Lich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdf
BINH BỘ THƯỢNG THƯ HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SỸ ĐOÀN VĂN PHÚ
1. CUỘC ĐỜI
&
SỰ NGHIỆP
CỐ:
ĐOÀN VĂN PHÚ
1800 - 1840
TP. Hồ Chí Minh – Mùa Thu Ất Hợi Năm 1995
2. Hoàng Triều Sắc Tặng
Hiền Lương Từ
Đường Quan Binh Bộ Thượng Thư
Sung Hiệp Biện Đại Học Sĩ
Cáo Thọ Vinh Lộc Đại Phu
ĐOÀN CÔNG
HÚY: VĂN PHÚ
THỤY: VĂN Ý
CHI TÒA VỊ
Chú giải: Theo Hội Điển Sự Lệ Nguyễn Triều, Binh Bộ Thượng
Thư Thuộc Đường Quan Tùng Nhất Phẩm Văn Giai – Tên Thụy
Được Quy Định Là VĂN Ý
Thầy Trụ Trì Chùa Hải Quan sưu tầm và viết qua Hán tự -
Vào ngày 22 tháng 08 năm 1995
3.
4. ĐOÀN VĂN PHÚ
SẮC TẶNG
BINH BỘ THƯỢNG THƯ
HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SĨ
CÁO THỤ VINH LỘC ĐẠI PHU
TÊN THỤY LÀ VĂN Ý
LIỆT THỜ HIỀN LƯƠNG TỪ
5. CỐ: ĐOÀN VĂN PHÚ
Sinh năm 1800 – Canh Thân tại Làng Sơn Tùng,
Quảng Điền, Thừa Thiên – xuất thân Lại điển.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ Trấn Tây Tướng
Quân, Ông Trương Minh Giảng Binh Bộ Thượng Thư
từ kinh đô Huế vào thay Ông. Ông từ bản doanh
Trấn Tây Thành ở Long Xuyên về lại Tổng Đốc Vĩnh
Long – Định Tường rồi thọ bệnh mất ngày 11 tháng
06 năm 1840 (Canh Tý) năm Minh Mạng thứ 21. Linh
cửu (Quan tài) từ Nam Bộ đưa về Điện Thái Hòa làm
lễ rồi đưa về Làng an táng tại xứ Cồn Xơn – Làng
Sơn Tùng.
Mộ Ông từ xưa đến nay thường được gọi là mộ
Quan lớn.
Hàng năm Kỵ vào ngày 11 tháng 06 Âm Lịch.
6.
7.
8. CUỘC ĐỜI
&
SỰ NGHIỆP
CỐ:
ĐOÀN VĂN PHÚ
1800 - 1840
9. Cố Đoàn Văn Phú sinh năm 1800 (Canh Thân) tại Làng
Sơn Tùng, Huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Ông xuất thân từ Lại
điển, thân phụ ông là Đoàn Văn Tê, ông nội là Đoàn Quang Anh –
nguyên là Hộ Bộ Thượng Thư đời Vua Lê Cảnh Hưng. Ngài Tằng
Tổ là ông Đoàn Nhơn Thọ cùng với ông Đoàn Phúc Hòa hai người
đồng Tộc họ Đoàn đã kết nghĩa anh em ruột thịt (Họ Đoàn Nhơn
vai anh, Họ Đoàn Phúc vai em), cùng tu hành ở chùa cổ Sơn Tùng
– chùa cổ được trùng tu lại năm 1754 và năm 1756 được Chúa Võ
Vương Nguyễn Phúc Khoát đến thăm đã ban tặng năm chữ cho
Chùa Làng là: “Sắc Tứ Sơn Tùng Tự” và bốn câu đối:
1 – “Thủy Tú Sơn Minh Hải Quốc Vô Song Nguyên Phước Địa
Trùng Hưng Cổ Tự Nam Thiên Đệ Nhất Thị Sơn Tùng”
Dịch nghĩa:
Núi sông tốt đẹp, đất nước trong Hải quốc này không nơi nào sánh kịp.
Chùa xưa tu bổ lại, Sơn Tùng là cảnh thứ nhất của trời Nam.
2 - “Pháp Vũ Tôn Phân Song Thọ Chi Đầu Liên Bối Diệp
Hương Vân Liệu Nhiễu Đàm Hoa Anh Lý Hiện Kim Dung”
Dịch nghĩa:
Mưa pháp rộn ràng đầu cành song thọ liền với cây bối diệp
Mây lành phất phưởng bông hoa ưu đàm xuất hiện kim dung.
3 –“Vạn Tượng Quang Trung Nhất Điểm Linh Quang Triêm Hóa Nhật
Bách Hoa Nhị Nội Sở Chi Hàm Nhị Báo Xuân Minh”
Dịch nghĩa:
Giữa muôn trượng quang minh gợi một điểm linh quang của vừng hóa nhật.
Trong trăm hoa nở nhị, có vài cành hàm nhị đón cảnh dương xuân.
4 – “Mai Ngọc Điện Xuân Phong Độc Ái Thanh Hương Cung Phật Tọa.
Đào Hoa Khai Lệ Nhật Dĩ Lai Thể Sắc Ảnh Thiền Cung”
Dịch nghĩa:
Hoa mai quyến rũ gió xuân, án Phật mùi hương ngào ngạt đến
Bông đào tươi cười bóng nhật, cung Thiền cảnh đẹp lửng lơ đưa.
10. Đến đời Vua Minh Mạng chuẩn cho Tham Tri Công Bộ Đoàn
Văn Phú xây Tam Quan chùa Làng để tăng vẻ tôn nghiêm chùa cổ
“Sắc Tứ Sơn Tùng Tự” và tưởng thưởng công lao tận tụy xứng
đáng của Công thần Đoàn Văn Phú.
Năm 1840 Minh Mạng mất, Thiệu Trị con trưởng của Minh
Mạng lên ngôi. Năm 1842 vua Thiệu Trị về thăm chùa đã ban “Sắc
chế long trào” bằng the vàng bao bọc hộp quý để vào chùa, để
truyền thắng tích.
Địa linh nguyên phước địa này và chùa cổ Sơn Tùng có
nhiều quan hệ với các Chúa Nguyễn ở Đàng trong.
Sau hậu liêu chùa cổ có bàn thờ tám Họ và các bậc tiền nhân
có công với Nước với Làng và mỗi khi tế Đình làng đọc lên văn tế
nghe thấy họ tên nhiều vị có nhiều công lao đóng góp cho đất
nước, cho làng mà kính trọng thiêng liêng.
