dánh dấu một bước ngoặt đối với quan niệm về địa
vị của cá nhân.
Ngoài các nhà lý luận nói trên, trong thời kỳ này nhiều nhà tư tưởng, triết
học, luật học khác đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
như Tomat Jephecxon tác giả của bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776, Tomat
Pên, Jon Adam, Jem Medison…
Những quan điểm, tư tưởng ấy được bổ sung và ngày càng hoàn thiện
bằng nhiều quan điểm lý luận mới, trở thành hệ thống các tri thức khoa học
dưới dạng các quan điểm, tư tưởng, lý luận rất phong phú và phức tạp về mối
quan hệ giữa nhà nước - pháp luật - con người trong xã hội có giai cấp. Sợi chỉ
đỏ xuyên suốt tư tưởng về nhà nước pháp quyền vẫn là thượng tôn vị trí, vai trò
của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.
6
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.1.1.3. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ănghen, V.I. Lênin và Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật kiểu mới
Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen
Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của C.Mác và Ănghen tập
trung vào các yếu tố chủ yếu liên quan đến Nhà nước pháp quyền, đó là nhà
nước, pháp luật gắn với chủ quyền và quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Về pháp luật, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ănghen
đã khẳng định pháp luật luôn luôn có tính giai cấp, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị về chính trị và kinh tế. Mặt khác, pháp luật phải phản ánh thực tại khác
quan và lợi ích chung của xã hội, quan hệ xã hội.
Ngay từ những năm 1842 - 1843, trong những cuộc tranh luận về tự do,
C.Mác đã khẳng định vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền tự do dân
chủ của nhân dân. Theo nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật thì
trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật trở thành tối thượng. Mọi thành viên
trong xã hội, kể cả nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đều phải tuân thủ
pháp luật, xử sự đúng yêu cầu của pháp luật, không có ngoại lệ.
Về nhà nước, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác chủ trương
xây dựng một chế độ dân chủ triệt để trong đó “tự do của mỗi người là điều
kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”, nhà nước kiểu mới phải “giải phóng
con người, bảo đảm sự phát triển tự do tối đa và phát triển toàn diện con người”.
Muốn vậy phải “biến nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn
toàn phục tùng xã hội”. Dân chủ trong nhà nước kiểu mới là dân chủ “do nhân
dân tự quy định”, là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân. Nhà
nước pháp quyền phải bảo đảm chủ quyền của nhân dân, nhà nước phải là đại
biểu cho chủ quyền nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân. Yêu cầu nâng
cao đạo đức, phẩm chất, năng lực và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong
Nhà nước pháp quyền.
7
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tư tưởng của V.I.Lênin
Những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền nêu trên của C.Mác và
Ph.Ănghen được V.I.Lênin tiếp thu và phát triển trong quá trình xây dựng nhà
nước Xô Viết. Ông chỉ rõ “Mục đích của chính quyền Xô viết là thu hút những
người lao động tham gia vào quản lý nhà nước” và “việc thu hút được mọi
người lao động tham gia vào quản lý là một trong những ưu thế quyết định của
nền dân chủ XHCN”
V.I.Lênin đã khái quát nhiều quan điểm về Nhà nước kiểu mới, đó là
“nhà nước không còn nguyên nghĩa”, “nhà nước nửa nhà nước”, “nhà nước quá
độ” để rồi chuyển dần tới một chế độ tự quản của nhân dân. Muốn vậy, trước
mắt phải thực hiện chế độ dân chủ mà nội dung cơ bản là quyền bầu cử, quyền
tham gia quản lý nhà nước, quyền bãi miễn, quyền thẩm tra giám sát hoạt động
của bộ máy nhà nước và cán bộ công chức nhà nước của nhân dân.
Về pháp luật, V.I.Lênin khẳng định vai trò của pháp luật và pháp chế
trong quản lý xã hội mới, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh, thống
nhất trên phạm vi toàn quốc, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền thể hiện
trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với việc
kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại, vận
dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Có thể khái
quát trên những nội dung cơ bản sau đây:
- Giai cấp vô sản phải lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng giành
chính quyền về tay nhân dân.
- Nhà nước XHCN là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, bảo
đảm nền dân chủ thực sự.
- Phải xây dựng Hiến pháp dân chủ để bảo đảm quyền tự do dân chủ
của nhân dân.
8
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
- Nhà nước XHCN là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý
xã hội theo pháp luật và kết hợp chặt chẽ với giáo dục đạo đức.
- Pháp luật trong nhà nước XNCN là pháp luật dân chủ, thể hiện được ý
chí và lợi ích của nhân dân.
- Nhà nước XHCN là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm
trước nhân dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội.
- Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân là nhà nước trong sạch; ngăn
chặn, loại trừ được quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực
khác trong bộ máy nhà nước. Cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là
những “công bộc của dân”.
- Nhà nước XHCN phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của
bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước [26, tr.57].
Có thể nói, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành trong cuộc
cách mạng giải phóng nhân loại khỏi chế độ phong kiến chuyên chế, nhưng
những tư tưởng ban đầu của nó đã bắt nguồn từ thời cổ đại. Tư tưởng về nhà
nước pháp quyền ra đời gắn liền với sự khẳng định chủ quyền của nhân dân,
nhân dân là gốc của quyền lực, gắn liền với sự tự do của nhân dân được bảo
đảm, với sự tuân thủ pháp luật của nhà nước, sự phụ thuộc của nhà nước vào
xã hội.
