Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn Du
1. QUAN HỌ BẮC NINH VÀ TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
Trương Sỹ Hùng
Trong dân ca quan họ Bắc Ninh có rất nhiều bài hát do các Nho sĩ bình dân
sáng tác rồi dân gian hóa, hoặc được các tác giả có học thức tu bổ, hiệu
chỉnh lời ca dân gian nên có nhiều điển tích biểu hiện tri thức thâm thúy.
Nguyễn Du ở lứa tuổi trưởng thành là một chàng trai tầm thước, thanh lịch có
duyên thầm. Trong nhiều lần cùng mẹ đẻ Trần Thị Tần về thăm quê ngoại, anh
không thể không lay động trước những lời ca tâm tình nơi thôn dã, nhất là bản
thân mình sớm phải trải qua đau thương mất mát...và lẽ sống thường nhật lại dồn
nén, gợi mở, lôi kéo anh vào cuộc sống lễ hội dân gian:
Nay mừng dân mở tiệc quỳnh
Lễ bày tiên thánh, lễ nghinh xướng tùy.
Đôi tôi thực đấng nam nhi
Bây giờ tôi chúc một khi thọ trường
Mừng người thọ khảo vô cương
Bình an dân sự, ấm yên cửa nhà...(1)
Đặc biệt, trong dân ca quan họ Bắc Ninh có rất nhiều bài hát do các Nho sĩ
bình dân sáng tác rồi dân gian hóa, hoặc được các tác giả có học thức tu bổ, hiệu
chỉnh lời ca dân gian nên có nhiều điển tích biểu hiện tri thức thâm thúy:
Lâm Truy chút ngãi đèo bòng
Hỏi người còn nhớ hay lòng đã quên
Chữ chung tình gánh nặng đôi bên
1
2. Dưới dòng nước chảy, đôi bên có cầu
Có lòng hạ cố đến nhau
Thầm trông trộm nhớ đến nhau đã nhiều.
Những là đắp nhớ dội sầu
Tuyết sương nhuộm nửa mái đầu hoa râm.
Ngày thì luống những âm thầm
Đêm nằm ít cũng tám, chín, mười lần...chiêm bao.
Giả thiết rằng lời ca trên đã ổn định nội dung phản ánh từ trước khi Nguyễn
Du sáng tác truyện Kiều, với câu cuối là lục bát biến thể thì rõ ràng là tác giả dân
gian đã biết đến câu chuyện trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân.
Sau này trong Truyện Kiều, đoạn nói về Thúy Kiều bị bọn Khuyển, Ưng theo
lệnh Hoạn Thư đốt nhà, lừa đẩy xác người vô chủ vào nơi ở của Thúy Kiều, vu
tin nàng Kiều đã chết cháy cho Thúc Sinh biết, rồi ngầm bắt Thúy Kiều về hành
hạ Nguyễn Du có vết:
Cửa người đày đọa chút thân
Sớm lăn nỉ bóng, đêm ân hận lòng.
Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế này
Lâm Truy từ thuở uyên bay
Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân
(Câu 1783 - 1792)
Và đến đoạn nhờ ân uy Từ Hải, Thúy Kiều báo ân báo oán
Khi Vô Tích khi Lâm Truy
Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng
Chút còn ân oán đôi dường chưa xong.
Từ công nghe nói thủy chung
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng
2
3. Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy.
(Câu 2291 - 2300)
Những bài ca quan họ day dứt nỗi niềm tâm sự của một người con gái nông
thôn vùng trung du Bắc Bộ:
Cầu Ô chín thước vật thường
Tìm nơi kiếm chốn, tìm đường giả ơn.
Mưa sầu gió thảm từng cơn
Lấy ai chắc phận thờn bơn mọi bề.
Lấy ai giải tấm lòng quê
Lấy ai đội đức từ bi chuyên cần.
Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần
Chạnh niềm tưởng nhớ Châu Trần thuở xưa
Dãi dầu kể mấy nắng mưa
Thề sai, nguyệt lặn bấy giờ cậy đâu?
Xem chiều khác mặt thêm sầu
Chim kia đón gió, rồng chầu đợi mưa.
