Cơ sở lý luận về vai trò của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân. Công dân của một nước được pháp luật nước đó quy định cho hưởng quyền công dân về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội và trao trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tạo các điều kiện ngày càng đầy đủ, để công dân có thể hưởng được các quyền và yêu cầu công dân thực hiện ngày càng đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
Cơ sở lý luận và pháp lý về bảo vệ quyền công dân của phạm nhân. Quyền công dân về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong Nhà nước quân chủ sang địa vị công dân trong Nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với tư cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người được thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhưng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền con người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và mối quan hệ đó được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch.
Theo anh/chị việc quy định các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam đã phù hợp chưa? skdsgfugkjsgjgjfgjfgfjfgjkgdfjgsjdgjgskjfgkjgfkjskjgkjsgksgkjfgskjkjgskjgkjgjkgskjgkjhskjfhkjhfkjhfkjsfhkjsfhdjhfskjhfdjfhksjdhfkjfhfjshfkjshkjhkjhskjhfkjsfhkjshjkhfkjdsfhjdhsfjkhkfhfdskjfhkjsfdhfksjfhskjfhdfkshfdfkjhfjfdssfsfdkfshfjfsjhfskkhfsdsjdsfjfds
Cơ sở lý luận và pháp lý về bảo vệ quyền công dân của phạm nhân. Quyền công dân về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong Nhà nước quân chủ sang địa vị công dân trong Nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với tư cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người được thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhưng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền con người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và mối quan hệ đó được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch.
Theo anh/chị việc quy định các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ở Việt Nam đã phù hợp chưa? skdsgfugkjsgjgjfgjfgfjfgjkgdfjgsjdgjgskjfgkjgfkjskjgkjsgksgkjfgskjkjgskjgkjgjkgskjgkjhskjfhkjhfkjhfkjsfhkjsfhdjhfskjhfdjfhksjdhfkjfhfjshfkjshkjhkjhskjhfkjsfhkjshjkhfkjdsfhjdhsfjkhkfhfdskjfhkjsfdhfksjfhskjfhdfkshfdfkjhfjfdssfsfdkfshfjfsjhfskkhfsdsjdsfjfds
Tiểu Luận Môn Luật Hiến Pháp Việt Nam Hiến Pháp Đạo Luật Bảo Vệ Các Quyền Cơ Bản Của Con Người. Xuất phát từ lý do được phân tích nêu trên, em quyết định lựa chọn đề tài: “Hiến pháp – đạo luật bảo vệ các quyền cơ bản của con người” là đề tài cho bài tiểu luận của mình để phân tích và làm rõ hơn khẳng định được đưa ra ở đề tài này.
Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp.
Luận Văn Tốt Nghiệp Quyền Đối Với Họ, Tên – Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật. Quyền là cái mà pháp luật, xã hội phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Như vậy, để được coi là quyền và được bảo vệ cần có sự thể hiện thái độ của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự nhiên vốn có của con người như quyền sống, quyền tư do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội, luật pháp ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Cơ sở lý luận chung về quyền tiếp cận thông tin. Thông tin đã trở thành nền móng quan trọng cho sự phát triển của xã hội loài người và là một nhu cầu khách quan, thiết thực của con người. Sự tiếp nhận, lưu giữ và truyền đạt thông tin giữa các thế hệ đã tạo ra những những cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật và cách mạng xã hội trong lịch sử. Được cập nhận, lưu trữ và phổ biến qua các hình thức như: văn bản giấy, tập file điện tử,…, thông tin chính là công cụ đáp mọi nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi của con người, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Quy Định Pháp Luật Về Bảo Hộ Công Dân Việt Nam Ở Nước Ngoài. Mục tiêu cao nhất trong công tác bảo hộ công dân là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam. Chính phủ không "bảo hộ" cho những hành động sai trái, vi phạm pháp luật nước sở tại.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành luật hiến pháp với đề tài: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, cho các bạn có thể làm luận văn tham khảo
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở. Ngay từ khi xã hội loài ngƣời có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [20, tr.1]. Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh thƣờng xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã. Thuật ngữ "chính quyền cấp xã" từ lâu đã được sử dụng khá phổ biến, nhất là trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền cấp trên đối với HĐND và UBND cấp xã, song hầu như chưa có một văn bản, tài liệu chính thống nào có quy định hoặc giải thích rõ, đầy đủ về khái niệm chính quyền cấp xã, về cơ cấu tổ chức, mối quan hệ hay cơ chế hoạt động của các bộ phận cấu thành. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bộ máy Nhà nước ta được thiết lập ở 4 cấp hành chính lãnh thổ. Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được gọi là các cấp chính quyền địa phương, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân nhất, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền nước ta. Tuy nhiên, để đưa ra được khái niệm về chính quyền cấp xã, chúng ta cần phải làm rõ quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của chính quyền cấp xã.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận về vai trò của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân.docx
Tiểu Luận Môn Luật Hiến Pháp Việt Nam Hiến Pháp Đạo Luật Bảo Vệ Các Quyền Cơ Bản Của Con Người. Xuất phát từ lý do được phân tích nêu trên, em quyết định lựa chọn đề tài: “Hiến pháp – đạo luật bảo vệ các quyền cơ bản của con người” là đề tài cho bài tiểu luận của mình để phân tích và làm rõ hơn khẳng định được đưa ra ở đề tài này.
Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp.
Luận Văn Tốt Nghiệp Quyền Đối Với Họ, Tên – Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật. Quyền là cái mà pháp luật, xã hội phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Như vậy, để được coi là quyền và được bảo vệ cần có sự thể hiện thái độ của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự nhiên vốn có của con người như quyền sống, quyền tư do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội, luật pháp ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Cơ sở lý luận chung về quyền tiếp cận thông tin. Thông tin đã trở thành nền móng quan trọng cho sự phát triển của xã hội loài người và là một nhu cầu khách quan, thiết thực của con người. Sự tiếp nhận, lưu giữ và truyền đạt thông tin giữa các thế hệ đã tạo ra những những cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật và cách mạng xã hội trong lịch sử. Được cập nhận, lưu trữ và phổ biến qua các hình thức như: văn bản giấy, tập file điện tử,…, thông tin chính là công cụ đáp mọi nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi của con người, là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Quy Định Pháp Luật Về Bảo Hộ Công Dân Việt Nam Ở Nước Ngoài. Mục tiêu cao nhất trong công tác bảo hộ công dân là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam. Chính phủ không "bảo hộ" cho những hành động sai trái, vi phạm pháp luật nước sở tại.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành luật hiến pháp với đề tài: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, cho các bạn có thể làm luận văn tham khảo
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở. Ngay từ khi xã hội loài ngƣời có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [20, tr.1]. Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh thƣờng xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã. Thuật ngữ "chính quyền cấp xã" từ lâu đã được sử dụng khá phổ biến, nhất là trong các văn bản chỉ đạo, điều hành của chính quyền cấp trên đối với HĐND và UBND cấp xã, song hầu như chưa có một văn bản, tài liệu chính thống nào có quy định hoặc giải thích rõ, đầy đủ về khái niệm chính quyền cấp xã, về cơ cấu tổ chức, mối quan hệ hay cơ chế hoạt động của các bộ phận cấu thành. Theo quy định của pháp luật hiện hành, bộ máy Nhà nước ta được thiết lập ở 4 cấp hành chính lãnh thổ. Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã được gọi là các cấp chính quyền địa phương, trong đó cấp xã là cấp gần dân nhất, sát dân nhất, là cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền nước ta. Tuy nhiên, để đưa ra được khái niệm về chính quyền cấp xã, chúng ta cần phải làm rõ quá trình hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản của chính quyền cấp xã.
Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong nông nghiệp. HTX xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (giữa thế kỷ XIX), bởi trong nền kinh tế tự do cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau chống lại sự chèn ép, khống chế và bần cùng hóa của tư bản lớn. Trên thực tế, ở mỗi nước có những điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau, nên sự ra đời và phát triển của các HTX có những đặc điểm khác nhau. Có nhiều định nghĩa về HTX, tiêu biểu là định nghĩa của Liên minh HTX quốc tế (ICA), của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).