Xu thế chung của các quốc gia trên thế giới là hướng tới xây dựng nhà
nước pháp quyền và do đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền lại tiếp tục được
bổ sung và hoàn thiện.
1.1.2. Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”, về cơ bản được hình thành vào thời
Khai sáng. Hai tác phẩm đặt nền móng tư tưởng nhà nước pháp quyền là “Tinh
thần pháp luật” của Montesquiue và “Khế ước xã hội” của Rousseau, trong đó
các tác giả đã đề cao quyền công dân và vai trò pháp luật, coi pháp luật như
phương tiện quản lý xã hội. Thuật ngữ nhà nước pháp quyền được ba
9
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhà tư tưởng là Carl Theodor Welcker (1790-1869), Johann Christopher Freiher
(1772-1824) và Robert von Mohl (1799-1875) chính thức vận dụng vào thực tế
nước Đức đầu thế kỷ XIX với nghĩa Nhà nước coi trọng tính tối cao của pháp
luật, không ai có quyền đứng trên, đứng ngoài vòng pháp luật.
Hiện nay, trong lý luận còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm và
các yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền (tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ
tuân thủ pháp luật của nhà nước, nguyên tắc phân công quyền lực lập pháp, hành
pháp, tư pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền tự do cơ bản của công dân; chủ
quyền nhân dân…). Có quan điểm cho rằng, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà
trong đó mọi chủ thể (không ngoại trừ nhà nước) đều tuân thủ nghiêm chỉnh, phục
tùng pháp luật - một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lí trí, thể hiện đầy
đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của con người. Quan điểm khác cho rằng:
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật
với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị; đó là hai yếu tố không thể
thiếu khi nói đến nhà nước pháp quyền. Quan điểm khác nữa lại định nghĩa về nhà
nước pháp quyền dựa trên các đặc trưng của nó, theo đó, nhà nước pháp quyền là
nhà nước dựa trên các nguyên tắc như tính tối cao của luật; chủ quyền của nhân
dân; phân công quyền lực; tính vững chắc của các quyền tự do của con người…
Tuy có nhấn mạnh về các khía cạnh khác nhau trong nội dung nhà nước
pháp quyền, nhưng quan điểm chung đều cho rằng, nhà nước pháp quyền không
phải là một kiểu nhà nước mới. Trong lịch sử loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước
là nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước XHCN.
Nhà nước pháp quyền là hình thức phân công và tổ chức quyền lực nhà nước,
nó có những đặc trưng riêng: đó là nhà nước mà hiến pháp và các đạo luật phải
giữ vị trí tối cao; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân công
quyền lực; con người là giá trị cao quý và mục tiêu cao nhất; bảo đảm chủ quyền
của nhân dân. Như vậy, Nhà nước pháp quyền là vị
10
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thế pháp lí hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người đều phải phục tùng và tôn
trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền. Nhà nước pháp
quyền liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy phạm, tôn
trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Nhà nước pháp
quyền là nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách thông qua phiếu
bầu phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ đặt ra.
1.1.3. Đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền
Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan điểm
tư tưởng rất phức tạp, phong phú và có các cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy,
nghiên cứu tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử có thể khái quát
những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền như sau:
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp
và pháp luật, đảm bảo tính tối cao và vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp
luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Đây là một trong những
đặc trưng quan trọng của nhà nước pháp quyền. Tính tối cao của pháp luật được
thể hiện trên hai phương diện: một là, đảm bảo sự thống trị của pháp luật trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội; hai là, tính bắt buộc của pháp luật đối với bản
thân nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Pháp luật là tiêu chuẩn, là
căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Muốn vậy, hệ thống pháp
luật phải hoàn thiện, có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo vai trò tối thượng của các
đạo luật. Tất cả các đạo luật phải phù hợp với Hiến pháp và các văn bản cao
nhất của cơ quan lập pháp. Những văn bản dưới luật phải phù hợp với luật, quá
trình áp dụng pháp luật, các hoạt động cá nhân đều phải tuân thủ theo luật và
các văn bản dưới luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó các quyền tự do, dân chủ
của công dân được nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Mọi hành vi vi phạm pháp
đều phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Mục tiêu cao nhất
của nhà nước pháp quyền là đảm bảo quyền tự do, dân chủ của con
11
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
người. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do
của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng
bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì pháp luật không cấm
trong khuôn khổ không xâm phạm đến tự do của người khác. Pháp luật chỉ cấm
những gì có hại cho xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là phương
tiện ghi nhận quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng
thời cũng qui định cả những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những
hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích đó.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm chịu trách nhiệm trước công
dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ với
nhà nước. Nhà nước coi quyền của công dân là nghĩa vụ của mình và công dân
cũng xem quyền của nhà nước là nghĩa vụ của mình. Khi vi phạm pháp luật thì cả
hai bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau, không có ngoại lệ.
