SlideShare a Scribd company logo
1 of 175
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ XUÂN SƠN
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ
VÀ VẤN ĐỀ GIA NHẬP CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 62 38 60 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
HƯỚNG DẪN 1: TS. LS. HOÀNG NGỌC GIAO
HƯỚNG DẪN 2: PGS.TS. NGUYỄN BÁ DIẾN
Hà Nội - 2014
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................8
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu .................................................................................................. 8
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................ 11
3. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của luận án.......................................................................... 12
4. Phƣơng pháp nghiên cứu....................................................................................................... 13
5. Tính mới và những đóng góp của luận án ........................................................................... 13
6. Kết cấu của Luận án.............................................................................................................. 14
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................15
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài.................................................................................... 15
1.2 Tình hình nghiên cứu ở việt nam........................................................................................ 20
1.3 Những vấn đề nghiên cứu của luận án............................................................................... 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..................................................................................................26
CHƢƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ HÌNH SỰ
QUỐC TẾ...........................................................................................................................28
2.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế................................................................. 28
2.1.1. Định nghĩa thẩm quyền và thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế.....................................................28
2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế......................................................34
2.2. Phân loại thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế................................................................... 44
2.2.1. Thẩm quyền dựa trên sự chấp thuận và thẩm quyền bắt buộc......................................................44
2.2.2. Thẩm quyền ưu tiên và thẩm quyền bổ sung .................................................................................45
2.2.3. Thẩm quyền theo vụ việc (Ad hoc) và thẩm quyền thường trực ....................................................47
2.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế..................... 50
2.3.1. Cơ sở hình thành thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế....................................................................50
2.3.2. Giai đoạn trước Đại chiến Thế giới Thứ nhất...............................................................................51
2.3.3. Giai đoạn từ Đại chiến Thế giới Thứ nhất đến Đại chiến Thế giới Thứ hai .................................52
2.3.4. Giai đoạn từ sau Đại chiến Thế giới Thứ hai đến trước khi chấm dứt Chiến tranh lạnh .............53
2.3.5. Giai đoạn từ sau Chiến tranh lạnh đến trước khi xuất hiện TAHSQT ..........................................54
2.3.6. Giai đoạn từ khi có TAHSQT đến nay...........................................................................................59
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ..................................................................................................64
CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC THI THẨM QUYỀN CỦA
TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ.........................................................................................66
3.1. Các nguyên tắc cơ bản để xác lập và thực thi thẩm quyền của TAHSQT..................... 66
3.1.1. Nguyên tắc thẩm quyền bổ sung....................................................................................................66
3.1.2. Nguyên tắc không xét xử hai lần (non bis in idem) .......................................................................71
3.1.3. Nguyên tắc căn cứ vào tính nghiêm trọng của vụ việc..................................................................72
iii
3.2. Phạm vi thẩm quyền của TAHSQT................................................................................... 73
3.2.1. Thẩm quyền theo lãnh thổ.............................................................................................................73
3.2.2. Thẩm quyền theo thời gian............................................................................................................74
3.2.3. Thẩm quyền đối với cá nhân .........................................................................................................76
3.2.4. Thẩm quyền đối với một số tội phạm xác định..............................................................................78
3.3. Cơ sở thực hiện thẩm quyền của TAHSQT...................................................................... 90
3.3.1. TAHSQT thực hiện thẩm quyền trên cơ sở thông báo của quốc gia thành viên............................90
3.3.2. TAHSQT thực hiện thẩm quyền trên cơ sở sáng kiến của công tố viên (proprio motu)................92
3.3.3. TAHSQT thực hiện thẩm quyền trên cơ sở Nghị quyết của HĐBA ...............................................95
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................................100
CHƢƠNG 4 VẤN ĐỀ GIA NHẬP QUY CHẾ RÔM CỦA VIỆT NAM...................102
4.1. Những lợi ích của Việt Nam khi xem xét gia nhập Quy chế Rôm về TAHSQT.......... 102
4.2. Những thuận lợi và thách thức chung của việc gia nhập Quy chế Rôm về TAHSQT 106
4.2.1. Những thuận lợi chung cần tính đến khi Việt Nam xem xét gia nhập Quy chế Rôm...................106
4.2.2. Những thách thức chung mà các quốc gia phải tính đến khi xem xét gia nhập Quy chế Rôm....115
4.3. Những thuận lợi, thách thức đặc thù xuất phát từ những quy định và thực tiễn thực thi
thẩm quyền của TAHSQT....................................................................................................... 133
4.3.1. Những thuận lợi và thách thức xuất phát từ nguyên tắc thẩm quyền bổ sung của TAHSQT ......133
4.3.2. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với các quy định về thẩm quyền của TAHSQT, nghiên cứu
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới .....................................................................................135
4.4. Một số đề xuất, giải pháp.................................................................................................. 143
4.4.1. Đề xuất thời điểm và những điều kiện chính trị, xã hội cần thiết để Việt Nam gia nhập Quy chế
Rôm .......................................................................................................................................................143
4.4.2. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến việc gia nhập Quy chế Rôm và việc thực thi thẩm quyền của
TAHSQT ở Việt Nam.............................................................................................................................146
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ................................................................................................154
KẾT LUẬN CHUNG.......................................................................................................156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ.......................................159
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................160
PHỤ LỤC LUẬN ÁN ......................................................................................................171
iv
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Các
tài liệu sử dụng trong luận án đều được
trích dẫn rõ ràng. Các kết luận khoa học
trong luận án chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả
Nguyễn Thị Xuân Sơn
v
Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo, các cán bộ của Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi
trong cả quá trình nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy giáo hướng
dẫn: TS. Hoàng Ngọc Giao và PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, sự hướng dẫn tận
tình, tâm huyết của các Thầy đã giúp tôi hoàn thành công trình nghiên cứu
này.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn
hỗ trợ, động viên và đồng hành với tôi trong suốt quá trình nghiên cứu của
mình.
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
TAHSQT Tòa án Hình sự quốc tế theo Quy chế Rôm 1998
LHQ
ĐHĐ
Liên hợp quốc
Đại hội đồng (Liên hợp quốc)
HĐBA Hội đồng Bảo an (Liên hợp quốc)
Quy chế Rôm Quy chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế năm
1998
HC Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945
Tòa Nuremberg Tòa án Quân sự quốc tế để xét xử công bằng, kịp
thời và trừng trị những kẻ phạm tội phạm chiến
tranh chủ chốt thuộc Phe Trục ở lục địa Châu Âu.
Tòa Tokyo Tòa án Quân sự quốc tế tại khu vực Viễn Đông,
1945.
Tòa Nam tư cũ Tòa án Hình sự quốc tế phụ trách xét xử các cá
nhân bị truy tố về những hành vi vi phạm nghiêm
trọng luật nhân đạo quốc tế xảy ra trên lãnh thổ
Nam Tư cũ từ năm 1991 đến ngày 25 tháng 5 năm
1993.
Tòa Ruanđa Tòa án Hình sự quốc tế phụ trách xét xử những
người bị truy tố về tội diệt chủng và các vi phạm
nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế thực hiện trên
lãnh thổ Ruanđa và những công dân Ruanđa bị
truy tố về tội diệt chủng và các vi phạm đó thực
hiện trên lãnh thổ của các quốc gia láng giềng,
trong thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 1994 đến
ngày 31 tháng 12 năm 1994.
vii
Tòa Sierra Leon
Veto
Tòa án đặc biệt cho Sierra Leon ngày 16 tháng 01
năm 2002.
Quyền phủ quyết của năm ủy viên thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc (Hoa Kỳ, Liên bang
Nga, Trung Quốc, Pháp và Anh).
Ad hoc Có tính chất vụ việc, tạm thời, không thường trực.
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
1. Hòa bình và công lý luôn được nhìn nhận như là hai mặt của một vấn
đề, hòa bình là điều kiện cho công lý được thực thi và công lý sẽ góp phần
đảm bảo một nền hòa bình bền vững. Từ bao đời nay, cộng đồng quốc tế luôn
khao khát một nền hòa bình, tránh cho nhân loại phải đối mặt với các cuộc
chiến tranh tàn khốc, nhưng xung đột vũ trang vẫn diễn ra ở nhiều mức độ
khác nhau, với quy mô ngày càng gia tăng, đe dọa đến hòa bình và ổn định
trên toàn thế giới. Trong bối cảnh này, công lý càng cần được đẩy mạnh nhằm
trừng trị thích đáng những hành vi có tính chất tội phạm quốc tế nghiêm
trọng, góp phần ngăn chặn, hạn chế các cuộc xung đột, xây dựng một nền
pháp quyền cho cộng đồng quốc tế, hướng tới hòa bình, ổn định lâu dài.
2. Cho đến trước khi Tòa án Hình sự quốc tế (TAHSQT) theo Quy chế
Rôm được thành lập năm 1998, cộng đồng quốc tế đã có những nỗ lực xây
dựng các thiết chế tài phán hình sự quốc tế để xét xử những tội phạm quốc tế
nghiêm trọng nhất. Tuy nhiên, các thiết chế đó được hình thành trong những
hoàn cảnh cá biệt, chỉ có thẩm quyền giới hạn về không gian, thời gian nhất
định, đồng thời còn chứa đựng nhiều bất cập trong cả tổ chức và hoạt động.
3. Trong bối cảnh đó, TAHSQT theo Quy chế Rôm ra đời nhằm đáp
ứng kỳ vọng của cộng đồng quốc tế về một thiết chế tài phán hình sự quốc tế
đủ mạnh, độc lập, hiệu quả, có sự kế thừa các tòa án trước đó, vừa tôn trọng
chủ quyền quốc gia, vừa thực hiện mục tiêu trừng trị tội phạm, mang lại công
lý cho nhân loại. Theo quy định của Quy chế Rôm, TAHSQT có thẩm quyền
xét xử những cá nhân đã thực hiện các tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất,
bao gồm tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và tội
9
xâm lược.
Sự ra đời của TAHSQT đã đem lại nhiều giá trị mới mẻ, được đánh giá
là một trong những bước phát triển quan trọng nhất của luật quốc tế kể từ khi
Hiến chương Liên Hiệp Quốc ra đời năm 1945 đến nay. Quy chế Rôm hiện có
122 quốc gia thành viên và hàng chục quốc gia khác đã ký kết và đang chuẩn
bị các thủ tục gia nhập, điều này chứng tỏ tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của
Quy chế Rôm ở quy mô toàn cầu.
4. Sự ra đời của TAHSQT là kết quả của một quá trình nghiên cứu,
đàm phán, tranh luận lâu dài không chỉ của các quốc gia, mà còn của nhiều
thành phần khác nhau như các học giả, chính trị gia, các nhà hoạt động xã hội,
nhân quyền. Cho đến nay, ngay cả sau khi Tòa án đã đi vào hoạt động và có
một số lượng lớn các quốc gia tham gia, vẫn còn hàng loạt vấn đề mang tính
lý luận, thực tiễn liên quan đến Tòa án tiếp tục được nghiên cứu, tranh luận.
Trong đó, vấn đề mang tính sống còn, đồng thời cũng là chủ đề tranh luận gay
gắt nhất trong cộng đồng quốc tế là về thẩm quyền của TAHSQT.
Đối với các quốc gia thành viên, vấn đề đặt ra là làm sao để TAHSQT
có thể thực hiện một cách hiệu quả thẩm quyền đã được thừa nhận theo Quy
chế Rôm?, làm sao có thể vừa tôn trọng các quy định của Quy chế Rôm về
thẩm quyền của Tòa án, vừa có thể bảo toàn một cách tốt nhất chủ quyền
quốc gia của mình?. Hơn nữa, đối với các quốc gia này, các nghiên cứu, tranh
luận cũng đặc biệt sôi nổi liên quan đến khả năng mở rộng thẩm quyền của
Tòa án, chẳng hạn liên quan đến trường hợp tội phạm xâm lược, tội phạm
khủng bố.
Đối với các quốc gia chưa là thành viên của TAHSQT, thẩm quyền của
TAHSQT là vấn đề có tính chất cốt lõi, quyết định khả năng gia nhập Quy
chế Rôm của các quốc gia này. Có hàng loạt các câu hỏi liên quan đến thẩm
quyền của Tòa án mà quốc gia cần phải cân nhắc khi xem xét gia nhập Quy
10
chế Rôm: Liệu với nội dung, nguyên tắc và điều kiện thực hiện thẩm quyền
của Tòa án như hiện nay, việc trở thành thành viên của Tòa án có đe dọa, làm
ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia?. Liệu việc đứng ngoài Quy chế Rôm có
tránh cho quốc gia khỏi mọi ảnh hưởng của việc thực hiện thẩm quyền của
Tòa án?. Đâu là những cơ hội và thách thức của việc gia nhập Quy chế Rôm
xét trên cả phương diện chính trị, ngoại giao, kinh tế và pháp lý?. Xét trên
phương diện pháp lý, đâu là những thay đổi cần thiết về thể chế, quy định
pháp luật trong nước mà quốc gia cần phải tiến hành để có thể vừa đồng thời
tuân thủ Quy chế Rôm, góp phần vào việc giữ gìn hòa bình và công lý quốc
tế, nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được sự toàn vẹn của chủ quyền quốc gia và
sự hoạt động ổn định của nền tư pháp trong nước?.
Nghiên cứu tất cả những vấn đề trên thực sự là hoạt động cần thiết, có ý
nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
5. Từng phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài và tàn khốc, hơn ai
hết Việt Nam là quốc gia luôn hiểu được giá trị của hòa bình và công lý quốc
tế. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa, Việt Nam đã khẳng định
chính sách nhất quán muốn làm bạn với tất cả các quốc gia, muốn là thành
viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Thực hiện chính sách này, Việt
Nam đã tham gia vào hàng loạt các điều ước quốc tế về chống chiến tranh,
đảm bảo an ninh quốc tế, bảo vệ quyền con người và nhân đạo quốc tế. Gần
đây nhất, tại diễn đàn Toàn thể của Liên Hợp quốc, Thủ tướng Chính phủ
chính thức tuyên bố Việt Nam đã sẵn sàng tham gia vào các hoạt động có mục
đích nhân đạo, dân sự trong sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc.
Tiếp đó, vào ngày 28/11/2013, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc.
6. Tích cực tham gia vào tiến trình thảo luận, đàm phán Quy chế Rôm,
cho đến nay Việt Nam vẫn chưa ký Quy chế, và do vậy chưa là thành viên của
11
TAHSQT. Việc gia nhập Quy chế Rôm, trở thành thành viên của TAHSQT sẽ
là một hoạt động nhằm tăng cường hình ảnh về một đất nước Việt Nam yêu
chuộng hòa bình, công lý, khẳng định rõ hơn cam kết của Việt Nam là một
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, cũng giống
như bất kỳ một quốc gia nào khác, sự gia nhập này cần phải được cân nhắc,
tính toán kỹ lưỡng trên mọi phương diện chính trị, ngoại giao, kinh tế và pháp
lý.
Trên phương diện pháp lý, việc nghiên cứu làm sáng tỏ tính chất, phạm
vi, nguyên tắc, điều kiện cũng như thực tế thực hiện thẩm quyền của
TAHSQT, những hệ quả pháp lý trong nước có thể mang lại từ việc chấp
nhận thẩm quyền của TAHSQT có ý nghĩa tiên quyết đối với quyết định gia
nhập Quy chế Rôm của Việt Nam. Trên phương diện lý luận, những nghiên
cứu này cũng là những đóng góp quan trọng trong việc phát triển khoa học
luật quốc tế của Việt Nam nói chung và khoa học luật hình sự quốc tế của
Việt Nam nói riêng.
Xuất phát từ bối cảnh nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thẩm quyền
của TAHSQT và vấn đề gia nhập của Việt Nam” làm đề tài cho luận án Tiến
sĩ chuyên ngành luật quốc tế của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của thẩm quyền của các thiết chế tài
phán hình sự quốc tế nói chung và thẩm quyền của TAHSQT nói riêng. Qua
đó, nêu bật các đặc trưng về thẩm quyền của TAHSQT và những khả năng
ràng buộc của việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án đối với các quốc gia
không thành viên. Đồng thời, luận án cũng phân tích bối cảnh của Việt Nam,
có tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia để đánh giá những lợi ích,
12
thách thức đối với Việt Nam trong việc xem xét gia nhập Quy chế Rôm về
TAHSQT.
 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tóm tắt, phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước về thẩm quyền của TAHSQT, xác định các vấn đề nghiên cứu chính của
luận án.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về thẩm quyền của các
thiết chế tài phán hình sự quốc tế, từ đó có những khái quát hóa, đánh giá về
sự phát triển về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế qua các giai đoạn lịch sử.
- Nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về
thẩm quyền của TAHSQT bao gồm tính chất, nguyên tắc, nội dung, điều kiện
và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Tòa án.
- Nghiên cứu, đánh giá những cơ hội và thách thức của việc gia nhập
Quy chế Rôm, trở thành thành viên của TAHSQT của Việt Nam, đặc biệt
trong mối liên hệ với việc chấp nhận và thực hiện thẩm quyền của Tòa án.
Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những nhận định, kiến nghị, giải pháp về thời
điểm thích hợp và một số bước chuẩn bị cần thiết của việc gia nhập Quy chế
Rôm của Việt Nam.
3. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu Quy chế Rôm về TAHSQT là một một đề rất rộng bao gồm
nhiều lực lĩnh khác nhau, dưới góc độ địa chính trị, kinh tế, xã hội và pháp lý.
Tuy nhiên, với mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, luận án chủ yếu tập trung nghiên
cứu dưới góc độ pháp lý, giới hạn ở những vấn đề sau:
- Cơ sở lý luận và phạm vi thẩm quyền, đặc biệt là thẩm quyền
xét xử của Tòa án Hình sự quốc tế;
13
- Thực tiễn các quy định và việc thực hiện trên thực tế thẩm
quyền của Tòa án Hình sự quốc tế;
- Xem xét các khía cạnh tác động, các điều kiện liên quan đến
quá trình gia nhập Quy chế Rôm của Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của luận án là triết học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời vận
dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và xu thế hội nhập
quốc tế.
Phương pháp cụ thể: Luận án sử dụng phương pháp đi từ những vấn đề
chung, tổng quát đến các vấn đề riêng, cụ thể. Các phương pháp cụ thể khác
cũng được ưu tiên sử dụng trong luận án như: phân tích, so sánh, tổng hợp,
văn bản học, thống kê để giải quyết những vấn đề mà luận án đặt ra.
Tác giả sử dụng một số lượng lớn các thông tin, báo cáo, thống kê cập
nhật trên trang điện tử chính thức của Tòa án Hình sự quốc tế làm cơ sở cho
việc phân tích, đánh giá và đưa ra những luận chứng khoa học của cá nhân.
Luận án có sự kế thừa một cách có chọn lọc những thành tựu của
những công trình nghiên cứu có liên quan của các học giả trong nước và quốc
tế, thông qua đó có sự bình luận, nhận định và đưa ra quan điểm khoa học cá
nhân của tác giả.
5. Tính mới và những đóng góp của luận án
- Góp phần làm sâu sắc hơn những khía cạnh lý luận và thực tiễn về
thẩm quyền của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế, đặc biệt là thẩm quyền
của TAHSQT.
- Góp phần làm sáng tỏ thêm quan điểm TAHSQT mặc dù chia sẻ
14
những đặc thù chung về thẩm quyền với các thiết chế tài phán hình sự quốc tế
trước đây, nhưng Tòa án vẫn chứa đựng những đặc điểm riêng biệt như tính
chất độc lập, hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế và mang tính chất bổ
sung. Với những đặc điểm nổi bật này, TAHSQT đã trở thành một thiết chế
tài phán có sự ủng hộ và tham gia đông đảo của các quốc gia trong cộng đồng
quốc tế.
- Góp phần làm sâu sắc thêm luận chứng thẩm quyền TAHSQT không
chỉ ràng buộc đối với công dân của các quốc gia thành viên, mà trong một số
trường hợp, còn ảnh hưởng hay ràng buộc ngay cả với công dân của các quốc
gia không thành viên của Quy chế Rôm.
- Góp phần làm sáng tỏ thêm những cơ hội và thách thức của việc gia
nhập Quy chế Rôm của Việt Nam, từ đó đề xuất việc thay vì có thể phải thụ
động chịu sự ràng buộc thẩm quyền của Quy chế Rôm, để khẳng định chính
sách hòa bình, hội nhập và trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế, Việt Nam
nên sớm chủ động gia nhập Quy chế Rôm.
- Luận án phân tích và làm rõ những lợi ích, thuận lợi và khó khăn của
Việt Nam khi gia nhập Quy chế Rôm, từ đó kiến nghị một số giải pháp cần
thiết cho sự gia nhập này.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế
Chương 3: Thực trạng quy định và thực thi thẩm quyền của Tòa án
Hình sự quốc tế
Chương 4: Vấn đề gia nhập Tòa án Hình sự quốc tế của Việt Nam.
15
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động nghiên cứu về các thiết chế
tài phán hình sự quốc tế đã phát triển mạnh mẽ từ sau Đại chiến Thế giới lần
Thứ nhất.
Sau khi Quy chế Rôm được ký kết vào năm 1998, hoạt động nghiên
cứu về TAHSQT thực sự bước vào giai đoạn mới, với hàng nghìn công trình,
tài liệu ở phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu. Những công trình này có ý
nghĩa khoa học, chính trị và pháp lý to lớn, góp phần vào sự phát triển các học
thuyết, trường phái về luật quốc tế nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng.
Có thể phân chia các công trình nghiên cứu dựa trên kết cấu nội dung
của luận án thành ba nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất, các công trình đề cập đến lịch sử hình thành và phát
triển của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế thông qua việc thành lập và phát
triển của các thiết chế tài phán có thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế, tiêu
biểu như:
- Ilias Bantekas và Susan Nash (2001), International Criminal Law
(Luật hình sự quốc tế), Nxb Cavendish, London;
- M. Cherif Bassiouni (2003), The introduction to the International
Criminal Law (Giới thiệu về Luật hình sự quốc tế), Nxb Transnational, New
York;
- Antonio Cassesse (2003), International Criminal Law (Luật hình sự
quốc tế), Nxb Oxford University Press, Oxford;
- Kahn and Richard (2002), Các thiết chế xét xử hình sự quốc tế:
16
những vấn đề thực tiễn, Nxb Sweet & Maxwell, London;
- Sterling Paust, Leila Sadat và M. Cherif Bassiouni (2000), Luật hình
sự quốc tế: các vụ việc và tài liệu, Nxb Carolina Academic, Durham;
- Zappala (2003), Các tòa án Hình sự quốc tế và quyền con người, Nxb
Oxford University, Oxford.
Những công trình của các tác giả có uy tín này có thể được coi là những
công trình tiêu biểu, nền tảng về lĩnh vực luật hình sự quốc tế nói chung, về
thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói riêng. Nội dung chính được đề cập
trong các công trình này bao gồm: Khái niệm các tội phạm quốc tế; đặc điểm,
lịch sử hình thành và phát triển các tội phạm quốc tế; các tội phạm cụ thể như
tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội chống lại nhân loại, tội xâm lược; cơ
sở, bối cảnh của sự ra đời của các thiết chế có thẩm quyền tài phán hình sự
quốc tế; thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế trong mối liên hệ với thẩm quyền
xét xử hình sự quốc gia; các cơ chế, nguyên tắc tố tụng trong hoạt động xét xử
hình sự quốc tế.
Với những nội dung trên, các tác giả đã phân tích, làm rõ từ những vấn
đề lý luận chung nhất, nền tảng về sự hình thành, phát triển các thiết chế tài
phán hình sự quốc tế đến những vấn đề cụ thể, điển hình như các tội phạm
quốc tế, định nghĩa, phân loại và đặc trưng của các tội phạm này. Khi đề cập
đến sự hình thành của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế, các tác giả đã
nêu bật ý nghĩa đặc trưng của từng loại tòa án trong những giai đoạn lịch sử
đặc thù. Hơn nữa, những vấn đề cụ thể cũng đã được các tác giả khai thác và
phân tích, dựa trên thực tiễn phát triển của các thiết chế tài phán hình sự quốc
tế. Những vấn đề được đề cập chủ yếu gồm: mối quan hệ giữa thẩm quyền
quốc tế và thẩm quyền quốc gia, các cơ sở pháp lý trong việc xác định thẩm
quyền, các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh các phiên tòa hình sự quốc tế. Liên
quan đến phần luật hình sự quốc tế về nội dung, các tác giả còn tập trung làm
17
rõ những vấn đề cơ bản trong việc xác định trách nhiệm hình sự quốc tế, đặc
biệt phân tích và làm rõ trách nhiệm hình sự quốc tế của các cá nhân, là cơ sở
cho các tòa án hình sự quốc tế xét xử những đối tượng này.
Nhóm thứ hai, các công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan trực
tiếp đến thẩm quyền của TAHSQT, tiêu biểu như:
- Hans Peter Kaul (2009), The International Criminal Court – Its
relationship to domestic jurisdictions (Tòa án Hình sự quốc tế - Mối quan hệ
của Tòa án với thẩm quyền của các toàn án trong nước), Nxb Martinus
Nijhoff;
- Héctor Olásolo (2005), The triggering procedure of the International
Criminal Court (Thủ tục khởi tố vụ án của Tòa án hình sự quốc tế), Nxb
Martinus Nijhoff ;
