Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật. Quyền là cái mà pháp luật, xã hội phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Như vậy, để được coi là quyền và được bảo vệ cần có sự thể hiện thái độ của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự nhiên vốn có của con người như quyền sống, quyền tư do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội, luật pháp ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học, pháp luật dần hình thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải thích các vấn đề tự nhiên, xã hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18 đã mở ra một trạng thái mới cho sự phát triển tư tưởng bảo vệ quyền cá nhân chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển nhiên, có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước, pháp luật ban phát. Tư tưởng này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, thiết lập Nhà nước mà ở đó con người với những giá trị đích thực của nó được nâng lên một bước - công dân của xã hội Nhà nước chứ không phải thần dân của ông vua.
Cơ sở lý luận về cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Vấn đề quyền con người từ lâu, vẫn là trung tâm chú ý của các nền văn minh trong lịch sử phát triển của con người và xã hội loài người. Cùng với quá trình phát triển đó, quyền con người gắn liền với sự hình thành và phát triển không ngừng của con người và ngày càng được nhận thức và ghi nhận một cách rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, sự phát triển của quyền con người còn gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng, học thuyết về quyền con người, chủ đạo là giải phóng con người và lấy con người là trung tâm của sự phát triển. Đến nay, quyền con người đã và đang ngày càng được quan tâm nhiều hơn bởi tất cả các quốc gia trên thế giới như một giá trị mang tính phổ quát và nó ngày càng được công nhận rộng rãi và dần trở thành tiêu chí đánh giá sự phát triển của các quốc gia nói riêng và toàn thể xã hội loài người nói chung [15].
Luận Văn Tốt Nghiệp Quyền Đối Với Họ, Tên – Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Cơ sở lý luận và pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị. Từ định nghĩa trên, có thể thấy, thuộc tình cơ bản của quyền con người là những giá trị gắn với mỗi con người, vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Giá trị đó phải được xã hội hoá bằng cách thể chế hoá thành các quyền năng cụ thể, có tình phổ cập, cần thiết cho mọi người. Nói cách khác, quyền con người là một trong những giá trị xã hội tổng hợp, có tình hiện thực, tình phổ biến và tình đặc thù, được ghi nhận bởi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Download luận án tiến sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cho các bạn tham khảo
Luận Văn Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Tiểu luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Bất kỳ một chế độ xã hội nào chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở có sự ổn định về trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, phức tạp, luôn ở trạng thái vận động và phát triển như trong một “trật tự” nhất định bởi chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm khác nhau. Chủ thể của các quan hệ xã hội khi tham gia vào các quan hệ này chịu sự chi phối của nhiều loại quy phạm và tương ứng với mỗi loại quan hệ do các loại quy phạm khác nhau điều chỉnh, chủ thể phải gánh vác những trách nhiệm xã hội nhất định như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm pháp lý…
Download luận án tiến sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học, pháp luật dần hình thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải thích các vấn đề tự nhiên, xã hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18 đã mở ra một trạng thái mới cho sự phát triển tư tưởng bảo vệ quyền cá nhân chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển nhiên, có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước, pháp luật ban phát. Tư tưởng này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, thiết lập Nhà nước mà ở đó con người với những giá trị đích thực của nó được nâng lên một bước - công dân của xã hội Nhà nước chứ không phải thần dân của ông vua.
Cơ sở lý luận về cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Vấn đề quyền con người từ lâu, vẫn là trung tâm chú ý của các nền văn minh trong lịch sử phát triển của con người và xã hội loài người. Cùng với quá trình phát triển đó, quyền con người gắn liền với sự hình thành và phát triển không ngừng của con người và ngày càng được nhận thức và ghi nhận một cách rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, sự phát triển của quyền con người còn gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng, học thuyết về quyền con người, chủ đạo là giải phóng con người và lấy con người là trung tâm của sự phát triển. Đến nay, quyền con người đã và đang ngày càng được quan tâm nhiều hơn bởi tất cả các quốc gia trên thế giới như một giá trị mang tính phổ quát và nó ngày càng được công nhận rộng rãi và dần trở thành tiêu chí đánh giá sự phát triển của các quốc gia nói riêng và toàn thể xã hội loài người nói chung [15].
Luận Văn Tốt Nghiệp Quyền Đối Với Họ, Tên – Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài mẫu cực kì xuất sắc, mới mẽ, chất lượng đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua nhé. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934 536 149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – TRANGLUANVAN.COM
Cơ sở lý luận và pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị. Từ định nghĩa trên, có thể thấy, thuộc tình cơ bản của quyền con người là những giá trị gắn với mỗi con người, vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Giá trị đó phải được xã hội hoá bằng cách thể chế hoá thành các quyền năng cụ thể, có tình phổ cập, cần thiết cho mọi người. Nói cách khác, quyền con người là một trong những giá trị xã hội tổng hợp, có tình hiện thực, tình phổ biến và tình đặc thù, được ghi nhận bởi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Download luận án tiến sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cho các bạn tham khảo
Luận Văn Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Việc Áp Dụng Biện Pháp Tạm Giữ, Tạm Giam. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Tiểu luận trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Bất kỳ một chế độ xã hội nào chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở có sự ổn định về trật tự xã hội. Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng, phức tạp, luôn ở trạng thái vận động và phát triển như trong một “trật tự” nhất định bởi chúng chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm khác nhau. Chủ thể của các quan hệ xã hội khi tham gia vào các quan hệ này chịu sự chi phối của nhiều loại quy phạm và tương ứng với mỗi loại quan hệ do các loại quy phạm khác nhau điều chỉnh, chủ thể phải gánh vác những trách nhiệm xã hội nhất định như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm pháp lý…
Download luận án tiến sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Cơ sở lý luận và pháp lý về bảo vệ quyền công dân của phạm nhân. Quyền công dân về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong Nhà nước quân chủ sang địa vị công dân trong Nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với tư cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người được thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhưng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền con người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và mối quan hệ đó được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch.
Cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Để bảo đảm quyền con người không chỉ là sự ghi nhận và cho phép mỗi công dân được tự do thực hiện các hành vi pháp luật không cấm, mà cùng với đó còn là việc xây dựng các thiết chế nhằm ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền tự do và bảo vệ quyền, cũng như lợi ích hợp pháp của mỗi chủ thể trước những sự vi phạm pháp luật. Qua nhiều thời kỳ và thế hệ, việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người là một trong những cơ sở quan trọng cho việc hình thành và phát triển của các chế định pháp luật, trong đó có chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về phòng vệ chính đáng. Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, đều có những quy phạm pháp luật bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước. Khi nói đến vấn đề bảo vệ lợi ích đó, chúng ta thấy rằng sẽ có những người hoặc cơ quan mang thẩm quyền Nhà nước đứng ra bảo vệ theo nghĩa vụ pháp lý. Nhưng trong Luật hình sự của Việt Nam lại có một chế định nói lên vấn đề bảo vệ những lợi ích hợp pháp bằng chính hành vi của những người không mang quyền lực Nhà nước và đó được coi là quyền của mọi công dân trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đó là chế định phòng vệ chính đáng.
Cơ sở lý luận về những bảo đảm pháp lý đối với quyền trẻ em trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền VN. Quyền trẻ em đƣợc coi là bộ phận của quyền con ngƣời, vì vậy mang đầy đủ các đặc điểm của quyền con ngƣời; Nhƣng quyền trẻ em lại có các nét đặc thù so với quyền con ngƣời nói chung ở chỗ: do còn non nớt về thể chất và tinh thần, nên trẻ em đƣợc trao riêng một số quyền, trẻ em đƣợc ƣu tiên một số quyền và trẻ em cũng chƣa có đủ khả năng để thực hiện một số các quyền khác:
Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa an tử ở Việt Nam. Trên cơ sở hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới và Việt Nam làm rõ bản chất của quyền an tử từ đó đề xuất những quan điểm, giải pháp về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an tử nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới.
Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội theo pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án quân sự Quân khu 5, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về vai trò của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân. Công dân của một nước được pháp luật nước đó quy định cho hưởng quyền công dân về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội và trao trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tạo các điều kiện ngày càng đầy đủ, để công dân có thể hưởng được các quyền và yêu cầu công dân thực hiện ngày càng đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
Cơ sở lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người. Kế thừa và tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn đều luôn quan tâm đến việc chăm lo, phát triển, xây dựng và bảo vệ các giá trị nhân văn tiến bộ, trong đó có việc bảo vệ con người, chủ thể của xã hội. Rất nhiều các quy định của Nhà nước ta đã có những chế định khác nhau về việc bảo vệ con người, từ các quy định về bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người trong Bộ luật dân sự, hay các quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự. Tất cả các quy định trên đều hướng tới việc bảo vệ toàn vẹn các giá trị cơ bản nhất của con người như tính mạng, sức khỏe của người đó hay các giá trị tinh thần như nhân phẩm, danh dự.
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam. Pháp luật dân sự Việt Nam không tách biệt quyền sở hữu và quyền chiếm hữu như pháp luật nhiều quốc gia khác mà ghi nhận chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu, là hình thức biểu hiện bên ngoài của sở hữu thể hiện ở việc thực tế đang nắm giữ, quản lý đối với tài sản. Do đó, trong trường hợp chủ thể thứ 2 và thứ 3 đã ghi nhận ở trên, mặc dù khái niệm người chiếm hữu có căn cứ pháp luật và người chiếm hữu trên cơ sở quyền sử dụng đất và quyền sử dụng bất động sản liền kề được ghi nhận nhưng không được hiểu những chủ thể này nắm quyền chiếm hữu một cách tuyệt đối, quyền của họ được pháp luật quy định và bị hạn chế bởi thỏa thuận đối với chủ sở hữu.
Học Kỳ Tố Tụng Hình Sự Quyền Và Nghĩa Vụ Của Người Bào Chữa đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận án tham khảo
Học Kỳ Tố Tụng Hình Sự Quyền Và Nghĩa Vụ Của Người Bào Chữa đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật.docx
Cơ sở lý luận và pháp lý về bảo vệ quyền công dân của phạm nhân. Quyền công dân về nguồn gốc lịch sử, nó là một khái niệm xuất hiện cùng với cách mạng tư sản và chỉ tồn tại trong xã hội công dân. Cách mạng tư sản đã biến con người (giai cấp thống trị trong xã hội) từ địa vị thần dân trong Nhà nước quân chủ sang địa vị công dân trong Nhà nước cộng hòa. Nghĩa là, khi đề cập đến khái niệm công dân là đề cập tới một bộ phận con người, theo quy định của pháp luật với tư cách là những thành viên bình đẳng trong Nhà nước, từ đó mà quyền con người được thừa nhận một cách rộng rãi và bình đẳng với ý nghĩa là quyền công dân. Nhưng quyền công dân không phải và không bao giờ trở thành hình thức cuối cùng của quyền con người, nó chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước và mối quan hệ đó được xác định thông qua một chế định pháp luật đặc biệt là chế định quốc tịch.
Cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Để bảo đảm quyền con người không chỉ là sự ghi nhận và cho phép mỗi công dân được tự do thực hiện các hành vi pháp luật không cấm, mà cùng với đó còn là việc xây dựng các thiết chế nhằm ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền tự do và bảo vệ quyền, cũng như lợi ích hợp pháp của mỗi chủ thể trước những sự vi phạm pháp luật. Qua nhiều thời kỳ và thế hệ, việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người là một trong những cơ sở quan trọng cho việc hình thành và phát triển của các chế định pháp luật, trong đó có chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về phòng vệ chính đáng. Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, đều có những quy phạm pháp luật bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước. Khi nói đến vấn đề bảo vệ lợi ích đó, chúng ta thấy rằng sẽ có những người hoặc cơ quan mang thẩm quyền Nhà nước đứng ra bảo vệ theo nghĩa vụ pháp lý. Nhưng trong Luật hình sự của Việt Nam lại có một chế định nói lên vấn đề bảo vệ những lợi ích hợp pháp bằng chính hành vi của những người không mang quyền lực Nhà nước và đó được coi là quyền của mọi công dân trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đó là chế định phòng vệ chính đáng.
Cơ sở lý luận về những bảo đảm pháp lý đối với quyền trẻ em trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền VN. Quyền trẻ em đƣợc coi là bộ phận của quyền con ngƣời, vì vậy mang đầy đủ các đặc điểm của quyền con ngƣời; Nhƣng quyền trẻ em lại có các nét đặc thù so với quyền con ngƣời nói chung ở chỗ: do còn non nớt về thể chất và tinh thần, nên trẻ em đƣợc trao riêng một số quyền, trẻ em đƣợc ƣu tiên một số quyền và trẻ em cũng chƣa có đủ khả năng để thực hiện một số các quyền khác:
Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa an tử ở Việt Nam. Trên cơ sở hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới và Việt Nam làm rõ bản chất của quyền an tử từ đó đề xuất những quan điểm, giải pháp về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an tử nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới.
Cơ sở lý luận về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội theo pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án quân sự Quân khu 5, cho các bạn tham khảo
Cơ sở lý luận về vai trò của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân. Công dân của một nước được pháp luật nước đó quy định cho hưởng quyền công dân về chính trị, kinh tế, dân sự, văn hóa, xã hội và trao trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước, xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tạo các điều kiện ngày càng đầy đủ, để công dân có thể hưởng được các quyền và yêu cầu công dân thực hiện ngày càng đầy đủ các nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
Cơ sở lý luận về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người. Kế thừa và tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn đều luôn quan tâm đến việc chăm lo, phát triển, xây dựng và bảo vệ các giá trị nhân văn tiến bộ, trong đó có việc bảo vệ con người, chủ thể của xã hội. Rất nhiều các quy định của Nhà nước ta đã có những chế định khác nhau về việc bảo vệ con người, từ các quy định về bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người trong Bộ luật dân sự, hay các quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự. Tất cả các quy định trên đều hướng tới việc bảo vệ toàn vẹn các giá trị cơ bản nhất của con người như tính mạng, sức khỏe của người đó hay các giá trị tinh thần như nhân phẩm, danh dự.
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam. Pháp luật dân sự Việt Nam không tách biệt quyền sở hữu và quyền chiếm hữu như pháp luật nhiều quốc gia khác mà ghi nhận chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu, là hình thức biểu hiện bên ngoài của sở hữu thể hiện ở việc thực tế đang nắm giữ, quản lý đối với tài sản. Do đó, trong trường hợp chủ thể thứ 2 và thứ 3 đã ghi nhận ở trên, mặc dù khái niệm người chiếm hữu có căn cứ pháp luật và người chiếm hữu trên cơ sở quyền sử dụng đất và quyền sử dụng bất động sản liền kề được ghi nhận nhưng không được hiểu những chủ thể này nắm quyền chiếm hữu một cách tuyệt đối, quyền của họ được pháp luật quy định và bị hạn chế bởi thỏa thuận đối với chủ sở hữu.
Học Kỳ Tố Tụng Hình Sự Quyền Và Nghĩa Vụ Của Người Bào Chữa đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận án tham khảo
Học Kỳ Tố Tụng Hình Sự Quyền Và Nghĩa Vụ Của Người Bào Chữa đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích. Nếu như bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Similar to Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật.docx (20)
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ. Công tác lưu trữ ra đời là do đòi hỏi khách quan đối với việc bảo quản và tổ chức sử dụng tài liệu. Nhà nước ta luôn coi công tác này, đây là một ngành hoạt động trong công tác quản lý nhà nước đồng thời là một mắt xích không thể thiếu được trong bộ máy quản lý của mình. Ngày nay, những yêu cầu mới của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, công tác lưu trữ cần được xem xét từ những yêu cầu bảo đảm thông tin cho hoạt động quản lý, bởi thông tin trong tài liệu lưu trữ là loại thông tin có tính dự báo cao, dạng thông tin cấp một, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, có độ tin cậy cao do nguồn gốc hình thành, do đặc trưng pháp lý, tính chất làm bằng chứng lịch sử của tài liệu lưu trữ quy định.
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các công ty buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh.Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.Nguồn nhân lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác.Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn nhân lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. (Thư viện Học liệu Mở Việt Nam , 2012)
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 20/04/1995 Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật DNNN năm 1995 để quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của nhà nước đầu tư trong các DNNN, mà trước đó mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định và hướng dẫn của Chính phủ. Theo đó, tại Điều 1 Luật DNNN 1995 quan niệm: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.Các DNNN được tổ chức theo mô hình quản lý riêng, không giống như mô hình quản lý của các doanh nghiệp tư nhân.
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ sinh lao động. Trong hoạt động sản xuất thì vì những lý do khách quan và chủ quan có thể dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Do đó, yêu cầu về ATLĐ và VSLĐ trong lao động được đặt lên hàng đầu. Hiện nay,, An toàn, vệ sinh lao động là những quy định của luật lao động bao gồm những quy phạm pháp luật về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động, đồng thời duy trì tốt khả năng làm việc lâu dài của người lao động.
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay. Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong quan hệ giao dịch dân sự.
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ. NLĐ dù là nam hay nữ đều được pháp luật ở mỗi quốc gia bảo vệ dưới góc độ quyền công dân và được pháp luật quốc tế công nhận và đảm bảo. Ủy ban Quyền con người của Liên Hợp quốc đã có sự phân chia nhóm quyền con người trong lĩnh vực lao động thuộc nhóm quyền dân sự và dưới góc độ pháp luật lao động “Quyền của người lao động phải được bảo đảm như quyền con người” [9].
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân quận. Văn bản hành chính dùng để truyền đạt thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước như : công bố hoặc thông báo về một chủ trương, quyết định hay nội dung và kết quả hoạt động của một cơ quan, tổ chức; ghi chép lại các ý kiến và kết luận trong các hội nghị ; thông tin giao dịch chính giữa các cơ quan, tổ chức với nhau hoặc giữa tổ chức và công nhân. Văn bản hành chính đưa ra các quyết định quản lý quy phạm, do đó không dùng để thay thế cho văn bản QPPL [21, tr 36]
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của viện kiểm sát nhân dân. Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Quy định về tin báo, tố giác về tội phạm góp phần tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và minh bạch cho các chủ thể này có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về hành vi phạm tội của người khác đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là một hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, qua đó CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung và thông qua năm 1999 không tập trung giải thích rõ nội hàm của báo chí mà chỉ liệt kê các loại hình báo chí: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài.
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận. Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới trong quá trình vận hành và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” đã chỉ ra rằng đây là một cơ chế hữu hiệu để nâng cao tính hiệu quả của nền hành chính và giảm thiểu thời gian cho người dân và tổ chức khi đến giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan công quyền tại một địa điểm. Một số quốc gia thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” trong cung cấp dịch vụ công tại cấp chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp của chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp chính quyền địa phương. Các quốc gia cũng đều chú trọng việc thiếp lập cơ chế theo dõi, đánh giá tính hiệu quả của việc tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” và xây dựng các công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở. Với quy định của pháp luật, đất đai được chia ra làm nhiều loại khác nhau: theo Luật Đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam được chia ra làm sáu loại, bao gồm: đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Sự phân chia này dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế này, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật Đất đai 2003 và hiện nay là Luật Đất đai 2013 đã chia đất đai làm ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu gồm các nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp huyện. Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại. Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có được câu trả lời chính xác. ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ khá lâu, khi mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dự trữ chung phòng khi mất mùa, chiến tranh…Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển từ rất lâu, do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một khái niệm đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủiro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác.
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính. Báo cáo tài chính là các chứng từ cần thiết trong kinh doanh. Các nhà quản lý sử dụng chúng để đánh giá năng lực thực hiện và xác định các lĩnh vực cần thiết phải được can thiệp. Các cổ đông sử dụng chúng để theo dõi tình hình vốn đầu tư của mình đang được quản lý như thế nào. Các nhà đầu tư bên ngoài dùng chúng để xác định cơ hội đầu tư. Còn người cho vay và nhà cung ứng lại thường xuyên kiểm tra báo cáo tài chính để xác định khả năng thanh toán của những công ty mà họ đang giao dịch.
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225].
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn được đánh giá rất quan trọng trong kinh doanh bởi nó sẽ được sử dụng rất thương xuyên, sử dụng hàng ngày để chi trả cho các chi phí phát sinh khác trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó cũng là thước đo dùng để phản ánh các giá trị hiện có và tình hình biến động về kinh tế của doanh nghiệp tăng hau giảm.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường. Chúng ta biết rằng hàng hóa sản xuất ra là để bán. Chúng được bán ở thị trường. Theo cách hiểu cổ điển, thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán, nơi mà các người mua và bán đến với nhau để mua bán các sản phẩm và dịch vụ. Thị trường thể hiện đặc tính riêng của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Không thể coi thị trường chỉ là các chợ, các cửa hàng…mặc dù nơi đó có mua bán hàng hóa. [2_trang 16]
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet. Đầu tiên để tiếp cận một cách cụ thể về khái niệm chất lượng dịch vụ thì chúng ta cũng cần biết đôi chút về “dịch vụ” là gì. Theo đó thì dịch vụ là những hoạt động hoặc là chuỗi hoạt động mà thông thường ít hoặc nhiều chúng ta không thể sờ thấy về mặt tự nhiên được, nhưng không nhất thiết, xảy ra sự tác động qua lại giữa một bên là khách hàng và một bên là người cung cấp dịch vụ và / hoặc tiềm lực về mặt vật lý của sản phẩm và / hoặc hệ thống người cung cấp mà nó được cung cấp như là những giải pháp cho vấn đề của người tiêu dùng (Gronroos, 1990).
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng các quy định của pháp luật.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
PHẠM NHÂN BẰNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của phạm nhân bằng pháp
luật
1.1.1. Khái niệm quyền con người của phạm nhân
Quyền là cái mà pháp luật, xã hội phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng
thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể
đòi hỏi để giành lại. Như vậy, để được coi là quyền và được bảo vệ cần có sự
thể hiện thái độ của xã hội và luật pháp. Hay nói cách khác, những quyền tự
nhiên vốn có của con người như quyền sống, quyền tư do cá nhân, quyền mưu
cầu hạnh phúc và các lợi ích, nhu cầu khác trở thành quyền khi được xã hội,
luật pháp ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất của nền văn
hóa nhân loại, được hình thành với sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân
tộc, giai cấp tầng lớp và cá nhân con người trên trái đất thông qua một quá trình
phát triển lịch sử lâu dài. Tuy nhiên, cho đến nay cách hiểu về khái niệm quyền
con người vẫn chưa được thống nhất. Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc
về quyền con người (OHCHR) được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu đã định
nghĩa "Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tư do cơ bản của con
người".
