Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp.
Cơ sở lý luận về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Khóa Luận Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu là vấn đề cần được quan tâm và làm rõ vì thực tiễn những tranh chấp về vấn đề này khá phổ biến. Sau khi tìm hiểu về vấn đề trên, có thể rút ra những kết luận:
Thứ nhất, khi giao dịch dân sự vô hiệu, vấn đề bảo vệ người thứ ba ngay tình được đặt ra, tuy nhiên việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình phải đặt trên sự cân bằng với lợi ích của chủ sở hữu ban đầu.
Thứ hai, công nhận giao dịch có hiệu lực là cách tối ưu để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhưng không phải mọi trường hợp giao dịch của người thứ ba ngay tình cũng được công nhận có hiệu lực. Nếu công nhận giao dịch của người thứ ba ngay tình có hiệu lực thì họ được nhận tài sản giao dịch, nếu giao dịch của người thứ ba ngày tình vô hiệu thì quyền lợi của họ được bảo vệ bằng cách yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, để góp phần bảo vệ hợp lý quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, pháp luật cần phân chia trường hợp tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà người thứ ba ngay tình căn cứ vào tình trạng đăng ký để xác lập giao dịch thì giao dịch của người thứ ba không bị vô hiệu.
Cơ Sở Lý Luận Giải Quyết Khiếu Nại Về Thi Hành Án Dân Sự đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ sở lý luận và pháp luật về giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Tải khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài khóa luận tốt nghiệp ngành Luật với đề tài: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Đại Diện Trong Quan Hệ Pháp Luật Dân Sự đã chia sẻ đến cho các bạn một bài tiểu luận hoàn toàn hữu ích. Nếu các bạn có nhu cầu muốn tải bài tiểu luận này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Cơ sở lý luận về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Khóa Luận Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu là vấn đề cần được quan tâm và làm rõ vì thực tiễn những tranh chấp về vấn đề này khá phổ biến. Sau khi tìm hiểu về vấn đề trên, có thể rút ra những kết luận:
Thứ nhất, khi giao dịch dân sự vô hiệu, vấn đề bảo vệ người thứ ba ngay tình được đặt ra, tuy nhiên việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình phải đặt trên sự cân bằng với lợi ích của chủ sở hữu ban đầu.
Thứ hai, công nhận giao dịch có hiệu lực là cách tối ưu để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhưng không phải mọi trường hợp giao dịch của người thứ ba ngay tình cũng được công nhận có hiệu lực. Nếu công nhận giao dịch của người thứ ba ngay tình có hiệu lực thì họ được nhận tài sản giao dịch, nếu giao dịch của người thứ ba ngày tình vô hiệu thì quyền lợi của họ được bảo vệ bằng cách yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, để góp phần bảo vệ hợp lý quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, pháp luật cần phân chia trường hợp tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà người thứ ba ngay tình căn cứ vào tình trạng đăng ký để xác lập giao dịch thì giao dịch của người thứ ba không bị vô hiệu.
Cơ Sở Lý Luận Giải Quyết Khiếu Nại Về Thi Hành Án Dân Sự đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ sở lý luận và pháp luật về giải quyết khiếu nại quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Tải khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài khóa luận tốt nghiệp ngành Luật với đề tài: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Đại Diện Trong Quan Hệ Pháp Luật Dân Sự đã chia sẻ đến cho các bạn một bài tiểu luận hoàn toàn hữu ích. Nếu các bạn có nhu cầu muốn tải bài tiểu luận này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Cơ Sở Lý Luận Hợp Đồng Ủy Quyền Trong Giao Dịch Đối Với Nhà Ở Chung Cư đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Hợp Đồng Ủy Quyền Trong Giao Dịch Đối Với Nhà Ở Chung Cư đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án dân sự. Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì thủ tục thi hành án dân sự đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các bƣớc để đƣa một bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thƣơng mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành theo quy định của pháp luật [12, tr.5]. Quy trình, thủ tục về thi hành án dân sự đƣợc thực hiện từ khi chuyển giao bản án, quyết định, tiếp nhận, thụ lý đơn yêu cầu thi hành án, ra quyết định thi hành án và tiến hành các tác nghiệp cụ thể cho đến khi chấm dứt việc thi hành án; quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự đƣợc thực hiện trên thực tế.
Luận Văn Hợp Đồng Ủy Quyền Trong Giao Dịch Đối Với Nhà Ở Chung Cư. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Hướng dẫn soạn đơn quyền yêu cầu độc lập của người liên quan trong vụ án dân sự là một vấn đề nhiều người còn thắc mắc khi là bản thân là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người liên quan có quyền được ra yêu cầu độc lập khi cho rằng chính quyền lợi của mình đang bị xâm phạm, cần được pháp luật bảo vệ trong vụ án đó. Việc soạn đơn yêu cầu độc lập trong trường hợp này là vô cùng cần thiết. Bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc của Quý bạn đọc, kính mời các bạn cùng theo dõi.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ. Trong xã hội, mỗi con người là một cá thể độc lập. Tuy nhiên, C. Mác cho rằng, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người rất đa dạng, phong phú, bao gồm tổng hòa các mối quan hệ xã hội: quan hệ giữa các thành viên trong gia đình (quan hệ vợ chồng, ông bà, bố mẹ, con cái, anh chị em...), quan hệ giữa các thành viên trong môi trường giáo dục: quan hệ thầy trò; quan hệ của những nhóm người trong xã hội: quan hệ đồng nghiệp, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng hương... Các quan hệ này có thể hình thành dưới nhiều góc độ khác nhau như quan hệ huyết thống được pháp luật quy định (quan hệ gia đình), các quan quan hệ xã hội khác được hình thành và chi phối bởi các quy phạm đạo đức xã hội và được tồn tại dưới hình thức khác nhau.