- Roy S. Lee (1999), The International Criminal Court, The Making of
the Rôm Statute, Issues, Negotiations, Result (Tòa án Hình sự quốc tế, quá
trình hình thành Quy chế Rôm những vấn đề, các cuộc đàm phán và kết quả),
Nxb Kluwer Law International.
- Markus Benzig, Max Planck (2003), The Complementarity Regime of
the International Criminal Court: International Criminal Justice between
State Sovereignty and the Fight Against Impunity (Thẩm quyền bổ sung của
Tòa án Hình sự quốc tế: Công lý Hình sự quốc tế giữa chủ quyền quốc gia và
cuộc chiến chống lại việc không bị trừng phạt), Yearbook of United Nations
Law;
- Sharon Williams and William Schabas (2008), Commentary on the
Rome Statute of the International Criminal Court: Observers Notes (Bình
luận về Quy chế Rôm, Tòa án Hình sự quốc tế), Nxb Otto Triffterer.
Đây là những công trình được xuất hiện trong giai đoạn từ khi Quy chế
Rôm được thông qua cho đến giai đoạn TAHSQT thực hiện những hoạt động
18
đầu tiên. Chính vì vậy, những công trình này bên cạnh đề cập đến những vấn
đề lý luận về sự hình thành, ra đời của TAHSQT, còn tập trung và phân tích
và đánh giá những vụ việc mà TAHSQT đã thụ lý và đang giải quyết.
Những tài liệu này nghiên cứu tập trung vào những nội dung liên quan
đến thẩm quyền bổ sung, các điều kiện thụ lý vụ án, các tội phạm thuộc thẩm
quyền của TAHSQT. Những nội dung này được phân tích theo một quá trình
từ những Hội nghị xây dựng Quy chế Rôm, cho đến Hội nghị thông qua Quy
chế Rôm về TAHSQT và những nội dung về thẩm quyền được đề cập trong
Quy chế Rôm.
Thông qua những nghiên cứu trên, các tác giả đã đưa ra những đánh
giá, nhận định về tính hiệu quả của TAHSQT thông qua việc phân tích, bình
luận các vụ việc và hoạt động trên thực tế của Tòa án.
Nhóm thứ ba, bao gồm các công trình nghiên cứu về lập trường, quan
điểm, kinh nghiệm của các quốc gia, khu vực liên quan đến thẩm quyền của
TAHSQT, với các công trình tiêu biểu như:
- Hội Luật gia Việt Nam (2008), Quan điểm của Cộng đồng Châu Âu
về Tòa án Hình sự quốc tế, trong Gia nhập và thực thi Quy chế Rôm về Tòa
án Hình sự quốc tế, Quan điểm và kinh nghiệm của một số gia trên thế giới,
Nxb Hồng Đức;
- Jianping, Wang Zhixiang (2005), “China's Attitude towards the ICC”
(Thái độ của Trung Quốc đối với Tòa án Hình sự quốc tế), Tạp chí Công lý
Hình sự quốc tế, Trung Quốc;
- Mark Findla (2010), “The Challenge for Asian Jurisdictions in the
Development of International Criminal Justice” (Thách thức về thẩm quyền
của các nước ASEAN trong sự phát triển của công lý hình sự quốc tế), Tạp
chí Luật Sydney;
- Yasushi Higashizawa (2007), Báo cáo Hội thảo “Kinh nghiệm của
19
Nhật Bản về việc chuẩn bị gia nhập Quy chế Rôm”, Hội thảo về Tòa án Hình
sự quốc tế, ngày 3 - 4/2/2007, Bắc Kinh, Trung Quốc.
- Francis Y. Choi (2007), Báo cáo Hội thảo “Luật thi hành Quy chế
Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế của Hàn Quốc”, Hội thảo chiến lược khu vực
Châu Á, 7-9/5/2007, Jakarta, Indonesia.
- Yoon-Sang. Choi, Báo cáo Hội thảo “Tiến trình phê chuẩn, ban hành
Luật Thi hành Quy chế Rôm và kế hoạch tương lai (của/ về) Tòa án Hình sự
quốc tế của Hàn Quốc”, Hội thảo chiến lược khu vực Châu Á, 7-9/5/2007,
Jakarta, Indonesia.
- Jennifer K. Elsea (2006), Báo cáo trình Thượng viện của Cơ quan
nghiên cứu của Thượng viện Hoa Kỳ “Chính sách của Hoa Kỳ về Tòa án
Hình sự quốc tế”.
Những công trình này về cơ bản được chia ra thành hai trường phái,
quan điểm. Trường phái thứ nhất, ủng hộ cho sự ra đời, hoạt động của
TAHSQT và khuyến khích việc gia nhập của các quốc gia trong cộng đồng
quốc tế. Theo các tác giả này, việc gia nhập một cách phổ biến của các quốc
gia là điều kiện cần thiết để tòa án mang tính phổ cập, có thể thực hiện việc
xét xử các tội phạm quốc tế ở mọi nơi trên thế giới, chấm dứt tình trạng
không bị trừng phạt. Trường phái thứ hai, nghiêng về việc phê phán những
tồn tại của TAHSQT và cảnh báo cho những quốc gia chưa gia nhập cần xem
xét và tính đến những yếu tố cốt lõi như chủ quyền quốc gia, thẩm quyền xét
xử hình sự riêng biệt của các quốc gia, vấn đề can thiệp vào các công việc nội
bộ của các quốc gia.
Các quốc gia ở khu vực Châu Âu luôn thể hiện sự ủng hộ và nhấn
mạnh tầm quan trọng, ý nghĩa của TAHSQT, Tòa án sẽ thúc đẩy việc áp dụng
và tôn trọng Luật Nhân đạo và Nhân quyền quốc tế. Các quốc gia Châu Âu
luôn kỳ vọng Tòa án sẽ phục vụ lợi ích chung, và khẳng định nguyên tắc xét
20
xử bổ sung là một trong những điểm thành công nổi bật của Tòa án. Ngược
lại, Hoa Kỳ luôn giữ thái độ thận trọng, dè dặt với TAHSQT, do những lo
ngại về thẩm quyền xét xử của Tòa đối với công dân các quốc gia không
thành viên, việc truy tố có thể mang tính chính trị, sự lạm quyền của Công tố
viên, thiếu cơ chế đảm bảo một phiên tòa công bằng. Một số công trình đã
phân tích và đánh giá một cách khách quan, khoa học về thái độ, quan điểm
của các quốc gia Châu Á đối với TAHSQT, và chia sẻ những kinh nghiệm
của các quốc gia này trong tiến trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc
gia nhập cũng như thực thi Quy chế Rôm.
Tóm lại, khi nghiên cứu về TAHSQT, các học giả nước ngoài đã thể
hiện một cách sinh động và hiện thực từ vấn đề lý luận đến thực tiễn hoạt
động của Tòa án như lịch sử hình thành, phát triển đến các vấn đề pháp lý
chuyên sâu như thẩm quyền bổ sung, các vấn đề thụ lý vụ án, mối liên hệ giữa
Tòa án và các vấn đề chủ quyền quốc gia, các nghĩa vụ của các quốc gia thành
viên và không thành viên của Tòa án. Hơn nữa, các học giả cũng tập trung
nghiên cứu về quan điểm, thái độ của các quốc gia, các khu vực đối với
TAHSQT và đã có những lý giải, phân tích, đánh giá dựa trên những cơ sở
khoa học pháp lý quốc tế cũng như bối cảnh chính trị, xã hội đặc thù.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên của các nhà khoa học trên thế giới
chưa đề cập một cách hệ thống và toàn diện về lý luận thẩm quyền xét xử
hình sự quốc tế, với các nội dung như phân loại thẩm quyền, xác định các đặc
trưng, tính chất của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế. Bên cạnh đó, việc
đánh giá những lợi ích, cơ hội cho trường hợp cụ thể của Việt Nam trong quá
trình xem xét về khả năng gia nhập Quy chế Rôm cũng chưa được nghiên cứu
trong các công trình của các học giả nước ngoài.
1.2 Tình hình nghiên cứu ở việt nam
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lĩnh vực luật hình sự quốc tế cũng như
21
TAHSQT còn khá mới. Các công trình chủ yếu được xây dựng dưới hình thức
tài liệu kỷ yếu của các Hội thảo khoa học hoặc giáo trình của một số trường
đại học. Một số công trình tiêu biểu như:
- Nguyễn Bá Diến (2006), Tòa án Hình sự quốc tế và việc gia nhập của
Việt Nam, (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Đây là công trình nghiên cứu các vấn đề tổng hợp về TAHSQT, với
những chủ đề như: các tội phạm thuộc quyền tài phán của TAHSQT, vấn đề
quyền tài phán của Tòa, Tòa án trong mối liên hệ với Liên hợp quốc, Tòa án
với hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, TAHSQT với việc bảo vệ
quyền con người và vấn đề chủ quyền quốc gia, thái độ của các nước ASEAN
với TAHSQT. Các tác giả cũng đã dành một phần lớn nội dung để phân tích
những thuận lợi, thách thức của Việt Nam nếu gia nhập Quy chế Rôm, qua đó
nêu ra những hướng đi cụ thể hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt
Nam nhằm tương thích với Quy chế Rôm.
- Nguyễn Bá Sơn (2007), Tòa án Hình sự quốc tế - Góc nhìn Việt Nam
(Sách chuyên khảo), Nxb Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh.
Công trình do nhóm chuyên gia của Vụ Pháp Luật và Điều ước quốc tế,
Bộ Ngoại giao biên soạn, đã đề cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành, phát
triển và hoạt động của TAHSQT với sự lồng ghép và góc nhìn Việt Nam. Các
nội dung chủ yếu của công trình bao gồm: Giới thiệu tổng quan về TAHSQT.
Trong phần này, các tác giả đã giới thiệu quá trình xây dựng Quy chế Rôm và
hình thành TAHSQT, đưa ra những lý do làm cơ sở cho việc hình thành Tòa
án, qua đó cũng so sánh với các cơ quan tư pháp quốc tế khác, đặc biệt còn
cung cấp thông tin về việc tham gia của Việt Nam trong tiến trình này. Tiếp
theo là các chương về quyền tài phán, cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của
các quốc gia cũng như ý nghĩa của TAHSQT và liên hệ với Việt Nam. Thông
qua các nội dung này, các tác giả nêu bật ý nghĩa lịch sử, chính trị to lớn của
22
TAHSQT thường trực đầu tiên, với vai trò bổ sung cho hệ thống tư pháp quốc
gia, có thẩm quyền xét xử các cá nhân nhằm chấm dứt tình trạng bỏ lọt tội
phạm, đem lại công lý cho nạn nhân, góp phần tăng cường hòa bình, ổn định
trên thế giới.
- Nguyễn Thị Thuận (2007), Luật Hình sự quốc tế (sách chuyên khảo),
Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Cuốn sách gồm 7 chương, đề cập đến các nội dung chủ yếu như:
Những vấn đề lý luận chung về luật hình sự quốc tế; Các chuẩn mực quốc tế
của luật hình sự và vấn đề các tội phạm hình sự có tính chất quốc tế; thẩm
quyền tài phán trong luật hình sự quốc tế; tương trợ tư pháp và vấn đề dẫn độ
tội phạm; Tổ chức quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự; Tòa
án quốc tế về xét xử tội phạm; Việt Nam với vấn đề hợp tác quốc tế trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Đây là cuốn giáo trình Luật Hình sự quốc tế đầu
tiên của Việt Nam. Cuốn giáo trình chứa đựng những nội dung về lý luận và
thực tiễn của luật hình sự quốc tế, có liên hệ với thực tiễn của Việt Nam.
- Hội Luật gia Việt Nam (2008), Gia nhập và thực thi Quy chế Rôm về
Tòa án Hình sự quốc tế, quan điểm và kinh nghiệm một số quốc gia trên thế
giới, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
Công trình gồm hai nội dung lớn. Nội dung thứ nhất về các quan điểm
và kinh nghiệm của một số quốc gia về gia nhập và thực thi Quy chế Rôm về
TAHSQT. Nội dung này gồm 29 chuyên đề, bao gồm các vấn đề đặt ra từ Hội
nghị Rôm, TAHSQT - thực trạng và tương lai, khả năng lạm dụng quyền công
tố, các vấn đề cần lưu ý nhằm thi hành hiệu quả Quy chế Rôm, các Hiệp định
theo điều 98 – Hợp pháp hay không hợp pháp. Tiếp theo là các nội dung
chuyên sâu, thể hiện rõ lập trường, quan điểm của các quốc gia và khu vực về
những vấn đề liên quan đến TAHSQT. Trong đó, các tác giả đã đi sâu phân
tích cả hai quan điểm ủng hộ và phản đối Quy chế Rôm. Phần hai của công
23
trình là phụ lục gồm các văn bản Luật của một số quốc gia về thực thi Quy
chế Rôm, hợp tác với TAHSQT và Luật Mẫu về thực hiện Quy chế Rôm do
nhóm chuyên gia khối thịnh vượng chung soạn thảo năm 2004.
- Nguyễn Ngọc Chí (2010), Tòa án Hình sự quốc tế (Giáo trình), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đây là cuốn giáo trình đầu tiên dành cho sinh viên đại học tại Việt Nam
giới thiệu một cách khái quát, cập nhật và toàn diện về TAHSQT. Cuốn giáo
trình gồm 11 chương với các nội dung lớn như: Những vấn đề chung về
TAHSQT; Cơ cấu tổ chức của TAHSQT; Thẩm quyền của TAHSQT; Các
nguyên tắc của Luật hình sự quốc tế, vấn đề cấu thành tội phạm theo Quy chế
Rôm; Vấn đề điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và xét lại bản án, lời
buộc tội; Thi hành bản án của TAHSQT; Hợp tác quốc tế và trợ giúp tư pháp;
Những thách thức và triển vọng của TAHSQT.
- Bộ Tư pháp (2012), Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án Hình sự
quốc tế và kinh nghiệm của một số nước khu vực ASEAN trong việc gia nhập
Quy chế Rôm, (Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế), Hà Nội.
Công trình tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước về TAHSQT, bao gồm ba mảng lớn. Mảng thứ nhất đề cập đến những
vấn đề lý luận và thực tiễn như: chức năng, thẩm quyền, quy trình, thủ tục tố
tụng, các nguyên tắc cơ bản của TAHSQ, những cơ hội và thách thức của
TAHSQT, thực tiễn hoạt động của TAHSQT và một số vụ việc đã được xét
xử bởi TAHSQT. Phần thứ hai đề cập đến kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là một số quốc gia Châu Á trong việc gia nhập và thực
thi Quy chế Rôm. Phần ba là những vấn đề liên quan đến Việt Nam, so sánh
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam với các quy định
của Quy chế Rôm về TAHSQT.
Các công trình khoa học trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận
24
và thực tiễn về thẩm quyền của TAHSQT cũng như bước đầu đưa ra những
đánh giá, nhận định về những thuận lợi, thách thức của Việt Nam khi xem xét
gia nhập Quy chế Rôm.
Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ đề cập đến thẩm quyền của
TAHSQT mà chưa đề cập đến những vấn về lý luận chung về thẩm quyền xét
xử hình sự quốc tế. Bên cạnh đó, những nghiên cứu liên quan đến thẩm quyền
của TAHSQT mới chỉ dừng lại ở việc phân tích pháp luật thực định là Quy
chế Rôm mà chưa có sự so sánh, đối chiếu với các văn kiện quốc tế khác và
chưa lồng ghép vụ việc thực tiễn liên quan đến việc thực thi thẩm quyền của
TAHSQT.
1.3 Những vấn đề nghiên cứu của luận án
Trên thực tế, thẩm quyền của các thiết chế xét xử hình sự quốc tế nói
chung cũng như thẩm quyền của TAHSQT nói riêng là một vấn đề phức tạp,
việc hiểu khái niệm, bản chất của thẩm quyền chưa hoàn toàn thống nhất.
Ngay cả các văn kiện pháp lý quốc tế quy định về thẩm quyền như Quy chế
Rôm hay Quy chế của các tòa án hình sự quốc tế Ad hoc và các văn kiện khác
có liên quan cũng có những điểm chưa rõ ràng, gây ra nhiều tranh cãi. Chính
vì vậy, cả ở góc độ lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu về thẩm quyền xét xử
hình sự quốc tế tồn tại nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau.
Đối với các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, có thể thấy rõ sự
phong phú, đa dạng liên quan đến hầu hết các khía cạnh về thẩm quyền của
TAHSQT, tuy nhiên, còn thiếu vắng những công trình liên quan đến lý luận
về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói chung và đặc biệt là trường hợp của
Việt Nam. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thẩm quyền xét xử hình
sự quốc tế chưa có nhiều. Hơn nữa, chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách tổng thể và khái quát về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói chung và
thẩm quyền của TAHSQT nói riêng, đặc biệt liên quan đến khía cạnh sự ảnh
25
hưởng của thẩm quyền của TAHSQT đối với các quốc gia không thành viên.
Trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá các nghiên cứu trong và ngoài nước có
liên quan, luận án tập trung vào nghiên cứu những vấn đề chính sau:
- Những vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói
chung.
- Cơ sở lý luận về thẩm quyền và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của
TAHSQT, đặc biệt trong mối liên hệ với các quốc gia không là thành viên của
Quy chế Rôm.
- Việc trở thành thành viên của TAHSQT có đòi hỏi quốc gia phải tiến
hành các sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước nhằm tương thích với Quy chế
Rôm?, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài và liên hệ trường hợp cụ thể của
Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá những thuận lợi, thách thức và đề xuất lộ trình,
giải pháp cho việc gia nhập Quy chế Rôm của Việt Nam.
26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Ở nước ngoài, có nhiều công trình nghiên cứu về luật hình sự quốc
tế nói chung, về TAHSQT nói riêng. Những công trình nghiên cứu này đã đề
cập đến những vấn đề cơ bản trên cả phương diện lý luận và thực tiễn về tổ
chức, hoạt động của TAHSQT, đồng thời còn dự báo sự phát triển trong
tương lai của Tòa. Các công trình này đã tạo ra những hệ quan điểm, hình
thành các học thuyết đóng góp vào sự phát triển về lý luận và thực tiễn của
TAHSQT. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một các riêng
biệt những vấn đề lý luận về vấn đề thẩm quyền của các thiết chế xét xử Tòa
án, từ đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự cân nhắc gia nhập của các quốc
gia chưa phải là thành viên của Quy chế Rôm.
2. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thẩm quyền của các thiết
chế xét xử hình sự quốc tế cũng như của TAHSQT mới xuất hiện, do vậy
chưa hình thành những trường phái, quan điểm riêng về lĩnh vực này ở Việt
Nam. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên
sâu về thẩm quyền của các thiết chế tài phán quốc tế nói chung cũng như
thẩm quyền của TAHSQT nói riêng. Đặc biệt cũng chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ về vấn đề thẩm quyền của Tòa án, từ
đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự cân nhắc gia nhập Quy chế Rôm
trong bối cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Do vậy, để góp phần thực hiện chính sách, chủ trương của Đảng và
Nhà nước ta về chủ động hội nhập quốc tế, góp phần thiết thực vào các hoạt
động gìn giữ hòa bình, an ninh quốc tế, nội dung nghiên cứu của Luận án
được triển khai nhằm giải quyết và trả lời cho những câu hỏi cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Đặc biệt, những câu hỏi có tính chất lý luận về cơ sở, bản chất,
27
điều kiện thực hiện thẩm quyền của TAHSQT hay vấn đề bản chất, nội dung,
hệ quả của nguyên tắc thẩm quyền bổ sung, vấn đề thực hiện thẩm quyền của
Tòa án trong mối liên hệ với các quốc gia không là thành viên của Tòa án vẫn
chưa được nghiên cứu, giải đáp một cách thấu đáo, hệ thống. Ngoài ra, một sự
nghiên cứu sâu sắc về thẩm quyền của TAHSQT cũng cho phép trả lời cho
câu hỏi liệu việc trở thành thành viên của Tòa án có đòi hỏi quốc gia phải tiến
hành các sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước nhằm tương thích với Quy chế
Rôm. Việc nghiên cứu thấu đáo câu hỏi này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong bối cảnh Việt Nam xem xét gia nhập Quy chế Rôm.
28
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
HÌNH SỰ QUỐC TẾ
2.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế
2.1.1. Định nghĩa thẩm quyền và thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế
Thuật ngữ Jurisdiction – trong tiếng Anh hay jurisdictio – trong tiếng
La Tinh, thường được hiểu trong tiếng Việt là thẩm quyền, thẩm quyền xét
xử, hay quyền tài phán, là một trong những thuật ngữ pháp lý khó hiểu do
chứa đựng nhiều nghĩa khác nhau [55; 609]. Cho đến nay, việc nghiên cứu lý
luận về thẩm quyền vẫn còn nhiều khoảng trống [67].
Theo từ điển Black’s Law, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu theo hai
nghĩa: (i) Quyền lực của chính phủ được thực hiện với tất cả mọi người cũng
như với các đối tượng khác trong lãnh thổ của họ; (ii) Quyền của tòa án để
quyết định một vụ việc hay quyền đưa ra các phán quyết [59;96].
Theo Từ điển Oxford, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu là quyền lực
chính thức của một chủ thể để đưa ra một quyết định pháp lý hoặc một bản án
[99].
Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, “thẩm
quyền” là tổng hợp các quyền hành động, quyền quyết định được trao hay
thừa nhận cho một chủ thể, cho phép chủ thể đó có thể thực hiện được những
chức năng cụ thể mà pháp luật quy định [40].
Như vậy, “thẩm quyền xét xử” của tòa án cũng thuộc nội hàm của khái
niệm thẩm quyền nói chung. Trên cơ sở đó, “thẩm quyền xét xử hình sự quốc
tế” được hiểu là thẩm quyền của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế xét xử
29
các tội phạm quốc tế.
Khái niệm thẩm quyền xét xét hình sự quốc tế cần được phân biệt với
các khái niệm thẩm quyền xét xử (tài phán) quốc tế, thẩm quyền xét xử quốc
gia đối với các tội phạm có tính chất quốc tế (tội phạm được xác định theo
điều ước quốc tế).
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử quốc tế được hiểu là thẩm quyền của các
thiết chế tài phán quốc tế (tòa án), ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu. Cho đến
nay, các thiết chế tài phán quốc tế chủ yếu bao gồm Tòa án công lý quốc tế,
Tòa án quốc tế về Luật Biển, Tòa công lý Châu Âu, Tòa quyền con người của
Châu Âu…Các thiết chế tài phán có thẩm quyền xét xử quốc tế này được
thành lập trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia, nhằm thực hiện chức
năng xét xử thông qua việc áp dụng các quy định của luật quốc tế [45; 11].
Trong các thiết chế tài phán quốc tế ở quy mô toàn cầu, Tòa án Công lý quốc
tế thể hiện rõ nét nhất đặc trưng của loại hình thiết chế này: hình thành trên cơ
sở thỏa thuận của các quốc gia, có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp lý
giữa các quốc gia và áp dụng luật quốc tế. Tòa án Công lý quốc tế là một
trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc1
, Tòa chỉ có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp pháp lý với một đối tượng chủ thể duy nhất là các quốc
gia. Tòa không có thẩm quyền xét xử đương nhiên đối với các quốc gia thành
viên, cơ sở để Tòa thực hiện thẩm quyền của mình là sự đồng ý rõ ràng của
các quốc gia dựa trên ba phương thức gồm: chấp nhận thẩm quyền của Tòa
theo từng vụ việc; chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa trong các điều ước và
Tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa. Bên cạnh thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý quốc tế, cũng giống như Pháp viện
1
Sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc bao gồm: Đại hội đồng; Hội đồng Bảo an; Hội đồng Kinh tế xã hội, Hội đồng
quản thác, Ban thư ký và Tòa án Công lý quốc tế.
30
thường trực quốc tế2
, Tòa án Công lý quốc tế còn có thẩm quyền đưa ra các
kết luận tư vấn về các vấn đề pháp lý mà Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an và
một số cơ quan, tổ chức khác của LHQ yêu cầu [33; 61].
Thứ hai, thẩm quyền xét xử quốc gia đối với các tội phạm có tính chất
quốc tế (tội phạm theo điều ước quốc tế), là thẩm quyền của các cơ quan tài
phán quốc gia xét xử những hành vi tội phạm được quy định trong các điều
ước quốc tế có liên quan, theo quy trình tố tụng được quy định trong pháp luật
luật quốc gia. Bản chất của các hành vi tội phạm này không chỉ vi phạm trật
tự pháp luật quốc gia, mà còn xâm hại đến lợi ích chung của cộng đồng quốc
tế [34; 103].
Các nguyên tắc phổ biến xác lập thẩm quyền xét xử hình sự của các tòa
án quốc gia đối với tội phạm có tính chất quốc tế bao gồm: nguyên tắc quốc
tịch chủ động, nguyên tắc quốc tịch thụ động, nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc
bảo vệ và nguyên tắc thẩm quyền toàn cầu [34; 80]. Những nguyên tắc này
cũng đã được các tòa án hình sự quốc tế áp dụng để xác định cơ sở thực hiện
thẩm quyền xét xử của các tòa án quốc tế đó.
(i) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc lãnh thổ
Sau thế kỷ 17, với sự kiện Hiệp ước Hòa bình Westphalia3
được ký kết
năm 1648, xuất hiện các quốc gia hiện đại có chủ quyền, nguyên tắc thẩm
quyền theo lãnh thổ được hình thành và dần trở thành nguyên tắc cơ bản để
xác định thẩm quyền cho tòa án của các quốc gia. Theo nguyên tắc này, một
cá nhân khi di chuyển đến lãnh thổ quốc gia khác sẽ không phải thực thi pháp
luật của quốc gia mà người đó là công dân, nhưng họ sẽ phải thực thi pháp
luật của quốc gia nơi họ di chuyển đến [35; 65].
Nguyên tắc thẩm quyền lãnh thổ đã được ghi nhận trong pháp luật của
2
Thiết chế tài phán quốc tế tiền thân của Tòa án Công lý quốc tế, là cơ quan giải quyết tranh chấp của Hội quốc liên.
3
Hiệp ước ra đời là cơ sở để chấm dứt Cuộc chiến kéo dài ba mươi năm và đánh dấu sự thành lập Châu Âu hiện đại,
gồm các quốc gia có chủ quyền.
31
nhiều quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế và tập quán pháp quốc tế.
Trong vụ Lotus, Tòa án Công lý quốc tế đã xác định rằng: “trong tất cả các
hệ thống pháp luật, nguyên tắc lãnh thổ của luật hình sự là cốt lõi” [52; 277].
Nguyên tắc thẩm quyền lãnh thổ được các quốc gia áp dụng phổ biến
xuất phát từ những lý do như khi thực hiện nguyên tắc này sẽ giúp tòa án dễ
dàng tập hợp chứng cứ; các thẩm phán, công tố viên là thành viên của cộng
đồng nơi tội phạm diễn ra nên họ có điều kiện thuận lợi để tìm hiểu và chia sẻ
thông tin, bảo vệ những giá trị của cộng đồng, bảo vệ các quyền của nạn nhân
cũng như bị cáo, đảm bảo phiên tòa công bằng, hiệu quả. Tuy nhiên, việc áp
dụng nguyên tắc lãnh thổ đối với các tội phạm quốc tế của tòa án quốc gia
cũng gặp nhiều khó khăn vì thông thường các tội phạm này thường được thực
hiện bởi những người đứng đầu quốc gia, do vậy các cơ quan tư pháp quốc
gia phải chịu áp lực chính trị khi truy tố và xét xử những người thực hiện các
tội phạm này.
(ii) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc quốc tịch chủ động
Nguyên tắc quốc tịch chủ động lần đầu tiên được pháp điển hóa trong
pháp luật của một số nước Châu Âu lục địa như Đức, Thụy Sĩ, vào giữa thế
kỷ 19 [68]. Theo nguyên tắc quốc tịch chủ động, tòa án của một quốc gia có
thẩm quyền xét xử hành vi tội phạm do công dân của quốc gia đó thực hiện
trên lãnh thổ của quốc gia nước ngoài. Việc áp dụng nguyên tắc này nhằm
đảm bảo rằng những người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo
pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch, không phụ thuộc vào việc họ
thực hiện các tội phạm ở đâu.
Theo cách giải thích truyền thống, việc áp dụng nguyên tắc quốc tịch
chủ động có mục đích bảo vệ uy tín của một quốc gia khỏi bị ảnh hưởng bởi
hành vi của công dân của họ ở nước ngoài. Sau này, nguyên tắc quốc tịch chủ
động được xem như hình thức bảo hộ ngoại giao mà một quốc gia trao cho
32
công dân của họ khi ở nước ngoài [69].
(iii) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc quốc tịch thụ động
Theo nguyên tắc quốc tịch thụ động, tòa án của một quốc gia có thể
thực hiện thẩm quyền của mình đối với các tội phạm thực hiện ở nước ngoài
chống lại các công dân của quốc gia đó. Nguyên tắc này chủ yếu được hình
thành nhằm mục đích bảo vệ các công dân của mình đang sinh sống và cư trú
ở nước ngoài. Các quốc gia thực hiện thẩm quyền trên cơ sở quốc tịch thụ
động đều phải xem xét đến yếu tố “tội phạm kép” - tội phạm được xác định
vi phạm cả pháp luật của quốc gia lãnh thổ và quốc gia mà người phạm tội là
công dân.
Nguyên tắc quốc tịch thụ động khi hình thành và vận dụng đã gặp phải
sự chỉ trích mạnh mẽ của các học giả trên thế giới. Theo các học giả này,
nguyên tắc quốc tịch thụ động khi áp dụng sẽ dễ dẫn đến khả năng xung đột
thẩm quyền của tòa án các quốc gia. Nhà lý luận về thẩm quyền nổi tiếng,
Giáo sư MANN cho rằng “Nguyên tắc thẩm quyền quốc tịch thụ động được
xem như một sự vượt quá thẩm quyền” [67].
Mặc dù đã xuất hiện những yêu cầu kêu gọi từ bỏ nguyên tắc của thẩm