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên
gia, cơ quan nghiên cứu từng nên ra, quyền con người thường được hiểu là
những nhu cầu lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi
7
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Nghĩa là nhìn từ góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác
định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.
Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ
áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ những chuẩn mực này mà
mọi thành viên của cộng đồng nhân loại được bảo vệ nhân phẩm và có điều
kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người.
Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định thì quyền con người vẫn
là những giá trị cao cả cần được tôn trong và bảo vệ trong mọi xã hội và trong
mọi giai đoạn lịch sử [17, tr.42].
Đối với phạm nhân đang chấp hành án phạt tù cũng vậy, những nhu cầu,
lợi ích của họ là những quyền họ đương nhiên có với tư cách là một thực thể tự
nhiên. Bởi vì họ là con người nên họ được hưởng những quyền đó và Nhà nước
phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo những quyền đó của phạm nhân. Bất
kể mức độ phạm tội hay lý do bị bắt giam, phạm nhân vẫn được giữ nguyên
quyền con người của mình và được pháp luật bảo vệ. Một con người được coi
là phạm nhân khi họ phạm tội bị kết án phạt tù và được đưa đến trại giam để
chấp hành bản án, đồng thời với việc trở thành phạm nhân họ có một địa vị
pháp lý hoàn toàn khác với các công dân bình thường ngoài xã hội. Tòa án hay
bất cứ cơ quan tư pháp nào thụ lý hồ sơ của họ có thể tuyên bố tước quyền tự
do nhưng không thể phủ nhận quyền con người của họ. Ngoài những quyền
chung của người chấp hành án phạm nhân còn có các quyền riêng được pháp
luật quy định. Trước hết, phạm nhân được hưởng các quyền công dân trừ những
quyền bị pháp luật hoặc Tòa án tước đã ghi trong bản án, quyết định của Tòa
án. Đó là quyền sống; quyền được học tập văn hóa, học nghề; quyền lao động;
quyền bình đẳng; quyền được bảo đảm an ninh xã hội; quyền không bị đối xử
tàn bạo, vô nhân đạo; quyền bất khả xâm phạm về thân thể;
8
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình; quyền khiếu nại , tố cáo; quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ; quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa,
tham gia vào đời sống văn hóa.
Tuy nhiên, khi bị kết án phạt tù nghĩa là sẽ bị tước quyền tự do và phạm
nhân có những quyền bị mất, bị hạn chế như sau:
Một số quyền bị hạn chế: Quyền gặp gỡ gia đình (Tuyên ngôn toàn thế
giới về Nhân quyền, Điều 12); Quyền hưởng cuộc sống gia đình của các bà mẹ
và trẻ em đòi hỏi phải có một chế độ đặc biệt. (Khoản 2 Điều 25 Tuyên ngôn
toàn thế giới về Nhân quyền); quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các
hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác
Một số quyền bị mất: Quyền tự do đi lại và tự do cư trú (Tuyên ngôn
Nhân quyền, Điều 13), Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí (Tuyên ngôn Nhân
quyền, Điều 19); Quyền hội họp và lập hội (Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân
quyền, Điều 20); quyền tự do kinh doanh; Quyền bầu cử, ứng cử và tham gia
quản lý nhà nước (Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền, Điều 21), đây cũng
là một trong những quyền mà phạm nhân là người chưa thành niên, người nước
ngoài không có [50, p.32].
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm "quyền của phạm nhân
là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có cần phải đảm bảo của phạm nhân
trong tổ chức thực hiện thi hành án phạt tù và phải được thể hiện trong các quy
định của pháp luật".
Như vậy, dù bị cầm tù phạm nhân vẫn là những con người và có những
quyền cơ bản của con người, tuy nhiên quyền của phạm nhân bị hạn chế hơn so
với quyền con người. Và quyền của phạm nhân chỉ xuất hiện khi người bị kết
án phạt tù được coi là phạm nhân, đó là khi họ được trại giam, phân trại giam,
nhà tạm giữ thuộc cơ quan thi hành án hình sự tiếp nhận để thi hành án phạt tù
đến thời điểm họ được trả tự do.
9
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.1.2. Khái niệm bảo đảm các quyền con người của phạm nhân bằng
pháp luật
Trong lời nói đầu Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 đã
khẳng định "Điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp
luật" [18]. Quyền con người dù là quyền tự nhiên hay quyền pháp lý thì để đảm
bảo trong thực tiễn cũng cần có pháp luật. Con người cùng với các quyền con
người luôn là đối tượng phản ánh của hệ thống pháp luật. Và cũng chỉ có thông
qua pháp luật các quyền con người mới được ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy một
cách có hiệu quả nhất. Quyền của phạm nhân cũng vậy, nhưng cụ thể bảo vệ quyền
của phạm nhân trong pháp luật thi hành án hình sự là như thế nào ?
Từ góc độ tổ chức Nhà nước, PGS. TS. Đinh Văn Mậu cho rằng quyền
con người được bảo đảm:
a) Thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân do
pháp luật quy định; b) Thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực
Nhà nước như cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, Tòa án và Viện
kiểm sát; c) Bằng việc hoàn thiện tổ chức Nhà nước như đổi mới tổ
chức thực hiện thẩm quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính Nhà
nước, cải cách tư pháp và nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong
cơ chế thị trường và dân chủ hóa xã hội [31, tr.82-111].
PGS. TS Trần Ngọc Đường cho rằng những bảo đảm pháp lý trong việc
thực hiện quyền con người bao gồm:
Hệ thống thống nhất về mặt pháp lý cơ chế pháp lý bảo đảm
thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý thông qua hệ thống cơ quan
quyền lực Nhà nước, thông qua hệ thống cơ quan hành pháp, thông
qua hệ thống cơ quan tư pháp, thông qua mặt trận Tổ quốc Việt
10
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nam; thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân; thông qua
hành vi hợp pháp và trình độ văn hóa pháp lý của mỗi cá nhân công
dân [21, tr.111-178].
Việc bảo vệ và tôn trọng các quyền con người của phạm nhân chính là
thành quả của loài người trong các cuộc đấu tranh bền bỉ, với phương châm mọi
người bị mất tự do đều được đối xử nhân đạo và tôn trọng đối với nhân phẩm
vốn có của con người [28, Điều 10]. Ở Việt Nam, việc nhận thức, ghi nhận và
bảo vệ trên thực tế các quyền của phạm nhân là thể hiện qua lịch sử phát triển
của pháp luật quốc gia. Đồng thời việc bảo vệ các quyền này luôn được đề cập
trong những quan điểm, tư tưởng, chỉ đạo:
Trong đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, phải kết hợp chặt chẽ
giữa đấu tranh chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm; coi trọng các
biện pháp phòng ngừa; xây dựng chương trình quốc gia về phòng ngừa
tội phạm, có ngân sách dành cho chương trình đó. Thực hiện nghiêm
các hình phạt do luật định đối với kẻ phạm tội; đồng thời tích cực giáo
dục kết hợp với dạy nghề và tổ chức lao động sản xuất, cải thiện các
điều kiện giam giữ để cải tạo, cảm hóa phạm nhân, tạo điều kiện đưa họ
trở lại làm ăn lương thiện. Ngăn chặn và nghiêm trị các hành vi ngược
đãi, ức hiếp người bị giam [2].
Tăng cường và đổi mới công tác cảm hóa, giáo dục giúp đỡ
những người phạm tội được đặc xá, tha tù, người mắc tệ nạn xã hội
tại cộng đồng và tại các trại giam, cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục,
trường giáo dưỡng với những hình thức phù hợp. Quan tâm hỗ trợ
những người lầm lỗi đã cải tạo tốt để sớm ổn định cuộc sống, tái hòa
nhập cộng đồng [3].
Từ ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng của pháp luật thi hành án hình sự là
nhằm bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân với tư cách là
11
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh
nhân loại. TSKH. GS Lê Cảm đã đưa ra khái niệm:
Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật thi hành án hình sự
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền là sự điều chỉnh đầy
đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành pháp và sự
đảm bảo tối đa về mặt tư pháp các quy định của pháp luật thi hành án
hình sự để làm cho các quy định đó phù hợp với các nguyên tắc và
các quy phạm tương ứng của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp
hình sự, được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất và triệt để bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như
những người có chức vụ của các cơ quan này trong thực tiễn thi hành
án hình sự, đồng thời góp phần tạo nên lòng tin của công dân vào sự
nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự bình đẳng của pháp
luật, sức mạnh và uy tín của bộ máy công quyền, tính nhân đạo và
dân chủ của XHDS và nhà nước pháp quyền [10, tr.406-407].
Từ các quan điểm khác nhau về bảo vệ và đảm bảo thực hiện quyền con
người trong Nhà nước Pháp quyền, trong hệ thống Tư pháp hình sự nói chung
và trong pháp luật thi hành án hình sự nói riêng ta có thể rút ra đặc điểm việc
bảo vệ quyền của phạm nhân trong pháp luật thi hành án hình sự như sau:
Trước hết trong quá trình lập pháp, quyền của phạm nhân phải được ghi
nhận đầy đủ trong pháp luật, quá trình thực thi pháp luật phải đảm bảo chính
xác và tuân thủ chặt chẽ những quy định.
Bảo vệ quyền của phạm nhân trong pháp luật thi hành án hình sự chính
là việc thực hiện những nguyên tắc, những thừa nhận chung trong pháp luật thi
hành án hình sự như nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo,... nhằm
12
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đảm bảo sự phù hợp với pháp luật quốc gia và các chuẩn mực quốc tế về bảo
vệ quyển của phạm nhân.
Bảo vệ quyền của phạm nhân trong pháp luật thi hành án hình sự là làm
cho những quy định của pháp luật thi hành án hình sự về quyền của phạm nhân
được tuân thủ, chấp hành, áp dụng một cách triệt để, nghiêm minh, thống nhất
thông qua các cơ quan thi hành án hình sự.
Bảo vệ quyền của phạm nhân trong pháp luật thi hành án hình sự còn
nhằm mục đích tạo dựng niềm tin trong nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp
chế, minh bạch, bình đẳng của pháp luật và sự uy tín của bộ máy nhà nước nói
chung và cơ quan thi hành án hình sự nói riêng.
Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định
buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở
thành có ích cho xã hội. Từ những quan điểm trên cho thấy: Phạm nhân là các
công dân có vị trí pháp lý đặc biệt. Chính vị trí này là cơ sở để các cơ quan thi
hành án phạt tù áp dụng các biện pháp cưỡng chế và giáo dục đặc thù đối với
họ, nhằm mục đích giáo dục họ trở thành người lương thiện. Việc họ bị giam
giữ trong trại giam không có nghĩa chỉ là để trừng phạt, bảo đảm an toàn cho
xã hội mà mục đích chủ yếu là giáo dục họ trở thành người lương thiện, có ích
cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc của cuộc sống XHCN,
ngăn ngừa họ phạm tội.
Bảo đảm quyền của phạm nhân trong pháp luật thi hành án hình sự phải
là nội dung được quy định trong luật có tính khả thi và được thực hiện có hiệu
quả trên thực tế.
Từ những đặc điểm trên có thể đưa ra khái niệm "Bảo đảm quyền con
người của phạm nhân theo pháp luật là sự điều chỉnh, ghi nhận đầy đủ trong
quá trình lập pháp, sự đảm bảo thực thi chính xác trong hành pháp, tư pháp và
được tuân thủ, thực hiện một cách có hiệu quả trên thực tế các quyền của người
đang chấp hành án phạt tù có thời hạn và tù chung thân”.
