SlideShare a Scribd company logo
1 of 126
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
LUẬN VĂN:
Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển
quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm
1995 đến năm 2005
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
đổi mới, trong đó đổi mới đường lối đối ngoại là một nội dung quan trọng. Nghị quyết
Đại hội VI nêu rõ: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình
hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước
có chế độ chính trị xã hội khác nhau” [39, tr.105]. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố:
“Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng động thế giới, phấn đấu vì hoà
bình độc lập và phát triển” [43, tr.147].
Với đường lối đối ngoại rộng mở đó, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ
quốc tế, nâng cao vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Từ chỗ bị cô lập về chính
trị, cấm vận về kinh tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan
hệ kinh tế thương mại và đầu tư với 165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam
hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế khu vực. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ
ở các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên các châu lục của thế
giới. Các đoàn thể tổ chức nhân dân Việt Nam có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân
dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia quốc tế. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta
đã có quan hệ với tất cả các nước, các trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới, các
nước láng giềng, các nước trong khu vực. Nền kinh tế Việt nam ngày càng hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ.
Trong lịch sử, quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng đang phát triển mạnh sau những
bước thăng trầm. Những năm Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, quan hệ Việt Nam - ASEAN là quan hệ đối đầu. Khi Mỹ không thể
thắng tại chiến trường Việt Nam, buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở
Việt Nam thì các nước ASEAN đã điều chỉnh chính sách đối ngoại và triển khai một số
bước đi thân thiện hơn trong quan hệ với Việt Nam. Về phía Việt Nam, tháng 7/1976
Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm đối với khu vực chủ trương xây dựng quan hệ hữu
nghị với các nước ASEAN. Tháng 8/1976 Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
tất cả các nước ASEAN. Tuy nhiên, đến năm 1979 do bất đồng quan điểm trong giải
quyết vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN từ đối thoại thân thiện
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
đã chuyển sang đối đầu. Đến năm 1989 khi Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, quan
hệ Việt Nam - ASEAN ấm dần lên. Sau những bước đi, thủ tục cần thiết, ngày 28/7/1995,
Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Sự kiện này là mốc quan trọng thể hiện
quyết tâm của Đảng Nhà nước ta trong việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, đặc biệt là chính sách đối với
khu vực theo hướng chủ động hội nhập. Sự kiện này đã chấm dứt thời kỳ đối đầu, thù
nghịch để hai bên bước vào thời kỳ hữu nghị hợp tác.
Việc gia nhập ASEAN tạo thuận lợi cho Việt Nam tăng cường lòng tin của các nhà
đầu tư và các thể chế tài chính quốc tế, tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất nước.
ASEAN còn tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội đi vào những thị trường lớn như Mỹ,
EU, Nhật Bản. Đồng thời việc gia nhập ASEAN giúp Việt Nam nâng cao vị trí, vai trò
của Việt Nam trên trường quốc tế… Những thuận lợi đó đã được chứng minh rõ nét bằng
những thành tựu đạt được của Việt Nam trong 10 năm qua.
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những thuận lợi lớn, nhưng cũng gặp
phải những khó khăn, thách thức không nhỏ. Để có chính sách đối với khu vực hoàn
chỉnh hơn, cần nhìn lại chặng đường 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN, để rút ra kinh
nghiệm, nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác Việt Nam -
ASEAN. Từ những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây
dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm
2005” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với lịch sử phát triển lâu dài và vị trí chiến lược quan trọng, Đông Nam á đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành khoa học khác nhau ở trong
và ngoài nước. Đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN thì
quan hệ Việt Nam - ASEAN ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều cá nhân và tổ
chức, các cơ quan chuyên môn như Viện nghiên cứu Đông Nam á thuộc Trung tâm Khoa
học xã hội nhân văn (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Vụ ASEAN - Bộ Ngoại
giao, Đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà
Nội, Học viện Quan hệ quốc tế v.v… trên các vấn đề như:
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Về lịch sử quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm như: Việt Nam - Đông Nam
á: Quan hệ lịch sử văn hoá của Viện Nghiên cứu Đông Nam á, Nxb Chính trị Quốc gia,
1993; Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN của Đinh Xuân Lý, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, 2000; Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương song phương của Vũ Dương Ninh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004; Ngoài ra còn có các bài tạp chí như: Vấn đề Việt
Nam gia nhập ASEAN của Nguyễn Vũ Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm
1994; Hà Văn Thầm, Việt Nam gia nhập ASEAN tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc
tế, Tạp chí Cộng sản, số 8, năm 1997; Nguyễn Huy Hồng, Về quan hệ Việt Nam ASEAN,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm 1995…
Về những vấn đề cụ thể trong quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm: Quan
hệ Việt Nam - ASEAN chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam của Vũ Đình Hương, Vũ
Đình Bách, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997; Nguyễn Xuân Thắng có cuốn sách
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN tiến trình hội nhập của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà
Nội 1999; Ngô Hữu Mạnh, Những nhân tố thúc đẩy hạn chế hợp tác an ninh chính trị
Việt Nam - ASEAN trong 5 năm qua, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3, năm 2000…
Về những cơ hội, thách thức cũng như đánh giá lại thời gian Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của ASEAN có các bài viết như: Vấn đề hoà bình hợp tác giữa Việt
Nam các nước ASEAN hiện nay - những thuận lợi khó khăn của Nguyễn Hữu Cát, Tạp
chí Nghiên cứu Lý luận, số 3, năm 1994; Nhìn lại một năm gia nhập ASEAN của Nguyễn
Mạnh Hùng, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 13, năm 1996; Nguyễn Cảnh Huệ, Những
thuận lợi thách thức khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, số
2, năm 1996; Việt Nam sau 5 năm gia nhập ASEAN của Nguyễn Hữu Cát - Ngô Kim
Anh, Tạp chí Tư tưởng Văn hoá 7-2000…
Về những vấn đề chung liên quan đến ASEAN có các tác phẩm: ASEAN hôm nay
triển vọng trong thế kỷ XXI của Nguyễn Thu Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998;
Nguyễn Duy Quý, Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định phát triển bền vững, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Nguyễn Duy Quý, Xây dựng một ASEAN phát triển
đồng đều trong thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 5, năm 2001…
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Đặc biệt, vào dịp kỷ niệm 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN có các bài viết: Lê
Công Phụng, Việt Nam - ASEAN 10 năm nhìn lại, đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại,
số 8, năm 2005; Vũ Dương Ninh, Việt Nam - ASEAN 10 năm đồng hành trên chặng đ-
ường hội nhập quốc tế 1995 - 2005, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4, năm 2005;
Trần Khánh, Việt Nam sau 10 năm gia nhập ASEAN thành tựu, cơ hội thách thức, Tạp
chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4, năm 2005…
Các tác phẩm, bài viết về quan hệ Việt Nam - ASEAN rất phong phú, tiếp cận trên
nhiều vấn đề khác nhau. Song chưa có bài viết hoặc công trình nào mang tính chất tổng
hợp, có hệ thống về quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam -
ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005. Do đó, kế thừa những công trình đã nghiên cứu
trước đây, tác giả luận văn cố gắng nêu phân tích quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và
phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN trong thời gian 10 năm kể từ khi Việt Nam gia
nhập ASEAN.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Thông qua quan hệ Việt Nam - ASEAN trong 10 năm, tác giả luận văn khẳng định
tính chủ động, đúng đắn, sáng tạo, nhạy cảm chính trị của Đảng trong việc đưa nước ta
hội nhập sâu hơn vào ASEAN qua việc trở thành thành viên đầy đủ và tích cực, các sáng
kiến thúc đẩy ASEAN phát triển toàn diện.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Nêu lên chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng đối với các nước
ASEAN.
- Thành tựu đạt được hạn chế của Việt Nam trong quan hệ Việt Nam -
ASEAN.
- Bước đầu nêu một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo xây dựng phát triển
quan hệ Việt Nam - ASEAN rút ra sau 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu chủ trương của Đảng liên
quan đến xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN, quá trình tổ chức thực hiện
chủ trương này.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
- Về thời gian: Tập trung đi sâu vào mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN từ
1995 đến 2005.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở những quan điểm phương pháp
luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại.
5.2. Nguồn tư liệu
Luận văn sử dụng các tài liệu của Đảng về đối ngoại bao gồm:
Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đường lối đối ngoại và công tác đối ngoại.
Các tác phẩm, bài nói, bài viết hoặc phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước.
Ngoài ra luận văn sử dụng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và
ngoài nước về Đông Nam á nói chung và ASEAN nói riêng đã được in thành sách, công
bố trên báo chí, hoặc các hội thảo có liên quan.
Tác giả luận văn còn trực tiếp tham khảo ý kiến của nhiều cán bộ chuyên sâu về
ASEAN của Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương để phục vụ cho việc viết luận
văn.
5.3. Các phương pháp sử dụng khi nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và hệ thống các phương
pháp như phân tích, tổng hợp, thống kê… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong
luận văn.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống một cách tương đối đầy đủ tư liệu về chủ trương, đường lối của Đảng về
quan hệ Việt Nam - ASEAN.
- Bước đầu rút ra những kinh nghiệm để góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả và
chất lượng hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN, góp phần triển khai chính sách đối với
khu vực, một bộ phận quan trọng của chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá của Đảng và Nhà nước ta.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Chương 1
Đảng lãnh đạo đưa việt nam gia nhập asean
và từng bước tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN
(1995 - 2000)
1.1. Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN
1.1.1. Khái quát tình hình thế giới và trong nước tác động đến chính sách của
Việt Nam đối với ASEAN (1986-1995)
- Tình hình thế giới:
Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng
và phức tạp làm thay đổi căn bản cục diện thế giới.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện
và nghiêm trọng, dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Sự tan
rã của một trong hai siêu cường của trật tự thế giới hai cực đã tạo ra một khoảng trống lớn
trong không gian chính trị quốc tế, làm tan vỡ sự cân bằng toàn cầu đã tồn tại gần 50 năm
qua từ sau Hội nghị Yanta năm 1945. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất và mạnh nhất về
quân sự. So sánh lực lượng trên thế giới từ chỗ tương đối cân bằng giữa hai hệ thống chính
trị xã hội đối lập chuyển sang có lợi cho Mỹ và các nước tư bản phát triển.
Khi trật tự thế giới hai cực không còn nữa, thế giới chuyển sang cục diện mới với sự
tham gia của nhiều nước, nhiều trung tâm. Nhật Bản và Tây Âu xem việc Liên Xô tan rã
là thời cơ thuận lợi để vươn lên tăng cường vai trò chính trị và quân sự cho tương xứng
với thực lực kinh tế của mình.
Trung Quốc tiến hành cuộc cải cách, mở cửa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Sự
lớn mạnh của Trung Quốc đã tác động không nhỏ đến cán cân so sánh lực lượng của thế
giới sau thời kỳ chiến tranh lạnh. Trung Quốc tham vọng trở thành siêu cường của thế
giới vào giữa thế kỷ XXI.
ở khu vực Đông Nam á, Hiệp định Paris về hoà bình ở Campuchia được ký kết vào
tháng 10 năm 1991. Do đó, những bất đồng quan điểm trong việc giải quyết vấn đề
Campuchia không còn nữa. Mặt khác, khi trật tự thế giới hai cực chấm dứt, Đông Nam á
không còn được các cường quốc kinh tế thế giới đặt ở vị trí ưu tiên như trước. Nga và Mỹ
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
đều giảm sự hiện diện của mình ở khu vực này. Nga tuyên bố rút quân khỏi Cam Ranh
(Việt Nam), Mỹ rút lực lượng quân sự ở căn cứ Xubích và Clark (Philippin). Tình hình
đó tạo ra một “khoảng trống” quyền lực ở vùng Đông Nam á. Những cố gắng nhằm đẩy
mạnh vai trò cả về chính trị, kinh tế quân sự của Trung Quốc, Nhật Bản ở châu á đã làm
tăng mối lo ngại truyền thống trong các nước ASEAN và các nước Đông Nam á khác về
một nguy cơ can thiệp của các nước lớn đối với khu vực. Bên cạnh đó lại nảy sinh những
nguy cơ xung đột tiềm tàng ở Biển Đông. Đó là thách thức lớn đối với ASEAN, buộc họ
phải tính toán nhằm tìm ra một cơ chế bảo đảm an ninh, hoà bình ở khu vực. Vì vậy,
ASEAN chủ trương tăng cường vị thế của mình, bằng cách phấn đấu tiến tới ASEAN 10,
lấy việc kết nạp Việt Nam vào ASEAN là hướng ưu tiên, ra sức tạo ra thế cân bằng chiến
lược mới ở khu vực bằng cách giữ cho Đông Nam á hoà bình, trung lập và thịnh vượng,
đứng ngoài những quan hệ phức tạp giữa các nước lớn.
Trước những xu thế mới của tình hình thế giới, hợp tác kinh tế giữa các nước
ASEAN ngày càng được ưu tiên. Đầu những năm 90, tổng sản phẩm nội địa (GDP) tính
theo đầu người của các nước ASEAN đã đạt mức: Singapore và Brunei khoảng 15.000
USD, Malaysia là 2.300 USD, Thái Lan trên 1.400 USD, Philippin trên 700 USD,
Indonesia trên 600 USD. Các nước ASEAN đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ
theo hướng công nghiệp hoá. Với chính sách “hướng ngoại”, ngoại thương của ASEAN
phát triển nhanh chóng, đạt 160 tỷ vào đầu những năm 90, đến cuối những năm 80 bình
quân hàng năm các nước ASEAN thu hút 13,5 tỷ USD vốn đầu tư của thế giới so với 4,6
tỷ USD vào đầu những năm 80. Từ đầu những năm 90, sức mạnh kinh tế của các nước
ASEAN đã tăng lên đáng kể, dự trữ ngoại tệ tăng khá (Singapore là trên 30 tỷ USD,
Brunei khoảng 25 tỷ USD, Thái Lan trên 20 tỷ USD, Indonesia trên 10 tỷ, Philippin
khoảng 4,5 tỷ) [66, tr 29 - 30].
Toàn cầu hoá trở thành một xu thế diễn ra mạnh mẽ từ sau khi cục diện thế giới
chuyển từ 2 cực sang đa cực. Xu thế toàn cầu hoá tăng cường sự giao lưu hợp tác giữa
các nước và các khối nước, giúp các nước phát triển nhanh và tận dụng thành quả khoa
học công nghệ của loài người. Quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi các nước phải mở rộng làm
ăn, hợp tác với nhau không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, lớn hay nhỏ… toàn cầu hoá
còn tạo điều kiện thuận lợi và hiệu quả cho sử dụng và lưu thông vốn, kỹ thuật và công
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
nghệ, hàng hoá, lao động… góp phần làm tăng thêm sản phẩm xã hội và sự phát triển
chung của loài người. Tuy nhiên, với các nước nhỏ, kém phát triển trong quá trình hội
nhập chịu sự thua thiệt là điều khó tránh khỏi. Nhưng không vì thế mà các nước nhỏ, kém
phát triển, lạc hậu lại đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá, vì thực tiễn đã cho thấy không một
quốc gia nào, không một nhóm nước nào dù lớn và có tiềm năng có thể phát triển trong
hình thái “tự sản tự tiêu”.
Trước những đòi hỏi mới của tình hình, dưới tác động của sự đảo lộn về tập hợp lực
lượng thế giới, các nước đều điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình theo hướng dành
ưu tiên cho yêu cầu phát triển kinh tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, cải
thiện quan hệ hợp tác, liên kết với các nước ở khu vực. Do đó, trong quan hệ quốc tế
ngày nay đang nổi lên những xu hướng mới ảnh hướng nhiều đến chính sách đối ngoại
của các nước:
Thứ nhất, xu hướng ưu tiên cho phát triển kinh tế đang lôi cuốn cả cộng đồng quốc tế,
những nước công nghiệp phát triển cũng như những nước đang phát triển. Với việc kết thúc
chiến tranh lạnh, cuộc chạy đua về kinh tế trên phạm vi toàn cầu đang thay thế cho cuộc
chạy đua vũ trang. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia.
Thứ hai, xu hướng đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của tất cả các nước, nhất là những
nước trước kia có quan hệ đối ngoại hạn chế. Các nước ra sức mở rộng quan hệ quốc tế,
không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau, không câu nệ đối tượng, với tất cả
những ai có khả năng hợp tác hiệu quả, việc lựa chọn bạn, thù, biện pháp và hình thức
quan hệ trở nên hết sức linh hoạt.
Thứ ba, hợp tác khu vực tăng cường. Các nước đều coi trọng chính sách khu vực,
ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế với những nước láng giềng, đẩy mạnh hợp tác và liên
kết khu vực nhất là về kinh tế.
Xu hướng này đang là một trào lưu ngày càng lan rộng khắp các châu lục, xuất phát từ
cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế mang tính toàn cầu và sự tập hợp lực lượng giữa các
trung tâm, khu vực, nhằm hình thành trật tự thế giới mới thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Vì vậy,
các quốc gia đều coi trọng, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước có chung
đường biên giới, để đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực. Xu thế khu vực hoá và
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
nhất thể hoá nền kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ và sôi động. Nhiều tổ chức và
Diễn đàn kinh tế đa phương ở từng khu vực đã được hình thành:
ở châu Âu: Liên minh châu Âu với 12 nước thành viên đến năm 1995 kết nạp thêm
3 nước thành viên mới (áo, Thụy Điển, Phần Lan); nâng tổng số thành viên lên 15 nước
so với 6 nước thành viên khi được thành lập năm 1957.
ở châu Mỹ: Thành lập khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) vào cuối năm
1992; các nước Nam Mỹ thành lập khu vực mậu dịch tự do Nam Mỹ (MERCOSUR).
ở châu á: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) được thành
lập tháng 11/1992; Các nước ASEAN thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á
(AFTA) bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1993.
Những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới, trong đó sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tác động sâu sắc đến đất nước ta:
Sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đối với cuộc đấu
tranh của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, sự
hợp tác kinh tế của Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khó giữ được ở
mức độ và những điều kiện như trước. Trong khi đó, một thời gian dài Đảng ta luôn xác
định “tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” [39, tr. 99-100]. Khi Liên Xô sụp
đổ, “hòn đá tảng” không còn nữa. Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã
hội thế giới và tiếp tục phát triển, Đảng ta cần có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại phù
hợp với tình hình thực tiễn và các quan hệ quốc tế mới, với xu thế phát triển của thế giới.
- Khái quát tình hình trong nước:
Từ những năm 70 nhất là giữa những năm 80 của thế kỷ trước, nước ta lâm vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới. Thực hiện đường
lối đổi mới đó, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, sau 2 năm thực hiện “tình
hình kinh tế, xã hội có sự cải thiện nhất định; nhịp độ lạm phát và tăng giá giảm một ít,
tình hình cung ứng lương thực, hoạt động giao dịch, chuẩn bị hợp tác với bên ngoài được
mở ra”. [41, tr. 3]. Trong các năm 1986 – 1989 tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân
đều tăng so với năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng từ 4,8% năm 1986
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
lên 19,6% năm 1989, thu nhập quốc dân tương ứng cũng tăng từ 3,3% lên 14,7%; “Tình
hình lương thực – thực phẩm có chuyển biến tốt, từ chố thiếu ăn triền miên, năm 1988
còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự
trữ và xuất khẩu” [43, tr.18].
Về kinh tế đối ngoại: Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 439 triệu rúp và 384 triệu đôla
năm 1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đôla năm 1990 [43, tr.19]. Lạm phát được
kiềm chế, nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%,
1987 là 10%, 1988 là 14%, 1989 là 2,5%, đến năm 1990 là 4,4 % [43, tr. 27]; trong 5
năm 1986-1990 có thêm 4,2 triệu lao động đã tìm được việc làm. Trong 5 năm (1991-
1995) nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước đạt 8,2%, công
nghiệp tăng bình quân 13,3%, nông nghiệp tăng bình quân 4,5%, kim ngạch xuất khẩu
thủy hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Lạm phát được kiềm chế năm 1986 là
774,7% xuống còn 67,4% năm 1991, còn 12,7% năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều
chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Trong 5 năm tổng kim
ngạch xuất khẩu đạt 17 tỷ đôla, tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỷ đôla, quan hệ mậu
dịch đã mở rộng trên 100 nước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh trong 5 năm,
bình quân hàng năm là 50%. Đến cuối 1995, tổng số vốn đăng ký các dự án đầu tư trực
tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỷ đôla [46, tr.58 - 59].
Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hoá và xã hội có chuyển biến
tích cực.
Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm, chúng ta đã giữ vững
ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
Trải qua 10 năm đổi mới, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trên lĩnh vực
kinh tế, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, có
trình độ thấp, cơ sở hạ tầng ở dưới mức trung bình của các nước phát triển; trong các
doanh nghiệp, trình độ thiết bị công nghệ phần lớn lạc hậu, năng suất lao động và sức
cạnh tranh thấp, chất lượng nhiều sản phẩm chưa tốt và giá thành còn cao. Hệ thống tài
chính ngân hàng còn yếu kém, vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Khoảng cách về trình
độ phát triển của nước ta so với các nước trong khu vực chậm được thu hẹp, Báo cáo
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
chính trị tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ rõ
“nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” [45,
tr. 25]. Điều này đã gây không ít khó khăn cho việc Việt Nam hội nhập khu vực và quốc
tế.
Từ điều kiện thực tế của Việt Nam lúc này, phát triển nhanh và mạnh mẽ quan hệ
hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực nhất là các nước ASEAN, là chìa khoá để
Việt Nam mở cánh cửa vào khu vực và là cầu nối để bước vào hợp tác sâu rộng với các
nước trên thế giới, qua đó, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, rút
ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.1.2. Quá trình Đảng lãnh đạo đưa Việt Nam gia nhập ASEAN
Trước những khó khăn, thách thức to lớn mà tình hình thế giới và trong nước đặt ra,
Đảng ta đã nắm bắt được quy luật, thực trạng và xu thế vận động của tình hình thế giới,
có chiến lược và sách lược đúng về đối ngoại, đặc biệt là mở rộng quan hệ đối ngoại với
các nước ASEAN.
Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là: “ ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà
bình ở Đông Nam á và trên thế giới„ [39, tr. 99]. Đại hội nêu rõ: “Chính phủ và nhân dân
Việt Nam không ngừng phấn đấu nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với
Inđônêxia và các nước Đông Nam á khác” [39, tr. 108]. Vào thời điểm diễn ra Đại hội,
vấn đề Campuchia là trở ngại chính cho việc phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN. Vì
vậy, Đại hội nhấn mạnh: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực
thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà
bình, xây dựng Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác" [39, tr. 108].
Thực hiện và cụ thể hoá đường lối đối ngoại với các nước ASEAN mà Đại hội VI
đã đề ra, tháng 5/1988, Bộ Chính trị khoá VI đã họp Hội nghị lần thứ 13 bàn về nhiệm vụ
và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Bộ Chính trị chủ trương rút toàn bộ quân
tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, coi đây là giải pháp phá bỏ những rào cản và sự
bao vây cô lập về chính trị của thế giới đối với ta. Bộ Chính trị nhấn mạnh ngoài việc
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, Lào và Campuchia, mở rộng quan hệ
kinh tế với các nước phương Tây và các nước ASEAN là một yêu cầu khách quan. Để
mở rộng quan hệ đối ngoại Việt Nam - ASEAN, Bộ Chính trị cho rằng:
Cần có chính sách toàn diện đối với Đông Nam á, trước hết là tăng
cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Indonesia, phá vỡ thế bế tắc trong quan
hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn
hoá với các nước trong khu vực, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa nước ta
với các nước này bằng thương lượng, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hoà
bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác [40, tr.12].
Chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm tăng cường quan hệ với các nước láng giềng
khu vực tiếp tục được thể hiện ở Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá VI), Hội nghị chỉ
rõ:
Góp phần tích cực giải quyết vấn đề Campuchia bằng chính trị, đồng
thời chuẩn bị rút hết quân sớm trong trường hợp chưa có giải pháp về
Campuchia. Xây dựng mối quan hệ mới với các nước ASEAN, tham gia tích
cực vào việc biến Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và
hợp tác [41, tr. 40].
Về vấn đề Campuchia, một lần nữa Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khoá VI) nhấn
mạnh: Kiên trì phấn đấu cho một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia phù hợp với
lợi ích cơ bản của cách mạng Campuchia và hoà bình, ổn định trong khu vực.
Nhờ sự nhạy bén chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt thi hành đường
lối đổi mới toàn diện cả về đối nội lẫn đối ngoại trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng của
các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đã quyết tâm tham gia tích cực vào quá trình giải
quyết vấn đề Campuchia trước khi xảy ra sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết.
Việc Việt Nam chủ động rút hết quân khỏi Campuchia và tích cực đóng góp vào
việc ký Hiệp định về Campuchia, đã tạo tiền đề quan trọng cho việc cải thiện quan hệ
giữa Việt Nam với các nước trong và ngoài khu vực.
Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [43, tr. 147].
Đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng và các nước trong khu vực
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
tiếp tục được Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển
quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam á và châu á - Thái Bình Dương, phấn đấu
cho một Đông Nam á hoà bình, hữu nghị và hợp tác” [43, tr. 90].
Thực hiện đường lối mà Đại hội VII đề ra, tháng 6/1992, Hội nghị lần thứ 3 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VII đã thông qua bản báo cáo: Thời cuộc hiện nay và nhiệm
vụ của chúng ta do Tổng Bí thư Đỗ Mười trình bày. Bản báo cáo chỉ rõ: “Trong thời đại
ngày nay, bất cứ nước nào, dù phát triển đến đâu cũng không thể khép kín được” [44, tr.
5]. Vì vậy, phải mở rộng quan hệ quốc tế, trước hết là:
Xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực, tạo
môi trường hoà bình, ổn định lâu dài chung quanh nước ta, đáp ứng lợi ích của
dân tộc ta và phù hợp với xu thế các nước, tăng cường liên kết khu vực vì hoà
bình và phát triển. Đồng thời mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển,
với các nước khác và tổ chức quốc tế [44, tr. 6-7].
Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) đã ra nghị quyết về đối ngoại, Hội nghị xác định
rõ: Nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trước tình hình thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp, Hội nghị đã đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta là: Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng
thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc
điểm từng đối tượng ta có quan hệ. Hội nghị cũng đề ra 4 phương châm để vận dụng xử
lý các mối quan hệ quốc tế:
Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ đối ngoại.
Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Với ASEAN, Hội nghị đã đánh giá: Đông Nam á liên quan mật thiết tới yêu cầu tạo
môi trường quốc tế thuận lợi cho an ninh và phát triển của Việt Nam. Các nước ASEAN
phát triển kinh tế khá nhanh, đang đi tới quá trình nhất thế hoá về kinh tế với việc lập
khối mậu dịch tự do AFTA. Vì lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam, Hội nghị đề
ra: Tiếp tục cải thiện và mở rộng quan hệ với từng nước và với cả nhóm nước ASEAN
trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình. Chú ý mở rộng hợp tác về kinh
tế, thương mại, khoa học công nghệ trên các lĩnh vực mà ASEAN có trình độ cao, từng
bước tham gia hợp tác khu vực với khẩu hiệu biến Đông Nam á thành khu vực hoà bình,
hợp tác và phát triển. Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali, tham gia các diễn đàn đối thoại
với ASEAN, tích cực nghiên cứu mở rộng quan hệ với ASEAN trong tương lai. Giải
quyết thoả đáng bằng thương lượng các vấn đề tồn tại, vướng mắc giữa Việt Nam với các
nước ASEAN.
Tiếp đó, năm 1993 Chính phủ Việt Nam công bố chính sách bốn điểm mới của Việt
Nam với khu vực.
Chủ trương đối ngoại của Đảng được đề ra qua các Đại hội VI, VII và các Hội nghị
Trung ương khoá VI, VII đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ đối ngoại giữa Việt
Nam và các nước ASEAN, chủ trương đó được các nước Đông Nam á và quốc tế đánh
giá cao, đã thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài từ năm 1979 đến cuối những năm 80 của thế kỷ
XX, quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN chuyển sang giai đoạn đối đầu do xuất hiện vấn
đề Campuchia. Về phía Việt Nam đã chủ động đưa ra nhiều đề nghị giải quyết vấn đề
Campuchia và về hoà bình hợp tác ở Đông Nam á nhưng đều không được ASEAN chấp
nhận. ASEAN cho rằng sự có mặt của Việt Nam ở Campuchia là nguyên nhân chủ yếu
gây mất ổn định khu vực, phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn
đề hoà bình và hợp tác ở khu vực.
Song, trước tinh thần đường lối đối ngoại đổi mới mà Đại hội VI Đảng Cộng sản
Việt Nam đưa ra, trước dấu hiệu các nước lớn (Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc) đối thoại với
nhau nhằm giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã sớm đi vào giải quyết vấn đề
Campuchia. Tại Hội nghị AMM, tháng 2/1987, các nước ASEAN đã đồng ý cử
Inđônêxia làm đại diện đối thoại với các nước Đông Dương. Tháng 7/1987 diễn ra cuộc
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
đối thoại đầu tiên giữa Việt Nam và Inđônêxia tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên đã ra
thông cáo chung Việt Nam - Inđônêxia đánh dấu quá trình thương lượng giữa hai nhóm
nước nhằm giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia, mở đường cho các Hội nghị không
chính thức chung (Joint informal meeting) về vấn đề Campuchia, JIM 1 (7/1988), JIM 2
(2/1989). Tại Hội nghị JIM 2, Việt Nam và Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Bali 1976) của ASEAN. Hội nghị quốc tế về
Campuchia - IMC (2/1990) tại Giacácta thảo luận một cách cởi mở về một giải pháp
chính trị cho vấn đề Campuchia.
Các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan
nghênh Việt Nam tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN lần thứ ba họp tại Manila (Philippin). Tổng thống Philippin tuyên bố
Philippin không coi Việt Nam là mối đe doạ đối với Philippin. Tiếp đó, tháng 2/1989, Bộ
trưởng ngoại giao Philippin tuyên bố không chống việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Còn
Thủ tướng Thái lan Chatichai, đã đưa ra chủ trương “biến Đông Dương từ chiến trường
thành thị trường” từ năm 1988. Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ hữu
nghị, hợp tác với các nước ASEAN, tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo
Châu á - Thái Bình Dương ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam tuyên bố: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị
với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ
Thạch tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á.
Việt Nam đã chủ động rút quân khỏi Campuchia trước khi giải pháp cho vấn đề
Campuchia được đưa ra, quyết định tham gia Hiệp ước Bali, tỏ thái độ sẵn sàng trở thành
quan sát viên của ASEAN. Ngày 22/7/1992, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước Bali
và trở thành quan sát viên của ASEAN tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần
thứ 25 ở Manila (Philippin). Từ đây, Việt Nam tham gia từng bước vào một số cơ chế và
chương trình hợp tác của ASEAN với tư cách quan sát viên.
Tiếp đó, trong chuyến đi thăm chính thức Singapore, Tổng Bí thư Đỗ Mười trong
bài phát biểu tại buổi chiêu đãi tiếp tục khẳng định: “Chúng tôi coi trọng việc mở rộng
quan hệ với các nước láng giềng… rất coi trọng sự hợp tác nhiều mặt với từng nước
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
ASEAN và tổ chức ASEAN nói chung, sẵn sàng gia nhập tổ chức ASEAN vào thời gian
thích hợp” [125, tr.132].
Trong chuyến đi thăm chính thức Vương quốc Thái Lan tháng 10/1993 (Thái Lan
đang giữ trọng trách là Chủ tịch Uỷ ban Thường trực ASEAN), Tổng Bí thư Đỗ Mười
tiếp tục khẳng định: “Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với
từng nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các nước Đông Nam á với tư cách là một tổ
chức khu vực; sẵn sàng gia nhập ASEAN vào thời gian thích hợp” [133, tr.147].
Có thể nói, thời gian từ 1992 đến 1994, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các
nước ASEAN được đẩy mạnh và tăng cường bằng các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo
nước ta tới các nước ASEAN và ngược lại. Tháng 9/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký
quyết định thành lập Vụ ASEAN (Bộ Ngoại giao) để phối hợp hoạt động giữa Việt Nam
với ASEAN.
Như vậy, với những phát triển nhanh chóng và thuận lợi trong quan hệ Việt Nam -
ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực chuẩn bị để gia nhập ASEAN.
Ngày 17/10/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã gửi thư cho Ngoại
trưởng Bruney, Chủ tịch đương nhiệm Uỷ ban Thường trực ASEAN (ASC) chính thức
đặt vấn đề Việt Nam xin gia nhập ASEAN. Tháng 2/1995 các nước ASEAN nhất trí sẽ tổ
chức kết nạp Việt Nam vào ASEAN trước phiên họp của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
các nước ASEAN lần thứ 28 tại Bruney. Ngày 28/7/1995 tại Bruney, lễ kết nạp Việt Nam
vào ASEAN được tổ chức.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN, trở thành thành viên chính thức của tổ chức này
có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, sự kiện này chấm dứt một thời gian dài khu vực này
bị chia thành hai trận tuyến đối địch nhau. Mặt khác, việc gia nhập ASEAN góp phần
quan trọng vào việc củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác khu vực, tạo ra môi
trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế và bảo vệ đất nước, cải
thiện một cách cơ bản và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ song phương giữa Việt Nam với các
nước ASEAN. Là thành viên ASEAN, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc đấu tranh với
các nước lớn về nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến lợi ích của ta như vấn đề Biển Đông,
vấn đề nhân quyền. Gia nhập ASEAN góp phần chuẩn bị và tạo thuận lợi cho Việt Nam
tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, tích luỹ thêm kinh nghiệm, chuẩn bị cho việc tham
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
gia có hiệu quả các cơ chế hợp tác rộng lớn hơn. Với tư cách là thành viên của ASEAN,
chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức như APEC, WTO. Đồng thời
Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để học tập, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, tiếp cận
khoa học công nghệ hiện đại với các nước trong khu vực, cán bộ của Việt Nam có nhiều
cơ hội để gặp gỡ, giao lưu với các đồng nghiệp của mình trong khu vực, từng bước làm
quen với cơ chế hợp tác đa phương. Tham gia ASEAN giúp Việt Nam điều chỉnh dần các
thủ tục hành chính, phong cách làm việc theo hướng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và khu
vực.
Phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm tại lễ kết nạp Việt Nam vào
ASEAN đã nêu rõ:
Đây là sự kiện quan trọng có ý nghĩa lịch sử trong quan hệ giữa Việt Nam
và các nước ASEAN, một mốc mới đánh dấu sự thay đổi cục diện ở Đông
Nam á sau 50 năm kể từ khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc. Đây cũng
là một nhân tố mới góp phần đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế - thương mại trong
khu vực vì sự phồn vinh của mỗi nước và của cả Đông Nam á. Sự kiện này
đồng thời là bằng chứng hùng hồn nói về xu hướng khu vực hoá đang phát
triển mạnh mẽ cùng với xu thế quốc tế hoá ngày càng gia tăng trong một thế
giới tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét [21, tr. 415 - 416].
1.2. Chủ trương của Đảng từng bước đưa Việt Nam tham gia các lĩnh vực hợp
tác của ASEAN (1995-2000)
1.2.1. Đường lối đối ngoại của Đảng nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam -
ASEAN
Trong những năm 1995-2000, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến nhanh chóng
và phức tạp. Mỹ vẫn tiếp tục đóng vai trò siêu cường duy nhất, chiếm ưu thế vượt trội.
Do vậy, Mỹ đẩy mạnh chính sách “can dự linh hoạt” đồng thời “kiềm chế” đối với Nga
và Trung Quốc. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Mỹ đẩy mạnh thực hiện chính sách
“dính líu tích cực” thông qua quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, các vấn đề dân chủ,
nhân quyền, tôn giáo, tác động gây phân hoá nội bộ thực hiện chuyển hoá từ bên trong.
Quan hệ giữa các nước lớn thay đổi theo hướng Nga, Trung Quốc, ấn Độ xích lại gần
nhau. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những vấn đề an ninh phi
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
truyền thống cũng tác động đến an ninh các nước vừa và nhỏ. Đó là “chủ nghĩa can thiệp
nhân đạo”, do Mỹ và phương Tây thúc đẩy. Những xung đột về sắc tộc và tôn giáo vẫn
diễn ra ở các khu vực.
Xu hướng chạy đua vũ trang gia tăng. Nga, Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Triều
Tiên… liên tiếp tiến hành các vụ thử tên lửa; Mỹ gấp rút triển khai hệ thống phòng thủ
tên lửa chiến lược (NMD) và kế hoạch phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD), không phê
chuẩn Hiệp định Cấm thử hạt nhân (CTBT). Tình hình trên đã tạo nguy cơ đe doạ an ninh
nhiều khu vực.
ở Đông Nam á, năm 1997 diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu ở Thái
Lan. Ngày 02/7/1997 khi các nhà quản lý tiền tệ của Thái Lan tuyên bố bãi bỏ việc gắn giá
trị của đồng Bạt vào đồng Đôla Mỹ. Chỉ sau 1 ngày, đồng Bạt đã mất giá 20%. Vòng xoáy
của cuộc khủng hoảng tiền tệ đã nhanh chóng bao trùm toàn bộ nền kinh tế Thái Lan và lan
sang các nước trong và ngoài khu vực như Malaysia, Indonesia, Philippin và Hàn Quốc.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã để lại cho một số nước ASEAN những hậu quả
nghiêm trọng như: nợ nước ngoài của các nước ASEAN 6 tăng quá lớn do đồng tiền bị phá
giá, không có khả năng thanh toán các món nợ đến kỳ thanh toán. Inđônêxia nợ nước ngoài
140 tỷ USD tương đương với 88,7% GDP, số tiền nợ của Thái Lan là 90 tỷ USD bằng 97,1%
GDP của cả nước; tiêu dùng và đầu tư tư nhân giảm mạnh; xuất khẩu vẫn chưa phục hồi do
các nước không đủ sức tài trợ cho nhập khẩu; tốc độ tăng trưởng của các nước giảm nghiêm
trọng, đặc biệt là ở Thái Lan (- 5%), Inđônêxia(- 1,5%); tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, đặc biệt là
Inđônêxia (21%), Thái Lan (6%) [128, tr.19 - 22].
Không chỉ chịu tác động mạnh mẽ trên phương diện kinh tế, xã hội, một số nước
ASEAN còn chịu tác động mạnh mẽ trên phương diện chính trị: ở Inđônêxia, phong trào
đấu tranh đòi độc lập của Đông Timo, phong trào Aceh trỗi dậy. Năm 1999, Tổng thống
Habibi phải tiến hành cuộc trưng cầu dân ý về nền độc lập của Đông Timo. Kết quả là
78,5% phiếu ủng hộ Đông Timo tách khỏi Inđônêxia. ở Philippin, các lực lượng hồi giáo
ly khai do mặt trận giải phóng dân tộc Môrô lãnh đạo đã tích cực hoạt động trở lại.
Do bị khủng hoảng, ASEAN bị suy yếu, các nước không hỗ trợ được cho nhau khắc
phục khủng hoảng, nội bộ xuất hiện những mâu thuẫn mới. Một số nước đòi thay đổi các
nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thành viên.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Một số nước ASEAN phụ thuộc nhiều hơn vào Mỹ và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cả về
chính sách phát triển vĩ mô cũng như về đường lối chính trị. Nội bộ một số nước như
Inđônêxia, Malaysia mất ổn định. Quan hệ giữa các nước ASEAN cũng xuất hiện một số
vấn đề phức tạp như vai trò của Inđônêxia giảm sút; Thái Lan muốn vươn lên nắm vị trí
hàng đầu trong ASEAN, phối hợp với một số nước khác (Philippin và Singapore muốn
thay đổi nguyên tắc cơ bản của ASEAN là đồng thuận và không can thiệp); xuất hiện sự
khác biệt nhóm ASEAN lục địa với nhóm ASEAN hải đảo, ASEAN Phật giáo với
ASEAN Hồi giáo.
ASEAN đã hoàn thành ý tưởng ASEAN - 10, cùng phấn đấu cho hoà bình, ổn định
ở khu vực, giữ vững bản sắc dân tộc và sự đoàn kết nhất trí, tinh thần tự cường khu vực.
Song, các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế xã hội
không đồng đều, các nước cùng có nhu cầu hợp tác, liên kết kinh tế, song cạnh tranh
cũng rất quyết liệt đang đặt ASEAN trước những thách thức mới. Môi trường an ninh khu
vực Đông Nam á đang diễn biễn hết sức phức tạp vẫn chứa đựng những nhân tố tiềm ẩn
có thể gây bùng nổ.
Trong quan hệ quốc tế, đã và đang nổi lên những xu thế chủ yếu sau đây:
Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của
các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi
phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia.
Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết
khu vực, liên kết quốc tế kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Hợp tác
ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt.
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh
chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn
hoá dân tộc.
Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng tiến bộ
khác trên thế giới kiên trì chống lại các thế lực thù địch và phản động, kiên trì lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, phấn đấu cho dân sinh, dân chủ, vì một xã hội mới tốt đẹp, một cuộc sống
hoà bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong
cùng tồn tại hoà bình.
ở trong nước công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thành tựu to lớn. GDP tăng bình
quân hàng năm 7%, mỗi năm hơn 1,2 triệu lao động có việc làm mới, giảm đựơc trên 40
vạn hộ đói nghèo, khoa học công nghệ, văn hoá thông tin, y tế, thể thao có bước phát
triển, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ, đời sống nhân dân được cải thiện một bước đáng kể,
quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng… Những thành tựu đạt được sau 10 năm
tiến hành công cuộc đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của
đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là về
thương mại, đầu tư nước ngoài. Nhịp độ tăng trưởng GDP liên tục giảm từ 8,8% năm
1996 còn 4,7% năm 2000 do lĩnh vực xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài đều không
đạt chỉ tiêu, điều đó buộc chúng ta phải chú ý nhiều hơn đến việc kích cầu nội địa để bù
đắp cho sự sụt giảm về kinh tế đối ngoại. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo
ra thế và lực mới cho Việt Nam. Bên cạnh thuận lợi đó, Việt Nam còn phải đối phó với
nhiều khó khăn, thử thách, bao trùm lên tất cả là “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta
quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt” [46, tr. 79]. Ngoài ra,
Việt Nam còn phải đối phó với những khó khăn thách thức khác như: Âm mưu diễn biến
hoà bình của các thế lực thù địch; Tình hình khu vực châu á - Thái Bình Dương và biển
Đông còn diễn biến phức tạp; Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, và tệ quan liêu
tham nhũng.
Trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, Đại hội VIII Đảng ta đã đề ra:
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình
và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã
hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội [46, tr.120].
Về đường lối đối ngoại, Đại hội VIII khẳng định:
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp
bằng thương lượng [46, tr.120 - 121].
Trên cơ sở đó, Đại hội cũng đề ra hướng đối ngoại cụ thể trong quan hệ với ASEAN
“ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN”[46, tr.121].
Để đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 01/NQ-
TW ngày 18/11/1996 về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 -
2000. Nghị quyết đã đánh giá tình hình kinh tế đối ngoại, những kết quả đạt được, những
thiếu sót, Nghị quyết nêu rõ: “Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; kim ngạch xuất
khẩu, nhập khẩu tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội” [49, tr. 245]. Song “hiệu quả kinh tế đối ngoại chưa cao. Việc phát triển kinh tế chưa
hướng mạnh vào xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu còn thấp… cơ chế nhập khẩu chưa hợp
lý. Nhập siêu quá lớn…” [49, tr. 246]. Từ đó, Nghị quyết đưa ra nhiệm vụ kinh tế đối
ngoại:
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, nhằm góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 1996 - 2000 và chuẩn bị cho sự phát triển vào đầu thế kỷ XXI theo
các nguyên tắc độc lập tự chủ, tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
bình đẳng cùng có lợi, kết hợp chặt chẽ kinh tế đối ngoại với chính trị đối ngoại,
quốc phòng, an ninh, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
...Đa phương hoá, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại nhưng có trọng
tâm, trọng điểm, khai thác lợi thế so sánh của ta và tận dụng xu thế phát triển
của thế giới và khu vực… [49, tr. 248 - 249].
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Nghị quyết 01/NQ-TW cũng chỉ ra những giải pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu,
trong đó về vấn đề thị trường và đối tác cần chú trọng Hiệp hội ASEAN và các nước láng
giềng.
Để thúc đẩy quan hệ hợp tác với ASEAN, Chính phủ ra các Nghị định số NĐ 91/CP
ngày 18/12/1995; NĐ 82/CP ngày 13/12/1996; NĐ15/ CP ngày 12 / 3/1998; NĐ 14/ CP
ngày 23/3/1999; NĐ 09 /CP ngày 21/ 3/2000 ban hành danh mục hàng hoá của Việt Nam
để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của
các nước ASEAN.
Cuối năm 1999, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, trong bối cảnh vừa có
những thuận lợi và thời cơ lớn, vừa đứng trước những khó khăn và thách thức. ở trong
nước “qua 2 năm thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, nền kinh tế nước ta tiếp tục phát
triển và đạt tăng trưởng khá (GDP tăng 9%)… Đời sống số đông nhân dân được cải thiện.
ổn định chính trị được giữ vững. Quốc phòng an ninh được đảm bảo. Quan hệ đối ngoại
được mở rộng, vị thế quốc tế của nước ta được nâng cao” [48, tr. 48 - 49].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) cũng chỉ rõ những mặt còn yếu kém
đó là “sự phát triển của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, còn
nhiều yếu tố chưa bảo đảm tăng trưởng cao và lâu bền…” [48, tr. 49].
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ, Nghị quyết Hội nghị
cũng chỉ rõ: “Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về
những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và
thế giới… Có kế hoạch cụ thể chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”
[48, tr. 60]. Hội nghị đề ra nhiệm vụ “Xây dựng lộ trình giảm dần thuế nhập khẩu theo
Hiệp định ưu đãi thuế quan (CEPT) áp dụng trong các nước ASEAN và các cam kết quốc
tế khác” [48, tr.76 - 77].
Với những chủ trương của Đảng về quan hệ đối ngoại nói chung, quan hệ Việt Nam
- ASEAN nói riêng thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng trong những năm
1995 - 2000 đã thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - ASEAN, định hướng cho Việt Nam
từng bước tham gia vào các lĩnh vực hợp tác của ASEAN.
1.2.2. Việt Nam tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN
- Hợp tác chính trị - an ninh:
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Đối với mỗi quốc gia, sự ổn định về chính trị - an ninh luôn có vị trí quyết định để
xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến
nhanh chóng và phức tạp, ASEAN càng đẩy mạnh hợp tác chính trị - an ninh, đây luôn là
lĩnh vực hợp tác quan trọng và nhạy cảm của ASEAN.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ I, năm 1976 tại Bali (Indonesia) từ 23 đến
24/2/1976, các vị đứng đầu Chính phủ ASEAN đã ký hai văn kiện quan trọng là Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam á (TAC). Văn kiện này chứa đựng các nguyên tắc cơ
bản là: Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc của tất
cả các dân tộc; Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình,
không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài; không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân
thiện; không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực, hợp tác với nhau một cách có hiệu quả. Tiếp
đó, trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi to lớn và phức tạp, Hội nghị cấp
cao ASEAN lần thứ IV được tiến hành ở Singapore từ 27 đến 28/11/1992 đã thông qua
nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có Tuyên bố Singapore năm 1992 khẳng định quyết
tâm của ASEAN đưa sự hợp tác chính trị, kinh tế lên tầm cao hơn và mở rộng hợp tác
sang lĩnh vực an ninh. Hội nghị nêu rõ: ASEAN sẽ tìm kiếm các hình thức cho các nước
thành viên tham gia vào lĩnh vực hợp tác mới về các vấn đề an ninh. Đây là lần đầu tiên
hợp tác an ninh - chính trị được nêu ra.
Để đảm bảo môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển trong bối cảnh mới ở khu
vực và thế giới, tháng 7/1994 các nước ASEAN quyết định thành lập Diễn đàn khu vực
ASEAN (ARF) với sự tham gia của 18 nước trong và ngoài khu vực để bàn về vấn đề an
ninh khu vực (gồm 6 nước ASEAN, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Canada, Liên minh
Châu Âu, Ôxtrâylia, Niudilân, Việt Nam, Lào, Hàn Quốc, Papua Niughinê). ARF là diễn
đàn để đối thoại và hợp tác giữa các thành viên về các vấn đề chính trị - an ninh khu vực;
ARF tiến triển qua 3 giai đoạn theo trình tự: từ xây dựng lòng tin đến ngoại giao phòng
ngừa, cuối cùng là giải quyết xung đột. Hoạt động của ARF theo nguyên tắc tiệm tiến,
mọi quyết định phải trên cơ sở tham khảo ý kiến và đồng thuận của tất cả các thành viên;
thực hiện trên cơ sở tự nguyện; các hoạt động của ARF về cơ bản dựa trên các tập quán,
phương thức làm việc của ASEAN.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Việc thành lập ARF là thành công lớn của ASEAN, do tổ chức này không giống các
tổ chức an ninh quân sự khác. ARF được thành lập không phải nhằm đối phó với bất cứ
mối đe doạ hay khủng hoảng nào mà mục đích chủ yếu của nó là phòng ngừa và ngăn
chặn xung đột vũ trang.
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ V diễn ra tại Băngkốc (Thái Lan) tháng 12/1995,
các nhà lãnh đạo của 10 nước Đông Nam á đã ký Hiệp ước về một khu vực Đông Nam á
không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Từ ngày 27/3/1997 Hiệp ước chính thức có hiệu
lực sau khi 7 nước ký kết và phê chuẩn. Mục đích của Hiệp ước SEANWFZ là tiến tới
xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình, ổn định, hoàn toàn không có vũ khí
hạt nhân. Hiệp ước góp phần vào xu thế phi hạt nhân trên toàn thế giới.
Bên cạnh đó, ASEAN còn đối thoại về các vấn đề chính trị - an ninh khu vực và thế
giới với tất cả các nước thông qua diễn đàn hội nghị sau Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN
hàng năm (AMM, PMC), cơ chế đối thoại cấp Thứ trưởng Ngoại giao (SOM) giữa
ASEAN với Mỹ, Trung Quốc, Nga, EU, Nhật, ấn Độ; các cuộc họp cấp cao không chính
thức giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (ASEAN +3) và với riêng từng
nước này (ASEAN + 1). Trong nội bộ ASEAN, hình thành cuộc họp đặc biệt các quan
chức cao cấp (Special SOM) với sự tham gia của các quan chức ngoại giao và quốc
phòng cao cấp của các nước thành viên. Các cuộc họp SOM đặc biệt này được tổ chức
hàng năm tập trung thảo luận các vấn đề chính trị - an ninh, đồng thời chuẩn bị lập trường
chung của ASEAN tại cuộc họp các quan chức cao cấp của Diễn đàn khu vực ASEAN
(ARF - SOM). Ngoài ra, hợp tác chính trị - an ninh ASEAN còn được tiến hành giữa các
viện nghiên cứu chiến lược của các nước ASEAN (ASEAN - ISIS).
Gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy trong gia đình ASEAN
đã làm cho hợp tác ASEAN về chính trị - an ninh có nhiều chuyển biến quan trọng.
Trước khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tháng 7/1992 tại AMM 25 ở
Manila (Philippin), Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC hoặc
Hiệp ước Bali). Hiệp ước Bali được coi là “Bộ luật ứng xử” giữa các nước Đông Nam á
với nhau.
ASEAN mong muốn thúc đẩy Hiệp ước Bali trở thành “Bộ luật ứng xử” cho cả
quan hệ giữa các nước Đông Nam á với các nước ngoài khu vực. Vì vậy, các nước
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
ASEAN đã soạn thảo Nghị định thư thứ 2 cho phép các nước ngoài ASEAN tham gia
Hiệp ước Bali. Hiện nay, Việt Nam đang cùng các nước ASEAN vận động các nước
ngoài khu vực tham gia.
Trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các cơ
chế hợp tác chính trị - an ninh và các hoạt động hợp tác của ASEAN, Việt Nam đã tham
gia các cơ chế về chính trị như các Hội nghị cấp cao chính thức và không chính thức của
ASEAN, các Hội nghị Ngoại trưởng và Bộ trưởng kinh tế ASEAN, các cuộc họp quan
chức cao cấp (cấp Thứ trưởng - SOM và SEOM).
Về lĩnh vực an ninh, Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập Diễn đàn
khu vực ARF. Việt Nam tham gia hầu hết các cơ chế đối thoại trong ASEAN và giữa
ASEAN với bên ngoài như ASEM, PMC, ASEAN+3, ASEAN +1.
Khi các nước ASEAN khác lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, mặc dù có
chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, nhưng Việt Nam vẫn giữ được tình hình chính
trị, kinh tế, xã hội ổn định, từng bước nâng cao vai trò của mình trong ASEAN bằng việc
tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN VI (16 đến 17/12/1998). Hội nghị đã thông
qua các văn kiện quan trọng như Tuyên bố Hà Nội, Chương trình hành động Hà Nội,
Tuyên bố về các biện pháp mạnh mẽ (để cải thiện môi trường đầu tư ASEAN), và ký 4
Hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Hội nghị còn quyết định kết nạp Campuchia
làm thành viên thứ 10 của ASEAN và giao cho các Ngoại trưởng ASEAN tiến hành lễ
kết nạp đặc biệt tại Hà Nội. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tiếp nhận vai trò Chủ tịch Uỷ ban
Thường trực ASEAN (ASC) và Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) nhiệm kỳ từ 7/2000
đến 7/2001.
Sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt nam cùng các nước ASEAN soạn thảo
văn kiện Hiệp ước Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Hiệp ước
SEANWFZ được ký kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Băngkốc (Thái Lan) tháng
12/1995, có phần đóng góp của Việt Nam trên con đường củng cố hoà bình, an ninh khu
vực. Việc tranh thủ 5 cường quốc có vũ khí hạt nhân là Mỹ, Trung Quốc, Nga, Anh và
Pháp tham gia Nghị định thư kèm theo của Hiệp ước sẽ làm cho Hiệp ước trở nên có ý
nghĩa hơn. Vì vậy, trong nhiệm kỳ là Chủ tịch ASC và ARF, Việt Nam đã chủ động nêu
sáng kiến và tổ chức thành công cuộc họp tham khảo ý kiến giữa các
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
nước ASEAN và 5 nước có vũ khí hạt nhân về một số nội dung trong Nghị định thư để
vận động các nước này sớm tham gia Nghị định thư của ASEANWFZ.
Ngoài các cuộc họp ARF cấp Bộ trưởng tiến hành ngay sau Hội nghị AMM hàng
năm, Việt Nam còn tham gia vào một loạt các cuộc họp, hội thảo lớn về an ninh quốc tế
và khu vực trong khuôn khổ kênh 1 (chính thức) và kênh 2 (không chính thức) của ARF.
Việt Nam cũng tham gia các nhóm làm việc của ARF như nhóm xây dựng lòng tin, nhóm
công tác nhằm giảm nhẹ thiên tai. Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia rất nhiều hội thảo
quốc tế trong khuôn khổ ARF, hội thảo về an ninh khu vực. Việt Nam đã tổ chức thành
công Hội nghị Tư vấn ASEAN - Nhật bản về thực hiện Chương trình hành động Hà Nôị
và Tầm nhìn 2020.
Từ năm 1998 đến 2000, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN soạn thảo quy chế
hoạt động của Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC trên cơ sở giữ vững những nguyên tắc
cơ bản của Hiệp hội. Nội dung chính của quy chế là Hội đồng chỉ tiếp nhận giải quyết
những tranh chấp có thể ảnh hưởng đến hoà bình và ổn định khu vực, được các bên liên
quan trực tiếp đồng ý, chỉ đóng vai trò trung gian hoà giải giúp các bên tranh chấp giải
quyết (không có biện pháp cưỡng chế), mọi quyết định dựa trên nguyên tắc nhất trí.
Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC được coi là cơ chế đầu tiên của ASEAN để giải
quyết tranh chấp thông qua cơ chế khu vực, tránh để bên ngoài can thiệp. Việt Nam đã
tham gia soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao, giúp cho việc sớm thành lập
và đưa Hội đồng tối cao TAC đi vào hoạt động. Trong hoạt động của Hội đồng tối cao,
Việt Nam luôn chú ý tới việc đảm bảo tôn trọng và duy trì các nguyên tắc cơ bản và
truyền thống của ASEAN, nhất là nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp vào công
việc nội bộ”, duy trì được vai trò chủ đạo của ASEAN, tránh biến hội đồng thành một toà
án tiểu khu vực, với vai trò của một vài nước khống chế các quyết định của hội đồng. Vì
vậy, thành phần của hội đồng bao gồm tất cả các bên để đảm bảo lợi ích chính trị, an ninh
của mọi thành viên.
Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các quan hệ đối thoại của ASEAN. Khi Việt Nam
gia nhập ASEAN năm 1995, ASEAN đã thiết lập quan hệ đối thoại với 8 nước (úc,
Canađa, EU, ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, NiuDilân, Mỹ) và tổ chức quốc tế UNDP. Việt
Nam đã được giao làm nước điều phối quan hệ của ASEAN với Niu Dilân.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Năm 1996, ASEAN thiết lập quan hệ đối thoại với Trung Quốc và Nga, Việt Nam
đã được giao thêm làm nước điều phối quan hệ của ASEAN với Nga.
Từ năm 1997 đến 2000, Việt Nam làm nước điều phối quan hệ đối thoại ASEAN -
Nhật Bản.
Việc ASEAN quyết định nâng quan hệ với ấn Độ, Trung Quốc và Nga lên mức đối
thoại đầy đủ, một phần nhờ Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước này trên
cơ sở cân bằng. Như vậy, ASEAN đã trở thành một tổ chức khu vực duy nhất có quan hệ
đối tác với tất cả các nước và các trung tâm lớn trên thế giới gồm: Mỹ, Nhật Bản, EU,
Canada, Ôxtrâylia, Niudilân, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, ấn Độ. Điều này có lợi cho
việc giữ gìn hoà bình, ổn định trong khu vực và hơn cả là uy tín của ASEAN được nâng
cao.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo của kênh 2, đây là
kênh đối thoại, tham khảo ý kiến, tư vấn, nghiên cứu, xây dựng lòng tin, thông tin liên
lạc…nhằm nâng cao ý thức hợp tác, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, xây dựng lợi ích cộng
đồng, do vậy mà có thể kiềm chế, dẫn tới loại trừ giải pháp dùng vũ lực giải quyết xung
đột và giảm thiểu các nguy cơ gây xung đột. Việt Nam tham gia ngày càng tích cực và
chủ động hơn vào kênh này.
- Hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - ASEAN:
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, cục diện thế giới có những thay đổi to lớn. Quan hệ
quốc tế xuất hiện những xu hướng mới, trong đó xu hướng ưu tiên phát triển kinh tế lôi
cuốn cả cộng đồng quốc tế. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng
hợp của mỗi quốc gia. Không nằm ngoài vòng lôi cuốn đó, các nước ASEAN cũng
chuyển từ hợp tác chính trị an ninh là chủ yếu sang giai đoạn mới của quá trình hợp tác là
lấy hợp tác kinh tế làm trọng tâm.
Hội nghị cấp cao ASEAN IV tổ chức ở Singapore 01/1992 đã thông qua Hiệp định
khung về hợp tác kinh tế ASEAN. Hiệp định này nêu ra 3 nguyên tắc là hướng ra bên
ngoài, cùng có lợi và linh hoạt đối với sự tham gia vào các dự án, chương trình của các
nước thành viên. Hiệp định cũng xác định 5 lĩnh vực hợp tác cụ thể là thương mại - công
nghiệp - năng lượng - khoáng sản; nông - lâm - ngư nghiệp; tài chính - ngân hàng; giao
thông vận tải - bưu chính viễn thông và du lịch. Hội nghị đã thông qua Hiệp định về
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), quy định cụ thể các biện pháp
và các giai đoạn giảm thuế nhập khẩu tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA). AFTA ra đời trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hoá thương mại
rộng lớn hơn ở khu vực châu á - Thái Bình Dương và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA cho
ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng mới cho sự phát triển của
ASEAN trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá. Đây là bước tiến quan trọng trong quá
trình hợp tác kinh tế của ASEAN kể từ khi thành lập.
AFTA được thiết lập nhằm các mục tiêu cơ bản sau đây:
Một là, tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ hàng rào thuế quan
và phi quan thuế.
Hai là, thu hút các nhà đầu tư các nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo dựng một
khối thị trường thống nhất. AFTA sẽ tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong
ASEAN, điều đó cho phép hợp lý hoá sản xuất, chuyên môn hoá trong nội bộ khu vực và
khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau. Tuy nhiên, để đạt được
mục tiêu này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và
thông qua AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với
các khu vực khác.
Ba là, làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hoá thương mại thế giới. Theo xu thế
tự do hoá nền sản xuất toàn cầu, AFTA là nấc thang đầu tiên trong xu thế tiến tới sự hợp
tác toàn diện
Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các thoả thuận trong
Hiệp định AFTA như là: sự thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các
nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau, xoá bỏ
những quy định hạn chế đối với ngoại thương; hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô… trong đó
CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu.
CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN về việc giảm
thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0 - 5% thông qua “cơ cấu thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung”, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan
thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ 01/01/1993 và hoàn thành vào 01/01/2003.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm
cả các hàng hoá tư bản và các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến.
Chương trình CEPT/AFTA được hình thành tại Hội nghị cấp cao ASEAN IV tại
Singapore năm 1992, với dự kiến thời gian hoàn thành AFTA cơ bản trong 15 năm (đến
2005, thuế quan trong nội bộ ASEAN với đa số mặt hàng thuế suất chỉ còn 0 - 5%). Hội
nghị cấp cao ASEAN VI tổ chức tại Hà Nội, 12-1998 quyết định rút xuống 9 năm đối với
6 nước thành viên ban đầu, các nước này sẽ có hàng hoá thuộc danh mục giảm thuế (IL)
có thuế suất 0 - 5% với các mốc như sau: 85% vào năm 2000; 90% vào năm 2001; 100%
vào năm 2002. Còn đối với các nước mới gia nhập có thời hạn 10 năm (giữ nguyên như
cũ) nhưng phải tối đa hoá số dòng thuế 0 - 5% ba năm trước thời điểm hoàn thành của
mỗi nước (Việt Nam: 2003); Lào vào Mianma: 2005). Tại Hội nghị Cấp cao không chính
thức ASEAN tại Manila 11/1999, Singapore nêu đề nghị rút ngắn thời gian đạt thuế suất
0% đối với 100% số dòng thuế trong danh mục giảm thuế (IL) vào năm 2010 đối với 6
nước thành viên ban đầu và năm 2015 đối với các nước thành viên còn lại (các mặt hàng
nhạy cảm được lùi tương ứng đến 2015 và 2018), đề nghị này đã được Hội nghị nhất trí
và giao cho Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN triển khai.
Hợp tác kinh tế của ASEAN rất phong phú, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, vì
vậy liên quan đến nhiều ngành, nhiều cơ quan kinh tế của Việt Nam. Sau khi Việt Nam
trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt
Nam cũng gia nhập Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN, góp phần tăng cường
hợp tác kinh tế trong ASEAN
Trở thành thành viên ASEAN 7/1995, ngay sau đó, 12/1995 Việt Nam đã tham gia
Hội nghị cấp cao ASEAN V tổ chức tại Băngkốc (Thái Lan). Hội nghị đã quyết định rút
ngắn thời gian thực hiện AFTA từ 15 năm xuống còn 10 năm, mở rộng hợp tác sang lĩnh
vực mới như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lập khu vực đầu tư ASEAN… Là một thành viên
chính thức của ASEAN, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một nước
thành viên, trong đó có việc thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
CEPT/ AFTA - nội dung quan trọng nhất về lĩnh vực hợp tác kinh tế.
Như vậy, Việt Nam phải hoàn thành cơ bản chương trình CEPT/ AFTA vào
01/01/2006 (trong đó phải tối đa hoá số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2003), Việt Nam đã
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
tích cực thực hiện lộ trình cắt giảm thuế, công bố các danh mục hàng hoá thực hiện
CEPT, công bố danh mục giảm thuế (IL) và mức giảm thuế hàng năm. Việt Nam đã
thành lập cơ quan AFTA quốc gia do Bộ Tài chính chỉ đạo để làm đầu mối của Việt Nam
trong việc triển khai thực hiện những vấn đề liên quan đến AFTA. Từ 01/01/1996, Việt
Nam bắt đầu thực hiện chương trình CEPT/ AFTA. Cụ thể, năm 1996 Việt Nam đã công
bố đưa 875 mặt hàng ; năm 1997 đưa thêm 621 mặt hàng vốn đã có thuế suất bằng 0 - 5%
hoặc nhỏ hơn 20% vào thực hiện CEPT/ AFTA, đưa tổng số lên 1496 mặt hàng; năm
1998 tăng thêm 223 mặt hàng, năm 1999 công bố danh mục hàng hoá thực hiện CEPT
gồm 3591 mặt hàng tăng 1872 dòng so với năm 1998; năm 2000, số dòng thuế thực hiện
CEPT được công bố là 4234 dòng tăng 643 dòng so với năm 1999. Việt Nam cũng công
bố lịch trình cắt giảm thuế cho toàn bộ giai đoạn 10 năm; chuyển một số nhóm mặt hàng
từ danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL) sang danh mục giảm thuế (IL), từ danh mục
không giảm thuế (GEL) sang danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL).
Bên cạnh đó, vấn đề hải quan có ý nghĩa quyết định của tiến trình AFTA. Phối hợp
hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi nó hỗ trợ các nước thành viên
thống nhất biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của nó. Phối hợp hải quan tạo thuận lợi
cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan được thống
nhất, các luồng xanh ưu đãi cho hàng hoá theo CEPT của ASEAN được hình thành và thủ
tục hải quan được thống nhất. Như vậy, tiến trình AFTA nhanh hay chậm, được điều
chỉnh hay bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác hải quan.
Trong lĩnh vực hải quan, Việt Nam cũng đã tham gia trên một loạt các vấn đề như:
Điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN; điều hoà thống
nhất các định giá hải quan để tính thuế; điều hoà thống nhất các quy trình thủ tục hải
quan; Tổng cục Hải quan Việt Nam đã triển khai áp dụng hành lang xanh cho các hàng
hoá CEPT/ AFTA, để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải quan cho các sản phẩm
của CEPT. Việt Nam đã tham gia công ước Kyodo về thủ tục hải quan, làm cơ sở đàm
phán với ASEAN về điều hoà thủ tục hải quan, tổ chức thành công Hội nghị các Tổng
cục trưởng Hải quan ASEAN lần III (11/1995) tại Việt Nam, tham gia tích cực vào quá
trình xây dựng Hiệp định Hải quan ASEAN và ký kết Hiệp định Hải quan ASEAN vào
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
01/3/1997 trong cuộc họp của các Bộ trưởng Tài chính ASEAN tại Phukẹt (Thái Lan),
mục đích của Hiệp định là đơn giản hoá và thuận lợi hoá việc định giá hải quan, danh
mục thuế quan, thủ tục hải quan phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán, minh bạch và công
bằng trong luật pháp và các quy định hải quan. Hoàn thành chương trình hợp chuẩn hoá
danh mục thuế (AHTN); nâng cao kỹ năng phân loại thuế quan hàng hoá trước nhập
cảnh; lập mạng lưới đào tạo hải quan (ACTN); về tiêu chuẩn và hợp chuẩn Việt Nam
cùng ASEAN có những thoả thuận công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực mỹ phẩm, dược
phẩm, điện và điện tử; về sở hữu trí tuệ tiến hành các hoạt động để thành lập hệ thống
nhãn mác khu vực, hợp tác thực hiện Hiệp định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của WTO.
Việt Nam cũng đã xây dựng chính sách phi thuế quan nhằm tạo thuận lợi cho
thương mại, có quy định thực hiện mẫu đơn riêng cho hàng xuất nhập khẩu trong diện
được hưởng CEPT/ AFTA, áp dụng danh mục hàng hoá phân loại theo hệ thống hài hoà
8 chữ số HS96…. Cùng các nước ASEAN ký Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh
chấp, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quá trình thực hiện
chương trình CEPT/ AFTA và các hiệp định kinh tế khác của ASEAN, tại Hội nghị Bộ
trưởng Kinh tế ASEAN tháng 11/1995.
Việt Nam cũng đã tham gia Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN và đã
cùng ASEAN soạn thảo, ký Nghị định thư sửa đổi Hiệp định tại AEM 28 (8/1996). Trong
lĩnh vực hợp tác đầu tư, Việt Nam cùng các nước ASEAN ký Hiệp định khung thành lập
khu vực đầu tư ASEAN (AIA) tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 30
tại Manila (7/10/1998). Sau khi ký kết, Việt Nam đã nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn
hoặc phê duyệt để Hiệp định có hiệu lực, đã nộp danh mục tạm thời loại trừ (TEL) và
danh mục nhạy cảm (SL).
Ngoài ra, Việt Nam cũng cùng các nước ASEAN khác tham gia hoạt động của
ASEAN như: Hội thảo về kinh nghiệm thống kê số liệu đầu tư nước ngoài (FDI), xuất
bản các ấn phẩm liên quan đến đầu tư, tổ chức hội thảo về AIA cho cán bộ của các nước
ASEAN mới là Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam, ký Nghị định thư về AIA, Việt
Nam cũng tham gia các đoàn xúc tiến đầu tư của ASEAN đi Nhật Bản, Mỹ, EU để nhằm
quảng bá, thu hút đầu tư và thực hiện chương trình xúc tiến hợp tác ASEAN - Nhật Bản,
tham gia các cuộc hội thảo về đầu tư.
Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM
Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864
Việt Nam đã cùng ASEAN tham gia hợp tác trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô và tài
chính; hợp tác dịch vụ: Việt Nam cùng các nước ASEAN ký Hiệp định khung về Hợp tác
dịch vụ ASEAN (AFAS), 15/12/1995 tại Băngkốc, nhằm mục tiêu tăng cường hợp tác về
dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN. Về vấn đề này, Việt Nam đã tích cực tham gia
quá trình soạn thảo, ký kết Hiệp định khung và các Nghị định thư, đã cam kết sẽ triển
khai trong 6 lĩnh vực dịch vụ (trừ lĩnh vực bưu chính viễn thông). Có lĩnh vực Việt Nam
chưa cam kết triển khai là vì khả năng cạnh tranh còn thấp so với các thành viên khác của
ASEAN.
Trong lĩnh vực công nghiệp: Việt Nam đã ký với các nước ASEAN chương trình
hợp tác công nghiệp ASEAN mới (AICO) năm 1996, 3 ngành được đề nghị triển khai
hợp tác AICO là ôtô, hoá chất và dệt. Việt Nam cũng tham gia hợp tác về lĩnh vực hợp
tác xí nghiệp vừa và nhỏ.
Về lĩnh vực nông - lâm nghiệp: Việt Nam và ASEAN đã thảo luận việc tăng cường
an ninh lương thực ASEAN thông qua việc duy trì cơ chế Quỹ dự trữ gạo khẩn cấp
ASEAN, xây dựng hệ thống thông tin và số liệu thống kê an ninh lương thực ASEAN,
lập trang web về sản xuất và buôn bán lương thực của các nước ASEAN. Việt Nam đã
tham gia các chương trình, dự án triển khai và áp dụng công nghệ tiên tiến vào nông
nghiệp như xây dựng mạng lưới ASEAN về khí hậu nông nghiệp, hệ thống cảnh báo sớm
các rủi ro thiên tai cho sản xuất nông nghiệp, quản lý rừng bền vững, đánh giá rủi ro khi
sử dụng các sản phẩm nông sản có biến đổi di truyền, kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh
trong chăn nuôi, công nghệ sạch trong sản xuất thực phẩm, rau quả, công nghệ sinh học
và thuỷ sản.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Singapo tháng 11/2000 Việt Nam tham gia ký kết
Hiệp định khung về Công nghệ Thông tin ASEAN.
Trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, Việt nam tham gia hợp tác với các nước
ASEAN về giao thông vận tải: Trong những lĩnh vực hợp tác của ASEAN, đây là lĩnh
vực hợp tác được thúc đẩy khá mạnh nhằm hỗ trợ liên kết kinh tế khu vực. Từ sau Hội
nghị lần thứ I các Bộ trưởng Giao thông Vận tải ASEAN (ATM) tại Bali (Inđônêxia)
tháng 3/1996 các Bộ trưởng đã ký thoả thuận về hợp tác giao thông vận tải trong
ASEAN, lập cơ chế họp các quan chức cao cấp về giao thông vận tải (STOM). Việt Nam
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc
Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc

More Related Content

Similar to Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc

Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thôngTrường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Bảo Bối
 
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdf
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdfGiáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdf
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdf
NguynHoiNam65
 
Chuong8 phpapp02 2
Chuong8 phpapp02 2Chuong8 phpapp02 2
Chuong8 phpapp02 2
Lem Shady
 
Thoi bao Mekong 4 2015
Thoi bao Mekong 4 2015Thoi bao Mekong 4 2015
Thoi bao Mekong 4 2015
Hán Nhung
 
Hội sinh viên việt nam
Hội sinh viên việt namHội sinh viên việt nam
Hội sinh viên việt nam
hoangtruc
 

Similar to Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc (20)

Luận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì, HAY
Luận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì, HAYLuận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì, HAY
Luận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì, HAY
 
Luận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì từ năm 2002 đến năm 2015
Luận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì từ năm 2002 đến năm 2015Luận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì từ năm 2002 đến năm 2015
Luận văn: Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì từ năm 2002 đến năm 2015
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Đài Loan Trong Chính Sách Đối Ngoại Của Trung Qu...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Đài Loan Trong Chính Sách  Đối Ngoại Của Trung Qu...Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Đài Loan Trong Chính Sách  Đối Ngoại Của Trung Qu...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Đài Loan Trong Chính Sách Đối Ngoại Của Trung Qu...
 
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thôngTrường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông
 
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdf
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdfGiáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdf
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [Bộ GD&ĐT, CTQG 2021].pdf
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Chính Sách Đối Ngoại Của Liên Minh Châu Âu Đối Với Khu V...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Chính Sách Đối Ngoại Của Liên Minh Châu Âu Đối Với Khu V...Khoá Luận Tốt Nghiệp Chính Sách Đối Ngoại Của Liên Minh Châu Âu Đối Với Khu V...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Chính Sách Đối Ngoại Của Liên Minh Châu Âu Đối Với Khu V...
 
Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015
Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015
Quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam từ 1986 đến 2015
 
Tác động của việc gia nhập ASEAN đối với Việt Nam
Tác động của việc gia nhập ASEAN đối với Việt NamTác động của việc gia nhập ASEAN đối với Việt Nam
Tác động của việc gia nhập ASEAN đối với Việt Nam
 
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOT
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOTPhương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOT
Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc, HOT
 
Giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong qúa trình hội nhập quốc tế cho sinh vi...
Giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong qúa trình hội nhập quốc tế cho sinh vi...Giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong qúa trình hội nhập quốc tế cho sinh vi...
Giáo dục tư tưởng độc lập tự chủ trong qúa trình hội nhập quốc tế cho sinh vi...
 
Luận văn: Quan hệ myanmar - việt nam từ 1975 đến 2010, HOT
Luận văn: Quan hệ myanmar - việt nam từ 1975 đến 2010, HOTLuận văn: Quan hệ myanmar - việt nam từ 1975 đến 2010, HOT
Luận văn: Quan hệ myanmar - việt nam từ 1975 đến 2010, HOT
 
Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam giai đoạn từ sau năm 1975 đến ...
Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam giai đoạn từ sau năm 1975 đến ...Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam giai đoạn từ sau năm 1975 đến ...
Đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam giai đoạn từ sau năm 1975 đến ...
 
Chuong8 phpapp02 2
Chuong8 phpapp02 2Chuong8 phpapp02 2
Chuong8 phpapp02 2
 
Luận án: Quá trình đấu tranh củng cố độc lập của Malaysia, HAY
Luận án: Quá trình đấu tranh củng cố độc lập của Malaysia, HAYLuận án: Quá trình đấu tranh củng cố độc lập của Malaysia, HAY
Luận án: Quá trình đấu tranh củng cố độc lập của Malaysia, HAY
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng và vận dụng vào việc x...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng và vận dụng vào việc x...Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng và vận dụng vào việc x...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất trong Đảng và vận dụng vào việc x...
 
