TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
Chap3 m2-tv
1. 96
4.4 Phát triển nhờ vào tài nguyên chưa được khai thác
Các hoạt động kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu, ở các nước đang phát triển phụ
thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên (Bảng 2.3). Cho dù tài nguyên thiên nhiên này
càng khan hiếm nhưng một vài nước đang phát triển vẫn còn một trữ lượng lớn
khoáng sản, rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác chưa được khai thác để sản xuất
các sản phẩm thô. Các nước như Úc, Canada, và Mỹ là những nước đã đạt được sự
tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển chủ yếu nhờ vào việc
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Liệu các nước đang phát triển có trữ lượng tài
nguyên thiên nhiên lớn ngày nay có thể đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhờ vào
nguồn tài nguyên chưa được khai thác hay không? Phần này sẽ tiến hành phân tích
khả năng này dựa trên các lý thuyết về quá trình phát triển kinh tế của các nước giàu
tài nguyên thiên nhiên.
4.4.1 Chủ nghĩa thực dân và lý thuyết khai hoang
"Lý thuyết khai hoang" của nhà kinh tế học người Myanma, Hla Myint (1971:
ch.5) tập trung vào quá trình phát triển ở "những vùng đất hoang" nơi dân cư thưa
thớt, đất đai hoang hoá còn nhiều, và tài nguyên thiên nhiên còn phong phú. Những
vùng đất này có thể tìm thấy ở Đông Nam Á và châu Phi khi người phương tây xâm
chiếm. Khi nền kinh tế của các nước này được gắn kết với thị trường thế giới sau khi
bị xâm lược thì các nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác (trước đây
không có giá trị gì đối với cư dân bản địa) bắt đầu phát huy tác dụng vì chúng được sử
dụng để sản xuất các sản phẩm thô cho thị trường thế giới. Những tài nguyên thiên
nhiên này khi được khai thác bởi các doanh nghiệp phương tây sẽ đem lại một nguồn
thu nhập mới. Một ví dụ điển hình là Malaysia. Malaysia đã trở thành một nước xuất
khẩu hàng đầu các sản phẩm thô khi người Anh dùng vốn của mình và lao động đến từ
Trung Quốc và Ấn Độ tiến hành khai thác thiếc và cải tạo các khu rừng rậm thành các
đồn điền cao su.
Tuy nhiên quá trình phát triển "nhờ vào khai hoang" như vậy không tạo ra mức
thu nhập và mức sống cao hơn cho người bản địa. Theo Hla Myint, chính quyền thực
dân và tư bản ngoại quốc liên kết với nhau để hạn chế trình độ học vấn và tay nghề
của người dân bản địa nhằm duy trì nguồn lao động rẻ. Một khía cạnh nữa là những
thương nhân ngoại quốc cũng ra sức bóc lột người nông dân nhờ vào vị trí độc quyền
(Hla Myint, 1965: ch.3 và 5). Tương tự như vậy, các nhà tư bản ngoại quốc thông qua
các hoạt động khai mỏ và xây dựng đồn điền đã gây ra những tác động tiêu cực như
chia rẽ dân tộc và lãng phí một lượng lớn thu nhập có được từ khai thác tài nguyên để
nhập khẩu các hàng hoá xa xỉ từ nước ngoài. Lập luận này từng được ủng hộ rộng rãi
2. và được sử dụng để giải thích cho sự nghèo đói và kém phát triển ở những nước thuộc
địa trước kia (Singer, 1950; Boeke, 1953; Lewis, 1989).
Lý thuyết này cùng với "lý thuyết về sự phụ thuộc" – lý thuyết theo quan điểm
tân Mác xít cho rằng nghèo đói được tạo ra ở Thế giới thứ ba là để duy trì tỷ lệ lợi tức
tư bản ở mức cao cho các nước phát triển (Baran, 1957; Furtado, 1963; Frank, 1967) -
là cơ sở lý luận để ủng hộ các chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và quốc
hữu hoá các nhà máy, mỏ tài nguyên của tư bản nước ngoài nắm giữ (Phần 8.2.4).
