1. LỜI NÓI ĐẦU
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành hoạt động sản xuất.
Hoạt động sản xuất là hoạt động tự giác có ý thức của con người nhằm biến các
vật thể tự nhiên thành các vật phẩm có ích phục vụ cho mình. Con người khi
tiến hành làm bất cứ việc gì cũng luôn mong muốn đạt hiệu quả cao với những
chi phí tối thiểu nhưng đem lại lợi ích tối đa cho mình. Một trong những hoạt
động quan trọng và được con người tiến hành thường xuyên là hoạt động sản
xuất kinh doanh. Để hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành đạt được kết quả
như mong muốn thì điều tất yếu là phải thực hiện chức năng quản lý và để có
thể thực hiện tốt chức năng quản lý thì không thể thiếu thông tin. Thông tin
cung cấp cho quản lý được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau và bằng
nhiều cách khác nhau, trong đó có các thông tin về hoạt động tài chính.
Hoạt động tài chính là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nó có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu tạo
vốn trong doanh nghiệp đến khâu phân phối tiền lãi thu được từ quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Nhiệm vụ của hoạt động tài chính là phải huy động đủ vốn đáp ứng cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh, đồng thời phải quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, chính sách, chế độ quy định
về tài chính tín dụng của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, tình hình tài chính của doanh nghiệp là một
vấn đề được rất nhiều người quan tâm nhất là những người quan tâm đến hoạt
động của doanh nghiệp . Chính vì vậy, phân tích tình hình tài chính là một việc
làm vô cùng cần thiết. Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nhằm đánh
giá được đầy đủ, chính xác tình hình tổ chức, phân phối, sử dụng và quản lý các
loại vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, vạch rõ khả năng tiềm tàng và xu
hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Thông qua việc quản lý, sử
dụng các nguồn vốn, đề xuất các biện pháp cần thiết và có hiệu quả để khai
thác tới mức cao nhất những khả năng tiềm tàng để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn phục vụ tốt cho sản xuất kinh doanh.
Tài liệu dùng để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp chủ yếu dựa
vào các số liệu trên báo cáo tài chính được lập theo định kỳ trong đó bảng cân
đối kế toán được sử dụng nhiều nhất trong việc phân tích vì nó phản ánh khá
1
2. đâỳ đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Kết quả của việc phân tích tình
hình tài chính cho ta biết thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tại thời điểm phân tích.
Vì vậy em chọn đề tài tốt nghiệp là: “Phân tích tình hình tài chính của
Công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình”. Ngoài mở đầu và kết luận
đồ án gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về phân tích tài chính trong doanh nghiệp .
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của Công ty tư vấn giám sát và xây
dựng công trình.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính của
công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình.
2
3. CHƯƠNG 1
Những vấn đề cơ bản về phân tích
tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp :
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các
công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác
về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi
ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó, khả năng và
tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định
tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro
phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh
toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng
sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục
nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích
tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính - một trong các hướng dự đoán doanh
nghiệp. Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau :
với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết định nội bộ), với mục đích nghiên
cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích( trong doanh nghiệp hoặc ngoài
doanh nghiệp )
1.1.2. Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc
phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối
chiếu, so sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá
khứ nhằm mục đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những
rủi ro trong tương lai. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình
3
4. hình tài sản, vốn và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh
trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối việc quản trị doanh
nghiệp, đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người bên
ngoài doanh nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo tài chính là mối quan tâm của
nhiều nhóm người khác nhau như nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các
cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà cho vay tín dụng, các cơ quan
chính phủ, người lao động... Mỗi nhóm người này có những nhu cầu thông tin
khác nhau.
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý
tài chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác
nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng...
kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau.
1.1.2.1. Đối với người quản lý doanh nghiệp :
Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm
kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt
các nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có
khả năng thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp
phải giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây :
Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình
sản xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh
nghiệp.
Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào?
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là
phải có tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản
4
5. ánh bên phải của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ
phiếu hoặc vay nợ dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm
còn nợ dài hạn có thời hạn trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch
giữa giá trị của tổng tài sản và nợ của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra ở đây là
doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với cơ cấu như thế nào cho phù hợp và
mang lại lợi nhuận cao nhất. Liệu doanh nghiệp có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ
sở hữu để đầu tư hay kết hợp với cả các hình thức đi vay và đi thuê? Điều này
liên quan đến vấn đề cơ cấu vốn và chi phí vốn của doanh nghiệp.
Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày
như thế nào?
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến
vấn đề quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn
gắn liền với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý
sự lệch pha của các dòng tiền.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh
nghiệp, nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh
nghiệp là cơ sở để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính
và dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định
vì lợi ích của cổ đông của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của nhà
quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính
và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương
trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một
cách vững chắc. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt và mang lại sự giàu có
cho chủ sở hữu khi các quyết định của nhà quản lý được đưa ra là đúng đắn.
Muốn vậy, họ phải thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp, các nhà phân tích
tài chính trong doanh nghiệp là những người có nhiều lợi thế để thực hiện phân
tích tài chính một cách tốt nhất.
5
6. Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng
thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh
lãi, nhà quản lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định
hướng cho giám đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định
đầu tư, tài trợ, phân chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối
cùng phân tích tài chính còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
1.1.2.2. Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn
vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài
chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các
doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào
doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới
việc giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh
nghiệp. Chính vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ
rủi ro và doanh lợi đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là
khả năng tăng trưởng, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong
doanh nghiệp. Trước hết họ quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên
cơ sở phân tích các thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng
năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển
của doanh nghiệp; từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ
chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện
tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền
cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền
vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở hữu doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp
cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng vì nó trực tiếp tác động đến
thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được
chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn
6
7. tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực
vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập
trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng
quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy,
các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ
phần, mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị
trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả
của việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện
phân tích tài chính.
1.1.2.3. Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực
hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp
thì phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng
thương mại cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh
nghiệp.
Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp
được xem xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những khoản
cho vay ngắn hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán
nhanh của doanh nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với
các món nợ khi đến hạn trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay
phải tin chắc khả năng hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc
hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng sinh lời này.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của
họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc
biệt đến số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó
so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất
quan tâm tới số vốn của chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ
trong trường hợp doanh nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay
đổi theo bản chất và theo thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay
7
8. dài hạn hay ngắn hạn thì người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu
hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay.
Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ
phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay
không, họ cần phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và
trong thời gian sắp tới.
1.1.2.4. Đối với người lao động trong doanh nghiệp
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp,
người được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin
tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của
người lao động. Ngoài ra trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham
gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những
người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
1.1.2.5. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà
nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt
động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo
đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi
phí, giá thành, tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng...
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân
tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ
thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng
thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát,
lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những
điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để
nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và
đầu tư phù hợp.
