SlideShare a Scribd company logo
1 of 33
CUỘC ĐỜI 
& 
SỰ NGHIỆP 
CỐ: 
ĐOÀN VĂN PHÚ 
1800 - 1840 
TP. Hồ Chí Minh – Mùa Thu Ất Hợi Năm 1995
Hoàng Triều Sắc Tặng 
Hiền Lương Từ 
Đường Quan Binh Bộ Thượng Thư 
Sung Hiệp Biện Đại Học Sĩ 
Cáo Thọ Vinh Lộc Đại Phu 
ĐOÀN CÔNG 
HÚY: VĂN PHÚ 
THỤY: VĂN Ý 
CHI TÒA VỊ 
Chú giải: Theo Hội Điển Sự Lệ Nguyễn Triều, Binh Bộ Thượng 
Thư Thuộc Đường Quan Tùng Nhất Phẩm Văn Giai – Tên Thụy 
Được Quy Định Là VĂN Ý 
Thầy Trụ Trì Chùa Hải Quan sưu tầm và viết qua Hán tự - 
Vào ngày 22 tháng 08 năm 1995
ĐOÀN VĂN PHÚ 
SẮC TẶNG 
BINH BỘ THƯỢNG THƯ 
HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SĨ 
CÁO THỤ VINH LỘC ĐẠI PHU 
TÊN THỤY LÀ VĂN Ý 
LIỆT THỜ HIỀN LƯƠNG TỪ
CỐ: ĐOÀN VĂN PHÚ 
Sinh năm 1800 – Canh Thân tại Làng Sơn Tùng, 
Quảng Điền, Thừa Thiên – xuất thân Lại điển. 
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ Trấn Tây Tướng 
Quân, Ông Trương Minh Giảng Binh Bộ Thượng Thư 
từ kinh đô Huế vào thay Ông. Ông từ bản doanh 
Trấn Tây Thành ở Long Xuyên về lại Tổng Đốc Vĩnh 
Long – Định Tường rồi thọ bệnh mất ngày 11 tháng 
06 năm 1840 (Canh Tý) năm Minh Mạng thứ 21. Linh 
cửu (Quan tài) từ Nam Bộ đưa về Điện Thái Hòa làm 
lễ rồi đưa về Làng an táng tại xứ Cồn Xơn – Làng 
Sơn Tùng. 
Mộ Ông từ xưa đến nay thường được gọi là mộ 
Quan lớn. 
Hàng năm Kỵ vào ngày 11 tháng 06 Âm Lịch.
CUỘC ĐỜI 
& 
SỰ NGHIỆP 
CỐ: 
ĐOÀN VĂN PHÚ 
1800 - 1840
Cố Đoàn Văn Phú sinh năm 1800 (Canh Thân) tại Làng 
Sơn Tùng, Huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Ông xuất thân từ Lại 
điển, thân phụ ông là Đoàn Văn Tê, ông nội là Đoàn Quang Anh – 
nguyên là Hộ Bộ Thượng Thư đời Vua Lê Cảnh Hưng. Ngài Tằng 
Tổ là ông Đoàn Nhơn Thọ cùng với ông Đoàn Phúc Hòa hai người 
đồng Tộc họ Đoàn đã kết nghĩa anh em ruột thịt (Họ Đoàn Nhơn 
vai anh, Họ Đoàn Phúc vai em), cùng tu hành ở chùa cổ Sơn Tùng 
– chùa cổ được trùng tu lại năm 1754 và năm 1756 được Chúa Võ 
Vương Nguyễn Phúc Khoát đến thăm đã ban tặng năm chữ cho 
Chùa Làng là: “Sắc Tứ Sơn Tùng Tự” và bốn câu đối: 
1 – “Thủy Tú Sơn Minh Hải Quốc Vô Song Nguyên Phước Địa 
Trùng Hưng Cổ Tự Nam Thiên Đệ Nhất Thị Sơn Tùng” 
Dịch nghĩa: 
Núi sông tốt đẹp, đất nước trong Hải quốc này không nơi nào sánh kịp. 
Chùa xưa tu bổ lại, Sơn Tùng là cảnh thứ nhất của trời Nam. 
2 - “Pháp Vũ Tôn Phân Song Thọ Chi Đầu Liên Bối Diệp 
Hương Vân Liệu Nhiễu Đàm Hoa Anh Lý Hiện Kim Dung” 
Dịch nghĩa: 
Mưa pháp rộn ràng đầu cành song thọ liền với cây bối diệp 
Mây lành phất phưởng bông hoa ưu đàm xuất hiện kim dung. 
3 –“Vạn Tượng Quang Trung Nhất Điểm Linh Quang Triêm Hóa Nhật 
Bách Hoa Nhị Nội Sở Chi Hàm Nhị Báo Xuân Minh” 
Dịch nghĩa: 
Giữa muôn trượng quang minh gợi một điểm linh quang của vừng hóa nhật. 
Trong trăm hoa nở nhị, có vài cành hàm nhị đón cảnh dương xuân. 
4 – “Mai Ngọc Điện Xuân Phong Độc Ái Thanh Hương Cung Phật Tọa. 
Đào Hoa Khai Lệ Nhật Dĩ Lai Thể Sắc Ảnh Thiền Cung” 
Dịch nghĩa: 
Hoa mai quyến rũ gió xuân, án Phật mùi hương ngào ngạt đến 
Bông đào tươi cười bóng nhật, cung Thiền cảnh đẹp lửng lơ đưa.
Đến đời Vua Minh Mạng chuẩn cho Tham Tri Công Bộ Đoàn 
Văn Phú xây Tam Quan chùa Làng để tăng vẻ tôn nghiêm chùa cổ 
“Sắc Tứ Sơn Tùng Tự” và tưởng thưởng công lao tận tụy xứng 
đáng của Công thần Đoàn Văn Phú. 
Năm 1840 Minh Mạng mất, Thiệu Trị con trưởng của Minh 
Mạng lên ngôi. Năm 1842 vua Thiệu Trị về thăm chùa đã ban “Sắc 
chế long trào” bằng the vàng bao bọc hộp quý để vào chùa, để 
truyền thắng tích. 
Địa linh nguyên phước địa này và chùa cổ Sơn Tùng có 
nhiều quan hệ với các Chúa Nguyễn ở Đàng trong. 
Sau hậu liêu chùa cổ có bàn thờ tám Họ và các bậc tiền nhân 
có công với Nước với Làng và mỗi khi tế Đình làng đọc lên văn tế 
nghe thấy họ tên nhiều vị có nhiều công lao đóng góp cho đất 
nước, cho làng mà kính trọng thiêng liêng. 
Sơn Tùng quả là địa linh sinh nhân kiệt. 
Về học vấn của Cố Đoàn Văn Phú gia phả không còn, trong 
sử sách đọc không thấy ghi, chỉ nói ông xuất thân từ Lại điển. Năm 
Gia Long thứ 17 ông giữ chức Lệ Tùng Thư Ký Công Bộ 3 năm. 
Minh Mạng năm đầu ông giữ chức Chủ Sự Lang Trung Công 
Bộ được phái đi công cán đặc biệt Trấn nhậm Đăng Xương Huyện 
– Chi Tả Biên sự vụ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được vinh 
thăng Binh Bộ Thượng Thư – Đại Học Sĩ. (Gia phả ghi). 
Lại được phái đi nghiên cứu các thành quách ở phía Bắc 
như: Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An mà đặc biệt là 
Thăng Long thành, Cổ Loa thành để chuẩn bị kế hoạch cho việc 
xây dựng đại công trình Điện Thái Hòa là nơi thiết triều, cửa Đại 
Cung, cửa Ngọ Môn, lầu Ngọc Điệp, cổng Kỷ Niệm ở núi Hoành 
Sơn - Đèo Ngang theo sắc dụ của Vua Minh Mạng.
Sau 14 năm tận tụy mẫn cán, ông được Vua Minh Mạng giao 
giữ chức Tả Lang Trung Bộ Công và giữ Ấn triện Bộ Công. Năm 
Minh Mạng thứ 14 tức là năm 1833 thực hiện xây dựng Đại công 
trình nói trên, ông được Vua Minh Mạng giao làm Tham Biện Bộ 
Công trong Ban xây dựng, kiêm chức Đổng lý điều hành xây dựng 
cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn, lầu Ngọc Điệp, Điện Thái Hòa, nhà 
Tả Vu, Hữu Vu,…cổng Kỷ Niệm ở núi Hoành Sơn. Đây là một 
công trình lịch sử văn hóa rực rỡ, nằm trong Hoàng Thành cố đô 
cuối cùng của chế độ phong kiến nước Việt Nam được tổ chức 
Unesco của Liên hợp quốc đánh giá rất cao và là một trong những 
di sản văn hóa không những của Việt Nam mà là của Thế giới 
đang được Unesco tài trợ, phục chế, sửa sang để bảo tồn di tích 
cổ kính đã được tượng hình bằng trí tuệ, tiền của, bằng công sức 
lao động của người xưa, thật vô giá! 
Việc bảo tồn di sản văn hóa còn là tưởng lệ đến công ơn của 
tiền nhân, rõ ràng di sản văn hóa này rất có lợi trực tiếp và lâu dài 
cho Thừa Thiên Huế. Đại công trình được làm khẩn trương trong 
hai năm rưỡi bắt đầu từ năm 1833 đến nữa năm 1835 thì hoàn 
thành và được ban thưởng kim tiền, ngân tiền từng hạng cho các 
chức bậc tham gia xây dựng công trình. 
Sau lễ Đại Khánh Ông Đoàn Văn Phú được giao chức Tham 
Tri Bộ Công và giao đi Khâm phái đến tỉnh Gia Định, Biên Hòa, 
Định Tường thanh tra toàn diện bố phòng quân sự biên phòng, 
các quân thứ, các tàu chiến…các hoạt động bảo vệ biên cương Tổ 
quốc, các hoạt động chính trị, kinh tế, đời sống của binh lính, 
tướng lĩnh. 
Trong dịp này có gặp tháng nhuận, mà theo luật cũ thì tháng 
nhuận không được trả lương, ông đã mạnh dạn tâu lên Vua Minh 
Mạng cho trả lương tháng nhuận ấy. Vì nếu không trả thì binh lính 
ở chiến trường không có ăn, việc này Vua Minh Mạng chấp thuận 
ngay và nói rằng: “Không trả lương tháng nhuận là nói thời bình, 
còn chiến tranh mà không trả lương thì lấy gì mà ăn”, ông phát 
hiện tàu chiến một số bị hư hỏng và sửa chữa ngay, qua kiểm tra 
bố phòng ông còn thấy cửa sông Bến Nghé là vị trí xung yếu nên 
tâu Vua cho xây dựng đồn Bến Nghé. Vua chấp thuận và lệnh cho
Tuần Phủ Gia Định khẩn trương xây dựng để chống Pháp, vì năm 
1813 Pháp và Y-Pha Nho đã hai lần đánh Gia Định thành, bị quân 
ta đánh lui nhưng về sau vị Lãnh binh và Công chúa vợ ông cùng 
ra trận hy sinh. Về sau, đồn Bến Nghé đã vang dội chiến công 
trong lịch sử chống quân xâm lược Pháp. 
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), Ông được Vua Minh Mạng 
giao ở lại Gia Định và giữ chức Tuần Phủ Gia Định – Biên Hòa. 
Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) sắc dụ Ông thực thụ Tổng Đốc 
Định Tường và tiếp đó thực thụ cả Tổng Đốc Vĩnh Long. Cũng 
năm Minh Mạng thứ 17 nhập hai Tỉnh Vĩnh Long và Định Tường 
làm một gọi chung là Tỉnh Long Tường, như vậy là vùng Đông 
Nam Bộ và một phần Tây Nam Bộ rộng lớn hiện nay vùng này có 
09 Tỉnh và một thành phố lớn. 
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), biên giới Tây Nam nổi loạn 
phá hoại biên cương Tổ quốc, Vua Minh Mạng sắc dụ ông Đoàn 
Văn Phú Tổng Đốc Long Tường quyền lãnh chức Trấn Tây Tướng 
Quân, lãnh ấn triện Trấn Tây Tướng Quân đóng bản doanh Trấn 
Tây Thành tại Long Xuyên tỉnh An Giang và thay cho ông Trương 
Minh Giảng về kinh đô Thuận Hóa lãnh chức Binh Bộ Thượng 
Thư, dưới quyền ông có nhiều tướng lĩnh như Đề Đốc Bùi Công 
Huyên, Tham Tán Lê Đại Cương… 
Suốt 03 năm ở Trấn Tây Thành bảo vệ biên cương Tổ quốc, 
kiên trì dẹp loạn, an dân cho đến nửa năm 1840 Vua Minh Mạng 
sai Thượng Thư Bộ Binh Trương Minh Giảng vào thay cho ông 
Đoàn Văn Phú trở về làm Tổng Đốc Long Tường. Năm Minh Mạng 
thứ 21 ông thọ bệnh đột ngột từ trần vào ngày 11 tháng 06 năm 
Canh Tý – Minh Mạng thứ 21 tức ngày 09 tháng 07 năm 1840 thọ 
40 tuổi. 
Hội đồng các quan văn võ dưới quyền lập Ban kiểm kê tư 
trang, rương hòm không thấy có một đồng trinh nào, biên bản đã 
tâu về triều đình, đồng thời các quan vận động nhân dân giúp đỡ 
tiền bạc để kịp thời khâm liệm ông. Vua Minh Mạng được tâu báo 
vô cùng thương tiếc liền dụ cấp 03 cây gấm tàu và 200 quan tiền, 
Vua sai quan đến tế một đàn và cho đưa thi hài (quan tài) về kinh 
đô đặt trước Điện Thái Hòa để làm lễ theo nghi thức của triều 
đình.
Sau đó Vua cấp thêm 300 quan tiền để đưa tang về làng an 
táng, sau khi an táng đến nay, ngôi mộ của Ngài thường gọi là mộ 
Quan lớn. 
Cũng năm Minh Mạng thứ 21 Vua làm lễ thượng thọ 50 tuổi, 
Vua ra sắc dụ: “Thương tiếc Đoàn Văn Phú tận trung, tận tụy, mẫn 
cán, có nhiều công lao to lớn, rất mực cư quan thanh bạch sắc 
tặng Binh Bộ Thượng Thư Hiệp Biện Đại Học Sỹ - Cáo Thọ Vinh 
Lộc Đại Phu – tên Thụy là Văn Ý – liệt thờ ở Hiền Lương Từ”. 
Ông làm quan khoảng 23 năm và mất năm 40 tuổi, cuộc đời 
và sự nghiệp của ông vì Nước vì Dân tuy ngắn ngủi nhưng ông đã 
đóng góp công lao to lớn trong công cuộc chống giặc ở Tây Nam 
bảo vệ biên cương Tổ quốc suốt ba năm ròng rã trong điều kiện 
cực kỳ gian khổ khó khăn thời đó, và ông cũng đóng góp to lớn 
trong việc chuẩn bị phòng thủ chống giặc Pháp mưu toan xâm 
lược Nam Bộ. Vì rằng năm Minh Mạng thứ 3 giặc Pháp đã quấy 
nhiễu Gia Định mấy lần và nội tình đất nước đã có nhiều phe 
nhóm chuẩn bị ngấm ngầm theo Tây. 
Lịch sử đã chứng minh, Minh Mạng mất cuối năm (1840), 
Thiệu Trị con trưởng lên ngôi được 7 năm thì mất. Như vậy kể từ 
khi Gia Long chấp chính đến Thiệu Trị được 50 năm tạm ổn định 
coi như Việt Nam độc lập được 50 năm. 
Kể từ khi Tự Đức lên ngôi vua thì đất nước lần lượt rơi vào 
tay quân Pháp, đất nước ta bị nô lệ từ đó, đầu tiên là nhượng 3 
tỉnh miền Tây, rồi 3 tỉnh miền Đông…như vậy Lục tỉnh Nam Kỳ là 
của Pháp, rồi những điểm xung yếu khác như Đà Nẵng – Pháp gọi 
là Tourane, thành Hà Nội… 
Đoạn lịch sử Việt Nam kể từ Chúa Nguyễn Hoàng trở xuống 
thì Tự Đức là ông vua gây ra tai họa đau thương nhiều nhất cho 
Dân tộc cho những nhân tài yêu nước. Tự Đức hầu như không có 
học tập tư tưởng chống xâm lăng của các đời trước, trong khi đất 
nước bị xâm lăng thì lo xây dựng lăng mộ cho riêng mình. Vì vậy 
mới có sự chống đối lại của những người yêu nước từ trong triều 
ra ngoài nội mà anh em Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Hữu Trực nêu cờ 
khởi nghĩa với khẩu hiệu tập hợp lực lượng để đánh vào nội thành 
Huế là:
“ Vạn Niên là Vạn Niên nào 
Thành xây xương lính, hào đào máu dân” 
Cuộc khởi nghĩa ngày 16 tháng 09 năm 1866 từ Vạn Niên 
kéo về Nam sông Hương qua chiếm gần hết thành nội thì bị phản 
bội, cuộc khởi nghĩa không toàn thắng, anh em Đoàn Hữu Trưng, 
Đoàn Hữu Trực và những người trong thành khác bị tội tùng xẻo. 