Tuy nhiên, nhà kinh tế học người Jamaica W.A.Lewis (1970: ch.1) đã phản đối
mạnh mẽ các lý thuyết này. Ông cho rằng không phải các đồn điền rộng lớn mà chính
những người nông dân nhỏ lẻ đã đóng góp phần lớn làm tăng xuất khẩu các sản phẩm
nhiệt đới từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Thu nhập của người nông dân, nếu
không muốn nói là tiền lương, đã tăng lên khi sức lao động của các thành viên trong
gia đình và tài nguyên đất đai được sử dụng nhiều hơn. Hơn thế nữa, ông cho rằng thu
nhập tạo ra từ hoạt động khai mỏ và từ các đồn điền cũng có tác dụng thúc đẩy công
nghiệp hoá tại nước bản địa. Cho dù ông thừa nhận rằng có một số chính sách thực
dân đã bóp nghẹt sự phát triển của nền kinh tế nước bản địa nhưng chính quyền thực
dân không cố tình hạn chế cung cấp các hàng hoá công cộng như giáo dục và giao
thông để bóp nghẹt sự phát triển của nước bản địa. Chính quyền thực dân không thể
tiến hành các hoạt động đầu tư công trên quy mô lớn được đơn giản là vì lúc bấy giờ
khả năng tài chính của họ còn rất yếu. Vì vậy, ông cho rằng nếu như sự bùng nổ trong
xuất khẩu các sản phẩm nhiệt đới không bị gián đoạn bởi cuộc Đại khủng hoảng thế
giới trong những năm 1930 thì nhiều nước thuộc địa đã có thể chuyển đổi thành công
từ các nước có nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên là chính sang các nước công
nghiệp.
Hla Myint và Lewis có những cách giải thích hoàn toàn khác nhau về mục đích
và hậu quả của các chính sách thực dân. Tuy nhiên, cả hai nhà kinh tế lớn này (cả hai
đều sinh ra ở Thế giới thứ ba) đều thừa nhận rằng sự tăng trưởng kinh tế dựa vào việc
khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên còn để hoang sơ có thể đem lại sự tăng
trưởng kinh tế bền vững và phúc lợi cho người dân bản địa hay không phụ thuộc rất
nhiều vào việc huy động được các nguồn thu từ khai thác tài nguyên thiên nhiên để
đầu tư vào nguồn vốn nhân lực và cải thiện cơ sở hạ tầng, thể chế nhằm làm cho cơ
chế thị trường vận hành một cách có hiệu quả.
97
4.4.2 Lý thuyết sản phẩm chủ lực
Lý thuyết sản phẩm chủ lực do nhà lịch sử kinh tế người Cananda đưa ra (Innis,
1933; Watkins, 1963) có cơ sở giống như lý thuyết khai hoang khi giải thích về quá
3. trình phát triển của những vùng đất hoang hoá do tác động của thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, lý thuyết này (dựa trên lịch sử của các nước phát triển) tập trung vào mô
hình dịch chuyển trong phát triển kinh tế ở những vùng đất hoang hoá bắt đầu từ giai
đoạn khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu cho tới giai đoạn tăng trưởng
thương mại và công nghiệp. "Sản phẩm chủ lực" ở đây có nghĩa là một loại hàng thô
đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu ở những vùng đất hoang hóa. Khi dân số tăng
lên do việc làm và thu nhập tăng nhờ xuất khẩu hàng chủ lực, tiêu dùng trong nước và
các hoạt động chế biến, giao thông vận tải liên quan tới việc sản xuất và xuất khẩu
hàng chủ lực sẽ tăng lên. Điều này sẽ kích thích thương mại và công nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, cần phải có nhiều thời gian trước khi đạt tới một ngưỡng tại đó tính kinh tế
quy mô phát huy tác dụng trong ngành thương mại và công nghiệp. Nếu như các
nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt trước khi đạt tới ngưỡng này thì không thể
đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững.
