Khoá Luận Chính Sách Của Hàn Quốc Đối Với Trung Quốc Từ Năm 2000 Đến Năm 2016 đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn miễn phí. Nếu các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin ngay qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé!
Khoá Luận Chính Sách Của Hàn Quốc Đối Với Trung Quốc Từ Năm 2000 Đến Năm 2016
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ CÔNG CHUNG
CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI TRUNG
QUỐC TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2016
NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP QUAN HỆ QUỐC TẾ
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
LÊ CÔNG CHUNG
CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI TRUNG
QUỐC TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2016
Khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành: Quan hệ
quốc tế Mã số: 60310206
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Hoàng Minh Hằng
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả
nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa từng được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Học viên
Lê Công Chung
4. Lời cảm ơn
Trong quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự hỗ trợ
rất quý báu và hiệu quả từ nhiều cá nhân và đơn vị. Trước hết, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Hoàng Minh Hằng - người hướng dẫn khoa
học đã tận tình giúp đỡ tôi suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Chân thành cảm ơn Ban Đào tạo Sau đại học – Đại học Khoa học xã hội
& Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội; Cám ơn các thầy cô giáo đã trực tiếp
giảng dạy mang lại cho tôi nhiều kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những
năm học vừa qua; Cám ơn Khoa Quan hệ quốc tế trường Đại học Khoa học xã
hội & Nhân văn Đại học quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Thông tấn
xã Việt Nam đã hỗ trợ tôi trong quá trình tìm kiếm và sưu tầm tư liệu. Cuối
cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên tôi,
động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của
mình.
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2016
Lê Công Chung
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp của đề tài 10
6.1 Về mặt khoa học 10
6.2. Về mặt thực tiễn 11
7. Kết cấu khoá luận tốt nghiệp 11
Chương 1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH CỦA
HÀN QUỐC ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC KỂ TỪ NĂM 2000 12
1.1 KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI TRUNG
QUỐC TRƯỚC NĂM 2000 12
1.1.1 Giai đoạn trước khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
1992 12
1.1.2 Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2000 14
1.2BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC BƯỚC VÀO THẾ KỶ XXI 17
1.2.1 Bối cảnh quốc tế 17
1.2.2 Bối cảnh khu vực 19
1.2.3. Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc 22
1.2.4 Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc chi phối tới quan hệ hai nước 27
1.3 BỐI CẢNH BÊN TRONG 29
1.3.1. Tình hình Hàn Quốc kể từ năm 2000 29
1.3.2.Định hướng điều chỉnh chính sách trong quan hệ với Trung Quốc 31
Chương 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI
VỚI TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2016 35
6. 2.1 CHÍNH SÁCH TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ 35
2.1.1 Xây dựng mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc 35
2.2.2 Thực hiện chính sách "cân bằng" với Trung Quốc nhằm giảm bớt sự lệ
thuộc vào Mỹ 45
2.1.3 Tìm kiếm sự ủng hộ của Trung Quốc trong tiến trình phi hạt nhân hóa
và cải thiện quan hệ giữa hai miền Triều Tiên 49
2.2 CHÍNH SÁCH TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ 53
2.3CHÍNH SÁCH TRÊN LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG - AN NINH 66
Chương 3. MỘT VÀI ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ GỢI Ý CHÍNH
SÁCH CHO VIỆT NAM 73
3.1 Một vài đánh giá, nhận xét về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với
Trung Quốc (2000 - 2016) 73
3.1.1 Một vài đánh giá, nhận xét 73
3.1.2 Những thành công và hạn chế trong chính sách của Hàn Quốc đối
Trung Quốc giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2016 76
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADIZ Air Defense Identification Zone:
Khu vực nhận diện phòng không
APEC Asia-Pacific Economic Cooperation:
Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
AIIB Asian Infrastructure Investment Bank:
Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á
ARF ASEAN Regional forum: Diễn đàn an ninh khu vực
ASEAN Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á
ASEM Asia-Europe Meeting
Hội nghị thượng định Á - Âu
FTA Free Trade Agreement
Hiệp định Thương mại tự do
EAS East Asian Summit
Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á
GDP Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
IMF International Monetary Fund
Qũy Tiền tệ Quốc tế
IS Organization calling itself the Islamic State
Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng
RCEP Regional Comprehensive Economic Partnership
Hiệp định đối tác toàn diện khu vực
TPP Trans-Pacific Partnership
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
WB World Bank
Ngân hàng Thế giới
WTO World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
8. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hàn Quốc và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng ở Đông Á rất gần gũi
về địa lý và có nhiều điểm tương đồng về lịch sử và văn hóa cũng như phong
tục tập quán. Tuy nhiên, quan hệ hai nước cho đến trước khi Chiến tranh lạnh
kết thúc đã trải qua nhiều thăng trầm và bị gián đoạn trong suốt một thời gian
dài. Nguyên nhân chính ngoài rào cản về ý thức hệ còn do những tính toán, cân
nhắc về lợi ích trong quan hệ quốc tế của mỗi nước. Sau khi ký kết Thông cáo
chung bình thường hóa quan hệ vào năm 1992, quan hệ Hàn - Trung ngày càng
phát triển mạnh mẽ. Có thể thấy, chỉ chưa đầy 20 năm hai nước đã nâng cấp từ
quan hệ "đối tác hợp tác" (1998) lên "đối tác hợp tác toàn diện" (2003) và tiếp
đó là "quan hệ đối tác chiến lược" (2008) và "đối tác chiến lược đi vào thực
chất" (2013). Không chỉ phát triển mạnh quan hệ song phương cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, sự ràng buộc đan xen về lợi ích quốc gia giữa Hàn Quốc và Trung
Quốc cũng ngày càng lớn. Mặc dù vậy, cả Trung Quốc và Hàn Quốc đều là
những cường quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, nên giữa hai nước không tránh
khỏi những mâu thuẫn va chạm, tranh giành về lợi ích quốc gia. Hiện nay, giữa
Hàn Quốc và Trung Quốc đang tồn tại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với
bãi đá Ieodo/Tô Nham, dù rằng không quá căng thẳng như tranh chấp quần đảo
Điếu Ngư/Xen-ca-cư giữa Trung Quốc với Nhật Bản ở biển Hoa Đông hay
tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước ASEAN ở Biển Đông, nhưng việc
gần đây Trung Quốc chuyển từ "giấu mình chờ thời" sang giai đoạn "hành động
quyết đoán" trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ khiến Hàn Quốc lo ngại. Trong
khi đó, sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc và việc giải quyết vấn đề phi hạt
nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên lại phụ thuộc rất lớn vai trò của Trung Quốc.
Vì vậy, mục tiêu trong chính sách của Hàn Quốc là xây dựng mối quan hệ chính
trị tốt đẹp với Trung Quốc làm nền tảng để tăng cường
9. quan hệ kinh tế - thương mại, thúc đẩy và mở rộng hợp tác quốc phòng an
ninh... góp phần nâng cao vị thế, vai trò của Hàn Quốc tại khu vực và thế giới,
đặc biệt là sự ủng hộ của Trung Quốc đối với vấn đề phi hạt nhân hóa bán đảo
Triều Tiên và tiến tới hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Chính vì xuất
phát từ những mục tiêu quốc gia nói trên, Hàn Quốc đã điều chỉnh chính sách
đối ngoại với các nước lớn từ "dựa" vào Mỹ "chống" Trung Quốc để từng
bước xây dựng quan hệ đối tác hợp tác và từng bước nâng cấp thành "quan hệ
đối tác chiến lược", trở thành người điều phối, cân bằng trong quan hệ tam giác
Trung – Hàn – Mỹ tại khu vực.
Tuy giữa Hàn Quốc và Việt Nam có sự khác biệt về ý thức hệ nhưng giữa
hai nước có nhiều điểm tương đồng, đặc biệt đều chịu ảnh hưởng trong quá
trình trỗi dậy của Trung Quốc và chiến lược "tái cân bằng" của Mỹ. Chính vì
vậy, chính sách đối ngoại cân bằng của Hàn Quốc là kinh nghiệm quí đối với
Việt Nam trong quan hệ quốc tế, nhất là trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ,
để nâng cao vị trí quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì vậy, tác
giả đã lựa chọn chủ đề nghiên cứu về "Chính sách của Hàn Quốc đối với Trung
Quốc từ năm 2000 đến năm 2016" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Mặc dù giữa hai nước có sự khác biệt về thể chế chính trị, nhưng do tốc
độ phát triển nhanh chóng của cặp quan hệ Hàn – Trung vượt lên trên các cặp
quan hệ khác, nên đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cặp quan hệ này,
đặc biệt là những nghiên cứu về sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hàn
Quốc để trở thành một lực lượng đóng vai trò cân bằng ở khu vực Đông Bắc Á,
hay thông qua việc điều chỉnh mối quan hệ với Mỹ để xích lại gần hơn với
Trung Quốc giúp cho mối quan hệ của hai nước không ngừng được mở rộng,
10. thúc đẩy đi vào chiều sâu. Liên quan đến đề tài của luận án, trong phạm vi các
công trình và tài liệu có thể tiếp cận được, xin tổng hợp lại như sau:
Nhóm thứ nhất, những công trình nghiên cứu về chính sách của Hàn Quốc
đối với Trung Quốc trên lĩnh vực chính trị - đối ngoại tiêu biểu là: "South Korea
Seeks to Balance Relations with China and the United States" (Han Suk-hee,
Hàn Quốc tìm cách cân bằng trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ) (Đại học
Yonsei 11/2012); "Relations between the Republic of Korea and the People’s
Republic of China: Comtemporary realities and trends" (Sira, Quan hệ giữa
Cộng hòa Hàn Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Thực tại và tương lai)
(2015); "China-Korea Relations: Prospects for a Strategic Partnership?"
(Scott A. Snyder, Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc: Triển vọng cho một đối
tác chiến lược) (9/2015); "The Korean Peninsula— Balancing Relations with
the United States and China" (Bán đảo Triều Tiên cân bằng quan hệ với Mỹ và
Trung Quốc), (Tạp chí East Asian Strategic Review, 03/006)... Nhóm những
công trình nghiên cứu này trên cơ sở phân tích bối cảnh quốc tế, khu vực và
những nước lớn làm thay đổi đường lối đối ngoại của Hàn Quốc từ chính sách
thân Mỹ, đồng minh của Mỹ tại khu vực Đông Bắc Á đã dần từng bước điều
chỉnh chính sách đối ngoại của mình trở nên độc lập, tự chủ, ngày càng thân
thiện, cân bằng hơn với Trung Quốc nhằm xây dựng một môi trường hòa bình
ổn định và phát triển trong khu vực có lợi cho việc giải quyết vấn đề trên bán
đảo Triều Tiên và sự nghiệp thống nhất tổ quốc của Hàn Quốc. Bên cạnh đó,
những nghiên cứu còn đề cập tới những thách thức của Hàn Quốc trong việc
lựa chọn giải quyết mối quan hệ đồng minh Hàn – Mỹ và quan hệ đối tác chiến
lược Hàn - Trung.
Nhóm thứ hai, một số nghiên cứu trên lĩnh vực kinh tế - thương mại giữa
hai nước gồm có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: "South Korea's
Economic Dependence on China" (Steven Denney, Sự phụ thuộc kinh tế của
Hàn Quốc vào Trung Quốc, website:thediplomat.com, 9/2015); "Trade,
11. Investment and Economic Intergration of south Korea and china" (Joon-
Kyung Kim, Jangseon Kim and Chung H. Lee, Thương mại, đầu tư và hội nhập
kinh tế của Hàn Quốc và Trung Quốc) (7/2006); "South Korea export growth
slows to trickle as China demand wanes" (tăng trưởng xuất khẩu Hàn Quốc
chậm do nhu cầu suy giảm từ thị trường Trung Quốc suy yếu) (01/2016);
"Economic Integration in Northeast Asia: Challenges and Strategies for South
Korea" (Kar- yiu Wong, Hội nhập kinh tế ở Đông Bắc Á: Thách thức và chiến
lược cho Hàn Quốc, Viện nghiên cứu Mỹ - Hàn) (8/2006)... Nhóm này gồm các
công trình nghiên cứu chính sách kinh tế của Hàn Quốc với Trung Quốc trên
hai phương diện, hợp tác song phương và đa phương giữa hai nước từ khi bình
thường hóa quan hệ; lợi ích trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc khiến nền
kinh tế Hàn Quốc ngày càng phụ thuộc, gắn chặt vào nền kinh tế Trung Quốc;
sự tương hỗ lẫn nhau của hai nền kinh tế cũng là một trong những động lực thúc
đẩy hợp tác kinh tế, trao đổi thương mại giữa hai nước... khiến nền kinh tế hai
nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau...; Về hợp tác đa phương, nổi bật có một số
nghiên cứu: "东北亚的再平衡" (Tôn Hưng Kiệt, Tái cân bằng ở Đông Bắc Á)
(11/2015); " 中日韩恢复三国峰会" (khôi phục cuộc gặp thượng định 3 nước
Trung – Nhật
– Hàn) (11/2015)... đề cập tới thực trạng "kinh tế nóng, chính trị lạnh" giữa 3
nước Trung – Nhật – Hàn tại khu vực Đông Bắc Á; những bất đồng nhận thức
lịch sử và tranh chấp lãnh thổ đã ảnh hưởng đến lòng tin chính trị giữa các nước,
mâu thuẫn với hợp tác kinh tế sôi động giữa hợp tác kinh tế của 3 nước đang
diễn ra trong những năm qua...
Nhóm thứ 3, những nghiên liên quan đến lĩnh vực quốc phòng - an ninh:
Đông Bắc Á là khu vực tương đối phức tạp và nhạy cảm, vì nơi đây vẫn tồn tại
những di sản của thời kỳ Chiến tranh lạnh và những căng thẳng trên bán đảo
Triều Tiên liên quan đến chương trình hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ
12. Nhân dân Triều Tiên, trong đó nổi bật là các công trình như: "东北亚安全形
势与中韩关系" (Xu hướng an ninh Đông Bắc Á và quan hệ Trung – Hàn, Tạp
chí Hòa bình và phát triển, số 5/2110); "试论―六方会谈‖与韩中关系" (Lý
Nhạn Ngọc, Bàn về đàm phán 6 bên và quan hệ Hàn – Trung) (6/2010); " 韩国
李明博政府与中韩关系" (Văn Chính Nhân và Lý Xuân Phúc, Chính phủ Ly
Miêng Pắc và quan hệ Trung – Hàn); "中韩如何避免萨德危机升级
? " (Trung – Hàn làm thế nào để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của
THAAD)...... Những nội dung nghiên cứu này phản ánh quan điểm của Chính
phủ Hàn Quốc đối với sự trỗi dậy của Trung Quốc; những quan ngại về tốc độ
hiện đại hóa quốc phòng quá nhanh của Trung Quốc và tham vọng chủ quyền
lãnh thổ của Trung Quốc; thực tại tình hình an ninh khu vực Đông Bắc Á; nhân
tố để Hàn Quốc thúc đẩy hợp tác quốc phòng an ninh với Trung Quốc đó là vấn
đề phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên và hướng tới xây dựng một khu
vực hòa bình ổn định và phát triển ở khu vực Đông Bắc Á... Tuy nhiên, vấn đề
chương trình hạt nhân và những hành động gần đây của nhà lãnh đạo Triều Tiên
Kim Châng Un đã tác động tiêu cực đến quan hệ Hàn – Trung sau khi Trung
Quốc đồng minh truyền thống và quốc gia có ảnh hưởng nhất đối với Triều
Tiên không thể thuyết phục để Triều Tiên từ bỏ chương trình hạt nhân và tên
lửa của mình đã quyết định đàm phán với Mỹ xây dựng hệ thống tên lửa đánh
chặn tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) trên lãnh thổ Hàn Quốc.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Hàn Quốc được đánh giá là mẫu hình thành công trong những nỗ lực kết
giao với các nước lớn trên thế giới nhờ chính sách đối ngoại tích cực, linh hoạt
và thực dụng. Chính sách ngoại giao này đã không ngừng nâng tầm vị thế và
vai
13. trò quốc tế của Hàn Quốc đối với khu vực và thế giới. Trong đó, chính sách đối
ngoại của Hàn Quốc với Trung Quốc là một thành công lớn trong việc làm thay
đổi quan hệ song phương giữa hai quốc gia, chuyển từ "đối đầu, thù địch" sang
quan hệ "đối tác, hợp tác chiến lược" thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Do Hàn
Quốc và Trung Quốc là hai quốc gia có quan hệ đối tác chiến lược với Việt
Nam, do vậy có rất nhiều công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của
Hàn Quốc đối với Trung Quốc, bao gồm cả các tài liệu của nước ngoài được
dịch sang tiếng Việt cũng được đi sâu khai thác trên nhiều bình diện, nhưng tựu
chung có thể được chia thành các nhóm cơ bản sau đây:
Nhóm thứ nhất, nghiên cứu chung và riêng về chính sách của Hàn Quốc
đối với các nước Đông Bắc Á từ sau Chiến tranh lạnh. Tiêu biểu nhất trong
mảng nghiên cứu chung về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong mối liên
hệ với các quốc gia đồng minh và các chủ thể chính trị ở Đông Bắc Á là cuốn:
"Hàn Quốc với khu vực Đông Á sau Chiến tranh lạnh và quan hệ Việt Nam -
Hàn Quốc" do Nguyễn Hoàng Giáp chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành
vào năm 2009; Võ Hải Thanh: "Quan hệ hợp tác kinh tế của Hàn Quốc với các
nước trong khu vực Đông Bắc Á" (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 2005);
Những công trình
này, các tác giả đã khái quát sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của với các
nước trong khu vực, bao gồm cả Trung Quốc. Chính sách đối ngoại của Hàn
Quốc với các nước nhằm hướng tới mục tiêu tạo lập môi trường khu vực thuận
lợi cho phát triển kinh tế ở trong nước; đồng thời, tìm kiếm giải pháp hòa bình
cho vấn đề an ninh – chính trị trên bán đảo Triều Tiên; một nghiên cứu khác do
Ngô Xuân Bình chủ biên, Nxb Từ điển Bách khoa ấn hành (2012) có tên: "Quan
hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh quốc tế mới" cũng dành một dung
lượng đáng kể (35 trang) để phân tích và nêu bật những chuyển biến trong chính
sách của Hàn Quốc đối với các nước Đông Bắc Á, lấy bối cảnh quốc tế làm
trung tâm. Theo đó, từ chỗ duy trì "quan hệ băng giá" với các nước XHCN
(Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên) trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Hàn Quốc
15. quan hệ khi tình hình quốc tế trở nên hòa dịu. Các tác giả cũng khẳng định, với
chính sách đối ngoại linh hoạt, Hàn Quốc đang giữ thế chủ động trong việc đưa
Đông Bắc Á tiến vào kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng thông qua 3 bước: (1)
Theo đuổi giao lưu và hợp tác liên Triều, (2) thiết lập hệ thống hợp tác kinh tế
khu vực và (3) xây dựng cơ sở hạ tầng cho một trung tâm giao vận và kinh tế...
Ngoài ra, một số bài viết của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), như: "Chính
sách ngoại giao cân bằng của Hàn Quốc" (Tin tham khảo thế giới, 25/6/2005);
"Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc - thực dụng và có trọng điểm" (Tin thế
giới, 21/01/2008); "Quan hệ Trung - Hàn trong bối cảnh 'trở lại châu Á' của
Mỹ", (website:Nghiencuubiendong, 10/9/2015); "Tổng thống đắc cử Hàn Quốc
nhấn mạnh chính sách đối ngoại tăng cường hợp tác" (Tin thế giới
18/01/2008)... Những tài liệu nói trên phân tích và làm rõ hai đặc điểm trọng
yếu của ngoại giao Hàn Quốc, đó là: "ngoại giao vì sự ổn định kinh tế" và "ngoại
giao tranh thủ sự ủng hộ của thế giới" của Hàn Quốc. Nỗ lực tăng cường quan
hệ với các đối tác để giảm áp lực về thiếu hụt năng lượng, tài nguyên và xu thế
toàn cầu hóa nền kinh tế quốc tế cũng là nội dung mấu chốt trong chính sách đối
ngoại của Hàn Quốc.
Nhóm thứ hai, mang tính chất khái lược về lịch sử đi đến chính thức thiết
lập quan hệ hai nước và sự ràng buộc đan xen về lợi ích giữa hai quốc gia này
trên một số lĩnh vực, tiêu biểu là các bài viết: "Quan hệ Trung Quốc – Hàn
Quốc kể từ khi bình thường hóa quan hệ" của Hoàng Minh Hằng (Tạp chí
nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, 10/2005); "Quan hệ với Trung Quốc là
chìa khóa mở ra tương lai cho Hàn Quốc" của Võ Hải Thanh
(website:cks.inas.gov.vn, ngày 7/9/2012); "Mối quan hệ Seoul – Bắc Kinh:
Hôm qua và ngày mai" (website:cks.inas.gov.vn, ngày 24/10//2012)… Đi sâu
luận giải về nguyên nhân của quá trình đi đến bình thường hóa quan hệ Hàn –
Trung muộn hơn so với các cặp quan hệ khác trên thế giới, nhưng cùng với
những thay đổi của thời gian, sự ràng buộc trong quá trình phát triển giữa hai
nước lại có những lợi ích phụ thuộc vào nhau ngày càng lớn, đặc biệt là trên
17. những điều đó đã giúp hai nước vượt qua những rào cản bất đồng về ý thức hệ
để nhanh chóng thúc đẩy nâng tầm quan hệ hai nước lên quan hệ đối tác chiến
lược và ngày càng đi vào thực chất trong tương lai...
Nhóm thứ ba, nghiên cứu chung về những đối sách của Hàn Quốc nhằm
đối phó trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc. Tiêu biểu trong mảng
nghiên cứu này là: "Đối sách của Hàn Quốc trước Trung Quốc",
website:tiasang.com.vn của Nguyễn Việt Hải; "Sự trỗi dậy của Trung Quốc và
chiến lược ứng phó của Hàn Quốc" của Kiều Dung (website:cks.inas.gov.vn,
ngày 15/7/2015),... nhóm này với góc độ tiếp cận đi sâu luận giải lợi ích kinh
tế đưa lại đối với Hàn Quốc, nhưng đồng thời đưa ra những cảnh báo về sự phụ
thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc của hàng hóa xuất khẩu Hàn Quốc sẽ
là con dao "hai lưỡi" đối với nền kinh tế Hàn Quốc trước sự trỗi dậy mạnh mẽ
của kinh tế Trung Quốc…; Đáng chú ý, tài liệu tham khảo số 12-2007 của
TTXVN đã dành riêng một chuyên khảo về: "Chính sách đối ngoại của Hàn
Quốc" nhằm phân tích chính sách đối ngoại và an ninh của quốc gia này trong
tương quan địa – chính trị Đông Bắc Á theo chuỗi quan hệ móc xích: Hàn Quốc
và Mỹ - liên minh không bình đẳng; Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên – liên
minh hoài nghi; Hàn Quốc và Trung Quốc – liên minh cân bằng. Qua đó, nghiên
cứu này đã đưa ra giả định về "chính sách ngoại giao cân bằng" của Hàn Quốc
nhằm "mở nút" cho mối quan hệ "tay ba" trên bán đảo Triều Tiên Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu của các học giả chưa đề cập sâu tới chính sách
của Hàn Quốc đối với Trung Quốc trong quan hệ Hàn - Trung, hoặc chỉ những
bài viết của học giả Trung Quốc chưa đề cập tới những vấn đề mang tính nhạy
cảm như: Mặt trái sự trỗi dậy của Trung Quốc là tham vọng chủ quyền lãnh
thổ; Ý đồ cạnh tranh giữa vai trò chủ đạo của Trung Quốc tại khu vực Đông
Bắc Á... Do vậy, đây cũng chính là mục tiêu mà khoá luận tốt nghiệp này muốn
tiếp tục kế thừa và phát triển.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
18. 3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài phân tích làm rõ một cách hệ thống và toàn diện chính sách của Hàn
Quốc đối với Trung Quốc giai đoạn 2000 - 2016 trên một số lĩnh vực quan
trọng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, người nghiên cứu sẽ thực hiện những nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Trình bày cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với
Trung Quốc giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2016; trong đó, phân tích khái quát
về chính sách của Hàn Quốc theo từng giai đoạn (1948 – 1992) kể từ khi Hàn
Quốc lập quốc cho đến khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao;
giai đoạn sau khi bình thường hóa quan hệ đến năm 2000. Đồng thời, nêu bật
những chuyển biến mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước từ sau
Chiến tranh lạnh.
- Nhận diện và phân tích những nội dung chủ yếu trong chính sách của
Hàn Quốc đối với Trung Quốc từ năm 2000 đến năm 2016; qua đó, nêu lên
những điều chỉnh chiến lược trong chính sách của nước này trên các lĩnh vực
hợp tác song phương.
- Rút ra nhận xét, đánh giá về chính sách của Hàn Quốc trên cả hai mặt
thành công và hạn chế. Trên cơ sở đó, đúc kết những bài học kinh nghiệm trong
việc điều chỉnh chính sách đối ngoại cho Hàn Quốc và Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách của Hàn Quốc đối với Trung Quốc giai đoạn từ năm 2000
đến năm 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
19. - Về mặt không gian, đề tài tập trung nghiên cứu chính sách của Hàn Quốc
đối với Trung Quốc trên 3 lĩnh vực quan hệ cơ bản là chính trị - đối ngoại, kinh
tế và an ninh - quốc phòng.
- Về mặt thời gian, đề tài dành trọng tâm nghiên cứu chính sách của Hàn
Quốc đối với Trung Quốc giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Về phương pháp luận: Về mặt phương pháp luận, các vấn đề đặt ra trong
luận án được nghiên cứu chủ yếu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại
của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề quan hệ quốc tế để xem xét, đánh
giá chính sách của Hàn Quốc đối với Trung Quốc.
- Về phương pháp nghiên cứu, đây là đề tài nghiên cứu lịch sử nên phương
pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp giữa chúng được sử dụng như
dòng mạch chủ yếu. Bên cạnh đó, đề tài còn vận dụng linh hoạt một số phương
pháp khoa học liên ngành của các ngành Quan hệ quốc tế, Quan hệ kinh tế
quốc tế, Địa - Chính trị... như các phương pháp: Phân tích, tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, thống kê, dự báo khoa học khi đi sâu nghiên cứu từng nội dung cụ
thể nhằm nhìn nhận và đánh giá vấn đề một cách xác thực.
6. Đóng góp của đề tài
6.1 Về mặt khoa học
- Luận án là công trình khoa học ở Việt Nam có tính cập nhật một cách
chi tiết về chính sách của Hàn Quốc với Trung Quốc từ năm 2000 đến 2016,
góp phần khỏa lấp khoảng trống trong các nghiên cứu về chính sách đối ngoại
của Hàn Quốc thời hiện đại.
- Từ việc phân tích cơ sở, mục tiêu, biện pháp triển khai thực thi, luận án
đã rút ra một số nhận xét về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong giai đoạn
này (đặc biệt là những thành công đạt được và hạn chế cơ bản của các chính
sách).
20. - Nhận biết sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong việc
xích lại gần hơn với Trung Quốc để cân bằng với Mỹ từ những năm đầu của
thế kỷ XXI. Trên cơ sở đó, xác định một số vấn đề đặt ra cho Hàn Quốc và liên
hệ đối với Việt Nam trong lĩnh vực quan hệ quốc tế.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và giảng
dạy cho sinh viên và học viên cao học các chuyên ngành: Lịch sử thế giới, Quan
hệ quốc tế, Quốc tế học, Đông phương học và những ai quan tâm đến vấn đề
này.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án (ở một mức độ nhất định) có thể
cung cấp thêm những thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch
định chính sách của Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại. Từ đó, tiếp tục củng cố
và tăng cường quan hệ giữa Việt Nam với cả Hàn Quốc và Trung Quốc là những
đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam
7. Kết cấu khoá luận tốt nghiệp:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương chính:
Chương 1: Những yếu tố tác động tới chính sách của Hàn Quốc đối
với Trung Quốc kể từ năm 2000. Chương này phân tích những điều kiện
khách quan và chủ quan tác động tới việc hoạch định chính sách của Hàn Quốc
đối với Trung Quốc kể từ sau năm 2000.
Chương 2: Một số nội dung chính sách của Hàn Quốc đối với Trung
Quốc giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2016. Chương này đi sâu phân tích
những nội dung chính sách chủ yếu của Hàn Quốc đối với Trung Quốc trên các
mặt chính trị - đối ngoại, kinh tế và quốc phòng - an ninh giai đoạn từ năm 2000
đến năm 2016.
21. Chương 3: Một vài đánh giá, nhận xét và gợi ý chính sách cho Việt
Nam. Chương này đưa ra những đánh giá và nhận xét về chính sách của Hàn
Quốc đối với Trung Quốc trong 15 năm qua và nêu một số gợi ý chính sách cho
Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC
ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC KỂ TỪ NĂM 2000
1.1 KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI
TRUNG QUỐC TRƯỚC NĂM 2000
1.1.1 Giai đoạn trước khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao 1992
Hàn Quốc và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng với nhau nằm ở khu
vực Đông Bắc Á, rất gần gũi về mặt địa lý, giữa hai nước có nhiều điểm tương
đồng về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán... Cũng giống như Việt Nam, trong
suốt chiều dài lịch sử, bán đảo Triều Tiên phải chịu sự đô hộ xâm lược và áp
đặt ách thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, do vậy bán đảo Triều
Tiên nói chung và Hàn Quốc ngày nay nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc của
nền văn hóa Trung Hoa, trong đó có các tư tưởng triết học Trung Quốc.
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), Trung Quốc đã đưa Chí
nguyện quân sang chi viện cho Triều Tiên chống lại lực lượng liên quân do Mỹ
hỗ trợ, đẩy liên quân sâu hơn về phía Nam vĩ tuyến 38, dẫn đến chia cắt lâu dài
bán đảo Triều Tiên cho đến ngày nay. Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Trung
Quốc cùng với Liên Xô đã hỗ trợ về kinh tế, chính trị, quân sự ... cho Triều
Tiên để đối phó với Hàn Quốc dưới sự bảo trợ của Mỹ. Xuất phát từ bối cảnh
quốc tế và đối đầu căng thẳng ý thức hệ, nên trong giai đoạn đầu
22. của cuộc Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa hai nước là mối quan hệ đối đầu, thù
địch. Hàn Quốc coi Trung Quốc là mối đe dọa an ninh của mình vì Trung Quốc
ủng hộ Triều Tiên, viện trợ cho chế độ chính trị của Triều Tiên, lấy Triều Tiên
làm lực lượng đối trọng lại với Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Giai đoạn từ giữa những năm 1970 đến khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Hàn
Quốc điều chỉnh chính sách đối ngoại, chuyển từ quan hệ đối đầu và thù địch
với Trung Quốc sang hòa hoãn và hợp tác. Vào những năm 70 và 80 của thế kỷ
XX, mặc dù vẫn coi nhau là kẻ thù, nhưng quan hệ hai nước đã dần đi vào hòa
hoãn. Hai nước đã bắt đầu đi vào xây dựng các quan hệ khác tách rời với chính
trị. Ngày 05/3/1983, một chiếc máy bay hàng không dân dụng của Trung Quốc
trên hành trình bay từ Tứ Xuyên về Thượng Hải đã bị không tặc khống chế phải
hạ cánh xuống sân bay Hàn Quốc, dẫn tới những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa
quan chức hai nước để bàn thảo giải quyết. Năm 1986, cùng với việc tổ chức
Đại hội thể thao châu Á (Asiad) lần thứ 10 và Thế vận hội Olympic mùa hè
năm 1988, Hàn Quốc đã thực hiện điều chỉnh mạnh mẽ chính sách ngoại giao
của mình trong quan hệ với các nước, không phân biệt thể chế chính trị; năm
1990, Trung Quốc cũng tổ chức Đại hội thể thao châu Á lần thứ 11, phía Hàn
Quốc coi đây là thời cơ quan trọng để thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Phía
Hàn Quốc đã cử đoàn vận động viên thể thao hơn 700 người tham gia thi tài ở
các nội dung của đại hội; các doanh nghiệp Hàn Quốc đã chi tới hơn 5 triệu
USD cho chi phí quảng cáo trong thời gian diễn ra đại hội; các tập đoàn xe hơi
của Hàn Quốc đã tài trợ cho ban tổ chức khoảng 100 chiếc xe hơi để phục vụ
cho các hoạt động đi lại, trong trong thời gian diễn ra đại hội có tới 4000 lượt
du khách Hàn Quốc tới thăm Trung Quốc. Để đáp lại thái độ thiện chí của phía
Hàn Quốc, khi tổ chức các nghi thức chào cờ nhận huy chương của các vận
động viên Hàn Quốc, phía Trung Quốc sử dụng từ "Đại Hàn dân quốc bằng
tiếng Anh". Sau khi Hàn Quốc thiết lập văn
23. phòng đại diện thương mại tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc (01/1991) và
Hiệp hội Hoa thương của Trung Quốc thiết lập văn phòng đại diện tại thủ đô
Xơ-un (4/1991), Hàn Quốc đã đẩy mạnh điều chỉnh chính sách đối ngoại, chủ
động thúc đẩy trao đổi giao lưu văn hóa, trao đổi thương mại với Trung Quốc
từ nước thứ 3 sang trao đổi buôn bán trực tiếp. Hai nước tiến tới thiết lập quan
hệ ngoại giao chính thức.
1.1.2 Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2000
Sau khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, Hàn Quốc điều
chỉnh chính sách đối ngoại, cải thiện quan hệ với các nước lớn, nhằm tìm kiếm
lợi ích chiến lược, trong đó có Trung Quốc. Tháng 01/1991, Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc đã chính thức công nhận sự tồn tại song song của hai nhà nước
độc lập trong thời kỳ quá độ đi đến thống nhất, đó là Hàn Quốc và Triều Tiên
ngày nay. Ngày 24/8/1992, Chính phủ Đại Hàn dân quốc chính thức thừa nhận
"trên thế giới chỉ có một nước Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là
chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc" đồng thời chấm dứt quan hệ
chính thức về mặt ngoại giao với Đài Loan đã kéo dài sau 43 năm, và cùng
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức.
Việc Hàn Quốc tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan, công nhận
Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc, chính là nhân tố quan trọng để
Trung Quốc đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc.
Từ ngày 27 đến 30/9/1992, chỉ sau hơn một tháng thiết lập quan hệ ngoại
giao, Tổng thống Hàn Quốc Rô Tê U đã có chuyến thăm chính thức đầu tiên
cấp nhà nước tới Trung Quốc, mở ra một thời kỳ lịch sử phát triển quan hệ rực
rỡ giữa hai nước. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký các Hiệp định mậu
dịch, bảo hộ và đầu tư giữa hai chính phủ, thảo luận thẳng thắn các vấn
24. đề hai nước cùng quan tâm, cũng như xác định phương hướng phát triển quan
hệ hai nước trên tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai.
Có thể nói, việc Hàn Quốc điều chỉnh chính sách theo hướng xích lại gần
hơn với Trung Quốc, hay Hàn Quốc chủ động thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc
là hoàn toàn phù hợp với xu hướng trong quan hệ quốc tế thời kỳ sau Chiến
tranh lạnh đang diễn ra mạnh mẽ. Về phía Hàn Quốc, giới chức lãnh đạo Xơ-
un thấy được sức hấp dẫn từ thị trường gần 1,3 tỷ dân, trong bối cảnh Trung
Quốc là quốc gia đang phát triển, công cuộc cải cách kinh tế đang được chính
phủ đẩy mạnh, cần rất nhiều vốn, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý
hiện đại nhưng phải chịu chính sách bao vây cô lập của Mỹ và các nước phương
Tây sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989. Cũng cần nói thêm rằng, bản thân
Trung Quốc giai đoạn này đang rất muốn phát triển quan hệ với các nước phát
triển, nhất là Hàn Quốc, một quốc gia đồng minh của Mỹ, để giảm bớt sức ép,
cô lập ngoại giao từ bên ngoài1
.
Giai đoạn 1994 - 1998, Tổng thống Kim Dâng Sam lên nắm quyền đã thực
hiện những cải cách mạnh mẽ về chính trị, đề cao giá trị tự do dân chủ trong xã
hội Hàn Quốc theo mô hình phát triển của các nước như Mỹ và phương Tây.
Về kinh tế, những thành tựu đã đạt được từ "Kỳ tích sông Hàn" trong giai đoạn
những năm 70 và 80 đã đưa Hàn Quốc trở thành một nước công nghiệp với
nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển mạnh, đặc biệt là sự nổi lên của các tập
đoàn công nghiệp lớn như Hyundai, Sam Sung, LG, Daewoo... Trong khi đó,
vấn đề dân số lão hóa dẫn tới thiếu hụt nguồn lao động và chi phí thuê lao động
trong nước của Hàn Quốc ở giai đoạn này bắt đầu ngày càng có xu hướng lên
cao... khiến giới đầu tư của Hàn Quốc bắt đầu tìm kiếm các thị trường ở các
nước trong khu vực để gia công sản xuất nhằm
1
Hoàng Minh Hằng, "Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc kể từ khi bình thường hóa quan hệ", Tạp chí nghiên
cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 5 (59), 10/2005, trang 74.
25. giảm bớt giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa trên
trường quốc tế. Về đối ngoại, trên cơ sở lợi ích chính trị và kinh tế từ những
năm đầu thiết lập quan hệ ngoại giao đưa lại cho Hàn Quốc, chính phủ của Tổng
thống Kim Dâng Sam tiếp tục chính sách coi Trung Quốc là đối tác, củng cố và
phát triển các mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Phân tích từ góc độ chính
trị có thể tạo dựng ảnh hưởng sâu hơn vai trò của Hàn Quốc ở châu Á, đây cũng
cho thấy sự khác biệt về nhận thức giữa Hàn Quốc và Nhật Bản. Từ góc độ của
các nhà đầu tư, các nhà đầu tư vừa và nhỏ, các ngành chế tạo Hàn Quốc coi thị
trường Trung Quốc hấp dẫn là vì giá thuê nhân công lao động tương đối thấp
và sự hấp dẫn từ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của chính phủ Trung
Quốc lúc bấy giờ.
Khi hai nước bước sang thế kỷ XXI với hành trang là "Tuyên bố chung
Hàn – Trung" được đưa ra năm 1998, trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng
thống Hàn Quốc Kim Tê-chung. Bản Tuyên bố nêu rõ: (1) "Xây dựng mối quan
hệ hợp tác Trung – Hàn hướng tới thế kỷ XXI" nhằm mục đích thiết lập quan
hệ cho tương lai dựa trên nguyên tắc của "Hiến chương Liên hợp quốc", tinh
thần "Thông cáo chung về thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Đại Hàn Dân Quốc
và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" và quan hệ láng giềng thân thiện, láng
giềng hữu nghị, láng giềng hợp tác được tăng cường giữa hai nước; (2) Tiếp
tục theo đuổi đàm phán 4 bên, từng bước thiết lập một cơ chế hòa bình lâu dài
trên bán đảo Triều Tiên; (3) Mở rộng và tăng cường trao đổi, thăm viếng giữa
các nhà lãnh đạo, cơ quan Chính phủ, Quốc hội và đảng phái chính trị của hai
nước. Hàn Quốc coi việc tăng cường tiếp xúc trao đổi với Trung Quốc để hai
bên có thể thấy rõ được lập trường của nhau đối với những vấn đề mang lại lợi
ích cho hai nước và cho hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực2
.
2
"Tuyên bố chung Hàn Quốc – Trung Quốc", Tài liệu tham khảo đặc biệt, số ra ngày 17/11/1998.
26. 1.2BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC BƯỚC VÀO THẾ KỶ XXI
1.2.1 Bối cảnh quốc tế
Bước vào thế kỷ XXI, về cơ bản hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu hướng chính của thế giới. Tuy nhiên, thế giới đứng trước những bất ổn mới,
tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách thức an ninh đe dọa hòa bình, ổn định và phát
triển.
Mở đầu là sự kiện khủng bố 11/9 ở Mỹ dẫn tới việc Mỹ triển khai các hoạt
động chống khủng bố trên toàn cầu, trong đó có việc Mỹ phát động cuộc chiến
tranh tại Afghanistan và Iraq để tiêu diệt tận gốc cái gọi là "căn cứ địa" của
chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Hoạt động chống khủng bố của Mỹ đã tác động
mạnh mẽ tới đời sống chính trị trên toàn cầu. Việc Mỹ và các nước phương Tây
sử dụng cuộc "cách mạng màu" lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để kích
động, chia rẽ nội bộ tìm cách lật đổ một số chính phủ cầm quyền không phù
hợp với "lợi ích của Mỹ", gây bất ổn tại một số quốc gia thuộc Liên Xô cũ
("Cách mạng Hoa Hồng" tại Gruzia năm 2003; "Cách mạng Cam" tại Ukraine
năm 2004; "Cách mạng Hoa Tulip" tại Kyrgyzstan năm 2005 và "Mùa xuân A-
rập" tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi những năm 2011 dẫn đến những sụp
đổ của chính phủ đương nhiệm (tại Ai-cập, Libia, Tunisia...) hoặc hỗ trợ cho
lực lượng đối lập tại Xirya để lật đổ chính quyền của Tổng thống Assat, đặc
biệt bất ổn những năm gần đây liên quan đến cuộc khủng hoảng và nội chiến
tại U-crai-na; sự mở rộng của "Tổ chức nhà nước Hồi giáo tự xưng" (IS) và
hoạt động chống lại lực lượng này do Mỹ đứng đầu; căng thẳng tranh tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ tại biển Hoa Đông và Biển Đông... Ngoài ra, các vấn
đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch Ê-bô-la, cướp biển, tội phạm
xuyên quốc gia khác diễn biến phức tạp, tác động mạnh mẽ tới hòa bình, an
ninh thế giới. Trong đó có vấn đề IS, nhất là vấn đề U-crai-na có nguy cơ gây
khủng hoảng trên toàn cầu,
27. thậm chí có thể dẫn tới đối đầu quân sự Đông – Tây nếu một trong các bên mắc
sai lầm.
Nền kinh tế thế giới phải đối mặt với nhiều thách thức đó là cuộc khủng
hoảng tài chính ngân hàng xuất phát từ Mỹ năm 2008, cuộc khủng hoảng nợ
công tại châu Âu năm 2011... đã tác động không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng
nền kinh tế toàn cầu. Những năm gần đây, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật
Bản, các nước EU... tuy đã tăng trưởng trở lại nhưng còn thiếu tính bền vững,
trong khi đó nền kinh tế Trung Quốc sau một thời gian dài tăng trưởng nhanh
đã có dấu hiệu bão hòa, giảm tốc độ: Năm 2014, tăng trưởng kinh tế thế giới
chỉ đạt khoảng 2,8%, Mỹ chỉ khoảng 1,7%, Trung Quốc 7,4%, Nga 0,7%...;3
tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2015 vẫn ở trạng thái chậm, trong đó,
nguyên nhân là do những bất ổn về chính trị tại khu vực Trung Đông, châu Phi,
U-crai-na; việc Mỹ chấm dứt gói nới lỏng định lượng QE3, EU phá giá đồng
Euro, kinh tế Trung Quốc giảm tốc, giá dầu thế giới giảm mạnh kéo theo những
nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ như Nga, Venezuela, Iran, Arập-
xê-út.... phải đối mặt với nhiều thách thức, tiêu dùng thế giới giảm... làm cho
tiến trình phục hồi kinh tế thế giới tiếp tục chậm và đứng trước nhiều thách
thức.
Quan hệ giữa các nước lớn có những chuyển biến lớn từ đối đầu hoặc liên
minh, hoặc liên kết với nước này chống lại nước kia chuyển sang vừa hợp tác
vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình, xây dựng các quan hệ đối tác mang tính
chiến lược, tăng cường đối thoại trong quan hệ quốc tế. Phát triển kinh tế trở
thành mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược của mối quốc gia. Cạnh tranh
kinh tế ngày càng chiếm ưu thế so với chạy vũ trang, sức mạnh kinh tế trở thành
nhân tố quyết định của mỗi quốc gia. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng diễn ra nhanh chóng và các
3
"Tổng quan về kinh tế thế giới năm 2015 và dự báo năm 2016" website:tapchicongsan.org, ngày
21/01/2016.
28. nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.... Tuy nhiên, những cuộc xung đột sắc tộc
tôn giáo vẫn diễn ra ở một số nơi trên thế giới tại Trung Đông, châu Phi tạo nên
những dòng người di cư sang châu Âu, châu Mỹ diễn ra rất lớn, trong đó không
ít những phần tử khủng bố lợi dụng làn sóng di cư để thâm nhập vào các nước
phương Tây tiến hành các vụ khủng bố gây nên những bất ổn về mặt xã hội;
Về quân sự, nhiều quốc gia trên thế giới tiếp tục đầu tư cho hiện đại hóa quốc
phòng và nâng cao sức mạnh quân sự để bảo vệ lợi ích quốc gia chống lại các
thách thức từ bên ngoài... Với việc các thách thức an ninh truyền thống và phi
truyền thống cùng song song tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới như buôn bán ma
tuý, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia... không phải là thách thức của mỗi quốc
gia mà nó đòi hỏi phải có sự chung tay phối hợp giữa các quốc gia để hợp tác
cùng giải quyết.
1.2.2 Bối cảnh khu vực
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương bước sang thế kỷ XXI tiếp tục phát
triển năng động, trở thành động lực thúc đẩy kinh tế thế giới. Trong bối cảnh
các nước, các khu vực khác trên thế giới kinh tế suy giảm do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 và cuộc khủng hoảng nợ công ở châu
Âu năm 2011, châu Á – Thái Bình Dương nổi lên như một điểm sáng về tăng
trưởng kinh tế, trở thành đầu tàu vực dậy nền kinh tế thế giới. Trong đó, các
nền kinh tế lớn mới nổi tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá mạnh, luôn dẫn
đầu tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó, Châu Á – Thái Bình Dương còn là thế giới thu nhỏ, là nơi
hội tụ đầy đủ thời cơ và thách thức mang tính toàn cầu, đó là hòa bình và xung
đột, hợp tác và cạnh tranh đan xen lẫn nhau. Mặc dù là khu vực tương đối ổn
định, hòa bình và hợp tác vẫn là xu hướng chủ đạo, nhưng do nhiều nguyên
nhân khác nhau, nơi đây vẫn còn một số điểm nóng ở khu vực (căng thẳng trên
bán đảo Triều Tiên, nguy cơ xung đột trên biển Hoa Đông, Biển Đông...) với
những diễn biến phức tạp, luôn tiềm ẩn những nguy cơ xung đột
29. vũ trang. Ngoài ra, châu Á - Thái Bình Dương cũng thường xuyên xảy ra các
cuộc khủng bố đẫm máu do các lực lượng Hồi giáo cực đoan tiến hành, nhất là
ở Trung Quốc (người Duy Ngô Nhĩ thực hiện các vụ khủng bố), Pakistan,
Afghanistan, Trung Á... Ngoài ra, trong khi là điểm sáng về hợp tác và hội nhập
với sự phát triển của các cơ chế hợp tác đa phương như Diễn dàn hợp tác châu
Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Đông Á (EAS), Diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF)… khu vực này cũng là trọng tâm của cạnh tranh, giành giật
ảnh hưởng giữa các nước lớn, nhất là giữa Trung Quốc và Mỹ, tạo ra nguy cơ
chia rẽ và phân hóa thành các nhóm quốc gia, thậm chí trong một quốc gia còn
xuất hiện "phe thân Mỹ" đối đầu với "phe thân Trung Quốc". Có thể thấy, Mỹ
đẩy nhanh chiến lược "xoay trục" sang châu Á - Thái Bình Dương, thúc đẩy
hình thành Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), tăng cường
quan hệ với các đồng minh, mở rộng sự hiện diện quân sự ở khu vực nhằm gia
tăng kiềm chế, ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc có thể đe dọa tới vị trí bá
quyền của Mỹ. Trong khi đó, với sức mạnh tổng hợp được tăng cường, Trung
Quốc ngày càng quyết đoán hơn trong quan hệ với Mỹ, đưa ra nhiều sáng kiến
liên kết khu vực (một vành đai một con đường; Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng
châu Á, Hiệp định đối tác toàn diện khu vực 'RCEP'...) để nâng cao vai trò trung
tâm và chia rẽ quan hệ giữa Mỹ với các nước đồng minh, nỗ lực phân chia
quyền lực với Mỹ, tiến tới đẩy Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương...; Không chỉ
có vậy, châu Á – Thái Bình Dương còn đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ
bất ổn ngày càng gia tăng do các vấn đề tranh chấp chủ quyền lợi ích giữa các
nước, nhất là giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở biển Hoa Đông, giữa Trung Quốc
với một số nước ASEAN ở Biển Đông,... dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang ở khu
vực (các nước gia tăng ngân sách quốc phòng, đầu tư mua sắm nhiều loại vũ
khí trang bị quân sự hiện đại) làm tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột, đối đầu quân
sự. Tất
30. cả những yếu tố trên đã và đang đe doạ đến hoà bình, ổn định và phát triển của
khu vực.
Riêng về tình hình khu vực Đông Bắc Á kể từ đầu thập niên 2000 có thể
thấy như sau: Mặc dù là nơi tập trung của nhiều cường quốc kinh tế (Nhật Bản
đứng thứ 3 thế giới về kinh tế và Hàn Quốc đứng thứ 12 trên thế giới, còn Trung
Quốc đứng thứ 2 thế giới về tổng lượng kinh tế) nhưng đến nay, trên một bình
diện tổng thể, chưa thấy một Đông Bắc Á thống nhất của một khu vực kinh tế
mạnh như các khu vực khác trên thế giới. Nguyên nhân của tình trạng này là
do chịu ảnh hưởng tiêu cực của nhân tố chính trị, những yếu tố đặc thù liên
quan đến lịch sử đó là việc giải quyết vấn đề "phụ nữ mua vui" (nô lệ tình dục)
cho binh lính Nhật trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II; mâu thuẫn vấn đề
liên quan đến nội dung lịch sử được biên soạn lại sách giáo khoa giữa Hàn Quốc
và Nhật Bản; việc các quan chức chính phủ Nhật Bản thường viếng thăm đền
thờ tội phạm chiến tranh Yasukuni (nơi thờ cúng một số binh sỹ Nhật tử trận
trong Chiến tranh Thế giới thứ hai) gây nên những phản ứng tiêu cực từ các
nước Đông Bắc Á4
.
Về kinh tế, Đông Bắc Á là khu vực kinh tế năng động và đóng vai trò to
lớn đối với ổn định và tăng trưởng của kinh tế châu Á và thế giới. Trao đổi
thương mại hàng năm giữa 3 nước Trung – Nhật – Hàn khoảng 7.000 tỷ USD,
chiếm tới khoảng 70% thương mại khu vực châu Á và hơn 20% thương mại
toàn cầu, trong đó trao đổi thương mại giữa Trung Quốc với Hàn Quốc hơn 300
tỷ USD, giữa các nước này với khu vực ASEAN hàng năm đạt tới gần 1.000 tỷ
USD. Tuy nhiên những năm gần đây, do những vấn đề tồn tại, việc hợp tác thúc
đẩy Hiệp định thương mại tự do của khu vực Đông Bắc Á gặp nhiều thách thức
và rất ít đạt được những tiến triển5
.
4
Ngô Xuân Bình, “Một số vấn đề chính trị nổi bật ở khu vực Đông Bắc Á giai đoạn 2011 -2020”, webside:
cks.inas.gov
5
Nguyễn Hòa, "Đông Bắc Á tay bắt chặt mà mặt chưa mừng", website:dantri.com.vn,8/12/2015
31. Về quốc phòng – an ninh, từ những năm cuối nhiệm kỳ cầm quyền của Hồ
Cẩm Đào và đặc biệt là kể từ khi Tập Cận Bình trở thành nhà lãnh đạo cao
nhất của Trung Quốc, sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc tại Trung
Quốc ngày càng rõ rệt thể hiện qua những tuyên bố cứng rắn của giới tướng
lĩnh quân sự trên các phương tiện truyền thông và những hành động thực tế của
Trung Quốc sau khi Nhật Bản quốc hữu hóa một số đảo thuộc quần đảo Xen-
ca-cư/Điếu Ngư (như thiết lập khu vực ADIZ, thường xuyên đưa tàu Hải giám
ra gần quần đảo Điếu Ngư/Xen-ca-cư). Thực thi các biện pháp cứng rắn trong
tranh chấp chủ quyền lãnh hải giữa Trung Quốc với một số nước ASEAN tiếp
tục diễn biến phức tạp, nguy cơ đối đầu quân sự giữa các nước gia tăng sau khi
Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam
(5/2014); ngăn chặn tàu vào tiếp tế và ngư dân Philippin vào đánh cá tại bãi cạn
Scarborrough; tiến hành bồi đắp và tôn tạo các bãi đá ở quần đảo Trường Sa để
biến nơi đây trở thành những căn cứ hậu cận cho hải quân Trung Quốc trong
tương lại; vấn đề chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên ngày càng
diễn biến phức tạp với việc Triều Tiên tiến hành các vụ thử hạt nhân và tên lửa
gây quan ngại tới cho các nước trong khu vực, đe dọa hòa bình, ổn định và
hợp tác của khu vực và thế giới... Bên cạnh đó, Mỹ thực hiện chiến lược "xoay
trục", đẩy nhanh việc bố trí lực lượng quân sự của mình ở khu vực, tăng cường
và mở rộng hợp tác an ninh trên nhiều lĩnh vực với các đồng minh truyền thống
và các đối tác mới tại khu vực Đông Á để xây dựng liên minh kiềm chế sự trỗi
dậy của Trung Quốc. Sự tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ một
mặt nâng cao vị trí vai trò của khu vực Đông Bắc Á trong chiến lược của các
nước lớn, nhưng đồng thời cũng làm cho tình hình chính trị an ninh khu vực
này vốn đã phức tạp lại càng phức tạp thêm.
1.2.3. Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc
32. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế
giới. Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, mục tiêu của Mỹ là tiếp tục xây dựng một
nước Mỹ hùng cường, đảm bảo vai trò lãnh đạo thế giới và ngăn chặn không
cho bất kỳ một quốc gia, một thế lực nào nổi lên đe dọa vị trí bá quyền của Mỹ.
Kể từ năm 2001, sau khi lên nắm quyền, chính quyền Bush II đã thi hành đường
lối cứng rắn trong đó nhấn mạnh đến chủ nghĩa đơn phương hay còn gọi là chủ
nghĩa đa phương có lựa chọn: Rút khỏi nghị định thư Kyoto về môi trường,
thúc đẩy việc thực hiện chương trình phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD). Tuy
nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ khiến sự phụ thuộc lẫn
nhau ngày càng tăng, mỗi quốc gia không thể thực thi chính sách đơn phương
phớt lờ lợi ích của nước khác. Thực tế cho thấy, những tiêu chuẩn do Mỹ mong
muốn áp dụng tại tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã gặp phải sự chống đối
của các nước. Sau sự kiện khủng bố 11/9 ở Mỹ cho thấy, Mỹ cần có sự hợp tác
của các nước trong cuộc chiến chống khủng bố tại một số khu vực trên thế giới.
Vì vậy, chính phủ Mỹ chủ trương áp dụng phương thức tiếp cận mềm tìm kiếm
sự hợp tác, chia sẻ trách nhiệm với đồng minh và các nước lớn khác trong việc
duy trì an ninh thế giới và đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế toàn
cầu. Trong đó, Mỹ đóng vai trò là đầu tầu lãnh đạo, giữ vị trí chỉ huy6
.
Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc nằm trong chính sách đối ngoại
nói trên của Mỹ. Theo đánh giá của Mỹ, Trung Quốc là một cường quốc đang
ngày càng có tiếng nói chính trị và kinh tế quan trọng ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương, một đối thủ Mỹ đánh giá trong tương lai không xa sẽ là người
cạnh tranh nguy hiểm nhất đối với vai trò bá chủ thế giới của Mỹ. Mục tiêu
trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là kiềm chế ngăn chặn sự trỗi dậy
của Trung Quốc trở thành một thách thức đe dọa vai trò lãnh đạo của
7
Thanh Huyền, "Quan hệ Trung – Mỹ căng thẳng khi Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan", trên
website:baodatviet.vn, ngày 26/05/2010
33. Mỹ. Có thể thấy, biện pháp ngoại giao của Mỹ đối với Trung Quốc cũng đã có
sự thay đổi từ chính quyền Clinton sang chính quyền Bush II. Trong hai nhiệm
kỳ liên tiếp của mình, chính quyền Clinton chủ trương kiềm chế Trung Quốc
thông qua phương thức tiếp cận mềm dùng đối thoại, tiếp xúc toàn diện với
Trung Quốc, thúc đẩy hợp tác kinh tế, lôi kéo quốc gia này vào các công việc
của quốc tế và định chế toàn cầu do Mỹ lãnh đạo như: Ủng hộ Trung Quốc gia
nhập WTO, cùng với Trung Quốc lập ra cơ chế đàm phán 4 bên (Mỹ - Trung
– Hàn – Triều), đồng thời thúc đẩy dân chủ, nhân quyền, thực hiện ý đồ "diễn
biến hòa bình", chuyển hóa từ nội bộ bên trong Trung Quốc nhằm mục tiêu
buộc Trung Quốc phải thừa nhận vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ và trật tự thế
giới đơn cực do Mỹ đặt ra. Việc kiềm chế bằng các biện pháp an ninh – quân
sự truyền thống dù vẫn tồn tại nhưng không đáng kể. Đỉnh cao trong chính sách
Trung Quốc của Mỹ dưới thời Clinton là tuyên bố "đối tác chiến lược mang
tính xây dựng hướng tới thế kỷ XXI", được đưa ra trong chuyến thăm Mỹ của
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân. Cả hai nước đều coi
khái niệm này là khuôn khổ của quan hệ song phương. Nội dung của khái niệm
này là hai bên cam kết "xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược mang tính xây
dựng" thông qua việc hợp tác và đối phó với những thách thức của thế giới và
thúc đẩy hòa bình trên thế giới. Hai bên nhận thức rằng, mối quan hệ ổn định
Mỹ - Trung có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện trách nhiệm chung của
hai nước đó là phấn đấu vì hòa bình và thịnh vượng của thế kỷ XXI. Hai nước
có chung lợi ích và quyết tâm tìm kiếm mọi cơ hội để đấu tranh với những thách
thức trong mối quan hệ hợp tác, hai nước có tiềm năng hợp tác to lớn trong việc
duy trì hoà bình và ổn định của thế giới và khu vực, thúc đẩy sự tăng trưởng
của kinh tế thế giới, ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hoặc vũ khí huỷ diệt hàng
loạt, thúc đẩy hợp tác châu Á – Thái Bình Dương chống lại nạn buôn bán ma
tuý, khủng bố, tội
34. phạm có tổ chức, trao đổi hợp tác song phương trên các lĩnh vực phát triển kinh
tế, thương mại, luật pháp, văn hoá giáo dục, trao đổi các đoàn quân sự...
Thế nhưng chính sách đối ngoại của Tổng thống Bush II đã có những điều
chỉnh nhất định theo hướng cứng rắn hơn trong chính sách đối với Trung Quốc.
Cụ thể, phía Mỹ bắt đầu dùng cụm từ "đối thủ cạnh tranh chiến lược" thay thế
cho "đối thủ hợp tác mang tính xây dựng" trước kia, thúc đẩy việc triển khai
NMD, bán nhiều vũ khí cho Đài Loan, tạm dừng các cuộc tiếp xúc quân sự
giữa hai nước, đấu tranh nhân quyền với Trung Quốc, đưa máy bay tới do thám
vùng trời của Trung Quốc (sự kiện máy bay EP3 năm 2001)... với ý đồ dùng
thực lực và ảnh hưởng của mình buộc Trung Quốc phải chấp nhận vai trò siêu
cường duy nhất.
Năm 2008, ứng cử viên Obama, người có chủ trương tăng cường hợp tác
với Trung Quốc lên nắm quyền Tổng thống Mỹ. Do sự phát triển mạnh mẽ của
Trung Quốc, trong chính giới Mỹ đã xuất hiện những ý kiến thiết lập G-2 giữa
hai cường quốc mạnh nhất thế giới để giải quyết các vấn đề toàn cầu. Từ đây,
đối thoại chiến lược kinh tế Trung – Mỹ vốn được khởi xướng từ thời Bush –
Hồ Cẩm Đào tiếp tục được duy trì và mở rộng dưới nhiệm kỳ của Tổng thống
Obama. Tuy nhiên, cùng với cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố của Mỹ đi
vào hồi kết và Trung Quốc đang trỗi dậy nhanh chóng cả về chính trị, kinh tế,
quân sự, Trung Quốc tìm cách đẩy ảnh hưởng của Mỹ ra ngoài khu vực. Từ đó,
Mỹ quay trở lại với chính sách phòng ngừa đối với sức mạnh gia tăng của Trung
Quốc. Mỹ đã nhiều lần bán vũ khí cho Đài Loan gây phản ứng mạnh mẽ từ phía
Trung Quốc, phía Bộ ngoại giao Trung Quốc đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu Mỹ
tuân thủ "3 tuyên bố chung" giữa lãnh đạo hai nước trước đây. Tuy nhiên, các
Thượng nghị sỹ hàng đầu của Mỹ vẫn ủng hộ quyết định của chính phủ, đồng
thời kêu gọi chính phủ thường xuyên tiến
35. hành các thương vụ như thế này trong tương lai7
. Ngày 9/02/2010, Tổng thống
Obama gặp nhân vật ly khai Tây Tạng là Đàlai Lạtma và Đại sứ Mỹ tại Bắc
Kinh đã bị Bộ Ngoại giao Trung Quốc triệu hồi để phản đối. Năm 2012, Mỹ
chính thức công bố chiến lược "Xoay trục" sang châu Á – Thái Bình Dương,
một chiếc lược được xem là nhằm bao vây, kiềm chế sự trỗi dậy của Trung
Quốc. Mỹ lên tiếng phản đối cách hành xử của Trung Quốc trong các tranh
chấp ở Biển Đông và biển Hoa Đông, đồng thời cam kết hỗ trợ quân sự cho các
nước như Philippin, Nhật Bản... Để giảm nguy cơ xung đột, hướng tới xây dựng
mô hình "Quan hệ nước lớn kiểu mới", Tổng thống Mỹ đã gặp Chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận Bình tại California vào tháng 6/2013, nhân chuyến thăm Mỹ
không chính thức trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc. Trong cuộc
gặp, hai bên đã nhất trí các vấn đề về chống biến đổi khí hậu và ngăn chặn
chương trình hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Năm 2014,
liên quan đến Hội nghị thượng đỉnh các nền kinh tế khu vực châu Á – Thái
Bình Dương tổ chức tại Trung Quốc (APEC), Mỹ muốn mở rộng nội dung của
tổ chức này từ hợp tác kinh tế sang lĩnh vực chính trị và an ninh nhưng Trung
Quốc không chấp nhận, nhất là khi trong tổ chức này còn có sự tham gia của
Đài Loan. Để lôi kéo các nước khu vực tham gia vào các tổ chức do Mỹ làm
chủ đạo và không có sự tham gia của Trung Quốc, Mỹ đã thúc đẩy Hiệp định
đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) không có sự tham gia của Trung
Quốc, nhằm cô lập Trung Quốc, nâng cao vai trò ảnh hưởng của Mỹ. Bên cạnh
đó, Mỹ còn ngăn cản đồng minh và bày tỏ quan ngại đối với việc Trung Quốc
thành lập Ngân hàng đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á
7
Thanh Huyền, "Quan hệ Trung – Mỹ căng thẳng khi Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan", trên
website:baodatviet.vn, ngày 26/05/2010
36. (AIIB), Ngân hàng của các nền kinh tế mới nổi (BRICs) nhằm cạnh tranh với
các định chế tài chính quốc tế do Mỹ và các nước phương Tây chi phối...8
Tuy nhiên vào cuối năm 2015, trước các vụ tấn công mạng mà phía Mỹ
cho rằng có nguồn gốc từ Trung Quốc và việc Trung Quốc đẩy nhanh hoạt động
bồi đắp các đảo nhân tạo ở Biển Đông để thực hiện mục tiêu kiểm soát tuyến
hàng hải mang tính chiến lược quan trọng chiếm tới 2/3 thương mại toàn cầu,
Mỹ đã tỏ thái độ phản đối mạnh mẽ. Trong khi Mỹ đưa ra lời cảnh báo đối với
vấn đề Biển Đông là "Mỹ không đứng về bên nào trong tranh chấp", thúc giục
các bên giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng biện pháp hòa bình thì Trung
Quốc vẫn phớt lờ và tiếp tục đẩy nhanh cải tạo các đảo đá tại Biển Đông để
biến khu vực này thành căn cứ quân sự có thể đảm bảo cho mục tiêu xây dựng
"Chiến lược hải quân xa bờ" làm bàn đạp để vươn tới bảo vệ lợi ích của Trung
Quốc bên ngoài lãnh thổ. Đáp lại những hành động của Trung Quốc, Mỹ đã
đưa ra cái gọi là "Chiến dịch tự do hàng hải" tăng cường các cuộc tuần tra, đưa
các loại máy bay, tàu khu trục thường xuyên đi ra vào các vùng Trung Quốc
tuyên bố chủ quyền, tạo nên những mối quan ngại về việc có thể xảy ra các
cuộc đụng độ quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc tại Biển Đông9
.
1.2.4 Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc chi phối tới quan hệ hai
nước
- Gần suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, Trung Quốc duy trì chính sách thù
địch với Hàn Quốc: Ngày 01/10/1949, sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa ra đời với danh nghĩa "nhà nước xã hội chủ nghĩa" ở châu Á; can dự của
Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), nên khi cuộc
chiến tranh này kết thúc, việc Nam Triều Tiên (Hàn Quốc) ngày nay được sự
bảo trợ của Mỹ đã thành lập chính phủ riêng đi theo con đường đối
8
Tô Hữu Quân "Tư duy mới trong chiến lược ngoại giao của Trung Quốc từ Đại hội 18 đến nay_十八大以
来的中国外交战略新思想", website:www.ciis.org.cn/chinese/2015/01/07
9
Thanh Huyền, "Trung Quốc càng cay cú, Mỹ càng mạnh mẽ trên biển Đông", website: baodatviet.vn, ngày
26/05/2015
37. lập với miền Bắc phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy,
trước sự chia phe đối đầu giữa một bên là phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
đứng đầu giữa một bên là phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ lãnh đạo, một nước xã
hội chủ nghĩa khó có thể phát triển quan với một nước tư bản láng giềng.
Những năm của thập niên 70, mặc dù Trung Quốc đã bình thường hóa và
thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản (1972) và Mỹ (1979), nhưng Trung
Quốc vẫn duy trì chính sách cứng rắn với Hàn Quốc, bởi vì Trung Quốc cân
nhắc tới lợi ích được và mất khi phát triển quan hệ với Hàn Quốc sẽ ảnh hưởng
xấu đến quan hệ Trung – Triều; Trung Quốc lo ngại việc phát triển quan hệ với
Hàn Quốc sẽ mất đi nhiều hơn là được với Hàn Quốc. Trung Quốc quyết tâm
duy trì chính sách "một nước Triều Tiên" (chỉ công nhận CHDCND Triều Tiên)
bất chấp mọi nỗ lực của Hàn Quốc. Trung Quốc ngăn cấm mọi hoạt động buôn
bán trực tiếp và tiếp xúc ngoại giao với Hàn Quốc.
- Trung Quốc điều chỉnh chính sách bình thường hóa quan hệ và thiết lập
quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc nhằm giảm bớt sự cô lập của Mỹ và các nước
phương Tây: Giai đoạn cuối những năm 1980, khi chiến tranh lạnh gần kết thúc,
với các sự kiện thể thao quốc tế diễn ra tại cả Hàn Quốc và Trung Quốc dẫn
đến việc Trung Quốc điều chỉnh những chính sách đối với Hàn Quốc, đặc biệt
là sau sự kiện "Thiên An Môn" (6/1989), Trung Quốc bị Mỹ và các nước phương
Tây sử dụng nhiều chính sách cấm vận, cô lập... Do vậy, Trung Quốc đã điều
chỉnh một bước lớn trong việc bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao
với các nước tư bản, trong đó có Hàn Quốc 1992), một đồng minh của Mỹ tại
khu vực nhằm giảm bớt áp lực cô lập quốc tế.
Sau khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau (1992),
quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, chính
sách của Trung Quốc đối với Hàn Quốc được thể hiện một số đặc điểm là: (1)
Tiếp tục duy trì mối quan hệ ―cân bằng‖ với hai miền Triều Tiên, trên cơ sở
38. đó tăng cường các cuộc tiếp xúc cấp cao và trao đổi song phương với Hàn Quốc
nhằm xây dựng niềm tin giữa hai nước. Tìm tiếng nói chung với Hàn Quốc
trong các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên có cùng lợi ích, từng bước
khoét sâu mâu thuẫn Mỹ - Hàn, Nhật - Hàn, từ đó đánh bật ảnh hưởng của Mỹ
ra khỏi Hàn Quốc; (2) Tiếp tục tăng cường quan hệ với Hàn Quốc về kinh tế,
một mặt nhằm thu được những lợi ích lớn nhất về kinh tế, mặt khác sử dụng
kinh tế làm con bài để từng bước ―cột chặt‖ Hàn Quốc vào vòng ảnh hưởng
của mình; (3) Từng bước xây dựng và tăng cường quan hệ hợp tác với Hàn
Quốc trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh nhằm xóa bỏ nghi kỵ của Hàn Quốc
đối với ―mối đe dọa Trung Quốc‖, từ đó từng bước đẩy quân Mỹ ra khỏi Hàn
Quốc; (4) Tích cực phối hợp với nhau trong các vấn đề quốc tế và khu vực mà
hai bên cùng quan tâm và có lợi ích chung, như LHQ, APEC, WTO, ASEAN+3,
ARF...; (5) Tích cực phối hợp và tìm tiếng nói chung với Hàn Quốc để giải
quyết ―hòa bình‖ vấn đề hạt nhân của Triều Tiên, duy trì một bán đảo Triều
Tiên không có vũ khí hạt nhân, tránh để Mỹ lợi dụng xâm nhập và kiềm chế
Trung Quốc... Đây là những cơ cở để Trung Quốc hoạch định, điều chỉnh chính
sách nhằm để lôi kéo Hàn Quốc, tranh giành ảnh hưởng với Mỹ.
1.3 BỐI CẢNH BÊN TRONG
1.3.1. Tình hình Hàn Quốc kể từ năm 2000
Hàn Quốc là một quốc gia có nền chính trị dân chủ phát triển theo mô hình
của các nước Mỹ và phương Tây. Bước vào thế kỷ XXI, Hàn Quốc do vừa mới
chuyển đổi từ chế độ độc tài quân sự sang chế độ dân chủ nghị viện, nên trong
quá trình phát triển những mâu thuẫn giữa các đảng phái vẫn thường xuyên xảy
ra. Các đảng phái đối lập thường lợi dụng những yếu kém, tồn tại của đảng cầm
quyền để gây sức ép, khoét sâu mâu thuẫn... nhằm hạ uy tín đảng cầm quyền
nhằm trục lợi chính trị.
39. Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á xảy ra vào năm 1997- 1999
đe dọa những thành tựu kinh tế lớn của Hàn Quốc, nhiều công ty đã bị phá sản
hoặc phải bán cho nước ngoài, nhiều quỹ công cộng bị trưng dụng để cứu các
ngân hàng, hàng trăm nghìn người bị mất việc làm, tốc độ tăng trưởng kinh tế
bị ảnh hưởng nghiêm trọng. GDP và GDP bình quân đầu người giảm từ 442,6
tỷ USD và 9.511 USD năm 1997 xuống còn 321,3 tỷ USD và 6.823 USD năm
199810
. Trước bối cảnh khó khăn của đất nước, Tổng thống Kim Tê-chung một
mặt kêu gọi nhân dân tiết kiệm, quyên góp tiền ủng hộ nhà nước, tập trung cứu
vãn các tập đoàn kinh tế - tài chính lớn, chấp nhận phá sản hoặc bán một số
công ty cho nước ngoài, mặt khác chấp nhận khoản vay 57 tỷ USD với những
điều kiện ngặt nghèo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đặt ra. Tuy nhiên, chỉ chưa
đầy 2 năm, kinh tế Hàn Quốc đã vượt qua được khủng hoảng, dần lấy lại được
đà tăng trưởng. Tuy tốc độ tăng trưởng giảm, không thể so sánh được với tốc
độ tăng trưởng như nền kinh tế Trung Quốc, nhưng nền kinh tế Hàn Quốc luôn
tăng trưởng ở mức ổn định từ 4,5-5%. So với các nền kinh tế tại khu vực, Hàn
Quốc vẫn là quốc gia có nền kinh tế mạnh, nhiều lĩnh vực chiếm ưu thế hàng
đầu thế giới như ngành công nghiệp nặng đóng tàu, ngành sản xuất xe hơi, công
nghệ bán dẫn, sản xuất linh kiện điện tử…
Bước sang thế kỷ XXI, hoà bình và hợp tác là xu thế chung trong quan
hệ quốc tế, tuy nhiên Hàn Quốc lại phải đối mặt với những thách thức từ bên
ngoài đó là chương trình tên lửa và hạt nhân của Triều Tiên, các tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ với Nhật Bản về quần đảo Đốc Đô/Takeshima, với Trung
Quốc về đảo Ieodo/Tô Nham Tiêu. Do vậy, Hàn Quốc một mặt tiếp tục phải
dựa vào ô an ninh hạt nhân của Mỹ, dựa vào liên minh quân sự Mỹ - Nhật –
Hàn, tăng cường các cuộc diễn tập quân sự chung hàng năm với Mỹ (Đại
bàng non, Giải pháp then chốt,
10
"Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong duy trì ổn định tài chính trong bối cảnh khủng hoảng tài chính tiền tệ"
Trung tâm Thông tin tư liệu số 5/2014, trang 13.
40. Người bảo vệ tự do Un-chi, Song Long...); mặt khác không ngừng tự nghiên
cứu, mua sắm, chế tạo các loại vũ khí, trang thiết bị như việc Hàn Quốc đã chế
tạo thành công các tàu khu trục, tàu ngầm, các loại máy bay huấn luyện và chiến
đấu... không chỉ trang bị cho quân đội nâng cao sức mạnh chiến đấu và mà còn
có thể xuất khẩu đem lại hàng tỷ USD lợi nhuận cho ngành công nghiệp quốc
phòng của nước này.
Trước những biến động phức tạp của tình hình chính trị thế giới và xu
hướng trong quan hệ quốc tế, khu vực những năm đầu thế kỷ XXI, trong chính
sách đối ngoại của mình Hàn Quốc coi trọng quan hệ với các nước lớn, nhất là
đối với Mỹ. Quan hệ với Mỹ được coi là quan hệ trung tâm của Hàn Quốc, vì
việc phát triển quan hệ Mỹ - Hàn đã đưa lại cho Hàn Quốc sức mạnh kinh tế,
quân sự khi bước sang thế kỷ mới. Bên cạnh đó, Hàn Quốc cũng từng bước
điều chỉnh quan hệ với các nước trong khu vực nhất là với Nga và Trung Quốc;
coi trọng quan hệ hợp tác đa phương với các tổ chức trong và ngoài khu vực,
như với ASEAN, các nước công nghiệp mới nổi G-20, APEC... để nâng cao địa
vị chính trị, kinh tế của Hàn Quốc trong quan hệ quốc tế, đồng thời tìm kiếm
sự ủng hộ của các nước và các tổ chức quốc tế đối với vấn đề hạt nhân và tên
lửa của Triều Tiên.
1.3.2. Định hướng điều chỉnh chính sách trong quan hệ với Trung
Quốc Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và trong nước chiến lược đối
ngoại xuyên suốt của Hàn Quốc đều nhằm thực hiện mục tiêu tìm kiếm sự
ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với hoà bình và ổn định trên bán đảo Triều
Tiên, tiến tới thống nhất bán đảo Triều Tiên theo ý đồ sáp nhập Triều Tiên
vào Hàn Quốc, đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa,
phấn đấu xây dựng một nước Triều Tiên thống nhất hùng cường, có vai trò vị
thế cao trên trường quốc tế, cạnh tranh với các cường quốc khác. Trong đó,
với Trung Quốc một quốc gia láng giềng có nhiều ảnh hưởng đối
41. với bán đảo Triều Tiên và có quan hệ đồng minh chặt chẽ với Triều Tiên, Hàn
Quốc xác định:
(1) Việc phát triển mối quan hệ chính trị - đối ngoại tốt đẹp với Trung
Quốc sẽ góp phần xây dựng môi trường hòa bình ổn định cho sự trỗi dậy của
Hàn Quốc, nâng cao vị thế vai trò của Hàn Quốc trong chiến lược của các nước
lớn (Mỹ, Nga, Nhật Bản, EU...), đưa Hàn Quốc từ nước theo đuôi Mỹ, trở thành
một một nước điều hòa trong quan hệ giữa các nước lớn, nhất là điều hòa mối
quan hệ Trung – Mỹ, góp phần nâng cao vị thế, vai trò chính trị của Hàn Quốc
tại khu vực và trên thế giới.
(2) Tạo cơ hội cho các hoạt động giao lưu, trao đổi thương mại, hợp tác
đầu tư giữa các doanh nghiệp hai nước, tận dụng khai thác thị trường to lớn của
Trung Quốc với những tiềm năng sẵn có (dân số đông, giá thuê lao động thấp,
người Trung Quốc cần cù chiụ khó, chất lượng hàng hóa xuất khẩu vào thị
trường Trung Quốc không đòi hỏi chất lượng quá cao...), mở rộng ảnh hưởng
kinh tế của Hàn Quốc trên thế giới, thực hiện mục tiêu biến Hàn Quốc trở thành
trung tâm kinh tế của khu vực Đông Bắc Á. Việc thúc đẩy hợp tác kinh tế với
Trung Quốc đã trở thành động lực căn bản nhất trong hợp tác Hàn
- Trung. Từ năm 1992 quan hệ ngoại giao Hàn Quốc và Trung Quốc chính thức
xây dựng đến nay, Trung Quốc đã trở thành một trong những đối tác thương
mại quan trọng nhất của Hàn Quốc, kim ngạch thương mại mỗi năm của hai
bên ngày một tăng, từ năm 2003 Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành đối tác
thương mại lớn nhất của Hàn Quốc. Cùng với việc Trung Quốc trở thành đối
tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc, Chính phủ Hàn Quốc đã coi quan hệ
hai bên là mối quan hệ song phương quan trọng song song với liên minh an
ninh Mỹ - Hàn11
.
11
Hoàng Minh Hằng, "Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc kể từ khi bình thường hóa quan hệ", Tạp chí
nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 5 (59), 10/2005, trang 73.
42. (3) Thông qua vai trò ảnh hưởng của Trung Quốc với Triều Tiên, góp
phần thúc đẩy hòa giải dân tộc giữa hai miền, phấn đấu vì mục tiêu hòa bình
thống nhất bán đảo Triều Tiên. Điều này xuất phát từ việc Trung Quốc vừa là
người bảo trợ về an ninh vừa là nhà cung cấp kinh tế, đồng thời là người đứng
ra che chắn, bảo vệ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trước sự trừng phạt
của cộng đồng quốc tế.
Tiểu kết
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, do yếu tố lịch sử và rào cản ý thức hệ, nên
quan hệ giữa Hàn Quốc và Trung Quốc là quan hệ đối đầu và thù địch. Sau khi
Chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với những thay đổi nhanh chóng của tình hình
thế giới và khu vực hai nước đã từng bước chính thức bình thường hóa quan hệ
và ngày càng xích lại gần nhau. Việc Hàn Quốc điều chỉnh chính sách đối ngoại,
ngày càng "xích lại" gần hơn với Trung Quốc và có xu hướng giảm sự lệ thuộc
vào Mỹ xuất phát từ những yếu tố khách quan và chủ quan đưa tới: Chính sách
của Mỹ đối với khu vực Đông Bắc Á nói chung và Hàn Quốc nói riêng sau sự
kiện 11/9; Hàn Quốc muốn tìm kiếm lợi ích từ sự trỗi dậy của Trung Quốc;
những diễn biến của vấn đề hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên đối với hòa bình
an ninh của khu vực; những thành tựu kinh tế đạt được từ "kỳ tích sông Hàn"
... làm cơ sở cho Hàn Quốc bước đầu có những bước đi nhằm thực hiện "bình
đẳng" với Mỹ và mong muốn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ
hơn trong quan hệ với các nước lớn. Đường lối đa nguyên hóa trong quan hệ
đối ngoại đã được kế thừa và phát triển mạnh mẽ là những điều kiện thôi thúc
Hàn Quốc điều chỉnh chính sách đối ngoại với Trung Quốc nhằm nâng cao vị
thế quốc tế của mình đối với khu vực. Với mục tiêu hướng tới xây dựng môi
trường hòa bình, hữu nghị làm động lực cho hợp tác phát triển kinh tế và làm
cơ sở nền tảng chính trị cho sự nghiệp thống
43. nhất dân tộc. Đây được coi nội dung cốt lõi của chính sách đối ngoại của Hàn
Quốc đối với Trung Quốc từ đầu thế kỷ XXI đến nay.
44. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. "Các mốc lịch sử trong quan hệ ngoại giao Hàn – Trung",website:
Yahapnews.co.kr – (Phan Thị Oanh - dịch)
2. "Chiến lược hai mặt của Hàn Quốc đối với Trung Quốc và Mỹ", Tạp
Chí Thế giới Đương đại (Trung Quốc) số 01/2013 (Quốc Trung –dịch).
3. "Chính sách đối ngoại của Hàn Quốc", Tài liệu tham khảo đặc biệt số
12/2007 của Thông tấn xã Việt Nam.
4. Lê Văn Anh và Nguyễn Văn Cương, "Chính sách của các nước lớn đối
với vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên trong thập niên đầu thế kỷ XXI", Tạp
chí nghiên cứu Đông Bắc Á số 9/2011.
5. Nguyễn Thị Quế "Chiến lược xoay trục, tái cân bằng của Mỹ đối với
châu Á - Thái Bình Dương", website:lyluanchinhtri.vn, ngày 20/01/2016/
6. Phạm Quý Long, "Đại cương quan hệ đối ngoại của Hàn Quốc – Tiến
trình phát triển" (10/2012), website: cks.inas.gov
7. "Hàn Quốc và Trung Quốc kết thúc đàm phán FTA",
website:world.kbs.co.kr, ngày 17/11/2015
8. Nguyễn Xuân Thành "Khủng hoảng tài chính ở Đông Á: Mô hình
khủng hoảng tài chính tiền tệ thứ ba", website:fetp.edu.vn, ngày 9/7/2012.
9. Ngô Xuân Bình, "Một số vấn đề chính trị nổi bật ở khu vực Đông Bắc
Á giai đoạn 2011 -2020", webside: cks.inas.gov
10. Trần Thị Duyên, "Mối quan hệ Seoul – Bắc Kinh: Hôm qua và ngày
mai", website: cks.inas.go
11. Lee Deong Ryul (dịch), "Những tín hiệu tốt trong quan hệ Hàn –
Trung", website:cks.inas.gov (Bài viết tại hội thảo chuyên ngành của trung tâm
nghiên cứu trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Viện Ngoại giao Quốc gia Hàn
Quốc tổ chức ngày 28 và 29/12/2014).
45. 12. Hoàng Minh Hằng, "Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc kể từ khi bình
thường hóa quan hệ", Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 5 (59),
xuất bản 10/2005.
13. Hoàng Minh Hằng (chủ biên), "An ninh Đông bắc Á trước sự trỗi
dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ", Nxb Khoa
học xã hội, năm 2015.
14. Võ Hải Thanh: "Quan hệ hợp tác kinh tế của Hàn Quốc với các
nước trong khu vực Đông Bắc Á" (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á,
2005)
15. Thanh Huyền, "Quan hệ Trung – Mỹ căng thẳng khi Mỹ bán vũ khí
cho Đài Loan", trên website:baodatviet.vn, ngày 26/05/2015
16. Hoàng Nguyên "Tổng quan về kinh tế thế giới năm 2015 và dự báo
năm 2016" trên website:tapchicongsan.org, ngày 21/01/2016.
17."Trung Quốc cảnh báo Hàn Quốc về hệ thống tên lửa THAAD",
website:vnexpress.net/30/01/2016
18. Vũ Dương Huân (chủ biên) "Quan hệ của Mỹ với các nước châu Á –
Thái Bình Dương", Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2003.
B. Tiếng nước ngoài
19. "Tuyên bố chung Thiết lập quan hệ Ngoại giao Trung – Hàn 1992" (
中韩关于建立交关系的联合公报) webside: People.com.cn, ngày 24/8/1992
20. "Thông báo chung Trung – Hàn", website: people.com.cn, (7-
10/7/2003)
21. "Tuyên bố chung Trung – Hàn" ( 中韩联合声明), website:
People.com.cn, ngày 27/5/2008
22. Lý Ninh “Sau sự kiện 11.9, xu hướng an ninh khu vực Đông Bắc Á và
hợp tác Trung – Hàn -- 9.11 事件后东北亚安全形势与中韩关系”, Tạp chí
Hòa bình và phát triển, số 3/21.
46. 23. Lưu Tiếu Dương (tổng hợp từ Hội thảo nghiên cứu học thuật),“Đối tác
chiến lược Trung – Hàn cơ hội và thách thức đi sâu phát triển --- 中 韩 关系深
化发展的机遇和挑战-----中韩战略对话研讨会综述”, Tạp chí Thời báo học
tập, số 12/2014 của Trường Đảng Trung ương Trung Quốc.
24. Tô Hữu Quân "Tư duy mới trong chiến lược ngoại giao của Trung
Quốc từ Đại hội 18 đến nay_ 十八大以来的中国外交战略新思想",
website:www.ciis.org.cn, ngày 7/01/2015.
25. Lý Nhạn Ngọc "Bàn về đàm phán 6 bên và quan hệ Hàn – Trung "
试论六方会谈与韩中关系"
26. Lý Tinh, Đơn Tần Tần, “Quan hệ, Trung – Hàn trong hợp tác khu vực
Đông Á - 东亚区域合作中的中韩关系” (2007), Tạp chí Social Science
Review, số 12/2007
27. Han Suk-hee"Hàn Quốc tìm cách cân bằng trong quan hệ với Trung
Quốc và Mỹ _ South Korea Seeks to Balance Relations with China and the
United States" (11/2012);
28. "Bán đảo Triều Tiên cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc _ The
Korean Peninsula—Balancing Relations with the United States and China",
Tạp chí East Asian Strategic Review, (03/006)
29. "The Korean Peninsula—Balancing Relations with the United States
and China" (Bán đảo Triều Tiên cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc),
East Asian Strategic Review, 03/006)
30. Steven Denney "Sự phụ thuộc kinh tế của Hàn Quốc vào Trung Quốc
_ South Korea's Economic Dependence on China", website:thediplomat.com,
ngày 10/9/2015.