Cơ sở lý luận về động lực và tạo động lực làm việc cho công chức nữ. Các hoạt động thuộc chức năng công vụ do các công chức của bộ máy nhà nước thực hiện, đó cũng chính là lý do chủ yếu khi nói đến công vụ, các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn luôn đề cập đội ngũ công chức. Mặc dù hiện nay quan niệm và phạm vi công chức ở mỗi quốc gia có khác nhau. Có nơi hiểu công chức theo nghĩa rất rộng như ở Pháp là bao gồm tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính nhà nước, tất cả những người tham gia dịch vụ công. Hay hẹp hơn như tại Anh, nơi công chức là những người thay mặt nhà nước giải quyết công việc công, nhất là ở tại Trung ương, nên phạm vi công chức thu hẹp hơn rất nhiều.
Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng. Dịch vụ công công trong tiếng Việt thường được gọi là dịch vụ công. Theo từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công. Như vậy: Dịch vụ chính là sản phẩm hàng hóa giữa một bên cung ứng và một bên thụ hưởng thông qua các hoạt động nhất định và có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong nông nghiệp. Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm này cho thấy, ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp.Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà các ngành khác không có, cụ thể:
Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giảng viên bậc đại học. Giáo dục đại học nói chung thường được hiểu là bao gồm giảng dạy, NCKH và chuyển giao ứng dụng. Thực ra, khi phân tích kỹ những quan điểm khác nhau về GDĐH, chúng ta có thể kể ra nhiều vai trò khác nhau của GDĐH trong xã hội. GDĐH đóng vai trò là “hệ thống nuôi dưỡng” (feeder system) của mọi lĩnh vực trong đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực tối cần thiết để phục vụ các công tác quản lý, quy hoạch, thiết kế, giảng dạy và nghiên cứu. Một quốc gia muốn phát triển về khoa học công nghệ và tăng trưởng về kinh tế thì nhất thiết phải có cả hai yếu tố: một hệ thống GDĐH và một lực lượng lao động. GDĐH truyền cho người học những kiến
Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc. Cho đến nay, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, khái niệm "dân tộc" có hai nội hàm. Thứ nhất nó dùng để chỉ dân tộc ở cấp độ quốc gia tức là dân tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam, một thể chế chính trị - xã hội nhất định, một lãnh thổ, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Thứ hai, "dân tộc" dùng để chỉ cộng đồng tộc người cụ thể, có chung tiếng nói, có chung các đặc điểm sinh hoạt văn hóa, các phong tục, tập quán, ví dụ khi ta nói đến các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Bana, Êđê…
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cộng đồng người thống nhất, có chung một nhà nước, một lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - xã hội, có ngôn ngữ và văn hoá chung, thống nhất[55]. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc là nói tới quốc gia. Sự hình thành dân tộc gắn liền với sự ra đời của nhà nƣớc, đó là nhà nƣớc dân tộc. Nhà nƣớc dân tộc có thể là một tộc ngƣời, là dân tộc đơn nhất nhƣ Nhật Bản, Triều Tiên; cũng có thể là nhiều tộc ngƣời, là dân tộc đa tộc ngƣời nhƣ Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nƣớc khác. Nhà nƣớc dân tộc phải là nhà nƣớc độc lập, có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền. Dân tộc không chỉ là một cộng đồng ngƣời hay cộng đồng đa tộc ngƣời mà còn là một cộng đồng kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá gắn với nhà nƣớc và những điều kiện lịch sử nhất định.
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hoá. Di sản văn hóa là tài sản do các thế hệ đi trước để lại, có vai trò vô cùng quan trọng trong diễn trình văn hóa của một dân tộc nói riêng, và hiểu theo nghĩa rộng là của cả nhân loại nói chung. Phần mở đầu của Luật Di sản Văn hóa (sau đây gọi là DSVH) của Việt Nam đã viết: " DSVH Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta" [37].
Cơ sở lý luận về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng, chống tham nhũng. Mặc dù tồn tại từ lâu trong lịch sử nhân loại, nhƣng đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tham nhũng mới thật sự đƣợc cảnh báo nhƣ là hiểm họa đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, bất kể chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đến nay chƣa có một định nghĩa nào mang tính tổng hợp và đƣợc chấp nhận trên phạm vi toàn về tham nhũng. Các nỗ lực xây dựng một định nghĩa nhƣ vậy đã gặp phải những vấn đề luật pháp, tội phạm học và ở nhiều quốc gia trên thế giới, là cả về chính trị [24, tr.18].
Cơ sở lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội. Thu BHXH không ra đời cùng với khái niệm BHXH bởi hình thức sơ khai nhất của BHXH là những quỹ được hình thành do sự tự nguyện đóng góp của một cộng đồng người nhất định. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, BHXH ngày càng hướng tới nhiều đối tượng và các chế độ trợ cấp khác nhau. Bởi vậy, nguồn quỹ BHXH cũng đặt ra yêu cầu cần được bảo vệ và tăng trưởng tương xứng với mức độ chi. Dần dần quỹ BHXH được hình thành không phải từ sự tự nguyện của một nhóm nhỏ lẻ mà trở thành quy định bắt buộc đối với cộng đồng, sau đó là mỗi quốc gia và hiện nay nó được công nhận trên toàn thế giới. Cũng từ đó, thuật ngữ “thu BHXH” được xuất hiện và sử dụng rộng rãi. Có thể nói, thu BHXH ra đời cũng là một tất yếu khách quan xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của BHXH như sau:
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế. Trên thế giới, do tính chất đặc thù của từng quốc gia nên khái niệm về biên chế cũng khác nhau, có nƣớc chỉ giới hạn biên chế trong cơ quan quản lý nhà nƣớc, thi hành pháp luật. Cũng có nƣớc biên chế áp dụng cho những ngƣời làm việc trong các đơn vị sự nghiệp, thực hiện dịch vụ công.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI. Đối tƣợng tham gia của BHXH là NLĐ và ngƣời SDLĐ. Họ là những ngƣời trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản phần trăm nhất định so với tiền lƣơng của NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nƣớc mà đối tƣợng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó trong xã hội.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG. Dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là một loại sản phẩm kinh tế, không phải là vật phẩm, mà là công việc của một con người dưới hình thái là lao động thể lực, kiến thức và kỹ năng chuyên môn, khả năng tổ chức và thương mại. Sản phẩm dịch vụ là một loại sản phẩm đặc biệt không nhìn thấy trước và chỉ được biết đến khi nó được sử dụng. Có thể hiểu “dịch vụ là hoạt động phục vụ thỏa mãn những nhu cầu cá nhân hay tập thể trong sản xuất và sinh hoạt”.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC. Ở góc độ tổ chức quá trình lao động: “Quản lý nhân lực là lĩnh vực theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh, kiểm tra sự trao đổi chất (năng lượng, thần kinh, bắp thịt) giữa con người với các yếu tố vật chất của tự nhiên (công cụ lao động, đối tượng lao động, năng lượng...) trong quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần để thoả mãn nhu cầu của con người và xã hội nhằm duy trì, bảo vệ và phát triển tiềm năng của con người”. [2, tr4]
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ. Viên chức ngành y tế có vai trò quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, là những người trực tiếp tham gia các hoạt động khám chữa bệnh cho người dân. Viên chức ngành y tế phải đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực, y đức để đảm bảo theo từng vị trí việc làm. Hiện nay, viên chức ngành y tế chiếm khoảng 15% trên tổng số viên chức cả nước, đứng thứ hai sau khu vực giáo dục, đào tạo [4, tr.16]. Viên chức ngành y tế hiện nay bao gồm những người làm công tác quản lý, chuyên môn nghiệp vụ trong các bệnh viện chuyên khoa, đa khoa, bệnh viện tuyến quận, huyện, phường xã, thị trấn và cả những người làm công tác y tế dự phòng,
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP. Thuật ngữ “Hiến pháp” có gốc La tinh là “Constitutio” xuất hiện từ rất xa xưa với nghĩa: xác định, quy định [5, tr71]. Nhà nước La Mã cổ đại dùng thuật ngữ này để chỉ các văn bản quy định của Nhà nước. Nhưng với nghĩa hiện nay, Hiến pháp được hiểu là một đạo luật cơ bản của một quốc gia do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành, dùng để xác định thể chế chính trị, cách thức tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Mọi cá nhân, cơ quan và tổ chức phải có nghĩa vụ tuân thủ hiến pháp. [7, tr13]
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH. Thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Tonos nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được đưa vào hệ ngữ La tinh thành Turnur và sau đó thành Tour trong tiếng Pháp với nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Theo Robert Langquar (1980), từ Tourism (du lịch) lần đầu tiên được sử dụng trong tiếng Anh vào năm 1800 và được quốc tế hóa, nhiều nước đã sử dụng trực tiếp từ này mà không dịch nghĩa. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch là một từ gốc Hán - Việt, tạm hiểu là đi chơi, trải nghiệm.
Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở. “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội” [21, tr.226]. Quan điểm học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật đã giải thích một cách đúng đắn,
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤ (20)
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Cơ sở lý luận về vai trò của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN
1.1.Những khái niệm có liên quan
1.1.1.Công dân
Cá nhân, con người cụ thể có năng lực pháp lý và năng lực hành vi, có các
quyền và nghĩa vụ theo các quy định pháp luật của một quốc gia.
Căn cứ pháp lí để xác định công dân của một nhà nước nhất định là quốc
tịch của người đó. Người có một quốc tịch là công dân của một quốc gia, có hai
quốc tịch hoặc nhiều hơn là công dân của hai hay nhiều quốc gia. Người không
quốc tịch không phải công dân của một nước nào.
Công dân của một nước được pháp luật nước đó quy định cho hưởng quyền
công dân về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội và trao trách nhiệm thực
hiện các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tạo
các điều kiện ngày càng đầy đủ, để công dân có thể hưởng được các quyền và yêu
cầu công dân thực hiện ngày càng đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam
được xác lập trên cơ sở nguyên tắc, huyết thống, nguyên tắc lãnh thổ, hoặc trên cơ
sở cho nhập quốc tịch Việt Nam do luật định.
Công dân Việt Nam được hưởng các quyền và gánh vác trách nhiệm công
dân đối với nhà nước. Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam được quy định
trong Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác.
Quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam: làm việc, học tập, công tác
và định cư ở nước ngoài được luật pháp Việt Nam bảo hộ [30, tr. 176].
9
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
1.1.2.Quyền công dân
Khả năng tự do lựa chọn hành vi của công dân mà nhà nước phải bảo đảm
khi công dân yêu cầu. Điều đó thể hiện rõ trong quy định của pháp luật nói chung,
công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm, như vậy, ý chí của nhà nước
được thể hiện trong các quy định của pháp luật mà nhà nước xây dựng nên phải
tiên lượng được những việc, những hành vi cấm đối với công dân. Ngược lại, công
dân được làm những gì mà pháp luật không cấm đoán, phạm vi lựa chọn của công
dân là rất rộng lớn.
Quyền của công dân liên quan đến nghĩa vụ tương ứng của Nhà nước là
phải đảm bảo các điều kiện cần thiết cho công dân thực hiện các quyền đã được
pháp luật quy định. Các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp và
các văn bản pháp luật khác, điều chỉnh những quan hệ quan trọng giữa công dân
và nhà nước, là cơ sở tồn tại của cá nhân và hoạt động bình thường của xã hội.
Các quyền của công dân bao gồm các quyền về chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa, giáo dục và các quyền tự do cá nhân.
Muốn được hưởng các quyền công dân của một nhà nước thì phải có quốc
tịch của nhà nước đó.
Trong Hiến pháp nước ta, quyền công dân là những nội dung đặc biệt quan
trọng, do vậy việc Hiến định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bảo đảm
được tính khoa học về kỹ thuật lập hiến, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hiểu và thực thi quyền công dân là yêu cầu khách quan. Tại điều 50 Hiến pháp
1992 xác định “Ở nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật”. Như vậy lần đầu tiên
Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận cả hai khái niệm quyền con
10
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
người và quyền công dân, tuy nhiên chưa có sự phân định rạch ròi: Đâu là quyền
con người nói chung và đâu là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Như vậy
nội hàm khái niệm quyền con người được thu nạp vào nội hàm khái niệm quyền
công dân. Để khắc phục nhược điểm đó, tại Điều 15, Chương II Hiến pháp 2013
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân quy định: 1. “Ở nước
Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. 2. “quyền con người, quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của công đồng”.
Như vậy theo một nghĩa khái quát nhất, quyền công dân có thể hiểu là những lợi
ích pháp lý được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ cho những người có quốc tịch
nước mình [26, tr. 26].
Các quyền cơ bản của công dân
Quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp, điều chỉnh những quan
hệ đặc biệt quan trọng giữa công dân và nhà nước, là cơ sở tồn tại của cá nhân và
hoạt động bình thường của xã hội.
Quyền cơ bản của công dân có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với công
dân và nhà nước, nó là cơ sở để nhà nước quy định các quyền cụ thể của công dân.
Các quyền cơ bản của công dân bao gồm các quyền cơ bản về chính trị, kinh
tế, văn hóa, giáo dục, các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân.
Ở Việt Nam các quyền cơ bản của công dân về chính trị gồm có: Quyền
tham gia quản lý nhà nước về xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, quyền khiếu nại, tố
cáo. Các quyền cơ bản của công dân về kinh tế - xã hội gồm có: quyền lao động,
11
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền xây dựng nhà ở, quyền bình đẳng
nam nữ, quyền hôn nhân và gia đình, quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe,
quyền học tập, lao động, giải trí của thanh niên, quyền được bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục của trẻ em, quyền được ưu đãi của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt
sĩ, quyền được giúp đỡ của người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương
tựa. Các quyền cơ bản của công dân về văn hóa, giáo dục gồm có: Quyền học tập,
quyền nghiên cứu khoa học và hoạt động sáng tạo. Các quyền cơ bản về tự do dân
chủ của công dân gồm có: Quyền tự do đi lại, cư trú, quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, quyền được thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín, bất khả xâm phạm về chỗ ở [30, tr.649-650].
1.1.3.Bảo vệ quyền công dân
Bảo vệ là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm để được giữ cho nguyên
vẹn [31, tr. 64].
Bảo vệ quyền công dân trước hết trách nhiệm thuộc về nhà nước, nhà nước
đề ra pháp luật để bảo vệ quyền công dân của nước mình.
Bảo vệ (báo đảm) quyền công dân là việc nhà nước dùng công cụ pháp luật
và toàn bộ thiết chế của mình để chống lại sự xâm hại đến quyền công dân là
khách thể mà pháp luật bảo vệ.
Ở nước ta, điều đó thể hiện rõ trong Hiến pháp năm 2013 đã nâng vai trò,
nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân thành một chương (chương
II), Hiến pháp đã dành 36 điều trên tổng số 120 điều cho việc hiến định trực tiếp
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp 2013 còn dành một số điều
quy định sự bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản, sử dụng đất, lao động và
việc làm (Điều 51, 54, 57). Đồng thời, việc sắp xếp quyền công dân phù
12
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hợp với việc sắp xếp các nhóm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Hiến pháp 2013 đã quy định rõ hơn hoặc tách thành điều luật riêng hầu hết các
quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, bao gồm: Bình đẳng trước pháp
luật (Điều 16); không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức
đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
(Điều 20); bảo vệ đời tư (Điều 21); tiếp cận thông tin (Điều 25); tham gia quản lý
nhà nước và xã hội (Điều 28); bình đẳng giới (Điều 26); quyền biểu quyết khi nhà
nước trưng cầu ý dân (Điều 29); được xét xử công bằng, công khai (Điều 31); bảo
đảm an sinh xã hội (Điều 34); quyền việc làm (Điều 35)… Đặc biệt trong nội dung
các Điều 20, 21 Hiến pháp 2013 quy định về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và các hình thức
trao đổi thông tin riêng tư khác của mọi người đều được bảo vệ. Do đó Hiến pháp
2013 đã mở rộng chủ thể và nội dung quyền được bảo vệ về đời tư (so với Hiến
pháp 1992 tại Điều 73 chỉ quy định về bí mật thư tín, điện thoại, điện tín).
Đối với các quy định về hạn chế quyền, khoản 2, Điều 14 Hiến pháp 2013
quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của Luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việc quy định về hạn
chế quyền là cần thiết để bảo đảm quyền công dân được thực hiện một cách minh
bạch, chỉ có thể được quy định trong luật mà không thể là văn bản khác, để phòng
ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ phía các cơ quan
nhà nước.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được thể chế hóa trong Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo định hướng cải cách tư pháp
13
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của Đảng và Hiến pháp 2013, đó là, xây dựng Bộ luật thực sự khoa học, tiến bộ,
có tính khả thi cao, là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với tội phạm,
bảo vệ cuộc sống bình yên của Nhân dân.