Để đảm bảo yêu cầu đó trong nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ
chức quyền lực nhà nước thích hợp và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật,
xử lý các vi phạm pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Theo đó,
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân định rõ ràng, rành
mạch cho ba hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, đối
trọng, chế ước lẫn nhau, tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của
quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp mạnh, đủ năng
lực xây dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thông qua cơ chế làm luật,
năng lực tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp phải độc lập và
bảo đảm công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu
cầu mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải
sắp xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền.
Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp
quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ
12
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
chức của đại đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp
quyền đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của
của Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia, Hiến pháp
là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất.
Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc hình
thành cơ chế bảo vệ và bảm đảm thực thi Hiến pháp là không thể thiếu, đặc biệt
là trong nhà nước pháp quyền, nơi Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí thượng tôn.
Để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật
phải bảo đảm sự độc lập của Tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp
luật.
Có thể nói, những đúc kết cơ bản trên về nhà nước pháp quyền của các
triết gia, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng vĩ đại cho thấy, nhà nước pháp quyền
là một hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước trong một “xã
hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”. Giá trị của lý luận về nhà nước pháp
quyền trong lịch sử được thể hiện ở chỗ: coi nhà nước là tổ chức công quyền
chịu sự ràng buộc của pháp luật và thống nhất quản lý xã hội bằng pháp luật,
chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và sự tùy tiện trong bộ máy nhà nước và
nhân viên của nó; coi công dân là chủ thể của “xã hội công dân”, công dân là
đối tượng phục vụ của nhà nước, nhà nước có trách nhiệm với công dân và bảo
đảm tự do của công dân trong khuôn khổ pháp luật, ngăn ngừa sự xâm hại tự
do của người khác và lợi ích của xã hội.
Các đặc điểm, tiêu chí của nhà nước pháp quyền có những mức độ thể
hiện khác nhau ở các quốc gia tùy thuộc và điều kiện cụ thể của mỗi đất nước.
Có thể nói về nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước, một trong những tiêu
chí quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền tư sản thì các nước cũng có cách
áp dụng khác nhau, không theo một khuôn mẫu chung. Có những nhà nước tư
sản áp dụng việc phân quyền một cách mềm dẻo (ở các nước theo chính thể đại
nghị, giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự phối hợp với nhau
13
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
và hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp); có những nhà nước áp
dụng phân quyền một cách cứng rắn (ở các nhà nước theo chính thể cộng hòa
tổng thống có sự độc lập của các cơ quan quyền lực, hành pháp không chịu
trách nhiệm trước lập pháp).
Như vậy, có thể thấy rằng không có một khuôn mẫu nhất định về nhà
nước pháp quyền để áp dụng cho mọi nhà nước tư sản với các hình thức nhà
nước khác nhau và càng không thể có một khuôn mẫu chung về nhà nước pháp
quyền áp dụng cho mọi nhà nước với những chế độ chính trị khác nhau.
1.2. Khái niệm, đặc trƣng và nội dung xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam
1.2.1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được nguyên Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười nêu ra tại Hội nghị tư pháp toàn quốc năm 1989:
“Hiện nay trên thế giới đang trở lại khái niệm nhà nước pháp quyền mà nội
dung quan trọng của nó là thừa nhận sự thống trị của pháp luật đối với xã hội.
Ở nước ta, có dùng khái niệm đó hay không thì tuỳ, các nhà khoa học nên
nghiên cứu” [36, tr.83]. Tiếp sau đó, tại Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành
Trung Ương Đảng khóa VII (1991), khái niệm nhà nước pháp quyền một lần
nữa được nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đề cập đến. Vậy nhà nước pháp quyền
là gì? Theo cách hiểu của các nhà lý luận Việt Nam, nhà nước pháp quyền có
những đặc trưng cơ bản nào?
Trong cuốn “Từ điển xã hội học” do Nguyễn Khắc Viện chủ biên viết:
“Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở dân chủ, đối lập với nhà nước độc
tài, chuyên chế toàn trị….Nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với nhà nước
cai trị bằng pháp luật….Nhà nước pháp quyền xây dựng trên cơ sở “xã hội công
dân”... pháp luật là thước đo của tự do” [35, tr.135]. Đây là cách hiểu bao quát,
dễ hiểu về khái niệm nhà nước pháp quyền. Quan niệm này đưa ra sự đối lập
giữa nhà nước pháp quyền với nhà nước độc tài, chuyên chế
14
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
toàn trị mà điển hình là nhà nước chiếm hữu nô lệ và nhà nước phong kiến, một
kiểu nhà nước mà quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều nằm trong tay một
hoặc một nhóm người. Tuy nhiên, cách hiểu này còn nặng về phương diện xã
hội học mà chưa quan tâm đến phương diện luật học, trong đó nhấn mạnh hai
điểm cơ bản là đảm bảo dân chủ và tự do mà chưa phản ánh được tính tối thượng
của pháp luật và vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề nhà nước pháp quyền thu hút sự tham gia đông
đảo của các nhà lý luận. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về
khái niệm nhà nước pháp quyền.
GS.VS. Nguyễn Duy Quý cho rằng, một nhà nước được công nhận là
nhà nước pháp quyền khi đạt các tiêu chí: 1.Tôn trọng tính tối cao của luật; 2.