Chính vì vậy, để có thể chuyển đổi thành công từ phát triển dựa trên khai thác
tài nguyên thiên nhiên là chính sang phát triển dựa vào thương mại và công nghiệp
cần phải có sự chuyển đổi từ sản phẩm chủ lực này sang sản phẩm chủ lực khác cho
tới khi nền kinh tế đạt tới ngưỡng có thể phát triển thương mại và công nghiệp. Ở
Canada, sự chuyển đổi này bắt đầu từ cá tuyết và lông thú khai thác ở khu vực duyên
hải phía đông rồi chuyển sang gỗ khai thác ở các khu rừng nằm sâu trong lục địa và
tiếp tục sang lúa mỳ trồng ở Đại bình nguyên. Thông qua quá trình này, thị trường
trong nước được mở rộng với sự phát triển của mạng lưới thương mại, giao thông vận
tải, các nhà máy chế biến gỗ, lúa mỳ cũng như các nhà máy sản xuất hàng tiêu dùng
nội địa.
Sự chuyển đổi này được thực hiện bởi những người nông dân, thương nhân,
chủ mỏ, những người có động lực thúc đẩy là lợi nhuận. Tuy nhiên, để chuyển một
nền kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên là chủ yếu sang giai đoạn phát triển bền
vững cần phải có sự hỗ trợ của hàng hoá công cộng. Sự chuyển đổi thành công từ các
sản phẩm thuỷ sản sang gỗ và lúa mỳ nói trên sẽ không thể thành hiện thực nếu không
có sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ví dụ như hệ thống giao thông đường
thuỷ và hệ thống đường sắt. Hệ thống hạ tầng thể chế ví dụ như đăng ký và cấp đất
cũng cần phải được phát triển để mở rộng phạm vi canh tác ra phía tây. Khi khả năng
mở rộng đất đai không còn nhiều thì cần phải phát triển các hệ thống nghiên cứu nông
nghiệp và khuyến nông để duy trì xuất khẩu lúa mỳ (North, 1955). Có rất nhiều loại
cơ sở hạ tầng vật chất, con người, và thể chế cần phải được xây dựng để có thể phát
triển thương mại và công nghiệp.
98
4. Cơ chế phát triển theo lý thuyết sản phẩm chủ lực đã chuyển đổi thành công
các vùng đất hoang hoá ở Bắc Mỹ và Úc thành những nền kinh tế tăng trưởng bền
vững giúp gia tăng phúc lợi kinh tế cho mọi người (ngoại trừ những thiệt hại mà người
thổ dân phải chịu). Chưa có nước nào ở châu Á và ở châu Phi làm được điều tương tự.
Sự thất bại ở những nước này có thể được lý giải bởi chính sách bóc lột của chủ nghĩa
thực dân, sự cản trở của cuộc Đại khủng hoảng, hoặc các yếu tố khác. Tuy nhiên, rõ
ràng qua lý thuyết khai hoang và lý thuyết sản phẩm chủ lực nếu chỉ đơn thuần khai
thác tài nguyên thiên nhiên sẽ không thể có được sự tăng trưởng bền vững cũng như
không thể nâng cao mức sống của cư dân bản địa. Vấn đề đối với các nước đang phát
triển vẫn còn trữ lượng lớn tài nguyên lớn là phải tìm ra cách để có thể sử dụng thu
nhập từ việc khai thác tài nguyên đầu tư vào vốn nhân lực và vốn cố định. Khi đó các
nước này mới có thể chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế bền vững được.
99
4.4.3 Căn bệnh Hà Lan
Dù sự sẵn có của tài nguyên thiên nhiên là một tài sản quan trọng cho phát triển
kinh tế, đôi khi nó cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ kinh tế. Hiện tượng này
gọi là "căn bệnh Hà Lan" vì những gì Hà Lan đã phải trải qua sau khi phát hiện một
lượng lớn khí tự nhiên ở vùng Biển Bắc vào cuối những năm 1950. Việc khai thác
nguồn tài nguyên mới này đã đem lại sự cải thiện đáng kể trong cán cân thương mại
của Hà Lan nhưng nó cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm ngành công
nghiệp trong nước và gia tăng thất nghiệp. Vì thặng dư thương mại tăng nên tỷ giá hối
đoái cũng tăng theo làm suy giảm khả năng cạnh tranh của hàng nông nghiệp và công
nghiệp trên thị trường thế giới (Corden và Neary, 1982).
Giá trị gia tăng trong khu vực nông nghiệp và công nghiệp bị sụt giảm do xuất
khẩu tài nguyên tăng lên có mức độ lớn hơn nhiều so với khoản thu nhập tăng thêm từ
hoạt động xuất khẩu tài nguyên. Trong khi đó vì ngành khai thác dầu khí cũng như các
khoáng sản khác có đặc trưng là ngành sử dụng nhiều vốn (Bairoch, 1975: ch.3) nên
số việc làm tăng thêm trong ngành này không đủ cho số người bị mất việc làm trong
khu vực nông nghiệp và công nghiệp.
Một số người thất nghiệp có thể tìm được việc làm trong các ngành như xây
dựng và dịch vụ do khu vực khai thác tài nguyên thiên nhiên tăng trưởng đã kéo theo
nhu cầu việc làm trong ngành xây dựng và dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên, quá trình tái
phân bổ lao động giữa các ngành như thế này thường diễn ra rất chậm.
Sự nguy hiểm đe dọa các nước giàu tài nguyên thiên nhiên là những cuộc
khủng hoảng về tài nguyên thiên nhiên ví dụ như cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ
nhất 1973-5 và lần thứ hai 1979-81 đã làm cho giá tài nguyên thiên nhiên và thu nhập
5. từ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên tăng lên cao nhưng thường chỉ diễn ra tro ng một
khoảng thời gian ngắn. Tỷ giá hối đoái tăng mạnh trong giai đoạn khủng hoảng sẽ có
tác động nghiêm trọng tới các ngành nông nghiệp và công nghiệp trong nước gây ra
thiệt hại đáng kể đối với tài sản cố định và kỹ năng quản lý, lao động cần thiết cho các
ngành sản xuất ngoài ngành khai khoáng. Việc phục hồi lại các ngành này là rất khó
khăn. Khi cuộc khủng hoảng qua đi, nhu cầu đối với các sản phẩm dịch vụ sẽ giảm
mạnh. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới sự suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng. Nếu
một số ngành sản xuất quan trọng (hoặc ngành nông nghiệp), những ngành có vai trò
bổ sung chiến lược đối với các ngành khác, bị suy thoái thì nền kinh tế khó có thể
quay trở lại được lúc ban đầu và thậm chí còn bị rơi vào trạng thái cân bằng ở mức
thấp (Krugman, 1987, 1991; Matsuyama, 1991).
Căn bệnh Hà Lan đã từng xảy ra ở Nigeria. Nigeria là một nước xuất khẩu dầu
mỏ lớn và đã hưởng lợi lớn từ hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Giống như các nước
đang phát triển khác, tỷ giá hối đoái chính thức của Nigeria được giữ cố định. Tuy
nhiên phần lớn thu nhập tăng lên từ xuất khẩu dầu mỏ được đầu tư cho các dự án hào
nhoáng và dành cho chi tiêu của chính phủ. Cầu hữu hiệu tăng lên đã gây ra lạm phát.
Tỷ giá hối đoái thực tế tăng mạnh vì tỷ giá hối đoái chính thức được giữ cố định và
lạm phát trong nước tăng nhanh hơn rất nhiều so với lạm phát trên thế giới. Chính vì
vậy, các ngành sản xuất ngoài ngành khai thác dầu mỏ, đặc biệt là ngành nông nghiệp,
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Làng xóm ở khu vực nông thôn trở nên hoang vắng và
lượng thất nghiệp ở khu vực thành thị tăng mạnh vì mọi người đổ xô ra thành phố
kiếm việc làm trong khu vực dịch vụ. Vấn đề còn nghiêm trọng hơn vì chính phủ
Nigeria đã tiến hành xây dựng các ngành công nghiệp quy mô lớn, sử dụng nhiều vốn
bằng tiền thu được từ xuất khẩu dầu mỏ và các khoản tín dụng nước ngoài đổ về do
khi mọi người kỳ vọng giá dầu mỏ tiếp tục tăng thì khả năng thanh toán của Nigeria là
rất khả quan. Sau khi cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai qua đi năm 1981, Nigeria
phải đối mặt với một khu vực nông thôn hoang vắng và các đô thị tràn ngập người thất
nghiệp. Tình trạng này rất giống với tình trạng bị rơi vào cái bẫy ở mức cân bằng thấp
trong lý thuyết về sự bổ sung chiến lược.
Rất nhiều nước như Mêhicô cũng đã gặp phải vấn đề tương tự như Nigeria
(Gelb cùng cộng sự, 1988; Little cùng cộng sự, 1993). Tuy nhiên, một nước đã không
bị mắc căn bệnh Hà Lan nói trên chính là Indonesia (Pinto 1987). Giống như Nigeria,
các khoản thu của chính phủ và thu từ xuất khẩu của Indonesia phụ thuộc nhiều vào
dầu mỏ. Tuy nhiên, trong hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ, chính phủ Indonesia đã tăng
cường đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi và hệ thống nghiên cứu nông nghiệp cũng như trợ
giá cho phân bón và các yếu tố đầu vào khác. Chính vì vậy, các cơ sở sản xuất nông
100
6. nghiệp của Indonesia được tăng cường. Điều này được minh chứng bằng khả năng tự
chủ về gạo của nước này. Đồng thời Indonesia thực hiện chính sách tài khoá chặt nên
đã kiềm chế được lạm phát. Đồng nội tệ bị phá giá liên tục (1978, 1983, 1986) cùng
với sự tự do hoá thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài đã giúp phát triển các
ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động mà Indonesia có lợi thế so sánh (Oguro và
Kohama, 1995; Thorbeck, 1998).
Sự khác biệt lớn về tăng trưởng kinh tế giữa Nigeria và Indonesia được thể hiện
trong Bảng 2.1, 2.2 và 2.3. Sự tương phản giữa Nigeria và Indonesia không phải là
duy nhất mà là sự điểm chung giữa khu vực châu Phi cận Sahara và khu vực Đông Á
(Thorbeck, 1995a). Điều này cho thấy trữ lượng tài nguyên thiên nhiên lớn không nhất
thiết sẽ đem lại sự phát triển kinh tế mà có khi lại còn gây ra cản trở. Đồng thời, rõ
ràng là các nước giàu tài nguyên thiên nhiên có thể thoát khỏi căn bệnh Hà Lan nếu có
các chính sách thích hợp.
101
Ghi chú:
1. Allen cho rằng những cải tiến của địa chủ không làm tăng năng suất nhưng làm
giảm đầu vào lao động đáng kể. Quan điểm của ông phù hợp với quan điểm của Mác
cho rằng nhập các thửa ruộng nhỏ của nhiều nông dân lại thành các trang trại lớn cho
địa chủ đã tạo ra lực lượng lao động dự trữ cho công nghiệp (ch.5, phần 1). Theo
Allen, có rất ít lao động bị mất vịêc làm trong khu vực nông nghiệp vào thế kỷ 18 có
thể tìm được việc làm khác trong khu vực công nghiệp.
2. Phần này chủ yếu dựa trên Kikuchi và Hayami (1985). Để biết thêm về cơ chế
chuyển giao công nghệ nông nghiệp giữa các nước, xem Hayami và Ruttan (1985:ch 9
và 10).
3. Sự chuyển giao công nghệ nông nghiệp giữa các khu vực là nguyên nhân chủ yếu
làm tăng năng suất trong nông nghiệp kể từ thời tiền sử đến nay (Sauer, 1952). Đối
với gạo, sự chuyển giao các giống ngắn ngày và chịu được hạn hán từ vương quốc
Champa ở miền trung khu vực Indo-China đến miền trung và miền nam của Trung
Quốc đã làm cho sản xuất gạo tăng lên trong các đời nhà Sung, Yuang và nhà Minh
(thế kỷ 12 đến thế kỷ 17) vì các giống mới này cho phép canh tác hai vụ (Ho, 1956;
Barker và Herdt, 1985: 17). Tuy nhiên, sự chuyển giao những công nghệ tiền hiện đại
này diễn ra rất chậm chạp so với sự chuyển giao công nghệ trong kỷ nguyên sản xuất
nông nghiệp dựa trên khoa học bởi vì thời đó quá trình này không được hỗ trợ bởi các
nghiên cứu khoa học và hệ thống khuyến nông có tổ chức.
7. 4. Để biết thêm chi tiết về sự trì trệ trong năng suất ở những khu vực sản xuất gạo tiên
tiến trong vùng nhiệt đới, xem Hayami và Otsuka (1994) và Pingali cùng cộng sự
(1997).
102