1.2.Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền công dân
1.2.1.Tổ chức Viện Kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân năm 2014 quy định về chức năng thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hình sự. Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền
con người, quyền công dân trái luật.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân
có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái
pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp
khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp Bộ luật
14
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Tố tụng hình sự quy định;
Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn
chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và việc khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành
một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người
phạm tội;
Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội
phạm, người phạm tội;
Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành
một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người
phạm tội;
Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham
nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;
Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;
Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm
sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người
phạm tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. [23, tr. 17].
Về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Luật quy định:
15
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Kiểm sát hoạt động tư pháp là các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hoạt động tư pháp, được thể hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết
vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trong việc thi hành án, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và các hoạt động tư pháp khác theo quy định
của pháp luật .
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo:
Việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
việc giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo về tư pháp và các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của
pháp luật;
Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật;
quyền con người và các quyền lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng
và bảo vệ;
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
nghiêm chỉnh;
Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp được phát hiện, xử lý kịp
thời, nghiêm minh [23, tr. 19-20].
16
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đây là nhóm quyền hạn Luật giao cho ngành kiểm sát để thực hiện chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình bắt, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
1.2.2.Vai trò của Viện Kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân theo quy
định của pháp luật hình sự
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
các hoạt động tư pháp trên lĩnh vực hình sự bằng các nhiệm vụ, quyền hạn: Kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; kiểm sát điều tra
của cơ quan điều tra và cơ quan được giao một số hoạt động điều tra, truy tố người
phạm tội ra trước tòa án bằng cáo trạng hoặc quyết định; kiểm sát xét xử các vụ
án hình sự; Kiểm sát thi hành án; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù. Để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trên lĩnh vực hình sự, thực hiện tốt vai trò
bảo vệ quyền công dân, Viện kiểm sát nhân dân cần bảo đảm thực hiện tốt hệ
thống các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy
định tại Điều 4 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 8 Bộ luật TTHS năm
2015). Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự bổ sung thêm các chủ thể (Trợ lý điều tra
viên, Kiểm tra viên, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên, cấp trưởng, cấp phó, Trợ lý
điều tra thuộc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra)
phù hợp với quy định tại Chương II của Hiến pháp năm 2013 và đáp ứng yêu cầu
thực tiễn giải quyết vụ án hình sự hiện nay.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đề cao
và tôn trọng quyền công dân, vì lợi ích của con người. Đó là quyền bình đẳng
trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ
17
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín điện thoại, điện tín. Đây là các quyền cơ bản của
công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự thể hiện bản chất của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa luôn đề cao và tôn trọng các giá trị của con người, vì lợi ích
của con người.
Nguyên tắc Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành (Điều 9 Bộ luật Tố Tụng
hình sự năm 2015) “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp
luật”.
Trong Tố tụng hình sự, nguyên tắc này được hiểu là: Đối với người phạm
tội, thì dù họ là ai, nắm giữ chức vụ, cương vị gì trong cơ quan nhà nước, tổ chứ
xã hội, tổ chức kinh tế, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội khác đều phải bị xử
lý theo pháp luật hình sự. Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự
đều được tiến hành theo thủ tục, trình tự thống nhất do Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định, không có ngoại lệ vì lý do dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã
hội, địa vị xã hội của người bị hại hoặc của bị can, bị cáo. Người tham gia tố tụng
đều được hưởng những quyền và thực hiện nghĩa vụ tố tụng theo quy định.
Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2015 thay chủ thể “công dân” bằng “mọi người”
cho phù hợp vì người tham gia tố tụng không chỉ gồm công dân Việt Nam, mà
còn gồm người nước ngoài. Nguyên tắc này thể hiện việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân của pháp luật tố tụng hình sự rộng khắp, không phân biệt bất cứ
quốc gia, vùng lãnh thổ nào.
18
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Nguyên tắc Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
được quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành (Điều 10 Bộ luật Tố
Tụng hình sự năm 2015): “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả
tang.Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm
mọi hình thức truy bức, nhục hình”.
Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2015 thêm cụm từ: Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những
quyền tự do cá nhân quan trọng nhất của con người. Vì vậy, việc Bộ luật Tố tụng
hình sự coi việc đảm bảo nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản
của Luật Tố tụng hình sự, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
việc bảo vệ quyền con người nói chung , bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân
thể con người nói riêng [22, tr. 12]..
Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể công dân đòi hỏi
quy định cụ thể về thủ tục và căn cứ bắt người.
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định ba trường hợp bắt người: bắt bị can, bị
cáo để tạm giam ( Điều 80), bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81), bắt
người trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82). Các
trường hợp bắt người trên đây phải được tiến hành theo đúng quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự về thẩm quyền, căn cứ và thủ tục. Đây là bảo đảm quan trọng để
công dân không bị bắt một cách trái pháp luật hoặc không có căn cứ.
Mọi trường hợp bắt người trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật, xâm
phạm đến quyền dân chủ của công dân và phải bị xử lý nghiêm khắc. Những người
tiến hành tố tụng hình sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt giam người trái
19
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp luật phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 123 Bộ luật hình sự tội bắt, giữ,
giam người trái pháp luật.
Nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản của công dân,
được quy định tại Điều 7 của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành (Điều 11 Bộ luật
Tố Tụng hình sự năm 2015) “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm, tài sản”.
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh sự , nhân phẩm, tài sản
đều bị xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như
người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh
dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng
những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bị can, bị cáo hoặc người bị kết án
trong hoạt động tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đưa quy định: Mọi người có quyền được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành
vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của
cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật. Và một điểm mới mang tính ưu việt của nhà
nước ta trong tố tụng đó là: Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất hay giao
nộp cho nhà nước khác. Đây là quy định phù hợp với nguyên tắc “Công dân có
quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm, tài
sản”. Dự thảo cũng thay cụm từ “Công dân” bằng “Mọi người” để nhấn mạnh chủ
thể được pháp luật tố tụng hình sự bảo hộ đầy đủ và chính xác hơn [22, tr. 12]..
20
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Nguyên tắc Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín của công dân, được quy định tại Điều 8 của Bộ luật tố
tụng hình sự hiện hành: “Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư
tín, điện thoại, điện tín của công dân. Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và
thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải đúng quy định của Bộ luật
này”.
Bộ luật Tố Tụng hình sự năm 2015, tại điều 12 quy định mở rộng hơn các
quyền của công dân trong lĩnh vực này: Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín của cá nhân.
Như vậy Bộ luật Tố tụng hình sự đã coi việc bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân là một
nguyên tắc chỉ đạo hoạt động tố tụng hình sự vì sinh hoạt tại chỗ ở và trao đổi thư
tín là những hoạt động thuộc về đời tư của công dân cần được tôn trọng. Trong bộ
luật năm 2015, đã mở rộng thêm quyền công dân được bảo đảm đó là: Đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là những vấn đề hết sức nhạy cảm thiêng
liêng mà pháp luật bảo vệ. Đây cũng là quan điểm của Đảng, nhà nước ta trong
mở rộng quyền tự do dân chủ của công dân Việt Nam trên đất nước mình.
Việc xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân như: Khám
trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của
họ…đã được Điều 124 Bộ luật hình sự quy định là hành vi phạm tội. Việc xâm
phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện tín, điện thoại như: Chiếm đoạt thư, các dữ
liệu điện tử hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông
và máy vi tính hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm
21
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác cũng là hành
vi phạm tội theo quy định tại Điều 125 Bộ luật hình sự.
Nguyên tắc Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật, đã được quy định tại Điều 9 của Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Nguyên tắc này được thay bằng
nguyên tắc “suy đoán vô tội” được quy định tại điều 13, Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 [22, tr. 13].
Quy định này cũng để xác định đối với những người tiến hành tố tụng một
thái độ đúng mực, khách quan, không được định kiến và cho rằng bị can, bị cáo
đã phạm tội, có như vậy mới không bỏ qua hoặc coi nhẹ những chứng cứ gỡ tội
cho họ, bảo đảm không làm oan người vô tội, đồng thời không bỏ lọt tội phạm.
Việc quy định nguyên tắc này trong luật Tố tụng hình sự đã khắc phục được
sự định kiến của các cơ quan tố tụng đối với bị can, bị cáo đồng thời còn tạo điều
kiện cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình [2, tr.68].