Tải khóa luận tốt nghiệp ngành luật dân sự với đề tài: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam. ZALO/TELEFRAM 0917 193 864
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức trong các xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam, cho các bạn tham khảo
BÀI 1: KHÁI QUÁT LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM TS. BÙI QUANG XUÂNMinh Chanh
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2013
Khi pháp luật càng tốt, càng hoàn thiện thì sẽ càng hạn chế được sự sai trái hay lạm dụng của con người. Nhưng cũng có một chân lý khác: Có con người đủ năng lực và đạo đức tốt thì mới có một hệ thống tư pháp trong sạch, bảo vệ được công lý của xã hội và công bằng cho người dân. Và cuối cùng thì có hay không có luật, lẽ công bằng, như định nghĩa tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, phải luôn là yêu cầu tối thượng và đích đến của mọi bản án, bởi lẽ công bằng không phải là điều gì xa lạ mà chính là công lý và lẽ phải của xã hội loài người. [3]
Có thể nói, việc quy định về áp dụng pháp luật dân sự như trên, đặc biệt là về án lệ và lẽ công bằng, là một trong những điểm mới mang tính chất đột phá của Bộ luật dân sự năm 2015, thể hiện tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Hiến pháp năm 2013
Tiểu luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Bất kỳ một chế độ xã hội nào chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở có sự ổn định về trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, phức tạp, luôn ở trạng thái vận động và phát triển như trong một “trật tự” nhất định bởi chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm khác nhau. Chủ thể của các quan hệ xã hội khi tham gia vào các quan hệ này chịu sự chi phối của nhiều loại quy phạm và tương ứng với mỗi loại quan hệ do các loại quy phạm khác nhau điều chỉnh, chủ thể phải gánh vác những trách nhiệm xã hội nhất định như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm pháp lý…
Cơ sở lý luận về vai trò của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân. Công dân của một nước được pháp luật nước đó quy định cho hưởng quyền công dân về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội và trao trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tạo các điều kiện ngày càng đầy đủ, để công dân có thể hưởng được các quyền và yêu cầu công dân thực hiện ngày càng đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật. Quyền là cái mà pháp luật, xã hội phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Như vậy, để được coi là quyền và được bảo vệ cần có sự thể hiện thái độ của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự nhiên vốn có của con người như quyền sống, quyền tư do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội, luật pháp ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Tiểu Luận Bài Thi Học Kỳ Luật Hiến Pháp, ĐH Luật, 9 Điểm. Mục đích của tiểu luận này là xác định một số quan điểm lý luận về vị trí, vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN và những biểu hiện trong thực tiễn các vai trò của Toà án. Luận văn còn hướng đến phân tích một số yếu tố tác động trực tiếp đến vị trí, vai trò của Toà án nhằm xác định những nguyên nhân hạn chế. Qua đó đưa ra những phương hướng nâng cao vai trò của Toà án phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Kết quả của luận văn là đưa ra một số giải pháp hướng đến mục đích đảm bảo tính độc lập, dân chủ và công khai trong quá trình xét xử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử - yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng, hiệu quả thực hiện các vai trò của Toà án. Để hoạt động xét xử của Toà án có chất lượng, hiệu quả cao, đảm bảo công lý, công bằng, công khai, dân chủ, bình đẳng xã hội và bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.docx
Cơ Sở Lý Luận Hợp Đồng Ủy Quyền Trong Giao Dịch Đối Với Nhà Ở Chung Cư đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Hợp Đồng Ủy Quyền Trong Giao Dịch Đối Với Nhà Ở Chung Cư đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án dân sự. Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì thủ tục thi hành án dân sự đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các bƣớc để đƣa một bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thƣơng mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành theo quy định của pháp luật [12, tr.5]. Quy trình, thủ tục về thi hành án dân sự đƣợc thực hiện từ khi chuyển giao bản án, quyết định, tiếp nhận, thụ lý đơn yêu cầu thi hành án, ra quyết định thi hành án và tiến hành các tác nghiệp cụ thể cho đến khi chấm dứt việc thi hành án; quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự đƣợc thực hiện trên thực tế.
Luận Văn Hợp Đồng Ủy Quyền Trong Giao Dịch Đối Với Nhà Ở Chung Cư. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Hướng dẫn soạn đơn quyền yêu cầu độc lập của người liên quan trong vụ án dân sự là một vấn đề nhiều người còn thắc mắc khi là bản thân là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người liên quan có quyền được ra yêu cầu độc lập khi cho rằng chính quyền lợi của mình đang bị xâm phạm, cần được pháp luật bảo vệ trong vụ án đó. Việc soạn đơn yêu cầu độc lập trong trường hợp này là vô cùng cần thiết. Bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc của Quý bạn đọc, kính mời các bạn cùng theo dõi.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ. Trong xã hội, mỗi con người là một cá thể độc lập. Tuy nhiên, C. Mác cho rằng, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người rất đa dạng, phong phú, bao gồm tổng hòa các mối quan hệ xã hội: quan hệ giữa các thành viên trong gia đình (quan hệ vợ chồng, ông bà, bố mẹ, con cái, anh chị em...), quan hệ giữa các thành viên trong môi trường giáo dục: quan hệ thầy trò; quan hệ của những nhóm người trong xã hội: quan hệ đồng nghiệp, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng hương... Các quan hệ này có thể hình thành dưới nhiều góc độ khác nhau như quan hệ huyết thống được pháp luật quy định (quan hệ gia đình), các quan quan hệ xã hội khác được hình thành và chi phối bởi các quy phạm đạo đức xã hội và được tồn tại dưới hình thức khác nhau.
Tải khóa luận tốt nghiệp ngành luật dân sự với đề tài: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự Việt Nam. ZALO/TELEFRAM 0917 193 864
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức trong các xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam, cho các bạn tham khảo
BÀI 1: KHÁI QUÁT LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM TS. BÙI QUANG XUÂNMinh Chanh
LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2013
Khi pháp luật càng tốt, càng hoàn thiện thì sẽ càng hạn chế được sự sai trái hay lạm dụng của con người. Nhưng cũng có một chân lý khác: Có con người đủ năng lực và đạo đức tốt thì mới có một hệ thống tư pháp trong sạch, bảo vệ được công lý của xã hội và công bằng cho người dân. Và cuối cùng thì có hay không có luật, lẽ công bằng, như định nghĩa tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, phải luôn là yêu cầu tối thượng và đích đến của mọi bản án, bởi lẽ công bằng không phải là điều gì xa lạ mà chính là công lý và lẽ phải của xã hội loài người. [3]
Có thể nói, việc quy định về áp dụng pháp luật dân sự như trên, đặc biệt là về án lệ và lẽ công bằng, là một trong những điểm mới mang tính chất đột phá của Bộ luật dân sự năm 2015, thể hiện tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Hiến pháp năm 2013
Tiểu luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Bất kỳ một chế độ xã hội nào chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở có sự ổn định về trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, phức tạp, luôn ở trạng thái vận động và phát triển như trong một “trật tự” nhất định bởi chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm khác nhau. Chủ thể của các quan hệ xã hội khi tham gia vào các quan hệ này chịu sự chi phối của nhiều loại quy phạm và tương ứng với mỗi loại quan hệ do các loại quy phạm khác nhau điều chỉnh, chủ thể phải gánh vác những trách nhiệm xã hội nhất định như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm pháp lý…
Cơ sở lý luận về vai trò của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân. Công dân của một nước được pháp luật nước đó quy định cho hưởng quyền công dân về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội và trao trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tạo các điều kiện ngày càng đầy đủ, để công dân có thể hưởng được các quyền và yêu cầu công dân thực hiện ngày càng đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật. Quyền là cái mà pháp luật, xã hội phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Như vậy, để được coi là quyền và được bảo vệ cần có sự thể hiện thái độ của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự nhiên vốn có của con người như quyền sống, quyền tư do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội, luật pháp ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Tiểu Luận Bài Thi Học Kỳ Luật Hiến Pháp, ĐH Luật, 9 Điểm. Mục đích của tiểu luận này là xác định một số quan điểm lý luận về vị trí, vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN và những biểu hiện trong thực tiễn các vai trò của Toà án. Luận văn còn hướng đến phân tích một số yếu tố tác động trực tiếp đến vị trí, vai trò của Toà án nhằm xác định những nguyên nhân hạn chế. Qua đó đưa ra những phương hướng nâng cao vai trò của Toà án phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Kết quả của luận văn là đưa ra một số giải pháp hướng đến mục đích đảm bảo tính độc lập, dân chủ và công khai trong quá trình xét xử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử - yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng, hiệu quả thực hiện các vai trò của Toà án. Để hoạt động xét xử của Toà án có chất lượng, hiệu quả cao, đảm bảo công lý, công bằng, công khai, dân chủ, bình đẳng xã hội và bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Similar to Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.docx (20)
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ. Công tác lưu trữ ra đời là do đòi hỏi khách quan đối với việc bảo quản và tổ chức sử dụng tài liệu. Nhà nước ta luôn coi công tác này, đây là một ngành hoạt động trong công tác quản lý nhà nước đồng thời là một mắt xích không thể thiếu được trong bộ máy quản lý của mình. Ngày nay, những yêu cầu mới của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, công tác lưu trữ cần được xem xét từ những yêu cầu bảo đảm thông tin cho hoạt động quản lý, bởi thông tin trong tài liệu lưu trữ là loại thông tin có tính dự báo cao, dạng thông tin cấp một, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, có độ tin cậy cao do nguồn gốc hình thành, do đặc trưng pháp lý, tính chất làm bằng chứng lịch sử của tài liệu lưu trữ quy định.