Sơn Tùng quả là địa linh sinh nhân kiệt.
Về học vấn của Cố Đoàn Văn Phú gia phả không còn, trong
sử sách đọc không thấy ghi, chỉ nói ông xuất thân từ Lại điển. Năm
Gia Long thứ 17 ông giữ chức Lệ Tùng Thư Ký Công Bộ 3 năm.
Minh Mạng năm đầu ông giữ chức Chủ Sự Lang Trung Công
Bộ được phái đi công cán đặc biệt Trấn nhậm Đăng Xương Huyện
– Chi Tả Biên sự vụ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được vinh
thăng Binh Bộ Thượng Thư – Đại Học Sĩ. (Gia phả ghi).
Lại được phái đi nghiên cứu các thành quách ở phía Bắc
như: Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An mà đặc biệt là
Thăng Long thành, Cổ Loa thành để chuẩn bị kế hoạch cho việc
xây dựng đại công trình Điện Thái Hòa là nơi thiết triều, cửa Đại
Cung, cửa Ngọ Môn, lầu Ngọc Điệp, cổng Kỷ Niệm ở núi Hoành
Sơn - Đèo Ngang theo sắc dụ của Vua Minh Mạng.
11. Sau 14 năm tận tụy mẫn cán, ông được Vua Minh Mạng giao
giữ chức Tả Lang Trung Bộ Công và giữ Ấn triện Bộ Công. Năm
Minh Mạng thứ 14 tức là năm 1833 thực hiện xây dựng Đại công
trình nói trên, ông được Vua Minh Mạng giao làm Tham Biện Bộ
Công trong Ban xây dựng, kiêm chức Đổng lý điều hành xây dựng
cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn, lầu Ngọc Điệp, Điện Thái Hòa, nhà
Tả Vu, Hữu Vu,…cổng Kỷ Niệm ở núi Hoành Sơn. Đây là một
công trình lịch sử văn hóa rực rỡ, nằm trong Hoàng Thành cố đô
cuối cùng của chế độ phong kiến nước Việt Nam được tổ chức
Unesco của Liên hợp quốc đánh giá rất cao và là một trong những
di sản văn hóa không những của Việt Nam mà là của Thế giới
đang được Unesco tài trợ, phục chế, sửa sang để bảo tồn di tích
cổ kính đã được tượng hình bằng trí tuệ, tiền của, bằng công sức
lao động của người xưa, thật vô giá!
Việc bảo tồn di sản văn hóa còn là tưởng lệ đến công ơn của
tiền nhân, rõ ràng di sản văn hóa này rất có lợi trực tiếp và lâu dài
cho Thừa Thiên Huế. Đại công trình được làm khẩn trương trong
hai năm rưỡi bắt đầu từ năm 1833 đến nữa năm 1835 thì hoàn
thành và được ban thưởng kim tiền, ngân tiền từng hạng cho các
chức bậc tham gia xây dựng công trình.
Sau lễ Đại Khánh Ông Đoàn Văn Phú được giao chức Tham
Tri Bộ Công và giao đi Khâm phái đến tỉnh Gia Định, Biên Hòa,
Định Tường thanh tra toàn diện bố phòng quân sự biên phòng,
các quân thứ, các tàu chiến…các hoạt động bảo vệ biên cương Tổ
quốc, các hoạt động chính trị, kinh tế, đời sống của binh lính,
tướng lĩnh.
Trong dịp này có gặp tháng nhuận, mà theo luật cũ thì tháng
nhuận không được trả lương, ông đã mạnh dạn tâu lên Vua Minh
Mạng cho trả lương tháng nhuận ấy. Vì nếu không trả thì binh lính
ở chiến trường không có ăn, việc này Vua Minh Mạng chấp thuận
ngay và nói rằng: “Không trả lương tháng nhuận là nói thời bình,
còn chiến tranh mà không trả lương thì lấy gì mà ăn”, ông phát
hiện tàu chiến một số bị hư hỏng và sửa chữa ngay, qua kiểm tra
bố phòng ông còn thấy cửa sông Bến Nghé là vị trí xung yếu nên
tâu Vua cho xây dựng đồn Bến Nghé. Vua chấp thuận và lệnh cho
12. Tuần Phủ Gia Định khẩn trương xây dựng để chống Pháp, vì năm
1813 Pháp và Y-Pha Nho đã hai lần đánh Gia Định thành, bị quân
ta đánh lui nhưng về sau vị Lãnh binh và Công chúa vợ ông cùng
ra trận hy sinh. Về sau, đồn Bến Nghé đã vang dội chiến công
trong lịch sử chống quân xâm lược Pháp.
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), Ông được Vua Minh Mạng
giao ở lại Gia Định và giữ chức Tuần Phủ Gia Định – Biên Hòa.
Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) sắc dụ Ông thực thụ Tổng Đốc
Định Tường và tiếp đó thực thụ cả Tổng Đốc Vĩnh Long. Cũng
năm Minh Mạng thứ 17 nhập hai Tỉnh Vĩnh Long và Định Tường
làm một gọi chung là Tỉnh Long Tường, như vậy là vùng Đông
Nam Bộ và một phần Tây Nam Bộ rộng lớn hiện nay vùng này có
09 Tỉnh và một thành phố lớn.
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), biên giới Tây Nam nổi loạn
phá hoại biên cương Tổ quốc, Vua Minh Mạng sắc dụ ông Đoàn
Văn Phú Tổng Đốc Long Tường quyền lãnh chức Trấn Tây Tướng
Quân, lãnh ấn triện Trấn Tây Tướng Quân đóng bản doanh Trấn
Tây Thành tại Long Xuyên tỉnh An Giang và thay cho ông Trương
Minh Giảng về kinh đô Thuận Hóa lãnh chức Binh Bộ Thượng
Thư, dưới quyền ông có nhiều tướng lĩnh như Đề Đốc Bùi Công
Huyên, Tham Tán Lê Đại Cương…
Suốt 03 năm ở Trấn Tây Thành bảo vệ biên cương Tổ quốc,
kiên trì dẹp loạn, an dân cho đến nửa năm 1840 Vua Minh Mạng
sai Thượng Thư Bộ Binh Trương Minh Giảng vào thay cho ông
Đoàn Văn Phú trở về làm Tổng Đốc Long Tường. Năm Minh Mạng
thứ 21 ông thọ bệnh đột ngột từ trần vào ngày 11 tháng 06 năm
Canh Tý – Minh Mạng thứ 21 tức ngày 09 tháng 07 năm 1840 thọ
40 tuổi.