Truyện cổ dân gian Kinh Bắc kể về mối tình Trương Chi - Mị Nương, đôi
trai gái yêu nhau tha thiết, nhưng bị lễ giáo ngăn trở hai người không lấy được
nhau như lời hẹn ước. Cô gái chết, hiện hình vào cốc nước hàng ngày quấn quýt
với người yêu. Ca dao vùng đất cổ Bắc Ninh đã tạc vào bia miệng:
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thật xấu hát thì thật hay
Thì trong truyên Kiều khi phải bán mình chuộc cha, Thúy Kiều có lời nhờ
Thúy Vân thay mình giữ lời thề nguyền nguyện ước với Kim Trọng:
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
(Câu 705-710)
3
4. Trở lên đoạn đầu trong truyện Kiều, khi Nguyễn Du miêu tả chị em Thúy
Kiều - Thúy Vân đi tảo mộ nhân dịp tiết Thanh Minh, lúc ra về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối gềnh bắc ngang (2)
(Câu 51 - 56)
Tìm trong kho tàng vốn cổ lời ca quan họ Bắc Ninh, thấy có bài hát giọng bỉ
ở Bồ Sơn xưa:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ câu quan họ nhớ lời ca nay.
Tà tà bóng ngả về tây
Ai ơi có thấu thảm này cho không?
Trót qua sông tôi phải lụy thuyền
Bởi chưng trời tối nhân duyên hững hờ
Năm 1786, nghĩa quân Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà. Năm 1789
Nguyễn Huệ đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh đang xâm lược Đại Việt.
Nguyễn Du chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp. Đoàn
Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này mặc dù vợ
đã mất, Nguyễn Du lại về ở quê ngoại Thái Bình một thời gian nữa. Tháng mười
năm 1791 anh thứ tư cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh bị giết
do chống quân Tây Sơn. Dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị quận Tây
Sơn phá hủy. Hai năm sau (1793), Nguyễn Du về thăm quê cha đất tổ Tiên Điền.
rồi vào kinh đô Phú Xuân thăm anh trai là Nguyễn Đề và anh vợ là Đoàn Nguyễn
Tuấn đang làm quan thái sử ở viện cơ mật. Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề
được thăng Tả phụng nghi bộ Binh, giữ chức Hiệp tán nhung vụ tại Quy Nhơn.
Năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long,
năm 1796 về nước được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Cuối năm 1796 Nguyễn Du định tâm lẻn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, bị
Quận công Nguyễn Thận phát hiện và bắt giam ở Nghệ An ba tháng. Khi được
tha Nguyễn Du về ở Tiên Điền trên dưới 5 năm. Năm 1802 Gia Long diệt nhà
Tây Sơn, Nguyễn Du được bổ chức làm quan tri huyện Phù Dung, phủ Khoái
Châu, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau Nguyễn Du
được thăng chức tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).
Năm 1803 Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan đón tiếp sứ nhà Thanh sang
4
5. phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805 Nguyễn Du được thăng Đông các đại
học sĩ, tước Du Đức hầu tại Phú Xuân. Năm 1807 Nguyễn Du được cử làm giám
khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 Nguyễn Du xin nghỉ việc
về quê. Năm 1809 Gia Long lại triệu Nguyễn Du, bổ chức cai bạ Quảng Bình.
Năm 1813 Nguyễn Du được thăng Cần chánh điện đại học sĩ và được cử làm
chánh sứ, trong đoàn đi sứ nhà Thanh. Về nước năm 1814 Nguyễn Du được
thăng chức Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1816 anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên
quan đến vụ án cha con tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng
Nam.
Năm 1820 Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được
cử đi làm chánh sứ trong đoàn đi sứ nhà Thanh, đi báo tang và cầu phong. Được
vua cha và vua con tín nhiệm, tiến cử, nhưng chuyến đi chưa kịp khởi hành,
Nguyễn Du đã không gượng được với bệnh dịch, qua đời ngày mồng 10 tháng
8 năm Canh Thìn (tức ngày 16 tháng 9 năm 1820), hưởng thọ 54 tuổi. Thi hài
Nguyễn Du được hung táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1824 di cốt của Nguyễn Du được cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).