Lập pháp, hành pháp, tư pháp phân định rõ rệt nhằm kiểm soát, kiềm chế nhau;
3. Bảo đảm quyền công dân; 4. Thực hiện các cam kết quốc tế.
Nhóm tác giả công trình KX.04.01 đưa ra quan điểm “Nhà nước pháp quyền
không phải là một kiểu nhà nước. Đó là một nhà nước tồn tại, phát triển và vận
hành trong môi trường pháp luật, coi pháp luật là tối thượng” [24, tr.89].
GS.TSKH. Đào Trí Úc viết trong cuốn Mô hình tổ chức và hoạt động
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước pháp quyền
là một khái niệm có thể được hiểu ở hai mức độ, với tính cách là học thuyết, là
tư tưởng và với tính cách là thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước,
thực thi dân chủ.... Chủ điểm của các tư tưởng, quan niệm, quan điểm về nhà
nước pháp quyền đều là vấn đề giá trị của pháp luật được thừa nhận đến đâu
trong xã hội” [31, tr.33-34]. Ở đây, tác giả đã nêu ra việc phân định hai cấp độ
lý luận và thực tiễn trong quan niệm về nhà nước pháp quyền, trong đó nhấn
mạnh khía cạnh giá trị xã hội của pháp luật, tức bản chất của nhà nước pháp
quyền được quy định bởi nội dung của hệ thống pháp luật mà trên đó nó được
xây dựng.
15
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng các học giả trong và ngoài nước nhóm tác
giả Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Sĩ Dũng, Bùi Ngọc Sơn trong cuốn Quốc hội
Việt Nam trong nhà nước pháp quyền đã đưa ra nhận định: “Nhà nước pháp
quyền chỉ là một xã hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các quyền tự nhiên,
mọi chủ thể trong đó có cả nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật… Nhà nước
pháp quyền là một hình thức nhà nước được phân tích trong mối tương quan
giữa nhà nước và pháp luật” [3, tr.26, 28].
Những nhận định trên tuy có những điểm khác biệt, song đều thống nhất
ở điểm cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước (với ý
nghĩa như cách phân loại của lý luận xã hội chủ nghĩa về 4 kiểu nhà nước trong
lịch sử) mà nhà nước pháp quyền là một hình thức nhà nước, một phương thức
tổ chức quyền lực nhà nước tiến bộ mà bất kì nhà nước nào, thể chế chính trị
nào muốn đạt đến trình độ văn minh đều phải hướng tới. Giá trị lịch sử của nhà
nước pháp quyền là ở tính nhân văn, tôn trọng tự do và những quyền cơ bản
của con người. Bản chất của nhà nước pháp quyền được quy định bởi hệ thống
pháp luật và Hiến pháp.
Từ những quan điểm trên có thể hiểu Nhà nước pháp quyền Việt Nam là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc
quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp; nhà nước đề cao vai
trò của Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam
Nhà nước pháp quyền với tính cách là học thuyết về tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước, là một giá trị, là tinh hoa của nhân loại có nguồn gốc xa
xưa, từ thời cổ đại có thể được áp dụng ở các nước trên cơ sở những nét đặc
trưng về văn hóa, chính trị, tư tưởng - pháp lý, truyền thống dân tộc. Chính vì
vậy việc áp dụng học thuyết nhà nước pháp quyền vào nước ta hiện
16
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nay với những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là điều hoàn toàn có thể được.
Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra được những đặc trưng cơ bản của nhà
nước pháp quyền Việt Nam với bản sắc dân tộc, truyền thống, văn hóa và những
điều kiện riêng của Việt Nam.
Từ thực tiễn xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, những đặc trưng cơ bản
của nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân ngày càng được
định hình, có thể nêu lên một số đặc trưng cơ bản sau đây:
1.2.2.1. Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Hơn nửa thế kỷ nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành năm bản Hiến
pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến
pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số
51/2001/QH10, ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X), Hiến pháp
năm 2013. Cả năm bản Hiến pháp trên đều khẳng định quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, mọi chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đều hướng tới mục đích phục vụ
nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân, như đã nói từ
trước đến nay vẫn còn nhiều điều đáng bàn. Vì trong thực tế, có một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức nhà nước đã lợi dụng chức vụ quyền hạn để xâm
phạm quyền công dân, tham ô, lãng phí. Vì nhiều lý do khác nhau, nhân dân
vẫn chưa được hưởng nhiều quyền lợi một cách trọn vẹn, chính sách xã hội mà
cụ thể là vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội còn bất cập, gây bất bình trong dư
luận xã hội.
Mặc dầu ở các nước phương Tây, phản biện xã hội đã trở thành hiện
thực, người dân có quyền biểu tình phản đối các chính sách của nhà nước nếu
các chính sách đó không phù hợp với nguyện vọng của họ. Những cuộc biểu
tình phản đối nhà nước như vậy được coi là hợp Hiến, được tổ chức chặt chẽ
17
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
và có sự tham gia của các tổ chức xã hội, sự bảo vệ của cảnh sát. Nhưng ở Việt
Nam, vấn đề vận động hành lang, trưng cầu dân ý, phản biện xã hội là vấn đề
chưa được đem ra bàn luận công khai mang tính pháp lý.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam chỉ trở thành nhà nước của dân, do dân,
vì dân khi: 1) Nhân dân trở thành chủ thể quyền lực nhà nước, họ có thể tham
gia vào các công việc lập pháp, hành pháp, tư pháp. 2) Nhân dân là chủ thể các
hoạt động bầu cử, ứng cử, tranh cử. Việc bầu cử, ứng cử là nhu cầu tự thân của
hoạt động quần chúng, là một phong trào chính trị diễn ra công khai, minh bạch,
tính chất bầu cử phải là hình thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp, chứ không
phải thông qua đại diện, đại biểu. 3) Nhân dân phải được chính quyền đề cử
một cách luân phiên giữ các chức danh bồi thẩm đoàn trong các phiên xét xử
của tòa án. Các vụ án phải được xét xử lưu động trong cộng đồng dân cư với
sự tham gia đông đảo của nhân dân và giới báo chí trong, ngoài nước, chứ
không phải nơi công đường nhà nước với sự bảo vệ một cách nghiêm ngặt của
cảnh sát. 4) Nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước. Mọi chủ trương
chính sách nhà nước phải được triển khai và thực hiện theo nguyên tắc: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. 5) Các hoạt động của Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp phải diễn ra công khai thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng để nhân dân có thể theo dõi và bình luận trực tiếp.
1.2.2.2. Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời
sống xã hội
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật,
đảm bảo tính tối cao, vị trí tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản. Đây là một đặc trưng nổi bật của nhà
nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng.
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được
xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến
18
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
pháp. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo sự ổn
định của xã hội và sự an toàn của người dân.
Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước được tổ chức và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
các đạo luật có vai trò tối thượng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ và công dân đều có
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Không
một ai đứng trên hoặc đứng ngoài pháp luật, đi ngược lại ý chí và lợi ích của
nhân dân. Khác với nhà nước cực quyền hay nhà nước pháp trị, việc quản lý xã
hội bằng pháp luật của nhà nước pháp quyền dựa trên cơ sở một hệ thống pháp
luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, có giá trị pháp lý cao, phản ánh nguyện vọng
và ý chí của nhân dân, là chuẩn mực của dân chủ, tự do, công bằng và nhân
đạo.
Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phương
hướng quan trọng để thực hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của nhân
dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội.
1.2.2.3. Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền công dân, quyền con
người, tất cả vì hạnh phúc của con người
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Mọi hoạt động của nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và bảo
đảm quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của
mình theo đúng các qui định của luật pháp.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, do vậy, tư
tưởng “trọng dân” phải được quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của
Nhà nước. Tư tưởng “trọng dân” hoàn toàn không mâu thuẫn với đặc trưng
“trọng pháp”, “thượng tôn pháp luật” của nhà nước pháp quyền, trái lại đây
chính là nguyên lý dân chủ - pháp quyền tiến bộ đã được các nhà tư tưởng pháp
quyền như Rút xô, Môngtekiơ…xác định.
19
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Có thể nói, quyền công dân là sự thể hiện cụ thể quyền con người. “Quyền
công dân là quyền con người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội -
chính trị nhất định với một nền pháp luật cụ thể do nhà nước đó thừa nhận, qui
định” [14, tr.27]. Lịch sử đấu tranh cho quyền con người bắt đầu từ lịch sử hình
thành giai cấp, nhà nước và pháp luật. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của xã
hội, việc bảo đảm quyền con người, cụ thể hơn nữa là quyền công dân ngày càng
được coi trọng. Nó trở thành một đặc trưng của một xã hội hoàn thiện, nơi quyền
con người, quyền công dân được bảo đảm đầy đủ.
Xuất phát từ mục tiêu trên, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân đã được đề cập ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Đây
không chỉ là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các bản Hiến pháp
nước ta từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013 mà
còn được thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta từ
trung ương tới địa phương.
Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương
diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá
nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm
những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật
cấm.
1.2.2.4. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Ở Việt Nam, với một nền chính trị nhất nguyên, kể từ khi ra đời đến nay,
Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo đất nước trong công cuộc
đấu tranh giành chính quyền, trong sự nghiệp đổi mới cũng như trong việc xây
dựng Nhà nước phâp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vai trò lãnh đạo đất
nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam được khẳng định trong Điều 4 Hiến pháp
năm 2013: “Đảng Cộng Sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã
hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
20
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nghĩa Việt Nam hiện nay, hơn bao giờ hết, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải phát
huy vai trò và trách nhiệm lớn lao của mình. Tuy nhiên, để không chồng chéo
trách nhiệm giữa Đảng và nhà nước thì vấn đề phân định sự lãnh đạo của Đảng
cầm quyền và sự quản lý, điều hành của nhà nước là hết sức cần thiết. Để có sự
phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa Đảng và nhà nước theo phương châm:
Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thì cần phải đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nhằm giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng và tính dân chủ nhân dân của nhà nước, bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Để hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền cần đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, giữ vững, tăng cường vai trò của
Đảng, đồng thời, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước và các
đoàn thể chính trị - xã hội, nêu cao quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình
tổ chức thực hiện đường lối phát triển do Đảng đưa ra. Bên cạnh đó, việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới
toàn bộ hệ thống chính trị, với việc đổi mới, sắp xếp lại và nâng cao phẩm chất,
năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng của các tổ chức đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải tiến hành một cách dân chủ, bằng
những phương pháp dân chủ, phải thấm nhuần sâu sắc tư duy biện chứng về
mối quan hệ giữa mục tiêu với phương thức, phải được tiến hành khẩn trương,
kiên quyết nhưng vững chắc.