Tiểu luận.docx
Tiểu luận.docxTiểu luận.docx
Tiểu luận.docx
 
Bai giang chinh c8
Bai giang chinh c8Bai giang chinh c8
Bai giang chinh c8
 
Thoi bao Mekong 4 2015
Thoi bao Mekong 4 2015Thoi bao Mekong 4 2015
Thoi bao Mekong 4 2015
 
Khoá Luận Chính Sách Của Hàn Quốc Đối Với Trung Quốc Từ Năm 2000 Đến Năm 2016
Khoá Luận Chính Sách Của Hàn Quốc Đối Với Trung Quốc Từ Năm 2000 Đến Năm 2016Khoá Luận Chính Sách Của Hàn Quốc Đối Với Trung Quốc Từ Năm 2000 Đến Năm 2016
Khoá Luận Chính Sách Của Hàn Quốc Đối Với Trung Quốc Từ Năm 2000 Đến Năm 2016
 
Hội sinh viên việt nam
Hội sinh viên việt namHội sinh viên việt nam
Hội sinh viên việt nam
 

More from sividocz

More from sividocz (20)

Luận Văn Xác Định Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Kiểu Dáng...
Luận Văn Xác Định Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Kiểu Dáng...Luận Văn Xác Định Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Kiểu Dáng...
Luận Văn Xác Định Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Kiểu Dáng...
 
Luận Vănkế Toán Vốn Bằng Tiền Lương Tại Xí Nghiệp Xây Dựng 492.doc
Luận Vănkế Toán Vốn Bằng Tiền Lương Tại Xí Nghiệp Xây Dựng 492.docLuận Vănkế Toán Vốn Bằng Tiền Lương Tại Xí Nghiệp Xây Dựng 492.doc
Luận Vănkế Toán Vốn Bằng Tiền Lương Tại Xí Nghiệp Xây Dựng 492.doc
 
Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Nƣớc Ngoài Về Giải Quyết Tranh Chấp D...
Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Nƣớc Ngoài Về Giải Quyết Tranh Chấp D...Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Nƣớc Ngoài Về Giải Quyết Tranh Chấp D...
Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Nƣớc Ngoài Về Giải Quyết Tranh Chấp D...
 
Luận văn Vấn đề giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trong pháp luật quốc tế hiện đ...
Luận văn Vấn đề giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trong pháp luật quốc tế hiện đ...Luận văn Vấn đề giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trong pháp luật quốc tế hiện đ...
Luận văn Vấn đề giao dịch bảo đảm bằng tàu bay trong pháp luật quốc tế hiện đ...
 
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
Luận Văn Trợ Giúp Pháp Lý Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Địa Bàn Tỉnh Tha...
 
Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Công Tác Dân Tộc - Qua Thực Tiễn Tỉnh Quảng Ninh...
Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Công Tác Dân Tộc - Qua Thực Tiễn Tỉnh Quảng Ninh...Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Công Tác Dân Tộc - Qua Thực Tiễn Tỉnh Quảng Ninh...
Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Công Tác Dân Tộc - Qua Thực Tiễn Tỉnh Quảng Ninh...
 
Luận Văn Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Hội Sở Chính Ngân.doc
Luận Văn Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Hội Sở Chính Ngân.docLuận Văn Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Hội Sở Chính Ngân.doc
Luận Văn Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Tại Hội Sở Chính Ngân.doc
 
Luận Văn Tranh Chấp Và Giải Quyết Tranh Chấp Hợp Đồng Nhƣợng Quyền Thƣơng Mại...
Luận Văn Tranh Chấp Và Giải Quyết Tranh Chấp Hợp Đồng Nhƣợng Quyền Thƣơng Mại...Luận Văn Tranh Chấp Và Giải Quyết Tranh Chấp Hợp Đồng Nhƣợng Quyền Thƣơng Mại...
Luận Văn Tranh Chấp Và Giải Quyết Tranh Chấp Hợp Đồng Nhƣợng Quyền Thƣơng Mại...
 
Luận Văn Phương Pháp Hạch Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Lương Thực Đà Nẵng.doc
Luận Văn Phương Pháp Hạch Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Lương Thực Đà Nẵng.docLuận Văn Phương Pháp Hạch Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Lương Thực Đà Nẵng.doc
Luận Văn Phương Pháp Hạch Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Lương Thực Đà Nẵng.doc
 
Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động Cưỡng Bức...
Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động Cưỡng Bức...Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động Cưỡng Bức...
Luận Văn Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Việt Nam Về Xóa Bỏ Lao Động Cưỡng Bức...
 
Luân Văn Thực Trạng Và Giải Pháp Hoạt Động Marketing Dịch Vụ Vận Tải Biển Của...
Luân Văn Thực Trạng Và Giải Pháp Hoạt Động Marketing Dịch Vụ Vận Tải Biển Của...Luân Văn Thực Trạng Và Giải Pháp Hoạt Động Marketing Dịch Vụ Vận Tải Biển Của...
Luân Văn Thực Trạng Và Giải Pháp Hoạt Động Marketing Dịch Vụ Vận Tải Biển Của...
 
Luận Văn Rào Cản Thực Hiện Hệ Thống Quản Trị Chất Lượng Toàn Diện Đối Với Doa...
Luận Văn Rào Cản Thực Hiện Hệ Thống Quản Trị Chất Lượng Toàn Diện Đối Với Doa...Luận Văn Rào Cản Thực Hiện Hệ Thống Quản Trị Chất Lượng Toàn Diện Đối Với Doa...
Luận Văn Rào Cản Thực Hiện Hệ Thống Quản Trị Chất Lượng Toàn Diện Đối Với Doa...
 
Luận Văn Quản Trị Cung Ứng Giống Cây Cà Phê Tại Doanh Nghiệp Tƣ Nhân Dịch Vụ ...
Luận Văn Quản Trị Cung Ứng Giống Cây Cà Phê Tại Doanh Nghiệp Tƣ Nhân Dịch Vụ ...Luận Văn Quản Trị Cung Ứng Giống Cây Cà Phê Tại Doanh Nghiệp Tƣ Nhân Dịch Vụ ...
Luận Văn Quản Trị Cung Ứng Giống Cây Cà Phê Tại Doanh Nghiệp Tƣ Nhân Dịch Vụ ...
 
Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Giảm Nghèo Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Đị...
Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Giảm Nghèo Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Đị...Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Giảm Nghèo Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Đị...
Luận Văn Quản Lý Nhà Nƣớc Về Giảm Nghèo Cho Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Trên Đị...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Thu Hút Các Dự Án Đầu Tư Vào Khu Kinh Tế Mở Chu Lai, Tỉnh...
Quản Lý Nhà Nước Về Thu Hút Các Dự Án Đầu Tư Vào Khu Kinh Tế Mở Chu Lai, Tỉnh...Quản Lý Nhà Nước Về Thu Hút Các Dự Án Đầu Tư Vào Khu Kinh Tế Mở Chu Lai, Tỉnh...
Quản Lý Nhà Nước Về Thu Hút Các Dự Án Đầu Tư Vào Khu Kinh Tế Mở Chu Lai, Tỉnh...
 
Mô Tả Ngắn Gọn Lịch Sử Hình Thành Và Chức Năng Hoạt Động Của Đơn Vị Thực Tập ...
Mô Tả Ngắn Gọn Lịch Sử Hình Thành Và Chức Năng Hoạt Động Của Đơn Vị Thực Tập ...Mô Tả Ngắn Gọn Lịch Sử Hình Thành Và Chức Năng Hoạt Động Của Đơn Vị Thực Tập ...
Mô Tả Ngắn Gọn Lịch Sử Hình Thành Và Chức Năng Hoạt Động Của Đơn Vị Thực Tập ...
 
Luận Văn Phân Tích Năng Lực Cạnh Tranh Của Cụm Ngành TômTỉnh.doc
Luận Văn Phân Tích Năng Lực Cạnh Tranh Của Cụm Ngành TômTỉnh.docLuận Văn Phân Tích Năng Lực Cạnh Tranh Của Cụm Ngành TômTỉnh.doc
Luận Văn Phân Tích Năng Lực Cạnh Tranh Của Cụm Ngành TômTỉnh.doc
 
Luận Văn Những Yếu Tố Văn Học Dân Gian Trong Một Số Trò Rối Nước Cổ Truyền.doc
Luận Văn Những Yếu Tố Văn Học Dân Gian Trong Một Số Trò Rối Nước Cổ Truyền.docLuận Văn Những Yếu Tố Văn Học Dân Gian Trong Một Số Trò Rối Nước Cổ Truyền.doc
Luận Văn Những Yếu Tố Văn Học Dân Gian Trong Một Số Trò Rối Nước Cổ Truyền.doc
 
Luận Văn Nguồn Lực Và Vấn Đề Nghèo Đói Của Hộ Nông Dân Huyện Võ Nhai Tỉnh Thá...
Luận Văn Nguồn Lực Và Vấn Đề Nghèo Đói Của Hộ Nông Dân Huyện Võ Nhai Tỉnh Thá...Luận Văn Nguồn Lực Và Vấn Đề Nghèo Đói Của Hộ Nông Dân Huyện Võ Nhai Tỉnh Thá...
Luận Văn Nguồn Lực Và Vấn Đề Nghèo Đói Của Hộ Nông Dân Huyện Võ Nhai Tỉnh Thá...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty...
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Luận Vănđảng Lãnh Đạo Xây Dựng Và Phát Triển Quan Hệ Việt Nam - Asean Từ Năm 1995 Đến Năm 2005.doc

  • 1. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 LUẬN VĂN: Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005
  • 2. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó đổi mới đường lối đối ngoại là một nội dung quan trọng. Nghị quyết Đại hội VI nêu rõ: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau” [39, tr.105]. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng động thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” [43, tr.147]. Với đường lối đối ngoại rộng mở đó, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế của mình ở khu vực và trên thế giới. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư với 165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế khu vực. Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên các châu lục của thế giới. Các đoàn thể tổ chức nhân dân Việt Nam có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia quốc tế. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã có quan hệ với tất cả các nước, các trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới, các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Nền kinh tế Việt nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Trong lịch sử, quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng đang phát triển mạnh sau những bước thăng trầm. Những năm Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quan hệ Việt Nam - ASEAN là quan hệ đối đầu. Khi Mỹ không thể thắng tại chiến trường Việt Nam, buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì các nước ASEAN đã điều chỉnh chính sách đối ngoại và triển khai một số bước đi thân thiện hơn trong quan hệ với Việt Nam. Về phía Việt Nam, tháng 7/1976 Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm đối với khu vực chủ trương xây dựng quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN. Tháng 8/1976 Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước ASEAN. Tuy nhiên, đến năm 1979 do bất đồng quan điểm trong giải quyết vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN từ đối thoại thân thiện
  • 3. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 đã chuyển sang đối đầu. Đến năm 1989 khi Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia, quan hệ Việt Nam - ASEAN ấm dần lên. Sau những bước đi, thủ tục cần thiết, ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Sự kiện này là mốc quan trọng thể hiện quyết tâm của Đảng Nhà nước ta trong việc triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, đặc biệt là chính sách đối với khu vực theo hướng chủ động hội nhập. Sự kiện này đã chấm dứt thời kỳ đối đầu, thù nghịch để hai bên bước vào thời kỳ hữu nghị hợp tác. Việc gia nhập ASEAN tạo thuận lợi cho Việt Nam tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư và các thể chế tài chính quốc tế, tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất nước. ASEAN còn tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội đi vào những thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đồng thời việc gia nhập ASEAN giúp Việt Nam nâng cao vị trí, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế… Những thuận lợi đó đã được chứng minh rõ nét bằng những thành tựu đạt được của Việt Nam trong 10 năm qua. Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những thuận lợi lớn, nhưng cũng gặp phải những khó khăn, thách thức không nhỏ. Để có chính sách đối với khu vực hoàn chỉnh hơn, cần nhìn lại chặng đường 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN, để rút ra kinh nghiệm, nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác Việt Nam - ASEAN. Từ những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Với lịch sử phát triển lâu dài và vị trí chiến lược quan trọng, Đông Nam á đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành khoa học khác nhau ở trong và ngoài nước. Đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN thì quan hệ Việt Nam - ASEAN ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều cá nhân và tổ chức, các cơ quan chuyên môn như Viện nghiên cứu Đông Nam á thuộc Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Vụ ASEAN - Bộ Ngoại giao, Đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viện Quan hệ quốc tế v.v… trên các vấn đề như:
  • 4. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Về lịch sử quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm như: Việt Nam - Đông Nam á: Quan hệ lịch sử văn hoá của Viện Nghiên cứu Đông Nam á, Nxb Chính trị Quốc gia, 1993; Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN của Đinh Xuân Lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000; Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương song phương của Vũ Dương Ninh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004; Ngoài ra còn có các bài tạp chí như: Vấn đề Việt Nam gia nhập ASEAN của Nguyễn Vũ Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm 1994; Hà Văn Thầm, Việt Nam gia nhập ASEAN tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Tạp chí Cộng sản, số 8, năm 1997; Nguyễn Huy Hồng, Về quan hệ Việt Nam ASEAN, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm 1995… Về những vấn đề cụ thể trong quan hệ Việt Nam - ASEAN có các tác phẩm: Quan hệ Việt Nam - ASEAN chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam của Vũ Đình Hương, Vũ Đình Bách, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997; Nguyễn Xuân Thắng có cuốn sách Khu vực mậu dịch tự do ASEAN tiến trình hội nhập của Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội 1999; Ngô Hữu Mạnh, Những nhân tố thúc đẩy hạn chế hợp tác an ninh chính trị Việt Nam - ASEAN trong 5 năm qua, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 3, năm 2000… Về những cơ hội, thách thức cũng như đánh giá lại thời gian Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN có các bài viết như: Vấn đề hoà bình hợp tác giữa Việt Nam các nước ASEAN hiện nay - những thuận lợi khó khăn của Nguyễn Hữu Cát, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, số 3, năm 1994; Nhìn lại một năm gia nhập ASEAN của Nguyễn Mạnh Hùng, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 13, năm 1996; Nguyễn Cảnh Huệ, Những thuận lợi thách thức khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, số 2, năm 1996; Việt Nam sau 5 năm gia nhập ASEAN của Nguyễn Hữu Cát - Ngô Kim Anh, Tạp chí Tư tưởng Văn hoá 7-2000… Về những vấn đề chung liên quan đến ASEAN có các tác phẩm: ASEAN hôm nay triển vọng trong thế kỷ XXI của Nguyễn Thu Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998; Nguyễn Duy Quý, Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001; Nguyễn Duy Quý, Xây dựng một ASEAN phát triển đồng đều trong thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 5, năm 2001…
  • 5. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Đặc biệt, vào dịp kỷ niệm 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN có các bài viết: Lê Công Phụng, Việt Nam - ASEAN 10 năm nhìn lại, đăng trên Tạp chí Thông tin đối ngoại, số 8, năm 2005; Vũ Dương Ninh, Việt Nam - ASEAN 10 năm đồng hành trên chặng đ- ường hội nhập quốc tế 1995 - 2005, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4, năm 2005; Trần Khánh, Việt Nam sau 10 năm gia nhập ASEAN thành tựu, cơ hội thách thức, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 4, năm 2005… Các tác phẩm, bài viết về quan hệ Việt Nam - ASEAN rất phong phú, tiếp cận trên nhiều vấn đề khác nhau. Song chưa có bài viết hoặc công trình nào mang tính chất tổng hợp, có hệ thống về quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến năm 2005. Do đó, kế thừa những công trình đã nghiên cứu trước đây, tác giả luận văn cố gắng nêu phân tích quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN trong thời gian 10 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Thông qua quan hệ Việt Nam - ASEAN trong 10 năm, tác giả luận văn khẳng định tính chủ động, đúng đắn, sáng tạo, nhạy cảm chính trị của Đảng trong việc đưa nước ta hội nhập sâu hơn vào ASEAN qua việc trở thành thành viên đầy đủ và tích cực, các sáng kiến thúc đẩy ASEAN phát triển toàn diện. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Nêu lên chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng đối với các nước ASEAN. - Thành tựu đạt được hạn chế của Việt Nam trong quan hệ Việt Nam - ASEAN. - Bước đầu nêu một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo xây dựng phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN rút ra sau 10 năm Việt Nam gia nhập ASEAN. 4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu - Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn sẽ nghiên cứu chủ trương của Đảng liên quan đến xây dựng và phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN, quá trình tổ chức thực hiện chủ trương này.
  • 6. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 - Về thời gian: Tập trung đi sâu vào mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN từ 1995 đến 2005. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở những quan điểm phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại. 5.2. Nguồn tư liệu Luận văn sử dụng các tài liệu của Đảng về đối ngoại bao gồm: Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đường lối đối ngoại và công tác đối ngoại. Các tác phẩm, bài nói, bài viết hoặc phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Ngoài ra luận văn sử dụng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về Đông Nam á nói chung và ASEAN nói riêng đã được in thành sách, công bố trên báo chí, hoặc các hội thảo có liên quan. Tác giả luận văn còn trực tiếp tham khảo ý kiến của nhiều cán bộ chuyên sâu về ASEAN của Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương để phục vụ cho việc viết luận văn. 5.3. Các phương pháp sử dụng khi nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và hệ thống các phương pháp như phân tích, tổng hợp, thống kê… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong luận văn. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Hệ thống một cách tương đối đầy đủ tư liệu về chủ trương, đường lối của Đảng về quan hệ Việt Nam - ASEAN. - Bước đầu rút ra những kinh nghiệm để góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN, góp phần triển khai chính sách đối với khu vực, một bộ phận quan trọng của chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và Nhà nước ta.
  • 7. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
  • 8. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Chương 1 Đảng lãnh đạo đưa việt nam gia nhập asean và từng bước tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN (1995 - 2000) 1.1. Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN 1.1.1. Khái quát tình hình thế giới và trong nước tác động đến chính sách của Việt Nam đối với ASEAN (1986-1995) - Tình hình thế giới: Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng và phức tạp làm thay đổi căn bản cục diện thế giới. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng, dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Sự tan rã của một trong hai siêu cường của trật tự thế giới hai cực đã tạo ra một khoảng trống lớn trong không gian chính trị quốc tế, làm tan vỡ sự cân bằng toàn cầu đã tồn tại gần 50 năm qua từ sau Hội nghị Yanta năm 1945. Mỹ trở thành siêu cường duy nhất và mạnh nhất về quân sự. So sánh lực lượng trên thế giới từ chỗ tương đối cân bằng giữa hai hệ thống chính trị xã hội đối lập chuyển sang có lợi cho Mỹ và các nước tư bản phát triển. Khi trật tự thế giới hai cực không còn nữa, thế giới chuyển sang cục diện mới với sự tham gia của nhiều nước, nhiều trung tâm. Nhật Bản và Tây Âu xem việc Liên Xô tan rã là thời cơ thuận lợi để vươn lên tăng cường vai trò chính trị và quân sự cho tương xứng với thực lực kinh tế của mình. Trung Quốc tiến hành cuộc cải cách, mở cửa đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Sự lớn mạnh của Trung Quốc đã tác động không nhỏ đến cán cân so sánh lực lượng của thế giới sau thời kỳ chiến tranh lạnh. Trung Quốc tham vọng trở thành siêu cường của thế giới vào giữa thế kỷ XXI. ở khu vực Đông Nam á, Hiệp định Paris về hoà bình ở Campuchia được ký kết vào tháng 10 năm 1991. Do đó, những bất đồng quan điểm trong việc giải quyết vấn đề Campuchia không còn nữa. Mặt khác, khi trật tự thế giới hai cực chấm dứt, Đông Nam á không còn được các cường quốc kinh tế thế giới đặt ở vị trí ưu tiên như trước. Nga và Mỹ
  • 9. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 đều giảm sự hiện diện của mình ở khu vực này. Nga tuyên bố rút quân khỏi Cam Ranh (Việt Nam), Mỹ rút lực lượng quân sự ở căn cứ Xubích và Clark (Philippin). Tình hình đó tạo ra một “khoảng trống” quyền lực ở vùng Đông Nam á. Những cố gắng nhằm đẩy mạnh vai trò cả về chính trị, kinh tế quân sự của Trung Quốc, Nhật Bản ở châu á đã làm tăng mối lo ngại truyền thống trong các nước ASEAN và các nước Đông Nam á khác về một nguy cơ can thiệp của các nước lớn đối với khu vực. Bên cạnh đó lại nảy sinh những nguy cơ xung đột tiềm tàng ở Biển Đông. Đó là thách thức lớn đối với ASEAN, buộc họ phải tính toán nhằm tìm ra một cơ chế bảo đảm an ninh, hoà bình ở khu vực. Vì vậy, ASEAN chủ trương tăng cường vị thế của mình, bằng cách phấn đấu tiến tới ASEAN 10, lấy việc kết nạp Việt Nam vào ASEAN là hướng ưu tiên, ra sức tạo ra thế cân bằng chiến lược mới ở khu vực bằng cách giữ cho Đông Nam á hoà bình, trung lập và thịnh vượng, đứng ngoài những quan hệ phức tạp giữa các nước lớn. Trước những xu thế mới của tình hình thế giới, hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN ngày càng được ưu tiên. Đầu những năm 90, tổng sản phẩm nội địa (GDP) tính theo đầu người của các nước ASEAN đã đạt mức: Singapore và Brunei khoảng 15.000 USD, Malaysia là 2.300 USD, Thái Lan trên 1.400 USD, Philippin trên 700 USD, Indonesia trên 600 USD. Các nước ASEAN đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá. Với chính sách “hướng ngoại”, ngoại thương của ASEAN phát triển nhanh chóng, đạt 160 tỷ vào đầu những năm 90, đến cuối những năm 80 bình quân hàng năm các nước ASEAN thu hút 13,5 tỷ USD vốn đầu tư của thế giới so với 4,6 tỷ USD vào đầu những năm 80. Từ đầu những năm 90, sức mạnh kinh tế của các nước ASEAN đã tăng lên đáng kể, dự trữ ngoại tệ tăng khá (Singapore là trên 30 tỷ USD, Brunei khoảng 25 tỷ USD, Thái Lan trên 20 tỷ USD, Indonesia trên 10 tỷ, Philippin khoảng 4,5 tỷ) [66, tr 29 - 30]. Toàn cầu hoá trở thành một xu thế diễn ra mạnh mẽ từ sau khi cục diện thế giới chuyển từ 2 cực sang đa cực. Xu thế toàn cầu hoá tăng cường sự giao lưu hợp tác giữa các nước và các khối nước, giúp các nước phát triển nhanh và tận dụng thành quả khoa học công nghệ của loài người. Quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi các nước phải mở rộng làm ăn, hợp tác với nhau không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, lớn hay nhỏ… toàn cầu hoá còn tạo điều kiện thuận lợi và hiệu quả cho sử dụng và lưu thông vốn, kỹ thuật và công
  • 10. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 nghệ, hàng hoá, lao động… góp phần làm tăng thêm sản phẩm xã hội và sự phát triển chung của loài người. Tuy nhiên, với các nước nhỏ, kém phát triển trong quá trình hội nhập chịu sự thua thiệt là điều khó tránh khỏi. Nhưng không vì thế mà các nước nhỏ, kém phát triển, lạc hậu lại đứng ngoài xu thế toàn cầu hoá, vì thực tiễn đã cho thấy không một quốc gia nào, không một nhóm nước nào dù lớn và có tiềm năng có thể phát triển trong hình thái “tự sản tự tiêu”. Trước những đòi hỏi mới của tình hình, dưới tác động của sự đảo lộn về tập hợp lực lượng thế giới, các nước đều điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình theo hướng dành ưu tiên cho yêu cầu phát triển kinh tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, cải thiện quan hệ hợp tác, liên kết với các nước ở khu vực. Do đó, trong quan hệ quốc tế ngày nay đang nổi lên những xu hướng mới ảnh hướng nhiều đến chính sách đối ngoại của các nước: Thứ nhất, xu hướng ưu tiên cho phát triển kinh tế đang lôi cuốn cả cộng đồng quốc tế, những nước công nghiệp phát triển cũng như những nước đang phát triển. Với việc kết thúc chiến tranh lạnh, cuộc chạy đua về kinh tế trên phạm vi toàn cầu đang thay thế cho cuộc chạy đua vũ trang. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia. Thứ hai, xu hướng đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của tất cả các nước, nhất là những nước trước kia có quan hệ đối ngoại hạn chế. Các nước ra sức mở rộng quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau, không câu nệ đối tượng, với tất cả những ai có khả năng hợp tác hiệu quả, việc lựa chọn bạn, thù, biện pháp và hình thức quan hệ trở nên hết sức linh hoạt. Thứ ba, hợp tác khu vực tăng cường. Các nước đều coi trọng chính sách khu vực, ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế với những nước láng giềng, đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực nhất là về kinh tế. Xu hướng này đang là một trào lưu ngày càng lan rộng khắp các châu lục, xuất phát từ cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế mang tính toàn cầu và sự tập hợp lực lượng giữa các trung tâm, khu vực, nhằm hình thành trật tự thế giới mới thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Vì vậy, các quốc gia đều coi trọng, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước có chung đường biên giới, để đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực. Xu thế khu vực hoá và
  • 11. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 nhất thể hoá nền kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ và sôi động. Nhiều tổ chức và Diễn đàn kinh tế đa phương ở từng khu vực đã được hình thành: ở châu Âu: Liên minh châu Âu với 12 nước thành viên đến năm 1995 kết nạp thêm 3 nước thành viên mới (áo, Thụy Điển, Phần Lan); nâng tổng số thành viên lên 15 nước so với 6 nước thành viên khi được thành lập năm 1957. ở châu Mỹ: Thành lập khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) vào cuối năm 1992; các nước Nam Mỹ thành lập khu vực mậu dịch tự do Nam Mỹ (MERCOSUR). ở châu á: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) được thành lập tháng 11/1992; Các nước ASEAN thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) bắt đầu có hiệu lực từ 01/01/1993. Những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới, trong đó sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tác động sâu sắc đến đất nước ta: Sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, sự hợp tác kinh tế của Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khó giữ được ở mức độ và những điều kiện như trước. Trong khi đó, một thời gian dài Đảng ta luôn xác định “tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” [39, tr. 99-100]. Khi Liên Xô sụp đổ, “hòn đá tảng” không còn nữa. Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới và tiếp tục phát triển, Đảng ta cần có sự điều chỉnh chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn và các quan hệ quốc tế mới, với xu thế phát triển của thế giới. - Khái quát tình hình trong nước: Từ những năm 70 nhất là giữa những năm 80 của thế kỷ trước, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới. Thực hiện đường lối đổi mới đó, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, sau 2 năm thực hiện “tình hình kinh tế, xã hội có sự cải thiện nhất định; nhịp độ lạm phát và tăng giá giảm một ít, tình hình cung ứng lương thực, hoạt động giao dịch, chuẩn bị hợp tác với bên ngoài được mở ra”. [41, tr. 3]. Trong các năm 1986 – 1989 tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân đều tăng so với năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng từ 4,8% năm 1986
  • 12. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 lên 19,6% năm 1989, thu nhập quốc dân tương ứng cũng tăng từ 3,3% lên 14,7%; “Tình hình lương thực – thực phẩm có chuyển biến tốt, từ chố thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu” [43, tr.18]. Về kinh tế đối ngoại: Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 439 triệu rúp và 384 triệu đôla năm 1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đôla năm 1990 [43, tr.19]. Lạm phát được kiềm chế, nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, 1987 là 10%, 1988 là 14%, 1989 là 2,5%, đến năm 1990 là 4,4 % [43, tr. 27]; trong 5 năm 1986-1990 có thêm 4,2 triệu lao động đã tìm được việc làm. Trong 5 năm (1991- 1995) nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước đạt 8,2%, công nghiệp tăng bình quân 13,3%, nông nghiệp tăng bình quân 4,5%, kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Lạm phát được kiềm chế năm 1986 là 774,7% xuống còn 67,4% năm 1991, còn 12,7% năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Trong 5 năm tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 17 tỷ đôla, tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỷ đôla, quan hệ mậu dịch đã mở rộng trên 100 nước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh trong 5 năm, bình quân hàng năm là 50%. Đến cuối 1995, tổng số vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỷ đôla [46, tr.58 - 59]. Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hoá và xã hội có chuyển biến tích cực. Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm, chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hoà bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Trải qua 10 năm đổi mới, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, có trình độ thấp, cơ sở hạ tầng ở dưới mức trung bình của các nước phát triển; trong các doanh nghiệp, trình độ thiết bị công nghệ phần lớn lạc hậu, năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp, chất lượng nhiều sản phẩm chưa tốt và giá thành còn cao. Hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Khoảng cách về trình độ phát triển của nước ta so với các nước trong khu vực chậm được thu hẹp, Báo cáo
  • 13. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 chính trị tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ rõ “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới” [45, tr. 25]. Điều này đã gây không ít khó khăn cho việc Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế. Từ điều kiện thực tế của Việt Nam lúc này, phát triển nhanh và mạnh mẽ quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực nhất là các nước ASEAN, là chìa khoá để Việt Nam mở cánh cửa vào khu vực và là cầu nối để bước vào hợp tác sâu rộng với các nước trên thế giới, qua đó, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.1.2. Quá trình Đảng lãnh đạo đưa Việt Nam gia nhập ASEAN Trước những khó khăn, thách thức to lớn mà tình hình thế giới và trong nước đặt ra, Đảng ta đã nắm bắt được quy luật, thực trạng và xu thế vận động của tình hình thế giới, có chiến lược và sách lược đúng về đối ngoại, đặc biệt là mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước ASEAN. Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI chỉ rõ nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là: “ ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới„ [39, tr. 99]. Đại hội nêu rõ: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam không ngừng phấn đấu nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với Inđônêxia và các nước Đông Nam á khác” [39, tr. 108]. Vào thời điểm diễn ra Đại hội, vấn đề Campuchia là trở ngại chính cho việc phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN. Vì vậy, Đại hội nhấn mạnh: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định và hợp tác" [39, tr. 108]. Thực hiện và cụ thể hoá đường lối đối ngoại với các nước ASEAN mà Đại hội VI đã đề ra, tháng 5/1988, Bộ Chính trị khoá VI đã họp Hội nghị lần thứ 13 bàn về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Bộ Chính trị chủ trương rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, coi đây là giải pháp phá bỏ những rào cản và sự bao vây cô lập về chính trị của thế giới đối với ta. Bộ Chính trị nhấn mạnh ngoài việc
  • 14. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, Lào và Campuchia, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước phương Tây và các nước ASEAN là một yêu cầu khách quan. Để mở rộng quan hệ đối ngoại Việt Nam - ASEAN, Bộ Chính trị cho rằng: Cần có chính sách toàn diện đối với Đông Nam á, trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Indonesia, phá vỡ thế bế tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá với các nước trong khu vực, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa nước ta với các nước này bằng thương lượng, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác [40, tr.12]. Chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm tăng cường quan hệ với các nước láng giềng khu vực tiếp tục được thể hiện ở Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá VI), Hội nghị chỉ rõ: Góp phần tích cực giải quyết vấn đề Campuchia bằng chính trị, đồng thời chuẩn bị rút hết quân sớm trong trường hợp chưa có giải pháp về Campuchia. Xây dựng mối quan hệ mới với các nước ASEAN, tham gia tích cực vào việc biến Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác [41, tr. 40]. Về vấn đề Campuchia, một lần nữa Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (khoá VI) nhấn mạnh: Kiên trì phấn đấu cho một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia phù hợp với lợi ích cơ bản của cách mạng Campuchia và hoà bình, ổn định trong khu vực. Nhờ sự nhạy bén chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt thi hành đường lối đổi mới toàn diện cả về đối nội lẫn đối ngoại trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đã quyết tâm tham gia tích cực vào quá trình giải quyết vấn đề Campuchia trước khi xảy ra sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Việc Việt Nam chủ động rút hết quân khỏi Campuchia và tích cực đóng góp vào việc ký Hiệp định về Campuchia, đã tạo tiền đề quan trọng cho việc cải thiện quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong và ngoài khu vực. Đại hội lần thứ VII của Đảng tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [43, tr. 147]. Đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng và các nước trong khu vực
  • 15. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 tiếp tục được Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam á và châu á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam á hoà bình, hữu nghị và hợp tác” [43, tr. 90]. Thực hiện đường lối mà Đại hội VII đề ra, tháng 6/1992, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã thông qua bản báo cáo: Thời cuộc hiện nay và nhiệm vụ của chúng ta do Tổng Bí thư Đỗ Mười trình bày. Bản báo cáo chỉ rõ: “Trong thời đại ngày nay, bất cứ nước nào, dù phát triển đến đâu cũng không thể khép kín được” [44, tr. 5]. Vì vậy, phải mở rộng quan hệ quốc tế, trước hết là: Xây dựng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực, tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài chung quanh nước ta, đáp ứng lợi ích của dân tộc ta và phù hợp với xu thế các nước, tăng cường liên kết khu vực vì hoà bình và phát triển. Đồng thời mở rộng quan hệ với các nước tư bản phát triển, với các nước khác và tổ chức quốc tế [44, tr. 6-7]. Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) đã ra nghị quyết về đối ngoại, Hội nghị xác định rõ: Nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trước tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Hội nghị đã đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là: Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ. Hội nghị cũng đề ra 4 phương châm để vận dụng xử lý các mối quan hệ quốc tế: Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
  • 16. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Với ASEAN, Hội nghị đã đánh giá: Đông Nam á liên quan mật thiết tới yêu cầu tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho an ninh và phát triển của Việt Nam. Các nước ASEAN phát triển kinh tế khá nhanh, đang đi tới quá trình nhất thế hoá về kinh tế với việc lập khối mậu dịch tự do AFTA. Vì lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam, Hội nghị đề ra: Tiếp tục cải thiện và mở rộng quan hệ với từng nước và với cả nhóm nước ASEAN trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình. Chú ý mở rộng hợp tác về kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ trên các lĩnh vực mà ASEAN có trình độ cao, từng bước tham gia hợp tác khu vực với khẩu hiệu biến Đông Nam á thành khu vực hoà bình, hợp tác và phát triển. Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali, tham gia các diễn đàn đối thoại với ASEAN, tích cực nghiên cứu mở rộng quan hệ với ASEAN trong tương lai. Giải quyết thoả đáng bằng thương lượng các vấn đề tồn tại, vướng mắc giữa Việt Nam với các nước ASEAN. Tiếp đó, năm 1993 Chính phủ Việt Nam công bố chính sách bốn điểm mới của Việt Nam với khu vực. Chủ trương đối ngoại của Đảng được đề ra qua các Đại hội VI, VII và các Hội nghị Trung ương khoá VI, VII đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và các nước ASEAN, chủ trương đó được các nước Đông Nam á và quốc tế đánh giá cao, đã thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN. Tuy nhiên, trong một thời gian dài từ năm 1979 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN chuyển sang giai đoạn đối đầu do xuất hiện vấn đề Campuchia. Về phía Việt Nam đã chủ động đưa ra nhiều đề nghị giải quyết vấn đề Campuchia và về hoà bình hợp tác ở Đông Nam á nhưng đều không được ASEAN chấp nhận. ASEAN cho rằng sự có mặt của Việt Nam ở Campuchia là nguyên nhân chủ yếu gây mất ổn định khu vực, phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn đề hoà bình và hợp tác ở khu vực. Song, trước tinh thần đường lối đối ngoại đổi mới mà Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra, trước dấu hiệu các nước lớn (Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc) đối thoại với nhau nhằm giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam đã sớm đi vào giải quyết vấn đề Campuchia. Tại Hội nghị AMM, tháng 2/1987, các nước ASEAN đã đồng ý cử Inđônêxia làm đại diện đối thoại với các nước Đông Dương. Tháng 7/1987 diễn ra cuộc
  • 17. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 đối thoại đầu tiên giữa Việt Nam và Inđônêxia tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên đã ra thông cáo chung Việt Nam - Inđônêxia đánh dấu quá trình thương lượng giữa hai nhóm nước nhằm giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia, mở đường cho các Hội nghị không chính thức chung (Joint informal meeting) về vấn đề Campuchia, JIM 1 (7/1988), JIM 2 (2/1989). Tại Hội nghị JIM 2, Việt Nam và Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (Hiệp ước Bali 1976) của ASEAN. Hội nghị quốc tế về Campuchia - IMC (2/1990) tại Giacácta thảo luận một cách cởi mở về một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ ba họp tại Manila (Philippin). Tổng thống Philippin tuyên bố Philippin không coi Việt Nam là mối đe doạ đối với Philippin. Tiếp đó, tháng 2/1989, Bộ trưởng ngoại giao Philippin tuyên bố không chống việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Còn Thủ tướng Thái lan Chatichai, đã đưa ra chủ trương “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường” từ năm 1988. Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước ASEAN, tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo Châu á - Thái Bình Dương ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam á. Việt Nam đã chủ động rút quân khỏi Campuchia trước khi giải pháp cho vấn đề Campuchia được đưa ra, quyết định tham gia Hiệp ước Bali, tỏ thái độ sẵn sàng trở thành quan sát viên của ASEAN. Ngày 22/7/1992, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN tại Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 25 ở Manila (Philippin). Từ đây, Việt Nam tham gia từng bước vào một số cơ chế và chương trình hợp tác của ASEAN với tư cách quan sát viên. Tiếp đó, trong chuyến đi thăm chính thức Singapore, Tổng Bí thư Đỗ Mười trong bài phát biểu tại buổi chiêu đãi tiếp tục khẳng định: “Chúng tôi coi trọng việc mở rộng quan hệ với các nước láng giềng… rất coi trọng sự hợp tác nhiều mặt với từng nước
  • 18. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 ASEAN và tổ chức ASEAN nói chung, sẵn sàng gia nhập tổ chức ASEAN vào thời gian thích hợp” [125, tr.132]. Trong chuyến đi thăm chính thức Vương quốc Thái Lan tháng 10/1993 (Thái Lan đang giữ trọng trách là Chủ tịch Uỷ ban Thường trực ASEAN), Tổng Bí thư Đỗ Mười tiếp tục khẳng định: “Việt Nam chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các nước Đông Nam á với tư cách là một tổ chức khu vực; sẵn sàng gia nhập ASEAN vào thời gian thích hợp” [133, tr.147]. Có thể nói, thời gian từ 1992 đến 1994, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước ASEAN được đẩy mạnh và tăng cường bằng các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo nước ta tới các nước ASEAN và ngược lại. Tháng 9/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký quyết định thành lập Vụ ASEAN (Bộ Ngoại giao) để phối hợp hoạt động giữa Việt Nam với ASEAN. Như vậy, với những phát triển nhanh chóng và thuận lợi trong quan hệ Việt Nam - ASEAN, Việt Nam đã chủ động, tích cực chuẩn bị để gia nhập ASEAN. Ngày 17/10/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã gửi thư cho Ngoại trưởng Bruney, Chủ tịch đương nhiệm Uỷ ban Thường trực ASEAN (ASC) chính thức đặt vấn đề Việt Nam xin gia nhập ASEAN. Tháng 2/1995 các nước ASEAN nhất trí sẽ tổ chức kết nạp Việt Nam vào ASEAN trước phiên họp của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 28 tại Bruney. Ngày 28/7/1995 tại Bruney, lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN được tổ chức. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN, trở thành thành viên chính thức của tổ chức này có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết, sự kiện này chấm dứt một thời gian dài khu vực này bị chia thành hai trận tuyến đối địch nhau. Mặt khác, việc gia nhập ASEAN góp phần quan trọng vào việc củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác khu vực, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế và bảo vệ đất nước, cải thiện một cách cơ bản và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN. Là thành viên ASEAN, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc đấu tranh với các nước lớn về nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến lợi ích của ta như vấn đề Biển Đông, vấn đề nhân quyền. Gia nhập ASEAN góp phần chuẩn bị và tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia hội nhập khu vực và quốc tế, tích luỹ thêm kinh nghiệm, chuẩn bị cho việc tham
  • 19. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 gia có hiệu quả các cơ chế hợp tác rộng lớn hơn. Với tư cách là thành viên của ASEAN, chúng ta sẽ có nhiều thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức như APEC, WTO. Đồng thời Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để học tập, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại với các nước trong khu vực, cán bộ của Việt Nam có nhiều cơ hội để gặp gỡ, giao lưu với các đồng nghiệp của mình trong khu vực, từng bước làm quen với cơ chế hợp tác đa phương. Tham gia ASEAN giúp Việt Nam điều chỉnh dần các thủ tục hành chính, phong cách làm việc theo hướng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế và khu vực. Phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm tại lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN đã nêu rõ: Đây là sự kiện quan trọng có ý nghĩa lịch sử trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN, một mốc mới đánh dấu sự thay đổi cục diện ở Đông Nam á sau 50 năm kể từ khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc. Đây cũng là một nhân tố mới góp phần đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế - thương mại trong khu vực vì sự phồn vinh của mỗi nước và của cả Đông Nam á. Sự kiện này đồng thời là bằng chứng hùng hồn nói về xu hướng khu vực hoá đang phát triển mạnh mẽ cùng với xu thế quốc tế hoá ngày càng gia tăng trong một thế giới tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét [21, tr. 415 - 416]. 1.2. Chủ trương của Đảng từng bước đưa Việt Nam tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN (1995-2000) 1.2.1. Đường lối đối ngoại của Đảng nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam - ASEAN Trong những năm 1995-2000, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến nhanh chóng và phức tạp. Mỹ vẫn tiếp tục đóng vai trò siêu cường duy nhất, chiếm ưu thế vượt trội. Do vậy, Mỹ đẩy mạnh chính sách “can dự linh hoạt” đồng thời “kiềm chế” đối với Nga và Trung Quốc. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Mỹ đẩy mạnh thực hiện chính sách “dính líu tích cực” thông qua quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tác động gây phân hoá nội bộ thực hiện chuyển hoá từ bên trong. Quan hệ giữa các nước lớn thay đổi theo hướng Nga, Trung Quốc, ấn Độ xích lại gần nhau. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những vấn đề an ninh phi
  • 20. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 truyền thống cũng tác động đến an ninh các nước vừa và nhỏ. Đó là “chủ nghĩa can thiệp nhân đạo”, do Mỹ và phương Tây thúc đẩy. Những xung đột về sắc tộc và tôn giáo vẫn diễn ra ở các khu vực. Xu hướng chạy đua vũ trang gia tăng. Nga, Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Triều Tiên… liên tiếp tiến hành các vụ thử tên lửa; Mỹ gấp rút triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chiến lược (NMD) và kế hoạch phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD), không phê chuẩn Hiệp định Cấm thử hạt nhân (CTBT). Tình hình trên đã tạo nguy cơ đe doạ an ninh nhiều khu vực. ở Đông Nam á, năm 1997 diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu ở Thái Lan. Ngày 02/7/1997 khi các nhà quản lý tiền tệ của Thái Lan tuyên bố bãi bỏ việc gắn giá trị của đồng Bạt vào đồng Đôla Mỹ. Chỉ sau 1 ngày, đồng Bạt đã mất giá 20%. Vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tiền tệ đã nhanh chóng bao trùm toàn bộ nền kinh tế Thái Lan và lan sang các nước trong và ngoài khu vực như Malaysia, Indonesia, Philippin và Hàn Quốc. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã để lại cho một số nước ASEAN những hậu quả nghiêm trọng như: nợ nước ngoài của các nước ASEAN 6 tăng quá lớn do đồng tiền bị phá giá, không có khả năng thanh toán các món nợ đến kỳ thanh toán. Inđônêxia nợ nước ngoài 140 tỷ USD tương đương với 88,7% GDP, số tiền nợ của Thái Lan là 90 tỷ USD bằng 97,1% GDP của cả nước; tiêu dùng và đầu tư tư nhân giảm mạnh; xuất khẩu vẫn chưa phục hồi do các nước không đủ sức tài trợ cho nhập khẩu; tốc độ tăng trưởng của các nước giảm nghiêm trọng, đặc biệt là ở Thái Lan (- 5%), Inđônêxia(- 1,5%); tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, đặc biệt là Inđônêxia (21%), Thái Lan (6%) [128, tr.19 - 22]. Không chỉ chịu tác động mạnh mẽ trên phương diện kinh tế, xã hội, một số nước ASEAN còn chịu tác động mạnh mẽ trên phương diện chính trị: ở Inđônêxia, phong trào đấu tranh đòi độc lập của Đông Timo, phong trào Aceh trỗi dậy. Năm 1999, Tổng thống Habibi phải tiến hành cuộc trưng cầu dân ý về nền độc lập của Đông Timo. Kết quả là 78,5% phiếu ủng hộ Đông Timo tách khỏi Inđônêxia. ở Philippin, các lực lượng hồi giáo ly khai do mặt trận giải phóng dân tộc Môrô lãnh đạo đã tích cực hoạt động trở lại. Do bị khủng hoảng, ASEAN bị suy yếu, các nước không hỗ trợ được cho nhau khắc phục khủng hoảng, nội bộ xuất hiện những mâu thuẫn mới. Một số nước đòi thay đổi các nguyên tắc đồng thuận và không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước thành viên.
  • 21. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Một số nước ASEAN phụ thuộc nhiều hơn vào Mỹ và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cả về chính sách phát triển vĩ mô cũng như về đường lối chính trị. Nội bộ một số nước như Inđônêxia, Malaysia mất ổn định. Quan hệ giữa các nước ASEAN cũng xuất hiện một số vấn đề phức tạp như vai trò của Inđônêxia giảm sút; Thái Lan muốn vươn lên nắm vị trí hàng đầu trong ASEAN, phối hợp với một số nước khác (Philippin và Singapore muốn thay đổi nguyên tắc cơ bản của ASEAN là đồng thuận và không can thiệp); xuất hiện sự khác biệt nhóm ASEAN lục địa với nhóm ASEAN hải đảo, ASEAN Phật giáo với ASEAN Hồi giáo. ASEAN đã hoàn thành ý tưởng ASEAN - 10, cùng phấn đấu cho hoà bình, ổn định ở khu vực, giữ vững bản sắc dân tộc và sự đoàn kết nhất trí, tinh thần tự cường khu vực. Song, các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế xã hội không đồng đều, các nước cùng có nhu cầu hợp tác, liên kết kinh tế, song cạnh tranh cũng rất quyết liệt đang đặt ASEAN trước những thách thức mới. Môi trường an ninh khu vực Đông Nam á đang diễn biễn hết sức phức tạp vẫn chứa đựng những nhân tố tiềm ẩn có thể gây bùng nổ. Trong quan hệ quốc tế, đã và đang nổi lên những xu thế chủ yếu sau đây: Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng tiến bộ khác trên thế giới kiên trì chống lại các thế lực thù địch và phản động, kiên trì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu cho dân sinh, dân chủ, vì một xã hội mới tốt đẹp, một cuộc sống hoà bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
  • 22. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. ở trong nước công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thành tựu to lớn. GDP tăng bình quân hàng năm 7%, mỗi năm hơn 1,2 triệu lao động có việc làm mới, giảm đựơc trên 40 vạn hộ đói nghèo, khoa học công nghệ, văn hoá thông tin, y tế, thể thao có bước phát triển, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ, đời sống nhân dân được cải thiện một bước đáng kể, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng… Những thành tựu đạt được sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam, nhất là về thương mại, đầu tư nước ngoài. Nhịp độ tăng trưởng GDP liên tục giảm từ 8,8% năm 1996 còn 4,7% năm 2000 do lĩnh vực xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài đều không đạt chỉ tiêu, điều đó buộc chúng ta phải chú ý nhiều hơn đến việc kích cầu nội địa để bù đắp cho sự sụt giảm về kinh tế đối ngoại. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam. Bên cạnh thuận lợi đó, Việt Nam còn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách, bao trùm lên tất cả là “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt” [46, tr. 79]. Ngoài ra, Việt Nam còn phải đối phó với những khó khăn thách thức khác như: Âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch; Tình hình khu vực châu á - Thái Bình Dương và biển Đông còn diễn biến phức tạp; Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, và tệ quan liêu tham nhũng. Trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, Đại hội VIII Đảng ta đã đề ra: Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội [46, tr.120]. Về đường lối đối ngoại, Đại hội VIII khẳng định:
  • 23. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng [46, tr.120 - 121]. Trên cơ sở đó, Đại hội cũng đề ra hướng đối ngoại cụ thể trong quan hệ với ASEAN “ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN”[46, tr.121]. Để đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 01/NQ- TW ngày 18/11/1996 về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000. Nghị quyết đã đánh giá tình hình kinh tế đối ngoại, những kết quả đạt được, những thiếu sót, Nghị quyết nêu rõ: “Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội” [49, tr. 245]. Song “hiệu quả kinh tế đối ngoại chưa cao. Việc phát triển kinh tế chưa hướng mạnh vào xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu còn thấp… cơ chế nhập khẩu chưa hợp lý. Nhập siêu quá lớn…” [49, tr. 246]. Từ đó, Nghị quyết đưa ra nhiệm vụ kinh tế đối ngoại: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, nhằm góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 1996 - 2000 và chuẩn bị cho sự phát triển vào đầu thế kỷ XXI theo các nguyên tắc độc lập tự chủ, tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, kết hợp chặt chẽ kinh tế đối ngoại với chính trị đối ngoại, quốc phòng, an ninh, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. ...Đa phương hoá, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại nhưng có trọng tâm, trọng điểm, khai thác lợi thế so sánh của ta và tận dụng xu thế phát triển của thế giới và khu vực… [49, tr. 248 - 249].
  • 24. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Nghị quyết 01/NQ-TW cũng chỉ ra những giải pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu, trong đó về vấn đề thị trường và đối tác cần chú trọng Hiệp hội ASEAN và các nước láng giềng. Để thúc đẩy quan hệ hợp tác với ASEAN, Chính phủ ra các Nghị định số NĐ 91/CP ngày 18/12/1995; NĐ 82/CP ngày 13/12/1996; NĐ15/ CP ngày 12 / 3/1998; NĐ 14/ CP ngày 23/3/1999; NĐ 09 /CP ngày 21/ 3/2000 ban hành danh mục hàng hoá của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN. Cuối năm 1999, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, trong bối cảnh vừa có những thuận lợi và thời cơ lớn, vừa đứng trước những khó khăn và thách thức. ở trong nước “qua 2 năm thực hiện kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển và đạt tăng trưởng khá (GDP tăng 9%)… Đời sống số đông nhân dân được cải thiện. ổn định chính trị được giữ vững. Quốc phòng an ninh được đảm bảo. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế quốc tế của nước ta được nâng cao” [48, tr. 48 - 49]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII) cũng chỉ rõ những mặt còn yếu kém đó là “sự phát triển của nền kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, còn nhiều yếu tố chưa bảo đảm tăng trưởng cao và lâu bền…” [48, tr. 49]. Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ, Nghị quyết Hội nghị cũng chỉ rõ: “Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thế giới… Có kế hoạch cụ thể chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA” [48, tr. 60]. Hội nghị đề ra nhiệm vụ “Xây dựng lộ trình giảm dần thuế nhập khẩu theo Hiệp định ưu đãi thuế quan (CEPT) áp dụng trong các nước ASEAN và các cam kết quốc tế khác” [48, tr.76 - 77]. Với những chủ trương của Đảng về quan hệ đối ngoại nói chung, quan hệ Việt Nam - ASEAN nói riêng thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng trong những năm 1995 - 2000 đã thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - ASEAN, định hướng cho Việt Nam từng bước tham gia vào các lĩnh vực hợp tác của ASEAN. 1.2.2. Việt Nam tham gia các lĩnh vực hợp tác của ASEAN - Hợp tác chính trị - an ninh:
  • 25. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Đối với mỗi quốc gia, sự ổn định về chính trị - an ninh luôn có vị trí quyết định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng và phức tạp, ASEAN càng đẩy mạnh hợp tác chính trị - an ninh, đây luôn là lĩnh vực hợp tác quan trọng và nhạy cảm của ASEAN. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ I, năm 1976 tại Bali (Indonesia) từ 23 đến 24/2/1976, các vị đứng đầu Chính phủ ASEAN đã ký hai văn kiện quan trọng là Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam á (TAC). Văn kiện này chứa đựng các nguyên tắc cơ bản là: Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc của tất cả các dân tộc; Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện; không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực, hợp tác với nhau một cách có hiệu quả. Tiếp đó, trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi to lớn và phức tạp, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV được tiến hành ở Singapore từ 27 đến 28/11/1992 đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, trong đó có Tuyên bố Singapore năm 1992 khẳng định quyết tâm của ASEAN đưa sự hợp tác chính trị, kinh tế lên tầm cao hơn và mở rộng hợp tác sang lĩnh vực an ninh. Hội nghị nêu rõ: ASEAN sẽ tìm kiếm các hình thức cho các nước thành viên tham gia vào lĩnh vực hợp tác mới về các vấn đề an ninh. Đây là lần đầu tiên hợp tác an ninh - chính trị được nêu ra. Để đảm bảo môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển trong bối cảnh mới ở khu vực và thế giới, tháng 7/1994 các nước ASEAN quyết định thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) với sự tham gia của 18 nước trong và ngoài khu vực để bàn về vấn đề an ninh khu vực (gồm 6 nước ASEAN, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Canada, Liên minh Châu Âu, Ôxtrâylia, Niudilân, Việt Nam, Lào, Hàn Quốc, Papua Niughinê). ARF là diễn đàn để đối thoại và hợp tác giữa các thành viên về các vấn đề chính trị - an ninh khu vực; ARF tiến triển qua 3 giai đoạn theo trình tự: từ xây dựng lòng tin đến ngoại giao phòng ngừa, cuối cùng là giải quyết xung đột. Hoạt động của ARF theo nguyên tắc tiệm tiến, mọi quyết định phải trên cơ sở tham khảo ý kiến và đồng thuận của tất cả các thành viên; thực hiện trên cơ sở tự nguyện; các hoạt động của ARF về cơ bản dựa trên các tập quán, phương thức làm việc của ASEAN.
  • 26. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Việc thành lập ARF là thành công lớn của ASEAN, do tổ chức này không giống các tổ chức an ninh quân sự khác. ARF được thành lập không phải nhằm đối phó với bất cứ mối đe doạ hay khủng hoảng nào mà mục đích chủ yếu của nó là phòng ngừa và ngăn chặn xung đột vũ trang. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ V diễn ra tại Băngkốc (Thái Lan) tháng 12/1995, các nhà lãnh đạo của 10 nước Đông Nam á đã ký Hiệp ước về một khu vực Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Từ ngày 27/3/1997 Hiệp ước chính thức có hiệu lực sau khi 7 nước ký kết và phê chuẩn. Mục đích của Hiệp ước SEANWFZ là tiến tới xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình, ổn định, hoàn toàn không có vũ khí hạt nhân. Hiệp ước góp phần vào xu thế phi hạt nhân trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, ASEAN còn đối thoại về các vấn đề chính trị - an ninh khu vực và thế giới với tất cả các nước thông qua diễn đàn hội nghị sau Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN hàng năm (AMM, PMC), cơ chế đối thoại cấp Thứ trưởng Ngoại giao (SOM) giữa ASEAN với Mỹ, Trung Quốc, Nga, EU, Nhật, ấn Độ; các cuộc họp cấp cao không chính thức giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc (ASEAN +3) và với riêng từng nước này (ASEAN + 1). Trong nội bộ ASEAN, hình thành cuộc họp đặc biệt các quan chức cao cấp (Special SOM) với sự tham gia của các quan chức ngoại giao và quốc phòng cao cấp của các nước thành viên. Các cuộc họp SOM đặc biệt này được tổ chức hàng năm tập trung thảo luận các vấn đề chính trị - an ninh, đồng thời chuẩn bị lập trường chung của ASEAN tại cuộc họp các quan chức cao cấp của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF - SOM). Ngoài ra, hợp tác chính trị - an ninh ASEAN còn được tiến hành giữa các viện nghiên cứu chiến lược của các nước ASEAN (ASEAN - ISIS). Gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành thành viên thứ bảy trong gia đình ASEAN đã làm cho hợp tác ASEAN về chính trị - an ninh có nhiều chuyển biến quan trọng. Trước khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tháng 7/1992 tại AMM 25 ở Manila (Philippin), Việt Nam đã tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC hoặc Hiệp ước Bali). Hiệp ước Bali được coi là “Bộ luật ứng xử” giữa các nước Đông Nam á với nhau. ASEAN mong muốn thúc đẩy Hiệp ước Bali trở thành “Bộ luật ứng xử” cho cả quan hệ giữa các nước Đông Nam á với các nước ngoài khu vực. Vì vậy, các nước
  • 27. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 ASEAN đã soạn thảo Nghị định thư thứ 2 cho phép các nước ngoài ASEAN tham gia Hiệp ước Bali. Hiện nay, Việt Nam đang cùng các nước ASEAN vận động các nước ngoài khu vực tham gia. Trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các cơ chế hợp tác chính trị - an ninh và các hoạt động hợp tác của ASEAN, Việt Nam đã tham gia các cơ chế về chính trị như các Hội nghị cấp cao chính thức và không chính thức của ASEAN, các Hội nghị Ngoại trưởng và Bộ trưởng kinh tế ASEAN, các cuộc họp quan chức cao cấp (cấp Thứ trưởng - SOM và SEOM). Về lĩnh vực an ninh, Việt Nam là một trong những thành viên sáng lập Diễn đàn khu vực ARF. Việt Nam tham gia hầu hết các cơ chế đối thoại trong ASEAN và giữa ASEAN với bên ngoài như ASEM, PMC, ASEAN+3, ASEAN +1. Khi các nước ASEAN khác lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, mặc dù có chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, nhưng Việt Nam vẫn giữ được tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ổn định, từng bước nâng cao vai trò của mình trong ASEAN bằng việc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN VI (16 đến 17/12/1998). Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan trọng như Tuyên bố Hà Nội, Chương trình hành động Hà Nội, Tuyên bố về các biện pháp mạnh mẽ (để cải thiện môi trường đầu tư ASEAN), và ký 4 Hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể. Hội nghị còn quyết định kết nạp Campuchia làm thành viên thứ 10 của ASEAN và giao cho các Ngoại trưởng ASEAN tiến hành lễ kết nạp đặc biệt tại Hà Nội. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tiếp nhận vai trò Chủ tịch Uỷ ban Thường trực ASEAN (ASC) và Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) nhiệm kỳ từ 7/2000 đến 7/2001. Sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt nam cùng các nước ASEAN soạn thảo văn kiện Hiệp ước Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Hiệp ước SEANWFZ được ký kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Băngkốc (Thái Lan) tháng 12/1995, có phần đóng góp của Việt Nam trên con đường củng cố hoà bình, an ninh khu vực. Việc tranh thủ 5 cường quốc có vũ khí hạt nhân là Mỹ, Trung Quốc, Nga, Anh và Pháp tham gia Nghị định thư kèm theo của Hiệp ước sẽ làm cho Hiệp ước trở nên có ý nghĩa hơn. Vì vậy, trong nhiệm kỳ là Chủ tịch ASC và ARF, Việt Nam đã chủ động nêu sáng kiến và tổ chức thành công cuộc họp tham khảo ý kiến giữa các
  • 28. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 nước ASEAN và 5 nước có vũ khí hạt nhân về một số nội dung trong Nghị định thư để vận động các nước này sớm tham gia Nghị định thư của ASEANWFZ. Ngoài các cuộc họp ARF cấp Bộ trưởng tiến hành ngay sau Hội nghị AMM hàng năm, Việt Nam còn tham gia vào một loạt các cuộc họp, hội thảo lớn về an ninh quốc tế và khu vực trong khuôn khổ kênh 1 (chính thức) và kênh 2 (không chính thức) của ARF. Việt Nam cũng tham gia các nhóm làm việc của ARF như nhóm xây dựng lòng tin, nhóm công tác nhằm giảm nhẹ thiên tai. Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia rất nhiều hội thảo quốc tế trong khuôn khổ ARF, hội thảo về an ninh khu vực. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Tư vấn ASEAN - Nhật bản về thực hiện Chương trình hành động Hà Nôị và Tầm nhìn 2020. Từ năm 1998 đến 2000, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC trên cơ sở giữ vững những nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội. Nội dung chính của quy chế là Hội đồng chỉ tiếp nhận giải quyết những tranh chấp có thể ảnh hưởng đến hoà bình và ổn định khu vực, được các bên liên quan trực tiếp đồng ý, chỉ đóng vai trò trung gian hoà giải giúp các bên tranh chấp giải quyết (không có biện pháp cưỡng chế), mọi quyết định dựa trên nguyên tắc nhất trí. Hội đồng tối cao của Hiệp ước TAC được coi là cơ chế đầu tiên của ASEAN để giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế khu vực, tránh để bên ngoài can thiệp. Việt Nam đã tham gia soạn thảo quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao, giúp cho việc sớm thành lập và đưa Hội đồng tối cao TAC đi vào hoạt động. Trong hoạt động của Hội đồng tối cao, Việt Nam luôn chú ý tới việc đảm bảo tôn trọng và duy trì các nguyên tắc cơ bản và truyền thống của ASEAN, nhất là nguyên tắc “đồng thuận” và “không can thiệp vào công việc nội bộ”, duy trì được vai trò chủ đạo của ASEAN, tránh biến hội đồng thành một toà án tiểu khu vực, với vai trò của một vài nước khống chế các quyết định của hội đồng. Vì vậy, thành phần của hội đồng bao gồm tất cả các bên để đảm bảo lợi ích chính trị, an ninh của mọi thành viên. Việt Nam đã tham gia đầy đủ vào các quan hệ đối thoại của ASEAN. Khi Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, ASEAN đã thiết lập quan hệ đối thoại với 8 nước (úc, Canađa, EU, ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, NiuDilân, Mỹ) và tổ chức quốc tế UNDP. Việt Nam đã được giao làm nước điều phối quan hệ của ASEAN với Niu Dilân.
  • 29. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Năm 1996, ASEAN thiết lập quan hệ đối thoại với Trung Quốc và Nga, Việt Nam đã được giao thêm làm nước điều phối quan hệ của ASEAN với Nga. Từ năm 1997 đến 2000, Việt Nam làm nước điều phối quan hệ đối thoại ASEAN - Nhật Bản. Việc ASEAN quyết định nâng quan hệ với ấn Độ, Trung Quốc và Nga lên mức đối thoại đầy đủ, một phần nhờ Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước này trên cơ sở cân bằng. Như vậy, ASEAN đã trở thành một tổ chức khu vực duy nhất có quan hệ đối tác với tất cả các nước và các trung tâm lớn trên thế giới gồm: Mỹ, Nhật Bản, EU, Canada, Ôxtrâylia, Niudilân, Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc, ấn Độ. Điều này có lợi cho việc giữ gìn hoà bình, ổn định trong khu vực và hơn cả là uy tín của ASEAN được nâng cao. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo của kênh 2, đây là kênh đối thoại, tham khảo ý kiến, tư vấn, nghiên cứu, xây dựng lòng tin, thông tin liên lạc…nhằm nâng cao ý thức hợp tác, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, xây dựng lợi ích cộng đồng, do vậy mà có thể kiềm chế, dẫn tới loại trừ giải pháp dùng vũ lực giải quyết xung đột và giảm thiểu các nguy cơ gây xung đột. Việt Nam tham gia ngày càng tích cực và chủ động hơn vào kênh này. - Hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam - ASEAN: Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, cục diện thế giới có những thay đổi to lớn. Quan hệ quốc tế xuất hiện những xu hướng mới, trong đó xu hướng ưu tiên phát triển kinh tế lôi cuốn cả cộng đồng quốc tế. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Không nằm ngoài vòng lôi cuốn đó, các nước ASEAN cũng chuyển từ hợp tác chính trị an ninh là chủ yếu sang giai đoạn mới của quá trình hợp tác là lấy hợp tác kinh tế làm trọng tâm. Hội nghị cấp cao ASEAN IV tổ chức ở Singapore 01/1992 đã thông qua Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN. Hiệp định này nêu ra 3 nguyên tắc là hướng ra bên ngoài, cùng có lợi và linh hoạt đối với sự tham gia vào các dự án, chương trình của các nước thành viên. Hiệp định cũng xác định 5 lĩnh vực hợp tác cụ thể là thương mại - công nghiệp - năng lượng - khoáng sản; nông - lâm - ngư nghiệp; tài chính - ngân hàng; giao thông vận tải - bưu chính viễn thông và du lịch. Hội nghị đã thông qua Hiệp định về
  • 30. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), quy định cụ thể các biện pháp và các giai đoạn giảm thuế nhập khẩu tiến tới thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). AFTA ra đời trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hoá thương mại rộng lớn hơn ở khu vực châu á - Thái Bình Dương và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng mới cho sự phát triển của ASEAN trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình hợp tác kinh tế của ASEAN kể từ khi thành lập. AFTA được thiết lập nhằm các mục tiêu cơ bản sau đây: Một là, tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ hàng rào thuế quan và phi quan thuế. Hai là, thu hút các nhà đầu tư các nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo dựng một khối thị trường thống nhất. AFTA sẽ tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong ASEAN, điều đó cho phép hợp lý hoá sản xuất, chuyên môn hoá trong nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và thông qua AFTA làm cho các môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với các khu vực khác. Ba là, làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hoá thương mại thế giới. Theo xu thế tự do hoá nền sản xuất toàn cầu, AFTA là nấc thang đầu tiên trong xu thế tiến tới sự hợp tác toàn diện Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các thoả thuận trong Hiệp định AFTA như là: sự thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hoá hàng hoá giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau, xoá bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thương; hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô… trong đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu. CEPT, về thực chất, đó là một thoả thuận giữa các thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0 - 5% thông qua “cơ cấu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung”, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ 01/01/1993 và hoàn thành vào 01/01/2003.
  • 31. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hoá tư bản và các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến. Chương trình CEPT/AFTA được hình thành tại Hội nghị cấp cao ASEAN IV tại Singapore năm 1992, với dự kiến thời gian hoàn thành AFTA cơ bản trong 15 năm (đến 2005, thuế quan trong nội bộ ASEAN với đa số mặt hàng thuế suất chỉ còn 0 - 5%). Hội nghị cấp cao ASEAN VI tổ chức tại Hà Nội, 12-1998 quyết định rút xuống 9 năm đối với 6 nước thành viên ban đầu, các nước này sẽ có hàng hoá thuộc danh mục giảm thuế (IL) có thuế suất 0 - 5% với các mốc như sau: 85% vào năm 2000; 90% vào năm 2001; 100% vào năm 2002. Còn đối với các nước mới gia nhập có thời hạn 10 năm (giữ nguyên như cũ) nhưng phải tối đa hoá số dòng thuế 0 - 5% ba năm trước thời điểm hoàn thành của mỗi nước (Việt Nam: 2003); Lào vào Mianma: 2005). Tại Hội nghị Cấp cao không chính thức ASEAN tại Manila 11/1999, Singapore nêu đề nghị rút ngắn thời gian đạt thuế suất 0% đối với 100% số dòng thuế trong danh mục giảm thuế (IL) vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên ban đầu và năm 2015 đối với các nước thành viên còn lại (các mặt hàng nhạy cảm được lùi tương ứng đến 2015 và 2018), đề nghị này đã được Hội nghị nhất trí và giao cho Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN triển khai. Hợp tác kinh tế của ASEAN rất phong phú, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy liên quan đến nhiều ngành, nhiều cơ quan kinh tế của Việt Nam. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng gia nhập Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN, góp phần tăng cường hợp tác kinh tế trong ASEAN Trở thành thành viên ASEAN 7/1995, ngay sau đó, 12/1995 Việt Nam đã tham gia Hội nghị cấp cao ASEAN V tổ chức tại Băngkốc (Thái Lan). Hội nghị đã quyết định rút ngắn thời gian thực hiện AFTA từ 15 năm xuống còn 10 năm, mở rộng hợp tác sang lĩnh vực mới như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, lập khu vực đầu tư ASEAN… Là một thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một nước thành viên, trong đó có việc thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT/ AFTA - nội dung quan trọng nhất về lĩnh vực hợp tác kinh tế. Như vậy, Việt Nam phải hoàn thành cơ bản chương trình CEPT/ AFTA vào 01/01/2006 (trong đó phải tối đa hoá số dòng thuế 0 - 5% vào năm 2003), Việt Nam đã
  • 32. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 tích cực thực hiện lộ trình cắt giảm thuế, công bố các danh mục hàng hoá thực hiện CEPT, công bố danh mục giảm thuế (IL) và mức giảm thuế hàng năm. Việt Nam đã thành lập cơ quan AFTA quốc gia do Bộ Tài chính chỉ đạo để làm đầu mối của Việt Nam trong việc triển khai thực hiện những vấn đề liên quan đến AFTA. Từ 01/01/1996, Việt Nam bắt đầu thực hiện chương trình CEPT/ AFTA. Cụ thể, năm 1996 Việt Nam đã công bố đưa 875 mặt hàng ; năm 1997 đưa thêm 621 mặt hàng vốn đã có thuế suất bằng 0 - 5% hoặc nhỏ hơn 20% vào thực hiện CEPT/ AFTA, đưa tổng số lên 1496 mặt hàng; năm 1998 tăng thêm 223 mặt hàng, năm 1999 công bố danh mục hàng hoá thực hiện CEPT gồm 3591 mặt hàng tăng 1872 dòng so với năm 1998; năm 2000, số dòng thuế thực hiện CEPT được công bố là 4234 dòng tăng 643 dòng so với năm 1999. Việt Nam cũng công bố lịch trình cắt giảm thuế cho toàn bộ giai đoạn 10 năm; chuyển một số nhóm mặt hàng từ danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL) sang danh mục giảm thuế (IL), từ danh mục không giảm thuế (GEL) sang danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL). Bên cạnh đó, vấn đề hải quan có ý nghĩa quyết định của tiến trình AFTA. Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi nó hỗ trợ các nước thành viên thống nhất biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của nó. Phối hợp hải quan tạo thuận lợi cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan được thống nhất, các luồng xanh ưu đãi cho hàng hoá theo CEPT của ASEAN được hình thành và thủ tục hải quan được thống nhất. Như vậy, tiến trình AFTA nhanh hay chậm, được điều chỉnh hay bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác hải quan. Trong lĩnh vực hải quan, Việt Nam cũng đã tham gia trên một loạt các vấn đề như: Điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan của các nước ASEAN; điều hoà thống nhất các định giá hải quan để tính thuế; điều hoà thống nhất các quy trình thủ tục hải quan; Tổng cục Hải quan Việt Nam đã triển khai áp dụng hành lang xanh cho các hàng hoá CEPT/ AFTA, để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải quan cho các sản phẩm của CEPT. Việt Nam đã tham gia công ước Kyodo về thủ tục hải quan, làm cơ sở đàm phán với ASEAN về điều hoà thủ tục hải quan, tổ chức thành công Hội nghị các Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN lần III (11/1995) tại Việt Nam, tham gia tích cực vào quá trình xây dựng Hiệp định Hải quan ASEAN và ký kết Hiệp định Hải quan ASEAN vào
  • 33. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 01/3/1997 trong cuộc họp của các Bộ trưởng Tài chính ASEAN tại Phukẹt (Thái Lan), mục đích của Hiệp định là đơn giản hoá và thuận lợi hoá việc định giá hải quan, danh mục thuế quan, thủ tục hải quan phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán, minh bạch và công bằng trong luật pháp và các quy định hải quan. Hoàn thành chương trình hợp chuẩn hoá danh mục thuế (AHTN); nâng cao kỹ năng phân loại thuế quan hàng hoá trước nhập cảnh; lập mạng lưới đào tạo hải quan (ACTN); về tiêu chuẩn và hợp chuẩn Việt Nam cùng ASEAN có những thoả thuận công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực mỹ phẩm, dược phẩm, điện và điện tử; về sở hữu trí tuệ tiến hành các hoạt động để thành lập hệ thống nhãn mác khu vực, hợp tác thực hiện Hiệp định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của WTO. Việt Nam cũng đã xây dựng chính sách phi thuế quan nhằm tạo thuận lợi cho thương mại, có quy định thực hiện mẫu đơn riêng cho hàng xuất nhập khẩu trong diện được hưởng CEPT/ AFTA, áp dụng danh mục hàng hoá phân loại theo hệ thống hài hoà 8 chữ số HS96…. Cùng các nước ASEAN ký Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong quá trình thực hiện chương trình CEPT/ AFTA và các hiệp định kinh tế khác của ASEAN, tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN tháng 11/1995. Việt Nam cũng đã tham gia Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN và đã cùng ASEAN soạn thảo, ký Nghị định thư sửa đổi Hiệp định tại AEM 28 (8/1996). Trong lĩnh vực hợp tác đầu tư, Việt Nam cùng các nước ASEAN ký Hiệp định khung thành lập khu vực đầu tư ASEAN (AIA) tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 30 tại Manila (7/10/1998). Sau khi ký kết, Việt Nam đã nộp lưu chiểu văn bản phê chuẩn hoặc phê duyệt để Hiệp định có hiệu lực, đã nộp danh mục tạm thời loại trừ (TEL) và danh mục nhạy cảm (SL). Ngoài ra, Việt Nam cũng cùng các nước ASEAN khác tham gia hoạt động của ASEAN như: Hội thảo về kinh nghiệm thống kê số liệu đầu tư nước ngoài (FDI), xuất bản các ấn phẩm liên quan đến đầu tư, tổ chức hội thảo về AIA cho cán bộ của các nước ASEAN mới là Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam, ký Nghị định thư về AIA, Việt Nam cũng tham gia các đoàn xúc tiến đầu tư của ASEAN đi Nhật Bản, Mỹ, EU để nhằm quảng bá, thu hút đầu tư và thực hiện chương trình xúc tiến hợp tác ASEAN - Nhật Bản, tham gia các cuộc hội thảo về đầu tư.
  • 34. Viết đề tài giá sinh viên – ZALO: 0917.193.864 - VIETKHOALUAN.COM Tải tài liệu tại kết bạn zalo : 0917.193.864 Việt Nam đã cùng ASEAN tham gia hợp tác trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô và tài chính; hợp tác dịch vụ: Việt Nam cùng các nước ASEAN ký Hiệp định khung về Hợp tác dịch vụ ASEAN (AFAS), 15/12/1995 tại Băngkốc, nhằm mục tiêu tăng cường hợp tác về dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN. Về vấn đề này, Việt Nam đã tích cực tham gia quá trình soạn thảo, ký kết Hiệp định khung và các Nghị định thư, đã cam kết sẽ triển khai trong 6 lĩnh vực dịch vụ (trừ lĩnh vực bưu chính viễn thông). Có lĩnh vực Việt Nam chưa cam kết triển khai là vì khả năng cạnh tranh còn thấp so với các thành viên khác của ASEAN. Trong lĩnh vực công nghiệp: Việt Nam đã ký với các nước ASEAN chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN mới (AICO) năm 1996, 3 ngành được đề nghị triển khai hợp tác AICO là ôtô, hoá chất và dệt. Việt Nam cũng tham gia hợp tác về lĩnh vực hợp tác xí nghiệp vừa và nhỏ. Về lĩnh vực nông - lâm nghiệp: Việt Nam và ASEAN đã thảo luận việc tăng cường an ninh lương thực ASEAN thông qua việc duy trì cơ chế Quỹ dự trữ gạo khẩn cấp ASEAN, xây dựng hệ thống thông tin và số liệu thống kê an ninh lương thực ASEAN, lập trang web về sản xuất và buôn bán lương thực của các nước ASEAN. Việt Nam đã tham gia các chương trình, dự án triển khai và áp dụng công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp như xây dựng mạng lưới ASEAN về khí hậu nông nghiệp, hệ thống cảnh báo sớm các rủi ro thiên tai cho sản xuất nông nghiệp, quản lý rừng bền vững, đánh giá rủi ro khi sử dụng các sản phẩm nông sản có biến đổi di truyền, kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh trong chăn nuôi, công nghệ sạch trong sản xuất thực phẩm, rau quả, công nghệ sinh học và thuỷ sản. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Singapo tháng 11/2000 Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định khung về Công nghệ Thông tin ASEAN. Trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, Việt nam tham gia hợp tác với các nước ASEAN về giao thông vận tải: Trong những lĩnh vực hợp tác của ASEAN, đây là lĩnh vực hợp tác được thúc đẩy khá mạnh nhằm hỗ trợ liên kết kinh tế khu vực. Từ sau Hội nghị lần thứ I các Bộ trưởng Giao thông Vận tải ASEAN (ATM) tại Bali (Inđônêxia) tháng 3/1996 các Bộ trưởng đã ký thoả thuận về hợp tác giao thông vận tải trong ASEAN, lập cơ chế họp các quan chức cao cấp về giao thông vận tải (STOM). Việt Nam