Hội đồng các quan văn võ dưới quyền lập Ban kiểm kê tư
trang, rương hòm không thấy có một đồng trinh nào, biên bản đã
tâu về triều đình, đồng thời các quan vận động nhân dân giúp đỡ
tiền bạc để kịp thời khâm liệm ông. Vua Minh Mạng được tâu báo
vô cùng thương tiếc liền dụ cấp 03 cây gấm tàu và 200 quan tiền,
Vua sai quan đến tế một đàn và cho đưa thi hài (quan tài) về kinh
đô đặt trước Điện Thái Hòa để làm lễ theo nghi thức của triều
đình.
13. Sau đó Vua cấp thêm 300 quan tiền để đưa tang về làng an
táng, sau khi an táng đến nay, ngôi mộ của Ngài thường gọi là mộ
Quan lớn.
Cũng năm Minh Mạng thứ 21 Vua làm lễ thượng thọ 50 tuổi,
Vua ra sắc dụ: “Thương tiếc Đoàn Văn Phú tận trung, tận tụy, mẫn
cán, có nhiều công lao to lớn, rất mực cư quan thanh bạch sắc
tặng Binh Bộ Thượng Thư Hiệp Biện Đại Học Sỹ - Cáo Thọ Vinh
Lộc Đại Phu – tên Thụy là Văn Ý – liệt thờ ở Hiền Lương Từ”.
Ông làm quan khoảng 23 năm và mất năm 40 tuổi, cuộc đời
và sự nghiệp của ông vì Nước vì Dân tuy ngắn ngủi nhưng ông đã
đóng góp công lao to lớn trong công cuộc chống giặc ở Tây Nam
bảo vệ biên cương Tổ quốc suốt ba năm ròng rã trong điều kiện
cực kỳ gian khổ khó khăn thời đó, và ông cũng đóng góp to lớn
trong việc chuẩn bị phòng thủ chống giặc Pháp mưu toan xâm
lược Nam Bộ. Vì rằng năm Minh Mạng thứ 3 giặc Pháp đã quấy
nhiễu Gia Định mấy lần và nội tình đất nước đã có nhiều phe
nhóm chuẩn bị ngấm ngầm theo Tây.
Lịch sử đã chứng minh, Minh Mạng mất cuối năm (1840),
Thiệu Trị con trưởng lên ngôi được 7 năm thì mất. Như vậy kể từ
khi Gia Long chấp chính đến Thiệu Trị được 50 năm tạm ổn định
coi như Việt Nam độc lập được 50 năm.
Kể từ khi Tự Đức lên ngôi vua thì đất nước lần lượt rơi vào
tay quân Pháp, đất nước ta bị nô lệ từ đó, đầu tiên là nhượng 3
tỉnh miền Tây, rồi 3 tỉnh miền Đông…như vậy Lục tỉnh Nam Kỳ là
của Pháp, rồi những điểm xung yếu khác như Đà Nẵng – Pháp gọi
là Tourane, thành Hà Nội…
Đoạn lịch sử Việt Nam kể từ Chúa Nguyễn Hoàng trở xuống
thì Tự Đức là ông vua gây ra tai họa đau thương nhiều nhất cho
Dân tộc cho những nhân tài yêu nước. Tự Đức hầu như không có
học tập tư tưởng chống xâm lăng của các đời trước, trong khi đất
nước bị xâm lăng thì lo xây dựng lăng mộ cho riêng mình. Vì vậy
mới có sự chống đối lại của những người yêu nước từ trong triều
ra ngoài nội mà anh em Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Hữu Trực nêu cờ
khởi nghĩa với khẩu hiệu tập hợp lực lượng để đánh vào nội thành
Huế là:
14. “ Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”
Cuộc khởi nghĩa ngày 16 tháng 09 năm 1866 từ Vạn Niên
kéo về Nam sông Hương qua chiếm gần hết thành nội thì bị phản
bội, cuộc khởi nghĩa không toàn thắng, anh em Đoàn Hữu Trưng,
Đoàn Hữu Trực và những người trong thành khác bị tội tùng xẻo.
Các Họ Đoàn một phen điêu đứng phải đổi thành họ Đoạn cho đến
khi Cách mạng tháng 08 năm 1945 thành công mới trở lại thành
họ Đoàn. Tuy nhiên các họ Đoàn ở cách xa kinh thành Huế họ
mặc kệ họ cứ gọi là họ Đoàn.
Về sau, có 3 ông Vua yêu nước là Hàm Nghi, Thành Thái,
Duy Tân và những người yêu nước phò tá, kiên quyết chống Tây
nhưng đều thất bại, vì một mặt thời cơ chưa có, lực lượng nhân
dân là yếu tố quyết định chưa động viên và tập hợp được. Hơn
nữa bọn gian thần tay sai theo Pháp quá đông là một cản trở đáng
kể nên cuộc kháng chiến không thành và các Ông bị đi đày biệt
xứ, các tướng lĩnh khác bị Pháp chặt đầu. Nhân dân vô cùng
thương tiếc, bởi vậy những câu hò, câu thơ hiện còn tồn tại ở Núi
Ngự - Sông Hương, khi những câu hò mái nhì cất lên hay những
câu thơ ai oán với tiếng đàn tranh nhặc khoan réo rắc, đàn nguyệt,
đàn nhị, đàn cò…hòa tấu lên với giọng ca, giọng hò, giọng ngâm
của những nghệ sĩ dân dã làm xúc động lòng người, sao mà đáng
mến, đáng yêu như thế!
Tôi phải nói một đoạn này từ lịch sử Minh Mạng trở xuống để
con cháu các đời sau họ hiểu cho đúng và cho đến Cách mạng
tháng 08 thành công, nước Việt Nam độc lập. Tiếp đó là 02 cuộc
kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ toàn thắng nước nhà
thống nhất, độc lập – tự do thì tôi mới có điều kiện để tìm thân thế
sự nghiệp của Cố tôi.
Con người sinh ra rồi sớm muộn ai cũng phải chết, người
chết vinh, kẻ chết nhục, người chết để tiếng tốt cho đời khen,
người chết để cho đời chê trách, nguyền rủa không sao nói hết.