13
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2. Những nhóm quyền con người của phạm nhân cần được bảo đảm
Trong thực tiễn công tác tổ chức thi hành hình phạt tù, việc hiểu rõ người
đang chấp hành hình phạt tù có những quyền gì, những quyền gì của công dân
họ bị tước bỏ hoặc bị hạn chế và nghĩa vụ thế nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
đối với cơ quan thi hành án. Điều quan trọng được thể hiện ở chỗ, nó không chỉ
dừng lại ở mức độ nhận thức, mà còn thể hiện trong việc vận dụng các quy định
của pháp luật trong công tác quản lý, giáo dục người phạm tội hướng tới mục
đích trả về cho xã hội những con người hoàn lương. Đồng thời trên cơ sở đó
tiến hành các biện pháp quản lý, giáo dục, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật.
Có thể khái quát các quyền cơ bản của phạm nhân cần được bảo vệ thành
6 nhóm quyền sau:
An toàn về thân thể và tôn trọng nhân phẩm: bao gồm cấm tra tấn, đối
xử tàn ác, vô nhân đạo; việc nhập trại và phân loại phạm nhân; bảo đảm an
toàn, trật tự an ninh;
Quyền được bảo đảm mức sống tiêu chuẩn đầy đủ (điều kiện sống):
bao gồm nơi ở, lương thực, thực phẩm, chỗ ngủ;
Quyền về y tế: bao gồm quyền của phạm nhân tiếp cận dịch vụ y tế;
điều kiện vệ sinh;
Sử dụng thời gian trong trại giam hữu ích nhất: việc lao động, giáo
dục, văn hóa, tôn giáo, học nghề, chuẩn bị cho việc tái hòa nhập;
Quyền liên lạc với bên ngoài, vấn đề giam kín và biệt giam;
Quyền khiếu nại;
Các tiểu mục dưới đây sẽ lần lượt phân tích, làm rõ thêm về các nhóm
quyền này. Cũng cần lưu ý rằng, ở đây chủ yếu khái quát những quyền cơ bản
của mọi phạm nhân, đối với một số nhóm phạm nhân đặc biệt, yếu thế hơn
(chưa thành niên, phụ nữ, người nước ngoài,...) cũng có một số mối quan tâm
14
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đặc thù đã được các văn bản pháp luật quốc tế nêu lên (chẳng hạn như trong
Phần II của QTTCTT, trong Các Quy tắc của Liên hợp quốc bảo vệ người chưa
thành niên bị tước tự do -1990, Các Quy tắc đối xử đối với phạm nhân nữ và
các biện pháp không giam giữ đối với phụ nữ phạm pháp - 2010,...).
1.2.1. An toàn về thân thể và tôn trọng nhân phẩm
1.2.1.1. Cấm tra tấn
Điều 5 của Tuyên bố chung về quyền con người của Liên Hợp Quốc
(UDHR) quy định rằng không ai phải chịu đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục. Quy định này được cụ thể hóa trong Công ước về các
quyền chính trị và dân sự của Liên Hợp Quốc (ICCPR), Công ước chống tra
tấn (1984) và một số văn kiện pháp lý khác.Quyền này là một trong số ít các
quyền tuyệt đối mà các quốc gia không thể đặt ra bất kỳ giới hạn nào đối với
quyền này. Trong mọi hoàn cảnh, không thể tạm đình chỉ hay ngưng áp dụng
quyền này.
Nghĩa vụ đối xử nhân đạo với những người bị tước tự do bao gồm việc
tuân thủ các quy định về cấm tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc sử dụng họ vào các thí nghiệm y tế hay khoa học mà trái với ý muốn
của họ, theo như quy định ở Điều 7 ICCPR (đoạn 3). Đối xử nhân đạo và với
sự tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do là một nguyên tắc cơ
bản về quyền con người trong tố tụng hình sự mà đã được áp dụng rộng rãi trên
thế giới. Các quốc gia thành viên phải áp dụng nguyên tắc này như một yêu cầu
tối thiểu, không phụ thuộc vào nguồn lực sẵn có của quốc gia và không mang
tính phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào (đoạn 4).
Công ước chống tra tấn (CAT), tại Điều 1, đưa ra định nghĩa tra tấn là: bất
kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể xác hay tinh
thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người
đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi
15
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để
đe dọa hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào
khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và khổ
đau đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức
gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Khái
niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền
với, hoặc có liên quan đến, các biện pháp trừng phạt hợp pháp.
Đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo và hạ nhục (hạ thấp nhân
phẩm)(cruel, inhumane, and degrading treatment - được gọi tắt là CIDT)
thường được coi là gây ra mức độ đau đớn thấp hơn so với tra tấn. Trong thực
tế, người ta thường căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của sự đau đớn về thể chất
hay tinh thần, cộng với các yếu tố khác (thời gian, không gian,...) để phân biệt
giữa tra tấn và CIDT. Khoản 1 Điều 16 của CAT cũng đã xác định:
Mỗi quốc gia thành viên cam kết ngăn ngừa trên lãnh thổ thuộc
quyền tài phán của mình những hành vi đối xử hoặc trừng phạt tàn
ác, vô nhân đạo và hạ nhục khác mà chưa đến mức tra tấn như định
nghĩa ở Điều 1, khi những hành vi này do một công chức hay người
nào khác hành động với tư cách chính thức thực hiện, hoặc do xúi
giục, đồng tình hay ưng thuận.
Trong ICCPR, tại Điều 7, cũng đã chi tiết hóa quyền được bảo vệ khỏi
bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục. Điều 7
ICCPR nêu rõ không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân
đạo hoặc hạ nhục; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc
khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó. Một số khía cạnh
liên quan đến nội dung Điều 7 ICCPR đã được Ủy ban Nhân quyền (HRC, cơ
quan giám sát việc thực thi ICCPR) phân tích, đầu tiên là trong Bình luận chung
số 7 (thông qua tại kỳ họp lần thứ 16 năm 1982 của Ủy ban),
16
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
và sau đó được sửa đổi và bổ sung trong Bình luận chung số 20 (thông qua tại
kỳ họp lần thứ 44 năm 1992 của Ủy ban).
Để bảo vệ cá nhân, trong đó có các phạm nhân khỏi bị tra tấn, theo
Công ước chống tra tấn, các quốc gia có những nghĩa vụ chính sau đây:
Phải thực thi các biện pháp phòng ngừa tra tấn. Khẳng định tra tấn
không thể được biện minh trong mọi hoàn cảnh (quyền được bảo vệ chống lại
tra tấn là một quyền không thể bị giới hạn), kể cả khi có chỉ đạo của cấp trên
hoặc cơ quan có thẩm quyền - Điều 2.
Cấm trục xuất các cá nhân đến một quốc gia nơi mà có bằng chứng để
cho rằng họ sẽ có nguy cơ bị tra tấn (nguyên tắc này được gọi là không trao
trả) - Điều 3.
Phải xác định tra tấn là các tội phạm trong pháp luật quốc gia và trừng
phạt thủ phạm tra tấn - Điều 4.
Phải xác lập thẩm quyền pháp lý phổ quát, truy tố hoặc dẫn độ thủ
phạm của tra tấn để truy cứu tại quốc gia khác - Điều 5.
Phải thực thi thẩm quyền pháp lý phổ quát như nêu tại Điều 5 (điều tra,
giam giữ, thẩm vấn, xét xử, coi tra tấn là loại tội phạm có thể dẫn độ) -
Điều 6 đến 8.
Phải phổ biến thông tin về cấm tra tấn, tập huấn, đào tạo cho các lực
lượng thực thi pháp luật và những người khác về lĩnh vực này - Điều 10.
Phải thường xuyên rà soát các quy định về thẩm vấn và chế độ giam
giữ nhằm chống lại tra tấn - Điều 11.
Bảo đảm điều tra nhanh chóng và khách quan các hành vi tra tấn đã
xảy ra - Điều 12.
Bảo đảm nạn nhân của tra tấn quyền có khiếu nại được giải quyết,
được bảo vệ và bồi thường - Điều 13 - 14.
Cấm sử dụng lời khai có được do tra tấn - Điều 15.
17
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Phải ngăn chặn nhân viên công quyền thực hiện hoặc đồng lõa với các
hành vi đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác - Điều 16.
Trong Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị
cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào (1988), Nguyên tắc 6 cũng đồng thời cấm tra
tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục đối với những
người bị giam hay cầm tù.
Bộ quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc (QTTCTT) mặc dù
không đề cập trực tiếp đến tra tấn, đối xử vô nhân đạo, nhưng đã nêu lên nguyên
tắc căn bản rằng bản thân việc tước tự do của phạm nhân đã tạo ra nỗi khổ đối
với họ, do đó, nhà tù không thể tùy tiện làm trầm trọng thêm tình trạng của họ
(đoạn 56).
1.2.1.2. Việc nhập trại và phân loại phạm nhân
QTTCTT quy định chi tiết về việc đăng ký. Theo đó, ở mọi nơi có người
bị phạt tù đều phải có sổ đăng ký theo dõi bắt buộc có đánh số trang và ghi chép
về mỗi tù nhân nhận vào:Thông tin liên quan đến danh tính; Nguyên nhân bắt
giữ và cơ quan có thẩm quyền bắt giữ; Ngày giờ tiếp nhận và trả tự do. Không
được phép tiếp nhận ai vào tù nếu không có lệnh bắt giam hợp pháp và các chi
tiết của lệnh bắt giam phải được ghi nhận trước vào sổ đăng ký (đoạn 7).
Phân loại phạm nhân, các loại tù nhân khác nhau phải được giam trong
các nhà tù hoặc các khu riêng biệt của nhà tù có tính đến độ tuổi, giới tính, lý
lịch phạm tội, lý do Pháp lý của việc giam giữ và những điều cần thiết trong
đối xử với họ. Bởi vậy: nam và nữ phải được giam giữ riêng càng xa càng tốt
trong các nhà tù riêng. Trong một nhà tù tiếp nhận cả nam và nữ thì khu dành
cho nữ phải hoàn toàn riêng biệt; phải tách riêng những tù nhân chưa xét xử
khỏi các tù nhân đã bị kết án; tù nhân thanh thiếu nên phải được giam tách riêng
với tù nhân là người trưởng thành (đoạn 8).
18
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
HRC, trong Bình luận chung 21, cũng đã khuyến nghị các quốc gia nên
xác định tất cả những người dưới 18 tuổi được coi là chưa thành niên trong tố
tụng hình sự. Việc đối xử phù hợp với lứa tuổi và tư cách pháp lý của người
chưa thành niên nêu ở Khoản 3 Điều 10 phải thể hiện ở những yếu tố như: điều
kiện giam giữ tốt hơn phạm nhân đã thành niên; giờ lao động ngắn hơn; được
liên lạc với người thân,... Văn kiện của Liên hợp quốc được sử dụng để làm tiêu
chuẩn đánh giá việc thực hiện và để lập báo cáo quốc gia trong vấn đề này là
Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp với
người chưa thành niên (Các quy tắc Bắc Kinh, 1985) (đoạn 5).