Hiến pháp năm 2013 tại khoản 1 Điều 31 quy định “Người bị buộc tội được
coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.
Nguyên tắc “Suy đoán vô tội” lấy các giá trị công bằng, bình đẳng làm nền
tảng, góp phần quan trọng vào việc tôn trọng và bảo vệ quyền công dân khi tham
gia các quan hệ tố tụng với tư cách người bị buộc tội và những người tham gia tố
tụng có liên quan.
Nguyên tắc Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
được quy định tại Điều 11 của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành “Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”.
22
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ
luật này” [21, tr. 36].
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền về tố tụng mà
pháp luật dành cho họ để tự bảo vệ hay nhờ người khác bảo vệ khi bị buộc tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một nguyên
tắc tố tụng hình sự rất quan trọng thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công dân, bảo đảm cho công tác khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện, đầy đủ và ngăn ngừa sự phiến diện,
chủ quan khi kết tội một người. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong các điều
luật về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (các Điều 48, 49, 50 của Bộ luật
Tố tụng hình sự) và về người bào chữa [21, tr. 65-66-67].
Nguyên tắc Xét xử công khai, được quy định tại Điều 18 của Bộ luật tố tụng
hình sự hiện hành “Việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai....Trong
trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục
của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì
Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai” [21, tr. 38]
Xét xử công khai đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án có hiệu quả
hơn trong giáo dục, phòng ngừa xã hội, thu hút mọi hoạt động trong xã hội tham
gia phòng ngừa và đấu tranh tội phạm; đồng thời tạo điều kiện để nhân dân giám
sát cơ quan xét xử, có tác dụng nâng cao trách nhiệm của Tòa án trước nhân dân.
Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế,
được quy định tại điều 10 Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền “Mọi người đều
được hưởng quyền bình đẳng, được xét xử công bằng và công khai bởi một
23
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Tòa án độc lập và không thiên vị trong việc quyết định các quyền và nghĩa vụ của
họ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ”. Nguyên tắc công khai ngoài
việc tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân tham gia giám sát hoạt động của các
cơ quan xét xử, còn tác dụng nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong đấu tranh,
phòng chống tội phạm và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
tổ chức, công dân cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, đảm bảo
không để lọt tội phạm không làm oan người vô tội. Công khai, dân chủ hóa các
hoạt động Tố tụng hình sự cũng là một trong các phương tiện hữu hiệu bảo vệ
quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng.
Nguyên tắc Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án, được quy định tại Điều
19 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành [21, tr. 38].
Đây là nguyên tắc thể hiện quan điểm, định hướng của Đảng về xây dựng
xã hội Việt Nam: Công bằng, dân chủ, văn minh, có ý nghĩa quan trọng trong việc
tôn trọng sự thật khách quan nhằm bảo vệ các khách thể quan trọng là lợi ích của
Nhà nước; các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Thực hiện đúng
nguyên tắc này sẽ bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động xét xử của
Tòa án.
Như vậy, ngoài việc phối hợp để chất lượng công tác đạt hiệu quả cao, công
tác kiểm sát còn kìm chế, đối trọng nhau, tránh việc lạm quyền hướng tới bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, người tham gia tố tụng hình sự.
Qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ luật định trong thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân phát hiện và áp dụng các
biện pháp khắc phục, phòng ngừa vi phạm từ phía cơ quan tố tụng, cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan trong thực thi pháp luật.
24
17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
1.3.Yêu cầu nâng cao vai trò của Viện kiểm sát bảo vệ quyền công dân
1.3.1.Yêu cầu của cải cách tư pháp
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng
định vai trò lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống
cơ quan tư pháp. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng về cải cách tư pháp;
Kết luận số 79-KL/TW, ngày 28.7.2010 của Bộ Chính trị đã nêu và khẳng định:
VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
như hiện nay. Văn kiện Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định: VKSND
tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện đề
VKSND thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra.
Như vậy, yêu cầu cải cách tư pháp và nhà nước, pháp luật đối với VKSND
trong bảo vệ quyền công dân, không ngoài mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, nhà nước mà trong đó đề cao Hiến pháp và
pháp luật, bảo đảm Hiến pháp và pháp luật đước tôn trọng và tuân thủ tuyệt đối,
bảo đảm ngày một tốt hơn quyền con người, quyền công dân, loại bỏ mọi hành
vi xâm phạm quyền công dân trong các hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong khi đó, nhìn vào thực trạng của việc thực hiện yêu cầu về kiểm tra, giám sát
quyền lực nhằm bảo đảm pháp chế, kỷ cương, kỷ luật, phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa cho thấy đang có sự thiếu đồng bộ, bất cập của hệ thống cơ quan kiểm
tra, giám sát, thậm chí có khoảng trống trong cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước. VKS là một trong những bộ phận hợp thành của hệ thống
tư pháp (được xem là một trong những yếu tố của hệ thống kiểm tra,
25
18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
kiểm soát xã hội). Do vậy, cần phải tăng cường chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của VKS trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư
pháp. Hoạt động của VKS cần được xác định là công cụ quan trọng để thực hiện
tư tưởng của nhà nước pháp quyền.
Theo đó, nhiệm vụ đặt ra cho ngành Kiểm sát trong Hiến pháp và pháp luật
liên quan là: Luận giải thấu đáo thiết chế VKS trong cơ cấu quyền lực ở nhà nước
ta, xác định rõ hoạt động của VKS là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà
nước độc lập bên cạnh các dạng quyền lực nhà nước hiện hữu; minh chứng đầy đủ
về vị trí, vai trò của VKS trong hệ thống các cơ quan kiểm tra, giám sát việc thực
hiện quyền tư pháp, cũng như yêu cầu phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực
hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu
bảo vệ pháp chế, bản vệ quyền công dân thiết thực, hiệu quả nhất. Đồng thời,
nghiên cứu, đề xuất các kiến nghị, giải pháp trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các
văn bản pháp luật liên quan nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về xây dựng
một nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra,
theo đó VKS phải có trách nhiệm cao hơn, chủ động hơn trong quá trình chứng
minh tội phạm, theo sát, gắn chặt với hoạt động điều tra nhằm bảo vệ tốt hơn các
khách thể Luật hình sự bảo vệ, trong đó có quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
2.1.2. Về hình thức bảo vệ quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của pháp luật, các hình thức sau đây có thể được VKS áp
dụng để loại bỏ, ngăn ngừa, hạn chế vi phạm luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị án trong các giai đoạn tố tụng hình sự:
Các hình thức dưới dạng kháng nghị: Trường hợp hành vi, bản án, quyết
định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm
26
19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng
nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của VKSND hteo
quy định của pháp luật.
Các hình thức dưới dạng kiến nghị: Trường hợp hành vi, quyết định của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm
trọng không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKS kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp
luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan,
tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa
vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm
xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị củaVKSND theo quy định pháp luật.
Các hình thức dưới dạng quyết định, phê chuẩn, không phê chuẩn, yêu cầu:
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, VKSND có nhiệm vụ, quyền
hạn: 1, Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
trái pháp luật; phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan
điều ra; trực tiếp khởi tố vụ án, bị can . 2, Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong
việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. 3, Hủy bỏ các quyết
định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố trong việc khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra. 4, Khi cần thiết
đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điề tra thực hiện. 5, Yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm,
27
20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
người phạm tội. 6, Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều
tra, truy tố. 7, Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa.
Đây là những nhóm quyền theo quy định pháp luật để VKS thực hiện vai
trò của mình trong việc buộc tội, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử về
một tội họ đã phạm, đồng thời thông qua hoạt động thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp để loại trừ oan, sai do các cơ quan tố
tụng, người có thẩm quyền trong cơ quan tố tụng gây ra, góp phần làm cho pháp
luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo vệ tốt nhất quyền công dân trong
tố tụng hình sự.
1.3.2. Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nghĩa là xây dựng và phát triển kinh tế bền vững.
Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như xóa đói, giảm nghèo,
xóa dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành
thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược, vấn đề tạo công ăn việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, khám chữa bệnh cho người nghèo.
