1. ÔN LUYỆN CHIỀU TỐI CỦA HỒ CHÍ MINH
I. MỞ BÀI
- Tác giả: vị lãnh tụ vĩ đại, cha già kính yêu….., nhà thơ lớn. Người đã để
lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ……
- Tác phẩm:
- Vấn đề cần nghị luận: bài thơ vừa là bức tranh, cuộc sống thiết tha của
Bác với thiên nhiên, con người, cs. Cảm nhận được chất thép, chất tình
bát ngát trong thơ Người.
2. II. THÂN BÀI
1. LUẬN ĐIỂM 1: KHÁI QUÁT
- Có thể nói tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh là tiếng thơ được ngân
rung từ trái tim một con người vĩ đại - dù trong hoàn cảnh đen tối vẫn ung dung
làm thơ, làm được nhiều và làm được thơ hay. Có thể coi tập thơ là một bức chân
dung tinh thần tự họa của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh với bản lĩnh, với
chất thép kiên cường, và chất tình bao la mênh mông dành cho cuộc sống.
- “Chiều tối” là bài thơ thứ 31 của tập thơ “Nhật kí trong tù”. Cảm hứng bài thơ
gợi lên trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm
1942. Đây là một bài thơ giản dị mà sâu sắc. Bác đã mang một tình cảm lớn lao
với nhân loại để viết nên những vần thơ chạm đáy hồn nhân thế.
3. LUẬN ĐIỂM 2: PHÂN TÍCH
Ý 1: HAI CÂU ĐẦU: Bức tranh thiên nhiên
Câu dẫn ý: Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng lúc chiều tối
với hình ảnh người tù ngước nhìn bầu trời dõi theo cánh chim mỏi mệt đang
bay về tổ, chòm mây lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
- Kế thừa vẻ đẹp tao nhã và cổ điển phương Đông, khung cảnh thiên nhiên trong
hai câu đầu đã được phác hoạ bằng những nét chấm phá, lấy điểm để vẽ diện. Nhà
thơ không nghiêng về tả mà chỉ gợi ra được một vài nét, cốt ghi lấy linh hồn của
tạo vật. Cấu trúc đăng đối, âm điệu thoáng buồn, hình ảnh thiên nhiên sơn cước
hiện ra một cách đơn sơ qua cánh chim chiều mỏi mệt đang bay về tổ và áng mây
lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không.
4. - Hình ảnh cánh chim bay về tổ, về núi rừng thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà
là thi liệu quen thuộc của thi ca từ xưa đến nay:
+ “Chim bay về núi, tối rồi” (Ca dao)
+ “Chim hôm thoi thót về rừng” (Truyện Kiều),
+ “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”(BHTQ)
+ “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” (Huy Cận)
Trong thơ Bác cũng thế. “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ” vừa là một nét vẽ phác họa không
gian vừa gợi ra ý niệm thời gian.
Trong thơ xưa, cánh chim quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài, mang tính ước lệ chung
chung, gợi cảm giác xa xăm, phiêu bạt chia lìa như trong thơ xưa (Cánh chim bay) mà còn
được cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong (Cánh chim mỏi mệt). Có thể thấy một sự gần gũi
tương đồng giữa cánh chim mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn với người tù đã thấm mệt sau một
ngày vất vả lê bước đường trường. Ngoại cảnh cũng là tâm cảnh. Trong ý thơ có sự hòa hợp,
đồng điệu giữa nhà thơ và cảnh vật thiên nhiên
5. - Câu thơ thứ hai tiếp tục phác họa không gian, thời gian và tâm trạng:
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Câu thơ dịch chưa dịch hết ý tứ trong nguyên bản, Bác viết:
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Đám mây lẻ loi chầm chậm trôi giữa tầng không)
+ Bản dịch thơ đã làm mất đi chữ “cô” trong nguyên tác và nhịp bay chầm chậm của đám mây
được gợi nên qua từ “mạn mạn”. Chòm mây trong thơ Người không phải áng mây trắng ngàn
năm bay gợi ra cảm giác vĩnh hằng của vũ trụ: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” trong bài
thơ“Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, cũng không phải là “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” mang
theo nỗi u uẩn, cuộc đời trong (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến mà là một chòm mây cô đơn đang
chậm chậm trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người, như mang cái tâm trạng lẻ loi,
đơn độc và như đang băn khoăn, trăn trở chầm chậm trôi chưa biết tương lai phía trước sẽ đến
đâu của người tù nơi đất khách.