1.1.3. Nhiệm vụ của phân tích tài chính.
8
9. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài
chính là việc cung cấp những thông tin chính xác về moị mặt tài chính của
doanh nghiệp, bao gồm:
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn
cho sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn
- Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và
kết quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán.
- Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh
hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp
có hiệu quả để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực
tiềm tàng của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
1.2. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho
việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai
của doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích tài chính không chỉ giới
hạn trong phạm vi nghiên cứu các báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các
lĩnh vực :
- Các thông tin chung về kinh tế, thuế, tiền tệ.
- Các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1. Thông tin chung
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của
nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của
giá cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều
hướng có lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng,
lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên
khi những biến động của tình hình kinh tế là bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến
9
10. kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy để có được sự đánh giá
khách quan và chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, chúng ta phải
xem xét cả thông tin kinh tế bên ngoài có liên quan.
1.2.2. Thông tin theo ngành kinh tế
Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành kinh tế là việc đặt sự phát triển
của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh
doanh.
Đặc điểm của ngành kinh doanh liên quan tới:
-Tính chất của các sản phẩm.
- Quy trình kỹ thuật áp dụng.
- Cơ cấu sản xuất : công nghiệp nặng hoặc công nghiệp nhẹ, những cơ cấu
sản xuất này có tác động đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn dự trữ...
- Nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế.
Việc kết hợp các thông tin theo ngành kinh tế cùng với thông tin chung và
các thông tin liên quan khác sẽ đem lại một cái nhìn tổng quát và chính xác nhất
về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là
hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể
đánh giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.2.3. Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục
tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên
ngoài, thông tin số lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể
đưa ra nhận xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông
tin đặc biệt cần thiết. Nó được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán của
doanh nghiệp. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài
chính được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán.
Các báo cáo tài chính gồm có:
1.2.3.1. Bảng cân đối kế toán
10
11. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính
của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đấy là một báo cáo
tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định, dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài
sản. Xét về bản chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài
sản với vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả( nguồn vốn).
Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bản
cân đối kế toán.Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu, đánh giá một cách tổng
quát tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và
những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán có hai hình thức trình bày:
- Hình thức cân đối hai bên: Bên trái là phần tài sản, bên phải là phần
nguồn vốn.
- Hình thức cân đối hai phần liên tiếp: phần trên là phần tài sản, phần
dưới là phần nguồn vốn.
Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần luôn luôn
bằng nhau.
Tài sản = Nguồn vốn
Hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu+ Nợ phải trả
• Phần tài sản: Bao gồm có tài sản lưu động và tài sản cố định.
Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có
quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích
trong tương lai.
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát
về quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng
vốn của doanh nghiệp.
11
12. • Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản
ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật
chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn( Nhà nước, ngân hàng, cổ
đông, các bên liên doanh...). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn
vốn thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh
doanh, về số tài sản hình thành và trách nhiệm phải thanh toán các khoản
nợ( với người lao động, với nhà cung cấp, với Nhà nước...).
Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản
hiện có, căn cứ vào đó có thể biết tỷ lệ, kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng
thời phần nguồn vốn cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Tác dụng của phân tích bảng cân đối kế toán:
+ Cho biết một cách khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua
các chỉ tiêu về tổng tài sản và tổng nguồn vốn.
+ Thấy được sự biến động của các loại tài sản trong doanh nghiệp : tài sản
lưu động, tài sản cố định.
+ Khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và các
khoản phải trả.
+ Cho biết cơ cấu vốn và phân bổ nguồn vốn trong doanh nghiệp.
1.2.3.2. Báo cáo kết quả kinh doanh
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân
tích tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh.
Khác với bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự
dịch chuyển của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó
cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiẹp trong tương lai. Báo cáo
kết quả sản xuất kinh doanh đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích so sánh
doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí
12
13. phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có
thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy,
báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm
năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Biểu mẫu “Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh” có 3 phần:
+ Phần I: Lãi, lỗ.
+ Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
+ Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được
miễn giảm.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập trên cơ
sở các tài liệu:
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
+ Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9.
+ Sổ kế toán các tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” và tài
khoản 333 “Thuế GTGT phải nộp”.
Tác dụng của việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu,
lợi nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh
nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta
đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh
nghiệp kinh doanh có lãi hay bị lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là
bao nhiêu. Từ đó tính được tốc độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ trước và dự
đoán tốc độ tăng trong tương lai.
Ngoài ra, qua việc phân tích tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà
nước, ta biết được doanh nghiệp có nộp thuế đủ và đúng thời hạn không. Nếu số
13
14. thuế còn phải nộp lớn chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
là không khả quan.
Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta
có những nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà
bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin
của doanh nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải
(tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho
biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh
doanh, thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan
đến luồng tiền vào ra trong doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh
nghiệp. Những luồng vào ra của tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp
thành ba nhóm : lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu
chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất
thường.
1.2.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng
thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được
trình bày nhằm giúp cho người đọc và phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài
chính có một cái nhìn cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục
trong bảng cân đối kế toán và kết quả hoạt động kinh doanh.
“Thuyết minh báo cáo tài chính” được lập căn cứ vào những số liệu và
những tài liệu sau:
+ Các sổ kế toán kỳ báo cáo.
+ Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo.
14
15. + Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo.
+ Thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước, năm trước.
“ Thuyết minh báo cáo tài chính” trình bày 7 chỉ tiêu nhằm cụ thể hoá các
chỉ tiêu mà bảng cân đối kế toán không thể nêu lên hết được bao gồm:
+ Chỉ tiêu 1: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
+ Chỉ tiêu 2: Chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp.
Khi lập hai chỉ tiêu này, phải quán triệt các nguyên tắc chung sau:
- Phần trình bày bằng lời văn phải ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu.
- Phần trình bày bằng số liệu phải thống nhất với số liệu trên cỏc báo
cáo khác
- Các chỉ tiêu thuộc phần chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải
thống nhất trong cả niên độ kế toán d?i với các báo cáo quý. Nếu có sự thay đổi
phải trình bày rõ ràng những lý do thay đổi.
- Trong các biểu số liệu, cột “số kế hoạch” thể hiện số liệu kế hoạch của
kỳ báo cáo, cột” số thực tế kỳ trước” thể hiện số liệu của kỳ ngay trước kỳ báo
cáo.
- Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp
chỉ sử dụng trong thuyết minh báo cáo tài chính năm.
+ Chỉ tiêu 3: “Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính” bao gồm:
3.1. Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố: phản ánh toàn bộ chi
phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp, được phân chia
theo các yếu tố chi phí như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu.
- Chi phí nhân công.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí khác bằng tiền.
15
16. 3.2. Tình hình tăng giảm tài sản cố định: phản ánh tổng số tăng giảm
của tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định thuê tài chính, tài sản cố định vô
hình theo từng nhóm tài sản trong kỳ báo cáo như nhà cửa, máy móc, thiết
bị...cả về nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại và lý do tăng, giảm chủ yếu.
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được lấy từ các tài khoản 211, 212, 213,
214 trong sổ cái.
3.3.Tình hình thu nhập của công nhân viên: phản ánh tổng số thu
nhập bình quân của công nhân viên từ tiền lương và các khoản tiền thưởng, các
khoản phụ cấp, trợ cấp có tính chất luong và các khoản tiền thưởng trước khi trừ
các khoản giảm trừ trong kỳ báo cáo.
3.4.Tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu: phản ánh tổng số tăng giảm
các nguồn vốn chủ sở hữu trong kỳ báo cáo như nguồn vốn kinh doanh, quỹ đầu
tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính...theo từng loại nguồn vốn và theo từng
nguồn cấp như ngân sách cấp, chủ sở hữu góp, nhận vốn góp liên doanh...và lý
do tăng giảm chủ yếu.
3.5. Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào đơn vị khác: phản ánh
tổng số tăng, giảm, kết quả các khoản đầu tư vào đơn vị khác theo từng loại đầu
tư trong kỳ báo cáo như đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh ngắn hạn, dài
hạn...và lý do tăng giảm chủ yếu.
3.6. Các khoản phải thu và nợ phải trả: phản ánh tình hình tăng giảm
các khoản phải thu và nợ phải trả, các khoản đã quá hạn thanh toán, đang tranh
chấp hoặc mất khả năng thanh toán trong kỳ báo cáo theo từng đối tượng cụ thể
và lý do chủ yếu.
+ Chỉ tiêu 4: “Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh”.
+ Chỉ tiêu 5: “Phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực
trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ” bao gồm:
- Bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn.
16
17. - Khả năng thanh toán.
- Tỷ suất sinh lời.
+ Chỉ tiêu 6: “ Đánh giá tổng quát các chỉ tiêu”. Đây là phần doanh
nghiệp tự đánh giá khái quát tình hình thực hiện các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo
của mình cùng những khó khăn, thuận lợi mà doanh nghiệp gặp phải trong kỳ
báo cáo.
+ Chỉ tiêu 7: “ Các kiến nghị”
Doanh nghiệp đề xuất các kiến nghị với các cơ quan hữu quan về các
vấn đề liên quan đến chế độ, chính sách...trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tác dụng của việc phân tích” Thuyết minh báo cáo tài chính”
Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung những thông
tin chi tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh
trong kỳ của doanh nghiệp. Cụ thể:
+ Phân tích chỉ tiêu “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” sẽ cho ta
biết tình hình biến động của chi phí trong kỳ theo từng yếu tố chi phí: nguyên
vật liệu, nhân công, khấu hao.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm tài sản cố định” sẽ cho ta biết
được tình hình biến động của tài sản cố định trong kỳ theo từng loại. Qua đó,
đánh giá được tình hình đầu tư, trang bị tài sản cố định của doanh nghiệp và xây
dựng được kế hoạch đầu tư.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình thu nhập của công nhân viên” sẽ giúp ta
có những đánh giá chính xác hơn về sự phát triển của doanh nghiệp bởi vì không
thể nói một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nếu thu nhập của người lao
đông có xu hướng giảm theo thời gian và thấp so với mặt bằng chung được. Thu
nhập của công nhân viên phải gắn liền với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu” để
thấy được tình hình biến động của tổng số nguồn vốn chủ sở hữu cũng như từng
17
18. loại nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Qua đó, đánh giá được tính hợp lý
của việc hình thành và sử dụng từng nguồn vốn chủ sở hữu.
+ Phân tích “Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác”
để nắm được tình hình đầu tư và hiệu quả đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Phân tích chỉ tiêu “Các khoản phải thu và nợ phải trả” sẽ nắm được
tình hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của
doanh nghiệp.
Tình hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản phải trả là một
trong những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất lượng hoạt động tài chính. Nếu
hoạt động tài chính tốt, lành mạnh doanh nghiệp sẽ thanh toán kịp thời các
khoản nợ phải trả cũng như thu kịp thời các khoản nợ phải thu, tránh được tình
trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau cũng như tình trạng công nợ dây dưa kéo dài,
tình trạng tranh chấp, mất khả năng thanh toán.
+ Phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận sẽ phản ánh hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Các tỷ suất lợi nhuận càng lớn so với trước
thì chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng tăng.
1.3. Các bước tiến hành phân tích tài chính
1.3.1.Các bước tiến hành phân tích tài chính
1.3.1.1. Thu thập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và
thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình
dự đoán tài chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ đến những thông tin
bên ngoài, những thông tin kế toán và những thông tin quản lý khác, những
thông tin về số lượng và giá trị...trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập
trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc
biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo
tài chính doanh nghiệp.
1.3.1.2. Xử lý thông tin
18
19. Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã
thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ
nghiên cứu, ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau
phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra : Xử lý thông tin là quá trình xắp xếp các
thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích,
đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá
trình dự đoán và quyết định.
1.3.1.3. Dự đoán và quyết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần
thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra những quyết định tài
chính. Có thể nói mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài
chính. Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích tài chính nhằm đưa ra những quyết
định liên quan đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát
triển, tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
1.3.2.Trình tự phân tích tài chính
Trình tự tiến hành phân tích tài chính tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích
ứng với từng giai đoạn dự đoán tài chính theo sơ đồ sau :
Giai đoạn dự đoán Nghiệp vụ phân tích
Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin
- Thông tin kế toán nội bộ
- Thông tin khác từ bên ngoài
áp dụng các công cụ phân tích
- Xử lý thông tin kế toán
- Tính toán các chỉ số
- Tập hợp các bảng biểu
Xác định các biểu hiện đặc trưng Giải thích và đánh giá các chỉ số,
bảng biểu
- Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn
- Điểm mạnh và điểm yếu
- Cân bằng tài chính
- Năng lực hoạt động tài chính
- Cơ cấu vốn và chi phí vốn
- Cơ cấu đầu tư và doanh lợi
19
20. Phân tích thuyết minh
- Nguyên nhân khó khăn
- Phương tiện thành công và điều kiện bất
lợi
Tổng hợp quan sát
Tiên lượng và chỉ dẫn
Xác định :
- Hướng phát triển
- Giải pháp tài chính hoặc GP khác
Tuy nhiên, trình tự phân tích và một số tiểu tiết cũng có thể thay đổi hoặc
bỏ qua một số bước tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng doanh nghiệp.
1.4. Các phương pháp phân tích tài chính
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử
dụng tài sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và
tình hình biến động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các
báo cáo tài chính với nhau.
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng hai phương
pháp: phương pháp phân tích ngang và phương pháp phân tích dọc báo cáo tài
chính.
Phân tích ngang báo cáo tài chính là việc so sánh đối chiếu tình hình biến
động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài
chính, còn phân tích dọc là việc sử dụng các quan hệ tỷ lệ, các hệ số thể hiện
mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo
cáo tài chính với nhau để rút ra kết luận.
Cụ thể, trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp so sánh.
20
21. Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ
yếu trong phân tích tài chính để đánh kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến
đổi của chỉ tiêu phân tích.
Có nhiều phương thức so sánh và sử dụng phương thức nào là tuỳ thuộc
vào mục đích và yêu cầu của việc phân tích.
+ So sánh chỉ tiêu thực tế với các chỉ tiêu kế hoạch, dự kiến hoặc định
mức. Đây là phương thức quan trọng nhất để đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu
kế hoạch, định mức và kiểm tra tính có căn cứ của nhiệm vụ kế hoạch được đề
ra.
+ So sánh chỉ tiêu thực hiện giữa các kỳ trong năm và giữa các năm cho
thấy sự biến đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tương ứng của
doanh nghiệp cùng loại hoặc của doanh nghiệp cạnh tranh.
+ So sánh các thông số kinh tế- kỹ thuật của các phương án sản xuất
kinh doanh khác nhau của doanh nghiệp.
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể
so sánh được của các chỉ tiêu:
+ Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng phải thống nhất về mặt số lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thống nhất về nội
dung, cơ cấu của các chỉ tiêu.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính ra các chỉ tiêu
này bằng những đơn vị tính đổi nhất định.
+ Khi không so sánh được bằng các chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể so sánh
bằng các chỉ tiêu tương đôí. Bởi vì, trong thực tế phân tích, có một số trường
hợp, việc so sánh các chỉ tiêu tuyệt đối không thể thực hiện được hoặc không
21
22. mang một ý nghĩa kinh tế nào cả, nhưng nếu so sánh bằng các chỉ tiêu tương đối
thì hoàn toàn cho phép và phản ánh đầy đủ, đúng đắn hiện tượng nghiên cứu.
Trong phân tích so sánh có thể sử dụng số bình quân, số tuyệt đối và số
tương đối.
Số bình quân phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát
triển không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng đó, hay nói cách
khác, số bình quân đã san bằng mọi chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu...Số
bình quân có thể biểu thị dưới dạng số tuyệt đối hoặc dưới dạng số tương đối( tỷ
suất). Khi so sánh bằng số bình quân sẽ thấy mức độ đạt được so với bình quân
chung của tổng thể, của ngành, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật.
Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy rõ khối lượng, quy mô của hiện
tượng kinh tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản
ánh, cách tính toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường.
Sử dụng số tương đối để so sánh có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu
của hiện tượng kinh tế, đặc biệt có thể liên kết các chỉ tiêu không giống nhau để
phân tích so sánh. Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được thực chất bên
trong cũng như quy mô của hiện kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi so
sánh cần kết hợp đồng thời cả số tuyệt đối và số tương đối.
1.4.2. Phương pháp loại trừ.
Phương pháp này được áp dụng rộng rãi để xác định xu hướng và mức độ
ảnh hưởng của từng nhân tố đối với chỉ tiêu phân tích. Khi phân tích, để nghiên
cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố
khác.
Trong thực tế phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích kinh tế
dưới 2 dạng là: phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch.
1.4.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn.
Là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách thay thế
lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định
22
23. trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu vừa
tính được với trị số của chỉ tiêu khi chưa có biến đổi cuả nhân tố cần xác định sẽ
tính được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó.
Điều kiện áp dụng phương pháp là mối quan hệ giữa nhân tố cần đo ảnh
hưởng và chỉ tiêu phân tích phải thể hiện được dưới dạng công thức. Ngoài ra
việc sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đối với
các chỉ tiêu phân tích phải theo thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhấn tố chất
lượng. Trình tự thay thế các nhân tố phải tuân theo nguyên tắc nhất định vừa
phù hợp với ý nghĩa của hiện tượng nghiên cứu vừa phải đảm bảo mối liên hệ
chặt chẽ về thực chất của các nhân tố.
Trình tự thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn:
+ Bước 1: Sơ bộ phân tích về mặt lý luận mối quan hệ giữa các nhân tố và
chỉ tiêu kết quả và phân loại các nhân tố thành nhân tố số lượng và nhân tố chất
lượng.
+ Bước 2: Sắp xếp các nhân tố theo thứ tự: nhân tố đứng sau chất lượng
hơn nhân tố đứng trước.
X= a* b* c* d
Số liệu kế hoạch: X0=a0*b0*c0*d0
Số liệu thực tế: X1= a1*b1*c1*d1
+ Bước 3: Lập các tích số trung gian và ở mỗi tích số sau, chỉ tiêu báo cáo
được thay thế tương ứng cho chỉ tiêu kế hoạch.
X01= a1*b0*c0*d0
X02= a1*b1*c0*d0
X03= a1*b1*c1*d0
+ Bước 4: Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bằng cách lấy tích
số thứ hai trừ đi tích số thứ nhất, tích số thứ ba trừ đi tích số thứ hai, tích số thứ
tư trừ đi tích số thứ thứ ba...
23
24. ∆Xa=( a1*b0*c0*d0)-(a0*b0*c0*d0)
∆Xb=( a1*b1*c0*d0)-( a1*b0*c0*d0)
∆Xc=(a1*b1*c1*d0)-(a1*b1*c0*d0)
∆Xd=(a1*b1*c1*d1)-(a1*b1*c1*d0)
Như vậy, khi có n nhân tố thì có( n- 1) lần thay thế tức là lập được( n- 1)
tích số trung gian. Khi thay đổi trình tự thay thế thì mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố sẽ thay đổi, còn tổng mức độ ảnh hưởng của chúng thì không đổi.
Ưu điểm của phương pháp thay thế liên hoàn: Xác định được mức độ và
chiều hướng ảnh hưởng của các nhân tố, sắp xếp các nhân tố theo mức độ ảnh
hưởng của chúng, từ đó sẽ có biện pháp nhằm khai thác, thúc đẩy những nhân tố
tích cực và hạn chế những nhân tố tiêu cực.
Nhược điểm của phương pháp thay thế liên hoàn:
- Không có khả năng luận cứ rõ ràng trình tự cụ thể về sự thay thế của các
nhân tố cũng như tính quy ước của việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng thành
các nhân tố số lượng và các nhân tố chất lượng. Điều này càng trở nên khó khăn
khi có nhiều nhân tố trong tính toán phân tích.
- ảnh hưởng của mỗi nhân tố được xem xét tách rời, không tính đến mối
quan hệ qua lại của nó với các nhân tố khác, mặc dù sự thay đổi của một trong
các nhân tố dẫn tới sự thay đổi của các nhân tố khác.
1.4.2.2. Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp số chênh lệch thực chất là phương pháp rút gọn của phương
pháp thay thế liên hoàn. Do vậy, nó cũng đòi hỏi những điều kiện và cũng có
những ưu điểm, hạn chế như thay thế liên hoàn.
Theo phương pháp này, mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó đối với chỉ
tiêu tổng hợp được xác định bằng số chênh lệch của nhân tố đó nhân với các
nhân tố khác được cố định trong khi lập tích số.
Trình tự tiến hành phương pháp số chênh lệch:
24
25. - Xác định số chênh lệch tuyệt đối với dấu tương ứng của mỗi một nhân
tố.
- Nhân số chênh lệch của mỗi một nhân tố với số kế hoạch của các nhân
tố khác chưa đo ảnh hưởng và với số thực tế của các nhân tố khác đã đo ảnh
hưởng.
1.4.3. Phương pháp liên hệ
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các
mặt, các bộ phận...Để lượng hoá các mối liên hệ đó, ngoài các phương pháp đã
nêu, trong phân tích kinh doanh còn phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ
biến như: liên hệ cân đối, liên hệ thuận nghịch, liên hệ tương quan.
1.4.3.1. Phương pháp liên hệ cân đối
Phương pháp liên hệ cân đối thường thể hiện dưới hình thức phương thức
trình kinh tế hoặc bảng cân đối kinh tế.
Nội dung chủ yếu của bảng cân đối kinh tế gồm hai hệ thống chỉ tiêu có
quan hệ trực tiếp với nhau về mặt chỉ tiêu. Khi thay đổi một thành phần hệ thống
chỉ tiêu đó sẽ dẫn tới sự thay đổi một hoặc một số thành phần khác nhưng sự
thay đổi đó vẫn đảm bảo sự cân bằng của bảng cân đối kinh tế. Khi phân tích
thường dùng để kiểm tra việc ghi chép hoặc để tính toán các chỉ tiêu.
Để tính mức độ ảnh hưởng của nhiều nhân tố một cách đồng thời đến
một chỉ tiêu nào đó:
∆Tổng= ∑=
∆
n
i
i
1
1.4.3.2. Phương pháp liên hệ thuận nghịch.
C= N
T
Trong đó: C- chỉ tiêu cá biệt mà ta đang nghiên cứu.
T- chỉ tiêu trực tiếp hoặc chỉ tiêu thuận chiều.
N- chỉ tiêu ngược chiều.
25
26. - Mức độ ảnh hưởng của nhân tố trực tiếp(T).
∆CT= N
T
∆+
∆
100
100
(%)
- Mức độ ảnh hưởng của nhân tố ngược chiều(N) đến chỉ tiêu nghiên cứu:
C∆ N
= N
N
∆+
∆
100
100
(%)
- Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu nghiên cứu:
∆C= C∆ T
+ C∆ N
=
N
CT
∆+
∆+∆
100
)(100
(%)
Trong đó:
∆T, ∆N: số chênh lệch tương đối của chỉ tiêu T và N.
∆CT, ∆CN, ∆C: mức độ ảnh hưởng của chỉ tiêu T, N và của 2 chỉ tiêu
T, N đến chỉ tiêu cá biệt đang nghiên cứu.
1.4.3.3.Phương pháp liên hệ tương quan
Là phương pháp phân tích tương quan nhằm xác định sự tồn tại và dạng
của mối liên hệ giữa các đại lượng ngẫu nhiên và cho phép đánh giá mức độ
chặt chẽ giữa các mối quan hệ đó.
Trình tự tiến hành:
- Phân tích lý luận để giải thích sự tồn tại và bản chất mối liên hệ.
- Thăm dò các mối quan hệ đó.
- Lập phương trình hồi quy căn cứ vào số tiêu thức, số lần quan sát.
- Tính toán các tham số của chương trình.
- Giải thích ý nghĩa kinh tế của các tham số.
1.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai
cách sau:
- Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
26
27. - Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
1.5.1. Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính là nội dung
phân tích mà đồ án sử dụng . Vì vậy, nội dung phân tích khái quát và phân tích
chi tiết tình hình tài chính, không được nêu chi tiết ở phần này mà đựơc trình
bày chi tiết ở phần sau ( Chương 2).
1.5.1.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên
phải so sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có
thể thấy được sự thay đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng
như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài
sản và nguồn vốn tăng giảm là do nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó cần đi
sâu phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán.
Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai
loại tài sản này được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn chủ sở hữu, nhưng cân
đối này chỉ mang tính lí thuyết tức là nguồn vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp
đủ trang trải các loại tài sản cho các hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay
hoặc chiếm dụng. Thực tế thường xảy ra 1 trong 2 trường hợp sau:
- Trường hợp doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm
dụng.
- Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên doanh nghiệp phải
đi vay hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài.
Qua phân tích các mối quan hệ cân đối, cho thấy số vốn doanh nghiệp bị
chiếm dụng (hoặc đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải
thu và nợ phải trả.
Bên cạnh đó, trong phân tích tổng quát ta còn tính toán và so sánh các chỉ
tiêu tỉ suất tài trợ đẻ thấy được khả năng đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ
động trong kinh doanh của công ty (phần này được trình bày trong phân tích kết
cấu nguồn vốn của doanh nghiệp). Bên cạnh đó, về khả năng thanh toán cũng
27
28. cần được quan tâm chú ý ( được trình bày ở phần nhu cầu và khả năng thanh
toán)
1.5.1.2. Phân tích chi tiết tình hình tài chính
Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân
bổ vốn, xem xét doanh nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa?
Để phân tích, ta tiến hành xác định tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì
và cuối kì và so sánh sự thay đổi về tỉ trọng giữa đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra
nguyên nhân của sự chênh lệch này. Qua so sánh ta thấy được sự thay đổi về số
lượng, quy mô và tỉ trọng của từng loại vốn. Để có thể thấy được tình hình thay
đổi của tài sản là hợp lí hay không cần đi sâu nghiên cứu sự biến động của tài
sản. Việc đầu tư chiều sâu, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ để tạo tiền
đề tăng năng suất lao động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hoặc đầu tư tài
chính dài hạn được xem xét thông qua các chỉ tiêu: Tỉ suất đầu tư chung, tỉ suất
đầu tư tài sản cố định, tỉ suất đầu tư tài chính dài hạn. Bên cạnh đó việc phân
tích kết cấu nguồn vốn; phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán;
phân tích hiệu quả và khả năng sinh lợi của vốn; phân tích tình hình đảm bảo
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được phân tích một cách cụ thể và
được trình bày cụ thể trong Chương 2 của đồ án này.
1.5.2. Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
1.5.2.1. Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân
thành 4 nhóm chính. Đó là : nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về
khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả
năng sinh lãi. Nhìn chung, mối quan tâm trước hết của các nhà phân tích tài
chính là tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh không? Liệu doanh
nghiệp có khả năng đáp ứng được những khoản nợ đến hạn không? Nhưng tuỳ
theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều
hơn đến nhóm tỷ lệ này hay nhóm tỷ lệ khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn
đặc biệt quan tâm đến tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi
đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động có lãi và
28
29. hiệu quả sản xuất kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng
thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu chi trả hiện
tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ lệ cân đối vốn vì sự thay đổi tỷ lệ này sẽ
ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.
Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin
về từng vấn đề cụ thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người
phân tích là phải tìm hiểu mối liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đó đưa ra kết
luận khái quát về toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá
trình phân tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ tài chính riêng rẽ thì tự nó không nói lên
điều gì. Nó cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của chính
doanh nghiệp đó và so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp hoạt động
trong cùng ngành.
Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ
lệ được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích.
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để
phân tích và đánh giá hoạt động tài chính doanh nghiệp.
1.5.2.1.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán :
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản
của mình các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn
cần đến nguồn tài trợ khác là vay nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều
đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng
nữa thì để đi đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ hay không thì họ đều
quan tâm đền khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính
giữa các khoản phải có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh
toán trong kỳ. Việc phân tích các tỷ lệ về khả năng thanh toán không những giúp
cho các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn
của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả
29
30. thực tế để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục tài
sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán.
Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm :
Hệ số thanh toán hiện hành
Là tỷ lệ được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ ngắn hạn. Tài
sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các
khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản
vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung
cấp, các khoản phải trả khác...Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời
hạn nhất định - tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước đo khả
năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ
của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành
tiền trong một giai đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó.
Công thức của khả năng thanh toán chung như sau :
Hệ số thanh toán hiện
hành(ngắn hạn)
=
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp càng tốt và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1
thì doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu
con số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào tài sản
lưu động so với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ không sinh thêm
lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề này đòi hỏi nhà
doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý.
Hệ số thanh toán nhanh:
Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh
nghiệp có thể đáp ứng nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian
ngắn với chi phí thấp hay không vì nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của
các khoản mục trong tài sản lưu động và kết cấu của các khoản mục này. Vì vậy,
chúng ta cần phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
30
31. Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh
cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm : tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải
thu. Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu
động và dễ bị lỗ khi đem bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết
khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán dự trữ
(tồn kho).
Hệ số thanh toán nhanh
(thanh toán tức thời)
=
Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống
như trương hợp của hệ số thanh toán ngắn hạn để kết luận giá trị của hệ số thanh
toán tức thời là tốt hay xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn
trong việc thanh toán nợ.
1.5.2.1.2.Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
Tỷ lệ này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ
đòn bẩy tài chính và có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các
chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin
tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp
một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh
doanh là do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay
nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh
nghiệp. Ngoài ra, các khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do
chi phí cho vốn vay là chi phí trước thuế.
Những doanh nghiệp có tỷ lệ này thấp phải chịu rủi ro lỗ ít hơn khi nền
kinh tế suy thoái đồng thời có lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn so với doanh nghiệp
có tỷ lệ này cao trong nền kinh tế bùng nổ. Hay nói cách khác, những doanh
nghiệp có tỷ lệ nợ cao có nguy cơ lỗ lớn nhưng lại có cơ hội nhận được lợi
nhuận cao. Tuy lợi nhuận kỳ vọng cao nhưng phần lớn các nhà đầu tư đều rõ´t
31
32. so? rủi ro. Vì thế quyết định về sử dụng nợ phải được cân bằng giữa lợi nhuận
và rủi ro.
Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả
năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ chủ động trong sản xuất kinh doanh hay
những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn.
Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản
Hệ số nợ =
Nợ
Tổng tài sản
Tỷ lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối
với các chủ nợ đã góp vốn cho doanh nghiệp. Thông thường các chủ nợ thích tỷ
lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì các khoản nợ càng được đảm bảo
trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu ưa
thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền
kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào
trạng thái mất khả năng thanh toán. Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như
mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp người ta tính mức độ đòn bẩy tài chính
(Degree of Financial Leverage - DFL) của doanh nghiệp.
Mức độ ảnh hưởng của DFL được xác định như là tỷ lệ thay đổi về doanh
lợi vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay
phải trả.
DLF =
Q (P - V) - F
Q (P - V) – F - 1
Trong đó : Q là sản lượng
P là giá bán đơn vị sản phẩm
V là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm
F là chi phí cố định
I là chi phí lãi vay phải trả
Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn
để trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng khi lợi
nhuận trước thuế và lãi vay đã đủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì chỉ cần
32
33. một sự gia tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về doanh lợi
vốn chủ sở hữu.
Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi
Tỷ lệ này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho
lãi tiền vay.
Khả năng thanh toán lãi vay =
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Lãi tiền vay
Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo cho khả
năng trả lãi hàng năm. Việc không trả được các khoản nợ này có thể làm cho
doanh nghiệp bị phá sản. Cùng với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta
thấy được tình trạng thanh toán công nợ của doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ
nợ trên tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi thấp so với mức trung
bình của ngành sẽ khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn gia
tăng nợ.
Khả năng độc lập về tài chính
Khả năng độc lập về tài chính =
Vốn chủ sở hữu
Vốn trung và dài hạn
Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ
động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn thì tài sản của
doanh nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi
phí vay nợ và việc tăng vốn cổ phần cổ phần có thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh
đạo doanh nghiệp.
Tỷ lệ về cơ cấu tài sản
Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý, doanh
nghiệp cần phải xem xét việc sử dụng vốn đó như thế nào để đáp ứng yêu cầu
kinh doanh và nâng cao hiệu qủa kinh tế của đồng vốn. Việc phân tích tình hình
phân bổ vốn hay kết cấu tài sản của doanh nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng
vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không, có phù hợp với đặc điểm loại hình
kinh doanh không và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kỳ có ảnh hưởng
gì đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
33
34. Tỷ lệ về cơ cấu tài sản =
Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung
và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất
và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ
thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể.
1.5.2.1.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động
Các tỷ lệ về khả năng hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử
dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư
cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các
nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng của tổng
nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành
nguồn vốn của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ yếu trong các tỷ lệ này nhằm
tính tốc độ quay vòng của một số đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn
hạn. Các tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng
tài chính và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền
Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh
nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp
nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được
hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư hàng hoá rẻ doanh nghiệp có thể dữ trữ với
lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được lưu giữ ở
mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, điều kiện thiếu vốn
đang phổ biến ở các doanh nghiệp thì việc giữ quá nhiều tiền sẽ gây ứ đọng vốn,
hạn chế khả năng đầu tư vào các tài sản khác, do đó lợi nhuận của doanh nghiệp
có thể bị giảm. Thứ hai, do có giá trị theo thời gian và do chịu tác động của lạm
phát, tiền sẽ bị mất giá. Vì vậy, cần quan tâm đến tốc độ vòng quay tiền sao cho
đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho doanh nghiệp.
34
35. Vòng quay tiền =
Doanh thu thuần
Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán
Vòng quay hàng tồn kho
Dự trữ và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Vì vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở mức tối ưu,
mặt khác tăng vòng quay của chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để
đảm bảo tính liên tục của sản xuất và không bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh.
Khoản đầu tư này được giải phóng sau khi sản phẩm được tiêu thụ.
Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức
dưới đây.
Vòng quay hàng tồn kho =
Doanh thu thuần
Hàng tồn kho
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán
ra trong kỳ kế toán và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con
số này càng cao chứng tỏ khả năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn
thì hệ số quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm bớt được số vốn đầu tư vào công việc
này, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi phân tích cũng cần phải
chú ý đến những nhân tố khác ảnh hưởng đến hệ số quay vòng tồn kho như việc
áp dụng phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị hiếu tiêu dùng, tình
trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ của doanh nghiệp, thời gian giao hàng
của nhà cung cấp...
Biến động của chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều
thông tin. Việc giảm vòng quay vốn hàng tồn kho có thể do chậm bán hàng,
quản lý dự trữ kém, trong dự trữ có nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng việc giảm
vòng quay hàng tồn kho cũng có thể là kết quả của quyết định của doanh nghiệp
tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết trước giá cả của chúng sẽ tăng hoặc có
thể có sự gián đoạn trong việc cung cấp các nguyên vật liệu này (có đình công,
suy giảm sản xuất). Ngược lại, việc tăng vòng quay hàng tồn kho có thể do
35
36. những cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của doanh
nghiệp đạt chất lượng cao, kết cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu
doanh nghiệp duy trì mức tồn kho thấp thì cũng làm cho hệ số quay vòng hàng
tồn kho tăng cao nhưng điều này đôi khi gây ra tình trạng thiếu hàng để bán và
ảnh hưởng đến việc tăng doanh thu.
Kỳ thu tiền bình quân
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là
điều khó tránh khỏi. Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách
hàng, mở rộng thị trường và duy trì thị trường truyền thống, do đó có thể giảm
hàng tồn kho, duy trì được mức sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc,
thiết bị. Hơn nữa, nó còn có thể mang lại lợi nhuận tiềm năng cao hơn nhờ việc
tăng giá do khách hàng mua chịu. Song việc bán hàng chịu cũng đẩy doanh
nghiệp vào tình trạng phải đối mặt không ít với các rủi ro. Đó là giá trị hàng hoá
lâu được thực hiện dẫn đến giảm tốc độ chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình
trạng thiếu vốn doanh nghiệp phải huy động nguồn tài trợ cho việc bán chịu;
một điều đáng lo ngại hơn là rủi ro về khả năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy,
nhiệm vụ của người quản lý doanh nghiệp là phải quan tâm đến kỳ thu tiền bình
quân và có biện pháp rút ngắn thời gian này.
Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau (đơn vị của công thức
này là ngày) :
Kỳ thu tiền bình quân =
Các khoản phải thu
x
36
0Doanh thu thuần
Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng
thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ
phụ thuộc vào nhiều yếu tố :
- Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu : Một số
doanh nghiệp có chính sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời hạn
thanh toán hơn các đối thủ cạnh tranh để phát triển thị trường.
36
37. - Tình trạng của nền kinh tế : Khi tình hình thuận lợi các doanh nghiệp có
khuynh hướng dễ dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận tăng
thời gian bán chịu cho khách hàng mà không tăng được mức tiêu thụ thì đó là
dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải thay đổi chính
sách tiêu thụ để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản
phẩm. Nhưng tình trạng đó cũng có thể là do khách hàng gặp khó khăn trong chi
trả nhất là ở vào thời kỳ kinh tế suy thoái. Tình huống đó gây khó khăn dây
chuyền cho các doanh nghiệp bán chịu.
- Chính sách tín dụng và chi phí bán hàng chịu : khi lãi suất tín dụng cấp
cho các doanh nghiệp để tài trợ cho kinh doanh tăng, các doanh nghiệp có xu
hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ rất tốn kém về
chi phí tài chính.
- Ngoài ra độ lớn của các khoản phải thu còn phụ thuộc vào các khoản trả
trước của doanh nghiệp.
Vòng quay vốn lưu động
Vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu thuần
Vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số
vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ tiêu này
còn được gọi là hệ số luân chuyển. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn sẽ góp
phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong kỳ. Tài sản cố định ở đây được xác định là giá trị còn lại tới thời
điểm lập báo cáo tức là bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi hao mòn luỹ kế.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Doanh thu thuần
Giá trị còn lại của tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
37
38. Tỷ lệ này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó
cũng thể hiện số vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong
kỳ báo cáo. Hệ số này làm rõ khả năng tận dụng vốn triệt để vào sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Việc tăng vòng quay vốn kinh doanh này là yếu tố
quan trọng làm tăng lợi nhận cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng khả năng
cạnh tranh, tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
1.5.2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì
thế khác với các tỷ lệ tài chính phân tích ở trên chỉ phán ánh hiệu quả từng hoạt
động riêng biệt của doanh nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp
nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Mục
đích chung của các doanh nghiệp là làm sao để một đồng vốn bỏ ra mang lại
hiệu quả cao nhất và khả năng sinh lời nhiều nhất. Để đánh giá khả năng sinh lời
người ta dùng các chỉ tiêu sau:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu trên phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu.
Chỉ tiêu này có thể tăng giảm giữa các kỳ tuỳ theo sự thay đổi của doanh thu
thuần và chi phí. Nếu doanh thu thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi
đó chi phí tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết
quả là doanh lợi tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó, doanh nghiệp vẫn cần xác định
rõ nguyên nhân của tình hình để có giải pháp khắc phục.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu
Được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó
phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt
quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh
38
39. lợi vốn chủ sở hữu cũng là mục tiêu của hoạt động quản lý tài chính doanh
nghiệp. Ta xét các nhân tố ảnh hưởng đến doanh lợi vốn chủ sở hữu như sau:
Lợi nhuận sau thuế
=
Lợi nhuận sau thuế
X
Doanh thu thuần
x
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu Doanh thu thuần Tổng tài sản Vốn chủ sở
hữu
Như vậy, doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của ba nhân tố :
-Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
-Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
-Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.
Vì vậy, khi xem xét sự biến động của doanh lợi vốn chủ sở hữu ta cần
phân tích sự thay đổi của cả ba yếu tố trên để đưa ra những kết luận đúng đắn.
Doanh lợi vốn
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của
một đồng vốn đầu tư (ROA). Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp
được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế và
lãi hay lợi nhuận sau thuế để so sánh với tổng tài sản. Đối với doanh nghiệp có
sử dụng nợ trong kinh doanh, người ta thường sử dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn
xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài sản.
Doanh lợi
vốn
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tổng tài sản
1.5.2.2. Phân tích các hoạt động tài chính
1.5.2.2.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là bảng nguồn
vốn và sử dụng vốn (bảng tài trợ). Nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các
nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn.
Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường
xem xét sự thay đổi của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh
39
40. nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế
toán.
Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản
mục trên bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân
biệt ở hai cột sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc :
Sử dụng vốn : tăng tài sản hoặc giảm vốn.
Nguồn vốn : giảm tài sản hoặc tăng vốn.
Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ sở để tiến hành
phân tích tình hình tăng giảm nguồn vốn, sử dụng vốn, chỉ ra những trọng điểm
đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những
đầu tư đó. Từ đó có giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trong doanh nghiệp.
1.5.2.2.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh
Vốn lưu động thường xuyên
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có tài sản
bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Để hình thành hai nguồn tài sản này
phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn
dài hạn.
Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong
khoảng thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ
ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác.
Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt
động kinh doanh, nó có thời hạn trên một năm và bao gồm nguồn vốn chủ sở
hữu, nguồn vốn vay nợ trung hạn và dài hạn.
Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản cố định
(TSCĐ), phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư để hình thành tài sản lưu
động (TSLĐ). Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định hay giữa tài
sản lưu động và nợ ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. Mức độ
40
41. an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào độ lớn của vốn lưu động thường
xuyên.
VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nợ ngắn hạn
Có 3 trường hợp có khả năng xảy ra như sau:
- Vốn lưu động thường xuyên > 0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn lớn hơn tài
sản cố định, phần dư thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu
động lớn hơn nợ ngắn hạn nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.
- Vốn lưu động thường xuyên = 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn vừa đủ tài
trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ
ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh.
- Vốn lưu động thường xuyên < 0, nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ
cho tài sản cố định. Doanh nghiệp phải đầu tư một phần nguồn vốn ngắn hạn
vào tài sản cố định, tài sản lưu động không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ
ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp
phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn phải trả.
Như vậy, vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan
trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, nó cho biết :
- Một là, doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay
không?
- Hai là, tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững
chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?
Từ công thức tính vốn lưu động thường xuyên ta có thể thấy các yếu tố
làm thay đổi vốn lưu động thường xuyên là những nghiệp vụ làm thay đổi nguồn
vốn dài hạn và tài sản cố định của bảng cân đối kế toán.
Các nghiệp vụ làm giảm vốn lưu động thường xuyên :
- Tăng tài sản cố định : tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình
và tài sản cố định tài chính.
- Giảm nguồn vốn dài hạn :
• Giảm vốn chủ sở hữu : do chia lợi tức cổ phần, lỗ trong kinh doanh...
41
42. • Hoàn trả tiền vay : bao gồm trả tiền vay trung và dài hạn, hoàn trả trái
phiếu đáo hạn...
Các nghiệp vụ làm tăng vốn lưu động thường xuyên :
- Tăng nguồn vốn dài hạn :
• Tăng vốn chủ sở hữu : phát hành thêm cổ phiếu thường, giữ lại lợi
nhuận không chia...
• Tăng vay nợ trung, dài hạn; phát hành trái phiếu dài hạn...
- Giảm tài sản cố định thông qua nhượng bán.
Những thay đổi tài sản lưu động hoặc nợ phải trả ngắn hạn không làm
thay đổi vốn lưu động thường xuyên, bởi vì việc tăng của một loại tài sản lưu
động sẽ dẫn đến hoặc giảm một loại tài sản lưu động khác, hoặc tăng một dòng
nợ ngắn hạn. Chẳng hạn, khi bán sản phẩm tồn kho sẽ làm giảm tồn kho và tăng
tương ứng ở mục nợ phải thu (nếu bán chịu), hoặc tăng tiền mặt (nếu bán thu
tiền ngay). Ta cũng cần chú ý là chính sách khấu hao có tác động lớn vào vốn
lưu động thường xuyên, nếu doanh nghiệp áp dụng chế độ khấu hao nhanh thì
vốn luân chuyển sẽ cao hơn so với áp dụng phương pháp khấu hao theo đường
thẳng.
Vốn lưu động thường xuyên thể hiện mức độ an toàn, đảm bảo cho doanh
nghiệp chống lại rủi ro làm mất giá trị tài sản hoặc rủi ro làm giảm tốc độ luân
chuyển vốn dự trữ. Vì vậy, mọi biến động của vốn lưu động thường xuyên phải
được chú ý theo dõi. Tại các thời điểm khác nhau có ba tình huống xảy ra :
- Tăng vốn lưu động thường xuyên.
Trong trường hợp này, an toàn của doanh nghiệp tăng vì phần lớn tài sản
cố định được nguồn vốn dài hạn tài trợ. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng để đạt
được sự an toàn đó, doanh nghiệp phải tăng nợ dài hạn. Nếu khối lượng nợ dài
hạn càng lớn sẽ dẫn đến chi phí tài chính càng cao, từ đó làm giảm kết quả kinh
doanh. Nếu tăng vốn lưu động thường xuyên bằng việc tăng vốn chủ sở hữu thì
tình hình tài chính doanh nghiệp được cải thiện, nhưng doanh nghiệp phải chịu
chi phí sử dụng vốn cao hơn nợ vay và có thể phải chia sẻ quyền kiểm soát
42
43. doanh nghiệp. Do vậy, quyết định tăng vốn lưu động và tăng bằng cách nào đòi
hỏi một quyết định đúng.
Mặt khác, khi vốn lưu động thường xuyên đã tài trợ đủ cho tài sản cố định
còn dư thừa, nếu sử dụng vốn lưu động thường xuyên tài trợ toàn bộ cho tồn kho
không phải là quyết định quản trị tốt, vì có thể doanh nghiệp đã sử dụng nguồn
vốn dài hạn tốn kém cho đầu tư tài sản ngắn hạn mà lẽ ra việc sử dụng này phải
do tín dụng ngắn hạn tài trợ.
- Giảm vốn lưu động thường xuyên
Khi một doanh nghiệp giảm vốn lưu động thường xuyên sẽ làm cho mức
độ an toàn tài chính của doanh nghiệp giảm xuống. Tuy vậy, nếu việc giảm vốn
này nhằm tài trợ cho các khoản đầu tư sinh lời mới góp phần nâng cao vị thế của
doanh nghiệp thì cũng cần quan tâm xem xét kỹ.
- Giữ ổn định vốn lưu động thường xuyên
Tình huống này thể hiện tình trạng giữ ổn định các hoạt động của doanh
nghiệp; để điều chỉnh cơ cấu đầu tư do lợi nhuận không tăng hoặc mức tăng
trưởng giảm lâu dài, khi cần đánh giá thực trạng của tình huống này cần tiến
hành nghiên cứu nguồn có khả năng tạo ra lợi nhuận để xem xét.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
Tại một thời điểm nào đó, vốn lưu động thường xuyên chỉ rõ mức độ an
toàn mà doanh nghiệp có được nhằm tài trợ cho chu kỳ kinh doanh của nó. Vì
thế ta phải nghiên cứu một cách đầy đủ bằng cách so sánh giữa vốn lưu động
thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Vậy nhu cầu vốn lưu
động thường xuyên là gì?
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp
cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng dự trữ và các khoản phải
thu (tài sản lưu động không phải là tiền).
Như vậy, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên phụ thuộc vào ba tham số :
dự trữ, tồn kho và sản phẩm dở dang; nợ phải thu; nợ ngắn hạn. Nhưng tầm
quan trọng của ba tham số này thay đổi theo tính chất của ngành và mức độ hoạt
43