Các Họ Đoàn một phen điêu đứng phải đổi thành họ Đoạn cho đến 
khi Cách mạng tháng 08 năm 1945 thành công mới trở lại thành 
họ Đoàn. Tuy nhiên các họ Đoàn ở cách xa kinh thành Huế họ 
mặc kệ họ cứ gọi là họ Đoàn. 
Về sau, có 3 ông Vua yêu nước là Hàm Nghi, Thành Thái, 
Duy Tân và những người yêu nước phò tá, kiên quyết chống Tây 
nhưng đều thất bại, vì một mặt thời cơ chưa có, lực lượng nhân 
dân là yếu tố quyết định chưa động viên và tập hợp được. Hơn 
nữa bọn gian thần tay sai theo Pháp quá đông là một cản trở đáng 
kể nên cuộc kháng chiến không thành và các Ông bị đi đày biệt 
xứ, các tướng lĩnh khác bị Pháp chặt đầu. Nhân dân vô cùng 
thương tiếc, bởi vậy những câu hò, câu thơ hiện còn tồn tại ở Núi 
Ngự - Sông Hương, khi những câu hò mái nhì cất lên hay những 
câu thơ ai oán với tiếng đàn tranh nhặc khoan réo rắc, đàn nguyệt, 
đàn nhị, đàn cò…hòa tấu lên với giọng ca, giọng hò, giọng ngâm 
của những nghệ sĩ dân dã làm xúc động lòng người, sao mà đáng 
mến, đáng yêu như thế! 
Tôi phải nói một đoạn này từ lịch sử Minh Mạng trở xuống để 
con cháu các đời sau họ hiểu cho đúng và cho đến Cách mạng 
tháng 08 thành công, nước Việt Nam độc lập. Tiếp đó là 02 cuộc 
kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ toàn thắng nước nhà 
thống nhất, độc lập – tự do thì tôi mới có điều kiện để tìm thân thế 
sự nghiệp của Cố tôi. 
Con người sinh ra rồi sớm muộn ai cũng phải chết, người 
chết vinh, kẻ chết nhục, người chết để tiếng tốt cho đời khen, 
người chết để cho đời chê trách, nguyền rủa không sao nói hết. 
Ông Đoàn Văn Phú của Làng Sơn Tùng chúng ta, của họ 
Đoàn chúng ta từ chân đất, áo vải mà ra giúp nước, bản chất tận
tụy, sáng tạo, trung thành, cương trực, giải quyết công việc nhanh 
chóng đi đâu cũng được tiếng khen. Đại Nam Nhất Thống Chí tập 
I trang 23 do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội xuất bản năm 
1959 có ghi rằng: ” Đoàn Văn Phú người Huyện Quảng Điền, Tỉnh 
Thừa Thiên do Lại điển xuất thân trong đời Minh Mạng làm Tả 
Tham Tri Bộ Công, sau đó ra làm Tổng Đốc Long Tường – làm 
quan thanh liêm, xử trí công việc nhanh chóng, đến đâu cũng 
được tiếng tốt”. 
Ông Đoàn Văn Phú hoạt động nhiều nhất ở miền Nam Bộ, chỉ 
trừ tỉnh Hà Tiên ông chưa đến vì ở đó có dòng họ ông Mạc Cửu và 
Mạc Thiên Tứ được Vua giao coi sóc (Tỉnh Hà Tiên lúc đó từ biển 
Cà Mau cho đến cuối Hà Tiên giáp với Gò Công). 
Ông Đoàn Văn Phú đã tận tụy xông xáo chuẩn bị phòng thủ 
cho 3 tỉnh miền Đông và xông pha trận mạc, đặc biệt là 3 năm làm 
Tổng Đốc Long Tường kiêm Trấn Tây Tướng Quân và đã thọ 
bệnh chết trên chiến trường, chỉ tiếc một điều là sử sách không ghi 
nguyên nhân cái chết của Ông. 
Đặc biệt Ông là một Đại thần thời Minh Mạng mà khi chết 
trong rương hòm không có một đồng trinh, cấp dưới ông phải vận 
động nhân dân cho tiền để khâm liệm, trong khi chờ tâu báo về 
triều đình. Thời đó tin tức từ Long Tường mà về đến Huế là cả một 
thời gian dài chớ phải dễ dàng như bây giờ chỉ cần một phút điện 
thoại là biết ngay. 
Trong chỉ dụ có ghi “Cư Quan Thanh Bạch” như 4 chữ vàng, 
“làm quan thanh bạch” giống như Dzerzhinsky nói “cái đầu phải 
sáng suốt, tỉnh táo, quả tim phải nồng cháy, bàn tay sạch sẽ” và 
Bác Hồ cũng căn dặn: 
“Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư 
Trung thành với nước, tận tụy với dân” 
Cũng cần nói vài điểm về mối quan hệ giữa Ông với Vua 
Minh Mạng, đọc sử ta thấy 3 lần có ghi: Một lần xây mái của Điện 
Thái Hòa, một lần do sai sót của Tuần Phủ Gia Định và Ông bị 
giáng 2 cấp, vua Minh Mạng cho rằng Đoàn Văn Phú có liên đới
gián tiếp chịu trách nhiệm nên bị hạ 2 cấp nhưng sau 3 tháng vua 
Minh Mạng nghĩ thế nào đó lại hoàn trả 2 cấp và thăng thêm cho 1 
cấp. Khi dân chúng một vùng ở Châu Đốc nổi dậy chống quan 
quân địa phương, vua Minh Mạng phê phán sao Đoàn Văn Phú 
không đàn áp – Ông Phú liền tâu “Quan quân địa phương hà hiếp 
dân chúng đến mức họ không chịu nổi nên họ chống lại đó thôi, 
chứ họ không chống lại triều đình, không chống nhà vua nên thần 
không xử lý, thần sẻ xử lý quan quân nào hà hiếp dân” Minh Mạng 
nghe tâu rồi thôi khiển trách. Mới hay, đời nào cũng có chuyện nọ 
chuyện kia, nếu trong triều mà có những tên xiểm nịnh, xàm tấu thì 
tướng quan biên ải xa xôi cũng bị buồn phiền. 
Chuyện thì nhiều, ở đây chỉ tóm lược nếu làm muộn chờ đầy 
đủ tư liệu, sợ thất lạc, nhưng thiết nghĩ đã hơn 150 năm mà nay 
sưu tầm được tài liệu như thế này mà tóm lược lại cho con cháu 
về sau để noi gương Tổ Tiên mình là một sự suy nghĩ về nguồn có 
ý nghĩa, có hiếu thuận.
Kết luận: 
Ông Đoàn Văn Phú xuất thân từ Lại điển, từ chân đất áo vải 
đi lên, qua nhiều trọng trách từ trong triều ra ngoài nội, trở thành 
một Công thần, một Đại thần xông pha trận mạc, vì Nước vì Dân. 
Khi thọ bệnh từ giã cõi đời, từ giã quê hương làng Sơn Tùng mà 
Ông hằng yêu mến, xây dựng Tam quan chùa Làng, từ giã dòng 
Họ, con cháu, gia đình để về cõi vĩnh hằng hư vô bất tử - để lại 20 
chữ vàng cho con cháu noi theo: 
“Vì Nước tận trung 
Vì Dân tận hiếu 
Vi Thần liêm khiết 
Vi Nhân liêm giới 
Cư Quan thanh bạch” 
Bây giờ đất nước ta không chỉ mươi, mười lăm triệu người 
như hồi đó, mà là một đất nước độc lập thống nhất vững mạnh, có 
tên tuổi vinh quang trên cộng đồng thế giới, đang xây dựng đất 
nước giàu mạnh, văn minh, công bằng theo đường hướng Xã Hội 
Chủ Nghĩa mà Đảng Cộng Sản Đông Dương trước kia và Đảng 
Cộng Sản Việt Nam ngày nay đã vạch ra, người yêu nước, yêu 
dân ai cũng mong rằng mọi người cần có tâm hồn Chân Thiện Mỹ, 
lương tâm đạo đức trong sáng làm nền tảng phát triển trí tuệ tài 
năng để xây dựng và giữ nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Bởi 
nếu không có xã hội chủ nghĩa thì toàn dân không giàu mạnh 
được, không có công bằng được và không thể có văn hóa văn 
minh được. 
Nói như vậy là để con cháu Dòng Họ phát huy truyền thống 
yêu nước, yêu dân. Tổ Tiên Ông Bà bao giờ cũng hy vọng con 
cháu “Hậu sinh khả úy”. 
Sưu tầm – Phụng biên 
Hậu duệ đời thứ 4 của Cố Đoàn Văn Phú 
Cháu: Đoàn Quang Đáng 
Đoàn Quang Tiếp
VÀI LỜI TỰ SỰ 
Sau khi thi đỗ sơ học yếu lược rồi vào khoảng năm 11, 12 
tuổi gì đó, thân phụ tôi lấy trên trần nhà xuống 3 cái ống tre rất to, 
trong đó đựng sắc bằng Cố Đoàn Văn Phú và gia phả, ông trinh 
trọng lấy tập sắc bằng ra, tôi thấy giấy vàng được viết chữ Nho rất 
đẹp và ông kể Cố Đoàn Văn Phú làm Tổng Đốc Đồng Nai và trước 
đó thăng chức Bộ Binh hay Bộ Lễ gì đó tôi không còn nhớ rõ. Cố 
thọ bệnh mất, vua Minh Mạng cho đưa về Huế để ở Điện Thái Hòa 
và sau đó cho đưa về Làng an táng. Ông kể nhiều chuyện khác 
nữa, trong đó khi đưa về có bà vợ kế về theo, bà lúc ấy đang có 
thai, về sau đến đời vua Tự Đức có gửi thư về hỏi thăm tình hình 
bà con làng xóm còn những ai, trong lúc này tình hình đất nước rối 
ren và kinh tế khó khăn không có điều kiện đi lại được. 
Hồi ông kể vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết chống Pháp 
ra Tân Sở rồi dần dần bị Pháp bắt, đến vua Thành Thái bị bắt, rồi 
vua Duy Tân khởi nghĩa thất bại, sau này đến phong trào yêu 
nước của cụ Phan Bội Châu, ông thân sinh tôi thỉnh thoảng đi Bến 
Ngự gặp cụ Phan, rồi đến làng Phú Lễ thăm bác Nguyễn Sinh 
Khiêm tức anh ruột của ông Nguyễn Ái Quốc. Ông say sưa kể 
nhiều chuyện, lúc giêng hai rãnh rỗi các cụ thường ngồi lại uống 
nước chè kể chuyện đời xưa, mình còn nhỏ chỉ ngồi nghe và lựa 
chọn mong sau này lớn lên làm sao gặp được ông Nguyễn Ái 
Quốc là người mà mình kính phục ngầm và tìm cho ra manh mối 
cố Đoàn Văn Phú. Quả thật “ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” 
năm 1937 nhờ gặp được cách mạng, gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, 
mình tham gia và đã đóng góp trí tuệ sức lực cho đất nước, cho 
nhân dân và năm 1992 đến năm 1995 tìm ra được thân thế và sự 
nghiệp của Cố Đoàn Văn Phú. 
Tuy còn nhiều vấn đề chưa thỏa mãn, chưa đạt được mong 
muốn vì thiếu nhiều điều kiện nên chưa tìm ra những nơi quan 
trọng khác, dù sao thì cơ bản đã được tốt. Chỉ mong hậu duệ có 
hiếu nghĩa, có tình cảm sẽ tìm thêm.
Sự thành công này tôi thầm cảm ơn các bạn: 
Thi sĩ Hoàng Yến. 
Thi sĩ Lương An. 
Thầy Trụ trì chùa Hải Quan. 
Đã nhiệt tình giúp nhiều tài liệu quý. 
Tp. Hồ Chí Minh – Mùa Thu 1995 - Ất Hợi 
Đoàn Quang Đáng – Vân Hùng
NHỮNG TÀI LIỆU ĐÃ SƯU TẦM – 
NGHIÊN CỨU – BIÊN SOẠN 
của Cố: 
Đoàn Văn Phú 
bao gồm những tài liệu sau đây: 
1- Minh mệnh chính yếu tập I, tập II quyển Thể Thần. 
2- Đại Nam thực lục chính biên. 
3- Đại Nam chính biên liệt truyện. 
4- Đại Nam Nhất Thống Chí – XB năm 1959 tại Hà Nội. 
5- Gia phả bị hỏa hoạn năm 1952 mất gần hết. 
6- Tôn Nhơn Phủ chưa sưu tầm. 
7- Đại Nam thực lục chính biên còn thiếu quyển I đến cuốn XIII 
chưa đọc. Sau này ai có điều kiện thì sưu tầm thêm cho đủ, để 
biết hoạt động của Cố từ năm 1833 về trước.
ĐẠI NAM CHÍNH BIÊN LIỆT TRUYỆN QUYỂN IV 
NHỊ TẬP, QUYỂN XX TRANG 23A GHI: 
Đoàn Văn Phú, Thừa Thiên Tỉnh, Quảng Điền nhân, Gia 
Long thập thất niên, Lệ Tùng Công Bộ Thư Ký. Minh Mệnh niên 
giám – Lịch Thọ Chủ Sự Lang Trung, thập tam niên dĩ mẫn cán, 
cử chức thăng thự Công Bộ Thị Lang, thập lục niên chuyển Công 
Bộ Tham Tri Lãnh Gia Định Tuần Phủ, tầm cải Thự Long Tường – 
Định Biên, đẳng tỉnh Tổng Đốc, thập cửu niên thực thọ Quyền 
Biện Trấn Tây sự vụ, nhị thập thất niên bệnh tốt. 
Văn Phú vi nhân liêm giới cư quan thanh bạch, cửu dân 
chính hoạn nhất không tốt chi nhật, quan lại nhân dân tư ái chi 
quyên ngân trợ táng. 
Đế nhã trọng kỳ liêm thảo, tặng Hiệp Biện Đại Học Sĩ, thưởng 
Tống Cẩm tam chi, tiền ngũ bách dẫn. 
Dụ viết: “Thử vi nhân thần liêm khiết giả khuyến, Tự Đức thập 
thất niên liệt tự Hiền Lương Từ”.
MINH MỆNH CHÍNH YẾU TẬP I QUYỂN 3 THỂ 
THẦN NĂM MINH MỆNH THỨ 21 – TRÍCH 45A 
TRANG 163 
Đoàn Văn Phú, làm Tổng Đốc tỉnh Cửu Long, Định Tường. 
Văn Phú làm quan thanh bạch, Vua nghe thấy ban khen, bèn 
xuống dụ trước hết hãy cấp cho 3 cây gấm tàu, 200 quan tiền và 
cho tế một đàn. 
Đến khi đám tang đưa về đến Làng lại thưởng cho 300 quan 
tiền để khuyến khích người làm tôi liêm khiết (trang 45B). 
Lại truy tặng cho hàm Hiệp Biện Đại Học Sĩ, người con là 
Đoàn Văn Trường vua cho ăn lương hàng (hàm) cửu phẩm, đợi 
đến năm 20 tuổi sẽ lượng cho quan chức.
ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ, TẬP I TRANG 213 
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC HÀ NỘI 1959 CÓ GHI 
Đoàn Văn Phú người Huyện Quảng Điền, Thừa Thiên – do 
Lại điển xuất thân. Trong đời vua Minh Mạng làm Tả Tham Tri Bộ 
Công, sau đó ra Tổng Đốc Vĩnh Long – Định Tường, làm quan 
thanh liêm, xử trí công việc nhanh chóng, đi đâu cũng có tiếng tốt, 
năm Minh Mạng thứ 21 mắc bệnh chết tại chức, tặng Hiệp Biện 
Đại Học Sĩ, năm Tự Đức thứ 11 liệt thờ ở đền Hiền Lương Từ 
cùng 38 vị khác.
MỘT TÀI LIỆU TÌM Ở GIA PHẢ CÒN SÓT LẠI 
CÓ GHI TÓM TẮT 
Công cán ở Huyện Đăng Xương tỉnh Quảng Trị, sau khi đã 
hoàn thành trọng trách, Chi Tả Biên và Vinh thăng Binh Bộ 
Thượng Thư, sắc phong thọ Đại Học Sỹ trấn thủ tại Đăng Xương 
Huyện, Quảng Trị Tỉnh.
Sưu tầm ở Đại Nam thực lục Chính biên tập I và 
tập XVII trở đi, tập XII và trang 16 nói về xây dựng 
Điện Thái Hòa, Lầu Ngọ Môn, Cửa Đại Cung, Lầu 
Ngọc Điệp (Năm Minh Mạng thứ 14 Quý Tỵ tức năm 
1833) 
Vua giao cho Thị Lang Bộ Công Đoàn Văn Phú và Nguyễn 