6. Hai câu thơ trên gợi nhớ tới những câu thơ của Lí Bạch:
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Nhưng dường như cánh chim trong thơ của Lí Bạch mất hút vào không gian vô
tận còn cánh chim trong thơ Bác lại bay về rừng tìm chốn ngủ, là cách chim của
đời thực, hướng về cuộc sống. Áng mây chiều trong thơ Lí Bạch là áng mây gợi
cảm giác nhàn nhã, thoát tục còn áng mây trong thơ Bác lại thoáng mang tâm
trạng cô đơn của con người.
Tiểu kết: Hai câu đầu là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh ngụ tình, thấm
đượm nỗi buồn của người tù nơi đất khách, qua đó thể hiện bản lĩnh kiên cường
“chất thép”, ý chí nghị lực, tình yêu thiên nhiên của nhà thơ Hồ Chí Minh.
7. Ý 2: PHÂN TÍCH HAI CÂU CUỐI- BỨC TRANH ĐỜI SỐNG
Câu dẫn ý: Bên cạnh một tình yêu lớn lao dành cho thiên nhiên, Bác còn có
một tình yêu bao la dành cho cuộc sống của người lao động. Bởi lẽ, “Con
người là hoa của đất” là cái đẹp vĩnh hằng nhất. Hai câu cuối đã khắc họa
sâu sắc tình cảm lớn lao ấy:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
(Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng)
8. - Đến đây điểm nhìn của tác giả đã có sự thay đổi. Hướng về bầu trời cao rồi cuối
cùng nhìn về mặt đất, từ xa đến gần, từ hình ảnh thiên nhiên đến bức tranh sinh
hoạt của con người. Trung tâm của bức tranh không phải là bầu trời, hay cánh
chim mà là hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô. Nếu so hình ảnh con người trong thơ
Bác với Bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan thì bóng dáng con
người thấp thoáng, mờ nhạt tôn lên cái hoang sơ, hùng vĩ của trời đất, còn hình
ảnh người thiếu nữ sơn cước xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, tràn đầy sức sống giữa
miền núi rừng hoang vu.
- Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định “Đó là hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời
lao động vất vả mà vẫn ấm cúng..”. Một lần nữa, người đọc nhận ra cái nhìn trìu
mến hướng về sự sống của Bác. Hai câu thơ có sắc điệu tươi vui cho thấy niềm
yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha của Người.
9. - Hình ảnh “lò than đã rực hồng” làm sáng bừng lên khuôn mặt thiếu nữ
xay ngô, mang đến hơi ấm sưởi ấm không gian núi rừng âm u, heo hút
và làm ấm lòng người tù cách mạng. Đây chính là ngọn lửa của sinh
hoạt gia đình ấm cúng, là ngọn lửa của lao động, của sự sống tạo nên âm
hưởng lạc quan cho toàn bài.
- Điệp ngữ vắt dòng “ma bao túc – bao túc ma hoàn” thể hiện vòng quay
nhịp nhàng của cối xay ngô, vừa thể hiện dòng lưu chuyển của thời gian
từ chiều sang tối. Mặc khác, chữ “hồng” ở cuối bài thơ là sáng tạo độc
đáo của tác giả.
10. - Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là “con mắt thơ”
(thi nhãn), hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt). Với một chữ “hồng”, Bác đã làm
sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mỏi mệt, sự uể oải, sự vội
vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực khuôn mặt của
cô em sau khi xay ngô tối từ đó thắp lên trong lòng người nỗi niềm ấm áp,
lạc quan.
Tiểu kết: Hình tượng thơ có sự vận động một cách khỏe khoắn. Sự vận
động này cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm lậc quan yêu đời, thể hiện một tâm
hồn luôn hướng về sự sống, về ánh sáng tương lai của nhà thơ Hồ Chí Minh.
11. LUẬN ĐIỂM 3; ĐÁNH GIÁ
Bài thơ mang đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại, có sự kết hợp hài
hòa giữa chất thép và chất tình từ đó cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống và ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí
Minh
III. KB