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các công ty buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh.Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.Nguồn nhân lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác.Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn nhân lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. (Thư viện Học liệu Mở Việt Nam , 2012)
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 20/04/1995 Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật DNNN năm 1995 để quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của nhà nước đầu tư trong các DNNN, mà trước đó mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định và hướng dẫn của Chính phủ. Theo đó, tại Điều 1 Luật DNNN 1995 quan niệm: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.Các DNNN được tổ chức theo mô hình quản lý riêng, không giống như mô hình quản lý của các doanh nghiệp tư nhân.
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ sinh lao động. Trong hoạt động sản xuất thì vì những lý do khách quan và chủ quan có thể dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Do đó, yêu cầu về ATLĐ và VSLĐ trong lao động được đặt lên hàng đầu. Hiện nay,, An toàn, vệ sinh lao động là những quy định của luật lao động bao gồm những quy phạm pháp luật về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động, đồng thời duy trì tốt khả năng làm việc lâu dài của người lao động.
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay. Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong quan hệ giao dịch dân sự.
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ. NLĐ dù là nam hay nữ đều được pháp luật ở mỗi quốc gia bảo vệ dưới góc độ quyền công dân và được pháp luật quốc tế công nhận và đảm bảo. Ủy ban Quyền con người của Liên Hợp quốc đã có sự phân chia nhóm quyền con người trong lĩnh vực lao động thuộc nhóm quyền dân sự và dưới góc độ pháp luật lao động “Quyền của người lao động phải được bảo đảm như quyền con người” [9].
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân quận. Văn bản hành chính dùng để truyền đạt thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước như : công bố hoặc thông báo về một chủ trương, quyết định hay nội dung và kết quả hoạt động của một cơ quan, tổ chức; ghi chép lại các ý kiến và kết luận trong các hội nghị ; thông tin giao dịch chính giữa các cơ quan, tổ chức với nhau hoặc giữa tổ chức và công nhân. Văn bản hành chính đưa ra các quyết định quản lý quy phạm, do đó không dùng để thay thế cho văn bản QPPL [21, tr 36]
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của viện kiểm sát nhân dân. Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Quy định về tin báo, tố giác về tội phạm góp phần tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và minh bạch cho các chủ thể này có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về hành vi phạm tội của người khác đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là một hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, qua đó CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung và thông qua năm 1999 không tập trung giải thích rõ nội hàm của báo chí mà chỉ liệt kê các loại hình báo chí: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài.
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận. Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới trong quá trình vận hành và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” đã chỉ ra rằng đây là một cơ chế hữu hiệu để nâng cao tính hiệu quả của nền hành chính và giảm thiểu thời gian cho người dân và tổ chức khi đến giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan công quyền tại một địa điểm. Một số quốc gia thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” trong cung cấp dịch vụ công tại cấp chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp của chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp chính quyền địa phương. Các quốc gia cũng đều chú trọng việc thiếp lập cơ chế theo dõi, đánh giá tính hiệu quả của việc tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” và xây dựng các công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở. Với quy định của pháp luật, đất đai được chia ra làm nhiều loại khác nhau: theo Luật Đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam được chia ra làm sáu loại, bao gồm: đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Sự phân chia này dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế này, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật Đất đai 2003 và hiện nay là Luật Đất đai 2013 đã chia đất đai làm ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu gồm các nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp huyện. Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại. Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có được câu trả lời chính xác. ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ khá lâu, khi mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dự trữ chung phòng khi mất mùa, chiến tranh…Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển từ rất lâu, do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một khái niệm đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủiro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác.
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính. Báo cáo tài chính là các chứng từ cần thiết trong kinh doanh. Các nhà quản lý sử dụng chúng để đánh giá năng lực thực hiện và xác định các lĩnh vực cần thiết phải được can thiệp. Các cổ đông sử dụng chúng để theo dõi tình hình vốn đầu tư của mình đang được quản lý như thế nào. Các nhà đầu tư bên ngoài dùng chúng để xác định cơ hội đầu tư. Còn người cho vay và nhà cung ứng lại thường xuyên kiểm tra báo cáo tài chính để xác định khả năng thanh toán của những công ty mà họ đang giao dịch.
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225].
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn được đánh giá rất quan trọng trong kinh doanh bởi nó sẽ được sử dụng rất thương xuyên, sử dụng hàng ngày để chi trả cho các chi phí phát sinh khác trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó cũng là thước đo dùng để phản ánh các giá trị hiện có và tình hình biến động về kinh tế của doanh nghiệp tăng hau giảm.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường. Chúng ta biết rằng hàng hóa sản xuất ra là để bán. Chúng được bán ở thị trường. Theo cách hiểu cổ điển, thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán, nơi mà các người mua và bán đến với nhau để mua bán các sản phẩm và dịch vụ. Thị trường thể hiện đặc tính riêng của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Không thể coi thị trường chỉ là các chợ, các cửa hàng…mặc dù nơi đó có mua bán hàng hóa. [2_trang 16]
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet. Đầu tiên để tiếp cận một cách cụ thể về khái niệm chất lượng dịch vụ thì chúng ta cũng cần biết đôi chút về “dịch vụ” là gì. Theo đó thì dịch vụ là những hoạt động hoặc là chuỗi hoạt động mà thông thường ít hoặc nhiều chúng ta không thể sờ thấy về mặt tự nhiên được, nhưng không nhất thiết, xảy ra sự tác động qua lại giữa một bên là khách hàng và một bên là người cung cấp dịch vụ và / hoặc tiềm lực về mặt vật lý của sản phẩm và / hoặc hệ thống người cung cấp mà nó được cung cấp như là những giải pháp cho vấn đề của người tiêu dùng (Gronroos, 1990).