quyền theo quốc tịch thụ động, nhưng thực tiễn của các quốc gia gần đây cho
thấy, các quốc gia vẫn đang thực hiện thẩm quyền dựa trên nguyên tắc này.
Các công ước về chống khủng bố quốc tế và tra tấn quy định về việc áp dụng
nguyên tắc xác định thẩm quyền trên cơ sở quốc tịch thụ động cho tòa án của
các quốc gia thành viên, tuy nhiên quy định này không mang tính chất bắt
buộc4
.
(iv) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ
Theo nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ, thì tòa án của một quốc gia có thể
4
Điều 4 (b) Công ước về các tội phạm thực hiện trên máy bay năm 1963; Điều 6 (2) (b) Công ước về ngăn chặn các hành
vi bất hợp pháp chống lại sự an toàn hàng hải năm 1988; Điều 5 (1) (c) Công ước Chống tra tấn năm 1984 đã quy định
về nội dung này.
33
thực hiện thẩm quyền của mình đối với các tội phạm thực hiện ở nước ngoài
chống lại quốc gia mà người thực hiện hành vi tội phạm mang quốc tịch.
Nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ nhằm mục đích bảo vệ quốc gia trước những
tội phạm gây nguy hiểm cho nền độc lập chính trị của các quốc gia, như tội
phản quốc, phản động…Thông thường, những tội phạm này có thể không bị
coi là tội phạm tại quốc gia nơi các hành vi phạm tội diễn ra, do vậy nó sẽ
không bị trừng phạt [69]. Nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ xuất hiện từ thế kỷ
thứ 13, 14 và sau đó được phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ 15, 16. Hiện nay,
nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ đã được thừa nhận chung thông qua việc quy
định và áp dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới [61].
(v) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc toàn cầu
Nguyên tắc thẩm quyền toàn cầu được ghi nhận trong tập quán pháp
quốc tế, và áp dụng đối với loại tội phạm đầu tiên là tội cướp biển, sau đó
được pháp điển hóa trong một số điều ước quốc tế phổ cập và trong pháp luật
của các quốc gia. Điều 19 của Công ước Geneva năm 1958 trên Công hải và
Điều 105 của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, đã hệ thống hóa các
quy định tập quán pháp quốc tế này và đã pháp điển hóa như sau: “Trên các
vùng công hải, hoặc ở nơi nào khác ngoài quyền tài phán của bất kỳ quốc gia
nào, mỗi quốc gia có thể thu giữ một con tàu cướp biển hoặc máy bay, hoặc
tàu biển hoặc máy bay được thực hiện bởi và dưới sự kiểm soát của cướp
biển, và bắt giữ người và nắm bắt tài sản trên tàu”.
Thẩm quyền toàn cầu ra đời nhằm mục đích bảo vệ và thực thi hiệu quả
các lợi ích quốc tế một cách rộng rãi nhất, vì một số tội phạm khó được bảo
đảm sẽ bị xét xử bởi một quốc gia đơn lẻ hoặc thông qua một khuôn khổ quan
hệ song phương [60]. Trên cơ sở đó, có nhiều ý kiến cho rằng “luật pháp
quốc tế quy định một số tội phạm có thể bị trừng phạt bởi bất kỳ quốc gia nào
vì người phạm tội là kẻ thù chung của cả nhân loại. Vì vậy, tất cả các quốc
34
gia có quan tâm đến bình đẳng trong việc trừng phạt các tội phạm đó” [57].
Theo lập luận này, thẩm quyền toàn cầu thường được áp dụng đối với các
hành vi rất tàn ác mà các quốc gia đều có chung mối quan ngại. Tinh thần này
đã được đề cập trong phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế trong vụ việc
tranh chấp giữa Bỉ và Tây Ban Nha [80]. Tòa án còn đưa ra những ví dụ trong
luật pháp quốc tế hiện đại đề cập đến các tội phạm thuộc đối tượng áp dụng
của thẩm quyền này, bao gồm tội xâm lược, diệt chủng, chế độ nô lệ và phân
biệt chủng tộc.
Trên đây là năm nguyên tắc chủ yếu để xác định thẩm quyền được cả
các tòa án quốc gia và tòa án quốc tế áp dụng. Sự đa dạng của các nguyên tắc
này đã dẫn đến hệ quả tất yếu là nguy cơ xung đột về thẩm quyền giữa các tòa
án của các quốc gia hoàn toàn có thể xảy ra. Ví dụ, khi một công dân của
quốc gia A thực hiện một hành vi tội phạm ở quốc gia B đối với một công dân
của quốc gia C, trong vụ việc này, tòa án của cả ba quốc gia đều có thể có
thẩm quyền dựa trên cơ sở nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc quốc tịch chủ
động hay quốc tịch thụ động. Hơn nữa, nếu đây là tội phạm quốc tế đã làm
phát sinh cơ sở để thực hiện thẩm quyền toàn cầu, thì tòa án của tất cả các
quốc gia đều có thể có thẩm quyền, mà không phụ thuộc vào một mối liên hệ
với tội phạm. Để giải quyết những xung đột trong việc xác định thẩm quyền
của tòa án các quốc gia, trong luật quốc tế tồn tại hai hình thức giải quyết
những xung đột này. Cách thứ nhất, các quốc gia sẽ ký kết điều ước quốc tế
song phương hoặc đa phương, trong đó quy định rõ các cơ sở, điều kiện để
thiết lập thẩm quyền cho tòa án các quốc gia. Cách thứ hai, các quốc gia sẽ áp
dụng các nguyên tắc để xác định thẩm quyền theo tập quán pháp quốc tế.
2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế
2.1.2.1. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được hình thành trên cơ sở
thỏa thuận giữa các quốc gia
35
Xét về mặt bản chất, các thiết chế xét xử hình sự quốc tế là các tổ chức
quốc tế, được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia, do vậy thẩm
quyền của chúng phải là sản phẩm của sự thỏa thuận, chấp thuận giữa các
quốc gia. Hơn nữa thẩm quyền xét xử hình sự vốn được coi là một thẩm
quyền mang tính đặc quyền, thuộc chủ quyền riêng có của mỗi quốc gia nên
một thiết chế quốc tế chỉ có thể thực hiện được thẩm quyền xét xử đối với
công dân của một quốc gia khi có sự chấp thuận của quốc gia đó. Sự thỏa
thuận của các quốc gia là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành và thực
hiện thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế, và là sự thể hiện một cách rõ nét nhất
việc tôn trọng chủ quyền của các quốc gia trong lĩnh vực xét xử các tội phạm
quốc tế.
Sự thỏa thuận này có thể được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp, với
những cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào bối cảnh ra đời, chức năng và nhiệm
vụ của từng thiết chế xét xử hình sự quốc tế khi chúng được thành lập.
Thực tế, kể từ ngay trước Đại chiến Thế giới Thứ nhất, cộng đồng quốc
tế đã có những nỗ lực để thiết lập những thiết chế có thẩm quyền xét xử hình
sự quốc tế, tuy nhiên, do các quốc gia không đạt được sự đồng thuận chung,
những thiết chế đó đã không thể ra đời.
Thẩm quyền của hai thiết chế xét xử hình sự quốc tế đầu tiên - Tòa án
quân sự quốc tế Nuremberg (Tòa Nuremberg) và Tòa án quân sự quốc tế
Tokyo (Tòa Tokyo) được hình thành trên cơ sở những điều ước quốc tế được
ký kết giữa các nước Đồng minh thắng trận, để xét xử và trừng phạt các tội
phạm là công dân, tổ chức của các nước thua trận. Trong những trường hợp
này, sự thỏa thuận của các quốc gia để thành lập nên các thiết chế xét xử hình
sự quốc tế đã được thể hiện bằng việc ký kết các điều ước quốc tế có liên
quan. Tuy nhiên, những sự thỏa thuận này chỉ là sự thể hiện ý chí của các
quốc gia thắng trận.
36
Thẩm quyền của hai thiết chế xét xử hình sự Ad hoc dành cho Nam tư
cũ và Ruanđa (Tòa Nam tư cũ và Tòa án Ruanđa) được thành lập sau đó có cơ
sở pháp lý là các Nghị quyết của HĐBA của LHQ, và sự thỏa thuận của các
quốc gia không được thể hiện một cách trực tiếp. Tuy nhiên, khi thành lập các
tòa Ad hoc này, HĐBA đã thực hiện thẩm quyền của mình trên cơ sở các quy
định của Chương VII của Hiến chương LHQ. Do vậy, có thể hiểu sự chấp
thuận của các quốc gia đối với thẩm quyền của các tòa án xuất phát từ sự chấp
thuận trước đó của họ đối với thẩm quyền của HĐBA trong lĩnh vực gìn giữ
hòa bình và an ninh quốc tế theo các quy định của Chương VII của Hiến
chương LHQ.
Quy chế Rôm về thành lập và hoạt động của TAHSQT là một điều ước
quốc tế đa phương, được ký vào năm 1998 và có hiệu lực vào ngày
11/4/2002, sau khi có 60 quốc gia phê chuẩn. Tính đến thời điểm hiện nay,
tháng 12/2013, Quy chế Rôm có 122 quốc gia thành viên, và được đánh giá là
một trong những điều ước quốc tế có số lượng quốc gia thành viên đông nhất,
với thời gian tính từ thời điểm ký đến khi có hiệu lực ngắn nhất.
Chính vì được hình thành trên cơ sở một điều ước quốc tế đa phương,
nên thẩm quyền của TAHSQT thể hiện rõ ràng sự thỏa hiệp, đồng thuận của
các quốc gia. Tính chất thẩm quyền dựa trên điều ước của TAHSQT đã giúp
cho Tòa án hạn chế được những chỉ trích, tranh luận về tính hợp pháp liên
quan đến thẩm quyền, vấn đề mà các tòa án quân sự quốc tế cũng như các tòa
án Ad hoc trước đây đã phải đối mặt.
TAHSQT do điều ước quốc tế hình thành, trên cơ sở đó, Tòa có thể
thực hiện thẩm quyền đối với công dân của các quốc gia thành viên của Quy
chế Rôm. Cũng bằng sự thỏa thuận của các quốc gia được thể hiện trong Quy
chế Rôm, TAHSQT còn có thể có thẩm quyền với công dân của các quốc gia
không thành viên trong ba trường hợp sau đây:
37
Trường hợp thứ nhất, TAHSQT sẽ thực hiện thẩm quyền đối với công
dân của quốc gia không phải là thành viên của Quy chế Rôm khi tội phạm do
công dân của quốc gia đó thực hiện và được HĐBA chuyển đến Tòa. Hội
đồng Bảo an thực hiện quyền này trên cơ sở Điều 13, điểm b của Quy chế
Rôm [28]: “…Tòa án có thể thực hiện thẩm quyền đối với các tội phạm được
quy định trong Quy chế nếu vụ việc do HĐBA thông báo cho Trưởng Công tố
theo thẩm quyền quy định tại Chương VII Hiến chương LHQ”. Quy định trên
xuất phát từ quan điểm coi HĐBA là cơ quan quyền lực nhất của LHQ, có vai
trò gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế. Vai trò này của HĐBA cũng đã được
quy định trong Hiến chương của LHQ - một điều ước quốc tế được hình thành
trên cơ sở sự đồng thuận của các quốc gia là thành viên của LHQ.
Trong thực tiễn hoạt động của mình, HĐBA đã không chỉ sử dụng các
biện pháp được đề cập rõ ràng trong Hiến chương như các biện pháp đàm
phán, ngoại giao, các biện pháp kinh tế đến các biện pháp cuối cùng là sử
dụng vũ lực để đảm bảo hòa bình, an ninh trên toàn thế giới, mà HĐBA còn
thiết lập các thiết chế tài phán có thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế như Tòa
Nam tư cũ và Ruanđa.
Quyền thông báo vụ việc của HĐBA cho TAHSQT không chỉ đặt ra
đối với các vụ việc diễn ra trong lãnh thổ của các quốc gia thành viên của Quy
chế Rôm, mà còn mở rộng đối với cả các vụ việc xảy ra tại các quốc gia
không là thành viên của Quy chế.
Do vậy, cả công dân của quốc gia thành viên và các quốc gia không
thành viên Quy chế Rôm đều có khả năng phải chấp nhận thẩm quyền của
Tòa án trong những vụ việc do HĐBA chuyển đến Tòa. Cho đến nay, trong 8
vụ việc mà Tòa thụ lý, có 2 vụ việc được HĐBA chuyển đến Tòa và đều xảy
ra tại các quốc gia không là thành viên của tòa, là Darfur - Sudan và Lybia.
Trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng Bản an chuyển các vụ việc đến Tòa án,
38
Tòa án đã tiến hành thụ lý và các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đã được
thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu.
Trường hợp thứ hai, các công dân của quốc gia không thành viên là đối
tượng thuộc thẩm quyền của TAHSQT khi họ thực hiện hành vi tội phạm trên
lãnh thổ của một quốc gia là thành viên của Tòa án, hoặc quốc gia đã chấp
nhận thẩm quyền của Tòa án đối với tội phạm đó. Trường hợp này bao gồm
hai khả năng: Một là, TAHSQT có thể có thẩm quyền đối với công dân của
các quốc gia không thành viên khi các công dân đó thực hiện tội phạm trên
lãnh thổ các quốc gia thành viên; Hai là, TAHSQT có thể có thẩm quyền đối
với công dân của các quốc gia không thành viên khi các công dân đó thực
hiện hành vi tội phạm trên lãnh thổ của một quốc gia không thành viên nhưng
chấp nhận thẩm quyền của Tòa án. Trong cả hai khả năng này, đối tượng
thuộc thẩm quyền xét xử của TAHSQT đều là công dân của các quốc gia
không thành viên và cơ sở để TAHSQT thực hiện thẩm quyền của mình là
dựa trên nguyên tắc lãnh thổ. Trên thực tế, nguyên tắc thẩm quyền lãnh thổ đã
được quy định trong pháp luật hình sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới
và được coi như một trong nhưng nguyên tắc cơ bản để xác định thẩm quyền
xét xử hình sự của các tòa án trong nước.
Ở phạm vi các tổ chức quốc tế khu vực, nguyên tắc thẩm quyền theo
lãnh thổ được đề cập nhiều trong các điều ước quốc tế, tạo cơ sở cho các tòa
án quốc gia và tòa án quốc tế thực hiện thẩm quyền. Theo Hiệp định Khung
của Hội đồng Châu Âu về Chống khủng bố, đối tượng thuộc thẩm quyền xét
xử của các nước Châu Âu không chỉ giới hạn đối với các công dân của Châu
Âu mà còn mở rộng tới các công dân của các quốc gia ngoài Châu Âu có
hành vi khủng bố thực hiện trên lãnh thổ Châu Âu. Thậm chí, trong Hiệp định
giữa các quốc gia của Cộng đồng Châu Âu về chuyển giao quy trình tố tụng
các vụ việc hình sự năm 1990 đã thể hiện cụ thể hơn những quy định này. Các
39
điều ước này cho phép các quốc gia chuyển quá trình tố tụng hình sự đã được
bắt đầu ở một quốc gia sang quốc gia thành viên khác mà không cần có sự
đồng thuận của quốc gia mà người bị buộc tội mang quốc tịch.
Ở phạm vi các thiết chế tài phán quốc tế và khu vực, có một số ví dụ
cho thấy các tòa án này đã thực hiện thẩm quyền đối với các công dân của các
quốc gia không phải là thành viên của điều ước có liên quan trên nguyên tắc
thẩm quyền theo lãnh thổ. Ví dụ điển hình cho trường hợp này là việc thực
hiện thẩm quyền của Tòa án đặc biệt Sierra Leone. Tòa án đặc biệt này được
hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế được ký kết giữa LHQ và Sierra Leone
để truy tố những người đã thực hiện các tội phạm quốc tế nghiêm trọng tại
Sierra Leone. Tòa án đặc biệt đã truy tố các đối tượng không là công dân của
Sierra Leone, điển hình là việc truy tố Tổng thống của quốc gia láng giềng
Liberia [14]. Các Tòa án công lý Châu Âu và Tòa án Công lý Caribe cũng
được các quốc gia thành viên thỏa thuận trao cho thẩm quyền giải quyết các
vụ việc liên quan đến công dân của các quốc gia không là thành viên của các
khu vực này [10].
Trường hợp thứ ba, Tòa án có thể thực hiện thẩm quyền đối với công
dân của quốc gia không thành viên của Quy chế Rôm khi quốc gia đó đã có
thỏa thuận về việc chấp nhận thẩm quyền của Tòa với vụ việc cụ thể [28].
Trong trường hợp này, sự thỏa thuận rõ ràng của các quốc gia không thành
viên đã tạo điều kiện thuận lợi cho TAHSQT thực hiện thẩm quyền của mình.
Việc Tòa án thực hiện thẩm quyền đối với các quốc gia không thành viên
nhưng có sự thỏa thuận về việc chấp nhận thẩm quyền của TAHSQT cũng
tương tự như việc Tòa án thực hiện thẩm quyền đối với các quốc gia thành
viên của Quy chế Rôm.
Như vậy, với hai trường hợp đầu tiên, sự thỏa thuận của quốc gia
không thành viên không phải là điều kiện cần thiết để TAHSQT thực hiện
40
thẩm quyền của mình đối với công dân của các quốc gia đó. Với trường hợp
thứ ba, sự thỏa thuận về việc chấp thuận của các quốc gia không thành viên là
điều kiện bắt buộc để TAHSQT có thể thực hiện thẩm quyền của mình đối với
các công dân của các quốc gia này.
2.1.2.2. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế có tính chất giới hạn
Khác với thẩm quyền xét xử hình sự của các tòa án quốc gia, thẩm
quyền xét xử hình sự quốc tế giới hạn về các loại tội phạm cũng như chủ thể
thực hiện tội phạm. Tính chất có giới hạn của thẩm quyền xét xử hình sự quốc
tế được xác định từ những nguyên nhân chủ yếu sau: Xét ở khía cạnh lịch sử,
trước đây thẩm quyền xét xử các tội phạm hình sự, kể cả các tội phạm hình sự
quốc tế hoàn toàn thuộc thẩm quyền của tòa án các quốc gia. Tuy nhiên, với
mức độ và hậu quả nghiêm trọng do các tội phạm này gây ra mà các quốc gia
riêng lẻ không đủ khả năng ngăn ngừa, trấn áp, do vậy cần có sức mạnh của
cộng đồng quốc tế để các tội phạm này phải bị trừng trị ở mức độ nghiêm
khắc nhất. Hơn nữa, nhằm hạn chế đến mức tối đa việc thực hiện thẩm quyền
xét xử hình sự quốc tế sẽ xâm hại đến chủ quyền quốc gia, nên thẩm quyền
này chỉ được giới hạn ở một mức độ nhất định, vừa đủ để thực hiện mục tiêu
ngăn ngừa và trừng trị tội phạm vừa không tạo nguy cơ đe dọa đến chủ quyền
quốc gia.
Thứ nhất, sự giới hạn của thẩm quyền xét xử hình sự đối với các loại
tội phạm nghiêm trọng nhất vi phạm luật quốc tế.
Các thiết chế tài phán hình sự quốc tế có thẩm quyền chủ yếu với các
hành vi tội phạm vi phạm luật quốc tế, đây là một trong những đặc điểm khác
biệt quan trọng nhất khi so sánh với thẩm quyền xét xử các tội phạm có tính
chất quốc tế của các cơ quan tài phán quốc gia, khi các cơ quan này có thẩm
quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật quốc gia.
Trong các quy chế của các Tòa Nurember và Tokyo đều quy định rằng,
41
các tòa án có thẩm quyền xét xử đối với các tội phạm chống hòa bình, tội
phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại vi phạm những điều ước, thỏa
thuận, cam kết quốc tế hoặc tập quán pháp quốc tế [26,27].
Trong các quy chế của các Tòa Nam tư cũ và Rwanđa, việc quy định
các hành vi tội phạm vi phạm luật quốc tế được xác định cụ thể hơn. Tại Điều
1 và Điều 2, Quy chế Tòa Nam tư cũ quy định rằng: “Tòa có thẩm quyền xét
xử mọi cá nhân bị truy tố về những hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Nhân
đạo quốc tế…”; “những hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ước
Giơnevơ năm 1949”. Quy chế của Tòa án Ruanđa cũng quy định tương tự,
tuy nhiên có mở rộng hơn khi Điều 4 của Quy chế quy định về thẩm quyền
của Tòa án đối với các hành vi vi phạm Điều 3 chung của các Công ước
Giơnevơ năm 1949 và Nghị định thư bổ sung số 2 về bảo hộ nạn nhân trong
các cuộc xung đột vũ trang không có tính chất quốc tế.
Trên cơ sở các quy định của luật quốc tế như trên, việc xem xét mức độ
nghiêm trọng để xác định những hành vi tội phạm nào sẽ thuộc thẩm quyền
của các thiết chế xét xử hình sự quốc tế phụ thuộc nhận thức và sự thỏa hiệp ý
chí giữa các quốc gia. Thực tế, nhận thức và sự thỏa hiệp này đã có những
thay đổi, phát triển theo từng giai đoạn lịch sử. Sau Đại chiến Thế giới Thứ
nhất, khi dự kiến thiết lập nên một thiết chế xét xử hình sự quốc tế đầu tiên
trong lịch sử, thông qua Hiệp ước Versailles, các quốc gia chỉ dự kiến một
loại hành vi tội phạm duy nhất thuộc thẩm quyền xét xử của thiết chế này là
tội phạm chiến tranh [26,27]. Sau Đại chiến Thế giới Thứ hai, thông qua các
Quy chế Nuremberg và Tokyo, các quốc gia đã thống nhất trao cho các thiết
chế này thẩm quyền xét xử đối với ba loại tội phạm quốc tế, gồm tội phạm
chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và tội chống hòa bình. Quy chế của các
Tòa Nam tư cũ và Ruanđa đã bổ sung thêm tội diệt chủng. Sau đó, kể từ khi
Quy chế Rôm được ký kết năm 1998, cộng đồng quốc tế đã chính thức coi
42
hành vi xâm lược là tội phạm quốc tế thuộc thẩm quyền xét xử của TAHSQT,
và Tòa án có phạm vi thẩm quyền xét xử đối với bốn tội phạm gồm tội diệt
chủng, tội phạm chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược.
Như vậy, các tội phạm là đối tượng của thẩm quyền xét xử hình sự
quốc tế là một phạm trù có tính chất lịch sử. Số lượng các loại tội phạm cũng
như định nghĩa, các yếu tố cấu thành của từng tội phạm được phát triển, mở
rộng phụ thuộc vào nhận thức, sự thỏa thuận của các quốc gia và thực tiễn của
hoạt động tội phạm quốc tế. Gần đây, bên cạnh bốn tội phạm thuộc thẩm
quyền của TAHSQT, đã xuất hiện một số trào lưu cho rằng cần quy định thêm
hành vi khủng bố quốc tế, hành vi de dọa sử dụng vũ khí hạt nhân thuộc đối
tượng của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế.
Thứ hai, sự giới hạn của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế đối với chủ
thể thực hiện tội phạm.
Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế không chỉ được giới hạn với những
tội phạm nhất định, mà còn được giới hạn đối với một loại chủ thể duy nhất
thực hiện các tội phạm, được xác định là các cá nhân. Quy chế của các Tòa án
Tokyo, Nam tư cũ, Ruanđa hay TAHSQT đều quy định rõ: “Tòa án có thẩm
quyền xét xử các cá nhân…” [29]. Ngoại lệ duy nhất là trường hợp của Tòa
Nuremberg, Quy chế của Tòa án này quy định thẩm quyền xét xử được mở
rộng đối với cả các tổ chức: “…Tòa án có thẩm quyền xét xử và trừng trị
những kẻ, do hành động vì lợi ích của các nước Phe Trục ở Châu Âu, cho dù
với tư cách cá nhân hay với tư cách là thành viên của các tổ chức…” [27].
Như vậy, đa số các TAHSQT đều giới hạn thẩm quyền xét xử của mình
đối với các cá nhân, xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân
được thừa nhận phổ biến trong pháp luật hình sự của các quốc gia trên thế
giới [4;82]. Bên cạnh đó, xuất hiện xu hướng rộng rãi coi cá nhân cũng là một
loại chủ thể của luật quốc tế [48;16], do vậy cá nhân cũng hưởng các quyền
43
lợi mà luật quốc tế quy định, đồng thời cũng phải gánh vác trách nhiệm pháp
lý quốc tế [2], đặc biệt trong những trường hợp có những hành vi vi phạm
nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
2.1.2.3. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được hiểu theo nghĩa rộng
Thông thường, trong pháp luật quốc gia, thẩm quyền xét xử được hiểu
là quyền mà pháp luật quy định cho tòa án được xét xử những vụ án cụ thể
trong giới hạn và những phạm vi nhất định [5]. Trong lĩnh vực hình sự, thẩm
quyền xét xử của tòa án phân biệt và tồn tại độc lập với thẩm quyền của các
cơ quan tiến hành tố tụng khác trong lĩnh vực khởi tố, điều tra và thi hành án.
Pháp luật của các quốc gia quy định các cơ quan thực hiện các chức năng
công tố, điều tra, xét xử và thi hành án phải được tổ chức và hoạt động trên
nguyên tắc độc lập.
Khác với thông lệ từ các quốc gia, khi thành lập các thiết chế xét xử
hình sự quốc tế, các quốc gia đều thỏa thuận trao cho chúng thẩm quyền đồng
thời trong cả ba lĩnh vực truy tố, điều tra và xét xử. Ví dụ, Điều 11, Quy chế
Tòa Nam tư cũ quy định: “Tòa án quốc tế bao gồm các cơ quan sau đây: Các
Tòa, gồm hai Tòa sơ thẩm và một Tòa phúc thẩm; Công tố viên, và Phòng lục
sự, giúp việc động thời cho các Tòa và Công tố viên”. Điều 10 về cơ cấu tổ
chức của Tòa Ruanđa có những quy định tương tự: “Tòa án quốc tế về
Ruanđa sẽ bao gồm các cơ quan sau đây: các Tòa, bao gồm hai Tòa sơ thẩm
và một Tòa phúc thẩm; Công tố viên và Phòng Lục sự”. Trên cơ sở kế thừa
các tòa án trước đó, cơ cấu của tổ chức của TAHSQT được quy định cụ thể và
chặt chẽ hơn, bao gồm: “Ban chánh án; Bộ phận phúc thẩm, Bộ phận sơ
thẩm, Bộ phận tiền xét xử; Văn phòng Công tố và Văn phòng Lục sự” [5].
Theo quy định của các quy chế hình thành các tòa án hình sự quốc tế trên,
ngoài chức năng xét xử do các thẩm phán của các tòa thực hiện, các tòa án
này còn có thẩm quyền đối với hoạt động công tố, điều tra do Công tố viên
44
thực hiện.
Như vậy, khái niệm thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được dùng theo
nghĩa rộng. Nó không chỉ bao gồm thẩm quyền xét xử theo nghĩa thông
thường, mà còn bao gồm cả thẩm quyền đối với hoạt động điều tra và truy tố
và trong những chừng mực nhất định, bao gồm cả một số hoạt động liên quan
đến thi hành án.
2.2. Phân loại thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế
2.2.1. Thẩm quyền dựa trên sự chấp thuận và thẩm quyền bắt buộc
Nếu căn cứ vào cơ sở hình thành nên thẩm quyền thì thẩm quyền xét xử
hình sự quốc tế có thể được phân làm hai loại là thẩm quyền dựa trên sự thỏa
thuận của các quốc gia và thẩm quyền được áp đặt từ bên ngoài hay còn gọi là
thẩm quyền bắt buộc.
Giống như các tổ chức quốc tế và các cơ quan tài phán quốc tế, hầu hết
các thiết chế xét xử hình sự quốc tế cho đến nay đều được hình thành trên cơ
sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia. Sự thỏa thuận này không chỉ được biểu
hiện trong giai đoạn hình thành các thiết chế, xác định nội dung, giới hạn của
thẩm quyền, mà còn được thể hiện trong cả quá trình thực hiện thẩm quyền
đó, đảm bảo tính chính đáng và hiệu quả hoạt động của các thiết chế.
Việc xác lập và thực hiện thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế dựa trên
sự thỏa thuận giữa các quốc gia là biểu hiện của sự tôn trọng chủ quyền quốc
gia. Về nguyên tắc, hoạt động trấn áp các tội phạm hình sự là một nội dung
thẩm quyền thuộc chủ quyền quốc gia. Để các cơ quan tài phán quốc tế có thể
xét xử được các tội phạm này, thì cần phải có sự “chuyển giao” hay “ủy
quyền” thẩm quyền từ của các quốc gia cho các tòa án quốc tế.
Trong một số trường hợp, một số thiết chế xét xử hình sự quốc tế được
thành lập và thực hiện thẩm quyền mà không có sự thỏa thuận, chấp thuận
45
trực tiếp của quốc gia có liên quan. Đó là trường hợp của Tòa án Nurember,
Tòa án Tokyo ra đời sau Đại chiến Thế giới Thứ hai, cũng như các Tòa Nam
tư cũ và Ruanđa ra đời sau thời kỳ Chiến tranh lạnh. Các tòa án này hoặc
được thành lập chỉ trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia thắng trận hoặc
trên cơ sở quyết định đơn phương của một tổ chức quốc tế nhằm xét xử các
tội phạm là công dân của những quốc gia mà không có sự thỏa thuận trực tiếp
của những quốc gia đó.
Trong những trường hợp này, có thể coi yêu cầu tôn trọng chủ quyền
quốc gia trong lĩnh vực trấn áp các tội phạm quốc tế đã bị đặt xuống vị trí thứ
yếu so với nhu cầu gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế thông qua việc trừng
phạt những hành vi tội phạm nghiêm trọng nhất, xâm hại đến lợi ích của cả
cộng đồng quốc tế.
2.2.2. Thẩm quyền ưu tiên và thẩm quyền bổ sung
Nếu đặt trong mối quan hệ với thẩm quyền xét xử hình sự quốc gia, thì
thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế có thể được phân làm hai loại là thẩm
quyền ưu tiên và thẩm quyền bổ sung.
Trong trường hợp thứ nhất, thẩm quyền của các thiết chế xét xử hình
sự quốc tế phải được ưu tiên so với thẩm quyền xét xử hình sự của các quốc
gia. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được ưu tiên trong những trường hợp
quốc gia không mong muốn trừng trị hành vi tội phạm, hoặc các thiết chế tư
pháp quốc gia không thể đáp ứng được những tiêu chuẩn tối thiểu để có thể
thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử hiệu quả. Trong trường hợp
này, nhu cầu trấn áp tội phạm, phục hồi công lý đã được đặt cao hơn yêu cầu
tôn trọng chủ quyền của quốc gia. Thông thường, những thiết chế hình sự
quốc tế được thành lập trên cơ sở bắt buộc, không có sự thỏa thuận trực tiếp
của các quốc gia cũng là những thiết chế có thẩm quyền ưu tiên so với thẩm
quyền xét xử của tòa án quốc gia.
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT
Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm theo luật
Luận văn: Bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm theo luậtLuận văn: Bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm theo luật
Luận văn: Bảo hộ sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm theo luật
 
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOTĐề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng gia công thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng gia công thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng gia công thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng gia công thương mại theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về phá sản các tổ chức tín dụng, HAY
Luận văn: Pháp luật về phá sản các tổ chức tín dụng, HAYLuận văn: Pháp luật về phá sản các tổ chức tín dụng, HAY
Luận văn: Pháp luật về phá sản các tổ chức tín dụng, HAY
 
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOTĐề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAY
Luận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAYLuận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAY
Luận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
 
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giảiĐề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
 
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOTLuận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
 
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mạiLuận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOT
Luận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOTLuận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOT
Luận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOT
 
Luận văn: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC, HOT
Luận văn: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC, HOTLuận văn: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC, HOT
Luận văn: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC, HOT
 
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mạiLuận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
 
Đề tài: Vai trò của Liên Hợp Quốc đối với thế giới ngày nay, HAY
Đề tài: Vai trò của Liên Hợp Quốc đối với thế giới ngày nay, HAYĐề tài: Vai trò của Liên Hợp Quốc đối với thế giới ngày nay, HAY
Đề tài: Vai trò của Liên Hợp Quốc đối với thế giới ngày nay, HAY
 
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di Chúc
Khoá Luận Tốt Nghiệp Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di ChúcKhoá Luận Tốt Nghiệp Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di Chúc
Khoá Luận Tốt Nghiệp Giải Quyết Tranh Chấp Thừa Kế Theo Di Chúc
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biểnLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT

Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...
Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...
Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...DV Viết Luận văn luanvanmaster.com ZALO 0973287149
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...DV Viết Luận văn luanvanmaster.com ZALO 0973287149
 
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdfPhap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdfhuynhminhquan
 
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay sdt/ ZALO 09345 497 28
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay  sdt/ ZALO 09345 497 28	Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay  sdt/ ZALO 09345 497 28
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay sdt/ ZALO 09345 497 28 Thư viện Tài liệu mẫu
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT (20)

Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...
Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...
Lý luận và thực tiễn việc công nhận các Bản án và quyết định dân sự của tòa á...
 