Tăng cường kỷ cương phép nước, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những
hiện tượng vi phạm pháp luật mà trọng tâm là tham nhũng, lãng phí, xâm phạm
các quyền tự do, dân chủ của công dân; các hành vi buôn lậu, làm hàng giả, trốn,
gian lận thuế, gian lận thương mại gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân.
Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính, về cơ chế chính sách,
về quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, về công tác cán bộ.
Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật. Bên cạnh việc xây dựng pháp luật,
việc thực hiện pháp luật cũng có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng nhà
nước pháp quyền, hệ thống pháp luật có thể rất đầy đủ, hoàn thiện nhưng
28
21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
việc thực hiện không nghiêm thì không thể nói đến sự hiện diện của nhà nước pháp
quyền.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật. Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của
việc thực hiện pháp luật chưa tốt là do kiến thức về luật pháp chưa tốt, nhiều người
dân chưa am hiểu về luật pháp, chưa ý thức được sự cần thiết phải chấp hành luật,
hoặc do không nắm được luật nên vi phạm mà không biết. Chính vì vậy, để tăng
cường việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng sự tham gia của các phương
tiện thông tin đại chúng, của các đoàn thể chính trị - xã hội cũng như bộ máy chính
quyền các cấp và cuối cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, để mệnh
lệnh hành chính luôn được chấp hành một cách thông suốt từ trung ương đến cơ
sở.
Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, hội đồng
nhân dân các cấp, của các cơ quan và từng đại biểu hội đồng nhân dân, nhằm
giám sát, kiểm tra chặt chẽ, đánh giá toàn diện, đầy đủ việc chấp hành Hiến pháp,
luật, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó xây dựng cơ chế, chính
sách đúng đắn để quản lý xã hội, quản lý đất nước theo cương lĩnh, đường lối của
Đảng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước.
Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề được
đặt ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách
nhiễu, quan liêu, tham nhũng, trong các cơ quan nhà nước. Thực tiễn cho thấy, dù
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có thật sự hoàn chỉnh, quy chế, quy tắc ứng
xử của cơ quan quản lý nhà nước có đầy đủ, đúng đắn đến đâu đi chăng nữa thì
cũng khó có thể đem lại hiệu quả như mong muốn nếu như trong
29
22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quá trình thực thi công vụ, cán bộ, công chức không thực hiện nghiêm pháp luật,
chấp hành không đúng quy chế, quy tắc ứng xử đã được thể chế hóa.
Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách
quan đối với Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, đây là sự nghiệp dài
lâu của toàn Đảng, toàn dân, bởi vì trong việc này còn rất nhiều vấn đề mà chúng
ta cần phải giải quyết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Những vấn đề đó
không phải dễ gì một sớm một chiều mà giải quyết được. Để đạt tới một nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của nó cần có sự nỗ lực rất lớn của
Đảng và Nhà nước, sự đầu tư về trí tuệ, sức người, sức của, của toàn xã hội, một
yếu tố quan trọng khác là phải có lộ trình khoa học, hợp lý, các bước đi thích hợp,
tuân thủ chặt chẽ các quy luật của tự nhiên và xã hội.
1.3.3.Yêu cầu tổ chức thực hiện những quyền cơ bản của công dân theo quy
định của Hiến pháp 2013
Quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân được thể chế hóa trong Bộ luật Hình
sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo định hướng cải cách tư pháp của Đảng
và Hiến pháp 2013, đó là, xây dựng Bộ luật thực sự khoa học, tiến bộ, có tính khả
thi cao, là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với tội phạm, bảo vệ
cuộc sống bình yên của Nhân dân. Đặc biệt những yêu cầu của Hiến pháp về dân
chủ, pháp quyền, tôn trọng, bảo vệ quyền công dân đã được thể hiện sâu sắc trong
bộ luật, được thể hiện cụ thể trong các vấn đề sau đây:
1.3.3.1.Bổ sung đầy đủ quyền của người tham gia tố tụng; đề cao trách
nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền công dân.
Căn cứ vào địa vị pháp lý của những người tham gia tố tụng hình sự, có
thể chia thành bốn nhóm chủ yếu sau đây: (1) Nhóm những người bị buộc tội
(người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo); (2) Nhóm người bị tội phạm xâm
30
23. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hại hoặc có quyền, lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự (người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án); (3) Nhóm người làm chứng và những nhà chuyên môn được mời tham gia
hỗ trợ quá trình tố tụng (người làm chứng, người giám định, người định giá tài
sản, người phiên dịch, người dịch thuật); (4) Nhóm người bào chữa, người tham
gia bảo vệ quyền lợi của những người tham gia tố tụng. Với những quy định cụ
thể, Bộ luật Tố tụng hình sự đã bổ sung một cách hợp lý quyền của những người
này, bảo đảm phù hợp với vị trí của họ trong tố tụng, đồng thời có cơ chế chặt chẽ
ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Đây là cơ sở quan trọng bảo đảm tính công minh của pháp
luật, đề cao trách nhiệm Nhà nước trước Nhân dân.
Từ những quan điểm đó, Bộ luật Tố tụng hình sự đã có những điều chỉnh
quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, tháo gỡ những vướng mắc trong
thực tiễn, bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo
đó, đối với người bị buộc tội, đã bổ sung những nhóm quyền nhằm giúp họ nắm
bắt kịp thời chứng cứ buộc tội làm cơ sở chuẩn bị bào chữa, như: Quyền được các
cơ quan tố tụng cung cấp đầy đủ các quyết định có liên quan đến việc buộc tội;
quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai hoặc
chứng cứ chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; quyền đọc, ghi chép
bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản
sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; quyền đưa
ra chứng cứ thay vì chỉ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật như hiện nay (các điều
58, 59, 60, 61). Đối với người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án được bổ sung các quyền nhằm giúp họ bảo vệ tốt quyền và lợi ích
hợp pháp của mình như: Quyền yêu cầu giám
31
24. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
định, định giá tài sản; quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ; quyền được thông
báo về kết quả giải quyết vụ án; bị hại được đề nghị hình phạt đối với bị cáo thay
vì chỉ có quyền được đề nghị bồi thường thiệt hại như hiện nay (điều 62, 63, 64,
65). Đối với người làm chứng và các nhà chuyên môn khác, được bổ sung thêm
các quyền nhằm để tăng cường phối hợp với các cơ quan tố tụng nhanh chóng
phát hiện tội phạm, làm rõ sự thật khách quan vụ án; bên cạnh đó người làm chứng
không những chỉ có quyền yêu cầu cơ quan tố tụng bảo vệ bản thân họ mà còn có
quyền yêu cầu bảo vệ người thân thích khỏi sự đe dọa của tội phạm [22, tr. 48-
66].
Đồng thời với việc bổ sung quyền của những người tham gia tố tụng, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng phải: Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần
thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp
đó nếu thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết (Điều 8). Việc áp dụng
các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được giao cho thủ
trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng. Quy định chặt chẽ căn cứ, điều kiện tiến
hành các biện pháp tố tụng nhằm tránh lạm dụng. Bất kỳ vi phạm nào trong quá
trình giải quyết vụ án đều không thể chấp nhận và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ
phải đối diện với những chế tài như: Chứng cứ đã được thu thập sẽ bị tuyên bố vô
hiệu; phải tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại; ngoài ra người tiến hành tố tụng
vi phạm còn phải bị xử lý kỷ luật, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự [1, tr. 42-
44].
1.3.3.2.Quy định chặt chẽ và kiểm soát nghiêm ngặt việc áp dụng các biện
pháp hạn chế quyền công dân
32
25. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Có thể nói, đây là một trong những điểm mới quan trọng của Bộ luật tố tụng
hình sự nhằm cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp. Lần đầu tiên trong lịch sử Hiến
pháp của nước ta, Hiến pháp năm 2013 đặt ra nguyên tắc: “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng” (khoản 2 Điều 14). Như vậy, chỉ có các đạo luật do Quốc
hội ban hành mới được quy định các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền
công dân và việc hạn chế cũng chỉ trong những trường hợp đã được Hiến pháp
giới hạn. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, thái độ
tôn trọng con người, trên cơ sở đó định ra những bảo đảm cao nhất ở tầm “Hiến
pháp và luật” để bảo vệ con người, bảo vệ công dân.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, để đạt được mục đích cao nhất là phát hiện
tội phạm và người phạm tội, pháp luật của tất cả các nước đều cho phép áp dụng
một số biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Song vấn đề cần
nhấn mạnh là, không phải bất cứ đối tượng nào cũng có thể bị áp dụng các biện
pháp này. Trường hợp cần phải áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người,
quyền công dân thì phải đáp ứng đầy đủ căn cứ luật định, phải trên cơ sở và chỉ
trong khuôn khổ quy định của luật.