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong
giải quyết vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích
của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã
hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các
quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định
của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác
và dẫn đến tranh chấp.
Các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng
các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như yêu cầu
người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu Tòa án
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ. Căn cứ Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, khi có chủ thể
yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có vi phạm
hoặc có tranh chấp thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động do Tòa án giải quyết
được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự; đối
8
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
với những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được
gọi là việc dân sự (Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011).
Như vậy, đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên tham
gia quan hệ dân sự, đó là sự không thống nhất về việc thực hiện hay không thực
hiện quyền hoặc nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân
sự trong đời sống (mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức),
trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ
phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,
lao động.
Đương sự trong tố tụng dân sự là các chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ
việc dân sự cần giải quyết. Đương sự trong vụ án dân sự có thể là cá nhân, cơ
quan hay tổ chức, bao gồm: nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến giải quyết vụ án.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) nói chung
và trong giải quyết vụ án dân sự nói riêng là một trong những quyền tố tụng
quan trọng của đương sự để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, quyền này cũng được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Quyền tự định đoạt của đương sự được hình
thành và bắt nguồn từ bản chất của các quan hệ dân sự được xác lập trên cơ sở
bình đẳng, tự do, tự nguyện, cam kết và thỏa thuận. Trên cơ sở đó, các bên hoàn
toàn tự nguyện khi tham gia quan hệ dân sự và khi có tranh chấp phát sinh từ
các quan hệ này thì các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định phương thức
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngay cả khi quyết định phương
thức yêu cầu Tòa án bảo vệ thì trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa
án, các chủ thể này hay còn được gọi là đương sự vẫn có quyền tự định đoạt để
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mình.
9
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Ở góc độ thuật ngữ thì “Quyền” là một khái niệm pháp lý dùng để chỉ
những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ
chức để theo đó mà cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai
được ngăn cản, hạn chế. Mặt khác, “Quyền” còn được hiểu là quyền năng mà
pháp luật thực định quy định cho mỗi chủ thể pháp luật, cho phép các chủ thể
đó làm một việc gì đó, yêu cầu hoặc ngăn cản người khác làm một việc gì đó
vì lợi ích của chính mình hoặc vì lợi ích người khác. Như vậy, có thể nhận thấy,
dấu hiệu đặc trưng của quyền là được ghi nhận về mặt pháp lý và được bảo đảm
thực hiện bởi các quy định của pháp luật, đồng thời phải có sự thừa nhận về
mặt xã hội, gắn liền với các chủ thể và được thể hiện cụ thể trong thực tế đời
sống thông qua các quan hệ xã hội nhất định. Đối với cá nhân, các quyền cơ
bản phát sinh và ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn nhất định,
tham gia những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất định.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “định đoạt” được hiểu là “quyết định dứt
khoát, dựa vào quyền hành tuyệt đối của mình” [47]. Theo Từ điển giải thích
thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, thì quyền tự định đoạt của
đương sự là “Quyền tố tụng dân sự của đương sự tự quyết định việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân sự, đương sự có
quyền quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình; rút đơn khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện; hòa giải với đương
sự phía bên kia” [48, tr.224]. Khi nói đến khái niệm “quyền” thì nội hàm của
nó đã bao hàm cả tính “tự định đoạt” của chủ thể có quyền, nhưng không phải
trong mọi trường hợp thuộc tính “tự định đoạt” cũng được phản ánh đầy đủ
trong phạm vi quyền. Chỉ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động thì quyền “tự định đoạt” của chủ thể mới được sử
dụng rộng rãi và sâu sắc.
10
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương
sự. Trong quan hệ dân sự, quyền tự định đoạt của các chủ thể được coi là yếu
tố quan trọng hàng đầu, được biểu hiện ở việc các bên tự quyết định về quyền
lợi và nghĩa vụ của mình trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận. Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền
của đương sự trong việc tự quyết định việc tham gia tố tụng và thực hiện các
quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án. Trong
suốt quá trình tố tụng, các đương sự cũng có thể ủy quyền cho người khác thực
hiện một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng quyền quyết định
cuối cùng vẫn thuộc về chính bản thân các đương sự. Khi có quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm, việc khởi kiện hay không khởi kiện là do đương sự tự quyết
định. Sau khi khởi kiện có thay đổi nội dung khởi kiện hay không, có thỏa thuận
giải quyết việc kiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các đương
sự. Điều đó có nghĩa, các đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc
giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các vấn đề có liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án chỉ thụ lý để giải quyết khi đương sự
có đơn yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự
là quyền tự quyết định về phương tiện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Các đương sự có quyền lựa
chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của mình thông
qua những hành vi cụ thể dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính bản thân
đương sự. Quyền này được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ
án nên nó có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tòa án và ít nhiều sẽ bị
ảnh hưởng, bị chi phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án - cơ quan nhân
danh quyền lực Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các
11
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự và đảm bảo
cho các quyền này được thực thi trên thực tế.
Quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tự do ý chí của đương sự
trong việc giải quyết tranh chấp, nhưng đương sự không được thể hiện ý chí
định đoạt một cách tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ nhất định do
pháp luật quy định, sao cho không xâm phạm tới các quyền tố tụng và quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích của Nhà nước và xã hội. Điều
5 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi tắt là
BLTTDS) quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, theo đó:
Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc
dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải
quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau
một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Quyền tự định đoạt của đương sự không phải là vô hạn định mà phải
được giới hạn bởi pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể
khác. Quyền tự định đoạt này phải đặt trong mối tương quan với nghĩa vụ của
đương sự với các chủ thể khác và phải được đặt trong mối quan hệ với trách
nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội.
Qua những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quyền tự định
đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự như sau:
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một
quyền tố tụng được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương sự
thể hiện tự do ý chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn quyết định các
12
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự.
1.1.2. Ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
vụ án dân sự
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một
trong những quyền cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, nội dung mang tính
xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm cho các đương sự có điều
kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
tố tụng, trên cơ sở đó mà các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo
vệ và tôn trọng. Ngoài những ý nghĩa chung là bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa, là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm khác của pháp luật
TTDS thì quyền tự định đoạt còn mang ý nghĩa riêng:
Thứ nhất, quyền tự định đoạt của đương sự có ý nghĩa quan trọng trong
việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khi tham gia vào các
quan hệ dân sự và xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, các chủ thể có thể thương
lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết hay quyết định việc có khởi kiện hay
không khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Pháp luật TTDS đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng
hành vi của mình quyết định việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo đúng bản chất của quan hệ dân sự.
