Sốc chấn thương là do một chấn thương cơ học gây ra.
Đó là tình trạng suy sụp tuần hoàn ngoại vi do mất sự cân đối giữa kích thước lòng mạch và chất dịch chứa trong lòng mạch đó, làm cho tuần hoàn ngoại vi thì suy sụt và giảm sút, tuần hoàn nội tạng thì ứ đọng dẫn đến tình trạng giảm lưu thông khối lượng máu. Gây thiếu oxy của tổ chức, làm trì trệ đời sống của tế bào.
Trong bài này sẽ đề cập đến
-Nguyên tắc xử trí sốc chấn thương
-Các công việc cần làm trong điều trị sốc chấn thương
Các phương pháp điều trị sốc chấn thương
2. ĐỊNH NGHĨA
• Sốc chấn thương là do một chấn thương cơ học gây ra.
• Đó là tình trạng suy sụp tuần hoàn ngoại vi do mất sự cân
đối giữa kích thước lòng mạch và chất dịch chứa trong lòng
mạch đó, làm cho tuần hoàn ngoại vi thì suy sụt và giảm
sút, tuần hoàn nội tạng thì ứ đọng dẫn đến tình trạng giảm
lưu thông khối lượng máu. Gây thiếu oxy của tổ chức, làm
trì trệ đời sống của tế bào.
3. NGUYÊN
TẮC ĐIỀU
TRỊ SỐC
CHẤN
THƯƠNG
Hồi sức cấp cứu đi trước một bước nhằm
bồi phụ khối lượng tuần hoàn, đảm bảo
hô hấp, giảm đau để chống sốc.
Từng bước tìm nguyên nhân gây sốc chấn
thương để xử trí phù hợp.
Ưu tiên các phẫu thuật cấp bách nhằm
cứu sống người bệnh.
4. NHỮNG CÔNG VIỆC CẦN LÀM TRONG CẤP
CỨU SỐC CHẤN THƯƠNG
Ghi mạch, nhịp thở và huyết áp động mạch vào bệnh án điều trị
Lấy máu tĩnh mạch để thử Hematocrit, huyết cầu tới làm nhóm máu, công thức máu.
Xét nghiệm ure máu, điện giải đồ
Đặt bệnh nhân ở tư thế đầu thấp
Đặt một đường truyền vào tĩnh mạch lớn.
Đặt sonde bàng quang theo dõi lượng nước tiểu và lấy nước tiểu làm xét nghiệm
Lấy máu động mạch để đo Pa, PaCO2, PaO2.
Ghi vào bảng theo dõi bệnh nhân các kết quả xét nghiệm và kết quả theo dõi.
Đảm bảo lưu thông đường hô hấp trên
Điều trị các rối loạn do sốc chấn thương.
5. ĐIỀU TRỊ
HỒI SỨC
SỐC CHẤN
THƯƠNG
CẦN PHẢI
Thăm khám bệnh
toàn diện, lập kế
hoạch điều trị
Đảm bảo hô hấp,
tuần hoàn tốt
Đảm bảo thận
hoạt động tốt
Chống đau cho
bệnh nhân
Chống nhiễm
khuẩn
Điều trị các rối
loạn kiềm toan và
rối loạn đông máu
6. Thăm khám
bệnh toàn
diện, lập kế
hoạch điều
trị
Điều này rất quan
trọng đòi hỏi người
thầy thuốc ngoại
khoa phải có kinh
nghiệm thăm khám
có hệ thống.
Nhiều thầy thuốc
đã bỏ sót thương
tổn của bệnh nhân
nên điều trị sốc
không có hiệu quả.
Kinh nghiệm cho
thấy, khó chẩn
đoán và dễ bỏ sót
thương tổn, là
những trường hợp
bị nhiều thương
tổn phối hợp.
Sau khi khám xong
bệnh nhân, các
thầy thuốc phải có
chẩn đoán và kế
hoạch mổ cụ thể
nếu phải can thiệp
ngoại khoa.
7. Đảm bảo hô
hấp tốt
Vì sốc dẫn đến thiếu oxy ở các tổ chức nên
trong điều trị việc phải làm đầu tiên là đưa
oxy theo đường tự nhiên vào cho bệnh nhân.
Làm thông đường hô hấp trên, móc hết dị vật,
hút dịch như máu, chất nôn...
Một số trường hợp phức tạp cần có xử trí đặc
biệt như mở khí quản, thở máy.
8. Đảm bảo
tuần hoàn
tốt
Chuẩn bị một đường truyền tốt để theo dõi và hồi
sức ở bệnh nhân nặng cần thiết phải lập 2-3 đường
truyền tĩnh mạch.
Đo huyết áp tĩnh mạch trung tâm. Huyết áp này là
chỉ số tốt để đánh giá hoạt động của cơ tim và khối
lượng tuần hoàn. Kết hợp với huyết áp động mạch
và lượng nước tiểu hàng giờ có thể đánh giá được
lưu lượng tim một cách gián tiếp để hồi sức.
• Nếu huyết áp tĩnh mạch trung tâm thấp: Huyết áp động mạch
mất là do mất khối lượng tuần hoàn, thì phải truyền dịch.
• Nếu huyết áp tĩnh mạch trung tâm cao: Huyết áp động mạch cao
thì có 2 khả năng, hoặc là bệnh nhân bị suy tim cần cho thuốc trợ
tim, nếu bệnh nhân bị tràn khí phế mạc, tràn khí trung thất, tức là
tim bị chèn ép cần dẫn lưu kịp thời.
9. Đảm bảo
tuần hoàn
tốt
• Truyền dịch:
• Hàng đầu phải kể đến dung dịch HAES – Steril là dung dịch được tinh chế từ bột
ngô, nó bù được thể tích huyết tương bằng chính thể tích của nó và ổn định trong
vòng 6-8 giờ. Nó mang lại sự cải thiện vi tuần hoàn. HAES – Steril không mang điện
tích, khi truyền vào nó làm tăng điện tích âm, làm cho các tế bào máu rời nhau ra,
như vậy tránh được hiện tượng ngưng tập hồng cầu.
• Lactat Ringer đẳng trương: là dung dịch có thành phần gần giống dịch ngoài tế bào
nên dùng điều trị sốc tốt. Truyền với khối lượng bằng 5% trọng lượng cơ thể bệnh
nhân sau đó thử Hematocrit. Nếu Hematocrit nằm trong khoảng 30-35% thì không
phải truyền máu. Đa số bệnh nhân sẽ ổn định.
• Dung dịch Natriclorua 9o/oo : dung dịch này cũng được sử dụng trong điều trị sốc. Vì
sau khi bị sốc chấn thương điện trao đổi của Na+ tăng và nhu cầu muối của cơ thể
cũng tâng. Vì Na+ và H2O bị hút về tổ chức xung quanh mạch máu, giữa các tế bào
tạo keo và cơ chất. Do đó sử dụng Natriclorua cũng có giá trị giống như Lactat
Ringer.
10. Đảm bảo
tuần hoàn
tốt
• Dung dịch Dextran 40.000 còn gọi là infuloll 40
(Đức) được dùng trong giai đoạn muộn của sốc.
Vì chúng có tác dụng làm cho các tế bào không
kết dính lại với nhau. Nên làm tăng tuần hoàn
qua mao mach, rút nước từ khoang giữa tế bào
vào lòng mạch nên làm tăng khối lượng tuần
hoàn.
• Ngoài ra còn sử dụng các dung dịch khác trong
chống sốc: như nước dừa được sử dụng rộng rãi
trong chiến trường Nam Bộ và một số nước
Đông Nam Á. Các dung dịch Darrow, Hartman....
11. Đảm bảo
tuần hoàn
tốt
• Tốc độ truyền:
• Nếu huyết áp tĩnh mạch trung tâm thấp thì truyền nhanh. Khi lên 8 cm H2O thì truyền
chậm lại. Nếu >12 cm H2O thì truyền thật chậm. Ngoài ra còn dựa vào nước tiểu làm sao
mỗi phút có 1 ml nước tiểu + Truyền máu (tốt nhất là truyền máu cùng nhóm và truyền
máu tươi). Ngày nay với phương tiện kỹ thuật có thể đo được thể tích (Vc) máu còn lại
của bệnh nhân từ đó xác định được lượng máu mất.
Vm = (Pkg x 70ml) – Vc
Vm: thể tích máu
Vc: thể tích máu còn lại
P: là trọng lượng cơ thể
Như vậy lượng máu và dịch phải truyền là:
Vt = 0,05 x P + Vm
Vt: tổng lượng máu và dịch phải truyền
0,05 x P là lượng dịch phải truyền.
Vm: lượng máu phải truyền
12. Đảm bảo
tuần hoàn
tốt
• Thuốc trợ tim
• Một khi đã bù đủ số lượng tuần hoàn mà huyết áp động mạch còn thấp mà
huyết áp tĩnh mạch vẫn cao thì phải kiểm tra tim.
• Nếu tim suy thì phải trợ tim với liều lượng trung bình Uabaine, Strophantine
¼ - ½ mg; Cedieanide 0,4mg; Digoxin 0,5mg.
• Nên dùng các thuốc này như một nguyên tắc bắt buộc với bệnh nhân già,
bệnh nhân có bệnh tim từ trước.
• Nếu dùng thuốc này mà bệnh nhân vẫn không tốt lên có thể dùng các loại
thuốc giải phóng Adrenalin như: Isuprel, Dapamine làm giãn mạch tim đập
khỏe, tăng nhu cầu sử dụng oxy của cơ tim.
• Tuyệt đối không nên dùng Adrenalin và Noadrenaline để điều trị sốc chấn
thương, sốc mất máu vì càng làm tăng co mạch, làm tăng thiếu oxy của tổ
chức.
13. Đảm bảo
thận hoạt
động tốt
• Đặt sonde bàng quang theo dõi nước tiểu hàng giờ, mỗi giờ phải
đạt được 60ml nước tiểu.
• Bù đủ khối lượng tuần hoàn và sử dụng thuốc lợi tiểu khi cần
thiết.
• Chỉ cho thuốc lợi tiểu khi huyết áp động mạch gần trở về bình
thường mà bệnh nhân không có nước tiểu hoặc nước tiểu ít.
• Furosemid liều khởi đầu là 20mg thông thường sau 20-30 phút là
bệnh nhân đái nhiều. Nếu bệnh nhân đái ít cứ sau 1 giờ lại tăng
gấp đôi liều so với trước, cho đến khi đạt được nước tiểu 60ml/h.
Tuy nhiên chỉ tiêm tối đa 4 lần (15 ống = 300mg)
• Maltitol 20% 150ml truyền tĩnh mạch tốc độ 80 giọt/phút. Liều
lượng không quá 300ml/24h.
• Thẩm phân phúc mạc, chạy thận nhân tạo.
14. Chống đau
cho bệnh
nhân
Chống đau không kém phần quan
trọng so với truyền máu và
truyền dịch.
Phong bế gốc chi bị thương bằng
các loại thuốc an thần giảm đau
phù hợp trên từng bệnh nhân.
Để tránh sai lệch trong chẩn
đoán, tránh tất cả những cái gây
đau đớn thêm cho bệnh nhân.
15. Chống
nhiễm
khuẩn
Trong sốc, sức đề kháng của cơ thể
đã giảm nên phải tích cực phòng
nhiễm khuẩn, sử dụng kháng sinh
hợp lý, kháng sinh phổ rộng liều
mạnh ngay từ đầu và dùng đủ liều.
Tốt nhất là dựa vào kháng sinh đồ
để chọn kháng sinh.
16. Điều trị rối
loạn kiềm
toan và rối
loạn đông
máu
• Trong sốc thường có toan chuyển hóa. Sốc càng
nặng thì toan chuyển hóa càng nặng. Cần phải điều
chỉnh khi pH = 7.3, kiềm dư (BE) = 3, Các dung dịch
thường dùng là:
• Dùng dịch Natribicabonat 7.4% hoặc 5% cách tính
như sau:
• Vml dung dịch Natribicacbonat 7.4% = (BE) x
Pkg/3
• Nếu là dung dịch 5% = (BE) x Pkg/3 x 2
• P: là trọng lượng cơ thể (kg)
17. Điều trị rối
loạn kiềm
toan và rối
loạn đông
máu
• Điều chỉnh rối loạn đông máu
• EACA liều 2g tiêm vào mạch máu, nếu vẫn còn rối
loạn cho thêm mỗi lần 2g, tổng liều không quá
24g/24h cho đến khi máu hoàn toàn ngừng chảy.
• Heparin 20-50 đơn vị tiêm mạch máu cách 4-6h
mỗi lần cho đến khi nào nghiệm pháp cồn Ethanol,
Protaminsufat trở lại âm tính.
• Sử dụng các thuốc chuyển hóa
• Vitamin C và Vitamin B1 có tác dụng hỗ trợ quá
trình oxy hóa khử, do đó dùng trong sốc rất tốt.
• Liều lượng Vitamin C từ 2-5g pha trong 250ml
Glucose 5% nhỏ giọt tĩnh mạch 20-30 giọt/phút.
• Liều Vitamin B1 100-200mg truyền nhỏ giọt tĩnh
mạch.
18. ĐIỀU TRỊ
NGOẠI KHOA
• Mỗ để giải quyết nguyên
nhân sốc:
• Nếu là vỡ tạng đặc như
vỡ gan, vỡ lách hoặc rách
các mạch máu lớn hoặc
vết thương tim thì phải
vừa hồi sức vừa mổ
• Nếu là gãy các xương lớn
thì nên hồi sức sau đó
tiến hành phẫu thuật sau
khi ổn định thật sự.