Ông Đoàn Văn Phú của Làng Sơn Tùng chúng ta, của họ
Đoàn chúng ta từ chân đất, áo vải mà ra giúp nước, bản chất tận
15. tụy, sáng tạo, trung thành, cương trực, giải quyết công việc nhanh
chóng đi đâu cũng được tiếng khen. Đại Nam Nhất Thống Chí tập
I trang 23 do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội xuất bản năm
1959 có ghi rằng: ” Đoàn Văn Phú người Huyện Quảng Điền, Tỉnh
Thừa Thiên do Lại điển xuất thân trong đời Minh Mạng làm Tả
Tham Tri Bộ Công, sau đó ra làm Tổng Đốc Long Tường – làm
quan thanh liêm, xử trí công việc nhanh chóng, đến đâu cũng
được tiếng tốt”.
Ông Đoàn Văn Phú hoạt động nhiều nhất ở miền Nam Bộ, chỉ
trừ tỉnh Hà Tiên ông chưa đến vì ở đó có dòng họ ông Mạc Cửu và
Mạc Thiên Tứ được Vua giao coi sóc (Tỉnh Hà Tiên lúc đó từ biển
Cà Mau cho đến cuối Hà Tiên giáp với Gò Công).
Ông Đoàn Văn Phú đã tận tụy xông xáo chuẩn bị phòng thủ
cho 3 tỉnh miền Đông và xông pha trận mạc, đặc biệt là 3 năm làm
Tổng Đốc Long Tường kiêm Trấn Tây Tướng Quân và đã thọ
bệnh chết trên chiến trường, chỉ tiếc một điều là sử sách không ghi
nguyên nhân cái chết của Ông.
Đặc biệt Ông là một Đại thần thời Minh Mạng mà khi chết
trong rương hòm không có một đồng trinh, cấp dưới ông phải vận
động nhân dân cho tiền để khâm liệm, trong khi chờ tâu báo về
triều đình. Thời đó tin tức từ Long Tường mà về đến Huế là cả một
thời gian dài chớ phải dễ dàng như bây giờ chỉ cần một phút điện
thoại là biết ngay.
Trong chỉ dụ có ghi “Cư Quan Thanh Bạch” như 4 chữ vàng,
“làm quan thanh bạch” giống như Dzerzhinsky nói “cái đầu phải
sáng suốt, tỉnh táo, quả tim phải nồng cháy, bàn tay sạch sẽ” và
Bác Hồ cũng căn dặn:
“Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Trung thành với nước, tận tụy với dân”
Cũng cần nói vài điểm về mối quan hệ giữa Ông với Vua
Minh Mạng, đọc sử ta thấy 3 lần có ghi: Một lần xây mái của Điện
Thái Hòa, một lần do sai sót của Tuần Phủ Gia Định và Ông bị
giáng 2 cấp, vua Minh Mạng cho rằng Đoàn Văn Phú có liên đới
16. gián tiếp chịu trách nhiệm nên bị hạ 2 cấp nhưng sau 3 tháng vua
Minh Mạng nghĩ thế nào đó lại hoàn trả 2 cấp và thăng thêm cho 1
cấp. Khi dân chúng một vùng ở Châu Đốc nổi dậy chống quan
quân địa phương, vua Minh Mạng phê phán sao Đoàn Văn Phú
không đàn áp – Ông Phú liền tâu “Quan quân địa phương hà hiếp
dân chúng đến mức họ không chịu nổi nên họ chống lại đó thôi,
chứ họ không chống lại triều đình, không chống nhà vua nên thần
không xử lý, thần sẻ xử lý quan quân nào hà hiếp dân” Minh Mạng
nghe tâu rồi thôi khiển trách. Mới hay, đời nào cũng có chuyện nọ
chuyện kia, nếu trong triều mà có những tên xiểm nịnh, xàm tấu thì
tướng quan biên ải xa xôi cũng bị buồn phiền.
Chuyện thì nhiều, ở đây chỉ tóm lược nếu làm muộn chờ đầy
đủ tư liệu, sợ thất lạc, nhưng thiết nghĩ đã hơn 150 năm mà nay
sưu tầm được tài liệu như thế này mà tóm lược lại cho con cháu
về sau để noi gương Tổ Tiên mình là một sự suy nghĩ về nguồn có
ý nghĩa, có hiếu thuận.
17. Kết luận:
Ông Đoàn Văn Phú xuất thân từ Lại điển, từ chân đất áo vải
đi lên, qua nhiều trọng trách từ trong triều ra ngoài nội, trở thành
một Công thần, một Đại thần xông pha trận mạc, vì Nước vì Dân.
Khi thọ bệnh từ giã cõi đời, từ giã quê hương làng Sơn Tùng mà
Ông hằng yêu mến, xây dựng Tam quan chùa Làng, từ giã dòng
Họ, con cháu, gia đình để về cõi vĩnh hằng hư vô bất tử - để lại 20
chữ vàng cho con cháu noi theo:
“Vì Nước tận trung
Vì Dân tận hiếu
Vi Thần liêm khiết
Vi Nhân liêm giới
Cư Quan thanh bạch”
Bây giờ đất nước ta không chỉ mươi, mười lăm triệu người
như hồi đó, mà là một đất nước độc lập thống nhất vững mạnh, có
tên tuổi vinh quang trên cộng đồng thế giới, đang xây dựng đất
nước giàu mạnh, văn minh, công bằng theo đường hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa mà Đảng Cộng Sản Đông Dương trước kia và Đảng
Cộng Sản Việt Nam ngày nay đã vạch ra, người yêu nước, yêu
dân ai cũng mong rằng mọi người cần có tâm hồn Chân Thiện Mỹ,
lương tâm đạo đức trong sáng làm nền tảng phát triển trí tuệ tài
năng để xây dựng và giữ nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Bởi
nếu không có xã hội chủ nghĩa thì toàn dân không giàu mạnh
được, không có công bằng được và không thể có văn hóa văn
minh được.
Nói như vậy là để con cháu Dòng Họ phát huy truyền thống
yêu nước, yêu dân. Tổ Tiên Ông Bà bao giờ cũng hy vọng con
cháu “Hậu sinh khả úy”.
Sưu tầm – Phụng biên
Hậu duệ đời thứ 4 của Cố Đoàn Văn Phú
Cháu: Đoàn Quang Đáng
Đoàn Quang Tiếp
18. VÀI LỜI TỰ SỰ
Sau khi thi đỗ sơ học yếu lược rồi vào khoảng năm 11, 12
tuổi gì đó, thân phụ tôi lấy trên trần nhà xuống 3 cái ống tre rất to,
trong đó đựng sắc bằng Cố Đoàn Văn Phú và gia phả, ông trinh
trọng lấy tập sắc bằng ra, tôi thấy giấy vàng được viết chữ Nho rất
đẹp và ông kể Cố Đoàn Văn Phú làm Tổng Đốc Đồng Nai và trước
đó thăng chức Bộ Binh hay Bộ Lễ gì đó tôi không còn nhớ rõ. Cố
thọ bệnh mất, vua Minh Mạng cho đưa về Huế để ở Điện Thái Hòa
và sau đó cho đưa về Làng an táng. Ông kể nhiều chuyện khác
nữa, trong đó khi đưa về có bà vợ kế về theo, bà lúc ấy đang có
thai, về sau đến đời vua Tự Đức có gửi thư về hỏi thăm tình hình
bà con làng xóm còn những ai, trong lúc này tình hình đất nước rối
ren và kinh tế khó khăn không có điều kiện đi lại được.
Hồi ông kể vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết chống Pháp
ra Tân Sở rồi dần dần bị Pháp bắt, đến vua Thành Thái bị bắt, rồi
vua Duy Tân khởi nghĩa thất bại, sau này đến phong trào yêu
nước của cụ Phan Bội Châu, ông thân sinh tôi thỉnh thoảng đi Bến
Ngự gặp cụ Phan, rồi đến làng Phú Lễ thăm bác Nguyễn Sinh
Khiêm tức anh ruột của ông Nguyễn Ái Quốc. Ông say sưa kể
nhiều chuyện, lúc giêng hai rãnh rỗi các cụ thường ngồi lại uống
nước chè kể chuyện đời xưa, mình còn nhỏ chỉ ngồi nghe và lựa
chọn mong sau này lớn lên làm sao gặp được ông Nguyễn Ái
Quốc là người mà mình kính phục ngầm và tìm cho ra manh mối
cố Đoàn Văn Phú. Quả thật “ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”
năm 1937 nhờ gặp được cách mạng, gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc,
mình tham gia và đã đóng góp trí tuệ sức lực cho đất nước, cho
nhân dân và năm 1992 đến năm 1995 tìm ra được thân thế và sự
nghiệp của Cố Đoàn Văn Phú.
Tuy còn nhiều vấn đề chưa thỏa mãn, chưa đạt được mong
muốn vì thiếu nhiều điều kiện nên chưa tìm ra những nơi quan
trọng khác, dù sao thì cơ bản đã được tốt. Chỉ mong hậu duệ có
hiếu nghĩa, có tình cảm sẽ tìm thêm.
19. Sự thành công này tôi thầm cảm ơn các bạn:
Thi sĩ Hoàng Yến.
Thi sĩ Lương An.
Thầy Trụ trì chùa Hải Quan.
Đã nhiệt tình giúp nhiều tài liệu quý.
Tp. Hồ Chí Minh – Mùa Thu 1995 - Ất Hợi
Đoàn Quang Đáng – Vân Hùng
20. NHỮNG TÀI LIỆU ĐÃ SƯU TẦM –
NGHIÊN CỨU – BIÊN SOẠN
của Cố:
Đoàn Văn Phú
bao gồm những tài liệu sau đây:
1- Minh mệnh chính yếu tập I, tập II quyển Thể Thần.
2- Đại Nam thực lục chính biên.
3- Đại Nam chính biên liệt truyện.
4- Đại Nam Nhất Thống Chí – XB năm 1959 tại Hà Nội.
5- Gia phả bị hỏa hoạn năm 1952 mất gần hết.
6- Tôn Nhơn Phủ chưa sưu tầm.
7- Đại Nam thực lục chính biên còn thiếu quyển I đến cuốn XIII
chưa đọc. Sau này ai có điều kiện thì sưu tầm thêm cho đủ, để
biết hoạt động của Cố từ năm 1833 về trước.
21. ĐẠI NAM CHÍNH BIÊN LIỆT TRUYỆN QUYỂN IV
NHỊ TẬP, QUYỂN XX TRANG 23A GHI:
Đoàn Văn Phú, Thừa Thiên Tỉnh, Quảng Điền nhân, Gia
Long thập thất niên, Lệ Tùng Công Bộ Thư Ký. Minh Mệnh niên
giám – Lịch Thọ Chủ Sự Lang Trung, thập tam niên dĩ mẫn cán,
cử chức thăng thự Công Bộ Thị Lang, thập lục niên chuyển Công
Bộ Tham Tri Lãnh Gia Định Tuần Phủ, tầm cải Thự Long Tường –
Định Biên, đẳng tỉnh Tổng Đốc, thập cửu niên thực thọ Quyền
Biện Trấn Tây sự vụ, nhị thập thất niên bệnh tốt.
Văn Phú vi nhân liêm giới cư quan thanh bạch, cửu dân
chính hoạn nhất không tốt chi nhật, quan lại nhân dân tư ái chi
quyên ngân trợ táng.
Đế nhã trọng kỳ liêm thảo, tặng Hiệp Biện Đại Học Sĩ, thưởng
Tống Cẩm tam chi, tiền ngũ bách dẫn.
Dụ viết: “Thử vi nhân thần liêm khiết giả khuyến, Tự Đức thập
thất niên liệt tự Hiền Lương Từ”.
22. MINH MỆNH CHÍNH YẾU TẬP I QUYỂN 3 THỂ
THẦN NĂM MINH MỆNH THỨ 21 – TRÍCH 45A
TRANG 163
Đoàn Văn Phú, làm Tổng Đốc tỉnh Cửu Long, Định Tường.
Văn Phú làm quan thanh bạch, Vua nghe thấy ban khen, bèn
xuống dụ trước hết hãy cấp cho 3 cây gấm tàu, 200 quan tiền và
cho tế một đàn.
Đến khi đám tang đưa về đến Làng lại thưởng cho 300 quan
tiền để khuyến khích người làm tôi liêm khiết (trang 45B).
Lại truy tặng cho hàm Hiệp Biện Đại Học Sĩ, người con là
Đoàn Văn Trường vua cho ăn lương hàng (hàm) cửu phẩm, đợi
đến năm 20 tuổi sẽ lượng cho quan chức.
23. ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ, TẬP I TRANG 213
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC HÀ NỘI 1959 CÓ GHI
Đoàn Văn Phú người Huyện Quảng Điền, Thừa Thiên – do
Lại điển xuất thân. Trong đời vua Minh Mạng làm Tả Tham Tri Bộ
Công, sau đó ra Tổng Đốc Vĩnh Long – Định Tường, làm quan
thanh liêm, xử trí công việc nhanh chóng, đi đâu cũng có tiếng tốt,
năm Minh Mạng thứ 21 mắc bệnh chết tại chức, tặng Hiệp Biện
Đại Học Sĩ, năm Tự Đức thứ 11 liệt thờ ở đền Hiền Lương Từ
cùng 38 vị khác.
24. MỘT TÀI LIỆU TÌM Ở GIA PHẢ CÒN SÓT LẠI
CÓ GHI TÓM TẮT
Công cán ở Huyện Đăng Xương tỉnh Quảng Trị, sau khi đã
hoàn thành trọng trách, Chi Tả Biên và Vinh thăng Binh Bộ
Thượng Thư, sắc phong thọ Đại Học Sỹ trấn thủ tại Đăng Xương
Huyện, Quảng Trị Tỉnh.
25. Sưu tầm ở Đại Nam thực lục Chính biên tập I và
tập XVII trở đi, tập XII và trang 16 nói về xây dựng
Điện Thái Hòa, Lầu Ngọ Môn, Cửa Đại Cung, Lầu
Ngọc Điệp (Năm Minh Mạng thứ 14 Quý Tỵ tức năm
1833)
Vua giao cho Thị Lang Bộ Công Đoàn Văn Phú và Nguyễn
Trung Mậu giúp việc xây dựng các công trình kể trên, vua dụ rằng
các công trình này rất quan trọng vì là địa điểm to lớn bậc nhất của
Hoàng Thành. Đặc biệt Điện Thái Hòa là nơi hội triều chính của
Quốc gia đại sự, là nơi bàn việc nước, cảnh quan Ngọ Môn, cửa
Đại Cung phải đồ sộ, uy nghi, mỹ quan tương xứng với đại Hoàng
Thành tiêu biểu rực rỡ của nước Đại Việt ta.
Khi mới xây đắp cung thành, mặt trước cung thành dựng làm
cung điện, chính giữa là Điện Thái Hòa, hai cửa tả hữu là: Tả Túc
và Hữu Túc, mặt trước Hoàng Thành là điện Kiều Nguyên, hai cửa
tả hữu là: Tả Đoan và Hữu Đoan. Đến bây giờ dời Điện Thái Hòa
hơi xế về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn, dưới thềm điện ấy là bệ
đỏ, dưới bệ đỏ là Long Trì, dưới Long Trì là hồ Thái Dịch, có xây
cái cầu ở giữa, hai đầu cầu đều có cửa ngăn, cột đồng trụ chạm
hoa bằng đồng đỏ, kẽm trắng, pha chế 4 phần đồng 6 phần kẽm.
Còn ở mặt trước cung thành, chỗ chính giữa xây cửa Đại
Cung, một cửa giữa, một cửa tả, một cửa hữu, hai bên phía Bắc
cửa đại cung làm hữu hanh lang, bên hông đều tả hữu giãi vũ điện
Cần Chánh, thềm đằng trước cửa Đại Cung cách hơn hai trượng
thì đến thềm phía Bắc điện Thái Hòa, bên tả bên hữu đều đặt cửa
ngăn, bên tả là cửa Nhật Linh, bên hữu là cửa Nguyệt Hoa sau đổi
là Nguyệt Anh.
26. Mặt trước Hoàng Thành chế chính giữa dựng cửa Ngọ Môn,
giữa 1 cửa, 2 bên tả hữu mỗi bên một cửa tất cả có 5 cửa, cửa
giữa và 2 cửa giáp 2 bên, trên cửa có gác rầm ngang thẳng làm
bằng đồng, 58 cái rầm ngang làm bằng đồng đỏ và kẽm trắng pha
chế 3 phần đồng 7 phần kẽm, 12 cái rầm thẳng pha chế 4 phần
đồng 6 phần kẽm đều 3 tấc bề mặt, 2 tấc bề dày, 2 cửa bên tả
hữu làm 2 cửa quyết, phía trên cửa làm lầu ngũ phượng, phía
trước cửa có hồ Ngoại Kim Thủy Trì, trên hồ xây cầu Kim Thủy
chính giữa, bên tả bên hữu mỗi chỗ một cái cầu, ở đầu bệ Long
Trì, hồ Thái Dịch, cầu Kim Thủy là tầng trên, cửa Ngọ Môn đều có
câu lơn, đều dùng gạch hoa bằng lưu ly các màu kiểu mẫu tôn
nghiêm thật là chế độ thái bình thịnh trị.
Ngày Đinh Tỵ, tiết thanh minh, vua đến xem chỗ thợ làm Điện
Thái Hòa thấy mái hiên thấp, vua Minh Mạng bảo Đổng Lý Đoàn
Văn Phú rằng: “Đây là nơi triều cận, phải nên cao lớn, rộng rãi để
cho đẹp mắt” Đoàn Văn Phú Tâu: “Ở xứ Thuận Hóa này gió bão
dữ dội làm cao dễ bị tróc mái và sụp đổ”, vua không nghe và cho
rằng: “Việc che mưa nắng tránh gió bão chỉ là việc nhỏ, mà để đẹp
nơi triều cận mới là việc to, làm như thế khác gì tiếc con dê mà
không trọng lễ”. Đổng Lý Đoàn Văn Phú liền phá đi làm lại.
Việc thiết lập cửa ải Hoành Sơn, vua nói rằng nay Nam Bắc
một nhà, bốn phương vô sự, trong đó có các cửa ải Quảng Bình,
Vũ Thắng là nơi hiểm yếu đủ cậy rồi, nên giao cho Thị Lang Công
Bộ Đoàn Văn Phú đến núi Hoành Sơn ở khoảng tiếp giáp 2 tỉnh
Quảng Bình và Hà Tĩnh thiết lập cửa ải ở núi Hoành Sơn, lập ra
cửa ải này chỉ để xét hỏi quân gian, cũng là một đồn biên phòng
và cũng chỉ để kỷ niệm thời chia cắt đất nước mà thôi. Ngươi đến
đó nên xem xét kỹ hình thế mà đặt địa điểm xây cửa ải và trù tính
việc làm cốt sao đỡ tốn kém. Sau thời gian ngắn thấy Bộ Công
nhiều việc vua sai thư Bố Chính Quảng Bình là Trần Văn Tuân
chuyên coi việc xây cửa ải và mời Đoàn Văn Phú về kinh.