Từ những vấn đề nêu trên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những
điều chỉnh quan trọng nhằm cụ thể hóa tư tưởng tiến bộ của Hiến pháp: Thứ nhất,
Bộ luật đã tổng kết thực tiễn và quy định đầy đủ các biện pháp cần thiết cho quá
trình chứng minh tội phạm. Theo đó, đã xây dựng một chương mới (Chương XVI)
nhằm luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, phát huy hiệu lực của nguồn
chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng minh tội phạm (gồm: ghi âm, ghi hình bí mật;
nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử); bổ
33
26. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
sung vào hệ thống các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế biện pháp
tạm hoãn xuất cảnh, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng (Điều 124 và Điều 129).
Thứ hai, bảo đảm từng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải
được điều chỉnh chặt chẽ bởi năm yếu tố: căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định,
trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành. Thứ ba, quy định chặt chẽ và minh bạch
căn cứ tạm giam thay cho quy định có tính chất định tính trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 nhằm chống sự tùy nghi, lạm dụng (Điều 119). Thứ tư, quy
định cụ thể căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền
nhằm phát huy hiệu quả của các biện pháp này trong thực tiễn (Điều 121, 122).
Thứ năm, về kỹ thuật lập pháp, Bộ luật đã thu hút toàn bộ các biện pháp hạn chế
quyền con người, quyền công dân để điều chỉnh chung trong một chương nhằm
bảo đảm tính chặt chẽ và nhất quán trong việc quy định các biện pháp này, đồng
thời, quá trình thực thi luật sẽ tạo điều kiện để các cơ quan chuyên môn thuận tiện
trong áp dụng và nhân dân dễ giám sát [1, tr. 40].
1.3.3.3.Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội
Suy đoán vô tội là nguyên tắc quan trọng, có tính chất nền tảng, chi phối
nhiều nguyên tắc khác của tố tụng hình sự. Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp
quốc năm 1948 khẳng định: “Bất kỳ người nào bị buộc tội đều có quyền được coi
là vô tội cho đến khi một Tòa án công khai, nơi người đó đã có được tất cả những
bảo đảm cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trạng của người
đó dựa trên cơ sở luật pháp” (Điều 11). Tiếp thu những thành tựu của văn minh
pháp lý nhân loại, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung và quy định đầy đủ nội dung
của nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật”.
34
27. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Như vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội có những yêu cầu cơ bản là: Thứ nhất,
toàn bộ quá trình chứng minh tội phạm phải được tiến hành một cách chặt chẽ
theo trình tự, thủ tục do luật định; phải bảo đảm đầy đủ và thuận lợi nhất những
điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa. Thứ hai, chừng nào chưa
có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị buộc tội vẫn chưa bị
coi là người phạm tội; nghiêm cấm các cơ quan tố tụng đối xử với họ như người
phạm tội. Thứ ba, quá trình tiến hành tố tụng, nếu đã áp dụng đầy đủ các biện
pháp cần thiết mà vẫn không đủ căn cứ để chứng minh tội phạm thì phải giải quyết
theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Từ những yêu cầu nêu trên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có những
sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm cụ thể hóa đầy đủ yêu cầu của nguyên tắc suy
đoán vô tội: Một là, bổ sung và quy định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán
vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật”. Khi không có đủ hoặc không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”
(Điều 13). Hai là, quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục tố tụng và khẳng định
nguyên tắc “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của
Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định” (Điều
7). Ba là, quy định chế tài áp dụng trong trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng, như:
tuyên bố tính vô hiệu của chứng cứ nếu quá trình thu thập
vi phạm thủ tục luật định (Điều 87); trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung (Điều 236
và Điều 280). Bốn là, khẳng định rõ, trong từng giai đoạn tố tụng, nếu đã
35
28. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hết thời hạn luật định mà không thể hoặc không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm
thì phải kết luận họ không có tội, khôi phục và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của họ [22, tr. 191; 204].
1.3.3.4.Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
Đây là nguyên tắc cơ bản của mọi nền tư pháp dân chủ. Ở Nhà nước ta, bảo
đảm quyền bào chữa đã được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm 1946: Bị cáo được
quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư (Điều thứ 67). Các bản Hiến pháp năm
1954, năm 1980, năm 1992 tiếp tục ghi nhận và đề cao nguyên tắc quan trọng này.
Hiến pháp năm 2013, tại Chương II (Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân) quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (khoản 4
Điều 31); đồng thời, tại Chương VIII (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân)
quy định: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
đương sự được bảo đảm” (khoản 7 Điều 103). Như vậy, so với các bản Hiến pháp
trước đây, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng đối tượng được bảo đảm quyền bào
chữa không chỉ là bị can, bị cáo, mà còn được bao gồm người bị bắt, người bị tạm
giữ. Đồng thời, không chỉ quy định vấn đề này ở Chương Tòa án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân, mà còn được bổ sung và đặt trong Chương quyền con
người, quyền công dân nhằm khẳng định quyền bào chữa là một trong những
quyền con người, quyền công dân quan trọng nhất của người bị buộc tội. Do đó,
trước hết phải được ghi nhận với tư cách là quyền của con người, quyền của công
dân.
Từ những vấn đề nêu trên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều
điều chỉnh quan trọng nhằm cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013: Thứ
nhất, thay vì chỉ được điều chỉnh bởi 03 điều luật như Bộ luật tố tụng năm 2003,
36
29. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Bộ luật mới đã bổ sung một chương (Chương V) nhằm quy định đầy đủ các nội
dung liên quan đến bào chữa. Thứ hai, ngoài ba chủ thể được bảo đảm quyền bào
chữa (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được bảo đảm quyền
bào chữa (Điều 58). Thứ ba, mở rộng diện người bào chữa gồm cả Trợ giúp viên
pháp lý nhằm bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách thay vì
chỉ gồm luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân như
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 72). Thứ tư, mở rộng trường hợp cơ quan
tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất là tử hình như
quy định của Bộ luật tố tụng năm 2003. Thứ năm, quy định thời điểm người bào
chữa tham gia tố tụng sớm hơn (kể từ khi có người bị bắt) thay vì tham gia từ khi
có quyết định tạm giữ như hiện nay (Điều 74). Đồng thời, ngay từ giai đoạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, luật sư có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83).
Thứ sáu, thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” bằng thủ tục “đăng
ký bào chữa”, đồng thời, rút ngắn thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày xuống
còn 24 giờ nhằm tạo điều kiện để người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá
trình giải quyết vụ án (Điều 78). Thứ bảy, bổ sung người thân thích của người bị
buộc tội có quyền mời người bào chữa, thay vì chỉ người bị buộc tội và người đại
diện hợp pháp của họ có quyền mời người bào chữa (Điều 75). Đặc biệt, để tháo
gỡ những khúc mắc thời gian qua liên quan đến việc bào chữa cho người đang bị
tạm giữ, tạm giam, bảo đảm tính minh bạch của hoạt động tố tụng hình sự, Bộ luật
được bổ sung quy định: “Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm
giam trong giai đoạn điều tra
37
30. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra
viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị giữ, người
bị giam để xác nhận việc từ chối” (khoản 2 Điều 77). Thứ tám, để đảm bảo tranh
tụng dân chủ, Bộ luật bổ sung cho người bào chữa quyền thu thập chứng cứ thay
vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời quy định người
bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá
(Điều 73). Thứ chín, nhằm khắc phục những thiếu sót của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được bổ sung và quy định rõ trách
nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa về thời
gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng để người bào chữa tham gia theo
quy định (Điều 79). Thứ mười, đồng thời với việc bổ sung quyền của người bào
chữa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của
người bào chữa. Trường hợp người bào chữa vi phạm pháp luật,
vi phạm đạo đức nghề nghiệp thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị hủy bỏ
việc đăng ký bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường (Điều 73).