Pháp luật về công nhận cho Tòa án nước ngoài thi hành tại Việt Nam
Pháp luật về công nhận cho Tòa án nước ngoài thi hành tại Việt NamPháp luật về công nhận cho Tòa án nước ngoài thi hành tại Việt Nam
Pháp luật về công nhận cho Tòa án nước ngoài thi hành tại Việt Nam
 
Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAY
Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAYVấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAY
Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAY
 
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụngLuận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụngNguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
 
Cấp, Tống Đạt, Thông Báo Văn Bản Tố Tụng Dân Sự.doc
Cấp, Tống Đạt, Thông Báo Văn Bản Tố Tụng Dân Sự.docCấp, Tống Đạt, Thông Báo Văn Bản Tố Tụng Dân Sự.doc
Cấp, Tống Đạt, Thông Báo Văn Bản Tố Tụng Dân Sự.doc
 
Đề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOT
Đề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOTĐề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOT
Đề tài: Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAYLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
 
Luận án: Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật...
Luận án: Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật...Luận án: Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật...
Luận án: Nguyên tắc thiện chí trong pháp luật hợp đồng Việt Nam với pháp luật...
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm...
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAYLuận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOTLuận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
 
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
 
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdfPhap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
Phap luat ve nuoi con nuoi co yeu to nuoc ngoai.pdf
 
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay sdt/ ZALO 09345 497 28
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay  sdt/ ZALO 09345 497 28	Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay  sdt/ ZALO 09345 497 28
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay sdt/ ZALO 09345 497 28
 
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú YênĐề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 