Liên quan đến phụ nữ, Bình luận chung số 28 của HRC, tại đoạn 15,
khẳng định nghĩa vụ chủ động của nhà nước trong trường hợp đối xử với phụ
nữ bị tước tự do, đặc biệt khi họ có thai và sinh con:
Liên quan đến các Điều 7 và 10 (ICCPR), các quốc gia cần
cung cấp tất cả thông tin liên quan để đảm bảo rằng các quyền của cá
nhân bị tước tự do phải được bảo vệ với những điều kiện bình đẳng
giữa nam và nữ. Cụ thể, các quốc gia cần báo cáo về việc cách ly
nam giới và phụ nữ trong tù, về việc phụ nữ được canh gác chỉ bởi
quản giáo nữ. Các quốc gia cũng cần báo cáo về việc tuân thủ nguyên
tắc là nam giới chưa thành niên bị kết án sẽ được cách ly với những
người lớn và sự khác biệt trong việc đối xử giữa phụ nữ và nam giới
bị tước tự do, cũng như việc tái hòa nhập hay những chương trình
giáo dục và thăm nuôi của gia đình áp dụng với họ. Phụ nữ có thai bị
tước tự do cần nhận được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm ở
mọi nơi, mọi lúc, và cụ thể là trong khi sinh và chăm sóc trẻ sơ sinh;
các quốc gia cần báo cáo về những điều kiện đảm bảo thực hiện quy
định này và về việc chăm sóc sức khỏe và y tế cho các bà mẹ và trẻ
em.
19
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Các Quy tắc đối xử đối với phạm nhân nữ cũng nhấn mạnh cần chú ý đặc
biệt đến thủ tục nhập trại của phạm nhân nữ, trẻ em (Quy tắc 2).
1.2.1.3. An toàn, trật tự an ninh
Để bảo đảm cho các phạm nhân cũng như cán bộ của cơ sở giam giữ, các
trại giam có nghĩa vụ duy trì an toàn và trật tự an ninh. Một số khía cạnh cụ thể
của việc duy trì an toàn và trật tự an ninh đã được QTTCTT đề cập đến.
Lạm dụng các dụng cụ như cùm, khóa diễn ra tương đối phổ biến tại
nhiều quốc gia. Về dụng cụ giam giữ, đoạn 33 của QTTCTT có quy định:
Không bao giờ được dùng các dụng cụ giam giữ như cũi, xiềng, xích, cùm tay
và cùm chân để trừng phạt. Hơn nữa, không được sử dụng cùm hay xích để
giam giữ. Không được dùng các dụng cụ giam giữ khác ngoại trừ những trường
hợp sau: Để đề phòng tù nhân chạy trốn khi di chuyển, nhưng chúng phải được
tháo ra khi tù nhân đến trước một cơ quan xét xử hay cơ quan quản lý,... Đoạn
34 đề ra yêu cầu về thủ tục áp dụng: Hình thức và cách thức sử dụng các dụng
cụ giam giữ phải do ban quản lý trung ương của nhà tù quyết định. Cạnh đó,
không được sử dụng những dụng cụ như vậy quá thời gian thật sự cần thiết.
Nhấn mạnh khía cạnh không được lạm dụng các biện pháp duy trì trật
tự, QTTCTT lưu ý "kỷ luật và trật tự phải được duy trì chặt chẽ nhưng không
được vượt quá giới hạn cần thiết cho việc giam giữ an toàn và cho một đời sống
cộng đồng có trật tự" (đoạn 27).
1.2.1.4. Các biện pháp kỷ luật
Giống như một xã hội thu nhỏ, các nhà tù cũng có những sự vi phạm nội
quy nội bộ, do đó, cũng cần có những chế tài, biện pháp kỷ luật nhất định. Tuy
nhiên, do sự khép kín của các cơ sở giam giữ, việc kỷ luật rất dễ bị lạm dụng, quá
khắc nghiệt đối với tù nhân. QTTCTT có quy định không được sử dụng bất cứ tù
nhân nào để phục vụ nhà tù dưới mọi hình thức kỷ luật (đoạn 28.a).
20
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Về thẩm quyền, QTTCTT quy định rằng việc xác định: a. Hành vi cấu
thành vi phạm kỷ luật; b. Hình thức và thời gian trừng phạt có thể áp dụng; c.
Cơ quan có thẩm quyền ấn định hình phạt như vậy đều phải được xác định bằng
pháp luật hoặc quy định của một cơ quan quản lý có thẩm quyền.
Về thủ tục, không tù nhân nào bị trừng phạt trừ khi người đó đã được
thông báo về vi phạm mà họ bị nghi là đã gây ra, và đã có một cơ hội thực sự
để tự bào chữa (đoạn 30).
Áp dụng các biện pháp kỷ luật vẫn phải trên nguyên tắc tôn trọng phẩm
giá con người và các quyền tuyệt đối. Đoạn 31 QTTCTT quy định: nhục hình,
hình phạt bằng cách nhốt vào buồng tối và tất cả những hình phạt độc ác, vô
nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm với tư cách là những hình phạt cho các tội vi
phạm kỷ luật phải bị cấm hoàn toàn.
Không bao giờ được áp dụng hình phạt giam kín hoặc cắt bớt khẩu phần
ăn trừ khi cán bộ y tế đã khám cho tù nhân và xác nhận bằng văn bản rằng tù
nhân đó chịu đựng được. Hàng ngày, cán bộ y tế phải thăm các tù nhân đang
chịu hình phạt như vậy và phải kiến nghị với giám đốc nếu thấy việc chất dứt
hay thay đổi hình phạt là cần thiết xuất phát từ lý do sức khỏe thể chất hay tâm
thần (đoạn 32).
1.2.2. Quyền được bảo đảm mức sống tiêu chuẩn đầy đủ (điều kiện sống)
Tuyên ngôn nhân quyền, tại Điều 25, tuyên bố quyền của mọi người được
có một mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình mình, bao gồm các khía
cạnh về ăn, mặc, nhà ở. ICESCR, tại khoản 1, Điều 11 tái khẳng định quyền
này, và đòi hỏi mọi người phải được hưởng sự không ngừng cải thiện điều kiện
sống. Khoản 2 Điều 11 này còn khẳng định quyền của mọi người không bị đói.
Dưới đây sẽ đi vào chi tiết hơn vào ba khía cạnh của quyền có một mức
sống thích đáng, hay nói cách khác là được bảo đảm điều kiện sống tối thiểu, bao
gồm: 1) Nơi ở; 2) Lương thực, thực phẩm và nước sạch; 3) Quần áo và nơi ngủ.
21
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2.2.1. Nơi ở
QTTCTT có quy định về việc nơi ở: Ở nơi nào mà chỗ ngủ là buồng hoặc
phòng cá nhân thì vào buổi tối, mỗi tù nhân phải được ở trong một buồng hay
phòng của chính người đó. Nếu vì những lý do đặc biệt, chẳng hạn như tạm thời
có quá đông tù nhân, thì việc ban quản lý trung ương của nhà tù thực hiện một
ngoại lệ đối với quy tắc này là cần thiết. Không nên có hai tù nhân trong một
phòng hay một buồng. Ở nơi nào sử dụng phòng tập thể thì tù nhân phải được
lựa chọn cẩn thận để phù hợp cho việc kết giao giữa họ với nhau trong những
điều kiện đó. Phải có sự giám sát thường xuyên vào buổi tối theo đúng bản chất
của loại nhà tù này (đoạn 9).
Mọi nơi ăn chốn ở cho tù nhân và đặc biệt là nơi ngủ phải đáp ứng được các
yêu cầu về y tế, có chú ý đúng mức đến các điều kiện khí hậu và đặc biệt là các
điều kiện về dung tích không khí, diện tích sàn tối thiểu, ánh sáng, sưởi ấm và
thông hơi (đoạn 10). Cửa sổ phải đủ lớn để tù nhân có thể đọc hoặc lao động được
dưới ánh sáng tự nhiên, phải được xây sao cho không khí trong lành có thể vào
được, dù có đường thông hơi nhân tạo hay không. Phải cung cấp đủ ánh sáng nhân
tạo để tù nhân có thể đọc và làm việc mà không hại đến thị lực. Cán bộ y tế phải
thường xuyên kiểm tra và kiến nghị giám đốc nhà tù về: Điều kiện vệ sinh, sưởi
ấm, ánh sáng và thông gió của nhà tù (đoạn 11 và 12).
1.2.2.2. Lương thực, thực phẩm và nước sạch
Trong Bình luận chung số 12 về quyền có lương thực, thực phẩm ở mức
thích đáng (Điều 11 ICESCR), Ủy ban các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (cơ
quan giám sát việc thực thi ICESCR) đã làm rõ: Quyền được hưởng lương thực,
thực phẩm thích đáng được hiện thực hóa khi tất cả mọi người, dù là nam, nữ,
người lớn hay trẻ em, một mình hay cùng với các cá nhân khác trong cộng đồng,
bất kỳ lúc nào cũng được có thể tiếp cận hoặc có đủ phương tiện để mua lương
thực, thực phẩm. Như vậy, quyền được hưởng lương thực,
22
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thực phẩm thích đáng (the right to adequate food) không thể được giải thích
theo nghĩa hẹp với nghĩa có một lượng tối thiểu về năng lượng, chất đạm và các
chất dinh dưỡng cụ thể khác,... (đoạn 6). Nội dung cốt lõi của quyền cólương
thực, thực phẩm thích đáng hàm ý nguồn cung sẵn có về lương thực, thực phẩm
cả về số lượng và chất lượng đủ thỏa mãn nhu cầu ăn uống của các cá nhân;
lương thực, thực phẩm đó không độc hại và được chấp nhận trong từng nền văn
hóa nhất định. Lương thực, thực phẩm đó được cung cấp thông qua những cách
thức bền vững và không làm ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền con
người khác (đoạn 8). Không có các chất độc hại đặt ra những yêu cầu về an
toàn lương thực, thực phẩm và các biện pháp phòng ngừa kể cả từ phía nhà
nước và tư nhân nhằm ngăn chặn khả năng gây bệnh do nạn làm giả và/hoặc vệ
sinh môi trường kém hoặc do thực hiện không đúng qui trình trong các công
đoạn khác nhau của dây chuyền sản xuất lương thực, thực phẩm; cũng cần phải
thận trọng trong việc xác định, phòng tránh hoặc loại bỏ các độc tố phát sinh
một cách tự nhiên trong lương thực, thực phẩm.
Bảo đảm Quyền về nước sạch, trong Bình luận chung số 15 của Ủy ban
các quyền kinh tế , xã hội và văn hóa về quyền có nước sạch (Điều 11 và 12
ICESCR) đã đặc biệt nhấn mạnh đến quyền tiếp cận nước của các nhóm yếu
thế: Trong khi quyền tiếp cận với nước đươc ̣áp dung̣cho tất cảmoịngười , các
quốc gia th ành viên Công ước cần dành sư ̣chúýđăc ̣biêṭđến những cá nhân
vànhóm cótruyền thống phải đối măṭvới những khókhăn trong viêc ̣hưởng thụ
quyền này, bao gồm phu ̣nữ, trẻ em, các nhóm thiểu số, các dân tộc bản địa,
người ti nạṇ, người tim̀ kiếm qui chếti nạṇ , những người mất nơi ở , người
lao động nhâp̣cư , tù nhân và nghi phạm bị tạm giam . Cụ thể, các quốc
gia thành viên cần thưc ̣hiêṇ các biện pháp đểđảm bảo rằng : Các tù nhân và
nghi phaṃ bị t ạm giam cần đươc ̣cung cấp môṭlương̣nước sạch đủ cho nhu
cầu cánhân hàng ngày theo quy đinḥ của luâṭnhân quyền quốc tếvàNhững qui
tắc tối thiểu của Liên hơp̣quốc vềđối xử với tùnhân (điểm g, đoạn 16).
23
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
QTTCTT còn đòi hỏi về sự sẵn có của nước uống cho mọi tù nhân bất
cứ khi nào họ cần và việc cung cấp thức ăn theo thời gian, hình thức phù hợp.
Cụ thể, vào những giờ thường lệ, mỗi tù nhân phải được ban quản lý nhà tù
cung cấp những thức ăn đủ dinh dưỡng để đảm bảo sức khỏe và thể lực, đủ chất
và được chuẩn bị và phục vụ chu đáo (đoạn 20).
Cán bộ y tế phải thường xuyên kiểm tra và kiến nghị giám đốc nhà tù về
số lượng, chất lượng, việc chuẩn bị và phục vụ thức ăn (điểm a, đoạn 26).
1.2.2.3. Quần áo và nơi ngủ
Về quần áo, trang phục của phạm nhân, QTTCTT quy định mỗi tù nhân
không được phép mặc quần áo của mình thì phải được cung cấp quần áo vừa
với người, phù hợp với khí hậu và đủ để giữ sức khỏe. Những quần áo này
không được thể hiện sự hạ nhục hay lăng mạ. Tất cả quần áo phải được giặt
sạch và cất giữ trong điều kiện phù hợp. Quần áo lót phải được thay và giặt
càng thường xuyên càng tốt để giữ vệ sinh. Trong những trường hợp ngoại lệ,
bất cứ khi nào một tù nhân được chuyển đi khỏi nhà tù vì lý do được phép nào
đó, người đó phải được phép mặc quần áo riêng của mình hay quần áo khác để
không ai biết mình là tù nhân (đoạn 17).
Về nơi ngủ và chăn đệm, tùy theo tiêu chuẩn quốc gia hay địa phương
mà mọi tù nhân phải được cung cấp một giường riêng, có chăn đệm riêng và
đủ dùng, đã được giặt sạch khi phát, được cất giữ tốt và thay đổi thường xuyên
nhằm bảo đảm sạch sẽ (đoạn 19).
Cán bộ y tế phải thường xuyên kiểm tra và kiến nghị giám đốc nhà tù về
sự phù hợp và sạch sẽ của quần áo và giường đệm của tù nhân (điểm a, đoạn
26)
1.2.3. Quyền về y tế
Sức khỏe có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mọi cá nhân, bao gồm
một số khía cạnh như tiếp cận dịch vụ y tế, điều kiện y tế nơi giam giữ, chăm
24
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
sóc sức khỏe các trường hợp đặc biệt, vệ sinh và luyện tập thể thao,... sẽ được
phân tích dưới đây.
1.2.3.1. Quyền của phạm nhân tiếp cận dịch vụ y tế
Mọi phạm nhân đều có quyền được khám sức khỏe và tiếp cận dịch vụ y
tế. Về điều này, QTTCTT quy định cán bộ y tế phải chăm sóc sức khỏe thể chất
và tâm thần của tù nhân và cần trông nom hàng ngày mọi tù nhân bị ốm, tất cả
những ai kêu ốm, và bất kỳ tù nhân nào mà cán bộ y tế đặc biệt thấy cần. Cán
bộ y tế phải báo cáo cho giám đốc nhà tù bất cứ khi nào người đó thấy sức khỏe
thể chất hay tâm thần của một tù nhân đã hay sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng do
tiếp tục ở tù, hoặc do bất kỳ điều kiện nào trong tù (đoạn 25).
1.2.3.2. Điều kiện y tế nơi giam giữ
QTTCTT quy định cán bộ y tế phải thường xuyên kiểm tra và kiến nghị
giám đốc nhà tù về số lượng, chất lượng, việc chuẩn bị và phục vụ thức ăn; tình
trạng vệ sinh của nhà tù và tù nhân; điều kiện vệ sinh, sưởi ấm, ánh sáng và
thông gió của nhà tù; sự phù hợp và sạch sẽ của quần áo và giường đệm của tù
nhân; theo dõi những quy định về rèn luyện thân thể và thể thao, trong các
trường hợp không có nhân viên kỹ thuật phụ trách những hoạt động này (đoạn
26).
Cán bộ y tế phải thăm và khám cho mọi tù nhân ngay sau khi họ được
nhận vào tù và sau đó khi cần thiết, với mục đích đặc biệt là để phát hiện ốm
đau về thể chất hay tâm thần và tiến hành mọi biện pháp cần thiết; để cách ly
tù nhân bị nghi ngờ là mắc bệnh truyền nhiễm hoặc dễ lây; để thông báo các sự
cố về thể chất hay tâm thần có thể cản trở việc tái hòa nhập xã hội và để xác
định khả năng lao động thể lực của mỗi tù nhân (đoạn 24).
1.2.3.3. Chăm sóc sức khỏe các trường hợp đặc biệt
QTTCTT có quy định tại mỗi nhà tù phải có ít nhất là một cán bộ y tế có
đủ trình độ, có một số kiến thức về tâm sinh lý cung cấp dịch vụ. Các dịch
25
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
vụ y tế cần được tổ chức trong mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quản lý y tế
chung của cộng đồng hay của quốc gia. Dịch vụ y tế phải bao gồm chuyên môn
tâm thần để chẩn đoán, và trong một số trường hợp thích đáng, điều trị những
trạng thái thần kinh không bình thường (điểm a, đoạn 22).
Các tù nhân bị ốm và cần được điều trị đặc biệt phải được chuyển sang
những nhà tù chuyên biệt hoặc chuyển tới các bệnh viện dân sự. Ở nhà tù nào
có tiện nghi bệnh viện, trang thiết bị và thuốc men của nhà tù đó phải đáp ứng
được yêu cầu về chăm sóc y tế và điều trị cho tù nhân bị ốm, và phải có đội ngũ
nhân viên được đào tạo thích hợp. Phải có dịch vụ của nhân viên nha khoa có
trình độ dành cho mọi tù nhân (điểm b và c, đoạn 22).
1.2.3.4. Vệ sinh
QTTCTT quy định khu vệ sinh phải thỏa đáng để mọi tù nhân có thể đáp
ứng được nhu cầu tự nhiên khi cần thiết và phải sạch, tươm tất.Phải có chỗ tắm
thỏa đáng sao cho mỗi tù nhân có thể và buộc phải tắm ở nhiệt độ phù hợp với
khí hậu, ở mức thường xuyên cần thiết cho việc giữ vệ sinh chung tùy theo mùa
và vùng địa lý, nhưng phải tắm ít nhất một tuần một lần trong điều kiện khí hậu
ôn hòa. Tất cả những bộ phận của nhà tù thường xuyên có tù nhân phải được
bảo quản thích hợp và phải luôn thật sạch sẽ (các đoạn 12, 13 và 14).
Về vệ sinh cá nhân, QTTCTT quy định các tù nhân bắt buộc phải giữ bản
thân sạch sẽ, và để thực hiện mục tiêu này, họ phải được cung cấp nước và đồ
dùng vệ sinh cần thiết để giữ gìn sức khỏe và sự sạch sẽ (đoạn 15). Để các tù
nhân có thể giữ được bề ngoài gọn gàng tương ứng với sự tự trọng của họ, phải
cung cấp cho họ những tiện nghi để chăm sóc râu và tóc một cách thích hợp, và
tù nhân nam phải được thường xuyên cạo râu (đoạn 16).
Các Quy tắc đối xử đối với phạm nhân nữ nhấn mạnh thêm nhu cầu vệ
sinh cá nhân của phụ nữ (khăn vệ sinh, nước sạch,...) (Quy tắc 5).
26
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2.3.5. Luyện tập thể thao
Về thể dục và thể thao, QTTCTT có quy định mọi tù nhân không được
lao động bên ngoài phải có ít nhất một giờ tập thể dục thích hợp ở ngoài trời
hàng ngày nếu thời tiết cho phép. Tù nhân trẻ tuổi và những người khác ở lứa
tuổi và có thể lực phù hợp phải được tập luyện thể lực và giải trí trong thời gian
tập thể dục. Các nhà tù phải có đủ không gian và trang thiết bị phục vụ mục
đích này (đoạn 21).
1.2.4. Sử dụng thời gian trong trại giam hữu ích nhất
Với tinh thần nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm con người, QTTCTT xác
định mục đích hình phạt giam giữ là nhằm mục đích bảo vệ xã hội nhằm chống
lại tội phạm, và mục đích này chỉ có thể đạt được nếu thời gian ngồi tù được sử
dụng để bảo đảm, trong khả năng lớn nhất, rằng khi người phạm tội trở về thì
họ sẵn sang, có khả năng sống theo pháp luật và nuôi sống bản thân (đoạn 58).
QTTCTT còn khuyến nghị các nhà tù phải giảm đến mức thấp nhất những khác
biệt với thế giới bên ngoài, có những bước cần thiết đế bảo đảm cho tù nhân
quay lại dần dần với đời sống xã hội (đoạn 60). Dưới đây, các khía cạnh lao
động, giáo dục, các hoạt động văn hóa, tôn giáo, chuẩn bị cho việc trả tự do,...
sẽ được phân tích sâu.
1.2.4.1. Lao động
Đoạn 71 của QTTCTT quy định lao động nhà tù không được mang tính
chất khổ sai. Mọi tù nhân đang chấp hành án đều phải lao động, tùy thuộc vào
sức khỏe thể chất và tâm thần của họ, do cán bộ y tế xác định. Trong phạm vi
cho phép, công việc được cung cấp phải nhằm duy trì hoặc làm tăng khả năng
tù nhân có thể kiếm sống một cách trung thực sau khi được thả. Phải có đào tạo
nghề trong các công việc hữu ích cho tù nhân để họ có thể kiếm sống bằng nghề
đó, đặc biệt là cho những tù nhân trẻ tuổi. Trong giới hạn phù hợp với việc chọn
lựa nghề thích hợp và với những yêu cầu về quản lý và kỷ luật nhà tù, tù nhân
phải có thể được chọn loại công việc mà họ muốn làm.
27
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Cách tổ chức và những phương pháp làm việc trong nhà tù phải càng giống
càng tốt với các công việc tương tự ngoài nhà tù, để chuẩn bị cho tù nhân những
điều kiện của cuộc sống có nghề nghiệp bình thường sau này. Tuy nhiên, những
lợi ích của tù nhân và của việc đào tạo nghề cho họ phải không được sử dụng vào
mục đích kiếm lợi cho một ngành công nghiệp trong nhà tù (đoạn 72).
Đoạn 74 đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa để đảm bảo an toàn và sức
khỏe cho người lao động tự do cũng phải được chú ý đến, với cùng mức độ như
vậy, trong nhà tù. Phải có những quy định bảo đảm cho tù nhân đề phòng tai
nạn lao động, kể cả bệnh nghề nghiệp, với những điều khoản không kém thuận
lợi hơn so với quy định pháp luật áp dụng đối với người lao động tự do.
Số giờ làm việc tối đa hàng ngày và hàng tuần của tù nhân phải được ấn
định bởi pháp luật hoặc các quy định hành chính, có tính đến quy tắc và tập quán
địa phương liên quan tới việc sử dụng lao động tự do. Với số giờ được ấn định
như vậy, phải có ít nhất một ngày nghỉ mỗi tuần và có đủ thời gian dành cho giáo
dục và những hoạt động cần thiết khác với tư cách là một phần trong việc đối xử
với tù nhân và việc tái hòa nhập xã hội của họ (đoạn 75).
Phải có một chế độ trả công thỏa đáng đối với công việc của tù nhân.
Theo chế độ đó, tù nhân phải được phép sử dụng ít nhất một phần thu nhập của
họ để mua những đồ đạc được chấp thuận để họ sử dụng riêng và để gửi một
phần thu nhập của họ cho gia đình. Chế độ đó cũng cho phép ban quản lý nhà
tù dành một phần trong thu nhập để thành lập một quỹ tiết kiệm và sẽ được trao
cho người tù khi họ được thả (đoạn 76).
1.2.4.2. Giáo dục và các hoạt động văn hóa
Về giáo dục, đoạn 77 QTTCTT có quy định Phải có quy định về việc ưu
tiên giáo dục cho tất cả những tù nhân có khả năng hưởng lợi ích từ giáo dục,
kể cả các giáo lý tín ngưỡng ở những quốc gia có thể thực hiện được điều này.
Giáo dục cho người mù chữ và tù nhân trẻ là bắt buộc và ban quản lý nhà
28
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tù phải chú ý đặc biệt đến việc này. Nếu có thể được, giáo dục cho tù nhân phải
được kết hợp với hệ thống giáo dục của quốc gia đó, sao cho sau khi được thả,
họ có thể tiếp tục việc học tập mà không gặp khó khăn.
Các hoạt động giải trí và văn hóa phải có ở mọi nhà tù để phục vụ cho
sức khỏe thể chất và tâm thần của tù nhân (đoạn 78).
Việc đọc sách và thư viện có vai trò giúp phạm nhân tự học và giải trí.
Mọi nhà tù phải có thư viện để cho mọi loại tù nhân sử dụng, có đủ sách giải
trí và sách hướng dẫn, và tù nhân phải được khuyến khích tận dụng thư viện
(đoạn 40).
1.2.4.3. Tôn giáo
Tự do tín ngưỡng và tôn giáo là những quyền dân sự thiết yếu được
UDHR, ICCPR và một số văn kiện quốc tế khác bảo vệ. Về tín ngưỡng, tôn
giáo, QTTCTT quy định tương đối cụ thể.
Nếu nhà tù có đủ số tù nhân cùng theo một tín ngưỡng thì một đại diện
đủ tư cách của tín ngưỡng đó phải được chỉ định hoặc chấp thuận. Nếu số lượng
tù nhân là thỏa đáng và nếu điều kiện cho phép thì cần thỏa thuận để người đại
diện đó làm việc toàn thời gian (điểm a, đoạn 41). Người đại diện đủ tư cách
được chỉ định hoặc chấp thuận này phải được phép tổ chức hành lễ thường
xuyên và được đi thăm tù nhân theo tín ngưỡng của người đó một cách riêng tư
vào những thời điểm thích hợp. Không được từ chối cho bất kỳ tù nhân nào tiếp
xúc với đại diện đủ tư cách của một tín ngưỡng. Mặt khác, nếu bất kỳ tù nhân
nào phản đối sự viếng thăm của bất kỳ đại diện của một tôn giáo nào thì thái độ
của tù nhân đó phải được tôn trọng hoàn toàn.
Trong chừng mực có thể thực hiện được, mọi tù nhân phải được thỏa
mãn những nhu cầu đời sống tín ngưỡng bằng việc tham gia các buổi lễ tổ chức
trong nhà tù, được sở hữu sách kinh của tôn giáo và giáo phái của người đó
(đoạn 42).
29
24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2.4.4. Chuẩn bị cho việc trả tự do
QTTCTT quy định từ khi tù nhân bắt đầu chấp hành án, phải quan tâm
tới tương lai sau khi họ được thả.Họ được khuyến khích và giúp đỡ để duy trì
và thiết lập những quan hệ như vậy với những người và tổ chức ngoài nhà tù
nếu điều đó thúc đẩy lợi ích tốt nhất của gia đình họ và sự tái hòa nhập xã hội
của riêng họ (đoạn 80).
Theo đoạn 81 QTTCTT, các dịch vụ và các tổ chức thuộc chính phủ hay
ngoài chính phủ giúp đỡ người ra tù để họ tái lập lại vị trí của mình trong xã
hội, trong chừng mực có thể và cần thiết, phải đảm bảo rằng người ra tù phải
được cấp những tài liệu thích hợp và những giấy tờ chứng minh cần thiết, phải
có nhà ở và công việc làm thích hợp, phải có đầy đủ quần áo phù hợp theo mùa
và khí hậu, phải có đủ phương tiện để đi đến nơi họ ở và duy trì cuộc sống của
bản thân trong khoảng thời gian ngay sau khi được thả. Các đại diện được chấp
nhận của những tổ chức đó phải có sự tiếp cận cần thiết với nhà tù và tù nhân,
phải bàn bạc về tương lai của tù nhân ngay từ những ngày đầu chịu án.
1.2.5. Quyền liên lạc với bên ngoài, vấn đề giam kín và biệt giam
Con người là một "động vật xã hội" có nhu cầu giao tiếp với đồng loại,
việc tước đoạt quyền giao tiếp với những người xung quanh của một cá nhân
làm tổn hại tới tinh thần, sức khỏe cũng như phẩm giá của người đó. Hơn thế,
việc gặp gỡ hay liên lạc với những người khác có ý nghĩa tạo ra sự minh bạch,
hạn chế sự vi phạm các quyền khác của cá nhân.
Trong một số vụ việc khiếu nại chống lại Urugoay, HRC kết luận rằng
việc giam cô lập không ai biết đến (incommunicado detention, tức giam kín,
không có sự liên lạc với bên ngoài, còn gọi là "giam cấm cố") trong "một vài
tháng" là cấu thành vi phạm Điều 10 (1). Thời gian ngắn nhất trong số các vụ
đó, trong vụ Arzuaga Gilboa kiện Urugoay, HRC đã kết luận rằng có vi phạm
30
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
là 15 ngày. Đến nay, chưa có khiếu nại nào đề nghị HRC đánh giá về thời hạn
giam ngắn hơn. Một vụ giam không ai biết đến trong thời gian 8 tháng đã được
Ủy ban kết luận là vi phạm Điều 7 (tra tấn, trừng phạt, đối xử tàn ác, vô nhân
đạo hoặc hạ nhục). Trong vụ Kang kiện Hàn Quốc (878/99), HRC cho rằng 13
năm biệt giam (solitary confinement, giam một mình một phòng), là "một biện
pháp mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến cá nhân, cần có sự lý giải
nghiêm túc nhất và chi tiết nhất" và đã kết luận việc này cấu thành vi phạm
Điều 10 (1). Tuy nhiên, cần chú ý là phán quyết này không nhắc gì đến Điều 7,
mặc dù thời gian biệt giam rất lâu. Điều đó là bởi đương sự không bị giam cô
lập không ai biết đến (incommunicado) và khiếu nại của đương sự chỉ dựa vào
Điều 10 (1) chứ không phải Điều 7.
Trong Nhận xét kết luận đối với Đan Mạch (năm 2000), HRC đã đề cập
đến biệt giam như sau:
12. Ủy ban đặc biệt quan tâm đến việc áp dụng biệt giam rộng
rãi đối với những người bị giam sau khi kết án, và đặc biệt đối với
những người bị tạm giam chờ xét xử hoặc tuyên án. Ủy ban cho rằng
biệt giam là một hình phạt hà khắc gây ra những hậu quả nghiêm
trọng về tinh thần và chỉ có thể biện minh trong những trường hợp
nhu cầu khẩn cấp; việc sử dụng biệt giam ngoài những trường hợp
ngoại lệ và trong thời hạn nhất định là không phù hợp với khoản 1,
Điều 10 của Công ước. Đan Mạch cần xem xét lại việc áp dụng biệt
giam và bảo đảm rằng phương thức này chỉ được áp dụng trong
những tình huống cấp thiết.
Phần lớn tính "vô nhân đạo" của biệt giam và việc giam cô lập không ai
biết đến xuất phát từ việc người bị giam không thể liên lạc với thân nhân ở bên
ngoài. Tầm quan trọng của liên lạc với gia đình và bạn bè bên ngoài được làm
rõ trong vụ Angel Estrella kiện Urugoay (mã số 74/80). Vụ việc này liên
31
26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quan đến việc kiểm duyệt thư của tù nhân, mặc dù HRC thừa nhận rằng việc áp
dụng các biện pháp giám sát và kiểm duyệt thư từ của các tù nhân là bình
thường. Tuy nhiên, HRC nhấn mạnh:
…Điều 17 của Công ước quy định rằng "không ai bị can thiệp
tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào thư tín của mình". Điều này đòi hỏi
rằng các biện pháp giám sát và kiểm duyệt đó phải đáp ứng những
bảo đảm pháp lý chống lại sự áp dụng tùy tiện,... Hơn thế, mức độ áp
dụng phải phù hợp với các tiêu chuẩn về đối xử nhận đạo đối với
người bị giam theo yêu cầu tại Điều 10 (1) của Công ước. Đặc biệt,
các tù nhân cần được cho phép liên lạc, dưới sự giám sát, với gia đình
và bạn bè của họ theo định kỳ bằng thư tín cũng như bằng các chuyến
thăm.
Tương tự, hành động từ chối việc gửi thư cho gia đình của tù nhân cũng
bị coi là vi phạm Điều 10 (1), theo như kết luận của HRC đưa ra trong vụ
Kulomin kiện Hungary (mã số 521/92).
Về tiếp xúc với thế giới bên ngoài, QTTCTT quy định tù nhân phải được
phép tiếp xúc với gia đình và bạn bè tốt của họ vào những thời gian thường lệ,
cả bằng thư từ lẫn thăm viếng, dưới sự giám sát cần thiết (đoạn 37).
Tù nhân là người nước ngoài phải được tạo điều kiện thuận lợi một cách
thỏa đáng để tiếp xúc với các đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của quốc gia của
tù nhân đó. Tù nhân là công dân của một quốc gia không có đại diện ngoại giao
hay lãnh sự ở quốc gia giam giữ và là người tỵ nạn hay người không có quốc
tịch phải được phép tiếp xúc với đại diện ngoại giao của quốc gia chịu trách
nhiệm về quyền lợi của họ hay với bất kỳ cơ quan quốc gia hay quốc tế nào có
nhiệm vụ bảo vệ những người như vậy (đoạn 38).
Tù nhân phải thường xuyên được biết những tin tức quan trọng thông
qua việc đọc báo, tạp chí định kỳ hay những ấn phẩm đặc biệt của nhà tù,
32
27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thông qua nghe đài, diễn thuyết hay bất kỳ biện pháp tương tự nào do ban
quản lý nhà tù cho phép và kiểm soát (đoạn 39).
1.3. Bảo đảm quyền của phạm nhân ở một số nước trên thế giới
1.3.1. Bảo đảm quyền của phạm nhân ở Nhật Bản
Ở Nhật Bản, thi hành hình phạt ở dạng tước quyền tự do được điều chỉnh
bằng Luật về nhà tù năm 1908. Ngoài ra có nhiều bổ sung đáng kể cho Luật
này được ban hành vào năm 1933 bằng một sắc lệnh của Bộ trưởng về giáo dục
tiến bộ trong các cơ quan chấp hành hình phạt. Sau gần 20 năm nghiên cứu về
vấn đề cải cách, đến năm 1976 Bộ Tư pháp mới soạn thảo xong
dự thảo những cơ sở cải cách Luật về nhà tù. Dự thảo này đã ghi nhận trong
pháp luật quyền và nghĩa vụ của tù nhân [48, tr.216-221].