1.2.2.5. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp
và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp,
tư pháp
Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền là một quan điểm có tính nguyên tắc
đóng vai trò phương pháp luận chỉ đạo đối với việc thiết kế mô hình tổ chức
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quan điểm của Đảng
21
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Cộng Sản Việt Nam, sự thống nhất quyền lực là nền tảng, sự phân công và phối
hợp quyền lực là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà
nước. Sự phân công quyền lực đó chỉ thực sự xuất hiện như một nhu cầu và khả
năng hiện thực trong các nhà nước dân chủ, ở các mức độ khác nhau, nhân dân
thực hiện quyền lực của mình bằng nhà nước, và quyền lực nhà nước bắt nguồn
từ nhân dân. Ở góc độ này, có thể khẳng định rằng, nhà nước pháp quyền không
hoàn toàn đồng nghĩa với tam quyền phân lập. Tức là việc phân chia quyền lực
triệt để theo nguyên tắc tam quyền phân lập không phải bao giờ cũng là điều
kiện tiên quyết của nhà nước pháp quyền. Trong nhà nước pháp quyền Việt
Nam quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân,
cơ cấu quyền lực nhà nước được tổ chức như sau:
- Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan có quyền
lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người thống lĩnh các lực lượng
vũ trang, giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, có những thẩm
quyền nhất định liên quan trực tiếp đến các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
- Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất, thống nhất điều hành việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại của nhà nước.
- Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp.
Như vậy, trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, có sự phân công giữa
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toàn án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thực thi có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh
22
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tổng hợp của quyền lực nhà nước. Các cơ quan này dù được phân công thực
hiện các quyền khác nhau nhưng trong quá trình thực hiện quyền hạn của mình
đều phải có sự phối hợp với các cơ quan khác. Về thực chất thì quyền lực nhà
nước là thống nhất, không thể tách biệt độc lập các lĩnh vực hoạt động của
quyền lực nhà nước.
1.2.2.6. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước
Dân chủ vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền
đề của chế độ nhà nước. Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và
thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân
dân thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện.
Đây cũng là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, của
các thiết chế chính trị: Đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Tập trung
dân chủ là nguyên tắc quản lý nhà nước cần được quán triệt trong tổ chức và
hoạt động của từng cơ quan và của bộ máy nhà nước nói chung. Nguyên tắc
này đảm bảo sự kết hợp giữa lãnh đạo điều hành tập trung thống nhất của trung
ương với phát huy tính chủ động, năng động của địa phương, khắc phục cả hai
khuynh hướng phân tán cục bộ và tập trung quan liêu.
Nguyên tắc tập trung dân chủ liên quan tới sự phân định thẩm quyền
trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền. Xử lý mối quan hệ giữa tập trung và dân
chủ trong quản lý nhà nước đòi hỏi phải tập trung vào trung ương quyết định
những vấn đề ở tầm vĩ mô và phân cấp quản lý cho chính quyền địa phương
những vấn đề thuộc thẩm quyền địa phương để vừa phát huy tính chủ động, vừa
nêu cao và ràng buộc tinh thần trách nhiệm của các địa phương. Là nguyên tắc
nền tảng của cả nhà nước và hệ thống chính trị, nếu xa rời sẽ kém hiệu lực và
sức mạnh.
23
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2.2.7. Nhà nước pháp quyền Việt Nam bảo đảm thực hiện nghiêm
chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ký kết, gia nhập nhiều điều ước
quốc tế phục vụ cho chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ trương hội
nhập kinh tế quốc tế. Vị trí, vai trò của điều ước quốc tế trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội được nâng cao rõ rệt. Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh về ký
kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998, đánh dấu bước phát triển quan
trọng đưa việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế vào nề nếp. Điều ước quốc
tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia đã và đang dần trở thành một bộ phận
không thể tách rời của hệ thống pháp luật quốc gia của Việt Nam. Trường hợp
điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với các
luật chuyên ngành của Việt Nam thì ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế. Trách
nhiệm của Nhà nước Việt Nam là thực hiện đầy đủ, có thiện chí và tận tâm các
cam kết quốc tế của mình. Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với tinh thần “Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực” [10, tr.38].
Với những đặc trưng nêu trên, nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện
những tư tưởng quan điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh ước mơ và khát vọng của
nhân dân đối với công lý, tự do, bình đẳng trong một xã hội còn giai cấp.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, chúng ta đặt vấn đề đẩy mạnh cải cách
tổ chức và hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, thực chất là tiếp thu những quan điểm tích cực, tiến
bộ và khoa học về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối
đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân - nông dân - trí
thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
24
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Đó là, Nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhà nước
là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đó là, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử
lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ
tiện từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện
tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả
hoạt động của nhà nước.