Luận văn: Thẩm quyền của tòa án hình sự quốc tế, HOT

  • 1. i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ XUÂN SƠN THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ VÀ VẤN ĐỀ GIA NHẬP CỦA VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 62 38 60 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: HƯỚNG DẪN 1: TS. LS. HOÀNG NGỌC GIAO HƯỚNG DẪN 2: PGS.TS. NGUYỄN BÁ DIẾN Hà Nội - 2014
  • 2. ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU...............................................................................................................................8 1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu .................................................................................................. 8 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................ 11 3. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của luận án.......................................................................... 12 4. Phƣơng pháp nghiên cứu....................................................................................................... 13 5. Tính mới và những đóng góp của luận án ........................................................................... 13 6. Kết cấu của Luận án.............................................................................................................. 14 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................15 1.1 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài.................................................................................... 15 1.2 Tình hình nghiên cứu ở việt nam........................................................................................ 20 1.3 Những vấn đề nghiên cứu của luận án............................................................................... 24 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..................................................................................................26 CHƢƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ HÌNH SỰ QUỐC TẾ...........................................................................................................................28 2.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế................................................................. 28 2.1.1. Định nghĩa thẩm quyền và thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế.....................................................28 2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế......................................................34 2.2. Phân loại thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế................................................................... 44 2.2.1. Thẩm quyền dựa trên sự chấp thuận và thẩm quyền bắt buộc......................................................44 2.2.2. Thẩm quyền ưu tiên và thẩm quyền bổ sung .................................................................................45 2.2.3. Thẩm quyền theo vụ việc (Ad hoc) và thẩm quyền thường trực ....................................................47 2.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế..................... 50 2.3.1. Cơ sở hình thành thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế....................................................................50 2.3.2. Giai đoạn trước Đại chiến Thế giới Thứ nhất...............................................................................51 2.3.3. Giai đoạn từ Đại chiến Thế giới Thứ nhất đến Đại chiến Thế giới Thứ hai .................................52 2.3.4. Giai đoạn từ sau Đại chiến Thế giới Thứ hai đến trước khi chấm dứt Chiến tranh lạnh .............53 2.3.5. Giai đoạn từ sau Chiến tranh lạnh đến trước khi xuất hiện TAHSQT ..........................................54 2.3.6. Giai đoạn từ khi có TAHSQT đến nay...........................................................................................59 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ..................................................................................................64 CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC THI THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ.........................................................................................66 3.1. Các nguyên tắc cơ bản để xác lập và thực thi thẩm quyền của TAHSQT..................... 66 3.1.1. Nguyên tắc thẩm quyền bổ sung....................................................................................................66 3.1.2. Nguyên tắc không xét xử hai lần (non bis in idem) .......................................................................71 3.1.3. Nguyên tắc căn cứ vào tính nghiêm trọng của vụ việc..................................................................72
  • 3. iii 3.2. Phạm vi thẩm quyền của TAHSQT................................................................................... 73 3.2.1. Thẩm quyền theo lãnh thổ.............................................................................................................73 3.2.2. Thẩm quyền theo thời gian............................................................................................................74 3.2.3. Thẩm quyền đối với cá nhân .........................................................................................................76 3.2.4. Thẩm quyền đối với một số tội phạm xác định..............................................................................78 3.3. Cơ sở thực hiện thẩm quyền của TAHSQT...................................................................... 90 3.3.1. TAHSQT thực hiện thẩm quyền trên cơ sở thông báo của quốc gia thành viên............................90 3.3.2. TAHSQT thực hiện thẩm quyền trên cơ sở sáng kiến của công tố viên (proprio motu)................92 3.3.3. TAHSQT thực hiện thẩm quyền trên cơ sở Nghị quyết của HĐBA ...............................................95 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................................100 CHƢƠNG 4 VẤN ĐỀ GIA NHẬP QUY CHẾ RÔM CỦA VIỆT NAM...................102 4.1. Những lợi ích của Việt Nam khi xem xét gia nhập Quy chế Rôm về TAHSQT.......... 102 4.2. Những thuận lợi và thách thức chung của việc gia nhập Quy chế Rôm về TAHSQT 106 4.2.1. Những thuận lợi chung cần tính đến khi Việt Nam xem xét gia nhập Quy chế Rôm...................106 4.2.2. Những thách thức chung mà các quốc gia phải tính đến khi xem xét gia nhập Quy chế Rôm....115 4.3. Những thuận lợi, thách thức đặc thù xuất phát từ những quy định và thực tiễn thực thi thẩm quyền của TAHSQT....................................................................................................... 133 4.3.1. Những thuận lợi và thách thức xuất phát từ nguyên tắc thẩm quyền bổ sung của TAHSQT ......133 4.3.2. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với các quy định về thẩm quyền của TAHSQT, nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới .....................................................................................135 4.4. Một số đề xuất, giải pháp.................................................................................................. 143 4.4.1. Đề xuất thời điểm và những điều kiện chính trị, xã hội cần thiết để Việt Nam gia nhập Quy chế Rôm .......................................................................................................................................................143 4.4.2. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến việc gia nhập Quy chế Rôm và việc thực thi thẩm quyền của TAHSQT ở Việt Nam.............................................................................................................................146 KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ................................................................................................154 KẾT LUẬN CHUNG.......................................................................................................156 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ.......................................159 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................159 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................160 PHỤ LỤC LUẬN ÁN ......................................................................................................171
  • 4. iv LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Các tài liệu sử dụng trong luận án đều được trích dẫn rõ ràng. Các kết luận khoa học trong luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả Nguyễn Thị Xuân Sơn
  • 5. v Lời cảm ơn Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo, các cán bộ của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong cả quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy giáo hướng dẫn: TS. Hoàng Ngọc Giao và PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, sự hướng dẫn tận tình, tâm huyết của các Thầy đã giúp tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn hỗ trợ, động viên và đồng hành với tôi trong suốt quá trình nghiên cứu của mình.
  • 6. vi DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN TAHSQT Tòa án Hình sự quốc tế theo Quy chế Rôm 1998 LHQ ĐHĐ Liên hợp quốc Đại hội đồng (Liên hợp quốc) HĐBA Hội đồng Bảo an (Liên hợp quốc) Quy chế Rôm Quy chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998 HC Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 Tòa Nuremberg Tòa án Quân sự quốc tế để xét xử công bằng, kịp thời và trừng trị những kẻ phạm tội phạm chiến tranh chủ chốt thuộc Phe Trục ở lục địa Châu Âu. Tòa Tokyo Tòa án Quân sự quốc tế tại khu vực Viễn Đông, 1945. Tòa Nam tư cũ Tòa án Hình sự quốc tế phụ trách xét xử các cá nhân bị truy tố về những hành vi vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế xảy ra trên lãnh thổ Nam Tư cũ từ năm 1991 đến ngày 25 tháng 5 năm 1993. Tòa Ruanđa Tòa án Hình sự quốc tế phụ trách xét xử những người bị truy tố về tội diệt chủng và các vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế thực hiện trên lãnh thổ Ruanđa và những công dân Ruanđa bị truy tố về tội diệt chủng và các vi phạm đó thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia láng giềng, trong thời gian từ ngày 1 tháng 1 năm 1994 đến ngày 31 tháng 12 năm 1994.
  • 7. vii Tòa Sierra Leon Veto Tòa án đặc biệt cho Sierra Leon ngày 16 tháng 01 năm 2002. Quyền phủ quyết của năm ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Trung Quốc, Pháp và Anh). Ad hoc Có tính chất vụ việc, tạm thời, không thường trực.
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu 1. Hòa bình và công lý luôn được nhìn nhận như là hai mặt của một vấn đề, hòa bình là điều kiện cho công lý được thực thi và công lý sẽ góp phần đảm bảo một nền hòa bình bền vững. Từ bao đời nay, cộng đồng quốc tế luôn khao khát một nền hòa bình, tránh cho nhân loại phải đối mặt với các cuộc chiến tranh tàn khốc, nhưng xung đột vũ trang vẫn diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, với quy mô ngày càng gia tăng, đe dọa đến hòa bình và ổn định trên toàn thế giới. Trong bối cảnh này, công lý càng cần được đẩy mạnh nhằm trừng trị thích đáng những hành vi có tính chất tội phạm quốc tế nghiêm trọng, góp phần ngăn chặn, hạn chế các cuộc xung đột, xây dựng một nền pháp quyền cho cộng đồng quốc tế, hướng tới hòa bình, ổn định lâu dài. 2. Cho đến trước khi Tòa án Hình sự quốc tế (TAHSQT) theo Quy chế Rôm được thành lập năm 1998, cộng đồng quốc tế đã có những nỗ lực xây dựng các thiết chế tài phán hình sự quốc tế để xét xử những tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất. Tuy nhiên, các thiết chế đó được hình thành trong những hoàn cảnh cá biệt, chỉ có thẩm quyền giới hạn về không gian, thời gian nhất định, đồng thời còn chứa đựng nhiều bất cập trong cả tổ chức và hoạt động. 3. Trong bối cảnh đó, TAHSQT theo Quy chế Rôm ra đời nhằm đáp ứng kỳ vọng của cộng đồng quốc tế về một thiết chế tài phán hình sự quốc tế đủ mạnh, độc lập, hiệu quả, có sự kế thừa các tòa án trước đó, vừa tôn trọng chủ quyền quốc gia, vừa thực hiện mục tiêu trừng trị tội phạm, mang lại công lý cho nhân loại. Theo quy định của Quy chế Rôm, TAHSQT có thẩm quyền xét xử những cá nhân đã thực hiện các tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất, bao gồm tội diệt chủng, tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và tội
  • 9. 9 xâm lược. Sự ra đời của TAHSQT đã đem lại nhiều giá trị mới mẻ, được đánh giá là một trong những bước phát triển quan trọng nhất của luật quốc tế kể từ khi Hiến chương Liên Hiệp Quốc ra đời năm 1945 đến nay. Quy chế Rôm hiện có 122 quốc gia thành viên và hàng chục quốc gia khác đã ký kết và đang chuẩn bị các thủ tục gia nhập, điều này chứng tỏ tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của Quy chế Rôm ở quy mô toàn cầu. 4. Sự ra đời của TAHSQT là kết quả của một quá trình nghiên cứu, đàm phán, tranh luận lâu dài không chỉ của các quốc gia, mà còn của nhiều thành phần khác nhau như các học giả, chính trị gia, các nhà hoạt động xã hội, nhân quyền. Cho đến nay, ngay cả sau khi Tòa án đã đi vào hoạt động và có một số lượng lớn các quốc gia tham gia, vẫn còn hàng loạt vấn đề mang tính lý luận, thực tiễn liên quan đến Tòa án tiếp tục được nghiên cứu, tranh luận. Trong đó, vấn đề mang tính sống còn, đồng thời cũng là chủ đề tranh luận gay gắt nhất trong cộng đồng quốc tế là về thẩm quyền của TAHSQT. Đối với các quốc gia thành viên, vấn đề đặt ra là làm sao để TAHSQT có thể thực hiện một cách hiệu quả thẩm quyền đã được thừa nhận theo Quy chế Rôm?, làm sao có thể vừa tôn trọng các quy định của Quy chế Rôm về thẩm quyền của Tòa án, vừa có thể bảo toàn một cách tốt nhất chủ quyền quốc gia của mình?. Hơn nữa, đối với các quốc gia này, các nghiên cứu, tranh luận cũng đặc biệt sôi nổi liên quan đến khả năng mở rộng thẩm quyền của Tòa án, chẳng hạn liên quan đến trường hợp tội phạm xâm lược, tội phạm khủng bố. Đối với các quốc gia chưa là thành viên của TAHSQT, thẩm quyền của TAHSQT là vấn đề có tính chất cốt lõi, quyết định khả năng gia nhập Quy chế Rôm của các quốc gia này. Có hàng loạt các câu hỏi liên quan đến thẩm quyền của Tòa án mà quốc gia cần phải cân nhắc khi xem xét gia nhập Quy
  • 10. 10 chế Rôm: Liệu với nội dung, nguyên tắc và điều kiện thực hiện thẩm quyền của Tòa án như hiện nay, việc trở thành thành viên của Tòa án có đe dọa, làm ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia?. Liệu việc đứng ngoài Quy chế Rôm có tránh cho quốc gia khỏi mọi ảnh hưởng của việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án?. Đâu là những cơ hội và thách thức của việc gia nhập Quy chế Rôm xét trên cả phương diện chính trị, ngoại giao, kinh tế và pháp lý?. Xét trên phương diện pháp lý, đâu là những thay đổi cần thiết về thể chế, quy định pháp luật trong nước mà quốc gia cần phải tiến hành để có thể vừa đồng thời tuân thủ Quy chế Rôm, góp phần vào việc giữ gìn hòa bình và công lý quốc tế, nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được sự toàn vẹn của chủ quyền quốc gia và sự hoạt động ổn định của nền tư pháp trong nước?. Nghiên cứu tất cả những vấn đề trên thực sự là hoạt động cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. 5. Từng phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài và tàn khốc, hơn ai hết Việt Nam là quốc gia luôn hiểu được giá trị của hòa bình và công lý quốc tế. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa, Việt Nam đã khẳng định chính sách nhất quán muốn làm bạn với tất cả các quốc gia, muốn là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Thực hiện chính sách này, Việt Nam đã tham gia vào hàng loạt các điều ước quốc tế về chống chiến tranh, đảm bảo an ninh quốc tế, bảo vệ quyền con người và nhân đạo quốc tế. Gần đây nhất, tại diễn đàn Toàn thể của Liên Hợp quốc, Thủ tướng Chính phủ chính thức tuyên bố Việt Nam đã sẵn sàng tham gia vào các hoạt động có mục đích nhân đạo, dân sự trong sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc. Tiếp đó, vào ngày 28/11/2013, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc. 6. Tích cực tham gia vào tiến trình thảo luận, đàm phán Quy chế Rôm, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa ký Quy chế, và do vậy chưa là thành viên của
  • 11. 11 TAHSQT. Việc gia nhập Quy chế Rôm, trở thành thành viên của TAHSQT sẽ là một hoạt động nhằm tăng cường hình ảnh về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, công lý, khẳng định rõ hơn cam kết của Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, cũng giống như bất kỳ một quốc gia nào khác, sự gia nhập này cần phải được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trên mọi phương diện chính trị, ngoại giao, kinh tế và pháp lý. Trên phương diện pháp lý, việc nghiên cứu làm sáng tỏ tính chất, phạm vi, nguyên tắc, điều kiện cũng như thực tế thực hiện thẩm quyền của TAHSQT, những hệ quả pháp lý trong nước có thể mang lại từ việc chấp nhận thẩm quyền của TAHSQT có ý nghĩa tiên quyết đối với quyết định gia nhập Quy chế Rôm của Việt Nam. Trên phương diện lý luận, những nghiên cứu này cũng là những đóng góp quan trọng trong việc phát triển khoa học luật quốc tế của Việt Nam nói chung và khoa học luật hình sự quốc tế của Việt Nam nói riêng. Xuất phát từ bối cảnh nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Thẩm quyền của TAHSQT và vấn đề gia nhập của Việt Nam” làm đề tài cho luận án Tiến sĩ chuyên ngành luật quốc tế của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  Mục đích Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của thẩm quyền của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế nói chung và thẩm quyền của TAHSQT nói riêng. Qua đó, nêu bật các đặc trưng về thẩm quyền của TAHSQT và những khả năng ràng buộc của việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án đối với các quốc gia không thành viên. Đồng thời, luận án cũng phân tích bối cảnh của Việt Nam, có tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia để đánh giá những lợi ích,
  • 12. 12 thách thức đối với Việt Nam trong việc xem xét gia nhập Quy chế Rôm về TAHSQT.  Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận án có những nhiệm vụ cụ thể sau: - Tóm tắt, phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về thẩm quyền của TAHSQT, xác định các vấn đề nghiên cứu chính của luận án. - Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về thẩm quyền của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế, từ đó có những khái quát hóa, đánh giá về sự phát triển về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế qua các giai đoạn lịch sử. - Nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền của TAHSQT bao gồm tính chất, nguyên tắc, nội dung, điều kiện và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Tòa án. - Nghiên cứu, đánh giá những cơ hội và thách thức của việc gia nhập Quy chế Rôm, trở thành thành viên của TAHSQT của Việt Nam, đặc biệt trong mối liên hệ với việc chấp nhận và thực hiện thẩm quyền của Tòa án. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra những nhận định, kiến nghị, giải pháp về thời điểm thích hợp và một số bước chuẩn bị cần thiết của việc gia nhập Quy chế Rôm của Việt Nam. 3. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của luận án Nghiên cứu Quy chế Rôm về TAHSQT là một một đề rất rộng bao gồm nhiều lực lĩnh khác nhau, dưới góc độ địa chính trị, kinh tế, xã hội và pháp lý. Tuy nhiên, với mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu dưới góc độ pháp lý, giới hạn ở những vấn đề sau: - Cơ sở lý luận và phạm vi thẩm quyền, đặc biệt là thẩm quyền xét xử của Tòa án Hình sự quốc tế;
  • 13. 13 - Thực tiễn các quy định và việc thực hiện trên thực tế thẩm quyền của Tòa án Hình sự quốc tế; - Xem xét các khía cạnh tác động, các điều kiện liên quan đến quá trình gia nhập Quy chế Rôm của Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của luận án là triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời vận dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và xu thế hội nhập quốc tế. Phương pháp cụ thể: Luận án sử dụng phương pháp đi từ những vấn đề chung, tổng quát đến các vấn đề riêng, cụ thể. Các phương pháp cụ thể khác cũng được ưu tiên sử dụng trong luận án như: phân tích, so sánh, tổng hợp, văn bản học, thống kê để giải quyết những vấn đề mà luận án đặt ra. Tác giả sử dụng một số lượng lớn các thông tin, báo cáo, thống kê cập nhật trên trang điện tử chính thức của Tòa án Hình sự quốc tế làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá và đưa ra những luận chứng khoa học của cá nhân. Luận án có sự kế thừa một cách có chọn lọc những thành tựu của những công trình nghiên cứu có liên quan của các học giả trong nước và quốc tế, thông qua đó có sự bình luận, nhận định và đưa ra quan điểm khoa học cá nhân của tác giả. 5. Tính mới và những đóng góp của luận án - Góp phần làm sâu sắc hơn những khía cạnh lý luận và thực tiễn về thẩm quyền của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế, đặc biệt là thẩm quyền của TAHSQT. - Góp phần làm sáng tỏ thêm quan điểm TAHSQT mặc dù chia sẻ
  • 14. 14 những đặc thù chung về thẩm quyền với các thiết chế tài phán hình sự quốc tế trước đây, nhưng Tòa án vẫn chứa đựng những đặc điểm riêng biệt như tính chất độc lập, hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế và mang tính chất bổ sung. Với những đặc điểm nổi bật này, TAHSQT đã trở thành một thiết chế tài phán có sự ủng hộ và tham gia đông đảo của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. - Góp phần làm sâu sắc thêm luận chứng thẩm quyền TAHSQT không chỉ ràng buộc đối với công dân của các quốc gia thành viên, mà trong một số trường hợp, còn ảnh hưởng hay ràng buộc ngay cả với công dân của các quốc gia không thành viên của Quy chế Rôm. - Góp phần làm sáng tỏ thêm những cơ hội và thách thức của việc gia nhập Quy chế Rôm của Việt Nam, từ đó đề xuất việc thay vì có thể phải thụ động chịu sự ràng buộc thẩm quyền của Quy chế Rôm, để khẳng định chính sách hòa bình, hội nhập và trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế, Việt Nam nên sớm chủ động gia nhập Quy chế Rôm. - Luận án phân tích và làm rõ những lợi ích, thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi gia nhập Quy chế Rôm, từ đó kiến nghị một số giải pháp cần thiết cho sự gia nhập này. 6. Kết cấu của Luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế Chương 3: Thực trạng quy định và thực thi thẩm quyền của Tòa án Hình sự quốc tế Chương 4: Vấn đề gia nhập Tòa án Hình sự quốc tế của Việt Nam.
  • 15. 15 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài Tại nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động nghiên cứu về các thiết chế tài phán hình sự quốc tế đã phát triển mạnh mẽ từ sau Đại chiến Thế giới lần Thứ nhất. Sau khi Quy chế Rôm được ký kết vào năm 1998, hoạt động nghiên cứu về TAHSQT thực sự bước vào giai đoạn mới, với hàng nghìn công trình, tài liệu ở phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu. Những công trình này có ý nghĩa khoa học, chính trị và pháp lý to lớn, góp phần vào sự phát triển các học thuyết, trường phái về luật quốc tế nói chung và luật hình sự quốc tế nói riêng. Có thể phân chia các công trình nghiên cứu dựa trên kết cấu nội dung của luận án thành ba nhóm sau đây: Nhóm thứ nhất, các công trình đề cập đến lịch sử hình thành và phát triển của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế thông qua việc thành lập và phát triển của các thiết chế tài phán có thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế, tiêu biểu như: - Ilias Bantekas và Susan Nash (2001), International Criminal Law (Luật hình sự quốc tế), Nxb Cavendish, London; - M. Cherif Bassiouni (2003), The introduction to the International Criminal Law (Giới thiệu về Luật hình sự quốc tế), Nxb Transnational, New York; - Antonio Cassesse (2003), International Criminal Law (Luật hình sự quốc tế), Nxb Oxford University Press, Oxford; - Kahn and Richard (2002), Các thiết chế xét xử hình sự quốc tế:
  • 16. 16 những vấn đề thực tiễn, Nxb Sweet & Maxwell, London; - Sterling Paust, Leila Sadat và M. Cherif Bassiouni (2000), Luật hình sự quốc tế: các vụ việc và tài liệu, Nxb Carolina Academic, Durham; - Zappala (2003), Các tòa án Hình sự quốc tế và quyền con người, Nxb Oxford University, Oxford. Những công trình của các tác giả có uy tín này có thể được coi là những công trình tiêu biểu, nền tảng về lĩnh vực luật hình sự quốc tế nói chung, về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói riêng. Nội dung chính được đề cập trong các công trình này bao gồm: Khái niệm các tội phạm quốc tế; đặc điểm, lịch sử hình thành và phát triển các tội phạm quốc tế; các tội phạm cụ thể như tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội chống lại nhân loại, tội xâm lược; cơ sở, bối cảnh của sự ra đời của các thiết chế có thẩm quyền tài phán hình sự quốc tế; thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế trong mối liên hệ với thẩm quyền xét xử hình sự quốc gia; các cơ chế, nguyên tắc tố tụng trong hoạt động xét xử hình sự quốc tế. Với những nội dung trên, các tác giả đã phân tích, làm rõ từ những vấn đề lý luận chung nhất, nền tảng về sự hình thành, phát triển các thiết chế tài phán hình sự quốc tế đến những vấn đề cụ thể, điển hình như các tội phạm quốc tế, định nghĩa, phân loại và đặc trưng của các tội phạm này. Khi đề cập đến sự hình thành của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế, các tác giả đã nêu bật ý nghĩa đặc trưng của từng loại tòa án trong những giai đoạn lịch sử đặc thù. Hơn nữa, những vấn đề cụ thể cũng đã được các tác giả khai thác và phân tích, dựa trên thực tiễn phát triển của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế. Những vấn đề được đề cập chủ yếu gồm: mối quan hệ giữa thẩm quyền quốc tế và thẩm quyền quốc gia, các cơ sở pháp lý trong việc xác định thẩm quyền, các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh các phiên tòa hình sự quốc tế. Liên quan đến phần luật hình sự quốc tế về nội dung, các tác giả còn tập trung làm
