Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ VỚI CÔNG CHÚNG SINH VIÊN BÁO CHÍ - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đỗ Văn Trọng
Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên
báo chí. Nghiên cứu trường hợp trường cao
đẳng phát thanh – truyền hình Trung Ương 1
năm 2007
Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng: 60.31.01
Nghd. : PGS.TS. Mai Quỳnh Nam
2. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. KHXH & NV = Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
2. TP.HCM = Thành phố Hồ Chí Minh
3. TTXVN = Thông tấn xã Việt Nam
3. 1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài 4
2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi 10
6. Phƣơng pháp nghiên cứu 11
7. Giả thuyết nghiên cứu 13
8. Kết cấu của luận văn 13
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận 20
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về truyền thông đại chúng 20
1.1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng 23
1.1.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về truyền thông đại
chúng
26
1.1.4. Lý thuyết của Marx Weber về đối tƣợng nghiên cứu của truyền
thông đại chúng
29
1.1.5. Học thuyết của Haold Lasswell và Claude Shannon về truyền
thông đại chúng
30
1.2. Các khái niệm công cụ 35
1.2.1. Truyền thông 35
1.2.2. Truyền thông đại chúng 36
1.2.3. Hiệu quả truyền thông đại chúng 37
1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng 38
1.2.5. Công chúng sinh viên báo chí 38
1.3. Địa điểm khảo sát và một số đặc điểm của đối tƣợng nghiên cứu 39
4. 2
1.3.1. Vài nét về địa điểm nghiên cứu
1.3.2. Một số đặc điểm của đối tƣợng nghiên cứu
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
2.1. Các phương tiện thông tin đại chúng và cách thức tiếp nhận thông
tin của công chúng sinh viên báo chí.
2.1.1. Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng 43
2.1.1.1. Báo in 43
2.1.1.2. Đài phát thanh - truyền hình 45
2.1.1.3. Mạng internet 48
2.1.2. Cách thức tiếp nhận thông tin từ báo chí của công chúng Sinh viên
báo chí.
50
2.1.2.1. Thời gian và địa điểm và cách thức đọc báo 51
2.2.2.2. Thời gian và địa điểm và cách thức nghe đài phát thanh 54
2.2.2.3. Thời gian và địa điểm và cách thức xem truyền hình 57
2.1.2.4. Thời gian và địa điểm và cách thức truy cập Interner 59
2.2. Nhu cầu và mức độ tiếp nhận thông tin của công chúng sinh viên báo
chí
62
2.3. Những vấn đề được quan tâm của công chúng công sinh viên báo chí 73
2.3.1. Những nội dung thông tin đƣợc quan tâm 72
2.3.1.1. Những thông tin thời sự, chính trị 74
2.3.1.2. Những thông tin văn hoá, văn nghệ 80
2.3.2. Những thể loại tác phẩm báo chí đƣợc quan tâm 82
2.3.2.1. Tin
2.3.2.2. Phóng sự
2.3.2.3. Phỏng vấn, toạ đàm
2.3.3. Nhu cầu và mức độ trao đổi thông tin của công chúng sinh viên
báo chí
85
2.4. Nhận diện dấu hiệu đặc trưng của một số phương tiện truyền thông
5. 3
đại chúng
2.4.1. Tạp chí: Ngƣời làm báo 93
2.4.2. Báo: Nhà báo & công luận 95
2.4.3. Trang web: nghebao.com (Nghề báo – Thƣ ký của thời đại ) 97
2.5. Hiệu quả của những thông tin tiếp nhận từ báo chí với việc học tập
và rèn luyện của sinh viên báo chí
100
2.5.1. Mức độ tiếp nhận thông tin từ báo chí liên quan đến việc học tập
và rèn luyện của sinh viên báo chí
101
2.5.2. Ý nghĩa của những thông tin từ báo chí đối với việc học tập và rèn
luyện của sinh viên báo chí
102
PHẦN KẾT LUẬN
1. Một số đánh giá 108
2. Các khuyến nghị 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
6. 4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lí do chọn đề tài
Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ truyền thông đại chúng đƣợc sử dụng
trong “Lời nói đầu của Hiến chƣơng Liên hiệp quốc về văn hoá, khoa học và
giáo dục”. Hiện nay, thuật ngữ này đã phổ biến rất rộng rãi các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng, tác động hàng ngày, hàng giờ đến sự phát triển của từng
lĩnh vực của xã hội.[3]
Hệ thống các phƣơng tiện truyền thông đại chúng mà trung tâm là hệ
thống báo chí hiện nay phát triển rất mạnh mẽ, đã trở thành một thành tố rất
quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công cụ trong hoạt
động tổ chức, quản lí và nâng cao dân trí trong xã hội.
Trong hoạt động của mình, hệ thống truyền thông đại chúng đã thể hiện
vai trò cũng nhƣ khả năng tạo sự tƣơng tác xã hội, hƣớng dẫn, định hƣớng hành
vi hoạt động trong công chúng. Chính vì vậy, truyền thông đại chúng trở thành
một thiết chế xã hội, nó đƣợc coi là tác nhân cơ bản làm hình thành các liên kết
xã hội.
Hiện nay, truyền thông đại chúng có đƣợc sự hỗ trợ rất lớn của các
phƣơng tiện Khoa học kĩ thuật. Công nghệ phát triển ở trình độ cao đã đƣa hệ
thống này trở thành một trong những hệ thống quan trọng nhất của xã hội hiện
đại. Thông tin của từng quốc gia trở thành đối tƣợng của báo chí mọi quốc gia,
không gian thông tin của nhân loại đang đƣợc thu nhỏ lại. Sự quốc tế hoá truyền
thông đại chúng đang đặt cả thế giới vào tình huống mà trong đó các hàng rào
thông tin “cứng” bị phá vỡ. Điều này là cơ sở thực tiễn cũng nhƣ là điều kiện
thuận lợi thúc đẩy các nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng.
Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới theo xu
hƣớng hội nhập và phát triển . Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nƣớc
nhiều lĩnh vực xã hội đã có sự phát triển rõ rệt. Hoạt động truyền thông đại
chúng đã phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp tích cực
vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nƣớc, thực hiện mục tiêu dân
7. 5
giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đƣờng lối đổi
mới toàn diện, nổi bật lên là vấn đề dân chủ hoá các mặt của đời sống xã hội;
Thực tế này đã tạo nên những diến biến mới mẻ trong hoạt động thông tin báo
chí ở nƣớc ta.
Báo chí hiện nay đã cơ bản hạn chế đƣợc hình thức thông tin một chiều
đơn điệu và ngày càng thể hiện đƣợc vai trò là cầu nối giữa Đảng và Dân.
Thông tin hai chiều đƣợc thực hiện trên báo chí : một mặt tuyên truyền, giải
thích đƣờng lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc đến với công
chúng mặt khác phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng
trong quá trình thực hiện đƣờng lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc.
Nói đến báo chí là nói đến các loại hình của nó nhƣ : Báo in, báo ảnh,
phát thanh, truyền hình, internet …Đó là các bộ phận, các kênh thông tin cơ bản
nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hƣớng vận động của
thông tin đại chúng.
Trong thực tế, mỗi loại hình báo chí có những thế mạnh và những hạn chế
riêng , chẳng hạn nhƣ: báo in có khả năng lƣu trữ lâu, đồng thời đi sâu phân tích
chi tiết các sự kiện hiện tƣợng, công chúng của loại hình báo chí này có thể tiếp
nhận thông tin ở mọi nơi, mọi lúc mọi thời điểm khác nhau. Hạn chế cơ bản của
loại hình báo chí này là khó có khả năng phát hành rộng rãi tới công chúng ở
vùng sâu, vùng xa…Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là nhanh, đồng thời,
rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhận thông tin đồng thời với
thời điểm diễn ra sự kiện. Nhƣng hạn chế của nó là tính thoảng qua, khả năng
lƣu trữ kém …đòi hỏi công chúng tiếp nhận thông tin từ loại hình báo chí này
phải hết sức tập trung, quá trình thông tin bị phụ thuộc vào làn sóng, thời tiết …
Ở nƣớc ta các loại hình thông tin đại chúng đồng thời tồn tại và phát triển,
chúng không những không loại trừ nhau, mà ngƣợc lại còn bổ khuyết, hỗ trợ
cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất
nƣớc.
8. 6
Hiện nay, cả nƣớc ta có khoảng 14.000 nhà báo chuyên nghiệp đang hoạt
động. Ngoài ra còn có hàng ngàn cộng tác viên, thông tin viên và một đội ngũ
đông đảo đang hoạt động trong lĩnh vực thông tin xã hội. Đó là cán bộ ở các
phòng thông tin văn hoá, các đài truyền thanh cấp huyện, xã…
Cả nƣớc hiện có 553 cơ quan báo in, trong đó có 157 báo 396 tạp chí và
khoảng hơn 1000 bản tin. Hàng năm, xuất bản hơn 550 triệu bản báo. 64 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng 470 trong số 512 huyện, 7000 xã trong tổng số
hơn 10.359 xã đƣợc đọc báo trong ngày. Tính bình quân mỗi năm 1 ngƣời là 7,5
bản báo. 70% lƣợng báo chí tập trung ở thị xã, thành phố.
Có 1 đài truyền hình, 1 đài phát thanh quốc gia và 4 đài truyền hình khu
vực ở Huế, Đà Nẵng , Cần thơ, Thành phố Hồ Chí Minh. Một đài truyền hình kĩ
thuật số VTC của bộ bƣu chính viễn thông. Ngoài ra 64 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ƣơng đều có đài Phát thanh - Truyền hình. Riêng đối với loại hình
phát thanh, ngoài đài phát thanh quốc gia Tiếng nói Việt Nam và các đài phát
thanh cấp tỉnh còn có hệ thống đài truyền thanh của gần 520 huyện và hơn
10.000 xã. Đây là loại hình báo chí có tính ổn định và phân bố đồng đều nhất
trong cả nƣớc.
Cả sóng phát thanh và truyền hình quốc gia đều đƣợc truyền qua vệ tinh.
Theo con số thống kê chƣa đầy đủ cả nƣớc hiện có hơn 10 triệu máy thu hình,
với gần 85% số hộ gia đình xem đƣợc truyền hình. Sóng phát thanh hiện đã tới
5 châu lục và hơn 90% lãnh thổ nƣớc ta.
Báo chí trực tuyến (qua mạng Internet) là một là một loại hình báo chí
mới ra đời so với báo chí truyền thống; Nhƣng đƣợc sự hỗ trợ mạnh mẽ của
khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại đã khẳng định đƣợc vai trò cũng nhƣ
sức mạnh vƣợt trội của mình.
Ở nƣớc ta, tờ báo trực tuyến đầu tiên chính thức ra đời năm 2000. Qua 7
năm phát triển, đến nay cả nƣớc ta đã có khoảng hơn 2.500 trang Web đang hoạt
động và hầu hết các tờ báo đều có báo trực tuyến. Theo đánh giá của PGS.TS.
Trần Đình Hoan nguyên Uỷ viên bộ chính trị, Bí thƣ Trung ƣơng Đảng thì : “
9. 7
Báo điện tử đang góp phần tích cực vào sự lớn mạnh của đất nước”( Nguồn :
Viêt Nam Nét ngày 20/05/2003).
Hệ thống các phƣơng tiện truyền thông đại chúng ở nƣớc ta hiện nay
đƣợc đặt dƣới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lí của Nhà nƣớc. Chính
vì vậy, các hoạt động xuất bản và phát hành ấn phẩm của hệ thống này đều đƣợc
dựa trên những cơ sở thống nhất nhƣ :
- Dấu hiệu về nghề nghiệp ( Giáo dục thời đại, Quân đôi nhân dân, Ngƣời
làm báo ...)
- Dấu hiệu về lứa tuổi ( Nhi đồng, Thanh niên, Tuổi trẻ, Ngƣời cao tuổi…)
- Dấu hiệu về lãnh thổ ( Hà nội mới, Sài gòn giải phóng, Hà tây, Hà
nam…)
- Dấu hiệu về xã hội (Đại đoàn kết, Lao động …)1)
- Dấu hiệu về giới ( Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Nữ sinh …)
- Dấu hiệu về nhu cầu thị hiếu ( Tạp chí Thời trang, Báo Văn Nghệ, tạp chí
Văn nghệ… )*
Tất cả các dấu hiệu trên là cơ sở để hoạt động xuất bản và phát hành đối
với tất cả các loại hình báo chí, kể cả báo chí trung ƣơng và địa phƣơng. Tất cả
các đấu hiệu trên đều rất xác thực và gần gũi với đời sống xã hội, do đó các đối
tƣợng công chúng đều có thể tiếp nhận những thông tin phù hợp từ hệ thống
truyền thông đại chúng.
Trong thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu khảo sát và đánh giá về những
ảnh hƣởng và tác động của truyền thông đại chúng đối với các tầng lớp công
chúng ở nƣớc ta là có tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
và thực tiễn.
*
Dẫn theo Mai Quỳnh Nam “Công chúng thanh niên đô thị và báo chí - nghiên cứu trường hợp
thành phố Hải Phòng năm 2002.” Mai Văn Hai – Mai Quỳnh Nam: Chương IX :Đời sống văn hoá
tinh thần và hoạt động truyền thông đại chúng.Báo cáo Xã hội năm 2000. Trịnh Duy Luân chủ biên,
Viện Xã hội học.
10. 8
Gần đây, một số tác giả cũng đã đƣa vấn đề nhận diện công chúng
truyền thông đại chúng trong đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng
những công trình xem xét dƣới góc độ Xã hội học và Báo chí theo hƣớng
nghiên cứu hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng nói chung
và đối với công chúng là sinh viên nói riêng.
Sinh viên là nhóm dân số xã hội tƣơng đối lớn trong hệ thống cơ cấu xã
hội . Nhóm sinh viên đƣợc xác định bởi những đặc điểm rõ rệt :
- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24
- Có trình độ học vấn tƣơng đối cao
- Đang học nghề, trong một tổ chức trƣờng học .
Có thể nói sinh viên là bộ phận lao động trí thức trong lực lƣợng lao động của
xã hội. Họ là nguồn nhân lực chủ yếu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nƣớc.
Lực lƣợng sinh viên sống và học tập tập trung tại các đô thị, do đó các
hoạt động giao tiếp với các phƣơng tiện thông tin đại chúng cũng diễn ra trong
môi trƣờng văn hoá, kinh tế, chính trị phát triển, vì vậy có nhiều điều kiện thuận
lợi để tiếp nhận nguồn thông tin đa dạng phong phú.
Đối với công chúng truyền thông là sinh viên, thì nhóm công chúng là
sinh viên báo chí cần đƣợc lƣu ý và quan tâm. Bởi lẽ, trƣớc hết, họ là lực lƣợng
lao động hùng hậu trong công cuộc đổi mới hiện nay. Họ là những trí thức, sẽ là
những chủ nhân của đất nƣớc trong tƣơng lai. Và đặc biệt sau khi ra trƣờng họ
sẽ trở thành những nhà báo - những ngƣời sẽ trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Chính vì vậy, sự tác động của các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng có ảnh hƣởng rất quan trọng đến quá trình học tập, cũng nhƣ
tác nghiệp của họ sau này. Nghiên cứu về nhóm công chúng sinh viên báo chí
trong mối quan hệ với hệ thống báo chí càng có ý nghĩa thiết thực trong giai
đoạn hiện nay.
11. 9
Với ý nghĩa trên, luận văn của chúng tôi chọn sinh viên của Trƣờng Cao
đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1 ( Trực thuộc đài Tiếng nói Việt Nam ) tại
Hà nam để khảo sát hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí .
2. Vài nét về lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng nằm trong hệ thống tri
thức của xã hội học, đây là một hoạt động khoa học tạo đƣợc sự quan tâm của
cả Báo chí học và Xã hội học truyền thông đại chúng.
Trong lịch sử nghiên cứu về sự tác động của truyền thông đại chúng với
xã hội, các nhà nghiên cứu đã đƣa ra nhiều quan điểm nhìn nhận khác nhau tuỳ
thuộc vào sự biến động của mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội nhất định .
Năm 1905, nhà bác học ngƣời Nga Pôpốp phát minh ra vô tuyến điện kéo
theo nó là sự ra đời của đài phát thanh – đây là một bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử
phát triển các phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Đài phát thanh ra đời với
những ƣu điểm vƣợt trội về tốc độ thông tin cũng nhƣ sự quảng đại trong việc
truyền bá nên đã đƣợc công chúng hào hứng, say sƣa tiếp nhận.
Các nhà nghiên cứu xã hội học thời kỳ này cho rằng các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng thực sự có một sức mạnh vạn năng. Tiêu biểu cho
khuynh hƣớng này là quan điểm của trƣờng phái Frankfurt, họ cho rằng với khả
năng của đài phát thanh sẽ rất dễ thuyết phục công chúng, khiến họ phải tin
tƣởng và phục tùng theo các thông điệp và mục đích của nó đƣợc truyền trên
sóng phát thanh. Nhận xét này đƣợc đƣa ra từ sự quan sát số lƣợng công chúng
bị tác động và sự ảnh hƣởng của nội dung thông điệp truyền tải, chƣa dựa trên
những nghiên cứu thực nghiệm đối với công chúng truyền thông.
Năm 1944, Paul Larsfeld cùng các cộng sự đã thông qua nghiên cứu thực
nghiệm đối với cử tri về quyết định bầu cử chỉ ra rằng, các chiến dịch vận động
tranh cử thông qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng hầu nhƣ chỉ làm
tăng thêm sự tin tƣởng vào những ý định sẵn có của cử tri, thực tế ít làm thay
đổi quyết định của họ[403, 404].
12. 10
Năm 1960, J.Klapper trong cuốn “Tác động của truyền thông đại chúng”
cho rằng “ truyền thông đại chúng chỉ là yếu tố tác động, bổ sung (dù là tác
động rất mạnh) cùng với những yếu tố trung gian khác chứ không phải là yếu tố
duy nhất dẫn đến sự thay đổi hành vi của công chúng[40,144]”. Nói cách khác,
truyền thông đại chúng không phải là nguyên nhân cần và đủ, không phải là tác
nhân cơ bản đẫn đến sự thay đổi thái độ ứng xử của công chúng.
Khi công nghệ truyền hình ra đời đã đánh đấu một bƣớc tiến dài trong sự
phát triển của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Sức mạnh của truyền
hình đƣợc khẳng định bởi nó sử dụng tổng hợp sức mạnh của cả các loại hình
báo in, phát thanh và hình ảnh. Khoảng những thập niên 60 – 70 của thế kỷ XX,
truyền hình phát triển mạnh mẽ và phổ biến rộng rãi, những quan điểm nghi ngờ
về sức mạnh của truyền thông đại chúng đƣợc đặt ra xem xét lại. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu khẳng định sức mạnh cũng nhƣ sự tác động to lớn của
loại hình này.
Mạng Internet ra đời đã thực sự làm thay đổi quan niệm về các phƣơng
tiện truyền thông đại chúng truyền thống. Những hạn chế về khả năng lƣu trữ
thông tin , thời lƣợng, sự đơn điệu, sự tƣơng tác … của các phƣơng tiện truyền
thống đã đƣợc giải quyết. Mạng Internet đã khẳng định đƣợc vai trò cũng nhƣ
sự tác động to lớn của nó đối với xã hội công chúng.
Những thập niên cuối của thế kỷ XX, công nghệ mạng Internet đã phát
triển mạnh mẽ và phổ biến ở hầu hết các quốc gia, nó tạo điều kiện để thế giới
xích lại gần nhau hơn. Có thể nói rằng, Internet là tác nhân cơ bản để thúc đẩy
quá trình toàn cầu hoá, tăng cƣờng khả năng giao lƣu, hội nhập, hợp tác, trên
mọi lĩnh vực giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Sự ra đời của mạng Internet với những ƣu điểm vƣợt trội và phạm vi tác
động của nó đã tạo ra không gian rộng lớn hơn cũng nhƣ nhiều hƣớng nghiên
cứu mới về hiệu quả của truyền thông đại chúng đối với công chúng xã hội.
Theo các tài liệu từ tiểu ban nghiên cứu truyền thông đại chúng của Đại hội Xã
hội học thế giới lần thứ XV, tổ chức năm 2002 cho thấy hƣớng nghiên cứu hiệu
13. 11
quả truyền thông đại chúng của mạng Internet đƣợc đặc biệt chú trọng và phạm
vi nghiên cứu không chỉ trong mỗi quốc gia mà mở rộng ra toàn thế giới.
Đến cuối thế kỷ XX, J.Habermas đƣa ra khái niệm “không gian cộng
đồng” trong đó các phƣơng tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò trung gian
liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, cũng nhƣ nội bộ xã hội xã hội
dân sự và các thiết chế nhà nƣớc. Đồng thời xác định truyền thông đại chúng
không phải là lãnh địa riêng của các nhà truyền thông hay các chuyên gia truyền
thông, nó là diễn đàn chung để thông tin về xã hội về con ngƣời. Truyền thông
đại chúng cũng là nơi thể hiện các mối quan hệ giữa các tầng lớp, các nhóm xã
hội[351, 352].
Nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng là một hƣớng nghiên cứu
cơ bản của xã hội hiện đại. Các nƣớc có truyền thống nghiên cứu xã hội học rất
coi trọng hƣớng nghiên cứu này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà các
quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp trong bối cảnh toàn cầu hóa. Truyền
thông đại chúng đƣợc coi là một tác nhân xã hội, cơ bản tạo nên các liên kết xã
hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi khu vực và quốc tế.
Trong giai đoạn phát triển của xã hội học, truyền thông đại chúng bắt đầu
từ những năm 20 của thế kỷ trƣớc, bao giờ xã hội học cũng hết sức đƣợc coi
trọng, nó đƣợc coi là hƣớng nghiên cứu chủ yếu để xem xét các tác động xã hội
của hệ thống truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội, và để đánh giá
hiệu quả xã hội của hệ thống này.
Ngay từ năm 1910, M.Weber ngƣời đã đặt luận cứ cho các nghiên cứu xã
hội học truyền thông đại chúng đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí hàng
đầu trong các vấn đề cần phải ƣu tiên của xã hội học truyền thông đại chúng.
Qua bốn giai đoạn phát triển, nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng chỉ
ra rằng: truyền thông đại chúng tạo nên các tƣơng tác xã hội để hình thành hành
động xã hội phù hợp với định hƣớng xã hội.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về hiệu quả truyền thông đại chúng với
công chúng bƣớc đầu đã tạo đƣợc sự quan tâm của giới chuuyên môn. Từ năm
14. 12
1990 đến nay đã có một số những công trình theo hƣớng nghiên cứu lý thuyết
và thực nghiệm về công chúng.
Trƣớc hết phải nối đến những bài viết của tác giả Mai Quỳnh Nam đăng
trên Tạp chí Xã hội học, ngoài việc đƣa ra những cơ sở lý thuyết cho việc
nghiên cứu truyền thông đại chúng và dƣ luận xã hội tác giả đã gợi mở ra hƣớng
nghiên cứu thực nghiệm trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.
Trên tạp chí Xã hội học số 2 – 1996 trong bài “Về đặc điểm và tính chất
của truyền thông đại chúng”[55], tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa giao tiếp
các nhân, giao tiếp đại chúng và hệ thống truyền thông đại chúng.Trên cơ sở
phân tích mối quan hệ này, tác giả đã chỉ ra những tác động trực tiếp đến hiệu
quả của hoạt động báo chí; Thứ nhất là sự tác động từ hệ thống pháp luật và
quyết định quản lý của các cơ quan quản lý báo chí. Thứ hai là sự tác động từ
công chúng báo chí. Thực tế cho thấy rằng, trong xu thế hội nhập và toàn cầu
hoá hiện nay sự tác động của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng dẫn đến
sự thay đổi ứng xử xã hội của công chúng là tƣơng đối rõ nét; Đặc biệt trong đó
có nhóm công chúng là sinh viên báo chí.
Bài viết “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại chúng” trên
tạp chí Xã hội học số 4 – 2001[56], tác giả đã tổng hợp một số hệ thống chỉ tiêu
định tính và định lƣợng làm cơ sở để phân tích hiệu quả của các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng.
Các bài nghiên cứu xã hội học thực nghiệm về báo chí cũng của tác giả
này đã in trên tạp chí Tâm lí học số 1- 2004 nhƣ: “ Sinh viên Hà nội trong giao
tiếp đại chúng” [55], “ Báo thiếu nhi dân tộc và công chúng thiếu nhi dân tộc”
[48], “ Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn” – Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà nội…tác giả cùng các cộng sự đã khảo sát mối quan hệ giữa các nhóm
công chúng này với hệ thống truyền thông đại chúng trong môi trƣờng chính trị
- xã hội. Đặc biệt, các nghiên cứu này chú ý tới đặc điểm quá trình tiếp nhận
thông tin, xử lí thông tin, cơ chế lây lan thông tin và các thức sử dụng thông tin
15. 13
của họ, coi đó nhƣ những dấu hiệu tin cậy để đánh giá hiệu quả hoạt động của
hệ thống này.
Ngoài ra, tác giả này cũng đƣa ra hàng loạt các nghiên cứu về dƣ luận xã
hội trong các bài viết trên tạp chí Xã hội học nhƣ “Dƣ luận xã hội - mấy vấn đề
lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu” ( Tạp chí Xã hội học số 1- 1995), “Dƣ luận
xã hội về con số” ( Tạp chí Xã hội học số 3 – 1996), “ mấy vấn đề về dƣ luận xã
hội trong công cuộc đổi mới” ( Tạp chí Xã hội học số 2 – 1996), “ Vai trò của
dƣ luận xã hội trong cơ chế “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” ( Tạp
chí Tâm lí học số 2 – 2000). Trong bài “ Truyền thông đại chúng và dƣ luận xã
hội” ( Tạp chí Xã hội học số 1 – 1996) tác giả đi sâu phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa báo chí và công chúng trong quá trình hình thành và thể hiện dƣ
luận xã hội.
Các tác giả khác cũng công bố những công trình nghên cứu về xã hội học
báo chí nhƣ: luận án tiến sĩ xã hội học của tác giả Trần Hữu Quang năm 2000 “
Chân dung công chúng báo chí Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận án đi sâu khảo
sát cách thức và mức độ sử dụng các phƣơng tiện truyền thông đại chúng của
công chúng. Trên cơ sở phân tích các hình thức tiếp nhận thông tin từ các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng của công chúng, để nhận diện công chúng
trong bối cảnh đổi mới của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác nhƣ: luận án tiến sĩ Xã
hội học của tác giả Trƣơng Xuân Trƣờng năm 2002 “ Hiện trạng và vai trò tác
động của truyền thông dân số đối với ngƣời nông dân”, PGS.TS. Nguyễn Văn
Dững “Đối tƣợng tác động của báo chí” trên tạp chí Xã hội học số 4 – 2004,
luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Thị Phƣơng Thảo “ Hiệu quả của truyền thông
đại chúng đối với công chúng thanh niên đô thị” nghiên cứu trƣờng hợp thành
phố Hải Phòng năm 2006…
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Truyền thông đại chúng với công
chúng thanh niên đô thị - nghiên cứu trƣờng hợp thành phố Hải Phòng, do Viện
16. 14
Xã hội học chủ trì PGS.TS Mai Quỳnh Nam chủ nhiệm đề tài có thể đƣợc coi là
công trình đầu tiên theo hƣớng nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu công chúng.
Việc nghiên cứu đề tài Hiệu quả của báo chí với công chúng sinh viên
báo chí có thể là một đóng góp để bƣớc đầu hình dung đƣợc hiệu quả xã hội của
báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí, trong đó có công chúng là sinh
viên Trƣờng Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1.
3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
Xuất phát từ góc nhìn của báo chí học, xã hội học báo chí; nghiên cứu
vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí để đánh giá tác
động của hệ thống báo chí đối với công chúng là sinh viên báo chí đƣợc chọn
làm đối tƣợng nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu để tìm hiểu, nhận diện sự lựa
chọn nguồn tin cũng nhƣ sự tiếp thu, sử dụng những nguồn tin nhận đƣợc, đồng
thời tìm hiểu dƣ luận xã hội trong sinh viên báo chí về hoạt động của báo chí
trong hệ thống các phƣơng tiện truyền thông đại chúng.
Việc nghiên cứu đề tài này cũng có thể góp phần vào việc nghiên cứu
hiệu quả của báo chí với công chúng nói chung, và đặc biệt là đối với công
chúng là sinh viên, trong đó có một bộ phận là sinh viên báo chí.
Kết quả nghiên cứu từ đề tài này có thể là tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu trong lĩnh vực báo chí học và xã hội học truyền thông đại chúng.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo
chí, chúng tôi hi vọng sẽ đƣa ra đƣợc những khuyến nghị để các nhà quản lí
truyền thông, các cơ quan truyền thông nắm đƣợc thực trạng sự tác động của hệ
thống truyền thông đối với bộ phận công chúng này. Từ đó tạo cơ sở khoa học
cho những giải pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả của báo chí đối với công chúng
sinh viên báo chí.
17. 15
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo
chí nhằm tìm hiểu :
- Công chúng sinh viên báo chí tiếp cận thông tin nhƣ thế nào?
- Những vấn đề nào truyền tải trên báo chí đƣợc công chúng sinh viên báo
chí quan tâm?
- Dƣ luận xã hội trong tầng lớp công chúng sinh viên báo chí và cách thức
xử lí những thông tin tiếp nhận đƣợc từ báo chí.
- Hiệu quả của việc sử dụng những thông điệp tiếp nhận đƣợc đối với việc
học tập và rèn luyện.
- Góp phần đề xuất những khuyến nghị về giải pháp tăng cƣờng hiệu quả
thông tin tới nhóm công chúng này.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cách thức tiếp nhận thông tin và hiệu quả việc sử dụng nội dung
các thông điệp đƣợc thông tin trên báo chí.
- Phân tích các hình thức trao đổi thông tin trong nhóm công chúng sinh
viên báo chí.
- Phân tích hiệu quả của báo chí qua hoạt động tiếp nhận và sử dụng thông
tin từ cac phƣơng tiện truyền thông đại chúng của sinh viên báo chí.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí
5.2 Khách thể nghiên cứu
Là nhóm công chúng sinh viên báo chí Trƣờng Cao đẳng Phát thanh -
Truyền hình TW1
5.3 Phạm vi nghiên cứu
20. 18
Chúng tôi tiến hành xử lí thông tin theo phƣơng pháp :
- Sử dụng phƣơng pháp phân tích thống kê đối với những số liệu định
lƣợng.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Đề tài đƣợc triển khai để đánh giá và kiểm nghiệm các giả thuyết nghiên
cứu sau:
1. Vai trò, ý nghĩa của những thông tin đƣợc tiếp nhận từ báo chí, nhƣ sự đối
với việc học tập, rèn luyện và tác nghiệp của sinh viên báo chí .
2. Dƣ luận xã hôi của công chúng sinh viên báo chí, thể hiện những đề xuất
về phƣơng thức thông tin cũng nhƣ hiệu quả tác động đến nhóm công chúng
này.
3. Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, hệ thống báo chí đã phát
triển mạnh mẽ và có nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới đất
nƣớc. Tuy nhiên, trong hoạt động thông tin cũng đã xuất hiện những xu hƣớng
bất cập, hạn chế nhƣ tính thƣơng mại hóa và có cả những sai lệch trong thông
điệp truyền thông. Điều này sẽ tác động mạnh mẽ đến công chúng sinh viên
báo chí.
8. Kết cấu của luận văn
8.1 Phần mở đầu
Luận văn giới thiệu: Giả thuyết nghiên cứu; Phƣơng pháp nghiên cứu;
Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu; Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu; Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài; Tính cấp thiết của đề tài nghiên
cứu.
8.2 Phần nội dung luận văn gồm 2 chƣơng
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Phần 1: Đƣa ra các lí luận về truyền thông đại chúng, trên cơ sở của báo
chí học và xã hội học báo chí. Đặc biệt là các quan điểm lí thuyết về công
chúng của truyền thông và hiệu quả của truyền thông đại chúng. Vài nét về vấn
đề nghiên cứu và hệ thống các khái niệm công cụ phục vụ nghiên cứu.
21. 19
Phần 2: Giới thiệu địa điểm khảo sát, và một số đặc điểm cơ bản của khách
thể nghiên cứu.
Chương 2: Hiệu quả của báo chí với công chúng là sinh viên báo chí
Phần 1: Trình bày kết quả nghiên cứu về hiệu quả tác động của thông tin tiếp
nhận từ báo chí với công chúng là sinh viên báo chí. Thông qua mức độ và các
hình thức tiếp nhận thông tin.
Phần 2: Trình bày kết quả những phân tích về những vấn đề đăng tải trên báo
chí đƣợc sịnh viên báo chí quan tâm.
Phần 3: Trình bày kết quả những phân tích về những dấu hiệu để nhận diện nội
dung của một số phƣơng tiện truyền thông đại chúng.
Phần 4: Trình bày kết quả phân tích về sự tác động của những thông tin tiếp
nhận đƣợc từ báo chí với việc học tập và rèn luyện của sinh viên báo chí.
8.3 Phần kết luận
Từ các kết quả phân tích, tác giả tiến hành luận giải các giả thuyết nghiên
cứu, đồng thời đƣa ra các giải pháp nhằm mở rộng khả năng tiếp nhận thông tin
của công chúng sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng. Mặt khác,
nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng và
đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học về truyền thông đại chúng và công chúng
của truyền thông đại chúng.
22. 20
PHẦN NỘI DUNG
HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ VỚI CÔNG CHÚNG SINH
VIÊN BÁO CHÍ
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về truyền thông đại chúng
C.Mác, Ph.Ăng ghen,V.I.Lê nin là những nhà tƣ tƣởng vĩ đại của giai cấp
vô sản thế giới – là ngƣời đặt nền móng cho lí luận báo chí cách mạng[32, 42].
Là những ngƣời trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều tờ báo, đồng thời là những nhà
báo lỗi lạc, luôn rất quan tâm đến hoạt động báo chí, xuất bản. Tƣ tƣởng về
công tác báo chí và hoạt động báo chí xuất bản của những nhà kinh điển này vô
cùng đồ sộ và phong phú – là một bộ phận quan trọng trong hình thái ý thức xâ
hội mác xít.
Từ nhãn quan duy vật lịch sử và chủ nghĩa xã hội khoa học các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích sự ra đời cũng nhƣ bản chất của
báo chí.
Bằng những bài báo, những tác phẩm của mình các nhà cách mạng vô sản
đã thể hiện rất rõ quan điểm của mình: báo chí là vũ khí sắc bén đề chiến đấu
bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, bác bỏ và vạch trần
luận điệu của những thế lực thù địch. Báo chí cách mạng vô sản phải thực sự là
vũ khí chiến đấu hữu hiệu của giai cấp công nhân, là cơ quan tuyên truyền, tham
gia vào việc tổ chức phát triển xã hội bằng hoạt động ngôn luận. Trọng trách
của báo chí cách mạng là phục vụ lợi ích của nhân dân, vì sự tiến bộ và giải
phóng con ngƣời [36, 18].
Trong thực tế, C.Mác – Ph. Ăng ghen là những ngƣời sáng lập ra nền báo
chí cách mạng mà đấu mốc quan trọng là sự ra đời của tờ báo “Sông Ranh mới”
23. 21
trong những năm 1848 – 1849. Tờ báo này do do C.Mác làm tổng biên tập và
Ph. Ăng ghen là cộng tác viên đắc lực[31, 39]. Tờ báo này gắn liền với phong
trào cộng sản ở châu Âu khoảng giữa thế kỷ thứ XIX.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong xã hội có phân chia
giai cấp thì mỗi con ngƣời phải thuộc về một giai cầp, tầng lớp nhất định và
quyền lợi của các giai cấp trong xã hội là khác nhau thậm chí đối lập nhau. Các
giai cấp tầng lớp trong xã hội đều sử dụng báo chí làm vũ khí chiến đấu để bảo
vệ địa vị chính trị và quyền lợi kinh tế của mình. Chính vì vậy, báo chí của giai
cấp nào thì phản ánh tôn chỉ mục đíc đƣờng lối tƣ tƣởng, tình cảm, nguyện vọng
của giai cấp đó [31, 99].
Báo chí của các Đảng Cộng Sản đƣợc xác định là cơ quan ngôn luận của
Đảng, là sợi dây liên hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân, là vũ khí đấu tranh
của gia cấp vô sản. Ph.Ăng ghen chỉ ra rằng: “ Đối với Đảng nhất là Đảng của
giai cấp công nhân thì việc lập ra tờ báo hàng ngày đầu tiên là cái mốc quan
trọng để tiến lên phía trƣớc. Đó là nhận định ban đầu, từ đó Đảng sẽ tiến hành
cuộc đấu tranh với những đối thủ của mình bằng vũ khí tƣơng xứng. Báo hàng
ngày là công cụ tuyên truyền,cổ động quần chúng không có gì thay thế đƣợc”
[36, 18].
C.Mác nhận định: “ Báo chí sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ
với nhân dân niềm hi vọng và sự lo lắng của họ. Trong hi vọng và lo lắng, có
điều gì báo chí nghe đƣợc từ cuộc sống, báo chí sẽ lớn tiếng loan tin cho mọi
ngƣời đều biết, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những tin tức đó
một cách gay gắt, hăng say, phiến diện nhƣ những tình cảm và tƣ tƣởng bị xúc
động thầm bảo nó vào lúc đó. Điều sai lầm hôm nay nằm trong các sự kiện mà
nó đƣa tin, hoặc trong những lời nhận xét mà nó nêu lên thì ngày mai sẽ đƣợc
bản thân nó bác bỏ” [3, 237]. Từ nhận định trên cho thấy: báo chí cách mạng là
công cụ phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, coi phong trào quần chúng là
cơ sở thực tiễn để phản ánh, chỉ có nhƣ vậy báo chí mới có thể bảo vệ đƣợc
quyền lợi của quần chúng một cách thiết thực.
24. 22
V.I.Lê nin - ngƣời cộng sản ƣu tú, kế thừa tƣ tƣởng chủ nghĩa C.Mác đã
đặc biệt nhấn mạnh vai trò của báo chí trong phong trào cách mạng: “ Chúng ta
cần trƣớc hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành đƣợc một cách có
hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức nguyên tắc và toàn diện” [37, 10], “
Tờ báo không chỉ là ngƣời tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể, mà còn là
ngƣời tổ chức tập thể …Nhờ có tờ báo, một tổ chức cố định tự nó hình thành, nó
không chỉ làm các công tác địa phƣơng mà còn làm cả công tác chung thƣờng
xuyên nữa, nó giúp cho những nhân viên của nó quen việc theo dõi chăm chú
những biến cố chính trị, đánh gia ý nghĩa của những biến cố ấy đến các tầng lớp
khác nhau trong nhân dân, và vạch ra cho đảng cách mạng những phƣơng pháp
hợp lí để tác động đến những biến cố ấy” [37, 12]
Báo chí một mặt cung cấp thông tin cho công chúng, mặt khác nó phản
ánh những tâm tƣ nguyện vọng, ý kiến… của công chúng về những vấn đề thời
sự nóng bỏng của xã hội. Chính vì vậy, nó đƣợc xác định là một trong những
nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho những nhà quản lí xã hội. Những
quyết định quản lí chỉ thực sự phù hợp và hiệu quả khi nó dựa trên những thông
tin chính xác từ thực tế cuộc sống. V.I. Lênin đã yêu cầu thành lập một uỷ ban
đặc biệt để thu thập và xử lí thông tin ngay từ những ngày đầu cách mạng: “ Có
thể và nhất thiết phải tổ chức một văn phòng nhƣ vậy, nó có thể đem lại lợi lớn;
Không có nó, chúng ta sẽ không có mắt, không có tai, không có tay để tham gia
các phong trào quốc tế” [39, 156]
V.I. Lênin đề cao sự phù hợp giữa các yếu tố nội dung và hình thức thể
hiện của tác phẩm báo chí. Nó sẽ không đem lại hiệu quả cao với công chúng
khi nội dung thông tin tốt nhƣng cách thể hiện không gần gũi, xa rời với đời
sống nhân dân: “Sự đơn giản, dễ hiểu và phổ cập, nội dung sinh động của tƣ liệu
đƣa ra sẽ đảm bảo cho những tƣ tƣởng của báo chí đi sâu vào lòng ngƣời đọc
thuộc mọi tầng lớp nhân dân” [38, 92].
Từ những quan điểm trên cho thấy: chủ nghĩa Mác – Lênin đánh giá rất
cao vai trò, cũng nhƣ hiệu quả của báo chí trong việc tác động vào xã hội, nó
25. 23
làm thay đổi nhận thức, cũng nhƣ hành vi ứng xử của con ngƣời trong thực tiễn
cuộc sống. Hiệu quả của báo chí sẽ là một sức mạnh to lớn, góp phần hình thành
dƣ luận xã hội, định hƣớng dƣ luận xã hội tích cực trong công chúng.
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về truyền thông đại chúng
Ở Việt Nam, nền báo chí cách mạng đƣợc đánh dấu bằng sự ra đời của tờ
báo “Thanh niên” ngày 21 – 6 – 1925 do Hồ Chí Minh sáng lập.
Hồ Chí Minh - ngƣời chiến sĩ cộng sản ƣu tú, nhà báo cộng sản đầu tiên ở
đã sáng lập ra nền báo chí cách mạng của giai cấp vô sản ở nƣớc ta. Là ngƣời kế
thừa những tinh hoa của chủ nghĩa Mác – Ăng ghen, Lênin về báo chí vô sản,
áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam, quan điểm về báo chí của Hồ Chí
Minh rất cụ thể và sâu sát. Trƣớc hết, đối với báo Đảng, Ngƣời cho rằng: tờ báo
của Đảng có nhiệm vụ làm cho tƣ tƣởng và hành động thông suốt và thống nhất.
Cụ thể là tuyên truyền lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, đƣờng lối chính sách đối
nội và đối ngoại của Đảng và của Chính phủ. Thông tin về tình hình trong nƣớc
cũng nhƣ thế giới, những kinh nghiệm tốt, xấu của các nghành các địa phƣơng,
phản ánh công tác học tập, công tác, tinh thần phê bình, tự phê bình, cũng nhƣ
đời sống và ý nguyện của nhân dân…Mỗi tờ báo Đảng là những lớp huấn luyện
đơn giản, thiết thực và rộng khắp: “Những tờ báo Đảng cung cấp cho chúng ta
những điều cần biết làm về công tác tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo và công
tác…nó giúp nâng cao trình độ chính trị và năng suất công tác của chúng ta”
[336, 337]. Hồ Chí Minh luôn xác định và đề cao vai trò của báo chí, coi nó nhƣ
một vũ khí sắc bén chiến đấu để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc: “Cán bộ
báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén cuả
họ” [377]. Đối với mỗi tờ báo để phúc vụ đƣợc nhân dân tốt hơn đều phải xác
định nội dung, tôn chỉ mục đích cũng nhƣ đối tƣợng phục vụ rõ ràng:
Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền cổ động, huấn luyện, giáo dục, và tổ
chức dân chúng dể đƣa dân chúng tới mục đích chung.
Tôn chỉ mục đích của mỗi tờ báo là đoàn kết toàn dân, thi đua ái quốc.
26. 24
Đối tƣợng của báo chí là đại đa số dân chúng: “ Một tờ báo không đƣợc
đại đa số dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là nột tờ báo” [346].
Chính vì vậy, muốn để tờ báo đƣợc dân chúng ham chuộng, yêu thích thì các tờ
báo phải hết sức chú ý đến cảc mặt nội dung và hình thức của tờ báo. Về nội
dung “ các bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát”. Về
hình thức “ cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ sáng sủa” [346]…
Không chỉ đối với những ngƣời làm báo, mà với tất cả các chiến sĩ cách
mạng trên các mặt trận Hồ Chí Minh đề cao vấn đề nhận thức, vì chỉ khi có
nhận thức con ngƣời mới có thể tự giác làm đúng, đi theo cái đúng cái cao cả: “
tuyệt đối cần thiết là chúng ta phải giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc phục
những khó khăn ấy bằng cách tạo đièu kiện cho các đồng chí tiếp thu những
kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ cần phải có” [381].
Đối với nhà báo cách mạng trong đại hội lần thứ hai Hội nhà báo Việt
Nam, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng : “Báo chí của chúng ta là phục vụ nhân dân lao
động, phục vụ chủ nghĩa xã hội,...cho hoà bình trên thế giới. Chính vì thế cho
nên, tất cả những ngƣời làm báo phải có lập trƣờng chính trị vững chắc. Chính
trị phải làm chủ. Đƣờng lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng đƣợc”
[366]. “Nhiệm vụ của mỗi ngƣời làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn
thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tƣ tƣởng,
đứng vững trên lập trƣờng của giai cấp vô sản, phải nâng cao trình độ văn hoá,
phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình. Cần phải luôn cố gắng, mà cố gắng thì nhất
định thành công”. Trong hoạt động nghiệp vụ của nhà báo cách mạng, mỗi tƣ
tƣởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ tƣ tƣởng và lòng ƣớc ao của quần
chúng. Chính vì vậy trong mỗi bài báo Hồ Chí Minh yêu cầu :
- Phải học cách nói của quần chúng. Chớ nói nhƣ giảng sách.
- Phải luôn dùng những lời lẽ những thí dụ đơn giản.
- Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu đƣợc.
Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm theo lời kêu gọi của
mình. Bao giờ cũng phải tự hỏi: “ Ta viết cho ai xem ? nói cho ai nghe”?
27. 25
- Trƣớc khi nói phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Sau khi viết rồi
phải xem đi xem lại ba bốn lần. [348, 349]
Hồ Chí Minh luôn xác định cách viết báo luôn gắn với hiệu quả truyền
thông của báo chí. Gắn báo chí với công chúng bằng hình thức thể hiện phù hợp
với cách nghĩ,cách hiểu, cách nói, cách làm, của công chúng, trên cơ sở đó để
truyền tải thông tin. Ngƣời nhấn mạnh : “ Mình viết ra là cốt để giáo dục, cổ
động; nếu ngƣời xem mà không nhớ đƣợc, không hiểu đƣợc, là viết không
đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn ngƣời xem hiểu đƣợc, nhớ đƣợc,
làm đƣợc thì phải viết cho đúng trình độ của ngƣời xem, viết rõ ràng gọn gàng,
không dùng chữ nhiều”.
Về cách viết báo trong bài giảng tại lớp chỉnh Đảng trung ƣơng ngày 17 –
08 – 1953 Ngƣời chỉ rõ, khi viết báo chúng ta phải luôn đặt ra các câu hỏi : Vì ai
mà viết? Mục đích viết để làm gì? và phải trả lời những câu hỏi đó. Chẳng hạn,
Viết cho ai? Viết cho đại đa số Công – Nông – Binh. Viết để làm gì? [10, 616].
Để giáo dục gải thích, cổ động, phê bình. Để phục vụ quần chúng ...Viết cái gì?
Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta…của bạn ta. Đồng thời phê bình
những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ của nhân dân... Không nên chỉ viết
những cái tốt mà giấu những cái xấu. Nêu cái hay, cái tốt thì phải có chừng
mực, chớ phóng đại…Phê bình thì phải phê bình một cách thật thà, chân thành
đúng đắn chứ không phải để lợi dụng để nó phản tuyên truyền[349].
Về vấn đề tài liệu để viết báo, trả lời câu hỏi lấy tài liệu ở đâu ? Ngƣời chỉ
rõ, muốn có tài lệu thì phải tìm, thông qua các hoạt động nhƣ: nghe, hỏi, quan
sát, thu thập từ các tài liệu thông tin khác và ghi chép[350].
Trả lời câu hỏi viết nhƣ thế nào? Ngƣời chỉ rõ : “ Cần phải tránh lối viết “
rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trƣờng giang đại hải” làm cho ngƣời xem nhƣ
là “Chắt vắt vào rừng xanh”. Ngoài ra, Ngƣời còn yêu cầu viết báo phải “ gọn
gàng, rõ ràng, vắn tắt. Nhƣng vắn tắt không phải là cụt đầu, cụt đuôi, mà phải có
đầu có đuôi”. Viết phải thiết thực “ Nói có sách, mách có chứng” có nghĩa là “
nói cái việc ấy ở đâu, thế nào, ngày nào, nó sinh ra thế nào, phát triển thế nào,
28. 26
kết quả thế nào”. Ngƣời khuyên viết báo không nên “ ham dùng chữ”; Những
chữ mà không biết rõ thì không nên dùng. Những chữ mà tiếng ta có thì phải
dùng tiếng ta. Đặc biệt, trong lúc viết thì phải chú ý giữ bí mật nó đƣợc coi là
điều kiện cơ bản để đảm bảo hiệu quả thông tin[339, 340, 341].
Trong Đại hội lần thứ III Hội nhà báo Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt
nhấn mạnh đến hiệu quả tác động của báo chí tới sự hình thành dƣ luận xã hội.
Ngƣời chỉ rõ báo chí phải giữ nhiệm vụ định hƣớng dƣ luận xã hội chứ không
đƣợc phép vuốt đuôi dƣ luận xã hội. Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng
đƣợc xác định có vai trò hết sức quan trọng trong việc “đem ý kiến đúng đã
đƣợc lựa chọn đến với ngƣời dân để họ so sánh, bàn bạc, lựa chọn lại”; Trên cơ
sở đó “ phải khéo léo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đƣờng
lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải
quyết các vấn đề mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân” [363, 364, 365, 366]
Có thể nói, quan điểm về báo chí và hoạt động báochí của Hồ Chi Minh
cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Những quan điểm, tƣ tƣởng đó đƣợc coi là
cách thức để đảm bảo dƣ luận xã hội của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội,
để chúng thực sự trở thành công cụ, đối tƣợng để lãnh đạo, quản lí xã hội theo
mục tiêu phát triển bền vững.
1.1.3 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam về truyền thông đại chúng
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập. Ra đời ngày 03 - 02 -1930 Đảng lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của mình. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc
cách mạng đem lại độc lập tự do cho đất nƣớc. Trong các quá trình cách mạng,
báo chí đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng tiện hữu hiệu để đấu tranh giành thắng
lợi.
Đảng chỉ rõ báo chí phải luôn đi đầu trong trong việc tuyên truyền, bảo vệ
chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối quan điểm của Đảng.
Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc hiện nay,
29. 27
Đảng lãnh đạo báo chí là điều kiện quan trọng để khơi dậy đƣợc nhiệt tình cách
mạng, sức sáng tạo, tiềm năng trí tuệ to lớn của nhân dân, tổng kết các kinh
nghiệm phong phú, sinh động từ thực tiễn để góp phần hoàn thiện đƣờng lối,
chính sách của Đảng, thực hiện quá trình “ tự giáo dục” của nhân dân.
Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng luôn đề cao vai trò của hoạt động báo chí;
coi báo chí là “ công cụ sắc bén trọng công tác tƣ tƣởng của Đảng”, là “ lực
lƣợng xung kích trên mặt trận tƣ tƣởng văn hoá” [45]. Hiện nay báo chí cũng
đƣợc đặt vào vị trí xung kích trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nƣớc, dân
chủ hoá đời sống xã hội, cổ vũ, phát hiện những nhân tố mới, tích cực trong
cuộc sống; Giám sát công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và bộ máy nhà nƣớc,
thúc đẩy phát triển kinh tế, thoả mãn nhu cầu thông tin, nâng cao dân trí của
nhân dân.
Hiện nay, sau hơn 20 năm đổi mới đất nƣớc ta đã có sự phát triển tƣơng
đối toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có báo chí. Hệ
thống báo chí của chúng ta dƣới sự lãnh đạo của Đảng, vận hành trong cơ chế
thị trƣờng đã có đƣợc những bƣớc phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng, chất
lƣợng, ngày càng đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin của công chúng trong xã hội.
Nội dung thông tin đƣợc chuyển tải trên báo chí ngày càng phong phú, đa dạng
và đặc biệt là vấn đề đƣợc đề cập xác thực hơn, đã thu hút đƣợc sự quan tâm của
công chúng; khiến họ cảm nhận những vấn đề thời sự xã hội nhƣ là “ chuyện
của mình”. Phƣơng thức thông tin đa dạng, sinh động, hình thức đẹp, hấp dẫn…
Nói chung trong giái đoạn hiện nay, báo chí của chúng ta đã dần tiếp cận đƣợc
với trình độ của báo chí hiện đại trên thế giới.
Bắt nguồn từ đƣờng lối đổi mới toàn diện của Đảng, đƣờng lối chính trị
cũng từng bƣớc hoàn thiện, trong đó có sự đổi mới công tác tƣ tƣởng và văn
hoá. Định hƣớng tƣ tƣởng và quan điểm báo chí cũng có những bƣớc đổi mới
đáng kể. Từ việc xác định “ Báo chí là công cụ tƣ tƣởng sắc bén của Đảng” đến
quan điểm “ Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nƣớc,của các tổ chức xã
hội, là diễn đàn của nhân dân” đƣợc coi là một bƣớc phát triển mới của lí luận
30. 28
báo chí cách mạng. Từ quan điểm này cho thấy: thông tin báo chí là đa dạng,
phong phú, nhiều chiều nhƣng phải vận hành trong sự quản lí có tính định
hƣớng của Đảng, Nhà nƣớc.
Quan điểm này đã thể hiện đƣợc mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa
Đảng và dân. Trên cơ sở “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, báo chí
một mặt tuyên truyền đƣờng lối chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nƣớc, đến
với công chúng, một mặt phản ánh những ý kiến, nguyện vọng của công chúng
trong quá trình thực hiện đƣờng lối chính sách của Đảng, Nhà nƣớc. Có thể nói,
báo chí là chiếc cầu nối giữa Đảng và dân, là kênh liên hệ giữa dân và Đảng, là
cầu nối tin cậy giữa văn bản chính sách và thực tế cuộc sống.
Ngoài ra, Đảng còn xác định báo chí là một trong những yếu tố quan
trọng hàng đầu để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vai trò giám sát xã hội của truyền
thông đại chúng thông qua việc phản ánh thực tiễn cuộc sống và định hƣớng dƣ
luận xã hội, nâng cao nhận thức cho công chúng, đồng thời chỉ rõ: các cơ quan
truyền thông đại chúng “ vừa phải hiểu rõ nguyện vọng, tâm tƣ của quần chúng
để phục vụ tốt và phản ánh với Đảng, vừa có trách nhiệm tạo cho đƣợc dƣ luận
quần chúng đúng đắn” [1, 114]. Để thực hiện đƣợc điều đó, các cơ quan truyền
thông đại chúng phải “ coi trọng việc nâng cao chất lƣợng thông tin đại chúng,
tính chân thật, tính chiến đấu và tính đa dạng của thông tin” [2, 112].
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, đƣợc soi sáng bởi lí luận của chủ nghĩa Mác
– Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình phát triển báo chí cách
mạng Việt Nam luôn gắn mật thiết, đi cùng và phản ánh từng nhiệm vụ, diễn
biến của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội và
đặc biệt là công cuộc đổi mới hiện nay.
1.1.4 Lý thuyết của Marx Weber về đối tượngnghiên cứu của truyền thông
đại chúng
M.Weber là ngƣời đầu tiên sử dụng thuật ngữ “xã hội học báo chí” trong
bài phát biểu tại kỳ họp thứ nhất của Hội Xã hội học Đức. Ngay từ năm 1910,
31. 29
M.Weber đã đặt luận cứ cho các nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng,
đã xếp nghiên cứu về công chúng ở vị trí hàng đầu trong các vấn đề cần phải ƣu
tiên của xã hội học truyền thông đại chúng. Ông cũng chỉ ra rằng: truyền thông
đại chúng tạo nên các tƣơng tác xã hội để hình thành hành động xã hội phù hợp
với định hƣớng xã hội.
M.Weber đã luận chứng về mặt phƣơng pháp luận cho sự cần thiết của
môn xã hội học báo chí và đã vạch ra phạm vi các vấn đề của nó:
- Hƣớng vào các tập đoàn, các tầng lớp xã hội khác nhau.
- Phân tích các yêu cầu của xã hội đối với nhà báo.
- Các phƣơng pháp phân tích báo chí.
- Phân tích hiệu quả của báo chí đối với việc xây dựng con ngƣời.
Lập luận của M.Weber chỉ rõ tác động của báo chí đối với việc hình
thành ý thức quần chúng và dƣ luận xã hội và vạch ra mối liên hệ giữa các nhân
tố này với hành động xã hội của cá cá nhân và các tầng lớp xã hội [53]. Trên cơ
sở lập luận của M.Weber cho thấy các phƣơng tiện truyền thông đại chúng đƣợc
xác định là một tác nhân quan trọng đối với quá trình xã hội hoá cá nhân và hình
thành dƣ luận xã hội.
Từ các đề xuất của M.Weber cho thấy, việc nghiên cứu xã hội học về
truyền thông đại chúng thì hƣớng nghiên cứu công chúng giữ vị trí quan trọng
hàng đầu. Hƣớng nghiên cứu này đã đƣợc các nhà nghiên cứu coi trọng trong
suốt các qúa trình phát triển của xã hội học về truyền thông đại chúng.
Thông qua các phân tích thực nghiệm, ghi nhận rằng xã hội càng phát
triển thì công chúng càng chủ động hơn trong hoạt động giao tiếp với các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Không những thế, họ còn chủ động hơn
trong việc sử dụng những thông tin tiếp nhận đƣợc từ hệ thống này áp dụng vào
hoạt động thực tiễn.
1.1.5 Lý thuyết của Haold Lasswell và Claude Shannon về truyền thông đại
chúng
32. 30
Trong lịch sử nghiên cứu sự phát triển của truyền thông đại chúng, các
nhà nghiên cứu đã đƣa ra hai loại mô hình truyền thông cơ bản, đó là mô hình
truyền thông một chiều mang tính áp đặt và mô hình truyền thông đại chúng hai
chiều mềm dẻo.
Mô hình truyền thông một chiều áp đặt là mô hình truyền thông đơn giản;
Nó đƣợc hiểu là quá trình truyền thông tin giữa hai cá nhân, hay hai nhóm ngƣời
với nhau, trong đó một cá nhân hay một nhóm ngƣời giữ vai trò là ngƣời truyền
tin, truyền đi những thông điệp với tƣ cách là những tác nhân kích thích nhằm
để sửa đổi hành vi của những cá nhân hay nhóm ngƣời khác.
Năm 1948, Haold Lasswell đã đƣa ra mô hình truyền thông đại chúng
một chiều[26, 42] bao gồm những yếu tố:
- Who : Nguồn phát, chủ đề truyền thông
- Says what : Thông điệp, nội dung truyền thông
- Inh Which Channel : Kênh tuyền thông
- To Whom : Ngƣời nhận thông điệp
- With What Effects : Hiệu quả truyền thông
S M C R E
S (Source Sender) : Nguồn phát, chủ đề truyền thông
M(Message) : Thông điệp, nội dung truyền thông
C(Channel) : Kênh tuyền thông
R(Receiver) : Ngƣời nhận thông điệp
E(Effect) : Hiệu quả truyền thông
Từ mô hình truyền thông trên cho thấy, phƣơng thức thông tin đƣợc
chuyển tải theo một chiều. Bắt đầu từ nguồn phát, những thông điệp đƣợc
truyền qua kênh truyền thông, đến ngƣời tiếp nhận thông tin. Khi hoàn thành
quá trình này sẽ tạo ra hiệu quả thông tin.
33. 31
Đây là mô hình thông tin đơn giản, nhƣng rất thuận lợi khi chuyển tải
những thông tin nhanh. Trong mô hình này, nguồn phát giữ vai trò quyết định,
có khả năng áp đặt quan điểm, tƣ tƣởng của mình đối với ngƣời tiếp nhận thông
tin. Công chúng chỉ tiếp nhận thông tin một cách thụ động, không có họăc ít có
sự phản hồi trở lại dù đó là sự tác động tích cực để thấy đƣợc thái độ tiếp nhận
thông tin của công chúng hoặc những thông tin đã chuyển tải có phù hợp hay
không. Chính vì những hạn chế nhƣ vậy nên mô hình truyền thông này chƣa
làm thoả mãn đƣợc nhu cầu thông tin, chƣa thu hút, chƣa tạo đƣợc sự quan tâm
của công chúng.
Khi Claude Shannon đƣa ra mô hình quá trình truyền thông hai chiều
mềm dẻo đã khắc phục đƣợc nhƣợc điểm của mô hình truyền thông một chiều.
Ông đã đƣa vào mô hình thông tin của mình những yếu tố mới đó là :
- F( Feedback) : Thông tin phản hồi từ ngƣời tiếp nhận thông tin
- N( Noise) : Nhiễu ( những yếu tố tạo sai số trong thông tin)
N
S M C R E
F
Từ mô hình trên cho thấy, thông tin đƣợc truyền đi từ nguồn phát (S) qua
các kênh thông tin đến với ngƣời nhận (R) qua quá trình xử lý, thu đƣợc hiệu
quả thông tin (E), hiệu quả thông tin sẽ định hƣớng suy nghĩ và hành động của
công chúng, từ đó tạo ra phản ứng của công chúng ngƣợc lại với nguồn phát (F).
Nhờ có thông tin phản hồi mà các nhà cung cấp thông tin nắm đƣợc hiệu quả
thông tin đạt đƣợc mức độ nào, những thông tin cung cấp có phù hợp với nhu
34. 32
cầu của công chúng hay không, trên cơ sở đó để điều chỉnh nội dung cũng nhƣ
hình thức thông tin cho phù hợp với từng loại đối tƣợng tiếp nhận.
Trong quá trình truyền thông, các thông điệp đến với ngƣời tiếp nhận
không đầy đủ, hoặc không tạo ra hiệu quả thông tin chính xác, đó là sự ảnh
hƣởng của hiện tƣợng nhiễu (N). Hiện tƣợng nhiễu tạo ra những sai sót trong
quá trình chuyền tải và tiếp nhận thông tin.
Nếu xét về mặt bản chất thì mô hình truyền thông hai chiều của Claude
Shannon là sự phát triển logic từ mô hình truyền thông của Haold Lasswell.
Trong điều kiện xã hội phát triển, đƣợc sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, nhiều phƣơng tiện truyền thông đại chúng hiện đại ra đời nó cho phép
thiết lập mối quan hệ hai chiều liên tục, trực tiếp giữa nguồn phát và ngƣời tiếp
nhận thông tin. Trong mô hình truyền thông này, vai trò của công chúng tiếp
nhận đƣợc xem là một trong những yếu tố quyết định quá trình truyền thông.
Tính tích cực của công chúng với tƣ cách là đối tƣợng tiếp nhận thông tin,
không chỉ chỉ thể hiện ở việc lựa chọn những thông điệp tiếp nhận…mà còn là
sự tham gia trực tiếp, trở thành một yếu tố quyết định trong quá trình thực hiện
hoạt động truyền thông đại chúng.
Trên cơ sở này, có thể thấy trong việc nghiên cứu hiệu quả của truyền
thông đại chúng thì vấn đề nghiên cứu công chúng có vai trò hết sức quan trọng,
nó cho phép nhà truyền thông nắm bắt đƣợc nhu cầu, hình thành đƣợc nội dung
và phƣơng pháp nghiên cứu thích ứng.
1.2 Các khái niệm công cụ
1.2.1 Truyền thông
Truyền thông tƣơng ứng với thuật ngữ “communication” trong tiếng Anh
hoặc tiếng Pháp – là một dạng hoạt động căn bản của bất kỳ một tổ chức mang
tính xã hội nào. Hiện nay, chƣa có một định nghĩa nào làm hài lòng các học giả
và giới nghiên cứu về truyền thông. Tuỳ theo lĩnh vực và góc độ nghiên cứu mà
ngƣời ta đƣa ra những định nghĩa về truyền thông khác nhau:
35. 33
- Truyền thông là quá trình truyền thông tin có nghĩa giữa các cá nhân với
nhau.
- Truyền thông là quá trình trong đó một cá nhân (ngƣời truyền tin) truyền
những thông điệp với tƣ cách là những tác nhân kích thích để sửa đổi hành vi
của những cá nhân khác.
- Truyền thông xảy ra khi thông tin đƣợc truyền từ nơi này đến nơi khác.
- Không phải đơn thuần là sự chuyển tải các thông điệp bằng ngôn ngữ xác
định và có ý định trƣớc mà nó bao hàm cả các quá trình trong đó con ngƣời gây
ảnh hƣởng, tác động đến một ngƣời khác.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu một cách chung nhất về truyền
thông nhƣ sau: “ Truyền thông là hoạt động chuyển tải và chia sẻ thông tin .
Quá trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm, kỹ năng liên kết với
nhau, đây là một quá trình phúc tạp, qua nhiều mắt nhiều khâu, các mắt, khâu
đó chuyển đổi tƣơng đối linh hoạt để hƣớng tới sự nhận thức và hành vi của các
cá nhân và các nhóm”.
Bản chất của qua trình truyền thông là truyền đạt thông tin từ nơi này đến
nơi khác. Truyền thông thƣờng đƣợc thực hiện thông qua lời nói, chữ viết
nhƣng cũng có thể thực hiện thông qua cử chỉ, điệu bộ hay hành vi để biểu thị
thái độ hay cảm xúc.
1.2.2 Truyền thông đại chúng
Thuật ngữ truyền thông đại chúng “ mass communication” đƣợc hiểu là
quá trình truyền tải thông tin một các rộng rãi hƣờng đến đông đảo mọi thành
viên trong xã hội thông qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng (mass
media).
Chúng ta có thể đƣa ra khái niệm cơ bản về truyền thông đại chúng: là một
hoạt động nhờ đó mà các thông điệp do nhiều người sản xuất được truyền đạt
đến đông đảo người nhận.
36. 34
Sự khác biệt cơ bản giữa truyên thông và truyền thông đại chúng là số
lƣợng công chúng tiếp nhận thông tin, nhƣng sự khác nhau về số lượng của
hàng triệu người tiếp nhận đã trở thành sự khác nhau về chất lượng.
Mô hình truuyền thông đại chúng cơ bản cũng giống nhƣ mô hình truyền
thông; Từ nguồn phát các thông điệp đƣợc truyền đến ngƣời tiếp nhận thông
qua các kênh truyền và từ ngƣời tiếp nhận tạo ra thông tin phản hồi lại nguồn
phát. Mặc dù sự khác biệt cơ bản giữa truyền thông đại chúng và truyền thông
giữa các cá nhân là số lƣợng ngƣời tiếp nhận và thời gian thông tin. Tuy nhiên,
truyền thông đại chúng cũng có khi đông đảo công chúng tiếp nhận thông tin
ngay lập tức, đồng thời với thời điểm xảy ra sự kiện nhƣ các chƣơng trình
truyền hình hoặc phát thanh trực tiếp…cũng có khi các nhân tiếp nhận thông tin
lại diễn ra trong một thời gian khá dài nhƣ với phim ảnh, thậm chí hàng thế kỉ
nhƣ với các cuốn sách.
Truyền thông đại chúng đƣợc hiểu là giao tiếp đại chúng. Đó là sự truyền
bá với số lƣợng lớn những nội dung giống nhau cho những nhóm đông ngƣời
trong xã hội dựa vào kỹ thuật truyền bá tập thể [55].
Giao tiếp đại chúng và giao tiếp cá nhân có những điểm khác biệt rất căn
bản, tạo nên những ƣu thế và hạn chế khác nhau. Giao tiếp đại chúng là hình
thức giao tiếp gián tiếp thông qua các phƣơng tiện kỹ thuật, thể hiện định hƣớng
xã hội rõ ràng trong giao tiếp, nó có tính tổ chức và chịu sự tác động của thiết
chế xã hội, với những chuẩn mực chung ở mức độ cao, thông tin đến với công
chúng theo tính định kỳ, thể hiện rõ nét tính tập thể của nhà truyền thông. Giao
tiếp cá nhân là hình thức giao tiếp trực tiếp, trong đó có cả định hƣớng xã hội và
định hƣớng cá nhân, thể hiện rõ tính cá thể của nhà truyền thông. Tuy có cả tính
tổ chức lẫn tự phát nhƣng ngƣời tham gia giao tiếp cá nhân có thể tự do hơn
trong việc tuân thủ chuẩn mực giao tiếp và thông tin không nhất thiết phải có
tính định kỳ. Ƣu điểm nổi bật của giao tiếp cá nhân trực tiếp là sự liên hệ ngƣợc
giữa những ngƣời giao tiếp trong quá trình giao tiếp, giao tiếp đại chúng không
thực hiện đƣợc mối liên hệ này.
37. 35
1.2.3 Hiệu quả truyền thông đại chúng
Hiệu quả của truyền thông đại chúng trong đó báo chí là cơ bản đƣợc hiểu
là: “việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phƣơng pháp hoạt
động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm đạt
mục đích” [31,170].
Để đạt hiệu quả cao trong truyền thông, các nhà cung cấp phải giải quyết
tốt mối quan hệ tác động trƣớc hết từ các thiết chế xã hội mà các phƣơng tiện
truyền thông là công cụ. Thứ đến là các quan hệ từ phía công chúng. Mối quan
hệ giữa báo chí và công chúng là quan hệ biện chứng hai chiều. Mối quan hệ
này thể hiện tính chính trị - xã hội tích cực của bản thân hệ thống báo chí và
công chúng báo chí. Hiệu quả của hoạt động báo chí phụ thuộc trực tiếp vào
mối quan hệ này.
Trong góc độ nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi hiểu hiệu quả của
truyền thông đại chúng là sự thay đổi trong nhận thức, tình cảm cũng nhƣ hành
vi của công chúng so với trạng thái trƣớc khi tiếp nhận thông tin từ các phƣơng
tiện truyền thông. Hiệu quả truyền thông cao thể hiện bằng việc công chúng
luôn quan tâm theo dõi đến những vấn đề đƣợc truyền tải, luôn nhận thức xử lí
đƣợc thông điệp và biến nó thành hành động thực tiễn.
1.2.4. Công chúng của truyền thông đại chúng
Công chúng truyền thông đại chúng đƣợc chúng tôi hiểu nhƣ là đối tƣợng
của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng.
Công chúng của truyền thông đại chúng đƣợc xác định là tất cả các tầng
lớp, giai cấp, các cộng đồng ngƣời trong xã hội tiếp nhận thông tin từ các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Lƣợng công chúng của truyền thông đại
chúng là không thể xác định chính xác. Tuy nhiên, mỗi nhóm công chúng có
những đặc thù riêng, mỗi cá nhân trong đó khi chịu tác động của các thông điệp
truyền thông sẽ có những cách suy nghĩ và hành động khác nhau.
Nhà xã hội học H.Blumer đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây đề nhận dạng
khái niệm đại chúng.
38. 36
- Đại chúng bao gồm những ngƣời thuộc mọi thành phần xã hội, bất kể đại
vị nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầmh lớp xã hội nào.
- Nói đến đại chúng là nói đến những cá nhân nặc danh.
- Các thành viên của đại chúng thƣờng là cô lập nhau xét về mặt không
gian, không ai biết ai, mà cũng không có sự tƣơng tác hay những mối
quan hệ gì gắn bó với nhau ( khác với những khái niệm nhƣ “cộng đồng”
hay “ hiệp hội” ).
- Đặc điểm thứ tƣ của đại chúng là hầu nhƣ không có hình thức tổ chức gì,
hoặc nếu có thì cũng rất lỏng lẻo, và do đó khó có thể tiến hành một hoạt
động chung nào. [39]
Trong thực tế, đa số ngƣời tiếp nhận thông tin từ các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng nhất định sẽ có những trao đổi với những nhóm công chúng
khác. Nội dung thông điệp mà các phƣơng tiện truyền thông đại chúng truyền
tải thƣờng xuyên là đề tài của các cuộc tranh luận hàng ngày trong cuộc sống.
Và nhƣ vậy, ảnh hƣởng của các phƣơng tiện truyền thông đại chúng đã đƣợc mở
rộng một cách gián tiếp, cũng có thể lƣợng công chúng đƣợc mở rộng này sẽ
lớn hơn lƣợng công chúng trực tiếp tiếp nhận thông tin.
Khi mà báo chí ngày càng làm thoả mãn nhu cầu thông tin của công
chúng, thì trên cơ sở đó nhu cầu thông tin của công chúng cũng ngày một cao
hơn luôn đặt ra cho báo chí những yêu cầu mới
Công chúng tiếp nhận thông tin là cơ sở để hình thành dƣ luận xã hội , dƣ
luận xã hội tác động trở lại với hoạt động của hệ thống các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng. Thứơc đo về sự phản hồi từ công chúng là một chỉ báo căn bản
về hiệu quả hoạt động của các phƣơng tiện truuyền thông đại chúng trong việc
hình thành và định hƣớng dƣ luận xã hội. Dƣ luận từ công chúng có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của báo chí.
39. 37
1.2.5 Công chúng sinh viên báo chí
Sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng là một bộ phận chuyên
biệt của công chúng báo chí. Ngoài những đặc điểm xã hội chung ở họ mang
những dấu hiệu nhận diện đặc thù bởi vị trí, vai trò trong xã hội.
Trƣớc hết họ đƣợc xác định là nhóm dân số nằm trong độ tuổi thanh niên.
Theo luật thanh niên của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 09-
12-2005 quy định thanh niên là nhóm công dân “đủ từ 16 đến 30 tuổi” [15,17]
Sinh viên báo chí mang những dấu hiệu nhận diện đặc thù:
- Có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 – 24
- Có trình độ tri thức tƣơng đối cao trong xã hội
- Đang học tập ngành báo chí, trong một trƣờng Đại học hoặc Cao đẳng.
Ngoài ra họ còn mang những đặc điểm chung của nhóm thanh niên [35] nhƣ:
- Là nhóm dân cƣ có tốc độ phát triển nhanh về thể chất, có sức khoẻ,
nhạy bén, tiếp thu nhanh, nhu cầu xã hội cao
- Đang trong thời kỳ học hỏi, ƣớc mơ thành đạt, sáng tạo, dễ hấp thụ cái
mới, mạnh dạn, năng nổ.
- Họ luôn khát vọng vƣơn tới tầm cao của các giá trị, muốn đƣợc cống
hiến, muốn tự do dân chủ, muốn công bằng xã hội.
1.3. Địa điểm khảo sát và đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Vài nét về địa điểm khảo sát
Trƣờng Cao Đẳng Phát thanh - truyền hình TW1 trực thuộc Đài tiếng nói
Việt Nam, hiện đóng trên địa bàn phƣờng Minh Khai, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam là trƣờng Cao đẳng đầu tiên đào tạo ngành báo chí Phát thanh - Truyền
hình trên cả nƣớc.
Đƣợc thành lập trên cơ sở Trƣờng trung học Phát thanh - Truyền hình,
tiền thân là trƣờng Công nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình. Đƣợc thành
lập tháng 12 năm 1957 tại Nghi tàm, Từ liêm, Hà nội với nhiệm vụ đào tạo cán
bộ cho nghành Phát thanh - Truyền hình của các tỉnh phía Bắc từ thừa Thiên -
Huế trở ra.
40. 38
Tháng 7 năm 1996, nhà trƣờng đƣợc nâng cấp từ trƣờng Công nhân kỹ
thuật Phát thanh - Truyền hình thành trƣờng trung học Phát thanh - Truyền hình
với nhiệm cụ đào tạo kỹ thuật viên, biên tập viên bậc trung học và công nhân kỹ
thuật Phát thanh - Truyền hình bậc 3/7.
Tháng 12 năm 2003 trƣờng đƣợc nâng cấp từ Trƣờng Trung học Phát
thanh - Truyền hình lên Trƣờng Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình TW1. Đây
là một bƣớc ngoặt lớn trong quá trình phát triển của một trƣờng đào tạo của
nghành, nó đánh dấu kết quả sự nỗ lực không ngừng của các thế hệ giáo viên,
cán bộ, công nhân viên của nhà trƣờng. Mặt khác, việc nâng cấp nhà trƣờng
cũng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của phát thanh - truyền hình theo xu
hƣớng hiện đại.
Trong 50 năm qua, nhà trƣờng đã đào tạo hàng chục ngàn cán bộ kỹ thuật
và phóng viên biên tập góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển mạng lƣới Phát thanh - Truyền hình của cả nƣớc. Góp phần đào tạo nhân
lực cho ngành để thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền đƣờng lối chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nƣớc, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của
công chúng.
Tính đến nay, nhà trƣờng đã đào tạo đƣợc 11 khoá học sinh trung cấp
biên tập , kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình với khoảng 2500 học sinh. Đào tạo
7 khoá nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ các đài địa phƣơng vói gần 500 học viên.
52 khoá công nhân kỹ thuật với hơn 12000 học sinh.
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, nhà trƣờng thực hiện đa
dạng hoá các loại hình đào tạo bằng việc liên kết với trƣờng Đại học
KHXH&NV đào tạo 2 khoá sinh viên báo chí bậc đại học với gần 200 sinh viên.
Liên kết với trƣờng Đại học Công nghệ thuộc Đại học Quốc Gia Hà nội đào tạo
3 khoá với 153 sinh viên. Ngoài ra nhà trƣờng còn liện kết với Đại học Bách
Khoa Hà nội đào tạo 11 khoá cử nhân cao đẳng điện tử viễn thông, Đại học
Ngoại Ngữ Hà nội đào tạo bậc đại học, và liên kết với các trƣờng nghiệp vụ
Phát thanh - Truyền hình ở các tỉnh nhƣ: Nghệ an, Thanh hoá, Hải phòng, Hải
41. 39
dƣơng, Nam định, quận Hoàng mai Hà nội, truyền hình Cáp Hà nội…đào tạo
trên 5000 học sinh hệ trung cấp phóng viên biên tập, kỹ thuật điện tử và công
nhân kỹ thuật Phát thanh - Truyền hình.
Hiện nay, tại trƣờng đang đào tạo 4 nghành chính quy cho 2200 sinh viên
và học sinh tại trƣờng. Trong đó sinh viên nghành báo chí chiếm số lƣợng lớn
nhất với khoảng 1700 sinh viên các hệ. Ngành tin học 270 sinh viên. Ngành kỹ
thuật Phát thanh Truyền hình và kỹ thuật Điện tử viễn thông khoảng 230 sinh
viên các hệ.
Nhà trƣờng hiện có 1 hệ thống thƣ viện hiện đại, trong đó có hàng nghìn
đầu sách các loại, khoảng hơn 40 đầu báo và tạp chí với hàng trăm tờ báo…Bên
cạnh đó nhà trƣờng còn có một hệ thống truyền thanh vừa để thực hiện những
chƣơng trình phát thanh nội bộ, vừa thực hiện tiếp sóng đài Tiếng nói Việt Nam
và Đài Phát thanh Hà nam
Ngoài ra, nhà trƣờng còn trang bị hệ thống mạng Internet không dây
trong toàn trƣờng, dự kiến tới đây sẽ phủ sóng hệ thống này tới toàn bộ khu kí
túc xá sinh viên. Đây là điều kiện thuận lợi để sinh viên học tập và rèn luyện và
giải trí ngoài giờ học.
Có thể nói, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng tạo điều kiện cho công chúng tiếp thu đƣợc những yếu tố văn
hoá mới, nâng cao khả năng trong giao tiếp đại chúng và hoà nhập xã hội. Việc
đọc báo, nghe phát thanh, xem truyền hình và truy cập internet… đã trở thành
một sinh hoạt văn hoá quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
xã hội nói chung và đặc biệt là nhóm sinh viên báo chí đƣợc nghiên cứu nói
riêng.
1.3.2. Vài nét về đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát tại trƣờng Cao đẳng Phát thanh - Truyền
hình TW1 trực thuộc Đài Tiếng nói Việt Nam, đóng trên địa bàn phƣờng Minh
Khai, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam năm 2007. Cụ thể là :
42. 40
- Nhóm sinh viên năm thứ nhất đƣợc khảo sát đối vói sinh viên hệ trung
cấp báo chí K11.
- Nhóm sinh viên năm thứ ba đƣợc khảo sát đối vói sinh viên hệ cao đẳng
báo chí K2.
- Nhóm sinh viêm năm thứ năm đƣợc khảo sat đối với sinh viên hệ đại học
báo chí K1.
Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu nhƣ sau:
Tổng số 400 phiếu đƣợc chia theo các nhóm sinh viên. Cụ thể là:
Cơ cấu về giới tính trong mẫu nghiên cứu
Giới tính Số lượng trong mẫu Tỉ lệ %
Nam 154 38.5
Nữ 246 61.5
Tổng 400 100
Độ tuổi trong mẫu nghiên cứu:
Nhóm tuổi Số lượng trong mẫu Tỉ lệ %
18 - 20 136 34
21 – 23 239 60
>24 25 6
Tổng 400 100
Bậc đào tạo của mẫu nghiên cứu:
Bậc đào tạo Số lượng trong mẫu Tỉ lệ %
Bậc trung cấp 100 25
Bậc cao đẳng 200 50
Bậc đại học 100 25
Tổng 400 100
Nhóm đối tượng Số lượng trong mẫu Tỉ lệ %
Sinh viên năm thứ nhất 100 25
Sinh viên năm thứ ba 200 50
Sinh viên năm thứ năm 100 25
Tổng 400 100
43. 41
CHƢƠNG II
HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI CÔNG CHÚNG SINH VIÊN
BÁO CHÍ
2.1. Các phương tiện truyền thông đại chíng và cách thức tiếp nhận của công
chúng sinh viên báo chí
2.1.1. Các phương tiện truyền thông đại chúng
Trong những năm đầu của thế kỷ 21, tình hình kinh tế - xã hội của Việt
Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỷ lệ tăng trƣởng GDP ở
mức cao trung bình 7%, đến năm 2005, đạt mức 8,4% [42].
Kinh tế phát triển, đời sống của ngƣời dân đƣợc nâng cao, trình độ dân
chí phát triển (hiện nay, tỷ lệ mù chữ ở Việt Nam chƣa đầy 7%, “Rất thấp so với
thế giới” [42]). Theo tổng kết của Bộ văn hoá – Thông tin, trong thời kỳ đổi
mới, “Hệ thống báo chí nƣớc ta có bƣớc phát triển quan trọng cả về loại hình, số
lƣợng và chất lƣợng” [26], với đầy đủ các phƣơng tiện truyền thông tiên tiến
nhất trên thế giới. Ngoài sự phát triển khởi sắc của 3 loại hình báo chí truyền
thống là báo in, báo nói, báo hình, là sự nở rộ của loại hình báo điện tử (hay còn
gọi là báo trực tuyến, báo online), và sự “kì diệu” của các loại hình báo chí qua
điện thoại di động. Thực sự chúng tôi chƣa dám khẳng định số liệu chính thức
và mới nhất về báo chí Việt Nam hiện nay, cũng nhƣ chƣa có đƣợc số liệu tăng
trƣởng báo chí trong vòng 5 năm trở lại đây. Số liệu đƣợc xem là chính thức đối
với báo chí trong và ngoài nƣớc dừng lại ở mốc năm 2005, chủ yếu lấy từ hai
nguồn: Bộ Văn hoá – Thông tin (các phát biểu trƣớc báo giới của Bộ trƣởng Bộ
Văn hoá – Thông tin Phạm Quang Nghị và Thứ trƣởng Bộ Văn hoá – Thông tin
Đỗ Quý Doãn) và Ban Tƣ tƣởng – Văn hoá Trung ƣơng (Phát biểu của Trƣởng
Ban Tƣ tƣởng – Văn hoá Trung ƣơng Nguyễn Khoa Điềm). Các số liệu cập nhật
về mảng báo nói, báo hình, báo trực tuyến và các thông tin khác chủ yếu trích
dẫn từ các báo và các câu chuyện hậu trƣờng nghề báo.
44. 42
2.1.1.1. Về báo in
Theo thống kê của Bộ Văn hoá – Thông tin, nƣớc ta hiện có 553 cơ quan
báo chí, trong đó có 157 tờ báo và 396 Tạp chí với 713 ấn phẩm báo chí và
khoảng hơn 1.000 bản in [26].
(Ngoài ra, còn có một số liệu khác là 676 cơ quan báo chí trong đó có 618
“Loại báo in” với hơn 600 triệu bản/năm2
).
Theo nhận định của tác giả Nguyễn Lê Hoàn,“kể từ khi mở cửa kinh tế,
số lượng báo viết Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đến 2004 có hơn 500 cơ
quan báo chí với khoảng trên 650 ấn phẩm thay vì 268 ấn phẩm năm 1992.”
[15]. Nhƣ vậy, chỉ trong vòng 12 năm, số lƣợng ấn phẩm ở nƣớc ta đã tăng gần
gấp 3.
Về tổng số lƣợng phát hành, theo giáo trình “Công tác tổ chức và quản lý
cơ quan báo chí”, giảng viên Bùi Huy Lan cho biết con số phát hành bình quân
của hơn 700 ấn phẩm báo, tạp chí, bản in, xuất bản là gần 2triệu bản/ngày, trong
đó tổng số phát hành của khoảng 160 tờ báo là 1,7 triệu bản/ngày và của 400 tờ
tạp chí là 300.000 bản/ngày. Cả nƣớc có gần 20 tờ báo xuất bản hàng ngày
(đƣợc gọi và không đƣợc gọi là nhật báo), với con số phát hành khoảng 1,2 triệu
bản/ngày; có gần 20 bản tin thời sự, tin chuyên ngành, tin Thông Tấn Xã xuất
bản hàng ngày với số lƣợng phát hành hàng trăm ngàn bản/ngày. Tính bình
quân số phát hành các ấn phẩm hàng năm là 600 triệu bản/ năm. Có những tờ
báo đạt tới con số phát hành 380.000 bản/ngày nhƣ tờ Tuổi Trẻ (Số liệu năm
2006), song cũng có những tờ báo chỉ đạt ở mức 1500 – 2000 bản/ngày nhƣ hầu
hết các tờ báo Đảng ở địa phƣơng.
Tình hình đầu năm 2006 lại càng thấy rõ sự phát triển quyết liệt ở mảng
báo in: TP.HCM từ chỉ có 1 tờ nhật báo đúng nghĩa (tờ Sài Gòn Giải Phóng)
nay đã có đến 3 tờ (thêm Tuổi Trẻ và Thanh Niên). Các tờ báo cũng đồng loạt ra
những ấn phẩm mới, nhất là ấn phẩm ngày chủ nhật (cuộc chiến của báo Tuổi
trẻ với báo Thanh niên, báo Pháp Luật), tạo nên sự đa dạng các ấn phẩm báo chí
45. 43
ngay trong cùng một cơ quan. Các báo có sự cải tiến về mặt nội dung và hình
thức, thêm nhiều chuyên mục mới, đặc biệt có sự đổi mới ở các trang quảng
cáo, (những tờ báo lớn thƣờng tặng kèm trang thông tin tiêu dùng). Về mảng tạp
chí, tác giả Văn Hùng, công tác ở Vụ Báo chí (Ban Tƣ tƣởng – Văn hoá Trung
ƣơng) qua bài viết “Phát triển và quản lý hệ thống tạp chí” đã cho thấy một nhận
định gần nhƣ toàn diện về tạp chí ở nƣớc ta. Theo đó, hiện nay, số đầu tạp chí
lớn hơn nhiều so với số đầu báo, có gần 400 tạp chí các loại trong khi chỉ có
khoảng 200 đầu báo. Từ các tạp chí xuất bản hàng quý, hai tháng, hàng tháng,
đến nay, nổi trội là các tờ tạp chí ra 2- 4 kỳ/tháng (Tạp chí Thế giới mới, Tạp
chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dƣơng, Tạp chí Thƣơng mại, Tạp chí Thời trang
trẻ, Tạp chí Tiếp thị Việt Nam, Tạp chí Gia đình Việt Nam…) Xu hƣớng tăng
kỳ phát hành là kết quả của sự ra đời loại tạp chí mang tính giải trí, đánh trúng
thị hiếu của độc giả, đẩy số phát hành lên cao.
Góp phần làm toàn diện hơn bức tranh về tình hình báo chí của Việt Nam
những năm gần đây, cũng không thể bỏ qua vai trò của hãng thông tấn quốc gia-
Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN). Ngoài chức năng là ngân hàng tin, TTXVN
còn là cơ quan chủ quản của nhiều tờ báo, trong đó có các tờ Tin Tức, Viet Nam
news,… TTXVN có bề dày lịch sử hơn 60 năm hoạt động, với mạng lƣới phân
xã ở 64 tỉnh thành trong cả nƣớc và hơn 20 phân xã thƣờng trú ở nƣớc ngoài,
chuyên cung cấp cho Trung ƣơng Đảng, Chính phủ, các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng, các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nƣớc cùng hàng triệu
độc giả những thông tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài
nƣớc[2].
2.1.1.2. Về Ph¸t thanh –
TruyÒn hình:
Do lịch sử gắn liền của đài phát thanh - và đài truyền hình ở nƣớc ta và do
kiến thức chuyên sâu còn giới hạn, ngƣời viết trình bày gộp hai mảng báo nói (
phát thanh) và báo hình (truyền hình).
Tổng hợp thông tin từ Bộ Văn Hoá – Thông tin, giáo trình “Công tác tổ
chức và quản lý báo chí” của giảng viên Bùi Huy Lan, và thông tin trên một số