Đó là, Nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức
Đảng, cán bộ, công chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều
có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
1.2.3. Nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam có nhiều nội dung khác nhau
nhưng trong phạm vi luận văn chỉ nghiên cứu một số nội dung sau:
Một là, xây dựng và phát huy được các giá trị của nền dân chủ XHCN
và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Chủ quyền nhân dân là tư tưởng
xuyên suốt tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam, điều này thể hiện một cách
cô đọng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết toàn dân, dân là gốc, dân là chủ,
dân là lực lượng vĩ đại và nhân dân là nền tảng của Nhà nước. Cũng từ đây mà
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vừa là bản chất, vừa là nguyên
tắc, đồng thời là nội dung quan trọng cần hướng tới trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực
chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân
chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Việc xây dựng cơ cấu
tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước là nội dung rất quan
25
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
trọng. Theo đó, bản Hiến pháp mới đã quy định rõ vai trò chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy
định cơ chế vận hành: Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước gắn liền
với xây dựng đội ngũ công chức có trình độ, năng lực đạo đức, trách nhiệm và
thượng tôn pháp luật. Hiến pháp là cơ sở để đổi mới hoạt động của Quốc hội,
đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, bảo đảm cho quản lý của
Nhà nước có hiệu quả và hiệu lực.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bắt đầu từ Hiến pháp
và khẳng định tính tối thượng của pháp luật. Pháp luật là công cụ quản lý chủ
yếu của nhà nước. Hiến pháp vừa được thông qua là căn cứ để xây dựng hệ
thống pháp luật, ban hành luật mới và sửa đổi các luật đã có cho phù hợp với
Hiến pháp, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện thông suốt và nghiêm minh.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật phải gắn liền với tăng cường giáo dục pháp luật
và chú trọng văn hóa pháp luật.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
Nhà nước coi quyền của công dân là nghĩa vụ của mình và công dân cũng xem
quyền của nhà nước là nghĩa vụ của mình. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều
phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, nếu vi phạm pháp luật đều
bị xử lý theo pháp luật.
1.3. Mô hình nhà nƣớc pháp quyền của một số nƣớc trên thế giới và
giá trị tham khảo cho Việt Nam
1.3.1. Mô hình nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới
Từ những tư tưởng, quan điểm về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, tùy thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước và đặc điểm,
truyền thống về lịch sử, văn hóa của mỗi nước mà sự vận dụng có khác nhau.
26
24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Trong lịch sử nhà nước hiện đại đến nay có bốn mô hình khác nhau về tổ
chức quyền lực nhà nước như sau:
1.3.1.1. Mô hình chính thể Cộng hòa Tổng thống
Điển hình của mô hình Cộng hòa Tổng thống là Hoa kỳ. Mô hình cộng
hòa Tổng thống có những đặc điểm sau đây:
- Áp dụng triệt để quan điểm về phân chia quyền lực nhà nước trong học
thuyết tam quyền phân lập của S.L.Montesquieu. Các cơ quan thực thi quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rạch ròi đồng thời có cơ chế kiềm
chế, đối trọng lẫn nhau.
- Tổng thống do nhân dân bầu ra vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là
người đứng đầu Chính phủ, có quyền thành lập Chính phủ, có quyền bổ nhiệm
các thành viên chính phủ, các thẩm phán tòa án Liên bang.
- Quốc hội gồm Thượng nghị viện và Hạ nghị viện đều do nhân dân
bầu ra thực hiện quyền lập pháp.
- Pháp viên tối cao và Tòa án các cấp thực hiện quyền tư pháp, hoàn toàn
độc lập trong các phán quyết của mình. Để bảo đảm tính độc lập của Tòa án,
các thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời và không bị cách chức nếu không tham
nhũng và vi phạm pháp luật; tiền lương của thẩm phán được bảo đảm bằng
ngân khố quốc gia và không bị giảm trong quá trình tại chức.
- Có các thiết chế kìm chế và đối trọng lẫn nhau giữa lập pháp, tư pháp
như: Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật do hai viện của Quốc hội đã
thông qua; Hạ nghị viện có quyền buộc tội, Thượng nghị viện có quyền xét xử
Tổng thống theo thủ tục đàn hạch nếu lạm dụng quyền lực và vi phạm pháp
luật, đạo đức; Quốc hội có quyền không phê chuẩn ngân sách cho chính sách
mà Tổng thống đệ trình; Tổng thống có quyền bổ nhiệm các quan chức cao cấp
trong Chính phủ, Thẩm phán Tòa án liên bang nhưng phải được sự đồng thuận
của Thượng nghị viện.
27
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.3.1.2. Mô hình chính thể Cộng hòa đại nghị
Mô hình này đang tồn tại ở Italia (theo Hiến pháp 1947), Cộng hòa Liên
bang Đức (theo Hiến pháp 1949), Áo (theo Hiến pháp 1922, sửa đổi năm 1929),
Hy Lạp (theo Hiến pháp 1975)… Mô hình này có những đặc điểm sau:
- Quyền lực Tổng thống bị hạn chế, quyền lực chính trị tập trung vào
Thủ tướng.
- Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu được thành lập trên cơ sở đảng
chiếm đa số ghế trong Quốc hội. Thủ tướng Chính phủ là thủ lĩnh Đảng chiếm
đa số ghế trong Quốc hội.
- Tổng thống và Thủ tướng chia nhau quyền hành pháp. Tổng thống do
Hội nghị Liên bang bao gồm tất cả các thành viên của Hạ viện “Bundestag”
(Đức) và một số lượng đại biểu nhân dân bằng số lượng đại biểu Hạ viện được
bầu từ các chủ thể của Liên bang theo tỷ lệ dân số. Thủ tướng do Hạ viện bầu
theo đề cử của Tổng thống, trên cơ sở kết quả bỏ phiếu, Tổng thống sẽ bổ nhiệm
Thủ tướng.
- Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống bổ nhiệm và miễn nhiệm các
thành viên của Chính phủ. Thủ tướng bổ nhiệm một trong số các Bộ trưởng
làm phó Thủ tướng.
- Thủ tướng có thể bị Nghị viện bỏ phiếu bất tín nhiệm và buộc phải từ
chức (Italia) hoặc Hạ viện bỏ phiếu bất tín nhiệm và buộc phải từ chức (Đức).
Ưu điểm của mô hình này là tạo ra cơ chế bảo đảm sự thống nhất giữa
Chính phủ và Nghị viện do Chính phủ luôn luôn được số đông trong Nghị viện
ủng hộ. Việc phân chia quyền lực trong trường hợp này không dẫn đến phân
lập quyền lực.
1.3.1.3. Mô hình chính thể quân chủ đại nghị
- Chính thể quân chủ đại nghị là chính thể trong đó nguyên thủ quốc gia
là Vua được thiết lập theo nguyên tắc kế truyền. Vua bị hạn chế quyền lực bởi
Hiến pháp có chức năng chủ yếu là lễ tân và ngoại giao. Chính thể quân chủ
28
26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đại nghị đang tồn tại ở nhiều nước trên thế giới như Anh, Thụy Điển, Nhật
Bản, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Campuchia, Thái Lan…
- Đặc điểm cơ bản của chính thể quân chủ đại nghị là kết hợp những giá
trị truyền thống của chính thể quân chủ với những giá trị mới của nền dân chủ
tư sản: duy trì chế độ Vua là biểu tượng và đại diện cho sự thống nhất ý chí,
đoàn kết dân tộc, thực hiện chế độ bầu cử phổ thống, bình đẳng, trực tiếp, bỏ
phiếu kín để thành lập Nghị viện, Thủ tướng là thủ lĩnh của Đảng chiếm đa số
ghế trong Nghị viện, có quyền hạn rất lớn, là người quyết định đường lối chính
trị của Chính phủ.
1.3.1.4. Mô hình chính thể Cộng hòa lưỡng tính (hỗn hợp)
- Chính thể Cộng hòa lưỡng tính (hỗn hợp) là chính thể kết hợp các yếu
tố của chính thể Cộng hòa Tổng thống và chính thể Cộng hòa Nghị viện, hiện
đang tồn tại ở một số nước như: Pháp, Nga, Hàn Quốc, Xingapore, Phần Lan,
Bồ Đào Nha, Ailen trong đó điển hình nhất của mô hình này là Pháp và Nga.
- Tổng thống do nhân dân trực tiếp bầu ra , là người đứng đầu nhà nước, có
quyền bổ nhiệm Thủ tướng và theo đề nghị của Thủ tướng bổ nhiệm các thành
viên của Chính phủ trên cơ sở đảng chiếm ưu thế trong Nghị viện và có sự phê
chuẩn của Nghị viện, có quyền bổ nhiệm các thẩm phán, yêu cầu Nghị viện thảo
luận lại các dự luật đã được hai viện thông qua, giải tán Hạ nghị viện.
- Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ, cùng chia sẻ quyền hành pháp
với Tổng thống. Chính phủ vừa chịu trách nhiệm trước Tổng thống vừa chịu
trách nhiệm trước Nghị viện, có thể bị Nghị viện bất tín nhiệm.
- Nghị viện cũng có thể bị Tổng thống giải tán.
- Đặc điểm nổi bật của mô hình chính thể Cộng hòa lưỡng tính là xây
dựng chính quyền hành pháp mạnh nhưng có các cơ chế kiềm chế và giám sát
thích hợp để hạn chế đến mức tối đa sự lạm dụng quyền lực.
1.3.2. Giá trị tham khảo cho Việt Nam
Từ lý luận về Nhà nước pháp quyền và thực tiễn các mô hình tổ chức
quyền lực nhà nước trên thế giới có thể khái quát những giá trị phổ biến có
29
27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tính nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền mang tính tham khảo cho Việt
Nam như sau:
- Xây dựng Hiến pháp thể hiện chủ quyền của nhân dân, là nền tảng
pháp lý cho tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền
- Nguyên tắc đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, có cơ chế phán quyết
về những vi phạm Hiến pháp và tranh chấp thẩm quyền trong hoạt động lập
pháp, hành pháp, tư pháp (mô hình Tòa án Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp, Ủy
ban Hiến pháp)
- Nguyên tắc cam kết tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức, hoạt
động của Nhà nước bảo đảm sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội.
- Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước, kiểm soát lẫn nhau giữa các
cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
để hạn chế việc lạm dụng quyền lực nhà nước.
- Nguyên tắc tôn trọng, thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền con
người, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
- Nguyên tắc quyền tư pháp độc lập với quyền lập pháp và hành pháp.
Khi xét xử Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Nguyên tắc nhà nước chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình.
(Tổng thống có thể bị đàn hạch khi xét xử; Nghị viện có thể bị giải tán; Chính
phủ, Thủ tướng, các quan chức cao cấp có thể bị bỏ phiếu bất tín nhiệm và bị
bãi miễn, bắt buộc từ chức nếu tham nhũng, vi phạm pháp luật, đạo đức, hoặc
không hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của Nhà nước.