1. 40
NÚI ĐÁ BIA
(Thạch Bi Sơn)
TỪ KHÚC
điệu
Tây giang nguyệt
I
Bia Đá đầu non ngự trị,
Nghìn thu hùng vĩ uy nghi!
Cột Đồng Đông Hán, bút lưu ghi;
Xa mã
Trương Châu
Từng trú…
Hồng Đức lập bia chỉ giới;
Chữ mờ mây xóa còn gì!
Hoa Anh một thuở, chốn biên thùy…
Họ Phí
Lương Khê
Thơ để…
2. 41
II
Viếng cảnh non Bia mấy độ :
Phát cành mở lối phen đầu ,
Rẽ mù leo cấp một lần sau.
Mua tía ,
Đác già ,
Ve gọi …
Khói phủ , sương giăng ,bóng ngả ;
Bão vờn lửa ngọn đêm thâu .
Dạ đàm , canh trọn khắc tàn mau !
Mưa đổ,
Núi nhòa ,
Lan tưới …
Chú thích:
(1) "Từ" là một thể loại văn chương (thơ, phú, từ, ca trong văn học Tàu) xuất hiện vào đời
Đường (Trung Quốc). Dùng để ngâm, ca. Đó là biến thể của thơ ngũ ngôn & thất ngôn. Tương tự
như hát ả đào (trong đó có hát-nói) là biến thể của lục bát và song thất lục bát. Đừng lầm với thể
từ của nước Sở thời Chiến Quốc (Trung Quốc), thường gọi là Sở-từ (nổi danh nhờ tác phẩm Ly
Tao, một trong lục-tài-tử, của Khuất Nguyên).Việt Nam có thơ,phú,ngâm ca;ngâm ít chịu ảnh
hưởng của âm nhạc hơn là từ.
Giới nho sĩ Việt Nam xưa,thấy chẳng sáng tác theo thể loại “từ” này. Phan Kế Bính không
đề cập đến trong Việt Hán Văn Khảo. Theo Nguyễn Hiến Lê trong Đại cương Văn học Sử Trung
Quốc thì muốn làm từ khúc phải thông âm luật đời Đường.(Còn “sắp chữ” từ khúc lại là một
chuyện khác.)