Như vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội có mối liên hệ mật thiết với việc bảo
đảm quyền bào chữa. Sẽ là “sự suy đoán có tội” nếu quyền bào chữa của người
bị buộc tội còn bị vi phạm trên thực tế; tương tự như vậy, nếu quyền bào chữa
được đảm bảo tức là đã bảo đảm trên thực tế yêu cầu của “nguyên tắc suy đoán
vô tội” [1, tr. 45-48].
1.3.3.5.Thiết lập cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những người tham gia tố tụng
Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của những
người tham gia tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
38
31. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
2003 với nội dung: “Người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố
tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức
khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của
pháp luật” (Điều 7). Tuy nhiên, trong toàn bộ Bộ luật không có bất cứ quy định
hoặc cơ chế nào cho việc thực hiện nguyên tắc này. Thực tiễn đấu tranh chống tội
phạm thời gian qua cho thấy đây là vấn đề nhức nhối và phức tạp, nếu không có
cơ chế giải quyết dứt điểm thì nhiều trường hợp người làm chứng, người tố giác
về tội phạm sẽ không dám hợp tác với các cơ quan tố tụng hoặc không dám khai
báo đầy đủ, trung thực các tình tiết của vụ án vì lo sợ bị trả thù, nhất là các vụ án
hoạt động theo kiểm xã hội đen hoặc tội phạm có tổ chức.
Từ thực tiễn đó, một trong những yêu cầu đặt ra đối với quá trình sửa đổi
Bộ luật tố tụng hình sự là phải thiết lập cho được cơ chế hữu hiệu nhằm bảo vệ
người tham gia tố tụng. Trên tinh thần đó, Bộ luật mới được ban hành đã được bổ
sung một chương (Chương XXXIV) quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến
vấn đề này. Thứ nhất, quy định những đối tượng được bảo vệ bao gồm: người tố
giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của những người
này (Điều 484). Thứ hai, quy định đầy đủ các biện pháp bảo vệ để các cơ quan tố
tụng lựa chọn như: canh gác, bảo vệ; di chuyển và giữ bí mật chỗ ở, chỗ làm việc,
học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng; răn đe, cảnh cáo, vô hiệu
hóa các hành vi xâm hại và các biện pháp khác… (Điều 486). Thứ ba, quy định
chặt chẽ về thời gian áp dụng các biện pháp bảo vệ; trường hợp chấm dứt áp dụng
biện pháp bảo vệ phải thể hiện bằng quyết định do Thủ trưởng cơ quan tố tụng
ban hành (Điều 488, 489). Thứ tư, quy định trách nhiệm
39
32. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của cơ quan tố tụng trong trường hợp xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp
bảo vệ thì phải giải thích rõ lý do cho người đã yêu cầu, đề nghị biết (Điều 487).
Có thể khẳng định rằng, với việc bổ sung đầy đủ các quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo vệ những người tham gia tố tụng đã khẳng
định một cách nhất quán thái độ và trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ để
nhân dân tin tưởng và an tâm tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.3.3.6.Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quán triệt sâu sắc nguyên tắc
“bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên”
Xuất phát từ đặc điểm của người chưa thành niên là người chưa có sự
trưởng thành đầy đủ về thể chất và nhận thức nên luôn cần được sự quan tâm, bảo
vệ đặc biệt của gia đình và xã hội, kể cả trong trường hợp người chưa thành niên
có hành vi vi phạm pháp luật. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ được tiến hành trong trường
hợp cần thiết, với mục đích chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã
hội, trở thành người công dân có ích cho đất nước. Đây là quan điểm xuyên suốt
trong chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng, Nhà nước ta và
cũng là mục tiêu hướng tới các chuẩn mực quốc tế về quyền trẻ em.
Vấn đề đặt ra đối với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự là phải đổi mới
sâu sắc các thủ tục tố tụng, xây dựng các thủ tục chuyên biệt, thể hiện mức độ ưu
tiên để hướng tới bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên. Trên cơ sở
đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều điều chỉnh quan trọng: Thứ nhất,
để bảo vệ toàn diện người chưa thành niên, Bộ luật bổ sung thủ tục đối với người
làm chứng, người bị hại là người chưa thành niên, thay vì chỉ có thủ tục cho người
chưa thành niên phạm tội như hiện nay. Thứ hai, ngoài việc
40
33. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
phải chịu sự chi phối chung của hệ thống 27 nguyên tắc cơ bản quy định tại
Chương II, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung 07 nguyên tắc đặc thù áp
dụng đối với quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa thành niên
(Điều 414). Có thể nói, “bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên” đã
được thể hiện sâu sắc trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, phù hợp với các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều quan trọng nhất là thông qua
mỗi vụ án, giúp các em sớm nhận ra sai lầm để tích cực sửa chữa, có ý thức tôn
trọng pháp luật và tôn trọng các quy tắc của đời sống xã hội.
1.3.3.7.Đổi mới chế định thời hạn tố tụng nhằm bảo đảm tốt hơn quyền
quyền công dân
Tố tụng hình sự là quá trình chứng minh tội phạm và người phạm tội, vì
vậy luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của
con người, của công dân. Yêu cầu đặt ra là phải quy định và kiểm soát nghiêm
ngặt quá trình này, trong đó có vấn đề thời hạn.
Trên tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi,
bổ sung quan trọng: Thứ nhất, xác lập nguyên tắc mọi biện pháp tố tụng phải được
ràng buộc chặt chẽ về mặt thời hạn, khắc phục “khoảng trống” trong pháp luật
hiện hành, chưa quy định thời hạn áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền con
người, quyền công dân (như: biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, biện pháp bảo lĩnh,
biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo) (Điều 121, 122, 123). Thứ
hai, rút ngắn thời hạn từ 24 giờ xuống còn 12 giờ Cơ quan điều tra phải lấy lời
khai, xem xét trả tự do cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nếu không đủ
căn cứ (Điều 110). Thứ ba, rút ngắn thời hạn tạm giam nhằm tránh kéo dài tình
trạng pháp lý căng thẳng của bị can, đồng thời, buộc các cơ quan tố tụng phải cân
nhắc thận trọng thời điểm bắt giam; theo đó, rút ngắn 01 tháng đối
41
34. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 04 tháng
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 119). Thứ tư, rút ngắn căn bản thời
hạn tạm giam với người chưa thành niên; theo đó, thời hạn tối đa chỉ còn hai phần
ba thời hạn so với trước đây (Điều 419); Thứ năm, rút ngắn thời hạn giải quyết tố
cáo của công dân từ 60 ngày xuống còn 30 ngày nhằm khẩn trương giải quyết
những khúc mắc của người dân, đồng thời, sớm xử lý cán bộ tố tụng nếu có hành
vi vi phạm. Thứ sáu, lượng hóa các thời hạn quy định có tính định tính trong Bộ
luật hiện nay “thông báo ngay, gửi ngay…” bằng các thời hạn cụ thể nhằm tránh
lạm dụng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án.
Xây dựng nền tư pháp công bằng, nhân đạo, dân chủ, nghiêm minh vì con
người, vì nhân dân đã được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015. Ngoài những nội dung lớn sửa đổi lớn nêu trên, còn rất nhiều nội
dung quan trọng và tiến bộ khác đã được cụ thể hóa trong Bộ luật. Chúng ta tin
tưởng rằng, cùng với tiến trình đi lên của đất nước, việc thực thi Bộ luật tố tụng
hình sự sẽ góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, vì cuộc sống thanh bình của nhân dân, vì những giá trị cao đẹp
của nền công lý xã hội chủ nghĩa [1, tr. 52-53].
42
35. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Tiểu kết Chương I
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những giá
trị của nhân loại, của các quốc gia, dân tộc trên thế giới thông qua các cuộc cách
mạng xã hội hình thành nên. Đó là những năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở
con người với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa
bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Ở nước ta, quyền công dân là những giá trị gắn liền với công cuộc dựng
nước và giữ nước của nhân dân ta, dân tộc ta. Đó là thành quả mà nhân dân ta
đã đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nhiệm vụ bảo
vệ quyền công dân là của cả hệ thống chính trị, của các cơ quan tư pháp, trong
đó vai trò của Viện kiểm sát nhân dân chính là thực hiện tốt các chức năng Hiến
định, nhiệm vụ do Luật định nhằm góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới đất nước, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm, duy trì trật tự an toàn
xã hội đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt coi trọng,
trong tất cả những điều ấy có vai trò bảo vệ quyền công dân của ngành Kiểm
sát.