Có thể thấy tư tưởng trung quân ái quốc, giá trị phản ánh hiện thực đa dạng,
phong phú biểu hiện khá rõ trong hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Du. Mặt khác
do bản thân sinh trưởng trước tuổi 40 ở đất Bắc - chủ yếu là Thăng Long, Bắc
Ninh và Thái Bình xưa nên mọi hướng phát triển tư duy, đào tạo cơ bản theo
chương trình Nho giáo "chuẩn kinh đô"- Thăng Long và Bắc Ninh - một vùng
trung du- đồng bằng Bắc Bộ có bề dầy truyền thống. Và văn hóa một vùng biệt
lập là ruộng đồng "thẳng cánh cò bay với hai loại biển, biển Đông và biển lúa" đã
góp phần tạo nên một nhân cách văn hóa lớn trong người con ưu tú của miền
Trung máu lửa. Với học vị ở bậc "tam trường" - tương đương với 12/12 hiện nay;
nhưng Nguyễn Du đã sống và thể hiện khá rõ tâm tình, chi hướng yêu nước
thương dân. Hoài niệm với nhà Lê, không ra mặt, nhưng bất hợp tác với phong
trào nông dân Tây Sơn, Nguyễn Du vẫn một niềm tìm cơ hội góp phần trị nước
an dân, chấp nhận làm quan cho nhà Nguyễn, mong sao có được một xã hội "thái
bình thịnh trị". Từ năm 1796, Nguyễn Du quyết đi theo tiếng gọi thống nhất đất
nước của nhà Nguyễn, và từ năm 1802, Nguyễn Du thỏa nguyện ý mình, song
dường như ông vẫn đang băn khoăn suy tưởng điều gì chưa nói được, chưa làm
được. Tầm nhìn sâu rộng, nỗi cảm thông sâu sắc với đời sống lao động cực nhọc
của các tầng lớp nhân dân ntrong sáng tác truyện Kiều và Văn chiêu hồn; trong
thơ chữ Hán đều in đậm dấu ấn văn hóa, tri thức khoa học của khắp các miền quê
đất nước. Ở đó nếp sống văn hóa chuẩn mực Thăng Long, Kinh Bắc vẫn chiếm
phần vượt trội. Vai trò chuyển tải, truyền dạy từ lời ru của mẹ, đến nhiều nhiều
lần "thực địa tự nhiên"quê hương Bắc Ninh từ khi bập bẹ tập nói, tập cười...cùng
với những tình cảm ruột thịt, cùng với nhà Nho, anh rể Vũ Trinh... đều góp lại
trong tâm tưởng Nguyễn Du lúc bình sinh.
5
6. Chính sử Đại Nam thực lục đã chép về Nguyễn Du: "Du là người Nghệ An,
học rộng giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra
mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì."(3)
Đại Nam liệt truyện chép tiểu truyện các
danh thần, vương gia, quan chức thời Nguyễn lại đánh giá: "Du là người ngạo
nghễ tự phụ, mà bề ngoài tõ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không
nói được.(4)
Không nói và "nhút nhát" đã là bản chất của những bậc thiên tài,
nhưng với Nguyễn Du thì những điều thâm thúy tiềm ẩn trong hầu hết các tác
phẩm Hán Nôm đã chinh phục biết bao thế hệ, biết bao tộc người, biết bao tầng
lớp nhân dân lao động khiến ông còn sống mãi với lịch sử nhân loại; nhân loại đã
và đang tìm đến với Hà Nội, với Việt Nam để làm ăn và xây dựng; đến với Bắc
Ninh với xứ sở của dân ca quan họ, của đình, chùa, lễ hội, của những danh nhân
Kinh Bắc ngay từ thuở bình minh dựng nước.
(1) Dân ca quan họ Bắc Ninh, Nxb. Văn hóa, H, 1962
(2) Tất cả những câu trích truyện Kiều trong bài đều theo bản phiên âm, hiệu chú
của Bùi Kỷ- Trần Trọng Kim, Nxb, Tân Việt, H, 1952
(3) Đại Nam thực lục,Nxb. Giáo dục, H, 2007 - 2009
(4) Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2001
6
7. Chính sử Đại Nam thực lục đã chép về Nguyễn Du: "Du là người Nghệ An,
học rộng giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra
mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì."(3)
Đại Nam liệt truyện chép tiểu truyện các
danh thần, vương gia, quan chức thời Nguyễn lại đánh giá: "Du là người ngạo
nghễ tự phụ, mà bề ngoài tõ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không
nói được.(4)
Không nói và "nhút nhát" đã là bản chất của những bậc thiên tài,
nhưng với Nguyễn Du thì những điều thâm thúy tiềm ẩn trong hầu hết các tác
phẩm Hán Nôm đã chinh phục biết bao thế hệ, biết bao tộc người, biết bao tầng
lớp nhân dân lao động khiến ông còn sống mãi với lịch sử nhân loại; nhân loại đã
và đang tìm đến với Hà Nội, với Việt Nam để làm ăn và xây dựng; đến với Bắc
Ninh với xứ sở của dân ca quan họ, của đình, chùa, lễ hội, của những danh nhân
Kinh Bắc ngay từ thuở bình minh dựng nước.
(1) Dân ca quan họ Bắc Ninh, Nxb. Văn hóa, H, 1962
(2) Tất cả những câu trích truyện Kiều trong bài đều theo bản phiên âm, hiệu chú
của Bùi Kỷ- Trần Trọng Kim, Nxb, Tân Việt, H, 1952
(3) Đại Nam thực lục,Nxb. Giáo dục, H, 2007 - 2009
(4) Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2001
6