27. Minh Mạng thứ 14 – Quý Tỵ, Mùa Hạ tháng 4 năm 1833: Việc
xây dựng Điện Thái Hòa, cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn đã hoàn
thành, vua ban thưởng cho các đổng lý: Lê Đăng Doanh, Hoàng
Văn Khuê, Nguyễn Tăng Ninh, Lê Văn Đức, Tham Biện Đoàn Văn
Phú, Nguyễn Trung Mậu và các nhân viên chuyên biện, tòng
biện…cấp kim tiền, ngân tiền, có từng bậc khác nhau.
Mùa Hạ, tháng 6 năm 1833 khi lầu Ngọc Điệp làm xong, ban
thưởng cho từ tổng tài trở xuống, trong đó có Đoàn Văn Phú thăng
Tả Thị Lang Bộ Công.
TẬP XIV
Những năm tháng Đoàn Văn Phú công cán Nam Bộ liên tục
cho đến khi tạ thế.
Minh Mạng năm thứ 15 Giáp Ngọ, mùa hạ tháng 5 năm 1834,
thăng chức cho Đoàn Văn Phú từ Tả Thị Lang Bộ Công lên Tả
Tham Tri Bộ Công rồi phái Đoàn Văn Phú đi đôn đốc công việc 2
tỉnh Định Tường, Biên Hòa (Định Biên).
Minh Mạng thứ 15 Giáp Ngọ, tháng 7 mùa thu năm 1834
dúng ngày 01 làm lễ mùa thu, Khâm phái đốc biện công việc 2 tỉnh
Định Tường, Biên Hòa là Đoàn Văn Phú cùng với quan tỉnh Gia
Định cùng đúng tên vào tờ tấu nói rằng: “Những lính do các đồn
điền dồn bố làm các cơ, có hơn 600 người quê Gia Định, cứ trong
số cho về theo lệ 5 đinh lấy 1, cùng lệ với 2 tỉnh Long Tường chọn
được 145 người, cộng với lính mộ 2 cơ Gia Định, Gia Võ hiện có
27 người vậy xin dồn cả 3 đội: đội nhất, đội nhị, đội tam – cơ Gia
Định nguyên 2 đội, Dực Bảo 23 người, nguyên cơ Phiên Thuận 21
người dồn làm 4 đội; nguyên các đội Giáo Dưỡng 53 người dồn
làm 5 đội; lại nữa các đội pháo thủ 32 người dồn làm một đội pháo
thủ 32 người; các đội tượng cơ 14 người dồn làm một đội tượng
cơ, còn 2 đồn đóng ở bân tả hữu cửa sông Bến Nghé đều là xung
yếu, mà xây đồn như vậy nhiều mặt quá yếu không đủ sức phòng
28. thủ, nay xin thuê dân sửa đắp cũng cố bổ sung và mở rộng ra cho
tương xứng sức mạnh phòng thủ vị trí cửa sông xung yếu, để
nghiêm việc phòng bị”.
- Dồn bên tả từ trước đến sau dài 21 trượng 6 thước 5 tấc,
từ tả đến hữu 22 trượng 6 thước.
- Dồn bên hữu từ trước đến sau dài 17 trượng 8 thước, từ
tả đến hữu dài 12 trượng (chiều cao cũ đều cao 5 thước,
chân dày 2 trượng, bốn góc đất có phái đài, mặt sau đều 1
cửa, nay đều đắp cao thêm 6 thước 3 tấc).
Việc tâu trình lên, vua Minh Mạng đều y theo.
29. TẬP XVII TRANG 107 NĂM ẤT MÙI
MINH MẠNG THỨ 16 – MÙA THU THÁNG 8
1835 TÂY LỊCH
Ra lệnh cho các tướng quân, tham tán ở các quân thứ Gia
Định rút về, chuẩn cho trích ra để lại 4 vệ là: Hậu nhất doanh Vũ
Lâm; Hữu vệ doanh Hổ Úy mới phải đi cùng với Hậu báo nhị và
Trung báo nhị, nguyên từ Bình Thuận phái đi theo cùng Đoàn Văn
Phú, Nguyễn Văn Trọng, Tôn Thất Lương và phái viên Nguyễn Tri
Phương ở Gia Định sai phái việc công.
Cũng Minh Mạng năm thứ 16, mùa đông tháng 11 năm 1835
vua ban tờ dụ viết chữ son trong đó có Quyền Tuần Vũ Gia Định
Đoàn Văn Phú đều thực lòng ra sức chịu đựng khó nhọc, rõ ràng
đều có công lao đều giao Bộ xét công ban thưởng.
30. TẬP XVIII TRANG 141 NĂM BÍNH THÂN
MINH MẠNG THỨ 17 –
MÙA HẠ THÁNG 5 NGÀY MỒNG 1
NĂM 1836 TÂY LỊCH
Vua báo thị thần trong đó có Quyền Lãnh Tổng Đốc Định
Biên (Gia Định – Biên Hòa) Đoàn Văn Phú thực thụ Tổng Đốc
Vĩnh Long.
Trang 147: Tổng Đốc Long Tường (Vĩnh Long – Định Tường)
Đoàn Văn Phú tâu nói: “Cơ võ sự thuộc tỉnh xin y theo lệ trước, có
việc thi tập hợp đủ, không có việc thì về quê làm ăn, sau đó có tiếp
tục tăng nữa đều ghi làm lính cơ võ cự, hàng năm đến tháng 2 thì
tỉnh thao diễn 1 lần. Chuẩn y lời bàn luận của Bộ Binh, bắt đầu từ
tháng 6 năm nay theo hiện có lính cơ 226 người, hàng tháng rút
một đầu mục 40 hiến binh lưu tại ngũ, chi lương, ngày thường
thao diễn, ngoài ra đều cho ở quê quán, đầy tháng lên thay số, hết
lược lại bắt đầu. Hàng năm ngày mồng một tháng 2 tề tựu thao
diễn một tháng, xong việc lại theo lệ thường luân phiên thay đổi
nhau, khi có việc sai phái thì trưng dụng hết quân số, từ sau có
tiếp tục tăng nữa cũng y theo lệ này, liệu cho lưu ngũ” ( Vậy Tổng
Đốc Long Tường theo dụ nào chưa tìm ra).
Trang 224 – Minh Mạng năm thứ 17 – Bính Thân – 1836 mùa
thu tháng 7 ngày mồng 1 làm lễ thụ hưởng, vua dụ trong đó có
những người sơ suất trong việc kiểm soát có Tổng Đốc Nguyễn
Văn Trọng và nguyên Tuần Phủ Đoàn Văn Phú đều giáng 2 cấp
(không nói rõ việc gì).
31. TẬP XIX TRANG 127 – NĂM ĐINH DẬU
MINH MẠNG THỨ 18 – MÙA HẠ THÁNG 5
NĂM 1837 TÂY LỊCH
Tổng Đốc Long Tường dâng tập thỉnh an nói: “Ruộng đất của
dân hạt ấy có người nguyên ruộng nhiều mà biên vào ít, có người
nguyên ruộng ít mà biên vào số nhiều, trong dân tình dư luận bất
bình, xin cho dân thư tố cáo, khám thực chữa lại”, trang 205 Đinh
Dậu – Minh Mạng thứ 18 – năm 1837 mùa thu tháng 7 ngày mồng
1 làm lễ thụ hưởng. Trong lúc tình hình biên giới phía Tây bất an,
vua sai Đoàn Văn Phú Tổng Đốc Long Tường quyền lãnh ấn triện
Trấn Tây Tướng Quân đến bản doanh Trấn Tây Thành tại An
Giang để trấn an biên giới, cùng đi giúp việc có Tham Tán Lê Đại
Cương và Đề Đốc Bùi Công Nguyên để bàn công việc. Mùa thu
năm tháng 9 Minh Mạng thứ 18 năm 1837 vua dụ rằng: “Tướng
quân Trương Minh Giảng về kinh chiêm yết, giao ấn triện lại cho
Đoàn Văn Phú Trấn Tây Tướng Quân”, Trương Minh Giảng về
kinh thụ chức Binh Bộ Thượng Thư.
Trang 285, Đinh Dậu Minh Mạng thứ 18 – 1837 mùa đông
tháng 11: Quan thành Trấn Tây Đoàn Văn Phú tâu lên vua nói bọn
loạn thần tên là Jiun làm phản, phiên phục phủ Hải Đông thành
Trấn Tây vệ úy lãnh chức an phủ, quản lý các cơ thổ binh, ở đồn
phủ là Sa Tháp song chứa người làm phản liên quan thông với
giặc, mưu đem giặc Nặc – Ông –Jiun về nước Lạp bị dân phiên tố
giác. Quan Trấn thành Đoàn Văn Phú, Lê Đại Cương, Bùi Công
Nguyên mật sai Lãnh binh là Nguyễn Công Hòa đi nã bắt, xích giải
vế thành xét trị, bè lũ hắn là cai đội cơ thập tịch biên sung quản là
Đô Y thấy việc tiết lộ bèn họp trở về Tăng Cần lang giết hại dân
Kinh buôn bán hơn 100 người để gây thanh thế. Án Phủ là Phạm
Ngọc Oánh, Hiệp lý phủ vụ là Đoàn Đức Quảng sai quản cơ là
32. Bồn Đột đuổi theo đánh nhau ở Châm Bốc, bọn phản nghịch đều
tan, Đề Y chỉ cùng mấy chục người chạy trốn. Đoàn Văn Phú
được báo liền phái Úy phó lãnh binh là Vũ Đức Trọng đem biền
binh đi theo bắt, đem việc tâu lên vua Minh Mạng, vua Minh Mạng
cho rằng bọn Phú không biết dự phòng trước khi việc xãy ra, mỗi
người đều bị giáng 1 cấp (việc này Đoàn Văn Phú đến tháng 9 mà
tháng 11 xãy ra như vậy là mầm móng tổ chức phản loạn này là
có từ lúc ông Trương Minh Giảng đương chức, ông Phú mới đến
thay đã chống bạo loạn thắng lợi lại bị giáng một cấp là oan nhưng
sau vài tháng lại được phục chức).
Suốt 3 năm nhậm chức Trấn Tây Tướng Quân có vô số việc
không thể chép hết, trong đó có những việc còn tâu trình công việc
của Long Tường và đến năm Minh Mạng thứ 21 tức năm 1840
ông Đoàn Văn Phú về lại Tổng Đốc Vĩnh Long – Định Tường rồi
bạo bệnh mà chết ngày 11 tháng 06 Âm lịch hưởng thọ 40 tuổi -
và cuối năm đó Minh Mạng làm lễ thượng thọ 50 tuổi, thưởng
công lao cho các công thần, truy tặng, phong tặng và ân sủng cho
gia đình có công rồi Minh Mạng cũng mất trong năm Minh Mạng
thứ 21 (1840).
33. Đoàn Văn Phú
Người huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên. Gia Long năm
thứ 17, Phú lệ theo làm Thư ký bộ Công. Khoảng năm Minh Mạng,
trải bổ Chủ sự, Lang trung. Năm thứ 13, Phú vì nhanh giỏi được
việc, thăng Thự Thị lang bộ Công. Năm thứ 16, chuyển làm Tham
tri bộ Công, lĩnh Tuần phủ Gia Định, rồi đổi đi Thự Tổng đốc 2 tỉnh
Long Tường, Định Biên. Năm thứ 19, được thực thụ (tổng đốc),
quyền làm công việc thành Trấn Tây. Năm thứ 21, Phú ốm chết.
Văn Phú là người liêm khiết, ít tình diện, ở quan thanh bạch,
lâu làm việc cai trị dân mà túi làm quan rỗng không. Ngày Phú
chết, quan lại nhân dân nhớ tiếc quyên tiền giúp việc mai táng.
Vua trọng về lòng thanh liêm tiết tháo của Phú tặng cho hàm
Hiệp biện Đại học sĩ, và thưởng cho 3 cây gấm Trung Quốc, 500
quan tiền. Dụ rằng : đó là để khuyến khích cho người làm tôi liêm
khiết sau này.
Tự Đức năm thứ 11, bày thờ vào đền Hiền Lương.