Trong quá trình cải tạo những người đang bị giam giữ trong các cơ quan
chấp hành hình phạt người ta áp dụng rất nhiều những biện pháp khác nhau.
Theo quy định, việc tự do di chuyển của tù nhân trong các trại cải tạo bị hạn
chế. Tuy nhiên pháp luật Nhật Bản hiện hành không giải thích sự hạn chế đó
đến mức nào về những quyền gì của tù nhân bị tước đoạt. Và vì thế trong quá
trình đối xử với tù nhân và việc xử phạt kỳ luật tù nhân được thực hiện vô hạn
độ. Tình trạng đó đã bị các nhà khoa học pháp lý phê phán kịch liệt, vì sự phê
phán đó mà trong các dự án Luật về các cơ quan hình sự cũng điều chỉnh cả chế
định quyền con người, chỉ rõ những quyền mà tù nhân phải có như: Quyền mua
sắm quần áo cho mình, mua thức ăn, các đồ nhu yếu phẩm,...
Chế độ giam giữ: Người ta tiến hành phân loại tù nhân theo lai lịch tội
phạm, theo thời gian của hình phạt, tình trạng sức khỏe và các đặc điểm cá nhân
khác.
Chế độ lao động: Ở Nhật Bản lao động chân tay chiếm vị trí có bản trong
giáo dục cải tạo phạm nhân. Họ cho rằng sử dụng lao động chân tay trong nhà tù
là nhằm thay đổi thói quen sống ăn bám ở ngoài xã hội của phạm nhân,
33
28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hình thành sự tôn trong lao động và giáo dục nghề nghiệp cho họ. Trên cơ sở
đó, tù nhân được bảo đảm ngày làm việc tám giờ và tuần làm việc 44 giờ, có sự
kiểm tra giám sát về an toàn lao động. Tuy nhiên, Ở Nhật Bản không trả công
cho lao động trong tù, tù nhân được hưởng một khoản tối thiểu.
Chế độ miễn giảm hình phạt trước thời hạn: Luật xem xét chế định tha
miễn thi hành hình phạt hoàn toàn cho những người đã hối cải và chấp hành
hình phạt được 1/3 thời gian trong trường hợp tù có thời hạn và hơn 10 năm
trong trường hợp hình phạt tù chung thân.
Chế độ "tiếp xúc mở": Để giúp cho tù nhân tái hòa nhập cộng đồng và
giữ mối quan hệ với thế giới xung quanh, động viên người đó tự cải tạo. Ở Nhật
người ta hệ thống "giao tiếp tự do" hay "tiếp xúc mở", đó là hệ thống giao tiếp
đối xử với phạm nhân trong đó phạm nhân được bố trí trong nhà tù "mở" nơi
không có hàng rào, lính gác, các phương tiện phòng chống trốn trại. Công tác
giáo dục và cải tạo được thực hiện trong một điều kiện tương đối tự do. Và để
thực hiện hệ thống đó người ta áp dụng nhiều ở dạng đưa người đang cải tạo
vào lao động nông nghiệp ngoài khu vực trại cải tạo. Hiện tại, hệ thống tiếp xúc
mở chủ yếu áp dụng cho những phạm nhân vị tước quyền tự do các tội phạm
về giao thông.
1.3.2. Bảo vệ quyền của phạm nhân ở Hoa Kỳ
Mỹ hệ thống trại giam liên bang được quản lý bởi Cục trại giam Liên
bang (Federal Bureau of Prisons - FBP), cơ quan này được thành lập vào năm
1930 nhằm mục đích quản lý 12 trại giam liên bang vào lúc đó. Đến nay, Cục
điều hành 116 cơ sở giam giữ, 6 văn phòng khu vực, quản lý hơn 200.000 phạm
nhân. Cục hiện nay có khoảng gần 40.000 nhân viên, bao gồm đội ngũ bảo đảm
an ninh và cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục cho phạm nhân.
Các quyền của phạm nhân tại Mỹ được bảo đảm bởi Hiến pháp và các
đạo luật. Mặc dù phạm nhân không có toàn bộ các quyền hiến định. Nhưng
34
29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
một số quyền cơ bản được bảo đảm bởi Hiến pháp, chẳng hạn như: quyền không
bị trừng phạt tàn ác và vô nhân đạo (quy định tại tu chính án số 8). Những quy
định này bảo đảm cho phạm nhân có được một mức sống tối thiểu. Cạnh đó,
phạm nhân còn có những quyền khác như quyền: khiếu nại hành chính, quyền
đối xử bình đẳng. Luật mẫu về kết án và cải tạo quy định rằng người bị giam
giữ được bảo vệ khỏi sự kỳ thị trên cơ sở chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, giới
tính. Phạm nhân cũng có các quyền về ngôn luận và tôn giáo ở mức độ giới hạn
nhất định.
Ở phạm vi liên bang còn có một số đạo luật bảo vệ quyền của phạm nhân.
Luật về các quyền dân sự của những người bị giam giữ (The Civil Right
of Insitutionalized Person Act - CRIPA, 42. U.S.C 1997) ủy quyền cho Tổng
trưởng lý tiến hành điều tra và truy tố các vụ việc liên quan đến điều kiện giam
giữ tại các tiểu bang hoặc các cơ sở giam giữ tại địa phương khác (không bao
gồm các cơ sở tư nhân), xác minh xem có sự vi phạm các quyền cơ bản của
phạm nhân hay không. Luật về cải cách khiếu kiện trong trại giam (Prison
Litigation Refom Act), được Tổng thống Bill Clinton ký ban hành vào ngày 26
tháng 4 năm 1996, là một đạo luật rất chi tiết, có những quy định về thủ tục để
phạm nhân có thể khiếu kiện.
1.3.3. Bảo vệ quyền của phạm nhân ở Cộng hòa Liên Bang Đức
Cộng hòa Liên bang Đức có đạo luật riêng về thi hành hình phạt tù, với
tên gọi Luật về thi hành hình phạt tù và các biện pháp tái hòa nhập và phòng
ngừa liên quan đến việc tước tự do (Luật về nhà tù). Đạo luật này có các quy
định chi tiết liên quan đến các lĩnh vực như: nơi ở, lương thực, việc thăm gặp,
thư tín, việc rời khỏi nhà tù trong các trường hợp đặc biệt, học nghề, thực hành
tôn giáo, dịch vụ y tế, hoạt động giải trí, các biện pháp kỷ luật và trật tự. Đạo
luật này còn có các quy định riêng đối với tù nhân nữ, chẳng hạn liên quan đến
trường hợp mang thai và sinh đẻ.
35
30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Điều đặc biệt là, mặc dù được điều chỉnh bởi luật liên bang, hệ thống nhà
tù của Đức được điều hành bởi các tiểu bang. Các cơ quan điều hành trại
giam,nằm trong bộ tư pháp của các tiểu bang, có thẩm quyền về tổ chức hệ
thống trại giam, chịu trách nhiệm về ngân sách, đào tạo nhân sự, cải tạo phạm
nhân. Các cơ quan này còn có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực
hiện việc thanh tra các trại giam. Như vậy, mối quan hệ trực tiếp, không có cơ
quan trung gian giữa Bộ Tư pháp và các trại giam khiến cho việc đưa ra các
quyết định nhanh chóng và cơ quan quản lý (cấp bộ) gần với các trại giam.
Liên quan đến chống tra tấn, Bộ luật Hình sự Đức đến gần đây vẫn chưa
có một định nghĩa toàn diện về tra tấn. Hành vi có thể đến mức tra tấn có thể bị
truy tố về tội tra tấn có thể bị truy tố về tội cưỡng ép (Điều 240), hoặc gây tổn
hại đến sức khỏe bởi công chức (Điều 340) và ép cung/cưỡng ép lấy lời khai
(Điều 343). Cạnh đó, vào năm 2002, Luật về các tội phạm vi phạm luật quốc tế
(Code of Crimes against International Law - CCIL) đã quy định các tội phạm
cụ thể liên quan đến tra tấn vi phạm luật quốc tế được pháp điển hóa trong Quy
chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế. Bao gồm các tội tra tấn trong hoàn cảnh
diệt chủng (Mục 6 (1), số 2, CCIL), tra tấn như là một tội phạm chiến tranh
trong bối cảnh xung đột vũ trang (Mục 8 (1), số 3, CCIL) và tra tấn như là một
tội ác chống nhân loại trong bối cảnh tấn công thường dân (Mục 7 (1), số 5,
CCIL). Tuy nhiên, CCIL lại không áp dụng ngoài các bối cảnh trên đây, do đó
các hành vi tra tấn chỉ bị xử lý như các dạng xâm phạm, tổn hại đến thân thể
[53].
1.3.4. Bảo vệ quyền của phạm nhân ở Anh
Tại Anh, hệ thống nhà tù được quản lý bởi Cơ quan nhà tù Hoàng gia
(Her Majesty’s Prison Service), đặt dưới sự điều hành của Cơ quan quản lý tội
phạm quốc gia (National Offender Management Service) - một cơ quan thuộc
Chính phủ. Cơ quan nhà tù Hoàng gia quản lý hầu hết các nhà tù tại Anh và
36
31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
xứ Wales, trong khi tại Scotland và Bắc Ireland có hệ thống cơ quan quản lý
nhà tù riêng. Tổng Giám đốc của Cơ quan quản lý tội phạm quốc gia là người
điều hành cao nhất của hệ thống trại giam. Tổng Giám đốc chịu trách nhiệm
báo cáo trước Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Mục đích của Cơ quan nhà tù Hoàng gia
được nêu là hướng đến việc "phục vụ cộng đồng bằng việc giam giữ những
người đã bị tòa án kết tội; chăm sóc họ với lòng nhân ái và giúp họ có cuộc
sống tuân thủ pháp luật và hữu ích trong thời gian bị giam giữ và sau khi được
thả". Năm 2009 hệ thống nhà tù tại Anh có 131 trại giam (bao gồm 11 trại giam
tư nhân).Đến cuối năm 2010 hệ thống trại giam có khoảng 90.000 phạm nhân.
Các quyền của phạm nhân hiện được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật trại
giam (Prison Act, 1952) và Các quy tắc Trại giam (Prison Rules, 1999). Hai
văn kiện này, dù tương đối ngắn gọn, bên cạnh việc quy định tổ chức, chế độ
quản lý, điều hành, một số tội phạm liên quan, đã liệt kê một số quyền căn bản
của phạm nhân và nêu một số quyền tuyệt đối (như an toàn về thân thể,...)
[55]. Ngoài ra, việc phân loại hình phạt, phạm nhân còn phải căn cứ vào Luật
tư pháp hình sự (Criminal Justice Act, 2003) (thay thế cho Luật tư pháp hình sự
năm 1991).
Cạnh đó, Luật nhân quyền (1998, có hiệu lực từ 1/10/2000) có giá trị
quan trọng hàng đầu trong việc bảo vệ các quyền con người tại Anh quốc.Về
nội dung, đạo luật này dẫn chiếu đến và coi Công ước nhân quyền châu Âu
(ECHR, 1950) có thể áp dụng trực tiếp. Điều 3 của ECHR quy định không ai
phải chịu tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác hoặc vô nhân đạo. Quy định cấm
này có tính cách tuyệt đối. Tòa án của Anh trong vụ việc Chahal (Chahal v
United Kingdom - App.22414/93, phán quyết vào ngày 15/11/1996) đã tái
khẳng định tính chất tuyệt đối của cấm tra tấn.