Trung Mậu giúp việc xây dựng các công trình kể trên, vua dụ rằng 
các công trình này rất quan trọng vì là địa điểm to lớn bậc nhất của 
Hoàng Thành. Đặc biệt Điện Thái Hòa là nơi hội triều chính của 
Quốc gia đại sự, là nơi bàn việc nước, cảnh quan Ngọ Môn, cửa 
Đại Cung phải đồ sộ, uy nghi, mỹ quan tương xứng với đại Hoàng 
Thành tiêu biểu rực rỡ của nước Đại Việt ta. 
Khi mới xây đắp cung thành, mặt trước cung thành dựng làm 
cung điện, chính giữa là Điện Thái Hòa, hai cửa tả hữu là: Tả Túc 
và Hữu Túc, mặt trước Hoàng Thành là điện Kiều Nguyên, hai cửa 
tả hữu là: Tả Đoan và Hữu Đoan. Đến bây giờ dời Điện Thái Hòa 
hơi xế về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn, dưới thềm điện ấy là bệ 
đỏ, dưới bệ đỏ là Long Trì, dưới Long Trì là hồ Thái Dịch, có xây 
cái cầu ở giữa, hai đầu cầu đều có cửa ngăn, cột đồng trụ chạm 
hoa bằng đồng đỏ, kẽm trắng, pha chế 4 phần đồng 6 phần kẽm. 
Còn ở mặt trước cung thành, chỗ chính giữa xây cửa Đại 
Cung, một cửa giữa, một cửa tả, một cửa hữu, hai bên phía Bắc 
cửa đại cung làm hữu hanh lang, bên hông đều tả hữu giãi vũ điện 
Cần Chánh, thềm đằng trước cửa Đại Cung cách hơn hai trượng 
thì đến thềm phía Bắc điện Thái Hòa, bên tả bên hữu đều đặt cửa 
ngăn, bên tả là cửa Nhật Linh, bên hữu là cửa Nguyệt Hoa sau đổi 
là Nguyệt Anh.
Mặt trước Hoàng Thành chế chính giữa dựng cửa Ngọ Môn, 
giữa 1 cửa, 2 bên tả hữu mỗi bên một cửa tất cả có 5 cửa, cửa 
giữa và 2 cửa giáp 2 bên, trên cửa có gác rầm ngang thẳng làm 
bằng đồng, 58 cái rầm ngang làm bằng đồng đỏ và kẽm trắng pha 
chế 3 phần đồng 7 phần kẽm, 12 cái rầm thẳng pha chế 4 phần 
đồng 6 phần kẽm đều 3 tấc bề mặt, 2 tấc bề dày, 2 cửa bên tả 
hữu làm 2 cửa quyết, phía trên cửa làm lầu ngũ phượng, phía 
trước cửa có hồ Ngoại Kim Thủy Trì, trên hồ xây cầu Kim Thủy 
chính giữa, bên tả bên hữu mỗi chỗ một cái cầu, ở đầu bệ Long 
Trì, hồ Thái Dịch, cầu Kim Thủy là tầng trên, cửa Ngọ Môn đều có 
câu lơn, đều dùng gạch hoa bằng lưu ly các màu kiểu mẫu tôn 
nghiêm thật là chế độ thái bình thịnh trị. 
Ngày Đinh Tỵ, tiết thanh minh, vua đến xem chỗ thợ làm Điện 
Thái Hòa thấy mái hiên thấp, vua Minh Mạng bảo Đổng Lý Đoàn 
Văn Phú rằng: “Đây là nơi triều cận, phải nên cao lớn, rộng rãi để 
cho đẹp mắt” Đoàn Văn Phú Tâu: “Ở xứ Thuận Hóa này gió bão 
dữ dội làm cao dễ bị tróc mái và sụp đổ”, vua không nghe và cho 
rằng: “Việc che mưa nắng tránh gió bão chỉ là việc nhỏ, mà để đẹp 
nơi triều cận mới là việc to, làm như thế khác gì tiếc con dê mà 
không trọng lễ”. Đổng Lý Đoàn Văn Phú liền phá đi làm lại. 
Việc thiết lập cửa ải Hoành Sơn, vua nói rằng nay Nam Bắc 
một nhà, bốn phương vô sự, trong đó có các cửa ải Quảng Bình, 
Vũ Thắng là nơi hiểm yếu đủ cậy rồi, nên giao cho Thị Lang Công 
Bộ Đoàn Văn Phú đến núi Hoành Sơn ở khoảng tiếp giáp 2 tỉnh 
Quảng Bình và Hà Tĩnh thiết lập cửa ải ở núi Hoành Sơn, lập ra 
cửa ải này chỉ để xét hỏi quân gian, cũng là một đồn biên phòng 
và cũng chỉ để kỷ niệm thời chia cắt đất nước mà thôi. Ngươi đến 
đó nên xem xét kỹ hình thế mà đặt địa điểm xây cửa ải và trù tính 
việc làm cốt sao đỡ tốn kém. Sau thời gian ngắn thấy Bộ Công 
nhiều việc vua sai thư Bố Chính Quảng Bình là Trần Văn Tuân 
chuyên coi việc xây cửa ải và mời Đoàn Văn Phú về kinh.
Minh Mạng thứ 14 – Quý Tỵ, Mùa Hạ tháng 4 năm 1833: Việc 
xây dựng Điện Thái Hòa, cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn đã hoàn 
thành, vua ban thưởng cho các đổng lý: Lê Đăng Doanh, Hoàng 
Văn Khuê, Nguyễn Tăng Ninh, Lê Văn Đức, Tham Biện Đoàn Văn 
Phú, Nguyễn Trung Mậu và các nhân viên chuyên biện, tòng 
biện…cấp kim tiền, ngân tiền, có từng bậc khác nhau. 
Mùa Hạ, tháng 6 năm 1833 khi lầu Ngọc Điệp làm xong, ban 
thưởng cho từ tổng tài trở xuống, trong đó có Đoàn Văn Phú thăng 
Tả Thị Lang Bộ Công. 
TẬP XIV 
Những năm tháng Đoàn Văn Phú công cán Nam Bộ liên tục 
cho đến khi tạ thế. 
Minh Mạng năm thứ 15 Giáp Ngọ, mùa hạ tháng 5 năm 1834, 
thăng chức cho Đoàn Văn Phú từ Tả Thị Lang Bộ Công lên Tả 
Tham Tri Bộ Công rồi phái Đoàn Văn Phú đi đôn đốc công việc 2 
tỉnh Định Tường, Biên Hòa (Định Biên). 
Minh Mạng thứ 15 Giáp Ngọ, tháng 7 mùa thu năm 1834 
dúng ngày 01 làm lễ mùa thu, Khâm phái đốc biện công việc 2 tỉnh 
Định Tường, Biên Hòa là Đoàn Văn Phú cùng với quan tỉnh Gia 
Định cùng đúng tên vào tờ tấu nói rằng: “Những lính do các đồn 
điền dồn bố làm các cơ, có hơn 600 người quê Gia Định, cứ trong 
số cho về theo lệ 5 đinh lấy 1, cùng lệ với 2 tỉnh Long Tường chọn 
được 145 người, cộng với lính mộ 2 cơ Gia Định, Gia Võ hiện có 
27 người vậy xin dồn cả 3 đội: đội nhất, đội nhị, đội tam – cơ Gia 
Định nguyên 2 đội, Dực Bảo 23 người, nguyên cơ Phiên Thuận 21 
người dồn làm 4 đội; nguyên các đội Giáo Dưỡng 53 người dồn 
làm 5 đội; lại nữa các đội pháo thủ 32 người dồn làm một đội pháo 
thủ 32 người; các đội tượng cơ 14 người dồn làm một đội tượng 
cơ, còn 2 đồn đóng ở bân tả hữu cửa sông Bến Nghé đều là xung 
yếu, mà xây đồn như vậy nhiều mặt quá yếu không đủ sức phòng
thủ, nay xin thuê dân sửa đắp cũng cố bổ sung và mở rộng ra cho 
tương xứng sức mạnh phòng thủ vị trí cửa sông xung yếu, để 
nghiêm việc phòng bị”. 
- Dồn bên tả từ trước đến sau dài 21 trượng 6 thước 5 tấc, 
từ tả đến hữu 22 trượng 6 thước. 
- Dồn bên hữu từ trước đến sau dài 17 trượng 8 thước, từ 
tả đến hữu dài 12 trượng (chiều cao cũ đều cao 5 thước, 
chân dày 2 trượng, bốn góc đất có phái đài, mặt sau đều 1 
cửa, nay đều đắp cao thêm 6 thước 3 tấc). 
Việc tâu trình lên, vua Minh Mạng đều y theo.
TẬP XVII TRANG 107 NĂM ẤT MÙI 
MINH MẠNG THỨ 16 – MÙA THU THÁNG 8 
1835 TÂY LỊCH 
Ra lệnh cho các tướng quân, tham tán ở các quân thứ Gia 
Định rút về, chuẩn cho trích ra để lại 4 vệ là: Hậu nhất doanh Vũ 
Lâm; Hữu vệ doanh Hổ Úy mới phải đi cùng với Hậu báo nhị và 
Trung báo nhị, nguyên từ Bình Thuận phái đi theo cùng Đoàn Văn 
Phú, Nguyễn Văn Trọng, Tôn Thất Lương và phái viên Nguyễn Tri 
Phương ở Gia Định sai phái việc công. 
Cũng Minh Mạng năm thứ 16, mùa đông tháng 11 năm 1835 
vua ban tờ dụ viết chữ son trong đó có Quyền Tuần Vũ Gia Định 
Đoàn Văn Phú đều thực lòng ra sức chịu đựng khó nhọc, rõ ràng 
đều có công lao đều giao Bộ xét công ban thưởng.
TẬP XVIII TRANG 141 NĂM BÍNH THÂN 
MINH MẠNG THỨ 17 – 
MÙA HẠ THÁNG 5 NGÀY MỒNG 1 
NĂM 1836 TÂY LỊCH 
Vua báo thị thần trong đó có Quyền Lãnh Tổng Đốc Định 
Biên (Gia Định – Biên Hòa) Đoàn Văn Phú thực thụ Tổng Đốc 
Vĩnh Long. 
Trang 147: Tổng Đốc Long Tường (Vĩnh Long – Định Tường) 
Đoàn Văn Phú tâu nói: “Cơ võ sự thuộc tỉnh xin y theo lệ trước, có 
việc thi tập hợp đủ, không có việc thì về quê làm ăn, sau đó có tiếp 
tục tăng nữa đều ghi làm lính cơ võ cự, hàng năm đến tháng 2 thì 
tỉnh thao diễn 1 lần. Chuẩn y lời bàn luận của Bộ Binh, bắt đầu từ 
tháng 6 năm nay theo hiện có lính cơ 226 người, hàng tháng rút 
một đầu mục 40 hiến binh lưu tại ngũ, chi lương, ngày thường 
thao diễn, ngoài ra đều cho ở quê quán, đầy tháng lên thay số, hết 
lược lại bắt đầu. Hàng năm ngày mồng một tháng 2 tề tựu thao 
diễn một tháng, xong việc lại theo lệ thường luân phiên thay đổi 
nhau, khi có việc sai phái thì trưng dụng hết quân số, từ sau có 
tiếp tục tăng nữa cũng y theo lệ này, liệu cho lưu ngũ” ( Vậy Tổng 
Đốc Long Tường theo dụ nào chưa tìm ra). 
Trang 224 – Minh Mạng năm thứ 17 – Bính Thân – 1836 mùa 
thu tháng 7 ngày mồng 1 làm lễ thụ hưởng, vua dụ trong đó có 
những người sơ suất trong việc kiểm soát có Tổng Đốc Nguyễn 
Văn Trọng và nguyên Tuần Phủ Đoàn Văn Phú đều giáng 2 cấp 
(không nói rõ việc gì).
TẬP XIX TRANG 127 – NĂM ĐINH DẬU 
MINH MẠNG THỨ 18 – MÙA HẠ THÁNG 5 
NĂM 1837 TÂY LỊCH 
Tổng Đốc Long Tường dâng tập thỉnh an nói: “Ruộng đất của 
dân hạt ấy có người nguyên ruộng nhiều mà biên vào ít, có người 
nguyên ruộng ít mà biên vào số nhiều, trong dân tình dư luận bất 
bình, xin cho dân thư tố cáo, khám thực chữa lại”, trang 205 Đinh 
Dậu – Minh Mạng thứ 18 – năm 1837 mùa thu tháng 7 ngày mồng 
1 làm lễ thụ hưởng. Trong lúc tình hình biên giới phía Tây bất an, 
vua sai Đoàn Văn Phú Tổng Đốc Long Tường quyền lãnh ấn triện 
Trấn Tây Tướng Quân đến bản doanh Trấn Tây Thành tại An 
Giang để trấn an biên giới, cùng đi giúp việc có Tham Tán Lê Đại 
Cương và Đề Đốc Bùi Công Nguyên để bàn công việc. Mùa thu 
năm tháng 9 Minh Mạng thứ 18 năm 1837 vua dụ rằng: “Tướng 
quân Trương Minh Giảng về kinh chiêm yết, giao ấn triện lại cho 
Đoàn Văn Phú Trấn Tây Tướng Quân”, Trương Minh Giảng về 
kinh thụ chức Binh Bộ Thượng Thư. 
Trang 285, Đinh Dậu Minh Mạng thứ 18 – 1837 mùa đông 
tháng 11: Quan thành Trấn Tây Đoàn Văn Phú tâu lên vua nói bọn 
loạn thần tên là Jiun làm phản, phiên phục phủ Hải Đông thành 
Trấn Tây vệ úy lãnh chức an phủ, quản lý các cơ thổ binh, ở đồn 
phủ là Sa Tháp song chứa người làm phản liên quan thông với 
giặc, mưu đem giặc Nặc – Ông –Jiun về nước Lạp bị dân phiên tố 
giác. Quan Trấn thành Đoàn Văn Phú, Lê Đại Cương, Bùi Công 
Nguyên mật sai Lãnh binh là Nguyễn Công Hòa đi nã bắt, xích giải 
vế thành xét trị, bè lũ hắn là cai đội cơ thập tịch biên sung quản là 
Đô Y thấy việc tiết lộ bèn họp trở về Tăng Cần lang giết hại dân 
Kinh buôn bán hơn 100 người để gây thanh thế. Án Phủ là Phạm 
Ngọc Oánh, Hiệp lý phủ vụ là Đoàn Đức Quảng sai quản cơ là
Bồn Đột đuổi theo đánh nhau ở Châm Bốc, bọn phản nghịch đều 
tan, Đề Y chỉ cùng mấy chục người chạy trốn. Đoàn Văn Phú 
được báo liền phái Úy phó lãnh binh là Vũ Đức Trọng đem biền 
binh đi theo bắt, đem việc tâu lên vua Minh Mạng, vua Minh Mạng 
cho rằng bọn Phú không biết dự phòng trước khi việc xãy ra, mỗi 
người đều bị giáng 1 cấp (việc này Đoàn Văn Phú đến tháng 9 mà 
tháng 11 xãy ra như vậy là mầm móng tổ chức phản loạn này là 
có từ lúc ông Trương Minh Giảng đương chức, ông Phú mới đến 
thay đã chống bạo loạn thắng lợi lại bị giáng một cấp là oan nhưng 
sau vài tháng lại được phục chức). 
Suốt 3 năm nhậm chức Trấn Tây Tướng Quân có vô số việc 
không thể chép hết, trong đó có những việc còn tâu trình công việc 
của Long Tường và đến năm Minh Mạng thứ 21 tức năm 1840 
ông Đoàn Văn Phú về lại Tổng Đốc Vĩnh Long – Định Tường rồi 
bạo bệnh mà chết ngày 11 tháng 06 Âm lịch hưởng thọ 40 tuổi - 
và cuối năm đó Minh Mạng làm lễ thượng thọ 50 tuổi, thưởng 
công lao cho các công thần, truy tặng, phong tặng và ân sủng cho 
gia đình có công rồi Minh Mạng cũng mất trong năm Minh Mạng 
thứ 21 (1840).
Đoàn Văn Phú 
Người huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên. Gia Long năm 
thứ 17, Phú lệ theo làm Thư ký bộ Công. Khoảng năm Minh Mạng, 
trải bổ Chủ sự, Lang trung. Năm thứ 13, Phú vì nhanh giỏi được 
việc, thăng Thự Thị lang bộ Công. Năm thứ 16, chuyển làm Tham 
tri bộ Công, lĩnh Tuần phủ Gia Định, rồi đổi đi Thự Tổng đốc 2 tỉnh 
Long Tường, Định Biên. Năm thứ 19, được thực thụ (tổng đốc), 
quyền làm công việc thành Trấn Tây. Năm thứ 21, Phú ốm chết. 
Văn Phú là người liêm khiết, ít tình diện, ở quan thanh bạch, 
lâu làm việc cai trị dân mà túi làm quan rỗng không. Ngày Phú 
chết, quan lại nhân dân nhớ tiếc quyên tiền giúp việc mai táng. 
Vua trọng về lòng thanh liêm tiết tháo của Phú tặng cho hàm 
Hiệp biện Đại học sĩ, và thưởng cho 3 cây gấm Trung Quốc, 500 
quan tiền. Dụ rằng : đó là để khuyến khích cho người làm tôi liêm 
khiết sau này. 
Tự Đức năm thứ 11, bày thờ vào đền Hiền Lương.

More Related Content

What's hot

Tuyến điểm du lịch miền tây sông nước
Tuyến điểm du lịch miền tây sông nướcTuyến điểm du lịch miền tây sông nước
Tuyến điểm du lịch miền tây sông nướcphamtruongtimeline
 
Tài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải LươngTài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải LươngThanh Hải
 
Lich su kien truc viet nam tại 123doc.vn
Lich su kien truc viet nam   tại 123doc.vnLich su kien truc viet nam   tại 123doc.vn
Lich su kien truc viet nam tại 123doc.vnNguyen Khuong
 
Kiến trúc qua các thời
Kiến trúc qua các thờiKiến trúc qua các thời
Kiến trúc qua các thờiNgân Nguyễn
 
Văn hóa mac việt nam
Văn hóa mac việt namVăn hóa mac việt nam
Văn hóa mac việt nammailinhnguyen
 
Chùa thiên mụ - tài liệu thuyết minh
Chùa thiên mụ - tài liệu thuyết minhChùa thiên mụ - tài liệu thuyết minh
Chùa thiên mụ - tài liệu thuyết minhNghijerry
 
CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019
CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019
CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019phamhieu56
 
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đớiĐình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đớiluongthuykhe
 
Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.
Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.
Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.akirahitachi
 
NAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
NAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀINAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
NAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀIChau Duong
 
MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim
MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim
MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim Chau Duong
 
Bien nien su an giang
Bien nien su an giangBien nien su an giang
Bien nien su an giangTY NGUYEN
 
11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh
11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh
11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minhrenownboy
 
BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI
BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI
BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI nataliej4
 
NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019
NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019
NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019KhoTi1
 

What's hot (18)

Tuyến điểm du lịch miền tây sông nước
Tuyến điểm du lịch miền tây sông nướcTuyến điểm du lịch miền tây sông nước
Tuyến điểm du lịch miền tây sông nước
 
Tài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải LươngTài liệu thuyết minh về Cải Lương
Tài liệu thuyết minh về Cải Lương
 
Lich su kien truc viet nam tại 123doc.vn
Lich su kien truc viet nam   tại 123doc.vnLich su kien truc viet nam   tại 123doc.vn
Lich su kien truc viet nam tại 123doc.vn
 
Kiến trúc qua các thời
Kiến trúc qua các thờiKiến trúc qua các thời
Kiến trúc qua các thời
 
Văn hóa mac việt nam
Văn hóa mac việt namVăn hóa mac việt nam
Văn hóa mac việt nam
 
Chùa thiên mụ - tài liệu thuyết minh
Chùa thiên mụ - tài liệu thuyết minhChùa thiên mụ - tài liệu thuyết minh
Chùa thiên mụ - tài liệu thuyết minh
 
CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019
CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019
CÁC CÔNG TRÌNH VĂN HỌC QUỐC NGỮ MIỀN NAM_10535512092019
 
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đớiĐình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
Đình làng Bắc Bộ Việt Nam - Kiến trúc Nhiệt đới
 
Thuyet trinh DT 01
Thuyet trinh DT 01Thuyet trinh DT 01
Thuyet trinh DT 01
 
Luận văn: Quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á thời Cận đại, 9đ
Luận văn: Quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á thời Cận đại, 9đLuận văn: Quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á thời Cận đại, 9đ
Luận văn: Quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á thời Cận đại, 9đ
 
Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.
Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.
Nhà nước và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại.
 
NAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
NAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀINAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
NAM KỲ - CÁI NÔI CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
 
MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim
MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim
MỘT CƠN GIÓ BỤI - Trần Trọng Kim
 
Bien nien su an giang
Bien nien su an giangBien nien su an giang
Bien nien su an giang
 
11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh
11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh
11 tc dl1 - 115074015 -vu tuyen minh
 
BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI
BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI
BÌNH GIANG ĐẤT VÀ NGƯỜI
 
Khơ me
Khơ meKhơ me
Khơ me
 
NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019
NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019
NỮ TƯỚNG LƯƠNG HÒA_10261312052019
 

Similar to BINH BỘ THƯỢNG THƯ HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SỸ ĐOÀN VĂN PHÚ

bctntlvn (19).pdf
bctntlvn (19).pdfbctntlvn (19).pdf
bctntlvn (19).pdfLuanvan84
 
Thuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ an
Thuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ anThuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ an
Thuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ anThu Thu
 
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn Du
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn DuLời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn Du
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn DuPham Long
 
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20vinhbinh2010
 
Di sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt namDi sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt namkeomut_dang90
 
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vnNhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vnPham Long
 
Kien giang
Kien giangKien giang
Kien giangAnh Tuan
 
đồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóađồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóajackjohn45
 
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKelsi Luist
 
Đại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptx
Đại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptxĐại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptx
Đại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptxpmphuc
 
bctntlvn (23).pdf
bctntlvn (23).pdfbctntlvn (23).pdf
bctntlvn (23).pdfLuanvan84
 
Tây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdfTây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdfNuioKila
 
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdf
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdfChùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdf
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdfBò Cạp Vàng
 
Lich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdf
Lich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdfLich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdf
Lich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdfstyle tshirt
 

Similar to BINH BỘ THƯỢNG THƯ HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SỸ ĐOÀN VĂN PHÚ (20)

bctntlvn (19).pdf
bctntlvn (19).pdfbctntlvn (19).pdf
bctntlvn (19).pdf
 
Thuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ an
Thuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ anThuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ an
Thuyết minh về khu di tích kim liên. du lịch nghệ an
 
Dai viet su ky toan thu
Dai viet su ky toan thuDai viet su ky toan thu
Dai viet su ky toan thu
 
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn Du
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn DuLời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn Du
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn Du
 
Lich su giai thoai
Lich su   giai thoaiLich su   giai thoai
Lich su giai thoai
 
Co thanh hue
Co thanh hueCo thanh hue
Co thanh hue
 
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
 
Di sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt namDi sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt nam
 
Sukytumathien
SukytumathienSukytumathien
Sukytumathien
 
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vnNhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
 
Kien giang
Kien giangKien giang
Kien giang
 
đồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóađồNg nai di tích lịch sử văn hóa
đồNg nai di tích lịch sử văn hóa
 
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
 
Đại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptx
Đại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptxĐại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptx
Đại cương lịch sử VN - nhóm 2.pptx
 
Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng Trị
Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng TrịTài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng Trị
Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng Trị
 
Truongquocte.ifno_Nhân vật lịch sử & giai thoại
Truongquocte.ifno_Nhân vật lịch sử & giai thoạiTruongquocte.ifno_Nhân vật lịch sử & giai thoại
Truongquocte.ifno_Nhân vật lịch sử & giai thoại
 
bctntlvn (23).pdf
bctntlvn (23).pdfbctntlvn (23).pdf
bctntlvn (23).pdf
 
Tây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdfTây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdf
 
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdf
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdfChùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdf
Chùa Tôn Thạnh cổ kính hơn 200 năm tuổi ở Long An.pdf
 
Lich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdf
Lich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdfLich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdf
Lich Su Viet Nam - Tu Nguon Goc Den Nam 18 - Nguyen Phan Quang, Vo Xuan Dan.pdf
 

BINH BỘ THƯỢNG THƯ HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SỸ ĐOÀN VĂN PHÚ