Thứ hai, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự còn
có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong bảo đảm quyền
tự định đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS quy định: “Toà án chỉ thụ lý giải
quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ
giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Như vậy, Tòa án giải
quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự
13
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
và chỉ giải quyết trong phạm vi đương sự yêu cầu, tức là phụ thuộc vào ý chí
của đương sự, từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự.
Thứ ba, việc pháp luật tố tụng ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự
trong giải quyết vụ án dân sự đã tạo điều kiện cho đương sự quyết định việc
giải quyết tranh chấp. Thể hiện ở việc các chủ thể tham gia tố tụng có quyền tự
do định đoạt các quyền dân sự của mình nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
trước các vi phạm bằng việc khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện không yêu cầu
Tòa án giải quyết nữa hoặc các bên tự thỏa thuận, thương lượng với nhau về
việc giải quyết tranh chấp. Qua đó, góp phần làm giảm bớt áp lực giải quyết
các tranh chấp của Toà án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được nhanh
chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án và của đương sự.
Quyền tự định đoạt giúp đương sự quyết định phương thức giải quyết vụ
việc một cách thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả. Những tác dụng này có
ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định trật tự xã hội và giúp nhân dân chủ
động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự
trong Pháp luật tố tụng dân sự
Nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân
sự, trước hết cần nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp luật
quy định quyền tự định đoạt của đương sự.
1.2.1. Cơ sở lý luận
Trước khi tham gia vào một quan hệ tố tụng dân sự cụ thể thì các đương
sự chính là chủ thể của quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương
mại, lao động. Trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng này, các chủ thể có
các quyền dân sự nhất định và chỉ khi một trong các quyền dân sự của chủ thể
bị xâm phạm thì chủ thể đó mới có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án bảo
vệ. Như vậy, các quyền dân sự của chủ thể là cơ sở của quyền tố tụng
14
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
dân sự. Các quyền tố tụng của đương sự phải được thể hiện trong pháp luật theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đương sự có thể bảo vệ được quyền dân
sự của mình khi tham gia tố tụng tại Tòa án.
Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự có quan hệ mật
thiết với quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự theo
nghĩa rộng, là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan
hệ dân sự, có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Quyền tự định
đoạt của đương sự trong dân sự khởi nguồn từ các nguyên tắc: Nguyên tắc tự
do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận (Điều 4 BLDS); nguyên tắc tôn trọng, bảo
vệ quyền dân sự (Điều 9 BLDS); nguyên tắc hòa giải (Điều 12 BLDS). Trong
TTDS, quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng tham gia tố tụng, tự do định đoạt
quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Từ phân tích trên có thể thấy rằng quyền tự định
đoạt trong TTDS là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật
hình thức, được phái sinh dựa trên các nguyên tắc giao lưu dân sự trong pháp
luật nội dung.
Mặt khác, quyền tự định đoạt được đặt ra do yêu cầu đảm bảo quyền bảo
vệ của đương sự. Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Đương sự có quyền tự
bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ
luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có trách nhiệm
bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ”. Như vậy, pháp luật
cho phép đương sự có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và tạo
lập hành lang pháp lý giúp đương sự thực hiện tốt điều này. Đương sự có quyền
khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của
mình bị xâm phạm. Việc yêu cầu và thay đổi yêu cầu này hoàn toàn dựa trên ý
chí của đương sự. Hơn nữa, để bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự, pháp
luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
15
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu cầu… Nếu không có
quyền tự định đoạt trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được nguyên tắc bảo
đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bởi vậy, quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự tại Điều 5 BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, các quan hệ dân sự bao trùm lên tất cả các mặt của đời sống
xã hội nên các tranh chấp xảy ra cũng rất nhiều. Vì vậy, nếu Tòa án muốn giải
quyết các vấn đề phát sinh một cách nhanh chóng và kịp thời, nâng cao hiệu
quả cũng như sự tín nhiệm của nhân dân thì việc quy định quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS là việc làm cần thiết. Chính vì lẽ đó pháp luật quy
định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức một số quyền lợi nhất định để họ có thể
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị người khác xâm phạm. Cụ
thể, đương sự (cơ quan, tổ chức, cá nhân) có quyền tự mình thực hiện khởi kiện
và yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự tùy vào tính chất của vụ việc. Đây là một
trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ vào quyền tự định
đoạt mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết
vụ việc dẫn tới vụ việc dân sự được giải quyết nhanh chóng, đúng đắn, khách
quan hơn.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Xã hội ngày càng phát triển dẫn đến phát sinh ngày càng nhiều quan hệ
dân sự và không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp là
một nhu cầu tất yếu và giải quyết tại Tòa án là một trong các phương thức giải
quyết tranh chấp chủ yếu. Xuất phát từ bản chất của các quan hệ pháp luật dân
sự là các bên có quyền tự định đoạt và căn cứ nhu cầu giải quyết kịp thời, nhanh
chóng các tranh chấp, pháp luật quy định đương sự có quyền tự định đoạt trong
tố tụng dân sự.
Về bản chất, các tranh chấp dân sự không mang tính chất nguy hiểm như
vi phạm quy phạm pháp luật hình sự và chưa đến mức bị coi là tội phạm.
16
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Các tranh chấp trong dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi
các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình,
tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bằng cách yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
việc dân sự của mình. Việc khởi kiện hoặc yêu cầu nêu trên hoàn toàn dựa vào
sự tự do ý chí của đương sự. Tòa án chỉ được giải quyết khi có yêu cầu của
đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì Tòa án cần phải tiến hành
xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng kịp thời để bảo vệ quyền
và lợi ích của đương sự.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, do hiểu biết pháp luật của người dân còn
hạn chế, không nhận biết được đầy đủ về quyền và lợi ích của mình khi có tranh
chấp phát sinh nên không có yêu cầu Tòa án bảo vệ, hoặc có biết nhưng không
đầy đủ dẫn đến việc yêu cầu không có cơ sở, không đầy đủ về mặt nội dung…
Mặt khác, từ phía Tòa án cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, thiếu sót trong quá
trình thụ lý, giải quyết yêu cầu của đương sự như kéo dài thời gian tố tụng, đưa
ra quyết định giải quyết yêu cầu không đúng, vượt quá phạm vi yêu cầu của
đương sự… Vì vậy, việc quy định đương sự có quyền khởi kiện, thay đổi, bổ
sung, thậm chí là rút yêu cầu, đồng thời ghi nhận trách nhiệm của Tòa án trong
việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là
rất cần thiết, phù hợp với thực tiễn khách quan, bảo đảm được tối đa quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự.
Như vậy, khi áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về quyền tự định
đoạt của đương sự cần hiểu về quyền tự định đoạt đã được cụ thể hóa trong
nguyên tắc của pháp luật tố tụng dụng dân sự, đồng thời nguyên tắc này xây
dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định.
1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về
quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
17
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Để có cái nhìn một cách hệ thống, tổng quát về quyền tự định đoạt của
đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu
quá trình hình thành và phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là điều cần thiết. Có thể chia
thành các giai đoạn cụ thể như sau:
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, để kịp thời ổn định tình hình trật tự xã hội trong nước, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật mới trong đó có những văn bản
chứa đựng các quy phạm pháp luật TTDS như Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, cho phép áp dụng luật lệ cũ
để xét xử trong phạm vi cả nước, nếu những quy định trong luật lệ cũ “không
trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Dân chủ Cộng
hòa”. Tiếp đó, tại Điều 3, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về Tổ chức Tòa
án và các ngạch thẩm phán quy định: “Ban tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả
các việc dân sự và thương sự và nếu hòa giải thành sẽ lập biên bản hòa giải,
có các ủy viên và những người đương sự ký”. Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946
ấn định thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa
án, Điều 9 của Sắc lệnh quy định: “Khi nhận được đơn kiện về dân sự hay
thương sự, ông thẩm phán sơ cấp phải đòi hai bên đến để thử hòa giải. Biện
pháp hòa giải có hiệu lực từ chứng thư”. Sắc lệnh số 16/SL ngày 10/10/1945
quy định về tổ chức đoàn thể luật sư có nêu: “Các luật sư có quyền bào chữa
ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự”. Đến
năm 1950 nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách
bộ máy tư pháp và luật tố tụng quy định: “Tòa án nhân dân huyện họp thành
hội đồng hòa giải để thử hòa giải tất cả các vụ kiện về dân sự và thương sự, kể
cả việc xin ly dị, trừ những vụ kiện mà
18
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
theo luật pháp đương sự không có quyền điều đình” (Điều 9). Đồng thời Điều
10 Sắc lệnh số 85/SL cũng quy định:
Biên bản hòa giải là một công chứng chứng thư, có thể đem chấp
hành ngay. Tuy nhiên cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp hành
xong, nếu Biện lý xét biên bản ấy phạm đến trật tự chung, thì có quyền
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền sửa đổi lại hoặc bác bỏ những điều
mà hai bên đã thỏa thuận. Hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày
phòng biện lý nhận được biên bản hòa giải thành.
Như vậy, trong thời kỳ này, ngoài những Sắc lệnh nói trên, hầu như
không có văn bản nào quy định và hướng dẫn cụ thể về các thủ tục tố tụng dân
sự, cũng như quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự.
Pháp luật TTDS giai đoạn này tuy còn mang tính tản mạn, nhưng trước bối cảnh
lịch sử của đất nước lúc bấy giờ khi vừa giành được độc lập, lại phải chống thù
trong, giặc ngoài, việc quy định như vậy đã là một sự cố gắng lớn, thể hiện sự
quan tâm của Nhà nước đến các vấn đề quan trọng của xã hội, trong đó có
những quy định của pháp luật liên quan đến quyền của đương sự trong giải
quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Đồng thời, đặt nền móng cho
việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật TTDS, trong đó có cả quyền tự
định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở các giai đoạn sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1989
Năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhà nước ta đã ban hành một
loạt những văn bản pháp luật mới nhằm chấm dứt việc áp dụng các văn bản cũ
từ trước năm 1945 đồng thời củng cố, tăng cường vai trò, vị trí của Tòa án nhân
dân (tách Tòa án ra khỏi Bộ Tư pháp) cho phù hợp với tình hình mới. Các văn
bản đó là: Hiến pháp 1959, Luật Tổ chức TAND năm 1960, Luật Tổ chức
VKSND năm 1960, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.
19
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
TANDTC cùng với Bộ Tư pháp ban hành một loạt các văn bản pháp luật về
TTDS.
Xét về hình thức văn bản thì đây cũng là điểm khác biệt so với hệ thống
văn bản được ban hành ở giai đoạn trước đây. Ở giai đoạn trước, hoạt động tố
tụng giải quyết án dân sự của hệ thống Tòa án dựa trên các Sắc lệnh do Chủ
tịch nước ban hành là chủ yếu. Từ năm 1960, sau khi TANDTC được thành lập,
các văn bản tố tụng trở thành cơ sở hoạt động giải quyết vụ án bao gồm các
công văn, chỉ thị và đặc biệt là các Thông tư số 69/TC ngày 31/12/1958 của Bộ
Tư pháp về sửa đổi thẩm quyền của TAND về thủ tục về ly hôn trong đó quy
định “Tòa án nhân dân tỉnh tùy theo khả năng cán bộ có thể giao từng vụ cho
Tòa án nhân dân huyện xử sơ thẩm những vụ ly hôn không phức tạp. Nếu có
chống án thì Tòa án nhân dân tỉnh xử phúc thẩm” (Mục A phần II); Thông tư
số 39/NCPL ngày 21/1/1972 của TANDTC hướng dẫn việc thụ lý, xếp và tạm
xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự quy định:
“… Nguyên đơn có đủ tư cách để đi kiện phải là người có năng lực hành vi và
có quyền lợi bị xâm phạm. Nguyên đơn có thể ủy quyền cho một người có năng
lực hành vi thay mặt cho mình trong việc kiện. Giấy ủy quyền phải có chứng
nhận của ủy ban hành chính xã, khu phố hoặc của cơ quan nơi người đi kiện
công tác…”; Thông tư số 614/DS ngày 24/4/1963 của TANDTC hướng dẫn
một số thủ tục cho Tòa án địa phương có hướng dẫn: “Đương sự cũng có quyền
thay đổi yêu cầu trước khi Tòa án quyết định”; Thông tư số 06-TATC ngày
25/2/1974 của TANDTC hướng dẫn việc điều tra trong TTDS có hướng dẫn:
“… các đương sự (nguyên đơn, bị đơn và người dự sự) có quyền đề xuất những
yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh những
yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình”…
20
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đặc biệt với sự ra đời của Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 của
TANDTC hướng dẫn việc hòa giải trong TTDS đã đánh dấu sự phát triển không
ngừng của luật TTDS trong việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự,
trong đó quy định:
Việc hòa giải của TAND nhằm giúp đỡ các đương sự tự thỏa thuận
với nhau giải quyết việc kiện trên tinh thần đoàn kết và chấp hành
nghiên chỉnh pháp luật, chính sách, do đó, phải bảo đảm những yêu
cầu sau đây: Phải có sự tự nguyện của các đương sự, nội dung thỏa
thuận của các đương sự phải đúng pháp luật, chính sách…
Theo các văn bản trên, có thể nhận thấy, điều kiện để nguyên đơn có đủ
tư cách đi kiện phải là người có năng lực hành vi và có quyền lợi bị xâm phạm.
Nguyên đơn có thể ủy quyền cho người khác có năng lực hành vi thay mặt mình
trong việc kiện. Đương sự cũng có quyền thay đổi yêu cầu trước khi Tòa án
quyết định. Với những quy định trên, Pháp luật TTDS Việt Nam dần dần được
hoàn thiện trên cơ sở xác định rõ thẩm quyền xét xử về dân sự, thủ tục điều tra,
hòa giải cũng như đã có những quy định thể hiện quyền tự định đoạt của đương
sự trong TTDS khi giải quyết các vụ án dân sự.
Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, hệ thống pháp luật TTDS nói
chung, quyền tự định đoạt của đương sự nói riêng từng bước được hoàn thiện.
Theo đó, ngày 8/2/1977 TANDTC ban hành Thông tư số 96/NCPL hướng dẫn
về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự, trong đó có nêu: “… các đương sự có
quyền tự định đoạt. Do đó, nói chung TAND chỉ thụ lý khi nguyên đơn khởi tố,
trừ trường hợp luật pháp có quy định quyền khởi tố của VKSND, của công dân,
hợp tác xã hoặc đoàn thể nhân dân để bảo vệ lợi ích chung…”. Ngày
24/7/1981, TANDTC ban hành Thông tư số 81/TATC hướng dẫn giải quyết
các tranh chấp thừa kế, trong đó có quy định quyền tự định đoạt của người lập
di chúc, để trên cơ sở đó người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
21
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
cho họ được hưởng thừa kế đối với phần di sản mà người chết để lại theo di
chúc hoặc theo pháp luật. Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của đương sự cũng đã
bắt đầu được đề cập đến, trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự tại các
quy định của Hiến pháp năm 1980 (Điều 73), Luật tổ chức TAND năm 1981
(Điều 9). Các văn bản này là cơ sở pháp lý để Nhà nước ban hành các văn bản
pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS cũng như
là cơ sở để TAND và VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Nhưng nhìn chung các văn bản pháp luật tố tụng giai đoạn này chủ yếu được
quy định tại các Thông tư do TANDTC ban hành nên hiệu lực pháp lý chưa
cao.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Đây là giai đoạn hệ thống pháp luật TTDS Việt Nam có sự phát triển
vượt bậc và lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật TTDS Việt Nam, Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 được ban hành, có hiệu
lực pháp luật từ ngày 01/01/1990. Đồng thời cũng trong năm 1989, Pháp lệnh
Thi hành án được ban hành. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên pháp điển hóa
những nội dung căn bản của thủ tục giải quyết vụ án dân sự dưới hình thức
Pháp lệnh, đánh dấu sự phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam sang một giai
đoạn mới.
PLTTGQCVADS đã tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong việc bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có quyền tự định đoạt của
đương sự. Theo Pháp lệnh, đương sự có quyền định đoạt trong việc khởi kiện,
cụ thể tại Điều 1 có quy định: “Công dân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật
quy định, có quyền khởi kiện VADS để yêu cầu TAND bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình”. Cũng theo Pháp lệnh, bên cạnh quyền khởi kiện của đương
sự, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc
trong phạm vi chức năng của mình cũng có quyền khởi kiện
22
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hoặc đề nghị VKS xem xét việc khởi tố vụ án đối với những vi phạm pháp luật
gây thiệt hại cho tài sản XHCN hoặc quyền lợi của người lao động trong quan
hệ lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho người con chưa thành
niên ngoài giá thú, xâm phạm nghiêm trọng quyền lợi của người chưa thành
niên hoặc của người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, nếu không có ai
khởi kiện (Điều 8 và Điều 28 PLTTGQCVADS). Song có thể thấy, việc khởi
kiện vì lợi ích chung của các tổ chức xã hội và khởi tố của VKS ở góc độ nào
đó phần nào cũng đã ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của các đương sự.
Điều 2 của PLTTGQCVADS còn quy định: “Người khởi kiện vụ án dân
sự có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện. Các đương sự có
quyền tự hòa giải với nhau”. Cũng theo quy định của Pháp lệnh, trong quá trình
tham gia tố tụng, các đương sự còn có quyền hòa giải với nhau – Điều 5
PLTTGQCVADS quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến
hành hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án,
trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không
được hòa giải”. Trường hợp đương sự không đồng ý với bản án sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật, đương sự cũng có quyền kháng cáo “Đương sự, người
đại diện của đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có quyền kháng
cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án trên một cấp phúc thẩm…” (Điều 58
PLTTGQCVADS).
Sau khi có PLTTGQCVADS, TANDTC đã ban hành Nghị quyết số
03/HĐTP ngày 19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh
này trong đó có nêu:
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết
trong vụ án, thì Thẩm phán lập Biên bản hòa giải thành,
23
17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
trong đó phải nêu rõ nội dung việc tranh chấp và những điều mà các
đương sự đã thỏa thuận. Bản sao biên bản này được gửi ngay cho
VKS cùng cấp, cho tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi ích chung. Nếu
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà có
đương sự thay đổi ý kiến hoặc VKS, tổ chức xã hội đã khởi kiện vì lợi
ích chung phản đối sự thỏa thuận đó thì Tòa án đưa ra xét xử, nếu
trong thời hạn đó không có sự thay đổi ý kiến hoặc phản đối thì Thẩm
phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự…
(Mục II điểm 2)
Ngoài ra, còn có một số các văn bản pháp luật khác như Công văn số
309/NCPL, Công văn số 310/NCPL ngày 22/12/1990 giải thích một số vấn đề
về TTDS… Hiến pháp năm 1992 (Điều 50 và 74), Luật Tổ chức TAND năm
2002 (Điều 9) cũng có những quy định nhằm tạo điều kiện cho công dân thực
hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình trong đó có quyền tự định đoạt của
đương sự trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình tại Tòa án.
Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn này quyền tự định đoạt của đương
sự trong giải quyết vụ án dân sự cơ bản được đảm bảo. PLTTGQCVADS quy
định tương đối rõ ràng cụ thể các quyền tự định đoạt của các đương sự trong
toàn bộ quá trình tham gia tố tụng như quyền khởi kiện, quyền thay đổi, bổ
sung yêu cầu, quyền tham gia hòa giải, tự hòa giải, quyền kháng cáo…
Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của đương sự khi tham gia tố tụng trong
giai đoạn này mới chỉ được thực hiện ở một mức độ nhất định nào đó, sự tham
gia và can thiệp của cơ quan có thẩm quyền vẫn còn nhiều. Hơn nữa, các quy
định về tố tụng thiếu tập trung, nhiều chỗ còn chồng chéo… Đó là ngoài
PLTTGQCVADS còn có các Pháp lệnh khác như Pháp lệnh thủ tục giải
24
18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động ngày 11/4/1996. Điều đó đòi hỏi phải mở rộng hơn nữa quyền tự
định đoạt của đương sự và các quy định về TTDS cần phải được pháp điển hóa
ở các văn bản pháp lý có tính hiệu lực cao hơn.
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Sự ra đời của BLTTDS 2004 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong
lịch sử của Pháp luật TTDS Việt Nam trong giai đoạn này. Đây là văn bản pháp
lý có hiệu lực cao nhất kể từ trước đến nay điều chỉnh các quan hệ về TTDS.
Trước khi BLTTDS 2004 được ban hành, việc giải quyết những loại việc dân
sự thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTDS được quy định tại các
PLTTGQCVADS, PLTTGQCVA kinh tế và PLTTGQ các tranh chấp lao động.
Tuy nhiên, các Pháp lệnh này mới chỉ quy định các thủ tục mang tính nguyên
tắc, còn thiếu những quy định mang tính cụ thể phát sinh trong việc giải quyết
vụ việc. Mặt khác, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong thời kì hội
nhập nên nhiều quy định của các Pháp lệnh này không còn phù hợp và thiếu
đồng bộ so với các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Lao động năm
1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002; Bộ luật Dân sự năm 1995 dẫn đến khó khăn
trong việc áp dụng các quy định của pháp luật vào đời sống thực tiễn và hiệu
quả, chất lượng xét xử của Tòa án không cao – đây chính là các cơ sở xã hội và
cơ sở pháp lý cho sự ra đời của BLTTDS 2004. BLTTDS 2004 được ban hành
đã đánh dấu bước phát triển của hệ thống Pháp luật TTDS Việt Nam ở một tầm
cao mới, khắc phục được tình trạng tản mạn, mẫu thuẫn, khiếm khuyết của các
quy định TTDS trước đây, tạo điều kiện thuận lợi và cần thiết cho Tòa án giải
quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự, bảo đảm cho các cá nhân,
cơ quan, tổ chức bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án
nhằm thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về chiến lược
cải cách tư pháp. BLTTDS 2004 được ban
25
19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hành đã làm thay đổi quy trình tố tụng tại Tòa án theo hướng công khai, minh
bạch, các đương sự có vai trò chủ động, quyết định trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án đã góp phần vào việc thực hiện một
cách cụ thể và đầy đủ quyền tự định đoạt của đương sự. Quyền tự định đoạt của
đương sự được bảo đảm và mở rộng hơn trước và được ghi nhận cụ thể thành
một nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS (Điều 5 BLTTDS 2004). Điều đó
chứng tỏ, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ngày
càng được chú trọng, các đương sự ngày càng có điều kiện thực hiện tốt nhất
các quyền và nghĩa vụ tố tụng, kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích của mình
khi bị xâm phạm.
Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đã quy định tương đối
đầy đủ các thủ tục, trình tự giải quyết các vụ việc dân sự, nhưng sau một thời
gian triển khai áp dụng trên thực tiễn đã bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục
để đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp và bảo đảm hơn nữa quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân. Vì vậy, ngày 29/3/2011, kì họp thứ 9 Quốc hội khóa XII đã
ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS để khắc phục những
hạn chế đó.
Sau mười năm thi hành, có thể nói Bô ̣luâṭtốtung̣dân sư ̣năm 2004, sửa
đổi, bổ sung năm 2011 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cho đến nay, nhiều
quy định của Bô ̣luâṭtốtung̣dân sựvẫn còn phù hợp và đang phát huy tác dụng
tích cực. Tuy nhiên qua tổng kết thực tiễn cho thấy cũng có nhiều quy định của
Bô ̣luâṭtốtung̣dân sư ̣đã b ộc lộ những hạn chế, bất cập; không đáp ứng đầy đủ
nhu cầu của người dân trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong đời
sống dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong tố tụng dân sự cần tiếp
tục được bổ sung, sửa đổi, trong đó có các quy
26
20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
định về đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ án dân sự nhằm
phát huy tính công khai, dân chủ, công bằng, nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa, tăng cường quyền và trách nhiệm của Thẩm phán để họ chủ động
trong thực thi nhiệm vụ, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử; đổi
mới trình tự, thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ việc dân sự
nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án; bảo đảm các
quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân; góp phần vào sự phát
triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của
tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều nội dung
quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa đổi. Các quy
định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm, chủ trương,
định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa một bước trong
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định của Hiến pháp năm
2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng nói chung
và Bô ̣luâṭtốtung̣dân sư ̣nói riêng , tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vụ
việc thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Tại phiên họp ngày 25/11/2015, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII,
Quốc hội đã thông qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) năm
27
21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
2015 có nhiều quy định mới nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền của công dân
theo Hiến pháp năm 2013, trong đó có quyền tự định đoạt của đương sự trong
giải quyết vụ án dân sự.
Nghiên cứu sự phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của
đương sự trong TTDS qua các giai đoạn cho thấy các quy định liên quan đến
quyền tự định đoạt của đương sự được quy định khá sớm trong Pháp luật TTDS
Việt Nam và ngày càng được quy định cụ thể, mở rộng và hoàn thiện hơn. Qua
đó chúng ta cũng thấy được sự phát triển và hoàn thiện không ngừng của Pháp
luật TTDS Việt Nam nói chung, thể hiện sự quan tâm, và tầm quan trọng của
pháp luật TTDS cũng như quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ
án dân sự nhằm hướng tới một mục tiêu chung là góp phần bảo đảm cho các
đương sự bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước
Tòa án.
28
22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là hình thức tồn tại của các quyền
được quy định trong pháp luật nội dung, là phương thức bảo đảm cho các quyền
dân sự trong luật nội dung được thực hiện. Không có các hành vi giao kết dân
sự được xác lập thì các quyền tố tụng sẽ không có môi trường pháp lý phát sinh
trên thực tế. Trong quan hệ tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự là một
nguyên tắc pháp lý được biểu hiện như một quyền tố tụng đặc thù, phản ánh
tính chất của một lĩnh vực quan hệ cơ bản trong đời sống xã hội, đó là quan hệ
dân sự mà trong đó tính tự do ý chí, tự do cam kết, thỏa thuận, định đoạt là đặc
trưng cơ bản của loại quan hệ này. Như vậy, có thể nói, quyền tự định đoạt là
quyền tố tụng cơ bản và phổ biến của đương sự, được đương sự thực hiện trong
tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, từ khi khởi kiện đến khi kết thúc vụ
án dân sự.
Đời sống xã hội luôn vận động và phát triển, các mối quan hệ xã hội cũng
theo đó mà diễn biến ngày một đa dạng, phức tạp hơn, đồng thời nảy sinh thêm
nhiều loại quan hệ mới. Việc ghi nhận rộng rãi quyền tự định đoạt của đương
sự trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TTDS nói riêng là một trong
những biện pháp nhằm bảo vệ quyền cơ bản của con người, các quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi bị xâm phạm. Pháp luật TTDS Việt Nam
về quyền tự định đoạt của đương sự qua các thời kỳ đã thể hiện sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước ta đến quyền lợi của nhân dân, sự công bằng, bình đẳng
trong xã hội; kịp thời bổ sung, hoàn thiện chế định về quyền tự định đoạt của
đương sự trước xu hướng phát triển của xã hội, nhằm đáp ứng mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng.