1. Đặng Phan Khánh Linh 12XH2
Có những mảnh đất chỉ một lần đặt chân đến trong đời nhưng để thưởng, để nhớ. Đối với
Tô Hoài “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người,
thành việc trong tâm trí” ông. Là một nhà văn luôn cố gắng đi tìm sự thật trong đời sống
để phản ánh vào tác phẩm, Tô hoài đã dồn nén tất cả cảm nhân của ông về sức sống tiềm
tàng, ẩn chứa trong những kiếp người nô lệ của vùng núi Tây Bắc vào nhân vật Mị của tác
phẩm“Vợ Chồng A Phủ”. Đặc biệt là diễn biến tâm lí của Mị trong đêm mùa đông đã đặc
tả sâu sắc sự trỗi dậy mãnh liệt của sức sống đã bị chôn vùi bấy lâu bên trong con người
của cô gái ấy.
Tô Hoài nổi tiếng là cây bút có sức sáng tạo dồi dào, số lượng tác phẩm của ông đạt kỉ
lục trong văn học hiện đại Việt Nam chính vì thế không phải ngẫu nhiên mà giáo sư Phong
Lê lại khẳng định rằng: “Tô Hoài là một trong những tác giả lớn nhất của thế kỉ XX”.
Những trang văn của ông thấm đẫm chất hiện thực và “Vợ Chồng A Phủ” là một trong số
đó. Tác phẩm là một phần của tập “Truyện Tây Bắc”, được văn nhân chấp bút vào năm
1952, khi ông có dịp gắn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số trong chuyến đi cũng với bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc. Xuyên suốt tác phẩm, diễn biến tâm lí của nhân vật Mị được
tác giả rất chú trọng, đặc biệt là trong đêm cởi trói cho A Phủ, người nghệ sĩ đã gửi gắm
đến người đọc về vẻ dẹp, sự trỗi dậy mạnh mẽ của sức sống tiềm tàng trong Mị hay cũng
như của con người Tây Bắc nói chung.
Mị là cô gái xinh đẹp lại có tài thổi sáo nên được nhiều chàng trai theo đuổi nhưng cuối
cùng lại bị A Sử bắt về nhà trình mà và làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Ban
đầu Mị rất đau khổ, tuyệt vọng, tìm đến cái chết nhưng vì thương cha nên tiếp tục sống.
Lâu ngày trong cái khổ Mị cũng quen dần, và trở nên cam chịu, buông xuôi trước số phận
chỉ lầm lũi như con rùa trong xó cửa; không buồn cũng không vui ,“dù làm bất cứ việc gì,
cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Song ẩn sau sự chai lì ấy là một người có nét
tính cách yêu đời, yêu cuộc sống, luôn mong muốn thoát khỏi kiếp sống không bằng trâu
bằng ngựa kia. Và trong đêm tình mùa xuân, sức sống tiềm tàng ấy của Mị bùng lên mạnh
mẽ, nhưng sau cùng lại bị dập tắt một cách phũ phàng, cô lại tiếp tục quay về kiếp sống
trâu ngựa tại nhà thống lí - vô hồn, vô cảm. Dường như cái khổ và cái nhục mà Mị phải
gánh chịu đã trở thành một lớp tro tàn phủ khuất, che lấp đi khát vọng tự do trong lòng Mị.
Nhưng thật may mắn, tuy bị vùi lấp nhưng nó vẫn không ngừng cháy bỏng, khoảnh khắc
Mị nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh của A Phủ trong đêm mùa đông như luồng gió thổi
đi lớp tro tàn nguội lạnh kia
Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn
lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho
nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng
đến nhẫn tâm. Thậm chí “dù A Phủ có là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”, vẫn dậy
sưởi lửa mà như không hay, không hề có chút mảy may đến. Tại sao Mị lại lạnh lùng, thờ
ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm rất bình thường ở
nhà thống lí Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến? Phải chăng
"Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi" nên tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh,
không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Cô gái một thời trẻ đẹp, yêu đời xưa kia nay
2. Đặng Phan Khánh Linh 12XH2
đã hoàn toàn an phận trong cuộc sống nô lệ chăng? Không hề! Ngòi bút của nhà văn không
chỉ hướng vào cái ảm đạm, mặt đen tối của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự
sống và ánh sáng, để khởi gợi nó lên.
Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy
đến bên bếp đốt lửa để hơ tay, “ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy
mắt A Phủ cũng vừa mở mắt”. Đã mấy ngày A Phủ bị trói đứng ở cột: chịu đau, chịu đói,
chịu rét nhưng không một tiếng kêu nài, van xin. Cho đến khi cận kề với ranh giới sự sống
và cái chết, nỗi thống khổ bên trong A Phủ mới bộc phát thành những dòng nước mắt “lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính vì giọt nước mắt ấy xuất phát từ nỗi
thống khổ của một kiếp người lầm than, bị đày đọa đến cùng cực đang cận kề với tử thần
nên nó mới mang sức mạnh to lớn, thức tỉnh khát vọng đã bị phong ấn bấy lâu để từ đó
trỗi dậy một cách mạnh mẽ. Khi thấy dòng nước mắt ấy, Mị chợt nhớ ngay lại đêm mùa
xuân ấy A Sử cũng trói đứng Mị như vậy mà cô thấy thương cho chính mình biết bao. Mị
hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị
thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có “nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống
miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Mị bắt đầu cảm thấy căm phẫn khi nhớ lại
người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng, nỗi uất hận phát ra
từ tận đáy lòng "chúng nó thật độc ác". Mị nhận ra kẻ gieo rắc nỗi khổ: “Chúng nó” -
cha con thống lí Pá Tra, những kẻ đại diện cho thế lực phong kiến cường quyền miền núi,
chuyên bóc lột, áp bức nhân dân. Nhớ đến những chuyện ngày trước, Mị lại trở về với hiện
tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: "Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta
về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi". Ngoài dòng nước
mắt đầy nỗi thống khổ, tuyệt vọng, uất hận của A Phủ thì chi tiết “ngọn lửa bập bùng”
cũng là một yếu tố quan trọng bởi phải có ngọn lửa ấy, Mị mới có thể thấy được dòng nước
mắt của A Phủ. Ngọn lửa ấy lóe lên như ánh sáng cuối đường hầm, mở ra cánh cửa dẫn
dắt, khơi gợi lòng trắc ẩn bên trong Mị.
Khi không tìm được lối thoát cho mình nhưng trong Mị tình người đã trỗi dậy, bởi
đồng cảnh ngộ nên Mị hiểu nỗi khổ mà A Phủ đang phải gánh chịu, thậm chí là đang đối
mặt, cận kề với cái chết nên Mị không thể làm ngơ. Mị không có quyền bỏ mặc người
khác, Mị phảng phất nghĩ “ người kia việc gì mà phải chết thế”. Lý trí mách bảo Mị rằng
phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùng
lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ bởi “ lúc ấy bố
con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy”. Có thể Mị
cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy
sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.
Khi lòng thương, tình yêu đủ lớn nó sẽ có sức mạnh để áp đảo mọi thế lực, thậm chí
là đánh đổi cả mạng sống của mình cho người khác. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn,
“ Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Hành động “cắt” được thể hiện qua từ
ngữ mạnh mẽ, dứt khoát, không một chút ngần ngại. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói
đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám
đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo
cho thấy được sự bừng tỉnh của những con người nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách
mạng. Khoảng khắc Mị cắt đi sợi dây ấy, có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A
3. Đặng Phan Khánh Linh 12XH2
Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một cuộc
cách mạng tất yếu để giải thoát, thỏa khao khát tự do cho chính mình. Hành động táo bạo
và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái dám chống lại cả
cường quyền và thần quyền. Hành động này đã được dự báo, dự đoán trong quá khứ khi
Mị khóc lúc mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị định lấy lá ngón tự tử, khi Mị hừng hực sức
sống trong mùa xuân năm trước để năm nay Mị đủ sức cầm con dao cắt dây trói cho A
Phủ. Giải cứu A Phủ là Mị giải cứu chính mình. Sức sống mãnh liệt của người con gái ấy
vượt lên trên cả cường quyền, thần quyền thậm chí là chấp nhận cả cái chết để đánh đổi
một cuộc sống đáng sống, sống cho ra sống. Hành động này là biểu hiện đầy đủ nhất, cao
nhất của nhân vật Mị mà tác giả Tô Hoài đã dày công phân tích đầy lô gic và thuyết phục.
Khi vừa được cởi dây trói thì “A Phủ khuỵu xuống, không bước nổi”. Tưởng chừng
như A Phủ sẽ gục ngã, nhưng không, khi đứng giữa sự sống và cái chết, bản năng của con
người bùng lên mạnh mẽ, không gì cản trở được: “ A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy
xuống dốc núi”. Cũng giống như A Phủ, Mị cũng đã đánh thức được bản năng sống của
mình. Giây phút đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối trong
những suy nghĩ rối bời: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Khi đã cứu được người, A
Phủ đã được tự do, được sống thì cũng là lúc tình thương người trong Mị hoàn thành bổn
phận. Giờ đây chỉ còn lại mình Mị với số phận đã an bài và một cái chết đang chờ đón.
Khi con người ta đang đứng giữa ranh giới mà sự sống và cái chết chỉ cận kề trong gang
tấc thì bản năng sinh tồn của con người sẽ trỗi dậy. Mị hành động theo bản năng tất yếu.
Và cuối cùng tiếng gọi của tự do cùng với sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống
và trong thời khắc ấy Mị đã quyết định vụt chạy theo A Phủ. “Mị vụt chạy ra..Mị băng
đi..”.như đang đuổi theo và giành lại sự sống và tự do cho chính mình. Những bước chân
của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ cường quyền, thần quyền của
bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ bao năm qua. Ta hãy nghe
Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: "A Phủ. Cho tôi đi!... Ở đây thì chết mất". Có lẽ chưa
bao giờ niềm khao khát sống và khát khao tự do đến với Mị mãnh liệt như lúc này. Hành
động cắt dây trói cho A Phủ nhưng cũng chính Mị tự tay cắt đứt bao sợi dây của cường
quyền, thần quyền đã trói buộc mình. Tiếng gọi tự do đang vẫy chào họ phía trước, nơi họ
đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn
đau, tủi nhục trong quá vãng.
Qua diễn biến tâm lí của Mị trong đêm giải thoát cho A Phủ ta thấy được Tô Hoài đã
tìm sâu vào tận cùng của ý thức, vào trong trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khai thác
những viên ngọc quý ẩn trong đó, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng và hơi ấm của niềm
ham sống. Đồng thời bày tỏ sự cảm thông thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân nghèo
miền núi và khẳng định sức sống ngoan cường , khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao
động. Như dưới lớp nguội lạnh kia vẫn ủ chút than hồng, khiến ta lại liên tưởng đến nhân
vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn hiện thực xuất sắc- Nam Cao. Cũng
giống như Tô Hoài, dưới ngòi bút nhân đạo của Nam Cao truyện “ Chí Phèo” đã khơi bùng
lên khát vọng hạnh phúc và lương thiện ở một kẻ đã tưởng như không còn đời sống tâm
linh con người với một hình thái không phải nhân dạng nữa. Cả hai người nghệ sĩ đã góp
thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức mạnh. Ngoài ra, tác
phẩm “Vợ chồng A Phủ” còn thấm đẫm giá trị hiện thực bởi nói. Phản ánh chân thực bức
4. Đặng Phan Khánh Linh 12XH2
tranh đời sống của người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám bị áp bức, bóc
lột, bộ mặt tàn bạo của bọn phong kiến miền núi đồng thời phản ánh chân thực những
phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc.
Ngoài ra, “ Vợ chồng A Phủ” còn chứa đựng cả sự am hiểu sâu sắc về phong tục, cùng
cách miêu tả giàu chất tạo hình, chất trữ tình thấm đượm, lối kể tự nhiên, sinh động và đặc
biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình sắc sảo qua ngôn ngữ độc thoại và đối thoại. Cùng
với giọng kể trầm lắng đầy cảm thông, yêu mến; nhịp kể chậm xúc động có khi hòa vào
dòng tâm tư của nhân vật, vừa bộc lộ nội tâm của nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm,ngôn
ngữ sinh động được chọn lọc, sáng tạo giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ, tất cả tạo nên
một câu chuyện đặc sắc,đầy ý nghĩa mà đậm đà bản sắc dân tộc.
Ẩn chứa đằng sau mỗi một nhân vật trong tác phẩm đề là những tâm tư, tình cảm mà
tác giả muốn bộc lộ. Qua hình tượng nhân vật Mị, điều Tô Hoài muốn nhắn nhủ chính là
sức sống mãnh liệt của người con gái ấy. Không một thế lực nào có thể dập tắt nó, thậm
chí nếu càng đè nén, càng áp bức thì đến một lúc nào đó nó sẽ trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Đồng
thời nhà văn cũng ca ngợi vẻ đẹp của những cô gái dân tộc Mèo xinh đẹp, tài hoa và hiếu
thảo. Vẻ đẹp chân chất, giản dị như những bông hoa ban nơi núi rừng Tây Bắc để lại
thương nhớ nhiều không chỉ cho nhà văn mà còn để thương để nhớ cho bạn đọc mãi mãi
về sau.