  • 1. CUỘC ĐỜI & SỰ NGHIỆP CỐ: ĐOÀN VĂN PHÚ 1800 - 1840 TP. Hồ Chí Minh – Mùa Thu Ất Hợi Năm 1995
  • 2. Hoàng Triều Sắc Tặng Hiền Lương Từ Đường Quan Binh Bộ Thượng Thư Sung Hiệp Biện Đại Học Sĩ Cáo Thọ Vinh Lộc Đại Phu ĐOÀN CÔNG HÚY: VĂN PHÚ THỤY: VĂN Ý CHI TÒA VỊ Chú giải: Theo Hội Điển Sự Lệ Nguyễn Triều, Binh Bộ Thượng Thư Thuộc Đường Quan Tùng Nhất Phẩm Văn Giai – Tên Thụy Được Quy Định Là VĂN Ý Thầy Trụ Trì Chùa Hải Quan sưu tầm và viết qua Hán tự - Vào ngày 22 tháng 08 năm 1995
  • 3.
  • 4. ĐOÀN VĂN PHÚ SẮC TẶNG BINH BỘ THƯỢNG THƯ HIỆP BIỆN ĐẠI HỌC SĨ CÁO THỤ VINH LỘC ĐẠI PHU TÊN THỤY LÀ VĂN Ý LIỆT THỜ HIỀN LƯƠNG TỪ
  • 5. CỐ: ĐOÀN VĂN PHÚ Sinh năm 1800 – Canh Thân tại Làng Sơn Tùng, Quảng Điền, Thừa Thiên – xuất thân Lại điển. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ Trấn Tây Tướng Quân, Ông Trương Minh Giảng Binh Bộ Thượng Thư từ kinh đô Huế vào thay Ông. Ông từ bản doanh Trấn Tây Thành ở Long Xuyên về lại Tổng Đốc Vĩnh Long – Định Tường rồi thọ bệnh mất ngày 11 tháng 06 năm 1840 (Canh Tý) năm Minh Mạng thứ 21. Linh cửu (Quan tài) từ Nam Bộ đưa về Điện Thái Hòa làm lễ rồi đưa về Làng an táng tại xứ Cồn Xơn – Làng Sơn Tùng. Mộ Ông từ xưa đến nay thường được gọi là mộ Quan lớn. Hàng năm Kỵ vào ngày 11 tháng 06 Âm Lịch.
  • 6.
  • 7.
  • 8. CUỘC ĐỜI & SỰ NGHIỆP CỐ: ĐOÀN VĂN PHÚ 1800 - 1840
  • 9. Cố Đoàn Văn Phú sinh năm 1800 (Canh Thân) tại Làng Sơn Tùng, Huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Ông xuất thân từ Lại điển, thân phụ ông là Đoàn Văn Tê, ông nội là Đoàn Quang Anh – nguyên là Hộ Bộ Thượng Thư đời Vua Lê Cảnh Hưng. Ngài Tằng Tổ là ông Đoàn Nhơn Thọ cùng với ông Đoàn Phúc Hòa hai người đồng Tộc họ Đoàn đã kết nghĩa anh em ruột thịt (Họ Đoàn Nhơn vai anh, Họ Đoàn Phúc vai em), cùng tu hành ở chùa cổ Sơn Tùng – chùa cổ được trùng tu lại năm 1754 và năm 1756 được Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đến thăm đã ban tặng năm chữ cho Chùa Làng là: “Sắc Tứ Sơn Tùng Tự” và bốn câu đối: 1 – “Thủy Tú Sơn Minh Hải Quốc Vô Song Nguyên Phước Địa Trùng Hưng Cổ Tự Nam Thiên Đệ Nhất Thị Sơn Tùng” Dịch nghĩa: Núi sông tốt đẹp, đất nước trong Hải quốc này không nơi nào sánh kịp. Chùa xưa tu bổ lại, Sơn Tùng là cảnh thứ nhất của trời Nam. 2 - “Pháp Vũ Tôn Phân Song Thọ Chi Đầu Liên Bối Diệp Hương Vân Liệu Nhiễu Đàm Hoa Anh Lý Hiện Kim Dung” Dịch nghĩa: Mưa pháp rộn ràng đầu cành song thọ liền với cây bối diệp Mây lành phất phưởng bông hoa ưu đàm xuất hiện kim dung. 3 –“Vạn Tượng Quang Trung Nhất Điểm Linh Quang Triêm Hóa Nhật Bách Hoa Nhị Nội Sở Chi Hàm Nhị Báo Xuân Minh” Dịch nghĩa: Giữa muôn trượng quang minh gợi một điểm linh quang của vừng hóa nhật. Trong trăm hoa nở nhị, có vài cành hàm nhị đón cảnh dương xuân. 4 – “Mai Ngọc Điện Xuân Phong Độc Ái Thanh Hương Cung Phật Tọa. Đào Hoa Khai Lệ Nhật Dĩ Lai Thể Sắc Ảnh Thiền Cung” Dịch nghĩa: Hoa mai quyến rũ gió xuân, án Phật mùi hương ngào ngạt đến Bông đào tươi cười bóng nhật, cung Thiền cảnh đẹp lửng lơ đưa.
  • 10. Đến đời Vua Minh Mạng chuẩn cho Tham Tri Công Bộ Đoàn Văn Phú xây Tam Quan chùa Làng để tăng vẻ tôn nghiêm chùa cổ “Sắc Tứ Sơn Tùng Tự” và tưởng thưởng công lao tận tụy xứng đáng của Công thần Đoàn Văn Phú. Năm 1840 Minh Mạng mất, Thiệu Trị con trưởng của Minh Mạng lên ngôi. Năm 1842 vua Thiệu Trị về thăm chùa đã ban “Sắc chế long trào” bằng the vàng bao bọc hộp quý để vào chùa, để truyền thắng tích. Địa linh nguyên phước địa này và chùa cổ Sơn Tùng có nhiều quan hệ với các Chúa Nguyễn ở Đàng trong. Sau hậu liêu chùa cổ có bàn thờ tám Họ và các bậc tiền nhân có công với Nước với Làng và mỗi khi tế Đình làng đọc lên văn tế nghe thấy họ tên nhiều vị có nhiều công lao đóng góp cho đất nước, cho làng mà kính trọng thiêng liêng. Sơn Tùng quả là địa linh sinh nhân kiệt. Về học vấn của Cố Đoàn Văn Phú gia phả không còn, trong sử sách đọc không thấy ghi, chỉ nói ông xuất thân từ Lại điển. Năm Gia Long thứ 17 ông giữ chức Lệ Tùng Thư Ký Công Bộ 3 năm. Minh Mạng năm đầu ông giữ chức Chủ Sự Lang Trung Công Bộ được phái đi công cán đặc biệt Trấn nhậm Đăng Xương Huyện – Chi Tả Biên sự vụ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được vinh thăng Binh Bộ Thượng Thư – Đại Học Sĩ. (Gia phả ghi). Lại được phái đi nghiên cứu các thành quách ở phía Bắc như: Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An mà đặc biệt là Thăng Long thành, Cổ Loa thành để chuẩn bị kế hoạch cho việc xây dựng đại công trình Điện Thái Hòa là nơi thiết triều, cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn, lầu Ngọc Điệp, cổng Kỷ Niệm ở núi Hoành Sơn - Đèo Ngang theo sắc dụ của Vua Minh Mạng.
  • 11. Sau 14 năm tận tụy mẫn cán, ông được Vua Minh Mạng giao giữ chức Tả Lang Trung Bộ Công và giữ Ấn triện Bộ Công. Năm Minh Mạng thứ 14 tức là năm 1833 thực hiện xây dựng Đại công trình nói trên, ông được Vua Minh Mạng giao làm Tham Biện Bộ Công trong Ban xây dựng, kiêm chức Đổng lý điều hành xây dựng cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn, lầu Ngọc Điệp, Điện Thái Hòa, nhà Tả Vu, Hữu Vu,…cổng Kỷ Niệm ở núi Hoành Sơn. Đây là một công trình lịch sử văn hóa rực rỡ, nằm trong Hoàng Thành cố đô cuối cùng của chế độ phong kiến nước Việt Nam được tổ chức Unesco của Liên hợp quốc đánh giá rất cao và là một trong những di sản văn hóa không những của Việt Nam mà là của Thế giới đang được Unesco tài trợ, phục chế, sửa sang để bảo tồn di tích cổ kính đã được tượng hình bằng trí tuệ, tiền của, bằng công sức lao động của người xưa, thật vô giá! Việc bảo tồn di sản văn hóa còn là tưởng lệ đến công ơn của tiền nhân, rõ ràng di sản văn hóa này rất có lợi trực tiếp và lâu dài cho Thừa Thiên Huế. Đại công trình được làm khẩn trương trong hai năm rưỡi bắt đầu từ năm 1833 đến nữa năm 1835 thì hoàn thành và được ban thưởng kim tiền, ngân tiền từng hạng cho các chức bậc tham gia xây dựng công trình. Sau lễ Đại Khánh Ông Đoàn Văn Phú được giao chức Tham Tri Bộ Công và giao đi Khâm phái đến tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường thanh tra toàn diện bố phòng quân sự biên phòng, các quân thứ, các tàu chiến…các hoạt động bảo vệ biên cương Tổ quốc, các hoạt động chính trị, kinh tế, đời sống của binh lính, tướng lĩnh. Trong dịp này có gặp tháng nhuận, mà theo luật cũ thì tháng nhuận không được trả lương, ông đã mạnh dạn tâu lên Vua Minh Mạng cho trả lương tháng nhuận ấy. Vì nếu không trả thì binh lính ở chiến trường không có ăn, việc này Vua Minh Mạng chấp thuận ngay và nói rằng: “Không trả lương tháng nhuận là nói thời bình, còn chiến tranh mà không trả lương thì lấy gì mà ăn”, ông phát hiện tàu chiến một số bị hư hỏng và sửa chữa ngay, qua kiểm tra bố phòng ông còn thấy cửa sông Bến Nghé là vị trí xung yếu nên tâu Vua cho xây dựng đồn Bến Nghé. Vua chấp thuận và lệnh cho
  • 12. Tuần Phủ Gia Định khẩn trương xây dựng để chống Pháp, vì năm 1813 Pháp và Y-Pha Nho đã hai lần đánh Gia Định thành, bị quân ta đánh lui nhưng về sau vị Lãnh binh và Công chúa vợ ông cùng ra trận hy sinh. Về sau, đồn Bến Nghé đã vang dội chiến công trong lịch sử chống quân xâm lược Pháp. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), Ông được Vua Minh Mạng giao ở lại Gia Định và giữ chức Tuần Phủ Gia Định – Biên Hòa. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) sắc dụ Ông thực thụ Tổng Đốc Định Tường và tiếp đó thực thụ cả Tổng Đốc Vĩnh Long. Cũng năm Minh Mạng thứ 17 nhập hai Tỉnh Vĩnh Long và Định Tường làm một gọi chung là Tỉnh Long Tường, như vậy là vùng Đông Nam Bộ và một phần Tây Nam Bộ rộng lớn hiện nay vùng này có 09 Tỉnh và một thành phố lớn. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), biên giới Tây Nam nổi loạn phá hoại biên cương Tổ quốc, Vua Minh Mạng sắc dụ ông Đoàn Văn Phú Tổng Đốc Long Tường quyền lãnh chức Trấn Tây Tướng Quân, lãnh ấn triện Trấn Tây Tướng Quân đóng bản doanh Trấn Tây Thành tại Long Xuyên tỉnh An Giang và thay cho ông Trương Minh Giảng về kinh đô Thuận Hóa lãnh chức Binh Bộ Thượng Thư, dưới quyền ông có nhiều tướng lĩnh như Đề Đốc Bùi Công Huyên, Tham Tán Lê Đại Cương… Suốt 03 năm ở Trấn Tây Thành bảo vệ biên cương Tổ quốc, kiên trì dẹp loạn, an dân cho đến nửa năm 1840 Vua Minh Mạng sai Thượng Thư Bộ Binh Trương Minh Giảng vào thay cho ông Đoàn Văn Phú trở về làm Tổng Đốc Long Tường. Năm Minh Mạng thứ 21 ông thọ bệnh đột ngột từ trần vào ngày 11 tháng 06 năm Canh Tý – Minh Mạng thứ 21 tức ngày 09 tháng 07 năm 1840 thọ 40 tuổi. Hội đồng các quan văn võ dưới quyền lập Ban kiểm kê tư trang, rương hòm không thấy có một đồng trinh nào, biên bản đã tâu về triều đình, đồng thời các quan vận động nhân dân giúp đỡ tiền bạc để kịp thời khâm liệm ông. Vua Minh Mạng được tâu báo vô cùng thương tiếc liền dụ cấp 03 cây gấm tàu và 200 quan tiền, Vua sai quan đến tế một đàn và cho đưa thi hài (quan tài) về kinh đô đặt trước Điện Thái Hòa để làm lễ theo nghi thức của triều đình.
  • 13. Sau đó Vua cấp thêm 300 quan tiền để đưa tang về làng an táng, sau khi an táng đến nay, ngôi mộ của Ngài thường gọi là mộ Quan lớn. Cũng năm Minh Mạng thứ 21 Vua làm lễ thượng thọ 50 tuổi, Vua ra sắc dụ: “Thương tiếc Đoàn Văn Phú tận trung, tận tụy, mẫn cán, có nhiều công lao to lớn, rất mực cư quan thanh bạch sắc tặng Binh Bộ Thượng Thư Hiệp Biện Đại Học Sỹ - Cáo Thọ Vinh Lộc Đại Phu – tên Thụy là Văn Ý – liệt thờ ở Hiền Lương Từ”. Ông làm quan khoảng 23 năm và mất năm 40 tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của ông vì Nước vì Dân tuy ngắn ngủi nhưng ông đã đóng góp công lao to lớn trong công cuộc chống giặc ở Tây Nam bảo vệ biên cương Tổ quốc suốt ba năm ròng rã trong điều kiện cực kỳ gian khổ khó khăn thời đó, và ông cũng đóng góp to lớn trong việc chuẩn bị phòng thủ chống giặc Pháp mưu toan xâm lược Nam Bộ. Vì rằng năm Minh Mạng thứ 3 giặc Pháp đã quấy nhiễu Gia Định mấy lần và nội tình đất nước đã có nhiều phe nhóm chuẩn bị ngấm ngầm theo Tây. Lịch sử đã chứng minh, Minh Mạng mất cuối năm (1840), Thiệu Trị con trưởng lên ngôi được 7 năm thì mất. Như vậy kể từ khi Gia Long chấp chính đến Thiệu Trị được 50 năm tạm ổn định coi như Việt Nam độc lập được 50 năm. Kể từ khi Tự Đức lên ngôi vua thì đất nước lần lượt rơi vào tay quân Pháp, đất nước ta bị nô lệ từ đó, đầu tiên là nhượng 3 tỉnh miền Tây, rồi 3 tỉnh miền Đông…như vậy Lục tỉnh Nam Kỳ là của Pháp, rồi những điểm xung yếu khác như Đà Nẵng – Pháp gọi là Tourane, thành Hà Nội… Đoạn lịch sử Việt Nam kể từ Chúa Nguyễn Hoàng trở xuống thì Tự Đức là ông vua gây ra tai họa đau thương nhiều nhất cho Dân tộc cho những nhân tài yêu nước. Tự Đức hầu như không có học tập tư tưởng chống xâm lăng của các đời trước, trong khi đất nước bị xâm lăng thì lo xây dựng lăng mộ cho riêng mình. Vì vậy mới có sự chống đối lại của những người yêu nước từ trong triều ra ngoài nội mà anh em Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Hữu Trực nêu cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu tập hợp lực lượng để đánh vào nội thành Huế là:
  • 14. “ Vạn Niên là Vạn Niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu dân” Cuộc khởi nghĩa ngày 16 tháng 09 năm 1866 từ Vạn Niên kéo về Nam sông Hương qua chiếm gần hết thành nội thì bị phản bội, cuộc khởi nghĩa không toàn thắng, anh em Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Hữu Trực và những người trong thành khác bị tội tùng xẻo. Các Họ Đoàn một phen điêu đứng phải đổi thành họ Đoạn cho đến khi Cách mạng tháng 08 năm 1945 thành công mới trở lại thành họ Đoàn. Tuy nhiên các họ Đoàn ở cách xa kinh thành Huế họ mặc kệ họ cứ gọi là họ Đoàn. Về sau, có 3 ông Vua yêu nước là Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân và những người yêu nước phò tá, kiên quyết chống Tây nhưng đều thất bại, vì một mặt thời cơ chưa có, lực lượng nhân dân là yếu tố quyết định chưa động viên và tập hợp được. Hơn nữa bọn gian thần tay sai theo Pháp quá đông là một cản trở đáng kể nên cuộc kháng chiến không thành và các Ông bị đi đày biệt xứ, các tướng lĩnh khác bị Pháp chặt đầu. Nhân dân vô cùng thương tiếc, bởi vậy những câu hò, câu thơ hiện còn tồn tại ở Núi Ngự - Sông Hương, khi những câu hò mái nhì cất lên hay những câu thơ ai oán với tiếng đàn tranh nhặc khoan réo rắc, đàn nguyệt, đàn nhị, đàn cò…hòa tấu lên với giọng ca, giọng hò, giọng ngâm của những nghệ sĩ dân dã làm xúc động lòng người, sao mà đáng mến, đáng yêu như thế! Tôi phải nói một đoạn này từ lịch sử Minh Mạng trở xuống để con cháu các đời sau họ hiểu cho đúng và cho đến Cách mạng tháng 08 thành công, nước Việt Nam độc lập. Tiếp đó là 02 cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ toàn thắng nước nhà thống nhất, độc lập – tự do thì tôi mới có điều kiện để tìm thân thế sự nghiệp của Cố tôi. Con người sinh ra rồi sớm muộn ai cũng phải chết, người chết vinh, kẻ chết nhục, người chết để tiếng tốt cho đời khen, người chết để cho đời chê trách, nguyền rủa không sao nói hết. Ông Đoàn Văn Phú của Làng Sơn Tùng chúng ta, của họ Đoàn chúng ta từ chân đất, áo vải mà ra giúp nước, bản chất tận
  • 15. tụy, sáng tạo, trung thành, cương trực, giải quyết công việc nhanh chóng đi đâu cũng được tiếng khen. Đại Nam Nhất Thống Chí tập I trang 23 do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội xuất bản năm 1959 có ghi rằng: ” Đoàn Văn Phú người Huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên do Lại điển xuất thân trong đời Minh Mạng làm Tả Tham Tri Bộ Công, sau đó ra làm Tổng Đốc Long Tường – làm quan thanh liêm, xử trí công việc nhanh chóng, đến đâu cũng được tiếng tốt”. Ông Đoàn Văn Phú hoạt động nhiều nhất ở miền Nam Bộ, chỉ trừ tỉnh Hà Tiên ông chưa đến vì ở đó có dòng họ ông Mạc Cửu và Mạc Thiên Tứ được Vua giao coi sóc (Tỉnh Hà Tiên lúc đó từ biển Cà Mau cho đến cuối Hà Tiên giáp với Gò Công). Ông Đoàn Văn Phú đã tận tụy xông xáo chuẩn bị phòng thủ cho 3 tỉnh miền Đông và xông pha trận mạc, đặc biệt là 3 năm làm Tổng Đốc Long Tường kiêm Trấn Tây Tướng Quân và đã thọ bệnh chết trên chiến trường, chỉ tiếc một điều là sử sách không ghi nguyên nhân cái chết của Ông. Đặc biệt Ông là một Đại thần thời Minh Mạng mà khi chết trong rương hòm không có một đồng trinh, cấp dưới ông phải vận động nhân dân cho tiền để khâm liệm, trong khi chờ tâu báo về triều đình. Thời đó tin tức từ Long Tường mà về đến Huế là cả một thời gian dài chớ phải dễ dàng như bây giờ chỉ cần một phút điện thoại là biết ngay. Trong chỉ dụ có ghi “Cư Quan Thanh Bạch” như 4 chữ vàng, “làm quan thanh bạch” giống như Dzerzhinsky nói “cái đầu phải sáng suốt, tỉnh táo, quả tim phải nồng cháy, bàn tay sạch sẽ” và Bác Hồ cũng căn dặn: “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư Trung thành với nước, tận tụy với dân” Cũng cần nói vài điểm về mối quan hệ giữa Ông với Vua Minh Mạng, đọc sử ta thấy 3 lần có ghi: Một lần xây mái của Điện Thái Hòa, một lần do sai sót của Tuần Phủ Gia Định và Ông bị giáng 2 cấp, vua Minh Mạng cho rằng Đoàn Văn Phú có liên đới
  • 16. gián tiếp chịu trách nhiệm nên bị hạ 2 cấp nhưng sau 3 tháng vua Minh Mạng nghĩ thế nào đó lại hoàn trả 2 cấp và thăng thêm cho 1 cấp. Khi dân chúng một vùng ở Châu Đốc nổi dậy chống quan quân địa phương, vua Minh Mạng phê phán sao Đoàn Văn Phú không đàn áp – Ông Phú liền tâu “Quan quân địa phương hà hiếp dân chúng đến mức họ không chịu nổi nên họ chống lại đó thôi, chứ họ không chống lại triều đình, không chống nhà vua nên thần không xử lý, thần sẻ xử lý quan quân nào hà hiếp dân” Minh Mạng nghe tâu rồi thôi khiển trách. Mới hay, đời nào cũng có chuyện nọ chuyện kia, nếu trong triều mà có những tên xiểm nịnh, xàm tấu thì tướng quan biên ải xa xôi cũng bị buồn phiền. Chuyện thì nhiều, ở đây chỉ tóm lược nếu làm muộn chờ đầy đủ tư liệu, sợ thất lạc, nhưng thiết nghĩ đã hơn 150 năm mà nay sưu tầm được tài liệu như thế này mà tóm lược lại cho con cháu về sau để noi gương Tổ Tiên mình là một sự suy nghĩ về nguồn có ý nghĩa, có hiếu thuận.
  • 17. Kết luận: Ông Đoàn Văn Phú xuất thân từ Lại điển, từ chân đất áo vải đi lên, qua nhiều trọng trách từ trong triều ra ngoài nội, trở thành một Công thần, một Đại thần xông pha trận mạc, vì Nước vì Dân. Khi thọ bệnh từ giã cõi đời, từ giã quê hương làng Sơn Tùng mà Ông hằng yêu mến, xây dựng Tam quan chùa Làng, từ giã dòng Họ, con cháu, gia đình để về cõi vĩnh hằng hư vô bất tử - để lại 20 chữ vàng cho con cháu noi theo: “Vì Nước tận trung Vì Dân tận hiếu Vi Thần liêm khiết Vi Nhân liêm giới Cư Quan thanh bạch” Bây giờ đất nước ta không chỉ mươi, mười lăm triệu người như hồi đó, mà là một đất nước độc lập thống nhất vững mạnh, có tên tuổi vinh quang trên cộng đồng thế giới, đang xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, công bằng theo đường hướng Xã Hội Chủ Nghĩa mà Đảng Cộng Sản Đông Dương trước kia và Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay đã vạch ra, người yêu nước, yêu dân ai cũng mong rằng mọi người cần có tâm hồn Chân Thiện Mỹ, lương tâm đạo đức trong sáng làm nền tảng phát triển trí tuệ tài năng để xây dựng và giữ nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Bởi nếu không có xã hội chủ nghĩa thì toàn dân không giàu mạnh được, không có công bằng được và không thể có văn hóa văn minh được. Nói như vậy là để con cháu Dòng Họ phát huy truyền thống yêu nước, yêu dân. Tổ Tiên Ông Bà bao giờ cũng hy vọng con cháu “Hậu sinh khả úy”. Sưu tầm – Phụng biên Hậu duệ đời thứ 4 của Cố Đoàn Văn Phú Cháu: Đoàn Quang Đáng Đoàn Quang Tiếp
  • 18. VÀI LỜI TỰ SỰ Sau khi thi đỗ sơ học yếu lược rồi vào khoảng năm 11, 12 tuổi gì đó, thân phụ tôi lấy trên trần nhà xuống 3 cái ống tre rất to, trong đó đựng sắc bằng Cố Đoàn Văn Phú và gia phả, ông trinh trọng lấy tập sắc bằng ra, tôi thấy giấy vàng được viết chữ Nho rất đẹp và ông kể Cố Đoàn Văn Phú làm Tổng Đốc Đồng Nai và trước đó thăng chức Bộ Binh hay Bộ Lễ gì đó tôi không còn nhớ rõ. Cố thọ bệnh mất, vua Minh Mạng cho đưa về Huế để ở Điện Thái Hòa và sau đó cho đưa về Làng an táng. Ông kể nhiều chuyện khác nữa, trong đó khi đưa về có bà vợ kế về theo, bà lúc ấy đang có thai, về sau đến đời vua Tự Đức có gửi thư về hỏi thăm tình hình bà con làng xóm còn những ai, trong lúc này tình hình đất nước rối ren và kinh tế khó khăn không có điều kiện đi lại được. Hồi ông kể vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết chống Pháp ra Tân Sở rồi dần dần bị Pháp bắt, đến vua Thành Thái bị bắt, rồi vua Duy Tân khởi nghĩa thất bại, sau này đến phong trào yêu nước của cụ Phan Bội Châu, ông thân sinh tôi thỉnh thoảng đi Bến Ngự gặp cụ Phan, rồi đến làng Phú Lễ thăm bác Nguyễn Sinh Khiêm tức anh ruột của ông Nguyễn Ái Quốc. Ông say sưa kể nhiều chuyện, lúc giêng hai rãnh rỗi các cụ thường ngồi lại uống nước chè kể chuyện đời xưa, mình còn nhỏ chỉ ngồi nghe và lựa chọn mong sau này lớn lên làm sao gặp được ông Nguyễn Ái Quốc là người mà mình kính phục ngầm và tìm cho ra manh mối cố Đoàn Văn Phú. Quả thật “ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ” năm 1937 nhờ gặp được cách mạng, gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, mình tham gia và đã đóng góp trí tuệ sức lực cho đất nước, cho nhân dân và năm 1992 đến năm 1995 tìm ra được thân thế và sự nghiệp của Cố Đoàn Văn Phú. Tuy còn nhiều vấn đề chưa thỏa mãn, chưa đạt được mong muốn vì thiếu nhiều điều kiện nên chưa tìm ra những nơi quan trọng khác, dù sao thì cơ bản đã được tốt. Chỉ mong hậu duệ có hiếu nghĩa, có tình cảm sẽ tìm thêm.
  • 19. Sự thành công này tôi thầm cảm ơn các bạn: Thi sĩ Hoàng Yến. Thi sĩ Lương An. Thầy Trụ trì chùa Hải Quan. Đã nhiệt tình giúp nhiều tài liệu quý. Tp. Hồ Chí Minh – Mùa Thu 1995 - Ất Hợi Đoàn Quang Đáng – Vân Hùng
  • 20. NHỮNG TÀI LIỆU ĐÃ SƯU TẦM – NGHIÊN CỨU – BIÊN SOẠN của Cố: Đoàn Văn Phú bao gồm những tài liệu sau đây: 1- Minh mệnh chính yếu tập I, tập II quyển Thể Thần. 2- Đại Nam thực lục chính biên. 3- Đại Nam chính biên liệt truyện. 4- Đại Nam Nhất Thống Chí – XB năm 1959 tại Hà Nội. 5- Gia phả bị hỏa hoạn năm 1952 mất gần hết. 6- Tôn Nhơn Phủ chưa sưu tầm. 7- Đại Nam thực lục chính biên còn thiếu quyển I đến cuốn XIII chưa đọc. Sau này ai có điều kiện thì sưu tầm thêm cho đủ, để biết hoạt động của Cố từ năm 1833 về trước.
  • 21. ĐẠI NAM CHÍNH BIÊN LIỆT TRUYỆN QUYỂN IV NHỊ TẬP, QUYỂN XX TRANG 23A GHI: Đoàn Văn Phú, Thừa Thiên Tỉnh, Quảng Điền nhân, Gia Long thập thất niên, Lệ Tùng Công Bộ Thư Ký. Minh Mệnh niên giám – Lịch Thọ Chủ Sự Lang Trung, thập tam niên dĩ mẫn cán, cử chức thăng thự Công Bộ Thị Lang, thập lục niên chuyển Công Bộ Tham Tri Lãnh Gia Định Tuần Phủ, tầm cải Thự Long Tường – Định Biên, đẳng tỉnh Tổng Đốc, thập cửu niên thực thọ Quyền Biện Trấn Tây sự vụ, nhị thập thất niên bệnh tốt. Văn Phú vi nhân liêm giới cư quan thanh bạch, cửu dân chính hoạn nhất không tốt chi nhật, quan lại nhân dân tư ái chi quyên ngân trợ táng. Đế nhã trọng kỳ liêm thảo, tặng Hiệp Biện Đại Học Sĩ, thưởng Tống Cẩm tam chi, tiền ngũ bách dẫn. Dụ viết: “Thử vi nhân thần liêm khiết giả khuyến, Tự Đức thập thất niên liệt tự Hiền Lương Từ”.
  • 22. MINH MỆNH CHÍNH YẾU TẬP I QUYỂN 3 THỂ THẦN NĂM MINH MỆNH THỨ 21 – TRÍCH 45A TRANG 163 Đoàn Văn Phú, làm Tổng Đốc tỉnh Cửu Long, Định Tường. Văn Phú làm quan thanh bạch, Vua nghe thấy ban khen, bèn xuống dụ trước hết hãy cấp cho 3 cây gấm tàu, 200 quan tiền và cho tế một đàn. Đến khi đám tang đưa về đến Làng lại thưởng cho 300 quan tiền để khuyến khích người làm tôi liêm khiết (trang 45B). Lại truy tặng cho hàm Hiệp Biện Đại Học Sĩ, người con là Đoàn Văn Trường vua cho ăn lương hàng (hàm) cửu phẩm, đợi đến năm 20 tuổi sẽ lượng cho quan chức.
  • 23. ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ, TẬP I TRANG 213 NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC HÀ NỘI 1959 CÓ GHI Đoàn Văn Phú người Huyện Quảng Điền, Thừa Thiên – do Lại điển xuất thân. Trong đời vua Minh Mạng làm Tả Tham Tri Bộ Công, sau đó ra Tổng Đốc Vĩnh Long – Định Tường, làm quan thanh liêm, xử trí công việc nhanh chóng, đi đâu cũng có tiếng tốt, năm Minh Mạng thứ 21 mắc bệnh chết tại chức, tặng Hiệp Biện Đại Học Sĩ, năm Tự Đức thứ 11 liệt thờ ở đền Hiền Lương Từ cùng 38 vị khác.
  • 24. MỘT TÀI LIỆU TÌM Ở GIA PHẢ CÒN SÓT LẠI CÓ GHI TÓM TẮT Công cán ở Huyện Đăng Xương tỉnh Quảng Trị, sau khi đã hoàn thành trọng trách, Chi Tả Biên và Vinh thăng Binh Bộ Thượng Thư, sắc phong thọ Đại Học Sỹ trấn thủ tại Đăng Xương Huyện, Quảng Trị Tỉnh.
  • 25. Sưu tầm ở Đại Nam thực lục Chính biên tập I và tập XVII trở đi, tập XII và trang 16 nói về xây dựng Điện Thái Hòa, Lầu Ngọ Môn, Cửa Đại Cung, Lầu Ngọc Điệp (Năm Minh Mạng thứ 14 Quý Tỵ tức năm 1833) Vua giao cho Thị Lang Bộ Công Đoàn Văn Phú và Nguyễn Trung Mậu giúp việc xây dựng các công trình kể trên, vua dụ rằng các công trình này rất quan trọng vì là địa điểm to lớn bậc nhất của Hoàng Thành. Đặc biệt Điện Thái Hòa là nơi hội triều chính của Quốc gia đại sự, là nơi bàn việc nước, cảnh quan Ngọ Môn, cửa Đại Cung phải đồ sộ, uy nghi, mỹ quan tương xứng với đại Hoàng Thành tiêu biểu rực rỡ của nước Đại Việt ta. Khi mới xây đắp cung thành, mặt trước cung thành dựng làm cung điện, chính giữa là Điện Thái Hòa, hai cửa tả hữu là: Tả Túc và Hữu Túc, mặt trước Hoàng Thành là điện Kiều Nguyên, hai cửa tả hữu là: Tả Đoan và Hữu Đoan. Đến bây giờ dời Điện Thái Hòa hơi xế về phía Nam, đồ sộ và rộng lớn, dưới thềm điện ấy là bệ đỏ, dưới bệ đỏ là Long Trì, dưới Long Trì là hồ Thái Dịch, có xây cái cầu ở giữa, hai đầu cầu đều có cửa ngăn, cột đồng trụ chạm hoa bằng đồng đỏ, kẽm trắng, pha chế 4 phần đồng 6 phần kẽm. Còn ở mặt trước cung thành, chỗ chính giữa xây cửa Đại Cung, một cửa giữa, một cửa tả, một cửa hữu, hai bên phía Bắc cửa đại cung làm hữu hanh lang, bên hông đều tả hữu giãi vũ điện Cần Chánh, thềm đằng trước cửa Đại Cung cách hơn hai trượng thì đến thềm phía Bắc điện Thái Hòa, bên tả bên hữu đều đặt cửa ngăn, bên tả là cửa Nhật Linh, bên hữu là cửa Nguyệt Hoa sau đổi là Nguyệt Anh.
  • 26. Mặt trước Hoàng Thành chế chính giữa dựng cửa Ngọ Môn, giữa 1 cửa, 2 bên tả hữu mỗi bên một cửa tất cả có 5 cửa, cửa giữa và 2 cửa giáp 2 bên, trên cửa có gác rầm ngang thẳng làm bằng đồng, 58 cái rầm ngang làm bằng đồng đỏ và kẽm trắng pha chế 3 phần đồng 7 phần kẽm, 12 cái rầm thẳng pha chế 4 phần đồng 6 phần kẽm đều 3 tấc bề mặt, 2 tấc bề dày, 2 cửa bên tả hữu làm 2 cửa quyết, phía trên cửa làm lầu ngũ phượng, phía trước cửa có hồ Ngoại Kim Thủy Trì, trên hồ xây cầu Kim Thủy chính giữa, bên tả bên hữu mỗi chỗ một cái cầu, ở đầu bệ Long Trì, hồ Thái Dịch, cầu Kim Thủy là tầng trên, cửa Ngọ Môn đều có câu lơn, đều dùng gạch hoa bằng lưu ly các màu kiểu mẫu tôn nghiêm thật là chế độ thái bình thịnh trị. Ngày Đinh Tỵ, tiết thanh minh, vua đến xem chỗ thợ làm Điện Thái Hòa thấy mái hiên thấp, vua Minh Mạng bảo Đổng Lý Đoàn Văn Phú rằng: “Đây là nơi triều cận, phải nên cao lớn, rộng rãi để cho đẹp mắt” Đoàn Văn Phú Tâu: “Ở xứ Thuận Hóa này gió bão dữ dội làm cao dễ bị tróc mái và sụp đổ”, vua không nghe và cho rằng: “Việc che mưa nắng tránh gió bão chỉ là việc nhỏ, mà để đẹp nơi triều cận mới là việc to, làm như thế khác gì tiếc con dê mà không trọng lễ”. Đổng Lý Đoàn Văn Phú liền phá đi làm lại. Việc thiết lập cửa ải Hoành Sơn, vua nói rằng nay Nam Bắc một nhà, bốn phương vô sự, trong đó có các cửa ải Quảng Bình, Vũ Thắng là nơi hiểm yếu đủ cậy rồi, nên giao cho Thị Lang Công Bộ Đoàn Văn Phú đến núi Hoành Sơn ở khoảng tiếp giáp 2 tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh thiết lập cửa ải ở núi Hoành Sơn, lập ra cửa ải này chỉ để xét hỏi quân gian, cũng là một đồn biên phòng và cũng chỉ để kỷ niệm thời chia cắt đất nước mà thôi. Ngươi đến đó nên xem xét kỹ hình thế mà đặt địa điểm xây cửa ải và trù tính việc làm cốt sao đỡ tốn kém. Sau thời gian ngắn thấy Bộ Công nhiều việc vua sai thư Bố Chính Quảng Bình là Trần Văn Tuân chuyên coi việc xây cửa ải và mời Đoàn Văn Phú về kinh.
  • 27. Minh Mạng thứ 14 – Quý Tỵ, Mùa Hạ tháng 4 năm 1833: Việc xây dựng Điện Thái Hòa, cửa Đại Cung, cửa Ngọ Môn đã hoàn thành, vua ban thưởng cho các đổng lý: Lê Đăng Doanh, Hoàng Văn Khuê, Nguyễn Tăng Ninh, Lê Văn Đức, Tham Biện Đoàn Văn Phú, Nguyễn Trung Mậu và các nhân viên chuyên biện, tòng biện…cấp kim tiền, ngân tiền, có từng bậc khác nhau. Mùa Hạ, tháng 6 năm 1833 khi lầu Ngọc Điệp làm xong, ban thưởng cho từ tổng tài trở xuống, trong đó có Đoàn Văn Phú thăng Tả Thị Lang Bộ Công. TẬP XIV Những năm tháng Đoàn Văn Phú công cán Nam Bộ liên tục cho đến khi tạ thế. Minh Mạng năm thứ 15 Giáp Ngọ, mùa hạ tháng 5 năm 1834, thăng chức cho Đoàn Văn Phú từ Tả Thị Lang Bộ Công lên Tả Tham Tri Bộ Công rồi phái Đoàn Văn Phú đi đôn đốc công việc 2 tỉnh Định Tường, Biên Hòa (Định Biên). Minh Mạng thứ 15 Giáp Ngọ, tháng 7 mùa thu năm 1834 dúng ngày 01 làm lễ mùa thu, Khâm phái đốc biện công việc 2 tỉnh Định Tường, Biên Hòa là Đoàn Văn Phú cùng với quan tỉnh Gia Định cùng đúng tên vào tờ tấu nói rằng: “Những lính do các đồn điền dồn bố làm các cơ, có hơn 600 người quê Gia Định, cứ trong số cho về theo lệ 5 đinh lấy 1, cùng lệ với 2 tỉnh Long Tường chọn được 145 người, cộng với lính mộ 2 cơ Gia Định, Gia Võ hiện có 27 người vậy xin dồn cả 3 đội: đội nhất, đội nhị, đội tam – cơ Gia Định nguyên 2 đội, Dực Bảo 23 người, nguyên cơ Phiên Thuận 21 người dồn làm 4 đội; nguyên các đội Giáo Dưỡng 53 người dồn làm 5 đội; lại nữa các đội pháo thủ 32 người dồn làm một đội pháo thủ 32 người; các đội tượng cơ 14 người dồn làm một đội tượng cơ, còn 2 đồn đóng ở bân tả hữu cửa sông Bến Nghé đều là xung yếu, mà xây đồn như vậy nhiều mặt quá yếu không đủ sức phòng
  • 28. thủ, nay xin thuê dân sửa đắp cũng cố bổ sung và mở rộng ra cho tương xứng sức mạnh phòng thủ vị trí cửa sông xung yếu, để nghiêm việc phòng bị”. - Dồn bên tả từ trước đến sau dài 21 trượng 6 thước 5 tấc, từ tả đến hữu 22 trượng 6 thước. - Dồn bên hữu từ trước đến sau dài 17 trượng 8 thước, từ tả đến hữu dài 12 trượng (chiều cao cũ đều cao 5 thước, chân dày 2 trượng, bốn góc đất có phái đài, mặt sau đều 1 cửa, nay đều đắp cao thêm 6 thước 3 tấc). Việc tâu trình lên, vua Minh Mạng đều y theo.
  • 29. TẬP XVII TRANG 107 NĂM ẤT MÙI MINH MẠNG THỨ 16 – MÙA THU THÁNG 8 1835 TÂY LỊCH Ra lệnh cho các tướng quân, tham tán ở các quân thứ Gia Định rút về, chuẩn cho trích ra để lại 4 vệ là: Hậu nhất doanh Vũ Lâm; Hữu vệ doanh Hổ Úy mới phải đi cùng với Hậu báo nhị và Trung báo nhị, nguyên từ Bình Thuận phái đi theo cùng Đoàn Văn Phú, Nguyễn Văn Trọng, Tôn Thất Lương và phái viên Nguyễn Tri Phương ở Gia Định sai phái việc công. Cũng Minh Mạng năm thứ 16, mùa đông tháng 11 năm 1835 vua ban tờ dụ viết chữ son trong đó có Quyền Tuần Vũ Gia Định Đoàn Văn Phú đều thực lòng ra sức chịu đựng khó nhọc, rõ ràng đều có công lao đều giao Bộ xét công ban thưởng.
  • 30. TẬP XVIII TRANG 141 NĂM BÍNH THÂN MINH MẠNG THỨ 17 – MÙA HẠ THÁNG 5 NGÀY MỒNG 1 NĂM 1836 TÂY LỊCH Vua báo thị thần trong đó có Quyền Lãnh Tổng Đốc Định Biên (Gia Định – Biên Hòa) Đoàn Văn Phú thực thụ Tổng Đốc Vĩnh Long. Trang 147: Tổng Đốc Long Tường (Vĩnh Long – Định Tường) Đoàn Văn Phú tâu nói: “Cơ võ sự thuộc tỉnh xin y theo lệ trước, có việc thi tập hợp đủ, không có việc thì về quê làm ăn, sau đó có tiếp tục tăng nữa đều ghi làm lính cơ võ cự, hàng năm đến tháng 2 thì tỉnh thao diễn 1 lần. Chuẩn y lời bàn luận của Bộ Binh, bắt đầu từ tháng 6 năm nay theo hiện có lính cơ 226 người, hàng tháng rút một đầu mục 40 hiến binh lưu tại ngũ, chi lương, ngày thường thao diễn, ngoài ra đều cho ở quê quán, đầy tháng lên thay số, hết lược lại bắt đầu. Hàng năm ngày mồng một tháng 2 tề tựu thao diễn một tháng, xong việc lại theo lệ thường luân phiên thay đổi nhau, khi có việc sai phái thì trưng dụng hết quân số, từ sau có tiếp tục tăng nữa cũng y theo lệ này, liệu cho lưu ngũ” ( Vậy Tổng Đốc Long Tường theo dụ nào chưa tìm ra). Trang 224 – Minh Mạng năm thứ 17 – Bính Thân – 1836 mùa thu tháng 7 ngày mồng 1 làm lễ thụ hưởng, vua dụ trong đó có những người sơ suất trong việc kiểm soát có Tổng Đốc Nguyễn Văn Trọng và nguyên Tuần Phủ Đoàn Văn Phú đều giáng 2 cấp (không nói rõ việc gì).
  • 31. TẬP XIX TRANG 127 – NĂM ĐINH DẬU MINH MẠNG THỨ 18 – MÙA HẠ THÁNG 5 NĂM 1837 TÂY LỊCH Tổng Đốc Long Tường dâng tập thỉnh an nói: “Ruộng đất của dân hạt ấy có người nguyên ruộng nhiều mà biên vào ít, có người nguyên ruộng ít mà biên vào số nhiều, trong dân tình dư luận bất bình, xin cho dân thư tố cáo, khám thực chữa lại”, trang 205 Đinh Dậu – Minh Mạng thứ 18 – năm 1837 mùa thu tháng 7 ngày mồng 1 làm lễ thụ hưởng. Trong lúc tình hình biên giới phía Tây bất an, vua sai Đoàn Văn Phú Tổng Đốc Long Tường quyền lãnh ấn triện Trấn Tây Tướng Quân đến bản doanh Trấn Tây Thành tại An Giang để trấn an biên giới, cùng đi giúp việc có Tham Tán Lê Đại Cương và Đề Đốc Bùi Công Nguyên để bàn công việc. Mùa thu năm tháng 9 Minh Mạng thứ 18 năm 1837 vua dụ rằng: “Tướng quân Trương Minh Giảng về kinh chiêm yết, giao ấn triện lại cho Đoàn Văn Phú Trấn Tây Tướng Quân”, Trương Minh Giảng về kinh thụ chức Binh Bộ Thượng Thư. Trang 285, Đinh Dậu Minh Mạng thứ 18 – 1837 mùa đông tháng 11: Quan thành Trấn Tây Đoàn Văn Phú tâu lên vua nói bọn loạn thần tên là Jiun làm phản, phiên phục phủ Hải Đông thành Trấn Tây vệ úy lãnh chức an phủ, quản lý các cơ thổ binh, ở đồn phủ là Sa Tháp song chứa người làm phản liên quan thông với giặc, mưu đem giặc Nặc – Ông –Jiun về nước Lạp bị dân phiên tố giác. Quan Trấn thành Đoàn Văn Phú, Lê Đại Cương, Bùi Công Nguyên mật sai Lãnh binh là Nguyễn Công Hòa đi nã bắt, xích giải vế thành xét trị, bè lũ hắn là cai đội cơ thập tịch biên sung quản là Đô Y thấy việc tiết lộ bèn họp trở về Tăng Cần lang giết hại dân Kinh buôn bán hơn 100 người để gây thanh thế. Án Phủ là Phạm Ngọc Oánh, Hiệp lý phủ vụ là Đoàn Đức Quảng sai quản cơ là
  • 32. Bồn Đột đuổi theo đánh nhau ở Châm Bốc, bọn phản nghịch đều tan, Đề Y chỉ cùng mấy chục người chạy trốn. Đoàn Văn Phú được báo liền phái Úy phó lãnh binh là Vũ Đức Trọng đem biền binh đi theo bắt, đem việc tâu lên vua Minh Mạng, vua Minh Mạng cho rằng bọn Phú không biết dự phòng trước khi việc xãy ra, mỗi người đều bị giáng 1 cấp (việc này Đoàn Văn Phú đến tháng 9 mà tháng 11 xãy ra như vậy là mầm móng tổ chức phản loạn này là có từ lúc ông Trương Minh Giảng đương chức, ông Phú mới đến thay đã chống bạo loạn thắng lợi lại bị giáng một cấp là oan nhưng sau vài tháng lại được phục chức). Suốt 3 năm nhậm chức Trấn Tây Tướng Quân có vô số việc không thể chép hết, trong đó có những việc còn tâu trình công việc của Long Tường và đến năm Minh Mạng thứ 21 tức năm 1840 ông Đoàn Văn Phú về lại Tổng Đốc Vĩnh Long – Định Tường rồi bạo bệnh mà chết ngày 11 tháng 06 Âm lịch hưởng thọ 40 tuổi - và cuối năm đó Minh Mạng làm lễ thượng thọ 50 tuổi, thưởng công lao cho các công thần, truy tặng, phong tặng và ân sủng cho gia đình có công rồi Minh Mạng cũng mất trong năm Minh Mạng thứ 21 (1840).
  • 33. Đoàn Văn Phú Người huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên. Gia Long năm thứ 17, Phú lệ theo làm Thư ký bộ Công. Khoảng năm Minh Mạng, trải bổ Chủ sự, Lang trung. Năm thứ 13, Phú vì nhanh giỏi được việc, thăng Thự Thị lang bộ Công. Năm thứ 16, chuyển làm Tham tri bộ Công, lĩnh Tuần phủ Gia Định, rồi đổi đi Thự Tổng đốc 2 tỉnh Long Tường, Định Biên. Năm thứ 19, được thực thụ (tổng đốc), quyền làm công việc thành Trấn Tây. Năm thứ 21, Phú ốm chết. Văn Phú là người liêm khiết, ít tình diện, ở quan thanh bạch, lâu làm việc cai trị dân mà túi làm quan rỗng không. Ngày Phú chết, quan lại nhân dân nhớ tiếc quyên tiền giúp việc mai táng. Vua trọng về lòng thanh liêm tiết tháo của Phú tặng cho hàm Hiệp biện Đại học sĩ, và thưởng cho 3 cây gấm Trung Quốc, 500 quan tiền. Dụ rằng : đó là để khuyến khích cho người làm tôi liêm khiết sau này. Tự Đức năm thứ 11, bày thờ vào đền Hiền Lương.