  • 17. 17 rõ những vấn đề cơ bản trong việc xác định trách nhiệm hình sự quốc tế, đặc biệt phân tích và làm rõ trách nhiệm hình sự quốc tế của các cá nhân, là cơ sở cho các tòa án hình sự quốc tế xét xử những đối tượng này. Nhóm thứ hai, các công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan trực tiếp đến thẩm quyền của TAHSQT, tiêu biểu như: - Hans Peter Kaul (2009), The International Criminal Court – Its relationship to domestic jurisdictions (Tòa án Hình sự quốc tế - Mối quan hệ của Tòa án với thẩm quyền của các toàn án trong nước), Nxb Martinus Nijhoff; - Héctor Olásolo (2005), The triggering procedure of the International Criminal Court (Thủ tục khởi tố vụ án của Tòa án hình sự quốc tế), Nxb Martinus Nijhoff ; - Roy S. Lee (1999), The International Criminal Court, The Making of the Rôm Statute, Issues, Negotiations, Result (Tòa án Hình sự quốc tế, quá trình hình thành Quy chế Rôm những vấn đề, các cuộc đàm phán và kết quả), Nxb Kluwer Law International. - Markus Benzig, Max Planck (2003), The Complementarity Regime of the International Criminal Court: International Criminal Justice between State Sovereignty and the Fight Against Impunity (Thẩm quyền bổ sung của Tòa án Hình sự quốc tế: Công lý Hình sự quốc tế giữa chủ quyền quốc gia và cuộc chiến chống lại việc không bị trừng phạt), Yearbook of United Nations Law; - Sharon Williams and William Schabas (2008), Commentary on the Rome Statute of the International Criminal Court: Observers Notes (Bình luận về Quy chế Rôm, Tòa án Hình sự quốc tế), Nxb Otto Triffterer. Đây là những công trình được xuất hiện trong giai đoạn từ khi Quy chế Rôm được thông qua cho đến giai đoạn TAHSQT thực hiện những hoạt động
  • 18. 18 đầu tiên. Chính vì vậy, những công trình này bên cạnh đề cập đến những vấn đề lý luận về sự hình thành, ra đời của TAHSQT, còn tập trung và phân tích và đánh giá những vụ việc mà TAHSQT đã thụ lý và đang giải quyết. Những tài liệu này nghiên cứu tập trung vào những nội dung liên quan đến thẩm quyền bổ sung, các điều kiện thụ lý vụ án, các tội phạm thuộc thẩm quyền của TAHSQT. Những nội dung này được phân tích theo một quá trình từ những Hội nghị xây dựng Quy chế Rôm, cho đến Hội nghị thông qua Quy chế Rôm về TAHSQT và những nội dung về thẩm quyền được đề cập trong Quy chế Rôm. Thông qua những nghiên cứu trên, các tác giả đã đưa ra những đánh giá, nhận định về tính hiệu quả của TAHSQT thông qua việc phân tích, bình luận các vụ việc và hoạt động trên thực tế của Tòa án. Nhóm thứ ba, bao gồm các công trình nghiên cứu về lập trường, quan điểm, kinh nghiệm của các quốc gia, khu vực liên quan đến thẩm quyền của TAHSQT, với các công trình tiêu biểu như: - Hội Luật gia Việt Nam (2008), Quan điểm của Cộng đồng Châu Âu về Tòa án Hình sự quốc tế, trong Gia nhập và thực thi Quy chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế, Quan điểm và kinh nghiệm của một số gia trên thế giới, Nxb Hồng Đức; - Jianping, Wang Zhixiang (2005), “China's Attitude towards the ICC” (Thái độ của Trung Quốc đối với Tòa án Hình sự quốc tế), Tạp chí Công lý Hình sự quốc tế, Trung Quốc; - Mark Findla (2010), “The Challenge for Asian Jurisdictions in the Development of International Criminal Justice” (Thách thức về thẩm quyền của các nước ASEAN trong sự phát triển của công lý hình sự quốc tế), Tạp chí Luật Sydney; - Yasushi Higashizawa (2007), Báo cáo Hội thảo “Kinh nghiệm của
  • 19. 19 Nhật Bản về việc chuẩn bị gia nhập Quy chế Rôm”, Hội thảo về Tòa án Hình sự quốc tế, ngày 3 - 4/2/2007, Bắc Kinh, Trung Quốc. - Francis Y. Choi (2007), Báo cáo Hội thảo “Luật thi hành Quy chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế của Hàn Quốc”, Hội thảo chiến lược khu vực Châu Á, 7-9/5/2007, Jakarta, Indonesia. - Yoon-Sang. Choi, Báo cáo Hội thảo “Tiến trình phê chuẩn, ban hành Luật Thi hành Quy chế Rôm và kế hoạch tương lai (của/ về) Tòa án Hình sự quốc tế của Hàn Quốc”, Hội thảo chiến lược khu vực Châu Á, 7-9/5/2007, Jakarta, Indonesia. - Jennifer K. Elsea (2006), Báo cáo trình Thượng viện của Cơ quan nghiên cứu của Thượng viện Hoa Kỳ “Chính sách của Hoa Kỳ về Tòa án Hình sự quốc tế”. Những công trình này về cơ bản được chia ra thành hai trường phái, quan điểm. Trường phái thứ nhất, ủng hộ cho sự ra đời, hoạt động của TAHSQT và khuyến khích việc gia nhập của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Theo các tác giả này, việc gia nhập một cách phổ biến của các quốc gia là điều kiện cần thiết để tòa án mang tính phổ cập, có thể thực hiện việc xét xử các tội phạm quốc tế ở mọi nơi trên thế giới, chấm dứt tình trạng không bị trừng phạt. Trường phái thứ hai, nghiêng về việc phê phán những tồn tại của TAHSQT và cảnh báo cho những quốc gia chưa gia nhập cần xem xét và tính đến những yếu tố cốt lõi như chủ quyền quốc gia, thẩm quyền xét xử hình sự riêng biệt của các quốc gia, vấn đề can thiệp vào các công việc nội bộ của các quốc gia. Các quốc gia ở khu vực Châu Âu luôn thể hiện sự ủng hộ và nhấn mạnh tầm quan trọng, ý nghĩa của TAHSQT, Tòa án sẽ thúc đẩy việc áp dụng và tôn trọng Luật Nhân đạo và Nhân quyền quốc tế. Các quốc gia Châu Âu luôn kỳ vọng Tòa án sẽ phục vụ lợi ích chung, và khẳng định nguyên tắc xét
  • 20. 20 xử bổ sung là một trong những điểm thành công nổi bật của Tòa án. Ngược lại, Hoa Kỳ luôn giữ thái độ thận trọng, dè dặt với TAHSQT, do những lo ngại về thẩm quyền xét xử của Tòa đối với công dân các quốc gia không thành viên, việc truy tố có thể mang tính chính trị, sự lạm quyền của Công tố viên, thiếu cơ chế đảm bảo một phiên tòa công bằng. Một số công trình đã phân tích và đánh giá một cách khách quan, khoa học về thái độ, quan điểm của các quốc gia Châu Á đối với TAHSQT, và chia sẻ những kinh nghiệm của các quốc gia này trong tiến trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc gia nhập cũng như thực thi Quy chế Rôm. Tóm lại, khi nghiên cứu về TAHSQT, các học giả nước ngoài đã thể hiện một cách sinh động và hiện thực từ vấn đề lý luận đến thực tiễn hoạt động của Tòa án như lịch sử hình thành, phát triển đến các vấn đề pháp lý chuyên sâu như thẩm quyền bổ sung, các vấn đề thụ lý vụ án, mối liên hệ giữa Tòa án và các vấn đề chủ quyền quốc gia, các nghĩa vụ của các quốc gia thành viên và không thành viên của Tòa án. Hơn nữa, các học giả cũng tập trung nghiên cứu về quan điểm, thái độ của các quốc gia, các khu vực đối với TAHSQT và đã có những lý giải, phân tích, đánh giá dựa trên những cơ sở khoa học pháp lý quốc tế cũng như bối cảnh chính trị, xã hội đặc thù. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên của các nhà khoa học trên thế giới chưa đề cập một cách hệ thống và toàn diện về lý luận thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế, với các nội dung như phân loại thẩm quyền, xác định các đặc trưng, tính chất của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế. Bên cạnh đó, việc đánh giá những lợi ích, cơ hội cho trường hợp cụ thể của Việt Nam trong quá trình xem xét về khả năng gia nhập Quy chế Rôm cũng chưa được nghiên cứu trong các công trình của các học giả nước ngoài. 1.2 Tình hình nghiên cứu ở việt nam Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lĩnh vực luật hình sự quốc tế cũng như
  • 21. 21 TAHSQT còn khá mới. Các công trình chủ yếu được xây dựng dưới hình thức tài liệu kỷ yếu của các Hội thảo khoa học hoặc giáo trình của một số trường đại học. Một số công trình tiêu biểu như: - Nguyễn Bá Diến (2006), Tòa án Hình sự quốc tế và việc gia nhập của Việt Nam, (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu các vấn đề tổng hợp về TAHSQT, với những chủ đề như: các tội phạm thuộc quyền tài phán của TAHSQT, vấn đề quyền tài phán của Tòa, Tòa án trong mối liên hệ với Liên hợp quốc, Tòa án với hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, TAHSQT với việc bảo vệ quyền con người và vấn đề chủ quyền quốc gia, thái độ của các nước ASEAN với TAHSQT. Các tác giả cũng đã dành một phần lớn nội dung để phân tích những thuận lợi, thách thức của Việt Nam nếu gia nhập Quy chế Rôm, qua đó nêu ra những hướng đi cụ thể hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam nhằm tương thích với Quy chế Rôm. - Nguyễn Bá Sơn (2007), Tòa án Hình sự quốc tế - Góc nhìn Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh. Công trình do nhóm chuyên gia của Vụ Pháp Luật và Điều ước quốc tế, Bộ Ngoại giao biên soạn, đã đề cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành, phát triển và hoạt động của TAHSQT với sự lồng ghép và góc nhìn Việt Nam. Các nội dung chủ yếu của công trình bao gồm: Giới thiệu tổng quan về TAHSQT. Trong phần này, các tác giả đã giới thiệu quá trình xây dựng Quy chế Rôm và hình thành TAHSQT, đưa ra những lý do làm cơ sở cho việc hình thành Tòa án, qua đó cũng so sánh với các cơ quan tư pháp quốc tế khác, đặc biệt còn cung cấp thông tin về việc tham gia của Việt Nam trong tiến trình này. Tiếp theo là các chương về quyền tài phán, cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các quốc gia cũng như ý nghĩa của TAHSQT và liên hệ với Việt Nam. Thông qua các nội dung này, các tác giả nêu bật ý nghĩa lịch sử, chính trị to lớn của
  • 22. 22 TAHSQT thường trực đầu tiên, với vai trò bổ sung cho hệ thống tư pháp quốc gia, có thẩm quyền xét xử các cá nhân nhằm chấm dứt tình trạng bỏ lọt tội phạm, đem lại công lý cho nạn nhân, góp phần tăng cường hòa bình, ổn định trên thế giới. - Nguyễn Thị Thuận (2007), Luật Hình sự quốc tế (sách chuyên khảo), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách gồm 7 chương, đề cập đến các nội dung chủ yếu như: Những vấn đề lý luận chung về luật hình sự quốc tế; Các chuẩn mực quốc tế của luật hình sự và vấn đề các tội phạm hình sự có tính chất quốc tế; thẩm quyền tài phán trong luật hình sự quốc tế; tương trợ tư pháp và vấn đề dẫn độ tội phạm; Tổ chức quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự; Tòa án quốc tế về xét xử tội phạm; Việt Nam với vấn đề hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là cuốn giáo trình Luật Hình sự quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Cuốn giáo trình chứa đựng những nội dung về lý luận và thực tiễn của luật hình sự quốc tế, có liên hệ với thực tiễn của Việt Nam. - Hội Luật gia Việt Nam (2008), Gia nhập và thực thi Quy chế Rôm về Tòa án Hình sự quốc tế, quan điểm và kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. Công trình gồm hai nội dung lớn. Nội dung thứ nhất về các quan điểm và kinh nghiệm của một số quốc gia về gia nhập và thực thi Quy chế Rôm về TAHSQT. Nội dung này gồm 29 chuyên đề, bao gồm các vấn đề đặt ra từ Hội nghị Rôm, TAHSQT - thực trạng và tương lai, khả năng lạm dụng quyền công tố, các vấn đề cần lưu ý nhằm thi hành hiệu quả Quy chế Rôm, các Hiệp định theo điều 98 – Hợp pháp hay không hợp pháp. Tiếp theo là các nội dung chuyên sâu, thể hiện rõ lập trường, quan điểm của các quốc gia và khu vực về những vấn đề liên quan đến TAHSQT. Trong đó, các tác giả đã đi sâu phân tích cả hai quan điểm ủng hộ và phản đối Quy chế Rôm. Phần hai của công
  • 23. 23 trình là phụ lục gồm các văn bản Luật của một số quốc gia về thực thi Quy chế Rôm, hợp tác với TAHSQT và Luật Mẫu về thực hiện Quy chế Rôm do nhóm chuyên gia khối thịnh vượng chung soạn thảo năm 2004. - Nguyễn Ngọc Chí (2010), Tòa án Hình sự quốc tế (Giáo trình), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là cuốn giáo trình đầu tiên dành cho sinh viên đại học tại Việt Nam giới thiệu một cách khái quát, cập nhật và toàn diện về TAHSQT. Cuốn giáo trình gồm 11 chương với các nội dung lớn như: Những vấn đề chung về TAHSQT; Cơ cấu tổ chức của TAHSQT; Thẩm quyền của TAHSQT; Các nguyên tắc của Luật hình sự quốc tế, vấn đề cấu thành tội phạm theo Quy chế Rôm; Vấn đề điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và xét lại bản án, lời buộc tội; Thi hành bản án của TAHSQT; Hợp tác quốc tế và trợ giúp tư pháp; Những thách thức và triển vọng của TAHSQT. - Bộ Tư pháp (2012), Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án Hình sự quốc tế và kinh nghiệm của một số nước khu vực ASEAN trong việc gia nhập Quy chế Rôm, (Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế), Hà Nội. Công trình tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về TAHSQT, bao gồm ba mảng lớn. Mảng thứ nhất đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn như: chức năng, thẩm quyền, quy trình, thủ tục tố tụng, các nguyên tắc cơ bản của TAHSQ, những cơ hội và thách thức của TAHSQT, thực tiễn hoạt động của TAHSQT và một số vụ việc đã được xét xử bởi TAHSQT. Phần thứ hai đề cập đến kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là một số quốc gia Châu Á trong việc gia nhập và thực thi Quy chế Rôm. Phần ba là những vấn đề liên quan đến Việt Nam, so sánh pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam với các quy định của Quy chế Rôm về TAHSQT. Các công trình khoa học trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận
  • 24. 24 và thực tiễn về thẩm quyền của TAHSQT cũng như bước đầu đưa ra những đánh giá, nhận định về những thuận lợi, thách thức của Việt Nam khi xem xét gia nhập Quy chế Rôm. Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ đề cập đến thẩm quyền của TAHSQT mà chưa đề cập đến những vấn về lý luận chung về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế. Bên cạnh đó, những nghiên cứu liên quan đến thẩm quyền của TAHSQT mới chỉ dừng lại ở việc phân tích pháp luật thực định là Quy chế Rôm mà chưa có sự so sánh, đối chiếu với các văn kiện quốc tế khác và chưa lồng ghép vụ việc thực tiễn liên quan đến việc thực thi thẩm quyền của TAHSQT. 1.3 Những vấn đề nghiên cứu của luận án Trên thực tế, thẩm quyền của các thiết chế xét xử hình sự quốc tế nói chung cũng như thẩm quyền của TAHSQT nói riêng là một vấn đề phức tạp, việc hiểu khái niệm, bản chất của thẩm quyền chưa hoàn toàn thống nhất. Ngay cả các văn kiện pháp lý quốc tế quy định về thẩm quyền như Quy chế Rôm hay Quy chế của các tòa án hình sự quốc tế Ad hoc và các văn kiện khác có liên quan cũng có những điểm chưa rõ ràng, gây ra nhiều tranh cãi. Chính vì vậy, cả ở góc độ lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế tồn tại nhiều quan điểm, cách tiếp cận khác nhau. Đối với các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, có thể thấy rõ sự phong phú, đa dạng liên quan đến hầu hết các khía cạnh về thẩm quyền của TAHSQT, tuy nhiên, còn thiếu vắng những công trình liên quan đến lý luận về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói chung và đặc biệt là trường hợp của Việt Nam. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế chưa có nhiều. Hơn nữa, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và khái quát về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói chung và thẩm quyền của TAHSQT nói riêng, đặc biệt liên quan đến khía cạnh sự ảnh
  • 25. 25 hưởng của thẩm quyền của TAHSQT đối với các quốc gia không thành viên. Trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá các nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan, luận án tập trung vào nghiên cứu những vấn đề chính sau: - Những vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế nói chung. - Cơ sở lý luận về thẩm quyền và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của TAHSQT, đặc biệt trong mối liên hệ với các quốc gia không là thành viên của Quy chế Rôm. - Việc trở thành thành viên của TAHSQT có đòi hỏi quốc gia phải tiến hành các sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước nhằm tương thích với Quy chế Rôm?, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài và liên hệ trường hợp cụ thể của Việt Nam. - Phân tích, đánh giá những thuận lợi, thách thức và đề xuất lộ trình, giải pháp cho việc gia nhập Quy chế Rôm của Việt Nam.
  • 26. 26 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 1. Ở nước ngoài, có nhiều công trình nghiên cứu về luật hình sự quốc tế nói chung, về TAHSQT nói riêng. Những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản trên cả phương diện lý luận và thực tiễn về tổ chức, hoạt động của TAHSQT, đồng thời còn dự báo sự phát triển trong tương lai của Tòa. Các công trình này đã tạo ra những hệ quan điểm, hình thành các học thuyết đóng góp vào sự phát triển về lý luận và thực tiễn của TAHSQT. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một các riêng biệt những vấn đề lý luận về vấn đề thẩm quyền của các thiết chế xét xử Tòa án, từ đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự cân nhắc gia nhập của các quốc gia chưa phải là thành viên của Quy chế Rôm. 2. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thẩm quyền của các thiết chế xét xử hình sự quốc tế cũng như của TAHSQT mới xuất hiện, do vậy chưa hình thành những trường phái, quan điểm riêng về lĩnh vực này ở Việt Nam. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về thẩm quyền của các thiết chế tài phán quốc tế nói chung cũng như thẩm quyền của TAHSQT nói riêng. Đặc biệt cũng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ về vấn đề thẩm quyền của Tòa án, từ đó làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự cân nhắc gia nhập Quy chế Rôm trong bối cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Do vậy, để góp phần thực hiện chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về chủ động hội nhập quốc tế, góp phần thiết thực vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, an ninh quốc tế, nội dung nghiên cứu của Luận án được triển khai nhằm giải quyết và trả lời cho những câu hỏi cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, những câu hỏi có tính chất lý luận về cơ sở, bản chất,
  • 27. 27 điều kiện thực hiện thẩm quyền của TAHSQT hay vấn đề bản chất, nội dung, hệ quả của nguyên tắc thẩm quyền bổ sung, vấn đề thực hiện thẩm quyền của Tòa án trong mối liên hệ với các quốc gia không là thành viên của Tòa án vẫn chưa được nghiên cứu, giải đáp một cách thấu đáo, hệ thống. Ngoài ra, một sự nghiên cứu sâu sắc về thẩm quyền của TAHSQT cũng cho phép trả lời cho câu hỏi liệu việc trở thành thành viên của Tòa án có đòi hỏi quốc gia phải tiến hành các sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước nhằm tương thích với Quy chế Rôm. Việc nghiên cứu thấu đáo câu hỏi này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam xem xét gia nhập Quy chế Rôm.
  • 28. 28 CHƢƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ HÌNH SỰ QUỐC TẾ 2.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế 2.1.1. Định nghĩa thẩm quyền và thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế Thuật ngữ Jurisdiction – trong tiếng Anh hay jurisdictio – trong tiếng La Tinh, thường được hiểu trong tiếng Việt là thẩm quyền, thẩm quyền xét xử, hay quyền tài phán, là một trong những thuật ngữ pháp lý khó hiểu do chứa đựng nhiều nghĩa khác nhau [55; 609]. Cho đến nay, việc nghiên cứu lý luận về thẩm quyền vẫn còn nhiều khoảng trống [67]. Theo từ điển Black’s Law, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu theo hai nghĩa: (i) Quyền lực của chính phủ được thực hiện với tất cả mọi người cũng như với các đối tượng khác trong lãnh thổ của họ; (ii) Quyền của tòa án để quyết định một vụ việc hay quyền đưa ra các phán quyết [59;96]. Theo Từ điển Oxford, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu là quyền lực chính thức của một chủ thể để đưa ra một quyết định pháp lý hoặc một bản án [99]. Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, “thẩm quyền” là tổng hợp các quyền hành động, quyền quyết định được trao hay thừa nhận cho một chủ thể, cho phép chủ thể đó có thể thực hiện được những chức năng cụ thể mà pháp luật quy định [40]. Như vậy, “thẩm quyền xét xử” của tòa án cũng thuộc nội hàm của khái niệm thẩm quyền nói chung. Trên cơ sở đó, “thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế” được hiểu là thẩm quyền của các thiết chế tài phán hình sự quốc tế xét xử
  • 29. 29 các tội phạm quốc tế. Khái niệm thẩm quyền xét xét hình sự quốc tế cần được phân biệt với các khái niệm thẩm quyền xét xử (tài phán) quốc tế, thẩm quyền xét xử quốc gia đối với các tội phạm có tính chất quốc tế (tội phạm được xác định theo điều ước quốc tế). Thứ nhất, thẩm quyền xét xử quốc tế được hiểu là thẩm quyền của các thiết chế tài phán quốc tế (tòa án), ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu. Cho đến nay, các thiết chế tài phán quốc tế chủ yếu bao gồm Tòa án công lý quốc tế, Tòa án quốc tế về Luật Biển, Tòa công lý Châu Âu, Tòa quyền con người của Châu Âu…Các thiết chế tài phán có thẩm quyền xét xử quốc tế này được thành lập trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia, nhằm thực hiện chức năng xét xử thông qua việc áp dụng các quy định của luật quốc tế [45; 11]. Trong các thiết chế tài phán quốc tế ở quy mô toàn cầu, Tòa án Công lý quốc tế thể hiện rõ nét nhất đặc trưng của loại hình thiết chế này: hình thành trên cơ sở thỏa thuận của các quốc gia, có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia và áp dụng luật quốc tế. Tòa án Công lý quốc tế là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc1 , Tòa chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý với một đối tượng chủ thể duy nhất là các quốc gia. Tòa không có thẩm quyền xét xử đương nhiên đối với các quốc gia thành viên, cơ sở để Tòa thực hiện thẩm quyền của mình là sự đồng ý rõ ràng của các quốc gia dựa trên ba phương thức gồm: chấp nhận thẩm quyền của Tòa theo từng vụ việc; chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa trong các điều ước và Tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa. Bên cạnh thẩm quyền giải quyết các tranh chấp pháp lý quốc tế, cũng giống như Pháp viện 1 Sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc bao gồm: Đại hội đồng; Hội đồng Bảo an; Hội đồng Kinh tế xã hội, Hội đồng quản thác, Ban thư ký và Tòa án Công lý quốc tế.
  • 30. 30 thường trực quốc tế2 , Tòa án Công lý quốc tế còn có thẩm quyền đưa ra các kết luận tư vấn về các vấn đề pháp lý mà Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an và một số cơ quan, tổ chức khác của LHQ yêu cầu [33; 61]. Thứ hai, thẩm quyền xét xử quốc gia đối với các tội phạm có tính chất quốc tế (tội phạm theo điều ước quốc tế), là thẩm quyền của các cơ quan tài phán quốc gia xét xử những hành vi tội phạm được quy định trong các điều ước quốc tế có liên quan, theo quy trình tố tụng được quy định trong pháp luật luật quốc gia. Bản chất của các hành vi tội phạm này không chỉ vi phạm trật tự pháp luật quốc gia, mà còn xâm hại đến lợi ích chung của cộng đồng quốc tế [34; 103]. Các nguyên tắc phổ biến xác lập thẩm quyền xét xử hình sự của các tòa án quốc gia đối với tội phạm có tính chất quốc tế bao gồm: nguyên tắc quốc tịch chủ động, nguyên tắc quốc tịch thụ động, nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc bảo vệ và nguyên tắc thẩm quyền toàn cầu [34; 80]. Những nguyên tắc này cũng đã được các tòa án hình sự quốc tế áp dụng để xác định cơ sở thực hiện thẩm quyền xét xử của các tòa án quốc tế đó. (i) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc lãnh thổ Sau thế kỷ 17, với sự kiện Hiệp ước Hòa bình Westphalia3 được ký kết năm 1648, xuất hiện các quốc gia hiện đại có chủ quyền, nguyên tắc thẩm quyền theo lãnh thổ được hình thành và dần trở thành nguyên tắc cơ bản để xác định thẩm quyền cho tòa án của các quốc gia. Theo nguyên tắc này, một cá nhân khi di chuyển đến lãnh thổ quốc gia khác sẽ không phải thực thi pháp luật của quốc gia mà người đó là công dân, nhưng họ sẽ phải thực thi pháp luật của quốc gia nơi họ di chuyển đến [35; 65]. Nguyên tắc thẩm quyền lãnh thổ đã được ghi nhận trong pháp luật của 2 Thiết chế tài phán quốc tế tiền thân của Tòa án Công lý quốc tế, là cơ quan giải quyết tranh chấp của Hội quốc liên. 3 Hiệp ước ra đời là cơ sở để chấm dứt Cuộc chiến kéo dài ba mươi năm và đánh dấu sự thành lập Châu Âu hiện đại, gồm các quốc gia có chủ quyền.
  • 31. 31 nhiều quốc gia cũng như trong các điều ước quốc tế và tập quán pháp quốc tế. Trong vụ Lotus, Tòa án Công lý quốc tế đã xác định rằng: “trong tất cả các hệ thống pháp luật, nguyên tắc lãnh thổ của luật hình sự là cốt lõi” [52; 277]. Nguyên tắc thẩm quyền lãnh thổ được các quốc gia áp dụng phổ biến xuất phát từ những lý do như khi thực hiện nguyên tắc này sẽ giúp tòa án dễ dàng tập hợp chứng cứ; các thẩm phán, công tố viên là thành viên của cộng đồng nơi tội phạm diễn ra nên họ có điều kiện thuận lợi để tìm hiểu và chia sẻ thông tin, bảo vệ những giá trị của cộng đồng, bảo vệ các quyền của nạn nhân cũng như bị cáo, đảm bảo phiên tòa công bằng, hiệu quả. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc lãnh thổ đối với các tội phạm quốc tế của tòa án quốc gia cũng gặp nhiều khó khăn vì thông thường các tội phạm này thường được thực hiện bởi những người đứng đầu quốc gia, do vậy các cơ quan tư pháp quốc gia phải chịu áp lực chính trị khi truy tố và xét xử những người thực hiện các tội phạm này. (ii) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc quốc tịch chủ động Nguyên tắc quốc tịch chủ động lần đầu tiên được pháp điển hóa trong pháp luật của một số nước Châu Âu lục địa như Đức, Thụy Sĩ, vào giữa thế kỷ 19 [68]. Theo nguyên tắc quốc tịch chủ động, tòa án của một quốc gia có thẩm quyền xét xử hành vi tội phạm do công dân của quốc gia đó thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia nước ngoài. Việc áp dụng nguyên tắc này nhằm đảm bảo rằng những người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch, không phụ thuộc vào việc họ thực hiện các tội phạm ở đâu. Theo cách giải thích truyền thống, việc áp dụng nguyên tắc quốc tịch chủ động có mục đích bảo vệ uy tín của một quốc gia khỏi bị ảnh hưởng bởi hành vi của công dân của họ ở nước ngoài. Sau này, nguyên tắc quốc tịch chủ động được xem như hình thức bảo hộ ngoại giao mà một quốc gia trao cho
  • 32. 32 công dân của họ khi ở nước ngoài [69]. (iii) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc quốc tịch thụ động Theo nguyên tắc quốc tịch thụ động, tòa án của một quốc gia có thể thực hiện thẩm quyền của mình đối với các tội phạm thực hiện ở nước ngoài chống lại các công dân của quốc gia đó. Nguyên tắc này chủ yếu được hình thành nhằm mục đích bảo vệ các công dân của mình đang sinh sống và cư trú ở nước ngoài. Các quốc gia thực hiện thẩm quyền trên cơ sở quốc tịch thụ động đều phải xem xét đến yếu tố “tội phạm kép” - tội phạm được xác định vi phạm cả pháp luật của quốc gia lãnh thổ và quốc gia mà người phạm tội là công dân. Nguyên tắc quốc tịch thụ động khi hình thành và vận dụng đã gặp phải sự chỉ trích mạnh mẽ của các học giả trên thế giới. Theo các học giả này, nguyên tắc quốc tịch thụ động khi áp dụng sẽ dễ dẫn đến khả năng xung đột thẩm quyền của tòa án các quốc gia. Nhà lý luận về thẩm quyền nổi tiếng, Giáo sư MANN cho rằng “Nguyên tắc thẩm quyền quốc tịch thụ động được xem như một sự vượt quá thẩm quyền” [67]. Mặc dù đã xuất hiện những yêu cầu kêu gọi từ bỏ nguyên tắc của thẩm quyền theo quốc tịch thụ động, nhưng thực tiễn của các quốc gia gần đây cho thấy, các quốc gia vẫn đang thực hiện thẩm quyền dựa trên nguyên tắc này. Các công ước về chống khủng bố quốc tế và tra tấn quy định về việc áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền trên cơ sở quốc tịch thụ động cho tòa án của các quốc gia thành viên, tuy nhiên quy định này không mang tính chất bắt buộc4 . (iv) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ Theo nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ, thì tòa án của một quốc gia có thể 4 Điều 4 (b) Công ước về các tội phạm thực hiện trên máy bay năm 1963; Điều 6 (2) (b) Công ước về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống lại sự an toàn hàng hải năm 1988; Điều 5 (1) (c) Công ước Chống tra tấn năm 1984 đã quy định về nội dung này.
  • 33. 33 thực hiện thẩm quyền của mình đối với các tội phạm thực hiện ở nước ngoài chống lại quốc gia mà người thực hiện hành vi tội phạm mang quốc tịch. Nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ nhằm mục đích bảo vệ quốc gia trước những tội phạm gây nguy hiểm cho nền độc lập chính trị của các quốc gia, như tội phản quốc, phản động…Thông thường, những tội phạm này có thể không bị coi là tội phạm tại quốc gia nơi các hành vi phạm tội diễn ra, do vậy nó sẽ không bị trừng phạt [69]. Nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ xuất hiện từ thế kỷ thứ 13, 14 và sau đó được phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ 15, 16. Hiện nay, nguyên tắc thẩm quyền bảo vệ đã được thừa nhận chung thông qua việc quy định và áp dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới [61]. (v) Xác lập thẩm quyền dựa trên nguyên tắc toàn cầu Nguyên tắc thẩm quyền toàn cầu được ghi nhận trong tập quán pháp quốc tế, và áp dụng đối với loại tội phạm đầu tiên là tội cướp biển, sau đó được pháp điển hóa trong một số điều ước quốc tế phổ cập và trong pháp luật của các quốc gia. Điều 19 của Công ước Geneva năm 1958 trên Công hải và Điều 105 của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982, đã hệ thống hóa các quy định tập quán pháp quốc tế này và đã pháp điển hóa như sau: “Trên các vùng công hải, hoặc ở nơi nào khác ngoài quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào, mỗi quốc gia có thể thu giữ một con tàu cướp biển hoặc máy bay, hoặc tàu biển hoặc máy bay được thực hiện bởi và dưới sự kiểm soát của cướp biển, và bắt giữ người và nắm bắt tài sản trên tàu”. Thẩm quyền toàn cầu ra đời nhằm mục đích bảo vệ và thực thi hiệu quả các lợi ích quốc tế một cách rộng rãi nhất, vì một số tội phạm khó được bảo đảm sẽ bị xét xử bởi một quốc gia đơn lẻ hoặc thông qua một khuôn khổ quan hệ song phương [60]. Trên cơ sở đó, có nhiều ý kiến cho rằng “luật pháp quốc tế quy định một số tội phạm có thể bị trừng phạt bởi bất kỳ quốc gia nào vì người phạm tội là kẻ thù chung của cả nhân loại. Vì vậy, tất cả các quốc
  • 34. 34 gia có quan tâm đến bình đẳng trong việc trừng phạt các tội phạm đó” [57]. Theo lập luận này, thẩm quyền toàn cầu thường được áp dụng đối với các hành vi rất tàn ác mà các quốc gia đều có chung mối quan ngại. Tinh thần này đã được đề cập trong phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế trong vụ việc tranh chấp giữa Bỉ và Tây Ban Nha [80]. Tòa án còn đưa ra những ví dụ trong luật pháp quốc tế hiện đại đề cập đến các tội phạm thuộc đối tượng áp dụng của thẩm quyền này, bao gồm tội xâm lược, diệt chủng, chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc. Trên đây là năm nguyên tắc chủ yếu để xác định thẩm quyền được cả các tòa án quốc gia và tòa án quốc tế áp dụng. Sự đa dạng của các nguyên tắc này đã dẫn đến hệ quả tất yếu là nguy cơ xung đột về thẩm quyền giữa các tòa án của các quốc gia hoàn toàn có thể xảy ra. Ví dụ, khi một công dân của quốc gia A thực hiện một hành vi tội phạm ở quốc gia B đối với một công dân của quốc gia C, trong vụ việc này, tòa án của cả ba quốc gia đều có thể có thẩm quyền dựa trên cơ sở nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc quốc tịch chủ động hay quốc tịch thụ động. Hơn nữa, nếu đây là tội phạm quốc tế đã làm phát sinh cơ sở để thực hiện thẩm quyền toàn cầu, thì tòa án của tất cả các quốc gia đều có thể có thẩm quyền, mà không phụ thuộc vào một mối liên hệ với tội phạm. Để giải quyết những xung đột trong việc xác định thẩm quyền của tòa án các quốc gia, trong luật quốc tế tồn tại hai hình thức giải quyết những xung đột này. Cách thứ nhất, các quốc gia sẽ ký kết điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương, trong đó quy định rõ các cơ sở, điều kiện để thiết lập thẩm quyền cho tòa án các quốc gia. Cách thứ hai, các quốc gia sẽ áp dụng các nguyên tắc để xác định thẩm quyền theo tập quán pháp quốc tế. 2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế 2.1.2.1. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia
  • 35. 35 Xét về mặt bản chất, các thiết chế xét xử hình sự quốc tế là các tổ chức quốc tế, được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia, do vậy thẩm quyền của chúng phải là sản phẩm của sự thỏa thuận, chấp thuận giữa các quốc gia. Hơn nữa thẩm quyền xét xử hình sự vốn được coi là một thẩm quyền mang tính đặc quyền, thuộc chủ quyền riêng có của mỗi quốc gia nên một thiết chế quốc tế chỉ có thể thực hiện được thẩm quyền xét xử đối với công dân của một quốc gia khi có sự chấp thuận của quốc gia đó. Sự thỏa thuận của các quốc gia là điều kiện tiên quyết cho việc hình thành và thực hiện thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế, và là sự thể hiện một cách rõ nét nhất việc tôn trọng chủ quyền của các quốc gia trong lĩnh vực xét xử các tội phạm quốc tế. Sự thỏa thuận này có thể được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp, với những cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào bối cảnh ra đời, chức năng và nhiệm vụ của từng thiết chế xét xử hình sự quốc tế khi chúng được thành lập. Thực tế, kể từ ngay trước Đại chiến Thế giới Thứ nhất, cộng đồng quốc tế đã có những nỗ lực để thiết lập những thiết chế có thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế, tuy nhiên, do các quốc gia không đạt được sự đồng thuận chung, những thiết chế đó đã không thể ra đời. Thẩm quyền của hai thiết chế xét xử hình sự quốc tế đầu tiên - Tòa án quân sự quốc tế Nuremberg (Tòa Nuremberg) và Tòa án quân sự quốc tế Tokyo (Tòa Tokyo) được hình thành trên cơ sở những điều ước quốc tế được ký kết giữa các nước Đồng minh thắng trận, để xét xử và trừng phạt các tội phạm là công dân, tổ chức của các nước thua trận. Trong những trường hợp này, sự thỏa thuận của các quốc gia để thành lập nên các thiết chế xét xử hình sự quốc tế đã được thể hiện bằng việc ký kết các điều ước quốc tế có liên quan. Tuy nhiên, những sự thỏa thuận này chỉ là sự thể hiện ý chí của các quốc gia thắng trận.
  • 36. 36 Thẩm quyền của hai thiết chế xét xử hình sự Ad hoc dành cho Nam tư cũ và Ruanđa (Tòa Nam tư cũ và Tòa án Ruanđa) được thành lập sau đó có cơ sở pháp lý là các Nghị quyết của HĐBA của LHQ, và sự thỏa thuận của các quốc gia không được thể hiện một cách trực tiếp. Tuy nhiên, khi thành lập các tòa Ad hoc này, HĐBA đã thực hiện thẩm quyền của mình trên cơ sở các quy định của Chương VII của Hiến chương LHQ. Do vậy, có thể hiểu sự chấp thuận của các quốc gia đối với thẩm quyền của các tòa án xuất phát từ sự chấp thuận trước đó của họ đối với thẩm quyền của HĐBA trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế theo các quy định của Chương VII của Hiến chương LHQ. Quy chế Rôm về thành lập và hoạt động của TAHSQT là một điều ước quốc tế đa phương, được ký vào năm 1998 và có hiệu lực vào ngày 11/4/2002, sau khi có 60 quốc gia phê chuẩn. Tính đến thời điểm hiện nay, tháng 12/2013, Quy chế Rôm có 122 quốc gia thành viên, và được đánh giá là một trong những điều ước quốc tế có số lượng quốc gia thành viên đông nhất, với thời gian tính từ thời điểm ký đến khi có hiệu lực ngắn nhất. Chính vì được hình thành trên cơ sở một điều ước quốc tế đa phương, nên thẩm quyền của TAHSQT thể hiện rõ ràng sự thỏa hiệp, đồng thuận của các quốc gia. Tính chất thẩm quyền dựa trên điều ước của TAHSQT đã giúp cho Tòa án hạn chế được những chỉ trích, tranh luận về tính hợp pháp liên quan đến thẩm quyền, vấn đề mà các tòa án quân sự quốc tế cũng như các tòa án Ad hoc trước đây đã phải đối mặt. TAHSQT do điều ước quốc tế hình thành, trên cơ sở đó, Tòa có thể thực hiện thẩm quyền đối với công dân của các quốc gia thành viên của Quy chế Rôm. Cũng bằng sự thỏa thuận của các quốc gia được thể hiện trong Quy chế Rôm, TAHSQT còn có thể có thẩm quyền với công dân của các quốc gia không thành viên trong ba trường hợp sau đây:
  • 37. 37 Trường hợp thứ nhất, TAHSQT sẽ thực hiện thẩm quyền đối với công dân của quốc gia không phải là thành viên của Quy chế Rôm khi tội phạm do công dân của quốc gia đó thực hiện và được HĐBA chuyển đến Tòa. Hội đồng Bảo an thực hiện quyền này trên cơ sở Điều 13, điểm b của Quy chế Rôm [28]: “…Tòa án có thể thực hiện thẩm quyền đối với các tội phạm được quy định trong Quy chế nếu vụ việc do HĐBA thông báo cho Trưởng Công tố theo thẩm quyền quy định tại Chương VII Hiến chương LHQ”. Quy định trên xuất phát từ quan điểm coi HĐBA là cơ quan quyền lực nhất của LHQ, có vai trò gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế. Vai trò này của HĐBA cũng đã được quy định trong Hiến chương của LHQ - một điều ước quốc tế được hình thành trên cơ sở sự đồng thuận của các quốc gia là thành viên của LHQ. Trong thực tiễn hoạt động của mình, HĐBA đã không chỉ sử dụng các biện pháp được đề cập rõ ràng trong Hiến chương như các biện pháp đàm phán, ngoại giao, các biện pháp kinh tế đến các biện pháp cuối cùng là sử dụng vũ lực để đảm bảo hòa bình, an ninh trên toàn thế giới, mà HĐBA còn thiết lập các thiết chế tài phán có thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế như Tòa Nam tư cũ và Ruanđa. Quyền thông báo vụ việc của HĐBA cho TAHSQT không chỉ đặt ra đối với các vụ việc diễn ra trong lãnh thổ của các quốc gia thành viên của Quy chế Rôm, mà còn mở rộng đối với cả các vụ việc xảy ra tại các quốc gia không là thành viên của Quy chế. Do vậy, cả công dân của quốc gia thành viên và các quốc gia không thành viên Quy chế Rôm đều có khả năng phải chấp nhận thẩm quyền của Tòa án trong những vụ việc do HĐBA chuyển đến Tòa. Cho đến nay, trong 8 vụ việc mà Tòa thụ lý, có 2 vụ việc được HĐBA chuyển đến Tòa và đều xảy ra tại các quốc gia không là thành viên của tòa, là Darfur - Sudan và Lybia. Trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng Bản an chuyển các vụ việc đến Tòa án,
  • 38. 38 Tòa án đã tiến hành thụ lý và các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện và đạt được những kết quả bước đầu. Trường hợp thứ hai, các công dân của quốc gia không thành viên là đối tượng thuộc thẩm quyền của TAHSQT khi họ thực hiện hành vi tội phạm trên lãnh thổ của một quốc gia là thành viên của Tòa án, hoặc quốc gia đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa án đối với tội phạm đó. Trường hợp này bao gồm hai khả năng: Một là, TAHSQT có thể có thẩm quyền đối với công dân của các quốc gia không thành viên khi các công dân đó thực hiện tội phạm trên lãnh thổ các quốc gia thành viên; Hai là, TAHSQT có thể có thẩm quyền đối với công dân của các quốc gia không thành viên khi các công dân đó thực hiện hành vi tội phạm trên lãnh thổ của một quốc gia không thành viên nhưng chấp nhận thẩm quyền của Tòa án. Trong cả hai khả năng này, đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của TAHSQT đều là công dân của các quốc gia không thành viên và cơ sở để TAHSQT thực hiện thẩm quyền của mình là dựa trên nguyên tắc lãnh thổ. Trên thực tế, nguyên tắc thẩm quyền lãnh thổ đã được quy định trong pháp luật hình sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới và được coi như một trong nhưng nguyên tắc cơ bản để xác định thẩm quyền xét xử hình sự của các tòa án trong nước. Ở phạm vi các tổ chức quốc tế khu vực, nguyên tắc thẩm quyền theo lãnh thổ được đề cập nhiều trong các điều ước quốc tế, tạo cơ sở cho các tòa án quốc gia và tòa án quốc tế thực hiện thẩm quyền. Theo Hiệp định Khung của Hội đồng Châu Âu về Chống khủng bố, đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của các nước Châu Âu không chỉ giới hạn đối với các công dân của Châu Âu mà còn mở rộng tới các công dân của các quốc gia ngoài Châu Âu có hành vi khủng bố thực hiện trên lãnh thổ Châu Âu. Thậm chí, trong Hiệp định giữa các quốc gia của Cộng đồng Châu Âu về chuyển giao quy trình tố tụng các vụ việc hình sự năm 1990 đã thể hiện cụ thể hơn những quy định này. Các
  • 39. 39 điều ước này cho phép các quốc gia chuyển quá trình tố tụng hình sự đã được bắt đầu ở một quốc gia sang quốc gia thành viên khác mà không cần có sự đồng thuận của quốc gia mà người bị buộc tội mang quốc tịch. Ở phạm vi các thiết chế tài phán quốc tế và khu vực, có một số ví dụ cho thấy các tòa án này đã thực hiện thẩm quyền đối với các công dân của các quốc gia không phải là thành viên của điều ước có liên quan trên nguyên tắc thẩm quyền theo lãnh thổ. Ví dụ điển hình cho trường hợp này là việc thực hiện thẩm quyền của Tòa án đặc biệt Sierra Leone. Tòa án đặc biệt này được hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế được ký kết giữa LHQ và Sierra Leone để truy tố những người đã thực hiện các tội phạm quốc tế nghiêm trọng tại Sierra Leone. Tòa án đặc biệt đã truy tố các đối tượng không là công dân của Sierra Leone, điển hình là việc truy tố Tổng thống của quốc gia láng giềng Liberia [14]. Các Tòa án công lý Châu Âu và Tòa án Công lý Caribe cũng được các quốc gia thành viên thỏa thuận trao cho thẩm quyền giải quyết các vụ việc liên quan đến công dân của các quốc gia không là thành viên của các khu vực này [10]. Trường hợp thứ ba, Tòa án có thể thực hiện thẩm quyền đối với công dân của quốc gia không thành viên của Quy chế Rôm khi quốc gia đó đã có thỏa thuận về việc chấp nhận thẩm quyền của Tòa với vụ việc cụ thể [28]. Trong trường hợp này, sự thỏa thuận rõ ràng của các quốc gia không thành viên đã tạo điều kiện thuận lợi cho TAHSQT thực hiện thẩm quyền của mình. Việc Tòa án thực hiện thẩm quyền đối với các quốc gia không thành viên nhưng có sự thỏa thuận về việc chấp nhận thẩm quyền của TAHSQT cũng tương tự như việc Tòa án thực hiện thẩm quyền đối với các quốc gia thành viên của Quy chế Rôm. Như vậy, với hai trường hợp đầu tiên, sự thỏa thuận của quốc gia không thành viên không phải là điều kiện cần thiết để TAHSQT thực hiện
  • 40. 40 thẩm quyền của mình đối với công dân của các quốc gia đó. Với trường hợp thứ ba, sự thỏa thuận về việc chấp thuận của các quốc gia không thành viên là điều kiện bắt buộc để TAHSQT có thể thực hiện thẩm quyền của mình đối với các công dân của các quốc gia này. 2.1.2.2. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế có tính chất giới hạn Khác với thẩm quyền xét xử hình sự của các tòa án quốc gia, thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế giới hạn về các loại tội phạm cũng như chủ thể thực hiện tội phạm. Tính chất có giới hạn của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được xác định từ những nguyên nhân chủ yếu sau: Xét ở khía cạnh lịch sử, trước đây thẩm quyền xét xử các tội phạm hình sự, kể cả các tội phạm hình sự quốc tế hoàn toàn thuộc thẩm quyền của tòa án các quốc gia. Tuy nhiên, với mức độ và hậu quả nghiêm trọng do các tội phạm này gây ra mà các quốc gia riêng lẻ không đủ khả năng ngăn ngừa, trấn áp, do vậy cần có sức mạnh của cộng đồng quốc tế để các tội phạm này phải bị trừng trị ở mức độ nghiêm khắc nhất. Hơn nữa, nhằm hạn chế đến mức tối đa việc thực hiện thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế sẽ xâm hại đến chủ quyền quốc gia, nên thẩm quyền này chỉ được giới hạn ở một mức độ nhất định, vừa đủ để thực hiện mục tiêu ngăn ngừa và trừng trị tội phạm vừa không tạo nguy cơ đe dọa đến chủ quyền quốc gia. Thứ nhất, sự giới hạn của thẩm quyền xét xử hình sự đối với các loại tội phạm nghiêm trọng nhất vi phạm luật quốc tế. Các thiết chế tài phán hình sự quốc tế có thẩm quyền chủ yếu với các hành vi tội phạm vi phạm luật quốc tế, đây là một trong những đặc điểm khác biệt quan trọng nhất khi so sánh với thẩm quyền xét xử các tội phạm có tính chất quốc tế của các cơ quan tài phán quốc gia, khi các cơ quan này có thẩm quyền đối với các hành vi vi phạm pháp luật quốc gia. Trong các quy chế của các Tòa Nurember và Tokyo đều quy định rằng,
  • 41. 41 các tòa án có thẩm quyền xét xử đối với các tội phạm chống hòa bình, tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại vi phạm những điều ước, thỏa thuận, cam kết quốc tế hoặc tập quán pháp quốc tế [26,27]. Trong các quy chế của các Tòa Nam tư cũ và Rwanđa, việc quy định các hành vi tội phạm vi phạm luật quốc tế được xác định cụ thể hơn. Tại Điều 1 và Điều 2, Quy chế Tòa Nam tư cũ quy định rằng: “Tòa có thẩm quyền xét xử mọi cá nhân bị truy tố về những hành vi vi phạm nghiêm trọng Luật Nhân đạo quốc tế…”; “những hành vi vi phạm nghiêm trọng các Công ước Giơnevơ năm 1949”. Quy chế của Tòa án Ruanđa cũng quy định tương tự, tuy nhiên có mở rộng hơn khi Điều 4 của Quy chế quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với các hành vi vi phạm Điều 3 chung của các Công ước Giơnevơ năm 1949 và Nghị định thư bổ sung số 2 về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang không có tính chất quốc tế. Trên cơ sở các quy định của luật quốc tế như trên, việc xem xét mức độ nghiêm trọng để xác định những hành vi tội phạm nào sẽ thuộc thẩm quyền của các thiết chế xét xử hình sự quốc tế phụ thuộc nhận thức và sự thỏa hiệp ý chí giữa các quốc gia. Thực tế, nhận thức và sự thỏa hiệp này đã có những thay đổi, phát triển theo từng giai đoạn lịch sử. Sau Đại chiến Thế giới Thứ nhất, khi dự kiến thiết lập nên một thiết chế xét xử hình sự quốc tế đầu tiên trong lịch sử, thông qua Hiệp ước Versailles, các quốc gia chỉ dự kiến một loại hành vi tội phạm duy nhất thuộc thẩm quyền xét xử của thiết chế này là tội phạm chiến tranh [26,27]. Sau Đại chiến Thế giới Thứ hai, thông qua các Quy chế Nuremberg và Tokyo, các quốc gia đã thống nhất trao cho các thiết chế này thẩm quyền xét xử đối với ba loại tội phạm quốc tế, gồm tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và tội chống hòa bình. Quy chế của các Tòa Nam tư cũ và Ruanđa đã bổ sung thêm tội diệt chủng. Sau đó, kể từ khi Quy chế Rôm được ký kết năm 1998, cộng đồng quốc tế đã chính thức coi
  • 42. 42 hành vi xâm lược là tội phạm quốc tế thuộc thẩm quyền xét xử của TAHSQT, và Tòa án có phạm vi thẩm quyền xét xử đối với bốn tội phạm gồm tội diệt chủng, tội phạm chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược. Như vậy, các tội phạm là đối tượng của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế là một phạm trù có tính chất lịch sử. Số lượng các loại tội phạm cũng như định nghĩa, các yếu tố cấu thành của từng tội phạm được phát triển, mở rộng phụ thuộc vào nhận thức, sự thỏa thuận của các quốc gia và thực tiễn của hoạt động tội phạm quốc tế. Gần đây, bên cạnh bốn tội phạm thuộc thẩm quyền của TAHSQT, đã xuất hiện một số trào lưu cho rằng cần quy định thêm hành vi khủng bố quốc tế, hành vi de dọa sử dụng vũ khí hạt nhân thuộc đối tượng của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế. Thứ hai, sự giới hạn của thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế đối với chủ thể thực hiện tội phạm. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế không chỉ được giới hạn với những tội phạm nhất định, mà còn được giới hạn đối với một loại chủ thể duy nhất thực hiện các tội phạm, được xác định là các cá nhân. Quy chế của các Tòa án Tokyo, Nam tư cũ, Ruanđa hay TAHSQT đều quy định rõ: “Tòa án có thẩm quyền xét xử các cá nhân…” [29]. Ngoại lệ duy nhất là trường hợp của Tòa Nuremberg, Quy chế của Tòa án này quy định thẩm quyền xét xử được mở rộng đối với cả các tổ chức: “…Tòa án có thẩm quyền xét xử và trừng trị những kẻ, do hành động vì lợi ích của các nước Phe Trục ở Châu Âu, cho dù với tư cách cá nhân hay với tư cách là thành viên của các tổ chức…” [27]. Như vậy, đa số các TAHSQT đều giới hạn thẩm quyền xét xử của mình đối với các cá nhân, xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân được thừa nhận phổ biến trong pháp luật hình sự của các quốc gia trên thế giới [4;82]. Bên cạnh đó, xuất hiện xu hướng rộng rãi coi cá nhân cũng là một loại chủ thể của luật quốc tế [48;16], do vậy cá nhân cũng hưởng các quyền
  • 43. 43 lợi mà luật quốc tế quy định, đồng thời cũng phải gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế [2], đặc biệt trong những trường hợp có những hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế. 2.1.2.3. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được hiểu theo nghĩa rộng Thông thường, trong pháp luật quốc gia, thẩm quyền xét xử được hiểu là quyền mà pháp luật quy định cho tòa án được xét xử những vụ án cụ thể trong giới hạn và những phạm vi nhất định [5]. Trong lĩnh vực hình sự, thẩm quyền xét xử của tòa án phân biệt và tồn tại độc lập với thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong lĩnh vực khởi tố, điều tra và thi hành án. Pháp luật của các quốc gia quy định các cơ quan thực hiện các chức năng công tố, điều tra, xét xử và thi hành án phải được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc độc lập. Khác với thông lệ từ các quốc gia, khi thành lập các thiết chế xét xử hình sự quốc tế, các quốc gia đều thỏa thuận trao cho chúng thẩm quyền đồng thời trong cả ba lĩnh vực truy tố, điều tra và xét xử. Ví dụ, Điều 11, Quy chế Tòa Nam tư cũ quy định: “Tòa án quốc tế bao gồm các cơ quan sau đây: Các Tòa, gồm hai Tòa sơ thẩm và một Tòa phúc thẩm; Công tố viên, và Phòng lục sự, giúp việc động thời cho các Tòa và Công tố viên”. Điều 10 về cơ cấu tổ chức của Tòa Ruanđa có những quy định tương tự: “Tòa án quốc tế về Ruanđa sẽ bao gồm các cơ quan sau đây: các Tòa, bao gồm hai Tòa sơ thẩm và một Tòa phúc thẩm; Công tố viên và Phòng Lục sự”. Trên cơ sở kế thừa các tòa án trước đó, cơ cấu của tổ chức của TAHSQT được quy định cụ thể và chặt chẽ hơn, bao gồm: “Ban chánh án; Bộ phận phúc thẩm, Bộ phận sơ thẩm, Bộ phận tiền xét xử; Văn phòng Công tố và Văn phòng Lục sự” [5]. Theo quy định của các quy chế hình thành các tòa án hình sự quốc tế trên, ngoài chức năng xét xử do các thẩm phán của các tòa thực hiện, các tòa án này còn có thẩm quyền đối với hoạt động công tố, điều tra do Công tố viên
  • 44. 44 thực hiện. Như vậy, khái niệm thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được dùng theo nghĩa rộng. Nó không chỉ bao gồm thẩm quyền xét xử theo nghĩa thông thường, mà còn bao gồm cả thẩm quyền đối với hoạt động điều tra và truy tố và trong những chừng mực nhất định, bao gồm cả một số hoạt động liên quan đến thi hành án. 2.2. Phân loại thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế 2.2.1. Thẩm quyền dựa trên sự chấp thuận và thẩm quyền bắt buộc Nếu căn cứ vào cơ sở hình thành nên thẩm quyền thì thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế có thể được phân làm hai loại là thẩm quyền dựa trên sự thỏa thuận của các quốc gia và thẩm quyền được áp đặt từ bên ngoài hay còn gọi là thẩm quyền bắt buộc. Giống như các tổ chức quốc tế và các cơ quan tài phán quốc tế, hầu hết các thiết chế xét xử hình sự quốc tế cho đến nay đều được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia. Sự thỏa thuận này không chỉ được biểu hiện trong giai đoạn hình thành các thiết chế, xác định nội dung, giới hạn của thẩm quyền, mà còn được thể hiện trong cả quá trình thực hiện thẩm quyền đó, đảm bảo tính chính đáng và hiệu quả hoạt động của các thiết chế. Việc xác lập và thực hiện thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế dựa trên sự thỏa thuận giữa các quốc gia là biểu hiện của sự tôn trọng chủ quyền quốc gia. Về nguyên tắc, hoạt động trấn áp các tội phạm hình sự là một nội dung thẩm quyền thuộc chủ quyền quốc gia. Để các cơ quan tài phán quốc tế có thể xét xử được các tội phạm này, thì cần phải có sự “chuyển giao” hay “ủy quyền” thẩm quyền từ của các quốc gia cho các tòa án quốc tế. Trong một số trường hợp, một số thiết chế xét xử hình sự quốc tế được thành lập và thực hiện thẩm quyền mà không có sự thỏa thuận, chấp thuận
  • 45. 45 trực tiếp của quốc gia có liên quan. Đó là trường hợp của Tòa án Nurember, Tòa án Tokyo ra đời sau Đại chiến Thế giới Thứ hai, cũng như các Tòa Nam tư cũ và Ruanđa ra đời sau thời kỳ Chiến tranh lạnh. Các tòa án này hoặc được thành lập chỉ trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các quốc gia thắng trận hoặc trên cơ sở quyết định đơn phương của một tổ chức quốc tế nhằm xét xử các tội phạm là công dân của những quốc gia mà không có sự thỏa thuận trực tiếp của những quốc gia đó. Trong những trường hợp này, có thể coi yêu cầu tôn trọng chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực trấn áp các tội phạm quốc tế đã bị đặt xuống vị trí thứ yếu so với nhu cầu gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế thông qua việc trừng phạt những hành vi tội phạm nghiêm trọng nhất, xâm hại đến lợi ích của cả cộng đồng quốc tế. 2.2.2. Thẩm quyền ưu tiên và thẩm quyền bổ sung Nếu đặt trong mối quan hệ với thẩm quyền xét xử hình sự quốc gia, thì thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế có thể được phân làm hai loại là thẩm quyền ưu tiên và thẩm quyền bổ sung. Trong trường hợp thứ nhất, thẩm quyền của các thiết chế xét xử hình sự quốc tế phải được ưu tiên so với thẩm quyền xét xử hình sự của các quốc gia. Thẩm quyền xét xử hình sự quốc tế được ưu tiên trong những trường hợp quốc gia không mong muốn trừng trị hành vi tội phạm, hoặc các thiết chế tư pháp quốc gia không thể đáp ứng được những tiêu chuẩn tối thiểu để có thể thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử hiệu quả. Trong trường hợp này, nhu cầu trấn áp tội phạm, phục hồi công lý đã được đặt cao hơn yêu cầu tôn trọng chủ quyền của quốc gia. Thông thường, những thiết chế hình sự quốc tế được thành lập trên cơ sở bắt buộc, không có sự thỏa thuận trực tiếp của các quốc gia cũng là những thiết chế có thẩm quyền ưu tiên so với thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia.