SlideShare a Scribd company logo
1 of 109
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI
LÃ VĂN PHÚ
KHOÁ 2011-2013
ĐỀ TÀI
KIẾN TRÚC DECONSTRUCTION VÀ KHẢ NĂNG
ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC
Hà Nội , năm 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI
LÃ VĂN PHÚ
KHOÁ 2011-2013
ĐỀ TÀI
KIẾN TRÚC DECONSTRUCTION VÀ KHẢ NĂNG
ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành :KIẾN TRÚC
Mã số : 60.58.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS.KTS. NGUYẾN TRÍ THÀNH
Hà nội – 20.…
3
MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài
Deconstruction là một hiện tượng đặc biệt trong văn học nghệ thuật cuối thế
kỷ XX, có cơ sở lý luận bắt nguồn từ quan điểm của một số triết gia đương đại nổi
tiếng như Jacques Derrida, Christopher Norris, Martin Heidegger,.. Thuật ngữ
Deconstruction xuất hiện năm 1988 đánh dấu một sự đổi mới mạnh mẽ trong đời
sống văn hoá nghệ thuật tiếp sau làn sóng Hậu hiện đại. Sau 25 năm, dù đã lan tỏa
khắp các châu lục và được khẳng định bằng cả hình thể, không gian, vật liệu &
công nghệ, nhưng đến nay vai trò tiên phong và ảnh hưởng của Deconstruction vẫn
còn tiếp tục gây tranh cãi. Sự bàn luận đánh giá chưa có hồi kết cho thấy đó vẫn là
một vấn đề rất thời sự về tinh thần sáng tạo, luôn hấp dẫn lôi cuốn các KTS trên cả
phương diện lý thuyết và thực hành.
Trong thực tế, ngay từ những công trình đầu tiên gợi lại Chủ nghĩa kết cấu
Nga thì kiến trúc Deconstruction đã như một lời cảnh báo mổ xẻ và phơi bày
những mặt khuất của đời sống con người và xã hội đương đại. Nhiều học giả nhìn
nhận: đằng sau mỗi công trình Deconstruction - từ lúc còn là đồ án cho đến khi
hoàn thành xây dựng - là những câu truyện ngụ ngôn được kể bằng sắt thép, bê
tông (hay bất cứ thứ gì tạo nên không gian trong thời hiện đại), là một góc nhìn hài
hước châm biếm, hay một vở bi hài kịch quằn quại mà người sử dụng, người xem
và cả công trình cùng là những diễn viên sống động trên sân khấu cuộc đời. Quen
thuộc nhưng cũng rất mới lạ, khiêu khích / xung đột trong sự cùng tồn tại hòa bình,
im lặng nhưng khuấy động cả không gian và ý thức,.. - đó là những yếu tố lý giải
cho việc kiến trúc Deconstruction có thể được chấp nhận ở nhiều quốc gia trên
khắp thế giới, và gần đây đã xuất hiện ở Việt Nam.
Từ một góc độ khác, kiến trúc là “đứa con tinh thần”, phản ánh nhận thức &
cảm thụ của người KTS trước hiện thực xã hội. Bản thân học viên - tuy mới dấn
bước theo con đường học thuật vào không gian kiến thức mênh mông của nhân
loại - nhưng cũng nhận thấy hàm ý sâu xa của tư tưởng Deconstruction không phải
chỉ là thể hiện những mâu thuẫn / xung đột của cuộc sống, mà là phá bỏ những rào
cản, tháo gỡ những trói buộc, vượt qua những giới hạn,.. Chọn đề tài “Kiến trúc
Deconstruction và khả năng ứng dụng ở Việt Nam” để làm luận văn, học viên
mong muốn có cơ hội được tìm hiểu và đóng góp một vài kiến giải khiêm tốn của
mình cho việc nhận thức vấn đề này.
2. Mục đích & nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là:
4
- Nhận thức vai trò, vị trí và ảnh hưởng của trào lưu Deconstruction trong
kiến trúc đương đại.
- Nhận định khả năng ứng dụng & phát triển Deconstruction ở Việt Nam
trên các phương diện nội dung, hình thức và tính khả thi.
Học viên xác định các nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm:
- Tìm hiểu bối cảnh hình thành và quá trình phát triển của trào lưu De-
construction trong nghệ thuật nói chung và kiến trúc nói riêng.
- Làm rõ quan điểm chủ đạo, các đặc trưng về nội dung, hình thức và điều
kiện thực hiện của kiến trúc Deconstruction.
- Xác định mức độ phù hợp của kiến trúc Deconstruction với các điều kiện
kinh tế - kỹ thuật & văn hóa - xã hội ở Việt Nam.
3. Đối tượng & phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là nội dung tư tưởng và hình thức
biểu đạt của các công trình kiến trúc Deconstruction.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian được giới hạn trong nửa cuối thế kỷ XX
(chính xác hơn là từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay). Phạm vi về không gian
được giới hạn chủ yếu ở các nước phương Tây (châu Âu, Bắc Mỹ & Nhật Bản),
đặc biệt tập trung vào những lý luận và công trình tiêu biểu của các KTS
Deconstruction tiên phong. Ngoài ra, nghiên cứu của luận văn cũng đề cập đến
những trào lưu kiến trúc có sự giao thoa và tương tác với Deconstruction trong quá
trình phát triển, cũng như một số công trình theo xu hướng này ở khu vực Đông
Nam Á, trong đó có ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sưu tầm tư liệu, trích lục từ các sách báo /
tạp chí / ấn phẩm về kiến trúc Deconstruction.
Phương pháp hồi cứu: kế thừa các nghiên cứu lý thuyết đã có.
Phương pháp hệ thống hóa và quy nạp các yếu tố tương đồng.
Phương pháp phân tích so sánh: đối chiếu bối cảnh hình thành và phát triển
của kiến trúc Deconstruction ở phương Tây với các điều kiện ở Việt Nam.
Phương pháp điều tra XH học: thu thập ý kiến phản ánh tâm lý / thái độ của
số đông người tiếp cận sử dụng công trình kiến trúc Deconstruction.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Góp phần nâng cao nhận thức về một trào lưu chủ đạo và có sức lan tỏa
mạnh của kiến trúc đương đại. Cung cấp thông tin học thuật có giá trị tham khảo
để ứng xử phù hợp với Deconstruction trong quá trình hội nhập quốc tế.
5
7. Cấu trúc luận văn
Mở đầu. Giới thiệu chung.
Chương 1. “Trào lưu Deconstruction trong kiến trúc đương đại thế giới”. Cái
nhìn tổng quát về kiến trúc Deconstruction (quá trình hình thành và phát triển, các
tác giả & tác phẩm tiêu biểu, sự nhìn nhận & đánh giá chung).
Chương 2. “Cơ sở lý luận và thực tiễn để nhìn nhận và đánh giá kiến trúc
Deconstruction”. Bao gồm các vấn đề: bối cảnh VH-XH dẫn tới sự hình thành và
phát triển của De-Construction; nội dung tư tưởng và các thủ pháp biểu đạt của De-
Construction: các trào lưu kiến trúc có liên hệ với De-Construction.
Chương 3. “Nhận định về kiến trúc De-Construction & khả năng ứng dụng ở
Việt Nam”. Vai trò, vị trí, ảnh hưởng của Deconstruction trong kiến trúc đương đại
thế giới và ở Việt Nam.
Phần Kết luận & Kiến nghị: tóm tắt các kết quả đã đạt được và những vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Trào lưu De-Construction trong kiến trúc đương đại thế giới.
1.1. Sự hình thành và phát triển của kiến trúc De-Construction.
1.1.1. Sự xuất hiện thuật ngữ “Kiến trúc De-Construction”.
1.1.2. Những thử nghiệm tiên phong giai đoạn 1970-1980.
1.1.3. Sự lan tỏa của kiến trúc De-Construction những năm 1990-2010.
1.2. Các tác giả & tác phẩm De-Construction tiêu biểu.
1.2.1. KTS Peter Eisenman (Mỹ)
1.2.2. KTS Bernard Tschumi (Mỹ)
1.2.3. KTS Frank O.Gehry (Mỹ)
1.2.4. KTS Daniel Libeskind
1.2.5. KTS Rem Koolhaas (Hà Lan)
1.2.6. KTS Zaha Hadid (Anh)
1.3. Những nghiên cứu & đánh giá về kiến trúc De-Construction.
1.3.1. Những nhận xét của BGK giải Pritzker.
(về F.O.Gehry, R.Koolhaas, Z.Hadid, T.Mayner / Morphosis)
1.3.2. Nhận định về De-Construction trong các nghiên cứu lý luận & lịch sử.
1.3.3. Hướng nghiên cứu của Luận văn
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn để nhìn nhận và đánh giá kiến trúc De-
Construction
2.1. Bối cảnh VH-XH dẫn tới sự hình thành và phát triển của De-Construction.
2.1.1. Sự khủng hoảng của Chủ nghĩa hiện đại (1950-1960).
(Những phê phán trên phương diện lý luận - phê bình & sự phản kháng
bằng thực hành).
2.1.2. Sự bùng nổ các trào lưu Văn hóa Hậu Hiện đại (1970-1980).
2.1.3. Những xu thế lớn của XH đương đại (cuối tkXX, đầu tkXXI).
2.2. Tư tưởng triết học của De-Construction.
2.2.1. Triết học De-Construction trong nghệ thuật
2.2.2. Mối quan hệ với Cấu trúc luận & Hậu Cấu trúc luận.
2.2.3. Mối quan hệ với triết học Hậu Hiện đại
7
2.3. Các thủ pháp & ngôn ngữ biểu đạt của kiến trúc De-Construction
2.3.1. Các thủ pháp De-Construction
2.3.2. Ngôn ngữ hình thức De-Construction
2.3.3. Tiền đề kỹ thuật của De-Construction
3.4. Các trào lưu kiến trúc có ngôn ngữ biểu hiện tương tự như De-
Construction.
3.4.1. Phi kiến trúc (De-Architecture) ở Mỹ.
3.4.2. Hậu Chuyển hóa luận (Post-Metabolism) ở Nhật Bản.
3.4.3. Hi-Tech & Super Hi-Tech
Chương 3. Nhận định về kiến trúc De-Construction & khả năng ứng dụng ở
Việt Nam
3.1. Nhận định về Kiến trúc De-Construction.
3.1.1. De-Construction nhìn từ góc độ hình thức.
3.1.2. De-Construction nhìn từ góc độ tư tưởng.
3.1.3. Ảnh hưởng của De-Construction trong kiến trúc đương đại
3.2. Kiến trúc De-Construction ở Việt Nam.
3.2.1. Những hiện tượng De-Construction ở Việt Nam.
3.2.2. Định danh “De-Construction” trong tiếng Việt.
3.2.3. Khả năng ứng dụng De-Construction trong thực tế.
Kết luận & Kiến nghị. 
1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Trào lưu De-Construction trong kiến trúc đương đại thế giới.
1.1. Sự hình thành và phát triển của kiến trúc De-Construction.
1.1.1. Sự xuất hiện thuật ngữ “Kiến trúc De-Construction”.
"Deconstruction" là thuật ngữ xuất hiện vào cuối những năm 1960- từ một
trường phái triết học bắt nguồn tại Pháp. Theo Từ điển Lý luận phê bình (London,
Blackwell - 1996): Deconstruction là trường phái triết học và phê bình văn học được
thể hiện trong những bài viết của nhà triết học Pháp Jacques Derrida và nhà phê
bình văn học Mỹ gốc Bỉ Paul De Man. Deconstruction được mô tả chính xác nhất là
một lý thuyết đọc hướng tới việc làm suy yếu logic của sự đối lập trong những văn
bản.
Trong Từ điển tiếng Pháp, thuật ngữ Deconstruction được giải nghĩa theo hai
cách:
a) Về ngữ pháp: chỉ sự thay đổi, sự ngắt quãng cấu trúc và bố cục của từ trong
câu với mục đích tạo ra nghĩa khác, nghĩa mới với những từ tương tự.
b) Về cơ học: chỉ sự tháo rời, tháo dỡ, phân rã.
Hai nghĩa này của Deconstruction dẫn đến những hệ quả trái ngược: về ngữ
pháp (quan hệ) nó có thể tạo ra những cái mới, nhưng về cơ học (toàn thể) thì nó chỉ
tiêu hủy / làm tan vỡ cái đã có. Trong các ngôn ngữ gốc Latin, cấu trúc từ có tiếp
đầu ngữ De- thường mang nghĩa «làm ngược lại / phủ định» sự việc / hành động
gốc, hoặc là «sự tháo bỏ / di chuyển» (VD mạnh nhất là Destroy / Destruction = phá
hủy). Trong Deconstruction (tiếng Anh), thì Construction có nghĩa «sự giải thích /
đặt câu / xây dựng», xuất phát từ các động từ Construct (= xây dựng / kiến tạo /
dựng hình) và Construe (= diễn dịch / ghép từ / phân tích cú pháp / dịch nôm).
Deconsstruction trong kiến trúc - hay «Kiến trúc Deconstruction» - xuất hiện
muộn hơn, từ sau cuộc triển lãm «Deconstructivist Architecture» tại Bảo tàng Nghệ
thuật hiện đại New York (MoMA) năm 1988, với sự tham gia của Peter Eisenman,
Bernard Tschumi, Frank O.Gehry, Rem Koolhaas, Daniel Libeskind, Zaha Hadid và
Coop Himmelblau, dưới sự bảo trợ của Philip Johnson. Trước đó, tháng 3/1988, tại
Tate Gallery cũng mới tổ chức cuộc Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về
«Deconstructivist Art and Architecture». Năm 1988, chỉ có P.Eisenman &
B.Tschumi là đã nổi tiếng với những tác phẩm theo đuổi tư tưởng Deconstruction,
còn F.O.Gehry, D.Libeskind, Coop Himmelblau,.. mới có 1-2 công trình đầu tiên
được xây dựng.
Deconstructivism = De-Constructivism (-> tư tưởng)
= De-Constructive = De-Construction (-> hành động)
2
Là một thuật ngữ tương đối mới và có nhiều sắc thái ý nghĩa, nên
Deconstruction được chuyển nghĩa sang tiếng Việt theo nhiều cách khác nhau và
việc sử dụng cũng không thống nhất (tùy từng tác giả / từng lĩnh vực): Giải tỏa kết
cấu / Giải tỏa cấu trúc / Phi xây dựng / Phi kiến tạo - thậm chí có cả dạng rút gọn là
Giải cấu trúc.
1.1.2. Những thử nghiệm tiên phong giai đoạn 1970-1980.
C¸c trµo l−u HËu HiÖn đ¹i (Post-Modernism) xuÊt hiÖn trong nh÷ng n¨m
1970-1980 khi kiÕn tróc hiÖn ®¹i béc lé nhiÒu nh−îc ®iÓm. Giíi kiÕn tróc trë nªn
hoµi nghi nh÷ng lý t−ëng cña kiÕn tróc HiÖn ®¹i. Trái ngược với khẩu hiệu “Less is
More” của Mies Van de Rohe là sự xuất hiện các chi tiết trang trí, tính đa nghĩa của
biểu tượng trong kiến trúc. Ngày15/7/1972 được Charles Jencks gọi là ngày “khai
tử” Kiến trúc Hiện đại khi khu chung cư Pruitt Igoe tại S.Louis (Mỹ) - một tác phẩm
Hiện đại khá nổi tiếng của KTS. Minoru Yamasaki - bị chính quyền cho nổ mìn phá
bỏ.
Thêi ®iÓm ®−îc coi nh− sự toàn thắng của KiÕn tróc HËu HiÖn đ¹i lµ triÓn
l·m kiÕn tróc Bienale-80 tại Venice (Italia) n¨m 1980 víi hµng d·y pano tr−ng bµy
c¸c t¸c phÈm theo nh÷ng phong c¸ch mµ sau ®ã ng−êi ta gäi lµ kiÕn tróc thêi HËu
hiÖn ®¹i.
Các nhà phê bình bắt đầu mổ xẻ lý luận của chủ nghĩa hiện đại, và ngay cả
các KTS bậc thầy cũng không kiên trì được với đường lối của chính mình. Tiêu biểu
là Philip Johnson - tuyên bố kiến trúc hiện đại đã kết thúc, phê phán các quan điểm
của thầy mình là Mies Van Der Rohe, thử nhiệm chủ nghĩa phục cổ (với công trình
trụ sở hãng AT&T, 1978). Về sau Johnson cũng có những tác phẩm có giá trị về
hình khối & nghệ thuật, nhưng các KTS đã thất vọng với việc áp dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật vào giải quyết các vấn đề xã hội trong bối cảnh của Chủ nghĩa tư
bản lũng đoạn, đặc biệt là khi năng lượng nguyên tử được sử dụng vào chế tạo vũ
khí. Nhiều KTS không còn tin vào khả năng của kiến trúc giải quyết các vấn đề xã
hội của tầng lớp dân nghèo và chuyển sang phục vụ các nhà giàu.
Deconstruction xuất hiện 10-15 năm sau, khi những trào lưu rầm rộ ban đầu
của Postmodernism đi vào bế tắc. Trong sách “Ngôn ngữ kiến trúc Hậu Hiện đại”
(Charles Jenks, 1977), Deconstruction chưa có tên trong số 7 xu hướng được phân
lập, chỉ có 1-2 công trình nhà ở nhỏ của Peter Eisenman (VD: House 3, Lakesville,
1971) được xếp vào xu hướng “Không gian HHĐ”. Tuy nhiên, trong giai đoạn này
(thậm chí sớm hơn) đã xuất hiện những công trình tiên phong mang hơi hướng
Deconstruction, tìm cách thoát khỏi những quan điểm giáo điều gò bó cứng nhắc
của kiến trúc Hiện đại, thể hiện thái độ mỉa mai phê phán, thậm chí là phá phách,
không tuân theo những quy luật thông thường.
3
Sớm nhất (ngay từ những năm 1960-) có thể kể đến một số công trình của
Louis Kahn, Paul Rudolph (với sự phân lập & tách rời các cấu trúc chức năng), hay
tổ hợp nhà ở Habitat 67 của Moshe Safdie tại Triển lãm quốc tế Toronto, Canada
(phức hợp lộn xộn thay cho cái hợp khối đơn nhất). Sang thập kỷ 1970- là nhóm
SITE (với 4 thủ lĩnh là các KTS Alison Sky, Emilio Sousa, Michelle Stone, James
Wines). Trung tâm Pompidou ở Paris (KTS R.Piano & R.Roggers, 1977) cũng có
thể được xem là mang tinh thần Deconstruction khi “lộn trái” / phơi bày các hệ
thống kết cấu và kỹ thuật ra bên ngoài.
Chuỗi cửa hàng BEST, Mỹ, 1970-1980. Nhóm SITE.
Nhóm SITE với trào lưu Phi kiến trúc (De-Architecture) -> triết lý về cái phi
lý (được dùng để thay thế cho cái duy lý, chống lại sự cố định bất biến / sự đơn giản
hóa giả tạo không đúng với thực tế) -> thủ pháp của sự dở dang / đứt gãy / nghịch
đảo.
Các phương án đều cố thể hiện triết lý về sự dở dang, tạo ra những ấn tượng
ngược đời như sự đổ nát, sự bập bênh, sự nứt toác,.. trái ngược với ý niệm BEST =
tốt nhất - nhằm kích thích trí tò mò của khách hàng trong một XH tiêu thụ thừa mứa.
Cửa hàng “Bập bênh” (Towson, Maryland, 1976-78) với bức tường khổng lồ
(80mx16m, dày 30cm, nặng 450 tấn) đặt nghiêng trên mặt đứng tạo nên “trạng thái”
căng thẳng khi người ta thường xuyên phải qua lại bên dưới, với ấn tượng là nó
được xây một cách cẩu thả thay vì phải hoàn hảo nhất và đã đến lúc phải dỡ bỏ.
Hiệu quả thú vị khác là tính chất nước đôi khiến người ta phải tự hỏi: nó đang bị hạ
xuống hay đang được kéo lên?
Cửa hàng “Bóc vỏ” (Virginia, 1971-72) với mặt tiền uốn cong như đang bị
bóc ra hay đang được dán vào?
Cửa hàng “Mặt đứng vô định” (Texas, 1974-75) với mặt tiền đổ nát và dòng
thác gạch đổ xuống mái hiên trên lối vào - đang xây dựng dở dang hay đang bị đổ
vỡ?
Cửa hàng “Lỗ khấc” (Sacramento, California, 1976-77) có lối vào ở góc như
vừa bị đứt rời ra khỏi khối nhà chính, tạo cảm giác tò mò, thú vị cho những người đã
quen với sự thứ mứa “tính hoàn chỉnh của vật chất”. Nghe như có tiếng cười tinh
quái, mỉa mai vọng ra từ bên trong công trình, phê phán XH thiên về tiêu thụ.
Cửa hàng Cutler Ridge (Miami, Florida, 1978-79) với mặt tiền bị tách thành 4
lớp.
Phương án “Bến xe ma” ở Connecticut (1977-1978) cho thấy Triết lý của
SITE về sự đảo ngược, với hình ảnh mặt sân trải nhựa đường lại phủ lên những
4
chiếc ô tô một cách trái khoáy. Còn phương án cải tạo nhà máy “Molino Stucky”
(Bienale Venice 1975) lại tạo nên những cách nhìn độc đáo của triết lý “đảo ngược”:
ngôi nhà đang từ dưới nước đi lên hay đang chìm dần xuống nước? Mặt đứng ngôi
nhà là mặt nước dựng lên, hay mặt sân đi dạo là mặt nhà hạ xuống?... Điều lý thú là
những ý tưởng lập lờ này lại là những điểm thu hút mạnh mẽ nhất, lôi cuốn được sự
chú ý của mọi người đối với phương án.
House VI, Connecticut, 1972-1975. KTS Peter Eisenman
House VI là công trình nổi tiếng nhất trong chuỗi các nhà ở gia đình được
P.Eisenman thiết kế trong những năm 1970- như: House II (Vermont,1969); House
III (Lakesville, 1971), House IV, House X (Michigan, 1978), House XI A (1978-
80),.. - ông mượn chúng để thử nghiệm và thể hiện tư tưởng của mình.
Toàn bộ ngôi nhà giống như những chiếc container xếp chồng lên nhau, tạo
nên một thứ không gian ba chiều được xử lý rất đặc biệt, trong đó những khoảng
trống không rõ ràng hoặc có một cái cột như vô tình đi xuyên qua nhà, một cầu
thang lộn ngược sơn màu đỏ trên đầu cầu thang chính, gây nên một sự chói mắt bất
thường. Có chỗ Peter Eisenman còn sử dụng sàn kính và cố tránh không cho ngôi
nhà có một khu trung tâm nào rõ ràng cả. Điều quan trọng nhất ở công trình này là
tác giả đã tạo dựng được một sự biến đổi không ngừng về môi trường, ánh sáng,
bóng râm, màu sắc và kết cấu.
Công viên La Villette, Paris, Pháp, 1982-1990. KTS Bernard Tschumi.
Cuộc thi thiết kế công viên La Villette được chính phủ Pháp tổ chức năm
1982, mục đích vừa để phát triển văn hoá & kinh tế cho khu vực then chốt của Paris,
vừa để bày tỏ quan điểm thiết kế của thời đại. Cũng như các dự án lớn khác như nhà
hát Opera ở Bastille, Louvre, La Defence, cuộc thi này là tâm điểm của nhiều cuộc
bút chiến, bắt đầu từ các nhà thiết kế cảnh quan phản đối dữ dội ý tưởng thách thức
của các KTS, sau đó là những thay đổi của chính phủ & các cuộc khủng hoảng ngân
sách khác.
Công viên La Villette nằm ở địa điểm lớn cuối cùng còn lại của Paris, rộng
125 ha phía đông bắc thành phố, giữa ga metro Porte de Patin & Porte de la Villette.
Một cạnh dài hơn 1km, cạnh kia dài 700m. Bernard Tschumi đã dựng một lưới ô
vuông khổng lồ rải kín toàn bộ công viên, định vị bằng những kiến trúc thép tráng
men đỏ cách đều nhau 120m. Các kiến trúc bằng thép đó có dáng vẻ của những
công trình đổ nát & bị biến dạng một cách kỳ dị. Các thành phần chức năng của
công viên đã được sắp xếp trên cơ sở lưới ô vuông đó, biểu hiện một quá trình tái
lập trật tự, chính vì vậy tổng thể công viên giống như một công trường đang xây
dựng dở dang. Đồ án này cũng đề xuất một phương pháp thiết kế quy hoạch táo bạo
5
bằng cách chồng lớp các bản vẽ giải trình ý đồ kiến trúc & các yêu cầu chức năng
khác nhau để tạo nên một bố cục có tính ngẫu nhiên.
Viện nghiên cứu năng lượng mặt trời Stuttgart (1987). KTS Gunter Benish
Các bộ phận công trình chồng lên nhau không theo một trật tự nào cả và chất đống
một cách tùy tiện. Bề mặt tầng một trong suốt nhìn từ phía ngoài, nằm chìa ra,
chênh vênh so với tầng trệt. Một ống màu đỏ sặc sỡ chẳng làm gì cả, xuyên qua tòa
nhà từ trên mái kính xuống nền nhà...
Văn phòng luật sư Shuppich (1982-1988) Áo. KTS. Wolf Prix & Helmut
Swiezinsky (Coop Himmelblau)
Công trình có bộ mái bằng kính xanh phủ lên bộ mái của căn hộ kiểu cũ. Đòn tay
của mái vượt qua một khoảng không cũng xuất phát từ một khối lộn xộn dường như
muốn chọc vào mặt trước cũ kỹ của ngôi nhà & sẵn sàng đâm thủng nó.
1.1.3. Sự lan tỏa của kiến trúc De-Construction những năm 1990-2010.
Với những thành tựu của Deconstruction trong các lĩnh vực ngôn ngữ học và
văn học nghệ thuật, sau cuộc triển lãm năm 1988, kiến trúc Deconstruction bắt đầu
được đón nhận cởi mở và có sự lan tỏa mạnh mẽ - thậm chí là bùng nổ, với những
“hiện tượng” như D.Libeskind, Z.Hadid và hàng loạt KTS khác. Trong 20 năm gần
đây, Giải thưởng Pritzker đã được trao cho các KTS Deconstruction đầu đàn
(F.O.Gehry - 1989, R.Koolhas - 2000, Z.Hadid - 2004) và một số KTS theo đuổi tư
tưởng hoặc khai thác các yếu tố biểu đạt của xu hướng này (Herzog & de Meuron -
2001, Thom Mayne - 2005).
Tòa nhà văn phòng Nunotani, Tokyo, 1990-1992. KTS Peter Eisenman
Hình thức bên ngoài công trình gây ấn tượng thật sự hồi hộp, lo ngại về khả
năng sụp đổ của nó, toàn bộ ngôi nhà dường như đang sụp xuống và trong giây lát
sẽ chỉ còn là những mảnh vụn. Bên trong công trình, những dầm, cột và các thanh
BTCT không có chức năng rõ ràng tạo nên một khung cảnh “rối rắm”. Sàn các tầng
vẫn hoàn toàn bằng phẳng, có thể đi lại dễ dàng, nhưng khung cảnh chung vẫn khiến
cho người ta khó lấy lại được cảm giác thăng bằng. Peter Eisenman đã đưa ra quan
điểm “Phải thay đổi toàn bộ cách phân bố không gian của nhà cửa”. Giống như hầu
hết các công trình của mình trước đó, ông cố tình tạo ra những khối kiến trúc mà
người ta không thể nhận biết gì về sự phân bố không gian cũng như sơ đồ làm việc
của hệ thống chịu lực. Một thủ pháp thường thấy trong công trình của ông là xoay
các lưới cột sao cho không song trùng với hình thể mặt bằng của nó và như vậy có
thể tạo ra được hàng loạt không gian khác nhau.
Trạm cứu hoả Vitra (Weil, Đức). KTS Zaha Hadid, 1992-93
6
Trạm cứu hoả được đặt bên bờ sông Rhin nên tác giả cố tình tạo cho nó có vẻ
như lún sâu xuống đất nói lên mối quan hệ khăng khít giữa công trình với khung
cảnh xung quanh. Một mái che lớn hình tam giác với công dụng không cụ thể nhưng
rất ấn tượng do cái cảm giác xộc xệch & vươn lên trời xanh.
Bảo tàng nghệ thuật Bilbao
Kiến trúc sư Frank O. Gery
Địa điểm Bilbao, Tây ban nha
Thời gian xây dựng 1997
Loại công trình Bảo tàng
Hệ thống kết cấu Khung thép bọc tấm titan
Phong cách ấn tượng mới
Bảo tàng nghệ thuật Bilbao do KTS Frank O. Gery thiết kế, hoàn thành năm 1997
tại TP Bilbao Tây ban nha. Kết cấu khung thép, vách ngoài bọc Titanium. Công
trình đuợc thực hiện nhờ sự hỗ trợ của máy tính kế hợp với trí tưởng tượng phong
phú của một nghệ sỹ tạo hình có tầm cỡ thế giới. Hiệu quả quan trọng nhất là sức lôi
cuốn của những hình thể kỳ dị như những cuộn giấy bạc vừa được thả bung ra với
lớp bề mặt được bao phủ bằng titanium luôn phản chiếu ánh sáng mặt trời.
1.2. Các tác giả & tác phẩm De-Construction tiêu biểu.
1.2.1. KTS Peter Eisenman (Mỹ)
Peter Eisenman (sinh ngày 11/8/1932) KTS người Mỹ gốc Do Thái. Sáng
tác của ông gắn liền với sự phát triển từ Hậu Avant-garde, Hậu hiện đại đến
Deconstruction. Eisenman là KTS tiêu biểu của Deconstruction, là 1 trong 6 KTS
tiên phong tại cuộc triển lãm năm 1988. Peter Eisenman có mối quan hệ hợp tác
chặt chẽ với Jacques Derrida - nhà tư tưởng của Hậu cấu trúc luận.
Peter Eisenman là thành viên của nhóm NewYork Five nổi tiếng (cùng với
John Hejduk, Charles Gwathmey, Richard Meier và Michael Graves). Trong khi các
KTS cùng thời thường làm lại các ý tưởng của Le Corbusier, thì 5 người này phát
triển những ý niệm và phong cách độc lập – và P.Eisenman dần định hình xu hướng
Deconstruction.
Các công trình của ông đều sử dụng các thủ pháp ma trận hoá, lưới hoá, giải
phẫu vị trí, hình khối phức tạp, không có một tiêu chuẩn nhất định, vật liệu sử dụng
đa dạng, nhiều mầu sắc đôi khi kỳ dị. Những dầm, cột và các thanh, mảng không có
chức năng rõ ràng tạo nên một khung cảnh “rối rắm” bên trong công trình.
Peter Eisenman là Giám đốc sáng lập Viện nghiên cứu kiến trúc & đô thị
kiêm Tổng biên tập tạp chí Oppositions (sự đối nghịch/tương phản) của Viện này.
7
Ông là người có nhiều công trình sáng tạo hơn bất cứ KTS nào khác ngày nay. Tên
tuổi của ông gắn liền với sự nghiệp xây dựng và đưa vào ứng dụng trường phái kiến
trúc của sự đối lập. Dựa trên ý tưởng phá vỡ những lý thuyết giáo điều hiện có, nhất
là về triết học và ngôn ngữ học, Eisenman đã phát triển những công thức ngày càng
phức tạp về quá trình thiết kế kiến trúc, đặc biệt là vai trò của cấu trúc trong xã hội
hiện đại.
Eisenman thuộc nhóm những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại và phong
trào văn học này. Kiến trúc của ông được ví như những tác phẩm văn chương. Do
Deconstruction chủ trương thúc đẩy sự phá vỡ hoặc phân mảnh các biểu tượng hoặc
cấu trúc hiện có vốn không thể có sự thay thế tối ưu, nên Eisenman cũng không thể
đưa ra một giải pháp hoàn toàn mới. Thay vào đó, ông đề xuất một khoảng trống về
tâm lý có thể gây ra những quan ngại về văn hóa và cá tính. Bằng việc đưa giải tỏa
kết cấu và gián đoạn vào những cấu trúc xưa nay vẫn mang tính ổn định và tiện nghi
(như nhà ở gia đình), Eisenman tạo ra những kiến trúc ở ranh giới của thuyết hư vô.
Peter Eisenman chịu ảnh hưởng lớn của triết gia Jacques Derrida. Kiến trúc
của ông xây dựng trên những nguyên lý của các phát minh khoa học. Dành phần lớn
thời gian để viết sách, giảng dạy và phê bình kiến trúc, nhưng cũng có nhiều công
trình được XD như: Trung tâm nghệ thuật Wexner của ĐHTH Ohio (Hình 1) và
trung tâm hội thảo Columbus bang Ohio (Hình 2). Các công trình này đều có chung
một đặc điểm là hình khối phức tạp, không theo một tiêu chuẩn nhất định mà có vẻ
như được thêm thắt dần, vật liệu sử dụng đa dạng, nhiều mầu sắc đôi khi kỳ dị.
Cao ốc văn phòng ở Phố Tây (West Street, Battery Park - đoạn giữa mốc 0 và khu
Wintergarden tại Trung tâm Tài chính Thế giới - World Financial Center). Một số
tác phẩm tiêu biểu:
The Virtual House, Đoạt giải trong cuộc thi ý tưởng phi không gian, 1996.
House II, Harwick, Vermont, 1969 - 1970.
House VI, Cornwall, Connecticut, 1972 - 1975.
House X, Bloomfield Hills, Michigan, 1978.
1.2.2. KTS Bernard Tschumi (Mỹ)
Sinh ngày 25/1/1944 tại Lausanne (Thụy Sĩ). Là KTS, nhà văn, nhà giáo dục,
con trai KTS nổi tiếng Jean Tschumi. Học tập và nghiên cứu ở Paris và ETH
(Zurich) tốt nghiệp năm 1969. Làm việc ở NewYork và Paris, dạy học ở Portsmouth
(UK), Hiệp hội kiến trúc London, ĐH Princeton, Viện nghiên cứu kiến trúc & quy
hoạch New York. Trưởng Khoa Kiến trúc, Quy hoạch & Bảo tồn ĐH Columbia
(1988-2003). Công dân danh dự của Mỹ. Đã đoạt trên 20 giải thưởng về kiến trúc
trong nước và trên thế giới.
Huân chương hoàng gia Victoria, London, 1984.
8
Giải thưởng kiến trúc Mỹ. Chicago Athenaeum, 1999.
Giải thưởng thiết kế AIA New York năm 2001, 2007.
FAS liên đoàn kiến trúc sư thuỵ sĩ 2010.
Công trình tiêu biểu
Cải tạo công viên Parc de la Villette, Paris, France (1983–98)
Sảnh đuờng Alfred Lerner Hall, Columbia University, New York City (1999)
Bảo tàng New Acropolis Museum, Athens, Greece (2002–08)
Trưòng kiến trúc quốc tế Florida FIU School of Architecture, Florida
International University, Miami, Florida (2003)
Vacheron Constantin Headquarters, Geneva, Switzerland (2004)
Lindner Athletic Center, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio (2006)
Blue Condominium, 105 Norfolk Street in the Lower East Side of New York
City (2007)
Limoges Concert Hall, France (2007)
1.2.3. KTS Frank O.Gehry (Mỹ)
Frank Owen Gehry (tên thật là Frank Owen Goldenberg) sinh ngày
28/2/1929 tại Toronto (Canada) trong một gia đình người Do Thái gốc Ba Lan (bố
làm nghề buôn bán vật liệu, mẹ là một một người yêu âm nhạc). Ông hành nghề
kiến trúc tại California.
Triết luận và hình thức kiến trúc của Frank O’Gehry thể hiện ngay từ khi cải
tạo ngôi nhà riêng ở Santa Monica. ông giữ lại căn nhà cũ 2 tầng kiểu Hà Lan (kết
cấu gỗ, mái dốc), phần mở rộng được thiết kế bất quy tắc, sử dụng vật liệu lạ lùng
như tấm tôn, lưới thép, gỗ thanh, ván ép thô, kính có lưới thép,.. Về hình thức ngôi
nhà là một khối xây dựng bất nhất, các bề mặt, đường nét xô lệch nhiều phương.
năm 1978 ngôi nhà đã được giới thiệu như một sự cân bằng chính xác từ từng phần
cho đến toàn cảnh, từ sự thô ráp đến tinh tế, giữa cái mới và nét xưa cũ vốn có của
ngôi nhà gỗ màu hồng.
Các công trình sau này của ông nổi bật với những đường cong tròn trịa,
thường bọc bằng vật liệu kim loại phản xạ. Công trình tiêu biểu và nổi tiếng nhất là
Bảo tàng Guggenheim ở Bilbao - Tây Ban Nha (được bình chọn là công trình kiến
trúc đẹp nhất thế giới 1997). Với diện tích 24.000 m2 bảo tàng được thiết kế thành
một khu trưng bày lớn có hình dáng uốn vặn phức tạp. Toàn bộ công trình có kết
cấu khung thép, bên ngoài bọc titanium diện tích lên đến 2.787.000 m2 tạo một vẻ
đẹp rực rỡ hào hùng. Các hình khối có sức biểu hiện và thu hút rất cao, tạo sự chấn
9
động, một sức truyền cảm nghệ thuật sâu xa và phức tạp. Qua đó, F.O.Gehry nêu ra
những nguyên lý của “Kiến trúc Deconstruction”:
- Làm phân tán và mất trật tự tổ chức bố cục, hình dáng, tỉ lệ,.. trong kiến
trúc.
- Làm mất đi sự hoàn thiện mang tính quy chỉnh truyền thống của sự vật, tạo
cho công trình kiến trúc sự dở dang.
- Làm đột biến, gây ra những sự thay đổi đột ngột.
- Tạo cảm giác động với những hình thái uốn vặn, mất ổn định, phi trọng lực,
gây ấn tượng bay bổng (trái với cân bằng đối xứng thường thấy trong kiến
trúc cổ điển).
- Tạo sự tương phản cực đại giữa các khối kiến trúc mỏng manh bên cạnh
những khối to lớn quá khổ, tạo cảm giác không ổn định, dễ đổ vỡ.
- Tạo lập sự cách tân về hình thức đến mức cao nhất.
Với tư tưởng kiến trúc vững vàng, F.O.Gehry đã thể hiện rõ đặc trưng của “Kiến
trúc Deconstruction” - hình thức vượt quá công năng.
Các giải thưởng
Giải thưởng Arnold W.Brunner về Kiến trúc, Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn
chương Mỹ, 1977
Giải thưởng Pritzker, 1989
Giải thưởng Wolf về Kiến trúc của Quỹ Wolf, 1992
Giải thưởng Hoàng gia về kiến trúc, Hiệp hội Nghệ thuật Nhật Bản, 1992
Giải thưởng Dorothy và Lillian Gish, 1994
Huy chương Quốc gia về Nghệ thuật, (1998)
Giải thưởng Friedrich Kiesler, 1998
Huy chương vàng AIA, Hiệp hội Kiến trúc sư Mỹ (AIA), 1999
Huy chương vàng, Hiệp hội Kiến trúc sư Hoàng gia Anh (RIBA), 2000
Huy chương vàng Kiến trúc, Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ, 2002
Huân chương Canada (Order of Canada), 2002
1.2.4. KTS Daniel Libeskind
Sinh ngày 12/5/1946 ở Łódź (Ba Lan), trong một gia đình Do Thái nạn nhân
Holocaust. Đến New York năm 1959 bằng học bổng của Quỹ VH Mỹ - Israel và trở
thành công dân Mỹ năm 1965.
- Năm 1968 thực tập với KTS Richard Meier. Tốt nghiệp KTS tại ĐH Cooper Union
(1970). tốt nghiệp cao học Lịch sử và lý luận kiến trúc tại ĐH Essex (1972). Có thời
gian làm việc cho New York Institute for Architecture and Urban Studies của Peter
Eisenman.
10
- Quan điểm thiết kế và cảm hứng sáng tác của ông dựa vào 17 “từ khóa”:
Lạc quan & Bi quan, Biểu cảm & Trung lập, Sự khác biệt & Bảo thủ, Cảm xúc &
Lạnh lùng, Giải thích & Hiểu được, Đôi tay & Máy tính, Phức tạp & Đơn giản,
Chính trị & Sự lẩn tránh, Thật & Giả, Đoán trước & Thói quen, Thô mộc & Tinh tế,
Nhọn & Cùn, Đáng ghi nhớ & Có thể quên, Cởi mở & Thầm lặng, Mạo hiểm & An
toàn, Không gian & Thời trang, Dân chủ & Độc đoán.
Daniel Libeskind giảng dạy ở nhiều nơi về lý thuyết kiến trúc. Nhưng mãi đến
1998 mới có công trình đầu tiên được XD hoàn chỉnh (BT Felix Nussbaum ở
Osnabrück, Đức, 1995-98; mở rộng 2010), còn trước đó nhiều thiết kế của ông bị
bác bỏ vì phi kết cấu / không theo quy luật. Sau thành công tiếp theo ở BT Do Thái
Berlin (1999), ông trở nên nổi tiếng với một loạt Bảo tàng có kiến trúc nổi bật và
đặc sắc: BT Nghệ thuật Denver (Mỹ); BT Chiến tranh Đế quốc (Manchester, Anh),
BT Hoàng gia Ontario (Toronto, Canada); BT Do Thái San Francisco (Mỹ); BT Do
Thái Copenhagen (Đan Mạch). Hiện nay, ông mở rộng phạm vi sang các công trình
dân dụng khác, như Trung tâm Wohl tại ĐH Bar-Ilan (Tel Aviv, Israel), Trung tâm
thương mại Westside (Bern, Thụy Sĩ), nhà hát Grand Canal (Dublin, Ireland),.. và
nhiều đồ án nhà ở tại khu vực châu Á.
Ông đã nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có giải thưởng Nghệ thuật Hiroshima
2001 dành cho nghệ sĩ có công trình góp phần vào việc đề cao sự hiểu biết lẫn nhau
và hòa bình trên thế giới. Năm 2003, Libeskind đã thắng trong cuộc thi qui hoạch
tổng thể xây dựng lại khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới tại Lower
Manhattan.
Trung tâm mua sắm Westside ở Bern, Thụy Sĩ
Daniel Libeskind thay đổi diện mạo cho các trung tâm thương mại - “thành phố
trong thành phố” tại cửa ngõ phía tây của Bern. Đó là một không gian công cộng với
các dịch vụ và tiện nghi bất tận, một nơi giao thoa của thương mại và văn hóa trong
một kiến trúc hoàn toàn mới lạ của thế kỷ 21
Đối với một công trình theo chủ nghĩa giải tỏa kết cấu, những đường thẳng, những
hình khối vuông vức, mạnh mẽ, những thông số theo đúng chuẩn mực của kiến trúc
hiện đại bị chối bỏ hoàn toàn. Thay vào đó là những chi tiết móp méo, cong vẹo,
không tuân theo bất cứ quy tắc nào (mà Peter Eisenman gọi là “sự đánh giá lại
không gian kiến trúc”) được tận dụng tối đa.
Chi tiết cấu trúc mặt ngoài của Westside là một cuộc cách mạng so với lối kiến trúc
truyền thống. Cửa sổ hầu hết là những khối hình học bất quy tắc với đủ hình dáng,
từ tam giác, tứ giác đến ngũ giác với đủ kích cỡ lớn nhỏ khác nhau ngả nghiêng hỗn
độn. Bắt nguồn từ ý tưởng “là nơi hội tụ của thương mại, văn hóa và giải trí” nên
ngay cả vật liệu tạo nên công trình cũng là sự tổng hợp đa dạng hài hòa trong một
11
mô hình chặt chẽ. Đó là sự kết hợp của một cấu trúc trông như một khối pha lê, với
bộ khung chống đỡ bằng bêtông cốt thép bao phủ lấy bề ngoài
Những vết cắt trên mái làm thay đổi ánh sáng rọi vào bên trong 2 khối công trình.
Một khối phóng tầm nhìn ra quanh cảnh xung quanh thành phố Bern và nối liền với
hồ bơi của trung tâm, trong khi khối còn lại nằm kề với khách sạn và rạp chiếu
phim.
Những đường gấp khúc bất quy tắc của các bức tường cũng như hệ thống đèn lắp
ngổn ngang như những họa tiết trang trí trong khu mua sắm tạo nên sự thích thú
khám phá và chiêm ngưỡng cho khách hàng khi dạo bước mua sắm qua các cửa
hàng. Hệ thống xà chạy dọc nóc nhà cũng không theo một đường nét cụ thể, tất cả
đều tự nhiên và bản năng đúng theo tinh thần của kiến trúc giải tỏa kết cấu - xu
hướng thịnh hành và phát triển nhất trong thế kỷ 21
(Tổng hợp từ World Architecture và Archtonic)
1.2.5. KTS Rem Koolhaas (Hà Lan)
Rem Koolhaas (sinh 17/11/1944 ở Rotterdam, Hµ Lan), nguyªn lµ phãng
viªn vµ nhµ biªn kÞch, theo häc kiÕn tróc t¹i Tr−êng KiÕn tróc London. ¤ng lµ thµnh
viªn chÝnh cña h·ng OMA (Office for Metropolitan Architecture) vµ bé phËn nghiªn
cøu AMO cña h·ng. ¤ng còng lµ gi¸o s− kiÕn tróc vµ thiÕt kÕ ®« thÞ t¹i §H
Harvard. Gi¶i th−ëng Pritzker 2000.
¤ng lµ KTS ®Çu tiªn biÓu ®¹t mét c¸ch cã hÖ thèng c¸c vÊn ®Ò x· héi vµ
kiÕn tróc cã liªn kÕt chÆt chÏ víi nhau
KiÕn tróc kh«ng ®¬n thuÇn lµ mét c¸i hép v« tri v« gi¸c, mµ lµ ®iÓm giao cña
v« sè sù kiÖn hçn ®én, m©u thuÉn lÉn nhau
KiÕn tróc sÏ ph¸t triÓn theo xu h−íng toµn cÇu ho¸ trong t−¬ng lai víi møc ®é
kh¸c nhau tuú theo tõng khu vùc.
Rem Koolhaas ®· më réng giíi h¹n vèn cã cña kiÕn tróc. ¤ng tËp trung vµo
mèi liªn hÖ gi÷a con ng−êi và kh«ng gian. ¤ng s¸ng t¹o những tßa nhµ, n¬i con
ng−êi gÇn gòi nhau vµ nhê ®ã mµ kiÕn tróc đạt ®−îc c¸c môc tiªu ®Çy tham väng.
¶nh h−ëng cña «ng trªn thÕ giíi ®· v−ît rất xa ngoài giíi h¹n cña kiÕn tróc.
Công trình tiêu biểu
o §¹i sø qu¸n Hµ Lan t¹i Berlin, §øc (Fritzker 2000).
o House of music, Porto, Bå §µo Nha
: x©y dùng thiÕt kÕ t¸o b¹o ®¸nh dÊu mét b−íc ngoÆt trong lÞch sö cña thµnh phè
vµ më ra con ®−êng hiÖn ®¹i. N»m liÒn kÒ víi khu vùc trung t©m lÞch sö cña
thµnh phè nã chiÕm mét kh«ng gian mµ d−êng nh− ®Ó ®−îc chê ®îi trong nhiÒu
n¨m.
o Th− viÖn Trung t©m Seattle Seattle, Hoa Kú
12
Víi diÖn tÝch 34000m2 cã søc chøa 1,45 triÖu cuèn s¸ch, thu hót 2 triÖu l−ît
ng−êi truy cËp trong n¨m ®Çu tiªn. Th− viÖn lµ mét sù xuÊt hiÖn ®éc ®¸o, næi bËt,
bao gåm nh÷ng h×nh khèi rêi r¹c, bång bÒnh, d−êng nh− ®−îc bao bäc trong mét
m¹ng l−íi thÐp lín víi vá bäc lµ kÝnh
o Trung t©m V¨n hãa TruyÒn h×nh B¾c Kinh (TVCC)
o §µi truyÒn h×nh trung −¬ng Trung Quèc (CCTV).
1.2.6. KTS Zaha Hadid (Anh)
sinh ngày 3/10/1950 ở Baghdad, Iraq. Học kiến trúc tại London, một thời gian làm
việc tại OMA (Office for Metropolitan Architecture), là trợ lý cho Reem Koolhas
rồi mở VP riêng. Là nữ KTS đầu tiên giành Giải thưởng Pritzker (2004).
- Các công trình của bà mang nặng tính ý tưởng với những hình khối động và những
giải pháp đặc biệt để để tiếp cận cũng như giải quyết công trình, đột xuất các chiều
hướng
- Hầu hết các công trình của Zaha Hadid đều thể hiện một bút pháp giàu tính biểu
cảm và kịch tính cao giữa hình khối và không gian, khi thì co cụm đông đặc, khi thì
giãn nở một cách bùng nổ.
Công trình tiêu biểu
o Trạm cứu hỏa Vitra, Weil am Rhein, Đức, 1993
o Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Rosenthal, Cincinnati, Ohio, Mỹ, 1998
o Ga phía bắc Hoenheim, Strasbourg, Pháp, 2001
o Cầu trượt tuyết Bergisel, Innsbruck, Áo, 2002
o Ordrupgaard annexe, Copenhagen, Đan Mạch, 2005
o Trung tâm Khoa học Phaeno, Wolfsburg, Đức, 2005
o Ga tàu điện trên cao Nordketten, Innsbruck, Áo, 2005
o Toà nhà trung tâm trong tổ hợp sản xuất xe hơi BMW, Leipzig, Đức, 2005
o Ga tàu điện cao tốc ở Afragola, Ý, 2008
Bảo tàng Eli & Edythe (2012). Michigan State University, East Lansing,
USA
KTS Zaha Hadid & Patrik Schumacher. Diện tích: 46,000 m2
Tận dụng hai mặt phẳng sẵn có từ các dòng lưu thông và kết nối trong khuôn
viên, phần chính của bảo tàng được xây nổi lên với các nếp gấp xung quanh các
diện với không gian ba chiều được xác định. Công trình với sự “vuông vắn, thẳng
thắn” của các con đường tạo ra một cuộc đối thoại mang tính hình học, có phần khác
lạ so với phong cách mềm mại thường gặp của Z.Hadid.
13
Hình thái công trình duy trì một mối quan hệ mở độc đáo dành cho những người còn
lưu luyến với không gian thoáng đãng nơi đây. Bảo tàng ngoài chức năng của mình
sẽ làm tốt nhiệm vụ là một trung tâm văn hóa cộng đồng. Không hề phá vỡ cảnh
quan vốn có, nó điểm xuyết thêm một chức năng cần phải có và hài hòa với tất cả.
o Dongdaemun Design park & Plaza
seoul, south korea
2007- 2013 Dongdaemun Design Plaza & Park (DDP) là một dự án phát triển đô
thị được xây dựng ở Dongdaemun , Seoul , Hàn Quốc . Nó sẽ chứa một công viên
đa dụng, một trung tâm thời trang, trung tâm mua sắm ngầm, và phục hồi của một số
hạng mục của di sản quốc gia. Để thay thế các cựu Sân vận động Dongdaemun , một
sân vận động bóng chày mới sẽ được xây dựng trong Gocheok-dong . 
cảm hứng của trung tâm này cung cấp một liên kết quan trọng giữa các nền văn hóa
đương đại, đồ tạo tác lịch sử và thiên nhiên đang nổi lên tại trung tâm của
Dongdeamun, Seoul. một nguồn lưc học tập cho các nhà thiết kế và các thành viên
của công chúng kết hợp với một ốc đảo đô thị để thư giãn, giải trí và nơi chú ẩn,
cảnh quan liên tục của nó thúc đẩy suy nghĩ chất dịch trên tất cả lĩnh vực thiết kế
o Beko Masterplan
Belgrade, Serbia Lamda phát triển 94.000m2
Dự án foscusses tái tạo đô thị của một trang web quan trọng tại ngã tư của các dự án
văn hóa trọng điểm trong thành phố Belgrade. Theo truyền thông hiện đại mạnh mẽ
của khu vực, quy hoạch tổng thể đã áp dụng khái niệm mới và phương pháp kiểm
tra và tổ chức các chương trình của trang web
Ý tưởng thiết kế đã được công bố cho "quy hoạch tổng thể BEKO" nằm ở trung tâm
của vùng văn hóa Belgrade. Khu phức hợp mới sẽ bao gồm một khu dân cư, không
gian bán lẻ và trung tâm thương mại, trung tâm hội nghị lớn và một khách sạn 5 sao,
nằm bên cạnh bức tường lâu đài lịch sử Kalemegdan. Dự án kết nối các yếu tố cá
nhân của quy hoạch theo một cách duy trì tính độc đáo và tạo ra cảm giác của một
lớp chảy tự nhiên của đô thị, tích hợp hoàn toàn với kiến trúc. Không gian riêng tư
và công cộng chồng chéo nhau như cấu trúc pha trộn vào cảnh quan, tạo ra một loạt
các môi trường năng động trong một cấu trúc liên tục. Mái kéo dài xuống mặt đất.
o Nhà hát Opera Quảng Châu
Diện tích khu đất xây dựng: 70.000 m2
Diện tích xây dựng công trình: 42,393m2
Năm xây dựng công trình: 2003-2010
Đây là dự án đầu tiên của Zaha Hadid tại Trung Quốc. Zaha Hadid cho rằng đó sẽ là
14
một công trình hài hòa với các mối quan hệ theo ngữ cảnh đô thị, kết hợp truyền
thống lịch sử, văn hóa đã định hình của Quảng Châu và sẽ tạo ra một bản sắc mới
trong tương lai, là một biểu tượng của Quảng Châu - một điểm đến văn hóa của châu
Á Tổ hợp công trình rộng 70.000 m2 được đặt tại trung tâm khu đô thị văn hóa với
mục đích tạo nên mối liên kết giữa sông Pearl với phía Nam, phát triển chức năng đô
thị thông qua việc kết nối bờ sông và cảng biển. Hình thức kiến trúc độc đáo với ý
tưởng “những viên sỏi dưới lòng suối được bào nhẵn" bởi dòng chảy lịch sử - văn
hóa.
Công trình gồm hai khối lớn là nhà hát 1.800 chỗ và khán phòng đa mục đích (biểu
diễn nghệ thuật, opera và hoà nhạc...). Khẳng định phong cách kiến trúc của Zaha
Hadid - khái niệm trọng lực dường như không tồn tại, và sự chuyển động của hình
khối.
o Cung thể thao dưới nước London
được xây dựng để phục vụ Thế vận hội mùa hè 2012 tổ chức tại London (Anh).
Phần mái của cung thể thao dưới nước được thiết kế theo đường cong gợn sóng. Ở
phần mái nhô cao vừa mang vẻ đẹp sáng tạo, vừa tận dụng thêm khoảng không gian
cho hàng ghế vòng ở khán đài.
Công trình có một cây cầu dành cho người đi bộ, nối liền giữa cầu Stratford và các
cung thể thao của Thế vận hội mùa hè London 2012. Hơn 2/3 khán giả dự kiến sẽ di
chuyển bằng lối này. Phía dưới cây cầu là hồ bơi huấn luyện hiện đại, phần mái thiết
kế mở nên nhận được ánh sáng mặt trời. Hồ thi đấu dài 50m và hồ lặn nằm ở sảnh
lớn.
Phần mái gợn sóng dài 160m và rộng 90m có khung đỡ nặng đến 3.000 tấn
Phần mái gợn sóng của cung thể thao dưới nước là một cấu trúc độc đáo, có chiều
dài 160m và phần rộng nhất là 90m với khung đỡ mái nặng 3.000 tấn. Phần ngoại
thất được phủ lớp sơn màu kim loại và cột gỗ.
o apoli Afragola High Speed Train Station
NAples, Italy
RFI spa
Đang xây dựng
20.000m2
Một cửa ngõ đến Naples, được tổ chức tốt giao thông vận tải trao đổi và chọn một
cột mốc công bố phương pháp tiếp cận đến thành phố. Khái niệm của chúng tôi là
một cây cầu mở rộng qua các bài hát, một đô thị hóa công cộng liên kết được hình
thành bởi một ngôn ngữ kiến trúc năng động hướng tới phát âm của phong trào
15
o Burnham pavillion
Chicago, Hoa Kỳ2009-2009 Diện tích 1200m2
Một gian hàng tạm thời được thiết kế và xây dựng ở công viên Thiên niên kỷ là một
phần lễ kỷ niệm kế hoạch Burnham. phản ánh truyền thống lâu đời của Chicago.
là công trình điêu khắc của Zaha Hadid và Ben van Berkel tại Millennium Park ,
biểu tượng theo đuổi tiếp tục của thành phố tầm nhìn kiến trúc của Kế hoạch với
kiến trúc hiện đại và lập kế hoạch. Những tác phẩm điêu khắc đã được tư nhân tài
trợ và cư trú tại Millennium Park. Các gian hàng được thiết kế để cấu trúc tạm thời.
1.3. Những nghiên cứu & đánh giá về kiến trúc De-Construction.
1.3.1. Những nhận xét của BGK giải Pritzker.
(về F.O.Gehry (http://www.pritzkerprize.com/1989/announcement),
http://architect.architecture.sk/frank-owen-gehry-architect/frank-owen-
gehry-architect.php),R.Koolhaas, Z.Hadid, T.Mayner / Morphosis)
Peter Eisenman (-> đưa vào chương 2 – triết lý / tư tưởng của
Deconstruction qua quan điểm của các tác giả tiêu biểu).
Ông có thấy hạnh phúc
khi nó kết thúc không?
Eisenman: Không.
Chắc chắn không. Nó
cũng giống như nói
rằng bạn hạnh phúc
khi chuẩn bị chết vậy.
Tôi không phải là người đến để hoàn thiện, tôi là người khởi xướng. Và tôi luôn suy
nghĩ, dự án sắp tới chúng tôi sẽ làm là gì, điều đó kích thích tôi. Sự kết thúc, như tôi
vẫn nói, giống sự mang thai của người phụ nữ. Khi sinh con, cô ấy hạnh phúc vì có
nó, nhưng có một cảm giác gọi là thời kỳ suy thoái hậu sinh, khi cô ta không còn
mang đứa trẻ trong bụng nữa. Có gì hứng thú khi quan sát mọi việc kết thúc? Cảm
giác thỏa mãn hoàn thiện ư? Nó có nhiều hơn mức tôi có thể nghĩ không?
Primo Levi (nhà hóa học Italia gốc Do Thái, sống sót sau cuộc thảm sát, là tác giả
của rất nhiều tiểu thuyết, thơ và truyện ngắn về thời kỳ đó) cũng nói về một ý tưởng
tương tự trong cuốn sách về Auschwitz. Ông viết về những người tù, không còn
sống nữa, nhưng cũng chưa hẳn đã chết. Đúng hơn là họ dường như đang bị kéo
xuống địa ngục của chính họ. Tôi chợt nhớ đến những dòng đó khi tôi trông thấy
16
những cái đầu biến mất trong khu tưởng niệm. Bạn sẽ không thường xuyên nhìn
thấy cảnh tượng này đâu, trên một bình diện phẳng như vậy
Tôi nghĩ là nó vẫn quá thẩm mỹ, thiên về tạo hình. Không phải tôi mong nó xấu xí,
nhưng tôi không muốn nó có vẻ như được thiết kế. Tôi muốn những thứ tầm thường,
vô vị. Nếu muốn khoe một bức ảnh, thì hãy khoe đi, đừng mất quá nhiều thời gian
để tỉa tót nó.
Tôi chỉ muốn mọi người có cảm nhận về thực tại, và trải qua một cảm giác mà họ
chưa từng kinh qua bao giờ. Một trong số đó là cảm giác về sự khác biệt, một chút
hoang mang. Thế giới vốn đầy những thông tin mà nơi đây lại không có thông tin gì
hết.
Bernard Tschumi
Bernard Tschumi đã đánh giá lại vai trò của kiến trúc qua việc thực hành của
cá nhân và quan điểm tự do về chính trị. Từ những năm 1970- ông lập luận rằng
không có mối quan hệ cố định giữa hình thức kiến trúc và các sự kiện diễn ra bên
trong nó. Theo ông, kiến trúc không phải để diễn tả một thực thể xã hội, nhưng có
chức năng như một công cụ để tham vấn và sửa đổi cấu trúc của nó.
Những năm 1970- ông giảng dạy ở Hiệp hội kiến trúc London và các dự án
như Screenplays 1977, Manhattan Transcripts 1981. Ông đã kết hợp phim ảnh và lý
thuyết văn học với kiến trúc, mở rộng công việc của các nhà tư tưởng như Roland
Barthes và Michel Foucault nhằm tái kiểm tra trách nhiệm của kiến trúc trong việc
tăng cường các câu chuyện văn hoá không thể chất vấn. Ảnh hưởng lớn tới công
việc này là các lý thuyết và sơ đồ cấu trúc của nhà làm phim nguời Nga Sergei
Einsenstein.
Trong các nghiên cứu của mình, B.Tschumi đã chuyển thể phương pháp đồ
hoạ của Eisenstein để khai thác điều kiện nội tại giữa các yếu tố của hệ thống tạo
thành bởi không gian, sự kiện và chuyển động / hoạt động. Trong tuyên bố về chủ
trương của mình như là “tuyển thủ bóng đá di chuyển ngang qua khắp các chiến
trường”, ông đã làm nổi bật sự đảo lộn định hướng và bất kỳ khả năng của một cách
đọc đơn giản.
Cách tiếp cận này diễn ra trong kiến trúc của ông theo hai cấp: đầu tiên, bằng cách
phơi bày các kết nối thông thường đã được xác đinh giữa trình tự kiến trúc và không
gian, chương trình, và sự chuyển động sản xuất và nhắc lại các trình tự này. thứ hai,
bằng cách sáng tạo những kết hợp mới giữa không gian và các sự kiện diễn ra trong
đó qua các tiến trình xoá bỏ thói quen, giải trừ cấu trúc, siêu áp đặt, và chương trình
chéo.
17
những năm cuối thập niên 70 công việc của tschumi được cải tiến thông qua các
công trình khoa học. Ông giảng dạy ở hiệp hội kiến trúc và các dự án như
Screenplays 1977, Manhttan transcripts 1981 và được phát triển từ các kỹ thuật
dựng phim lấy từ phim và các kỹ thuật của kiến trúc La mã cách tân . ông sử dụng
các yếu tố dựng phim như một kỹ thuật để tổ chức chương trình (các hệ thống
không gian ,sự kiện ,trào lưu, như các kỹ thuật trực quan và chính thức )thách thức
công việc của các kiến trúc sư đương thời đã đang được tiến hành tập trung vào
các kỹ thuật dựng phim như các chiến lược chính thức hoàn toàn. những tác phẩm
của ông đáp ứng những móc nối phổ biến của lý thuyết kiến trúc đương đại  đã đạt
đến điểm hoàn thiện, hoặc qua sự hiểu nhầm của hậu cấu trúc, hoặc lẩm tưởng trong
giấc mơ tự do, tả khuynh của cuộc cách mạng văn hoá chinh trị thành công. Ví dụ,
Superstudio như một nhánh học thuyết của chủ nghĩa kiến trúc hậu hiện đại
Năm 1978, ông xuất bản bài viết “Sự thỏa mãn của Kiến trúc”, trong đó ông
sử dụng quan hệ tình dục như sự tương đồng đặc điểm với kiến trúc. Ông tuyên bố
rằng kiến trúc bởi tự nhiên là vô dụng một cách căn bản, thiết lập ngoài việc "xây
dựng". Ông đòi hỏi sự tôn vinh những điều vô dụng kiến trúc, trong đó sự hỗn loạn
của nhục dục và thứ tự của sự tinh khiết kết hợp để tạo thành cấu trúc gợi lại những
không gian mà trong đó chúng được xây dựng. Ông phân biệt giữa sự hình thành
kiến thức và sự hiểu biết về hình thức, tranh luận rằng kiến trúc là quá thường xuyên
sa thải vì sau đó khi nó thường có thể được sử dụng như trước đây. Bài luận này là
tiền thân của một chuỗi các tác phẩm được gọi Tschumi là “Giới hạn kiến trúc”.
Parc de la Villette năm 1982 tại Paris là công trình công cộng lớn đầu tiên mà
B.Tschumi có thể hiện thực hoá các nghiên cứu thiết kế và lý thuyết đã được thử
nghiệm trong các dự án Manhattan Transcripts & Screenplays. Các trình tự chương
trình, không gian và cảnh quan trong công viên đã được sử dụng để tạo ra các vị trí
thực hành xã hội khác, điều đó thách thức các giá trị sử dụng dự kiến được củng cố
bởi một công viên đô thị lớn ở Paris. (?)
Tschumi tiếp tục quy trình này trong một loạt các cuộc thi và dự án xây dựng từ
năm 1983. Nhà hát Quốc gia Tokyo năm 1986 và Dự án Nhà hát được tiếp tục
nghiên cứu Tschumi bắt đầu trong các bản thảo Manhattan, đưa vào kỹ thuật ký
hiệu từ điệu nhảy thử nghiệm và điểm số âm nhạc, và sử dụng quá trình thiết kế
riêng của mình để thách thức các cách thức của thói quen tư duy về không gian,
trong sự trái ngược với sự tĩnh lặng trước đó, các kỹ thuật biểu hiện không gian hai
chiều trong đó mô tả các phác thảo của một tòa nhà nhưng không phải là cường độ
của cuộc sống bên trong nó. Ở quy mô cục bộ trong cửa hàng video 1990 tại
Groningen, tường trong suốt và sàn nghiêng tạo ra một sự xáo trộn mãnh liệt các đối
tượng liên quan đến tiêu chuẩn như tường, nội thất, ngoại thất và đường nằm ngang.
Ở quy mô đô thị trong các dự án như Le Fresnoy năm 1992 (Triển lãm nghệ thuật
đương đại thế giới ở Tourcoing, Pháp) và trường kiến trúc tại Marne la Vallee, Pháp
18
năm 1995 (cả hai đều hoàn thành năm 1999), các không gian lớn hơn thách thức
các chuỗi chương trình chuẩn mực và được chấp nhận sử dụng. Công trình phức
hợp Le Fresnoy sử dụng không gian giữa những mái nhà của các tòa nhà hiện có và
thêm mái ô lớn ở trên để tạo ra một vùng xen kẽ của công trình trên đường dốc và
sàn diễn. Khu vực này là những gì mà Tschumi gọi là sự nằm giữa, một sự phủ định
hình thức tinh khiết đã được thực hành trong đồ án dự thi Karlsruhe ZKM (1989),
nơi một không gian lớn ở khu vực giữa sảnh được ngắt quãng bởi sự lưu thông
khép kín và các phần nhỏ hơn và tập chương trình nhỏ hơn được phát triển nhiều
hơn một mạng lưới không gian xen kẽ.
6 CONCEPT cơ bản định hình quan điểm kiến trúc của Bernard Tschumi
- CONCEPT 1: Technologies of Defamiliarization (công nghệ phá vỡ thói quen)
Trong giữa thập niên 1970 nhóm nhỏ có ý tưởng khác lạ bắt đầu hình thành từ các
kiến trúc sư khác nhau trên thế giới như ở England,Áo, Hoa Kỳ, Nhật Bản (chủ yếu
là các nước có sự khủng hoảng và ảnh hưởng văn hóa thời hậu công nghiệp) tận
dụng tình trạng tan rã và hời hợt để chống lại chính sự khô cứng quy củ của nó.
Họ đóng vai trò là những người tiên phong phá vỡ các thói quen của chủ nghĩa
hiện đại, phá bỏ những quy tắc lặp lại, sự không cần thiết phải có cửa sổ hay hệ
thống trụ cột và khung chịu lực truyền thống nhàm chán.
Cách mạng công nghiệp trong xây dựng với nhiều ứng dụng cụ thể về thép bê tông
,vật liệu mới và những tiến bộ mang tính chính xác và mô phỏng của công nghệ
thông tin ,hiện thực hóa những yêu cầu của việc phải phá vỡ các thói quen về hình
thức và không gian mà các kiến trúc sư trong giai đoạn tiên phong với những thử
nghiệm nho nhỏ ban đầu đã đặt ra mà trước đó tất cả chỉ dừng lại ở vấn đề ý tưởng
hay đồ án kiến trúc thể hiện quan điểm triết lý và cách cảm nhận, truyền tải về
không gian của kiến trúc sư .
- CONCEPT 2: The Mediated “Metropolitan” Shock (cú shock giữa đô thị)
Đó là những hình ảnh chập chờn, tạo ra các ấn tượng về thị giác. Trong thời đại
của thông tin thuần túy mọi thứ được phổ cập phơi bày thì như Walter Benjamin
(trong tác phẩm “Kỷ nguyên của sinh sản cơ khí”). “Tôi ghét phải trích dẫn một "cổ
điển", điều đó toát lên sự mệt mỏi khi phải tiếp nhận mãi những gì không có sự đổi
mới, sáng tạo mới ngoài những chân lý kèo dài hàng thế kỷ - chúng ta cần những
yếu tố bất ngờ, những yếu tố gây ngạc nhiên, những cú shock thật sự từ hình ảnh.
Nó cũng là đặc thù của các điều kiện đương thời và những điều nguy hiểm bấp bênh
của cuộc sống trong các đô thị hiện đại. Những mối nguy hiểm dẫn đến sự lo lắng
liên tục về việc tìm kiếm chính mình trong một thế giới mà tất cả mọi thứ là không
đáng kể và rẻ tiền. Sự trải nghiệm về các lo lắng như một kinh nghiêm về việc phá
19
vỡ thói quen (ngay cả nếp sống thông thường). Phân tích của Benjamin tương ứng
với các vấn đề khó giải quyết được rõ ràng trong triết học và lịch sử kiến trúc khi
nói đó là một sự đơn giản hay một hình thức nghệ thuật. Kiến trúc và những công
trình đô thị như những nơi để trải nghiệm và thử nghiệm những phản xạ thú vị của
xã hội đương đại. Như “deconstruct and self-destruct” (giải cấu trúc và tự hủy) - ai
đó nhìn thấy vai trò của kiến trúc như việc tái tạo (nhìn) lại thói quen, các bối cảnh,
sự chen lấn, nói một cách khác, có cách nhìn như những người theo chủ nghĩa hậu
hiện đại, chủ nghĩa ngữ cảnh và chủ nghĩa lịch sử, đẩy chủ nghĩa hiện đại trong
kiến trúc về phía sau với những giá trị lịch sử và cổ điển.
Công chúng hầu như luôn đứng sau các giá trị truyền thống, với họ kiến trúc là
sự thoải mái, là chỗ ở, là vật liệu. Tuy nhiên, đối với những người mà kiến trúc
không cần thoải mái (người vô gia cư, người có nhu cầu tối thiểu, hay tội phạm -
những mặt trái song song tồn tại của thời kỳ hậu công nghiệp), cũng là vì tiến bộ xã
hội và phát triển chung, thì các thiết bị tạo sốc có thể là một công cụ không thể
thiếu. Những điều này có thể thấy dễ dàng trong các siêu đô thị từ những giải pháp
không quen thuộc đến các vấn đề thú vị. những sự phân rã xáo trộn xuất hiện nhiều
hơn trong các thể loại công trình đa dạng như những dấu hiệu tích cực đưa khái
niệm shock gần gũi hơn trở thành những điểm nhấn của hàng chuỗi nhàm chán,
ngược với những nỗ lực hoài cổ khôi phục lại những tiếp nối không thể của quá
khứ. Những điều này vẫn diễn ra và phát triển suốt 50 năm sau những lý thuyết của
Benjamin, như minh chứng cho lý thuyết tạo “Shock” của ông. Những nhu cầu thay
đổi không ngừng tăng lên trái ngược với những gì là hời hợt nông cạn, những nhu
cầu tầm thường được giới truyền thông đánh bóng rồi nhanh chóng chìm vào dĩ
vãng, làm đảo lộn nhận thức, hiểu lầm các giá trị đích thực, không đồng nghĩa với
việc làm suy yếu biểu tượng kiến trúc như việc làm suy giảm sức mạnh và quyền
lực đã diễn ra trong lịch sử.
- CONCEPT 3: De-structuring (Giải cấu trúc)
sự “suy yếu” này của kiến trúc, mối quan hệ đã thay đổi giữa cấu trúc và hình
ảnh, cấu trúc và lớp vỏ - là đề tài thú vị để xem xét dưới ánh sáng của một cuộc
tranh luận gần đây trong giới kiến trúc, cụ thể là: cấu trúc so với vật trang trí. Từ
thời Phục Hưng, lý thuyết kiến trúc luôn luôn phân biệt cấu trúc với trang trí, và đặt
ra hệ thống phân cấp giữa chúng. Theo Leon Baptista Alberti, "trang trí có đặc điểm
của một cái gì đó được đính kèm hoặc bổ sung". Trang trí được hiểu là phụ gia, nó
không thách thức hoặc làm suy yếu cấu trúc. Nhưng những gì tạo ra hệ thống phân
cấp này theo nghĩa ngày nay, khi cấu trúc thường vẫn giữ nguyên - một mạng lưới
lặp đi lặp lại và vô hiệu hóa ?
20
Trước đây với một bộ khung cơ bản bằng gỗ, thép hoặc bê tông thì quyết định
có nên xây dựng khung từ những chất liệu này thường là các kỹ sư và các nhà kinh
tế chứ không phải KTS. Các KTS không có nghĩa vụ phải hỏi về kết cấu. Cấu trúc
phải đứng vững. Sau cùng, những gì sẽ xảy ra đã có bảo hiểm. Nếu bị đổ có nghĩa là
cả tòa nhà và toàn bộ căn cứ địa của tư tưởng sụp đổ theo. So với khoa học hay triết
học, kiến trúc hiếm khi đặt câu hỏi với nền tảng của mình.
Kết quả của những "thói quen tư duy" trong kiến trúc là kỹ sư kết cấu không
được phép hỏi nhiều hơn, như cơ chế vận hành của máy chiếu khi xem phim, hoặc
phần cứng của cái TV khi xem trên màn hình của nó. Đó là điều hiển nhiên. Nhà
phê bình xã hội thường xuyên đặt câu hỏi về hình ảnh, nhưng hiếm khi đặt câu hỏi
về bộ máy / bộ khung. Tuy nhiên, trong hơn một thế kỷ - đặc biệt là 20 năm qua - đã
thấy bắt đầu có những câu hỏi như vậy. Triết học đương đại đã đề cập đến mối quan
hệ giữa cái khung và hình ảnh - khung được xem là cấu trúc / phần cứng, còn hình
ảnh là vật trang trí. Parergon Jacques Derrida đã viết câu hỏi như vậy vào giữa
khung và hình ảnh của bức tranh. Theo truyền thống, cả khung và cấu trúc đều thực
hiện những chức năng tương tự là "giữ nó lại với nhau".
- CONCEPT 4: Superimposition (Siêu chồng chéo)
Ngay từ đầu, các cuộc bút chiến của giải cấu trúc cùng với nhiều tư tưởng hậu cấu
trúc, ít được các KTS quan tâm vì dường như nó đặt câu hỏi về nguyên tắc của
geborgenheit (sự an toàn) - cái mà chính chủ nghĩa hậu hiện đại đã cố gắng thúc
đẩy. Jacques Derrida đặt câu hỏi: "Nhưng làm sao một KTS có thể quan tâm đến
giải cấu trúc? Vì giải cấu trúc là chống hình thức, chống hệ thống phân cấp, phản
cấu trúc, trái ngược với tất cả những gì mà kiến trúc là đại diện". Và B.Tschumi trả
lời:"Chính vì thế".
Có nhiều cách giải thích mà các KTS đưa ra để giải cấu trúc ngày càng có nhiều lý
thuyết hơn. Đối với một KTS nó phải được làm với sự che đậy hình thức khác, với
sự phân mảnh, sự dịch chuyển. Một trích dẫn của Nietzsche: "Không có sự thật, chỉ
có một cách giải thích vô hạn" Và rất sớm, có lẽ do thực tế là nhiều KTS đều chia sẻ
không thích sự an toàn của "chủ nghĩa lịch sử hậu hiện đại" cùng những đam mê
tiên phong đầu thế kỷ XX, mà Deconstructivism - chủ nghĩa giải toả kết cấu đã nảy
sinh và ngay lập tức được gọi là "phong cách" - như chính những gì các KTS đã cố
gắng tránh. Bất kỳ sự quan tâm nào trong tư tưởng hậu cấu trúc và giải cấu trúc xuất
phát từ thực tế rằng họ đã thách thức ý tưởng về một hình ảnh đồng bộ thống nhất, ý
tưởng về sự chắc chắn, và tất nhiên, ý tưởng về một ngôn ngữ nhận dạng.
Các nhà lý thuyết kiến trúc muốn đối đầu với những đối lập nhị nguyên của kiến
trúc truyền thống - hình thức so với công năng, hoặc trừu tượng so với biểu hiện.
Tuy nhiên, họ cũng muốn thách thức các hệ thống phân cấp ngụ ý ẩn trong các cuộc
21
tranh chấp, chẳng hạn như, "hình thức đi theo công năng" và "trang trí phục tùng
cấu trúc." Thoái thác này của hệ thống phân cấp dẫn đến sự đam mê những hình ảnh
phức tạp, đồng thời là “cả hai” (neither/nor) - là sự chồng chéo / siêu chồng chéo
của nhiều hình ảnh khác. Superimposition đã trở thành một công cụ mấu chốt.
 
Trong Manhattan Transcripts (1981) hoặc Screenplays (1977), các thiết bị được sử
dụng trong các tập phim đầu tiên được dựa trên nguyên lý phim và trào lưu Roman
mới. Sự khác biệt giữa cấu trúc (hoặc khung), hình thức (hoặc không gian), sự kiện
(hoặc chức năng), cơ thể (hoặc di chuyển), và hư cấu (hoặc tự sự) đã bị làm mờ một
cách hệ thống thông qua thủ pháp superimposition, xung đột, bóp méo, sự phân
mảnh,.. superimposition được sử dụng khá rõ rệt trong kiến trúc của Peter
Eisenman, đẩy văn học và triết học đến thái cực song song, không ngừng cố gắng để
problematize (vấn đề hoá) đối tượng kiến trúc, vượt qua ranh giới giữa văn học, điện
ảnh và kiến trúc ("Đó có phải là một vở kịch hay là một phần của kiến trúc?").
Phần lớn công việc này được hưởng lợi từ môi trường của các trường đại học và các
trường nghệ thuật - nơi sự chồng chéo giữa các lĩnh vực khác nhau cho phép các
KTS làm mờ sự phân biệt các loại hình, câu hỏi lien tục về nguyên tắc của kiến trúc
và hệ thống phân cấp hình thức. Tuy nhiên, nếu tôi đã xem xét cả công việc của tôi
thời gian này cũng như các đồng nghiệp của tôi, tôi sẽ nói rằng cả hai phát triển từ
một bài phê bình về kiến trúc, về bản chất của kiến trúc. Nó tháo dỡ các khái niệm
và trở thành một công cụ ý niệm đáng chú ý, nhưng nó không thể giải quyết một
trong những điều làm cho công việc của KTS rốt cuộc khác với của nhà triết học.
Cũng như logic của các từ hay của bản vẽ, của vật liệu không giống nhau. Một lời
không phải là một khối bê tông. Theo Gilles Deleuze, “những ý tưởng của bộ phim
không được đưa ra trong bộ phim". Các cột đá mà không chạm đất không phải là kết
cấu, mà là vật trang trí. Tiểu thuyết và kể chuyện thu hút rất nhiều KTS, có lẽ bởi vì,
chúng ta biết thêm nhiều về các cuốn sách hơn là về các tòa nhà.   
Một sự khác biệt thú vị giữa hai cách giải thích về vai trò của tiểu thuyết trong
kiến trúc, một cái gọi là "chủ nghĩa lịch sử hậu hiện đại" lòng trung thành, cái kia
gọi là "chủ nghĩa giải cấu trúc tân hiện đại" lòng trung thành. Mặc dù cả hai xuất
phát từ các ích lợi sớm trong ngôn ngữ học và ký hiệu học, nhóm đầu tiên đã nhìn
thấy tiểu thuyết và kể chuyện như là một phần của vương quốc ẩn dụ, của việc diễn
giải kiến trúc mới, của hình thức, trong khi nhóm thứ hai đã thấy tiểu thuyết và kịch
bản tương tự như các chương trình và chức năng.
- CONCEPT 5: Crossprogramming (sự giao thoa công năng)
trong thế giới ngày nay, nơi nhà ga trở thành bảo tàng và nhà thờ trở thành
Nightclub. Sự thay thế nhau hoàn toàn về hình thức và chức năng, sự mất mát của
các mối quan hệ nhân quả truyền thống, mẫu mực thần thánh của chủ nghĩa hiện
22
đại. Công năng không theo hình thức, hình thức không theo chức năng - hoặc giả
tưởng cho vấn đề đó - thì giữa chúng chắc chắn vẫn có sự tương tác lẫn nhau.
Nếu kiến trúc bao gồm cả khái niệm và kinh nghiệm, không gian và việc sử
dụng, cấu trúc và hình ảnh bề mặt - không có sự phân cấp - sau đó kiến trúc phải
dừng tách riêng các loại này và thay vào đó ghép lại thành sự kết hợp chưa từng có
của các chương trình (chức năng) và không gian. "nội dung bao chứa bao gồm các
hoạt động khác nhau,"nội dung chuyển đổi","nội dung thay thế biến mất" - Tôi đã
xây dựng dựa trên những khái niệm này ở những nơi khác, cho thấy sự dịch chuyển
và lây nhiễm ảnh hưởng nhau giữa các hạng mục.
- CONCEPT VI: Events - The Turning Point (các sự kiện - bước ngoặt)
Không có kiến trúc nằm ngoài các sự kiện / các hành động, không hoạt động,
không có chức năng. Kiến trúc là sự kết hợp của không gian, sự kiện, và các chuyển
động mà không có bất kỳ sự phân cấp hoặc ưu tiên giữa các quan điểm. Mối quan
hệ nhân quả giữa công năng và hình thức là một trong những điều chắc chắn lớn của
tư duy kiến trúc - cho biết chúng ta đang sống trong những ngôi nhà "được thiết kế
để đáp ứng nhu cầu của chúng ta", hoặc ở các thành phố được quy hoạch như những
cỗ máy để ở - những ý nghĩa an toàn của quan điểm này đi ngược lại cả hai thực tế
"sự thỏa mãn" của kiến trúc, trong sự kết hợp bất ngờ của các thành phần của nó, và
thực tế của cuộc sống đô thị hiện đại nằm trong phần lớn sự kích cầu, sự định
hướng đáng lo ngại của nó. Do đó, trong Manhattan Transcripts, định nghĩa kiến
trúc có thể không là hình dạng hoặc bức tường, nhưng phải là sự kết hợp đồng nhất
và tương ứng của các thành phần.
Việc thêm vào các cụm từ "sự kiện" và "phong trào" bị ảnh hưởng bởi thuyết tình
huống chủ nghĩa và “giai đoạn 68” tham khảo ở trang
(http://en.internationalism.org/wr/316/situationism)
(http://thesituationist.wordpress.com)
(http://contestingarchitecture.blogspot.com/2012/06/exit-review-excerpts-
premise.html)
Các thành tố như thế đã được gọi là những "sự kiện" trong hành động cũng như
trong tư tưởng. Việc dựng lên một rào cản (công năng) trên đường phố Paris (hình
mẫu) là không hoàn toàn tương đương với là một hinh mẫu nhân vật đường phố
trong văn học Pháp (chức năng_như đại diện tượng trưng) hình mẫu. Ở đây tất cả
các mối quan hệ thứ bậc giữa hình thức và chức năng kết thúc để tồn tại. Sự kết hợp
của các sự kiện và không gian đã được giao nhiệm vụ với các khả năng lật đổ, để nó
thách thức cả hai yếu tố công năng và không gian. Đối đầu song song như thế gần
với mô tả của Rem Koolhaas về công việc ở câu lạc bộ thể thao "Ăn hàu với găng
tay đấm bốc, trần truồng, trên tầng thứ n”.
23
Có thể thấy vấn đề này ngay tại Tokyo, với nhiều cách thức rải rác khắp các tầng
của các tòa nhà cao tầng: một cửa hàng bách hóa, một bảo tàng, câu lạc bộ sức khỏe,
và một nhà ga xe lửa, trồng rau xanh trên mái. Và chúng ta sẽ tìm thấy cách thức
của tương lai, nơi sân bay đồng thời là khu giải trí, cơ sở thể thao, rạp chiếu phim,
và như vậy. Cho dù chúng là kết quả của các tổ hợp cơ hội, hay do áp lực của giá
đất tăng cao, như các mối quan hệ không phải nhân quả giữa hình thức và chức
năng, hoặc không gian và hoạt động.
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Michel_Foucault) Michel Foucault giới thiệu trích dẫn
trong một cuốn sách của John Rajchman. Ông đã mở rộng việc sử dụng thuật ngữ
"sự kiện" theo cách thức vượt ra ngoài các hành động / hoạt động đơn lẻ để nói về
"các vấn đề tư tưởng". Đối với Foucault, một sự kiện không chỉ đơn giản là một
trình tự hợp lý của các từ / hành động, mà là "thời khắc của sự xói mòn, sụp đổ, chất
vấn, hoặc vấn đề về các giả định thiêt lập trong đó như những gì có thể xảy ra trong
một bộ phim - Nhân các cơ hội / khả năng khác nhau mà thiết đặt khác nhau. "Sự
kiện ở đây được xem như một bước ngoặt - không phải là xuất phát điểm hay sự kết
thúc - trái ngược với các mệnh đề như “hình thức theo sau công năng". Tương lai
của kiến trúc nằm trong việc xây dựng các sự kiện như vậy.
Quan trọng là không gian đi với sự kiện. Như một khái niệm khác với các dự án
của phong trào hiện đại, tìm cách khẳng định những điều chắc chắn trong một sự
thống nhất không tưởng trái ngược với câu hỏi thông thường của chúng ta về sự
nhiều, manh mún, địa hình chật trội.
Trong một bài luận về Parc de la Villette, Jacques Derrida mở rộng định nghĩa
của sự kiện, gọi đó là "sự ra đời của tính đa dạng khác nhau." Tôi đã liên tục nhấn
mạnh trong các cuộc thảo luận và các nơi khác nữa, nơi mà những điểm này được
gọi là Folies - là các điểm hoạt động, các chương trình, các sự kiện. Derrida xây
dựng dựa trên khái niệm này, đề xuất khả năng của một nền "kiến trúc sự kiện" đó
sẽ "eventualize-sự kiện hóa" hoặc mở ra cái mà trong đó, lịch sử hay truyền thống
của chúng ta, được hiểu là cố định, thiết yếu, hoành tráng. Trước đó, ông đã đề xuất
từ "sự kiện" đã chia sẻ các nguồn gốc với "phát minh", vì thế quan điểm của sự kiện,
của hành động trong không gian là các bước ngoặt / sáng chế. Tôi muốn kết hợp nó
với khái niệm về cú sốc, một cú sốc rằng để có thể có hiệu quả trong nền văn hóa
trung gian, văn hóa hình ảnh, phải đi xa hơn định nghĩa của Walter Benjamin và kết
hợp các ý tưởng về chức năng hoặc hành động với các hình ảnh. Thật vậy, kiến trúc
thấy mình trong một tình huống đặc biệt: đó là nguyên tắc duy nhất theo định nghĩa
kết hợp khái niệm và kinh nghiệm, hình thức và sử dụng, hình ảnh và cấu trúc. Các
triết gia có thể viết, các nhà toán học có thể phát triển không gian ảo, nhưng các
kiến trúc sư là những người duy nhất, là tù nhân của nghệ thuật lai ghép, nơi mà các
hình ảnh hầu như không từng tồn tại mà không có một hoạt động kết hợp.
24
Đó là đấu tranh của tôi mà rất lâu mới được gọi lĩnh vực đau khổ từ thiếu năng
lực đặt câu hỏi về các cấu trúc và cơ sở của nó, nó là lĩnh vực mà những khám phá
vĩ đại nhất sẽ diễn ra trong thế kỷ tới. Tính không đồng nhất của định nghĩa về kiến
trúc & không gian, hành động & chuyển động – khiến nó trở thành sự kiện, nơi sốc,
hoặc nơi chúng ta tự mình phat minh. Sự kiện này là nơi ở đó xét lại và định dạng
lại các yếu tố khác nhau của kiến trúc, nhiều trong số đó đã dẫn đến hoặc bổ sung
vào các bất bình đẳng của xã hội hiện đại, có thể dẫn đến giải pháp của chúng. Bằng
định nghĩa nó là nơi kết hợp của các sự khác biệt.
Điều này sẽ không xảy ra bằng việc bắt chước quá khứ, cũng sẽ không xảy ra
bởi các ý kiến đơn giản, thông qua thiết kế, dựa trên các sai lệch khác nhau ở điều
kiện đương đại và những bất ổn về tình trạng hiện nay. Tôi không tin điều đó là có
thể, hoặc cũng không có ý nghĩa, để thiết kế các tòa nhà đó là các nỗ lực chính
thống để làm mờ các cấu trúc truyền thống, đó là, các hình thức biểu hiện ở đâu đó
giữa trừu tượng và hiện hữu, hoặc giữa cấu trúc và trang trí, hay đơn giản được cắt
nhỏ và bị làm sai lệch vì các lý do thẩm mỹ. Kiến trúc không phải là một nghệ thuật
để minh họa cho các lý thuyết. không thể thiết kế deconstruction, cũng không thể
thiết kế một định nghĩa mới về các thành phố và kiến trúc. Nhưng có thể thiết kế từ
các điều kiện đó làm cho nó không phân cấp, xã hội phi truyền thống này xảy ra.
Bằng sự hiểu biết bản chất các hoàn cảnh hiện đại và các quy trình truyền thông đi
cùng với chúng, các KTS có khả năng về các điều kiện xây dựng, điều đó sẽ tạo ra
một thành phố mới và nhiều mối quan hệ mới giữa các không gian và các sự kiện.
Kiến trúc không phải là về các điều kiện của thiết kế, mà là về việc thiết kế của
các điều kiện. Nó sẽ chia xẻ hầu hết khía cạnh truyền thống và thoái lui của xã hội
chúng ta, tái tổ chức đồng loạt các yếu tố theo cách tự do nhất, nơi mà kinh nghiệm
sẽ trở thành những trải nghiệm của các sự kiện được tổ chức và ý đồ chiến lựơc qua
kiến trúc. Chiến lược là một từ khoá quan trọng trong kiến trúc ngày nay. Không có
nhiều quy hoạch tổng thể, vị trí ở một nơi cố định, nhưng một không gian lý tưởng
và đồng nhất (heterotopia) mới. Đó là những gì các đô thị phải phấn đấu hướng tới
mà các KTS phải giúp đạt được bằng cách tăng cường sự va chạm giữa các sự kiện
và không gian. Tokyo và New York chỉ hiển thị sự hỗn loạn. Thay vào đó, chúng
đánh dấu sự xuất hiện một cấu trúc đô thị mới. Các cuộc đối đầu và tổ hợp các yếu
tố của chúng có thể cung cấp các sự kiện, các cú sốc, sẽ làm cho kiến trúc các thành
phố có một bước ngoặt trong văn hóa và xã hội.
1.3.1.3 Nguyên lý sáng tác KTS Frank O.Gehry
Theo ông, kiến trúc giải toả kết cấu phải được:
- Làm phân tán và mất trật tự tổ chức bố cục, hình dáng, tỉ lệ, màu sắc trong kiến
trúc.
25
- Làm mất đi sự hoàn thiện mang tính quy chỉnh truyền thống của sự vật , tạo cho
công trình kiến trúc sự dở dang.
- Làm đột biến , gây ra những sự thay đổi đột ngột.
- Tạo cảm giác động thái, do có những hình thái uốn vặn, mất ổn định , mất trọng
lượng, gây ấn tượng bay bổng (khác với cảm giác đối xứng, cân bằng thường thấy
trong kiến trúc cổ điển).
- Tạo nên sự tương phản quá lớn giữa các khối kiến trúc mỏng manh bên cạnh
những khối to lớn quá khổ, tạo lên một cảm giác không ổn định, dễ đổ vỡ.
- Tạo lập sự cách tân về hình thức đến mức cao nhất.
1.3.1.4  Nguyên lý sáng tác KTS Daniel Libeskind
ông dựa vào 17 “từ khóa” :
o Lạc quan & bi quan,
o Biểu cảm & trung lập,
o Sự khác biệt & bảo thủ,
o Sự cảm xúc & lạnh lùng,
o Giải thích & đã hiểu được,
o Đôi tay & máy tính,
o Phức tạp & đơn giản,
o Chính trị & sự lẩn tránh,
o Thật & giả,
o Đoán trướ c& thói quen,
o Thô mộc & tinh tế,
o Nhọn & cùn,
o Đáng ghi nhớ & có thể quên,
o Cởi mở & thầm lặng,
o Mạo hiểm & an toàn,
o Không gian & thời trang,
o Dân chủ & độc đoán.
 
1.3.1.4  Nguyên lý sáng tác KTS Rem Koolhaas (Hà Lan)
o ¤ng lµ kiÕn tróc s− ®Çu tiªn biÓu ®¹t mét c¸ch cã hÖ thèng c¸c vÊn ®Ò x· héi
vµ kiÕn tróc cã liªn kÕt chÆt chÏ víi nhau.
o KiÕn tróc kh«ng chØ ®¬n thuÇn lµ mét c¸i hép v« tri v« gi¸c, mµ lµ ®iÓm giao
cña v« sè sù kiÖn hçn ®én, m©u thuÉn lÉn nhau.
o KiÕn tróc sÏ ph¸t triÓn theo xu h−íng toµn cÇu ho¸ trong t−¬ng lai víi møc ®é
kh¸c nhau tuú theo tõng khu vùc.
o Rem Koolhaas ®· më réng giíi h¹n vèn cã cña kiÕn tróc. ¤ng ®· tËp trung
vµo mèi liªn hÖ gi÷a con ng−êi víi kh«ng gian. ¤ng s¸ng t¹o ra c¸c tßa nhµ,
26
n¬i con ng−êi gÇn gòi nhau vµ nhê ®ã mµ kiÕn tróc cã ®−îc c¸c môc tiªu ®Çy
tham väng. ¶nh h−ëng cña «ng trªn thÕ giíi ®· v−ît qu¸ xa khái tÇm giíi h¹n
cña kiÕn tróc. Con ng−êi trong nhiÒu ngµnh nghÒ nãi chung, c¶m thÊy mét sù
tù do rÊt lín tõ ngay c«ng viÖc cña m×nh.
1.2.6. KTS Zaha Hadid (Anh)
o Sự điểm xuyết cho một chức năng cần phải có và hài hòa với tất cả.
o Thúc đẩy suy nghĩ chất dịch trên tất cả lĩnh vực thiết kế
o Hình khối động và những giải pháp đặc biệt để để tiếp cận cũng như giải
quyết công trình, đột xuất các chiều hướng.
o Sự kịch tính cao giữa các khối và không gian, khi thì co cụm đông đặc, khi thì
giãn nở một cách bùng nổ.
o Tạo ra cảm giác của một lớp chảy tự nhiên của đô thị
o Không gian riêng tư và công cộng chồng chéo nhau như cấu trúc pha trộn vào
cảnh quan, tạo ra một loạt các môi trường năng động trong một cấu trúc liên
tục. Mái kéo dài xuống mặt đất.
o Khái niệm về trọng lực dường như không tồn tại, sự chuyển động của hình
khối, tính bản thể đặc trưng.
1.3.2. Nhận định về Deconstruction trong các nghiên cứu lý luận & lịch sử.
Thuật ngữ Kiến trúc De-Construction đã thu hút được sự chú ý của nhiều
người và một chủ đề được thảo luận rộng rãi là nó có phải là một chủ nghĩa trong
kiến trúc hay không, có phải đã có một hình thức kiến trúc mới xuất hiện hay không.
Giải thích khái niệm này, có thể thấy nổi lên hai xu hướng sau:
Xu hướng thứ nhất cho rằng kiến trúc Deconstruction không phải là một
phong cách, không phải là một tín điều, mà chỉ là mong muốn tái thẩm định những
giá trị của kiến trúc Hiện đại. Ngay trên lối vào cuộc triển lãm ở New York năm
1988 đã ghi rõ “tuyên ngôn” của trào lưu này: “Hình thức thuần túy đã bị ô nhiễm,
đang biến kiến trúc thành một tác nhân bất ổn định, bất hòa và xung đột”. De-
Construction thông qua sự rối ren của hình học để ‘bổ sung” cho kiến trúc Hiện đại
như là một quá trình tự tìm kiếm bản thân của nó.
Theo tinh thần đó, nhà sử học kiến trúc Jenifer Taylor cho rằng Deconstruction
chỉ là một phương pháp phân tích và xem xét lại các vấn đề, các ý đồ trong quá khứ
và tìm cách giải thích lại theo một lối khác. Ví dụ: trong khi kiến trúc Hiện đại
khẳng định hình khối phải đi theo chức năng, thì Deconstruction thì cho rằng không
nhất thiết phải như vậy. Những người ủng hộ quan điểm De-Construction chỉ đơn
thuần thăm dò những lối đi mới cho các vấn đề cũ hoặc để “tái thẩm định” các giá
trị (cũ) của chúng, vì vậy mà De-Construction không phải là một phong cách kiến
27
trúc, lại càng không liên quan tới khái niệm Constructivism của Chủ nghĩa Kết cấu
Nga những năm 1920-. De-Construction thực chất là tư tưởng chứa đựng những ý
niệm lạc quan, tích cực, hướng đến cái mới từ những cái cũ bị lãng quên. Theo
hướng này, mục tiêu của De-Construction gồm:
- De-Construction là một bộ phận của tư tưởng Hậu Hiện đại, giúp xem xét lại
những cái đã qua để từ đó tìm đường hướng mới.
- De-Construction không nhằm phá hủy các truyền thống cũ, mà xem xét nó
để áp dụng trong tương lai, nó chỉ là phương tiện giúp cho việc giải thích thế
giới mới.
- De-Construction mong muốn khám phá những cái trước kia đã bị che đậy,
giấu đi, bị đàn áp,.. tìm lại những mảnh nhỏ còn sót lại của quá khứ và đưa ra
những cách giải thích khác.
Theo cách lý giải trên, có thể xếp các sáng tác của nhóm SITE và KTS
Bernard Tschumi là đại diện cho nhánh thứ nhất của De-Construction. Sáng tác của
nhóm SITE mang màu sắc của chủ nghĩa hoài nghi khi đề xướng triết học về cái dở
dang hay sự đảo ngược trong kiến trúc. Còn Bernard Tschumi thì cho rằng thế giới
đang bùng nổ, tan vỡ ra nhiều mảnh, do đó phải lập lại trật tự cho nó. Trong đồ án
Công viên La Villette, ông đã đề xuất giải pháp sử dụng một hệ thống cấu trúc dựa
trên một mạng lưới ô vuông để định vị toàn bộ cấu trúc của nó với ý tưởng rằng điều
đó lập lại tính trật tự của kiến trúc.
Xu hướng thứ hai lại cho rằng De-Construction là một phong cách kiến trúc
mới, vì các KTS De-Construction đi tìm một thứ ngôn ngữ gây ấn tượng mạnh về
thị giác mà không cần chú ý đến yêu cầu chức năng, thậm chí còn chống lại và từ bỏ
các chuẩn mực trong xây dựng và trang trí. Đó cũng là nét tương đồng trong quan
niệm triết học giữa Hậu Hiện đại và De-Construction. Tuy vậy, có sự khác biệt thể
hiện rõ trong khẩu hiệu “Hình thức sinh ra từ trí tưởng tượng” mà Bernard Tschumi
đưa ra nhằm khẳng định giá trị của De-Construction và tuyên chiến với kiến trúc
Hậu Hiện đại - vì xu hướng Hậu Hiện đại không “tưởng tượng” ra kiến trúc mà chỉ
chú trọng khai thác những chủ đề sẵn có từ lịch sử. Chính từ De-Construction đã sản
sinh ra khái niệm về “sự hoàn hảo bị xáo trộn” giống như một trò chơi với những
hình khối được lắp ráp tỉ mỉ nhưng lại gây ra cảm giác có thể sụp đổ hoặc chuyển
động. Hình ảnh chung mà các KTS De-Construction tạo ra là những hình khối kiến
trúc mỏng manh được sắp đặt bên cạnh những khối to lớn quá khổ và quái dị, nhằm
tạo nên một trạng thái không ổn định, dễ sụp đổ. Trong cuốn sách “Các KTS Mỹ
đương đại” (1993), Philip Jodidio đã nhận xét: “Trong các phương án thiết kế của
Peter Eisenman có thể bắt gặp đôi nét của Chủ nghĩa Hiện đại, nhưng vượt trội và
lấn lướt hơn cả vẫn là những đặc điểm điển hình của Deconstruction”.
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ
Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ

More Related Content

What's hot

TỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORT
TỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORTTỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORT
TỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORTluongthuykhe
 
Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)
Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)
Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)NekoKawaii11
 
Thuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầng
Thuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầngThuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầng
Thuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầngluongthuykhe
 
Kiến trúc Trung tâm hành chính
Kiến trúc Trung tâm hành chính Kiến trúc Trung tâm hành chính
Kiến trúc Trung tâm hành chính luongthuykhe
 
KIẾN TRÚC CẬN ĐẠI
KIẾN TRÚC CẬN ĐẠIKIẾN TRÚC CẬN ĐẠI
KIẾN TRÚC CẬN ĐẠIluongthuykhe
 
Nguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdf
Nguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdfNguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdf
Nguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdfQuyenNguyenBao3
 
Chuyên đề Thư viện Thiết kế thư viện
Chuyên đề Thư viện Thiết kế thư việnChuyên đề Thư viện Thiết kế thư viện
Chuyên đề Thư viện Thiết kế thư việnluongthuykhe
 
Giáo trình môn học thiết kế nhanh
Giáo trình môn học thiết kế nhanhGiáo trình môn học thiết kế nhanh
Giáo trình môn học thiết kế nhanhViet Nam
 
Phát đẹp trai
Phát đẹp traiPhát đẹp trai
Phát đẹp traiMarch Hare
 
Nguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường Xuân
Nguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường XuânNguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường Xuân
Nguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường XuânCông ty thiết kế nhà đẹp 365
 
Đô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục Hưng
Đô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục HưngĐô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục Hưng
Đô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục Hưngluongthuykhe
 
Kiến trúc Gothic
Kiến trúc GothicKiến trúc Gothic
Kiến trúc Gothicssuser530bf5
 
Am hoc kien truc
Am hoc kien trucAm hoc kien truc
Am hoc kien trucDang Lam
 
Quy trình làm đồ án kiến trúc
Quy trình làm đồ án kiến trúcQuy trình làm đồ án kiến trúc
Quy trình làm đồ án kiến trúcnganha20792
 

What's hot (20)

Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở
Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ởNguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở
Nguyên lý thiết kế kiến trúc nhà ở
 
Luận văn: Tinh thần chuyển hóa luận trong kiến trúc của Toyo Ito
Luận văn: Tinh thần chuyển hóa luận trong kiến trúc của Toyo ItoLuận văn: Tinh thần chuyển hóa luận trong kiến trúc của Toyo Ito
Luận văn: Tinh thần chuyển hóa luận trong kiến trúc của Toyo Ito
 
TỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORT
TỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORTTỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORT
TỔ CHỨC DÂY CHUYỀN CHUNG KHU RESORT
 
Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)
Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)
Chủ nghĩa Công năng (Lịch sử Kiến trúc Thế giới)
 
Thuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầng
Thuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầngThuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầng
Thuyết minh Đồ án tốt nghiệp Chung cư cao tầng
 
khán đài
khán đàikhán đài
khán đài
 
Kiến trúc Trung tâm hành chính
Kiến trúc Trung tâm hành chính Kiến trúc Trung tâm hành chính
Kiến trúc Trung tâm hành chính
 
KIẾN TRÚC CẬN ĐẠI
KIẾN TRÚC CẬN ĐẠIKIẾN TRÚC CẬN ĐẠI
KIẾN TRÚC CẬN ĐẠI
 
Nguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdf
Nguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdfNguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdf
Nguyễn Bảo Quyên - LSKT Phương Tây.pdf
 
KIẾN TRÚC PHỤC HƯNG
KIẾN TRÚC PHỤC HƯNGKIẾN TRÚC PHỤC HƯNG
KIẾN TRÚC PHỤC HƯNG
 
Tài liệu cơ sở tạo hình kiến trúc nói chung
Tài liệu cơ sở tạo hình kiến trúc nói chungTài liệu cơ sở tạo hình kiến trúc nói chung
Tài liệu cơ sở tạo hình kiến trúc nói chung
 
Chuyên đề Thư viện Thiết kế thư viện
Chuyên đề Thư viện Thiết kế thư việnChuyên đề Thư viện Thiết kế thư viện
Chuyên đề Thư viện Thiết kế thư viện
 
Giáo trình môn học thiết kế nhanh
Giáo trình môn học thiết kế nhanhGiáo trình môn học thiết kế nhanh
Giáo trình môn học thiết kế nhanh
 
Phát đẹp trai
Phát đẹp traiPhát đẹp trai
Phát đẹp trai
 
Nguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường Xuân
Nguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường XuânNguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường Xuân
Nguyên lý thiết kế công trình kiến trúc công cộng của Tạ Trường Xuân
 
Đô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục Hưng
Đô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục HưngĐô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục Hưng
Đô thị châu Âu trung thế kỷ - Phục Hưng
 
Kiến trúc Gothic
Kiến trúc GothicKiến trúc Gothic
Kiến trúc Gothic
 
KIẾN TRÚC LA MÃ CỔ ĐẠI
KIẾN TRÚC LA MÃ CỔ ĐẠIKIẾN TRÚC LA MÃ CỔ ĐẠI
KIẾN TRÚC LA MÃ CỔ ĐẠI
 
Am hoc kien truc
Am hoc kien trucAm hoc kien truc
Am hoc kien truc
 
Quy trình làm đồ án kiến trúc
Quy trình làm đồ án kiến trúcQuy trình làm đồ án kiến trúc
Quy trình làm đồ án kiến trúc
 

Similar to Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ

KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...PinkHandmade
 
Kiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdf
Kiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdfKiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdf
Kiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdfMan_Ebook
 
[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trang
[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trang[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trang
[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trangTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Writing interior design BA degree thesis
Writing interior design BA degree thesisWriting interior design BA degree thesis
Writing interior design BA degree thesisSiniša Prvanov
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docsividocz
 
ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdf
ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdfĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdf
ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdfNuioKila
 
Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...
Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...
Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...
Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...
Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...sividocz
 

Similar to Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ (20)

KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdfKIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
KIẾN TRÚC BIỂU HIỆN TẠI VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAY
Luận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAYLuận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAY
Luận văn: Dạy môn Lịch sử Design tại Trường ĐH Mĩ thuật, HAY
 
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
ĐỀ TÀI Dạy học môn Lịch sử Design tại Trường Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Á C...
 
Kiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdf
Kiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdfKiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdf
Kiến trúc nhà công cộng, Giáo trình đào tạo kiến trúc sư.pdf
 
[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trang
[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trang[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trang
[Kho tài liệu ngành may] kiến trúc hiện đại trong thời trang
 
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAYLuận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
 
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuậtLuận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
Luận án: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật
 
Writing interior design BA degree thesis
Writing interior design BA degree thesisWriting interior design BA degree thesis
Writing interior design BA degree thesis
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Đại Chúng Hóa Kinh Điển Nho Gia 10 Năm Đầu Th...
 
Chủ nghĩa hiện sinh của JEAN PAUL SARTRE và ảnh hưởng của nó ở miền nam Việt ...
Chủ nghĩa hiện sinh của JEAN PAUL SARTRE và ảnh hưởng của nó ở miền nam Việt ...Chủ nghĩa hiện sinh của JEAN PAUL SARTRE và ảnh hưởng của nó ở miền nam Việt ...
Chủ nghĩa hiện sinh của JEAN PAUL SARTRE và ảnh hưởng của nó ở miền nam Việt ...
 
Cong ty nhom kinh cao cap Toan Cau - cung cap kien truc dan dung
Cong ty nhom kinh cao cap Toan Cau - cung cap kien truc dan dung Cong ty nhom kinh cao cap Toan Cau - cung cap kien truc dan dung
Cong ty nhom kinh cao cap Toan Cau - cung cap kien truc dan dung
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Vấn Đề Chủ Nghĩa Hiện Thực Trong Lý Khoá Luận Học Ở Việt...
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
 
Tiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.doc
Tiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.docTiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.doc
Tiểu Luận Về Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Và Khoa Học Tự Nhiên.doc
 
Luận án: Ngôn ngữ giới trẻ qua phương tiện truyền thông, HOT
Luận án: Ngôn ngữ giới trẻ qua phương tiện truyền thông, HOTLuận án: Ngôn ngữ giới trẻ qua phương tiện truyền thông, HOT
Luận án: Ngôn ngữ giới trẻ qua phương tiện truyền thông, HOT
 
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đLuận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
Luận văn: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt, HAY, 9đ
 
ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdf
ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdfĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdf
ĐẶC TRƯNG HẬU HIỆN ĐẠI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA JOHN MAXWELL COETZEE.pdf
 
Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...
Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...
Học thuyết vô vi của lão tử và vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nước ...
 
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
 
Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...
Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...
Luân Văn Sự đối lập giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý thế kỷ XVI...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Kiến trúc Deconstructions và ứng dụng ở Việt Nam, 9đ

  • 1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI LÃ VĂN PHÚ KHOÁ 2011-2013 ĐỀ TÀI KIẾN TRÚC DECONSTRUCTION VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC Hà Nội , năm 2013
  • 2. 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ XÂY DỰNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI LÃ VĂN PHÚ KHOÁ 2011-2013 ĐỀ TÀI KIẾN TRÚC DECONSTRUCTION VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM Chuyên ngành :KIẾN TRÚC Mã số : 60.58.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ KIẾN TRÚC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS.KTS. NGUYẾN TRÍ THÀNH Hà nội – 20.…
  • 3. 3 MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài Deconstruction là một hiện tượng đặc biệt trong văn học nghệ thuật cuối thế kỷ XX, có cơ sở lý luận bắt nguồn từ quan điểm của một số triết gia đương đại nổi tiếng như Jacques Derrida, Christopher Norris, Martin Heidegger,.. Thuật ngữ Deconstruction xuất hiện năm 1988 đánh dấu một sự đổi mới mạnh mẽ trong đời sống văn hoá nghệ thuật tiếp sau làn sóng Hậu hiện đại. Sau 25 năm, dù đã lan tỏa khắp các châu lục và được khẳng định bằng cả hình thể, không gian, vật liệu & công nghệ, nhưng đến nay vai trò tiên phong và ảnh hưởng của Deconstruction vẫn còn tiếp tục gây tranh cãi. Sự bàn luận đánh giá chưa có hồi kết cho thấy đó vẫn là một vấn đề rất thời sự về tinh thần sáng tạo, luôn hấp dẫn lôi cuốn các KTS trên cả phương diện lý thuyết và thực hành. Trong thực tế, ngay từ những công trình đầu tiên gợi lại Chủ nghĩa kết cấu Nga thì kiến trúc Deconstruction đã như một lời cảnh báo mổ xẻ và phơi bày những mặt khuất của đời sống con người và xã hội đương đại. Nhiều học giả nhìn nhận: đằng sau mỗi công trình Deconstruction - từ lúc còn là đồ án cho đến khi hoàn thành xây dựng - là những câu truyện ngụ ngôn được kể bằng sắt thép, bê tông (hay bất cứ thứ gì tạo nên không gian trong thời hiện đại), là một góc nhìn hài hước châm biếm, hay một vở bi hài kịch quằn quại mà người sử dụng, người xem và cả công trình cùng là những diễn viên sống động trên sân khấu cuộc đời. Quen thuộc nhưng cũng rất mới lạ, khiêu khích / xung đột trong sự cùng tồn tại hòa bình, im lặng nhưng khuấy động cả không gian và ý thức,.. - đó là những yếu tố lý giải cho việc kiến trúc Deconstruction có thể được chấp nhận ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới, và gần đây đã xuất hiện ở Việt Nam. Từ một góc độ khác, kiến trúc là “đứa con tinh thần”, phản ánh nhận thức & cảm thụ của người KTS trước hiện thực xã hội. Bản thân học viên - tuy mới dấn bước theo con đường học thuật vào không gian kiến thức mênh mông của nhân loại - nhưng cũng nhận thấy hàm ý sâu xa của tư tưởng Deconstruction không phải chỉ là thể hiện những mâu thuẫn / xung đột của cuộc sống, mà là phá bỏ những rào cản, tháo gỡ những trói buộc, vượt qua những giới hạn,.. Chọn đề tài “Kiến trúc Deconstruction và khả năng ứng dụng ở Việt Nam” để làm luận văn, học viên mong muốn có cơ hội được tìm hiểu và đóng góp một vài kiến giải khiêm tốn của mình cho việc nhận thức vấn đề này. 2. Mục đích & nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của luận văn là:
  • 4. 4 - Nhận thức vai trò, vị trí và ảnh hưởng của trào lưu Deconstruction trong kiến trúc đương đại. - Nhận định khả năng ứng dụng & phát triển Deconstruction ở Việt Nam trên các phương diện nội dung, hình thức và tính khả thi. Học viên xác định các nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm: - Tìm hiểu bối cảnh hình thành và quá trình phát triển của trào lưu De- construction trong nghệ thuật nói chung và kiến trúc nói riêng. - Làm rõ quan điểm chủ đạo, các đặc trưng về nội dung, hình thức và điều kiện thực hiện của kiến trúc Deconstruction. - Xác định mức độ phù hợp của kiến trúc Deconstruction với các điều kiện kinh tế - kỹ thuật & văn hóa - xã hội ở Việt Nam. 3. Đối tượng & phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là nội dung tư tưởng và hình thức biểu đạt của các công trình kiến trúc Deconstruction. Phạm vi nghiên cứu về thời gian được giới hạn trong nửa cuối thế kỷ XX (chính xác hơn là từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay). Phạm vi về không gian được giới hạn chủ yếu ở các nước phương Tây (châu Âu, Bắc Mỹ & Nhật Bản), đặc biệt tập trung vào những lý luận và công trình tiêu biểu của các KTS Deconstruction tiên phong. Ngoài ra, nghiên cứu của luận văn cũng đề cập đến những trào lưu kiến trúc có sự giao thoa và tương tác với Deconstruction trong quá trình phát triển, cũng như một số công trình theo xu hướng này ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có ở Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tài liệu: sưu tầm tư liệu, trích lục từ các sách báo / tạp chí / ấn phẩm về kiến trúc Deconstruction. Phương pháp hồi cứu: kế thừa các nghiên cứu lý thuyết đã có. Phương pháp hệ thống hóa và quy nạp các yếu tố tương đồng. Phương pháp phân tích so sánh: đối chiếu bối cảnh hình thành và phát triển của kiến trúc Deconstruction ở phương Tây với các điều kiện ở Việt Nam. Phương pháp điều tra XH học: thu thập ý kiến phản ánh tâm lý / thái độ của số đông người tiếp cận sử dụng công trình kiến trúc Deconstruction. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Góp phần nâng cao nhận thức về một trào lưu chủ đạo và có sức lan tỏa mạnh của kiến trúc đương đại. Cung cấp thông tin học thuật có giá trị tham khảo để ứng xử phù hợp với Deconstruction trong quá trình hội nhập quốc tế.
  • 5. 5 7. Cấu trúc luận văn Mở đầu. Giới thiệu chung. Chương 1. “Trào lưu Deconstruction trong kiến trúc đương đại thế giới”. Cái nhìn tổng quát về kiến trúc Deconstruction (quá trình hình thành và phát triển, các tác giả & tác phẩm tiêu biểu, sự nhìn nhận & đánh giá chung). Chương 2. “Cơ sở lý luận và thực tiễn để nhìn nhận và đánh giá kiến trúc Deconstruction”. Bao gồm các vấn đề: bối cảnh VH-XH dẫn tới sự hình thành và phát triển của De-Construction; nội dung tư tưởng và các thủ pháp biểu đạt của De- Construction: các trào lưu kiến trúc có liên hệ với De-Construction. Chương 3. “Nhận định về kiến trúc De-Construction & khả năng ứng dụng ở Việt Nam”. Vai trò, vị trí, ảnh hưởng của Deconstruction trong kiến trúc đương đại thế giới và ở Việt Nam. Phần Kết luận & Kiến nghị: tóm tắt các kết quả đã đạt được và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
  • 6. 6 PHẦN NỘI DUNG Chương 1. Trào lưu De-Construction trong kiến trúc đương đại thế giới. 1.1. Sự hình thành và phát triển của kiến trúc De-Construction. 1.1.1. Sự xuất hiện thuật ngữ “Kiến trúc De-Construction”. 1.1.2. Những thử nghiệm tiên phong giai đoạn 1970-1980. 1.1.3. Sự lan tỏa của kiến trúc De-Construction những năm 1990-2010. 1.2. Các tác giả & tác phẩm De-Construction tiêu biểu. 1.2.1. KTS Peter Eisenman (Mỹ) 1.2.2. KTS Bernard Tschumi (Mỹ) 1.2.3. KTS Frank O.Gehry (Mỹ) 1.2.4. KTS Daniel Libeskind 1.2.5. KTS Rem Koolhaas (Hà Lan) 1.2.6. KTS Zaha Hadid (Anh) 1.3. Những nghiên cứu & đánh giá về kiến trúc De-Construction. 1.3.1. Những nhận xét của BGK giải Pritzker. (về F.O.Gehry, R.Koolhaas, Z.Hadid, T.Mayner / Morphosis) 1.3.2. Nhận định về De-Construction trong các nghiên cứu lý luận & lịch sử. 1.3.3. Hướng nghiên cứu của Luận văn Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn để nhìn nhận và đánh giá kiến trúc De- Construction 2.1. Bối cảnh VH-XH dẫn tới sự hình thành và phát triển của De-Construction. 2.1.1. Sự khủng hoảng của Chủ nghĩa hiện đại (1950-1960). (Những phê phán trên phương diện lý luận - phê bình & sự phản kháng bằng thực hành). 2.1.2. Sự bùng nổ các trào lưu Văn hóa Hậu Hiện đại (1970-1980). 2.1.3. Những xu thế lớn của XH đương đại (cuối tkXX, đầu tkXXI). 2.2. Tư tưởng triết học của De-Construction. 2.2.1. Triết học De-Construction trong nghệ thuật 2.2.2. Mối quan hệ với Cấu trúc luận & Hậu Cấu trúc luận. 2.2.3. Mối quan hệ với triết học Hậu Hiện đại
  • 7. 7 2.3. Các thủ pháp & ngôn ngữ biểu đạt của kiến trúc De-Construction 2.3.1. Các thủ pháp De-Construction 2.3.2. Ngôn ngữ hình thức De-Construction 2.3.3. Tiền đề kỹ thuật của De-Construction 3.4. Các trào lưu kiến trúc có ngôn ngữ biểu hiện tương tự như De- Construction. 3.4.1. Phi kiến trúc (De-Architecture) ở Mỹ. 3.4.2. Hậu Chuyển hóa luận (Post-Metabolism) ở Nhật Bản. 3.4.3. Hi-Tech & Super Hi-Tech Chương 3. Nhận định về kiến trúc De-Construction & khả năng ứng dụng ở Việt Nam 3.1. Nhận định về Kiến trúc De-Construction. 3.1.1. De-Construction nhìn từ góc độ hình thức. 3.1.2. De-Construction nhìn từ góc độ tư tưởng. 3.1.3. Ảnh hưởng của De-Construction trong kiến trúc đương đại 3.2. Kiến trúc De-Construction ở Việt Nam. 3.2.1. Những hiện tượng De-Construction ở Việt Nam. 3.2.2. Định danh “De-Construction” trong tiếng Việt. 3.2.3. Khả năng ứng dụng De-Construction trong thực tế. Kết luận & Kiến nghị. 
  • 8. 1 PHẦN NỘI DUNG Chương 1. Trào lưu De-Construction trong kiến trúc đương đại thế giới. 1.1. Sự hình thành và phát triển của kiến trúc De-Construction. 1.1.1. Sự xuất hiện thuật ngữ “Kiến trúc De-Construction”. "Deconstruction" là thuật ngữ xuất hiện vào cuối những năm 1960- từ một trường phái triết học bắt nguồn tại Pháp. Theo Từ điển Lý luận phê bình (London, Blackwell - 1996): Deconstruction là trường phái triết học và phê bình văn học được thể hiện trong những bài viết của nhà triết học Pháp Jacques Derrida và nhà phê bình văn học Mỹ gốc Bỉ Paul De Man. Deconstruction được mô tả chính xác nhất là một lý thuyết đọc hướng tới việc làm suy yếu logic của sự đối lập trong những văn bản. Trong Từ điển tiếng Pháp, thuật ngữ Deconstruction được giải nghĩa theo hai cách: a) Về ngữ pháp: chỉ sự thay đổi, sự ngắt quãng cấu trúc và bố cục của từ trong câu với mục đích tạo ra nghĩa khác, nghĩa mới với những từ tương tự. b) Về cơ học: chỉ sự tháo rời, tháo dỡ, phân rã. Hai nghĩa này của Deconstruction dẫn đến những hệ quả trái ngược: về ngữ pháp (quan hệ) nó có thể tạo ra những cái mới, nhưng về cơ học (toàn thể) thì nó chỉ tiêu hủy / làm tan vỡ cái đã có. Trong các ngôn ngữ gốc Latin, cấu trúc từ có tiếp đầu ngữ De- thường mang nghĩa «làm ngược lại / phủ định» sự việc / hành động gốc, hoặc là «sự tháo bỏ / di chuyển» (VD mạnh nhất là Destroy / Destruction = phá hủy). Trong Deconstruction (tiếng Anh), thì Construction có nghĩa «sự giải thích / đặt câu / xây dựng», xuất phát từ các động từ Construct (= xây dựng / kiến tạo / dựng hình) và Construe (= diễn dịch / ghép từ / phân tích cú pháp / dịch nôm). Deconsstruction trong kiến trúc - hay «Kiến trúc Deconstruction» - xuất hiện muộn hơn, từ sau cuộc triển lãm «Deconstructivist Architecture» tại Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại New York (MoMA) năm 1988, với sự tham gia của Peter Eisenman, Bernard Tschumi, Frank O.Gehry, Rem Koolhaas, Daniel Libeskind, Zaha Hadid và Coop Himmelblau, dưới sự bảo trợ của Philip Johnson. Trước đó, tháng 3/1988, tại Tate Gallery cũng mới tổ chức cuộc Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về «Deconstructivist Art and Architecture». Năm 1988, chỉ có P.Eisenman & B.Tschumi là đã nổi tiếng với những tác phẩm theo đuổi tư tưởng Deconstruction, còn F.O.Gehry, D.Libeskind, Coop Himmelblau,.. mới có 1-2 công trình đầu tiên được xây dựng. Deconstructivism = De-Constructivism (-> tư tưởng) = De-Constructive = De-Construction (-> hành động)
  • 9. 2 Là một thuật ngữ tương đối mới và có nhiều sắc thái ý nghĩa, nên Deconstruction được chuyển nghĩa sang tiếng Việt theo nhiều cách khác nhau và việc sử dụng cũng không thống nhất (tùy từng tác giả / từng lĩnh vực): Giải tỏa kết cấu / Giải tỏa cấu trúc / Phi xây dựng / Phi kiến tạo - thậm chí có cả dạng rút gọn là Giải cấu trúc. 1.1.2. Những thử nghiệm tiên phong giai đoạn 1970-1980. C¸c trµo l−u HËu HiÖn đ¹i (Post-Modernism) xuÊt hiÖn trong nh÷ng n¨m 1970-1980 khi kiÕn tróc hiÖn ®¹i béc lé nhiÒu nh−îc ®iÓm. Giíi kiÕn tróc trë nªn hoµi nghi nh÷ng lý t−ëng cña kiÕn tróc HiÖn ®¹i. Trái ngược với khẩu hiệu “Less is More” của Mies Van de Rohe là sự xuất hiện các chi tiết trang trí, tính đa nghĩa của biểu tượng trong kiến trúc. Ngày15/7/1972 được Charles Jencks gọi là ngày “khai tử” Kiến trúc Hiện đại khi khu chung cư Pruitt Igoe tại S.Louis (Mỹ) - một tác phẩm Hiện đại khá nổi tiếng của KTS. Minoru Yamasaki - bị chính quyền cho nổ mìn phá bỏ. Thêi ®iÓm ®−îc coi nh− sự toàn thắng của KiÕn tróc HËu HiÖn đ¹i lµ triÓn l·m kiÕn tróc Bienale-80 tại Venice (Italia) n¨m 1980 víi hµng d·y pano tr−ng bµy c¸c t¸c phÈm theo nh÷ng phong c¸ch mµ sau ®ã ng−êi ta gäi lµ kiÕn tróc thêi HËu hiÖn ®¹i. Các nhà phê bình bắt đầu mổ xẻ lý luận của chủ nghĩa hiện đại, và ngay cả các KTS bậc thầy cũng không kiên trì được với đường lối của chính mình. Tiêu biểu là Philip Johnson - tuyên bố kiến trúc hiện đại đã kết thúc, phê phán các quan điểm của thầy mình là Mies Van Der Rohe, thử nhiệm chủ nghĩa phục cổ (với công trình trụ sở hãng AT&T, 1978). Về sau Johnson cũng có những tác phẩm có giá trị về hình khối & nghệ thuật, nhưng các KTS đã thất vọng với việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào giải quyết các vấn đề xã hội trong bối cảnh của Chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, đặc biệt là khi năng lượng nguyên tử được sử dụng vào chế tạo vũ khí. Nhiều KTS không còn tin vào khả năng của kiến trúc giải quyết các vấn đề xã hội của tầng lớp dân nghèo và chuyển sang phục vụ các nhà giàu. Deconstruction xuất hiện 10-15 năm sau, khi những trào lưu rầm rộ ban đầu của Postmodernism đi vào bế tắc. Trong sách “Ngôn ngữ kiến trúc Hậu Hiện đại” (Charles Jenks, 1977), Deconstruction chưa có tên trong số 7 xu hướng được phân lập, chỉ có 1-2 công trình nhà ở nhỏ của Peter Eisenman (VD: House 3, Lakesville, 1971) được xếp vào xu hướng “Không gian HHĐ”. Tuy nhiên, trong giai đoạn này (thậm chí sớm hơn) đã xuất hiện những công trình tiên phong mang hơi hướng Deconstruction, tìm cách thoát khỏi những quan điểm giáo điều gò bó cứng nhắc của kiến trúc Hiện đại, thể hiện thái độ mỉa mai phê phán, thậm chí là phá phách, không tuân theo những quy luật thông thường.
  • 10. 3 Sớm nhất (ngay từ những năm 1960-) có thể kể đến một số công trình của Louis Kahn, Paul Rudolph (với sự phân lập & tách rời các cấu trúc chức năng), hay tổ hợp nhà ở Habitat 67 của Moshe Safdie tại Triển lãm quốc tế Toronto, Canada (phức hợp lộn xộn thay cho cái hợp khối đơn nhất). Sang thập kỷ 1970- là nhóm SITE (với 4 thủ lĩnh là các KTS Alison Sky, Emilio Sousa, Michelle Stone, James Wines). Trung tâm Pompidou ở Paris (KTS R.Piano & R.Roggers, 1977) cũng có thể được xem là mang tinh thần Deconstruction khi “lộn trái” / phơi bày các hệ thống kết cấu và kỹ thuật ra bên ngoài. Chuỗi cửa hàng BEST, Mỹ, 1970-1980. Nhóm SITE. Nhóm SITE với trào lưu Phi kiến trúc (De-Architecture) -> triết lý về cái phi lý (được dùng để thay thế cho cái duy lý, chống lại sự cố định bất biến / sự đơn giản hóa giả tạo không đúng với thực tế) -> thủ pháp của sự dở dang / đứt gãy / nghịch đảo. Các phương án đều cố thể hiện triết lý về sự dở dang, tạo ra những ấn tượng ngược đời như sự đổ nát, sự bập bênh, sự nứt toác,.. trái ngược với ý niệm BEST = tốt nhất - nhằm kích thích trí tò mò của khách hàng trong một XH tiêu thụ thừa mứa. Cửa hàng “Bập bênh” (Towson, Maryland, 1976-78) với bức tường khổng lồ (80mx16m, dày 30cm, nặng 450 tấn) đặt nghiêng trên mặt đứng tạo nên “trạng thái” căng thẳng khi người ta thường xuyên phải qua lại bên dưới, với ấn tượng là nó được xây một cách cẩu thả thay vì phải hoàn hảo nhất và đã đến lúc phải dỡ bỏ. Hiệu quả thú vị khác là tính chất nước đôi khiến người ta phải tự hỏi: nó đang bị hạ xuống hay đang được kéo lên? Cửa hàng “Bóc vỏ” (Virginia, 1971-72) với mặt tiền uốn cong như đang bị bóc ra hay đang được dán vào? Cửa hàng “Mặt đứng vô định” (Texas, 1974-75) với mặt tiền đổ nát và dòng thác gạch đổ xuống mái hiên trên lối vào - đang xây dựng dở dang hay đang bị đổ vỡ? Cửa hàng “Lỗ khấc” (Sacramento, California, 1976-77) có lối vào ở góc như vừa bị đứt rời ra khỏi khối nhà chính, tạo cảm giác tò mò, thú vị cho những người đã quen với sự thứ mứa “tính hoàn chỉnh của vật chất”. Nghe như có tiếng cười tinh quái, mỉa mai vọng ra từ bên trong công trình, phê phán XH thiên về tiêu thụ. Cửa hàng Cutler Ridge (Miami, Florida, 1978-79) với mặt tiền bị tách thành 4 lớp. Phương án “Bến xe ma” ở Connecticut (1977-1978) cho thấy Triết lý của SITE về sự đảo ngược, với hình ảnh mặt sân trải nhựa đường lại phủ lên những
  • 11. 4 chiếc ô tô một cách trái khoáy. Còn phương án cải tạo nhà máy “Molino Stucky” (Bienale Venice 1975) lại tạo nên những cách nhìn độc đáo của triết lý “đảo ngược”: ngôi nhà đang từ dưới nước đi lên hay đang chìm dần xuống nước? Mặt đứng ngôi nhà là mặt nước dựng lên, hay mặt sân đi dạo là mặt nhà hạ xuống?... Điều lý thú là những ý tưởng lập lờ này lại là những điểm thu hút mạnh mẽ nhất, lôi cuốn được sự chú ý của mọi người đối với phương án. House VI, Connecticut, 1972-1975. KTS Peter Eisenman House VI là công trình nổi tiếng nhất trong chuỗi các nhà ở gia đình được P.Eisenman thiết kế trong những năm 1970- như: House II (Vermont,1969); House III (Lakesville, 1971), House IV, House X (Michigan, 1978), House XI A (1978- 80),.. - ông mượn chúng để thử nghiệm và thể hiện tư tưởng của mình. Toàn bộ ngôi nhà giống như những chiếc container xếp chồng lên nhau, tạo nên một thứ không gian ba chiều được xử lý rất đặc biệt, trong đó những khoảng trống không rõ ràng hoặc có một cái cột như vô tình đi xuyên qua nhà, một cầu thang lộn ngược sơn màu đỏ trên đầu cầu thang chính, gây nên một sự chói mắt bất thường. Có chỗ Peter Eisenman còn sử dụng sàn kính và cố tránh không cho ngôi nhà có một khu trung tâm nào rõ ràng cả. Điều quan trọng nhất ở công trình này là tác giả đã tạo dựng được một sự biến đổi không ngừng về môi trường, ánh sáng, bóng râm, màu sắc và kết cấu. Công viên La Villette, Paris, Pháp, 1982-1990. KTS Bernard Tschumi. Cuộc thi thiết kế công viên La Villette được chính phủ Pháp tổ chức năm 1982, mục đích vừa để phát triển văn hoá & kinh tế cho khu vực then chốt của Paris, vừa để bày tỏ quan điểm thiết kế của thời đại. Cũng như các dự án lớn khác như nhà hát Opera ở Bastille, Louvre, La Defence, cuộc thi này là tâm điểm của nhiều cuộc bút chiến, bắt đầu từ các nhà thiết kế cảnh quan phản đối dữ dội ý tưởng thách thức của các KTS, sau đó là những thay đổi của chính phủ & các cuộc khủng hoảng ngân sách khác. Công viên La Villette nằm ở địa điểm lớn cuối cùng còn lại của Paris, rộng 125 ha phía đông bắc thành phố, giữa ga metro Porte de Patin & Porte de la Villette. Một cạnh dài hơn 1km, cạnh kia dài 700m. Bernard Tschumi đã dựng một lưới ô vuông khổng lồ rải kín toàn bộ công viên, định vị bằng những kiến trúc thép tráng men đỏ cách đều nhau 120m. Các kiến trúc bằng thép đó có dáng vẻ của những công trình đổ nát & bị biến dạng một cách kỳ dị. Các thành phần chức năng của công viên đã được sắp xếp trên cơ sở lưới ô vuông đó, biểu hiện một quá trình tái lập trật tự, chính vì vậy tổng thể công viên giống như một công trường đang xây dựng dở dang. Đồ án này cũng đề xuất một phương pháp thiết kế quy hoạch táo bạo
  • 12. 5 bằng cách chồng lớp các bản vẽ giải trình ý đồ kiến trúc & các yêu cầu chức năng khác nhau để tạo nên một bố cục có tính ngẫu nhiên. Viện nghiên cứu năng lượng mặt trời Stuttgart (1987). KTS Gunter Benish Các bộ phận công trình chồng lên nhau không theo một trật tự nào cả và chất đống một cách tùy tiện. Bề mặt tầng một trong suốt nhìn từ phía ngoài, nằm chìa ra, chênh vênh so với tầng trệt. Một ống màu đỏ sặc sỡ chẳng làm gì cả, xuyên qua tòa nhà từ trên mái kính xuống nền nhà... Văn phòng luật sư Shuppich (1982-1988) Áo. KTS. Wolf Prix & Helmut Swiezinsky (Coop Himmelblau) Công trình có bộ mái bằng kính xanh phủ lên bộ mái của căn hộ kiểu cũ. Đòn tay của mái vượt qua một khoảng không cũng xuất phát từ một khối lộn xộn dường như muốn chọc vào mặt trước cũ kỹ của ngôi nhà & sẵn sàng đâm thủng nó. 1.1.3. Sự lan tỏa của kiến trúc De-Construction những năm 1990-2010. Với những thành tựu của Deconstruction trong các lĩnh vực ngôn ngữ học và văn học nghệ thuật, sau cuộc triển lãm năm 1988, kiến trúc Deconstruction bắt đầu được đón nhận cởi mở và có sự lan tỏa mạnh mẽ - thậm chí là bùng nổ, với những “hiện tượng” như D.Libeskind, Z.Hadid và hàng loạt KTS khác. Trong 20 năm gần đây, Giải thưởng Pritzker đã được trao cho các KTS Deconstruction đầu đàn (F.O.Gehry - 1989, R.Koolhas - 2000, Z.Hadid - 2004) và một số KTS theo đuổi tư tưởng hoặc khai thác các yếu tố biểu đạt của xu hướng này (Herzog & de Meuron - 2001, Thom Mayne - 2005). Tòa nhà văn phòng Nunotani, Tokyo, 1990-1992. KTS Peter Eisenman Hình thức bên ngoài công trình gây ấn tượng thật sự hồi hộp, lo ngại về khả năng sụp đổ của nó, toàn bộ ngôi nhà dường như đang sụp xuống và trong giây lát sẽ chỉ còn là những mảnh vụn. Bên trong công trình, những dầm, cột và các thanh BTCT không có chức năng rõ ràng tạo nên một khung cảnh “rối rắm”. Sàn các tầng vẫn hoàn toàn bằng phẳng, có thể đi lại dễ dàng, nhưng khung cảnh chung vẫn khiến cho người ta khó lấy lại được cảm giác thăng bằng. Peter Eisenman đã đưa ra quan điểm “Phải thay đổi toàn bộ cách phân bố không gian của nhà cửa”. Giống như hầu hết các công trình của mình trước đó, ông cố tình tạo ra những khối kiến trúc mà người ta không thể nhận biết gì về sự phân bố không gian cũng như sơ đồ làm việc của hệ thống chịu lực. Một thủ pháp thường thấy trong công trình của ông là xoay các lưới cột sao cho không song trùng với hình thể mặt bằng của nó và như vậy có thể tạo ra được hàng loạt không gian khác nhau. Trạm cứu hoả Vitra (Weil, Đức). KTS Zaha Hadid, 1992-93
  • 13. 6 Trạm cứu hoả được đặt bên bờ sông Rhin nên tác giả cố tình tạo cho nó có vẻ như lún sâu xuống đất nói lên mối quan hệ khăng khít giữa công trình với khung cảnh xung quanh. Một mái che lớn hình tam giác với công dụng không cụ thể nhưng rất ấn tượng do cái cảm giác xộc xệch & vươn lên trời xanh. Bảo tàng nghệ thuật Bilbao Kiến trúc sư Frank O. Gery Địa điểm Bilbao, Tây ban nha Thời gian xây dựng 1997 Loại công trình Bảo tàng Hệ thống kết cấu Khung thép bọc tấm titan Phong cách ấn tượng mới Bảo tàng nghệ thuật Bilbao do KTS Frank O. Gery thiết kế, hoàn thành năm 1997 tại TP Bilbao Tây ban nha. Kết cấu khung thép, vách ngoài bọc Titanium. Công trình đuợc thực hiện nhờ sự hỗ trợ của máy tính kế hợp với trí tưởng tượng phong phú của một nghệ sỹ tạo hình có tầm cỡ thế giới. Hiệu quả quan trọng nhất là sức lôi cuốn của những hình thể kỳ dị như những cuộn giấy bạc vừa được thả bung ra với lớp bề mặt được bao phủ bằng titanium luôn phản chiếu ánh sáng mặt trời. 1.2. Các tác giả & tác phẩm De-Construction tiêu biểu. 1.2.1. KTS Peter Eisenman (Mỹ) Peter Eisenman (sinh ngày 11/8/1932) KTS người Mỹ gốc Do Thái. Sáng tác của ông gắn liền với sự phát triển từ Hậu Avant-garde, Hậu hiện đại đến Deconstruction. Eisenman là KTS tiêu biểu của Deconstruction, là 1 trong 6 KTS tiên phong tại cuộc triển lãm năm 1988. Peter Eisenman có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với Jacques Derrida - nhà tư tưởng của Hậu cấu trúc luận. Peter Eisenman là thành viên của nhóm NewYork Five nổi tiếng (cùng với John Hejduk, Charles Gwathmey, Richard Meier và Michael Graves). Trong khi các KTS cùng thời thường làm lại các ý tưởng của Le Corbusier, thì 5 người này phát triển những ý niệm và phong cách độc lập – và P.Eisenman dần định hình xu hướng Deconstruction. Các công trình của ông đều sử dụng các thủ pháp ma trận hoá, lưới hoá, giải phẫu vị trí, hình khối phức tạp, không có một tiêu chuẩn nhất định, vật liệu sử dụng đa dạng, nhiều mầu sắc đôi khi kỳ dị. Những dầm, cột và các thanh, mảng không có chức năng rõ ràng tạo nên một khung cảnh “rối rắm” bên trong công trình. Peter Eisenman là Giám đốc sáng lập Viện nghiên cứu kiến trúc & đô thị kiêm Tổng biên tập tạp chí Oppositions (sự đối nghịch/tương phản) của Viện này.
  • 14. 7 Ông là người có nhiều công trình sáng tạo hơn bất cứ KTS nào khác ngày nay. Tên tuổi của ông gắn liền với sự nghiệp xây dựng và đưa vào ứng dụng trường phái kiến trúc của sự đối lập. Dựa trên ý tưởng phá vỡ những lý thuyết giáo điều hiện có, nhất là về triết học và ngôn ngữ học, Eisenman đã phát triển những công thức ngày càng phức tạp về quá trình thiết kế kiến trúc, đặc biệt là vai trò của cấu trúc trong xã hội hiện đại. Eisenman thuộc nhóm những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào văn học này. Kiến trúc của ông được ví như những tác phẩm văn chương. Do Deconstruction chủ trương thúc đẩy sự phá vỡ hoặc phân mảnh các biểu tượng hoặc cấu trúc hiện có vốn không thể có sự thay thế tối ưu, nên Eisenman cũng không thể đưa ra một giải pháp hoàn toàn mới. Thay vào đó, ông đề xuất một khoảng trống về tâm lý có thể gây ra những quan ngại về văn hóa và cá tính. Bằng việc đưa giải tỏa kết cấu và gián đoạn vào những cấu trúc xưa nay vẫn mang tính ổn định và tiện nghi (như nhà ở gia đình), Eisenman tạo ra những kiến trúc ở ranh giới của thuyết hư vô. Peter Eisenman chịu ảnh hưởng lớn của triết gia Jacques Derrida. Kiến trúc của ông xây dựng trên những nguyên lý của các phát minh khoa học. Dành phần lớn thời gian để viết sách, giảng dạy và phê bình kiến trúc, nhưng cũng có nhiều công trình được XD như: Trung tâm nghệ thuật Wexner của ĐHTH Ohio (Hình 1) và trung tâm hội thảo Columbus bang Ohio (Hình 2). Các công trình này đều có chung một đặc điểm là hình khối phức tạp, không theo một tiêu chuẩn nhất định mà có vẻ như được thêm thắt dần, vật liệu sử dụng đa dạng, nhiều mầu sắc đôi khi kỳ dị. Cao ốc văn phòng ở Phố Tây (West Street, Battery Park - đoạn giữa mốc 0 và khu Wintergarden tại Trung tâm Tài chính Thế giới - World Financial Center). Một số tác phẩm tiêu biểu: The Virtual House, Đoạt giải trong cuộc thi ý tưởng phi không gian, 1996. House II, Harwick, Vermont, 1969 - 1970. House VI, Cornwall, Connecticut, 1972 - 1975. House X, Bloomfield Hills, Michigan, 1978. 1.2.2. KTS Bernard Tschumi (Mỹ) Sinh ngày 25/1/1944 tại Lausanne (Thụy Sĩ). Là KTS, nhà văn, nhà giáo dục, con trai KTS nổi tiếng Jean Tschumi. Học tập và nghiên cứu ở Paris và ETH (Zurich) tốt nghiệp năm 1969. Làm việc ở NewYork và Paris, dạy học ở Portsmouth (UK), Hiệp hội kiến trúc London, ĐH Princeton, Viện nghiên cứu kiến trúc & quy hoạch New York. Trưởng Khoa Kiến trúc, Quy hoạch & Bảo tồn ĐH Columbia (1988-2003). Công dân danh dự của Mỹ. Đã đoạt trên 20 giải thưởng về kiến trúc trong nước và trên thế giới. Huân chương hoàng gia Victoria, London, 1984.
  • 15. 8 Giải thưởng kiến trúc Mỹ. Chicago Athenaeum, 1999. Giải thưởng thiết kế AIA New York năm 2001, 2007. FAS liên đoàn kiến trúc sư thuỵ sĩ 2010. Công trình tiêu biểu Cải tạo công viên Parc de la Villette, Paris, France (1983–98) Sảnh đuờng Alfred Lerner Hall, Columbia University, New York City (1999) Bảo tàng New Acropolis Museum, Athens, Greece (2002–08) Trưòng kiến trúc quốc tế Florida FIU School of Architecture, Florida International University, Miami, Florida (2003) Vacheron Constantin Headquarters, Geneva, Switzerland (2004) Lindner Athletic Center, University of Cincinnati, Cincinnati, Ohio (2006) Blue Condominium, 105 Norfolk Street in the Lower East Side of New York City (2007) Limoges Concert Hall, France (2007) 1.2.3. KTS Frank O.Gehry (Mỹ) Frank Owen Gehry (tên thật là Frank Owen Goldenberg) sinh ngày 28/2/1929 tại Toronto (Canada) trong một gia đình người Do Thái gốc Ba Lan (bố làm nghề buôn bán vật liệu, mẹ là một một người yêu âm nhạc). Ông hành nghề kiến trúc tại California. Triết luận và hình thức kiến trúc của Frank O’Gehry thể hiện ngay từ khi cải tạo ngôi nhà riêng ở Santa Monica. ông giữ lại căn nhà cũ 2 tầng kiểu Hà Lan (kết cấu gỗ, mái dốc), phần mở rộng được thiết kế bất quy tắc, sử dụng vật liệu lạ lùng như tấm tôn, lưới thép, gỗ thanh, ván ép thô, kính có lưới thép,.. Về hình thức ngôi nhà là một khối xây dựng bất nhất, các bề mặt, đường nét xô lệch nhiều phương. năm 1978 ngôi nhà đã được giới thiệu như một sự cân bằng chính xác từ từng phần cho đến toàn cảnh, từ sự thô ráp đến tinh tế, giữa cái mới và nét xưa cũ vốn có của ngôi nhà gỗ màu hồng. Các công trình sau này của ông nổi bật với những đường cong tròn trịa, thường bọc bằng vật liệu kim loại phản xạ. Công trình tiêu biểu và nổi tiếng nhất là Bảo tàng Guggenheim ở Bilbao - Tây Ban Nha (được bình chọn là công trình kiến trúc đẹp nhất thế giới 1997). Với diện tích 24.000 m2 bảo tàng được thiết kế thành một khu trưng bày lớn có hình dáng uốn vặn phức tạp. Toàn bộ công trình có kết cấu khung thép, bên ngoài bọc titanium diện tích lên đến 2.787.000 m2 tạo một vẻ đẹp rực rỡ hào hùng. Các hình khối có sức biểu hiện và thu hút rất cao, tạo sự chấn
  • 16. 9 động, một sức truyền cảm nghệ thuật sâu xa và phức tạp. Qua đó, F.O.Gehry nêu ra những nguyên lý của “Kiến trúc Deconstruction”: - Làm phân tán và mất trật tự tổ chức bố cục, hình dáng, tỉ lệ,.. trong kiến trúc. - Làm mất đi sự hoàn thiện mang tính quy chỉnh truyền thống của sự vật, tạo cho công trình kiến trúc sự dở dang. - Làm đột biến, gây ra những sự thay đổi đột ngột. - Tạo cảm giác động với những hình thái uốn vặn, mất ổn định, phi trọng lực, gây ấn tượng bay bổng (trái với cân bằng đối xứng thường thấy trong kiến trúc cổ điển). - Tạo sự tương phản cực đại giữa các khối kiến trúc mỏng manh bên cạnh những khối to lớn quá khổ, tạo cảm giác không ổn định, dễ đổ vỡ. - Tạo lập sự cách tân về hình thức đến mức cao nhất. Với tư tưởng kiến trúc vững vàng, F.O.Gehry đã thể hiện rõ đặc trưng của “Kiến trúc Deconstruction” - hình thức vượt quá công năng. Các giải thưởng Giải thưởng Arnold W.Brunner về Kiến trúc, Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ, 1977 Giải thưởng Pritzker, 1989 Giải thưởng Wolf về Kiến trúc của Quỹ Wolf, 1992 Giải thưởng Hoàng gia về kiến trúc, Hiệp hội Nghệ thuật Nhật Bản, 1992 Giải thưởng Dorothy và Lillian Gish, 1994 Huy chương Quốc gia về Nghệ thuật, (1998) Giải thưởng Friedrich Kiesler, 1998 Huy chương vàng AIA, Hiệp hội Kiến trúc sư Mỹ (AIA), 1999 Huy chương vàng, Hiệp hội Kiến trúc sư Hoàng gia Anh (RIBA), 2000 Huy chương vàng Kiến trúc, Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ, 2002 Huân chương Canada (Order of Canada), 2002 1.2.4. KTS Daniel Libeskind Sinh ngày 12/5/1946 ở Łódź (Ba Lan), trong một gia đình Do Thái nạn nhân Holocaust. Đến New York năm 1959 bằng học bổng của Quỹ VH Mỹ - Israel và trở thành công dân Mỹ năm 1965. - Năm 1968 thực tập với KTS Richard Meier. Tốt nghiệp KTS tại ĐH Cooper Union (1970). tốt nghiệp cao học Lịch sử và lý luận kiến trúc tại ĐH Essex (1972). Có thời gian làm việc cho New York Institute for Architecture and Urban Studies của Peter Eisenman.
  • 17. 10 - Quan điểm thiết kế và cảm hứng sáng tác của ông dựa vào 17 “từ khóa”: Lạc quan & Bi quan, Biểu cảm & Trung lập, Sự khác biệt & Bảo thủ, Cảm xúc & Lạnh lùng, Giải thích & Hiểu được, Đôi tay & Máy tính, Phức tạp & Đơn giản, Chính trị & Sự lẩn tránh, Thật & Giả, Đoán trước & Thói quen, Thô mộc & Tinh tế, Nhọn & Cùn, Đáng ghi nhớ & Có thể quên, Cởi mở & Thầm lặng, Mạo hiểm & An toàn, Không gian & Thời trang, Dân chủ & Độc đoán. Daniel Libeskind giảng dạy ở nhiều nơi về lý thuyết kiến trúc. Nhưng mãi đến 1998 mới có công trình đầu tiên được XD hoàn chỉnh (BT Felix Nussbaum ở Osnabrück, Đức, 1995-98; mở rộng 2010), còn trước đó nhiều thiết kế của ông bị bác bỏ vì phi kết cấu / không theo quy luật. Sau thành công tiếp theo ở BT Do Thái Berlin (1999), ông trở nên nổi tiếng với một loạt Bảo tàng có kiến trúc nổi bật và đặc sắc: BT Nghệ thuật Denver (Mỹ); BT Chiến tranh Đế quốc (Manchester, Anh), BT Hoàng gia Ontario (Toronto, Canada); BT Do Thái San Francisco (Mỹ); BT Do Thái Copenhagen (Đan Mạch). Hiện nay, ông mở rộng phạm vi sang các công trình dân dụng khác, như Trung tâm Wohl tại ĐH Bar-Ilan (Tel Aviv, Israel), Trung tâm thương mại Westside (Bern, Thụy Sĩ), nhà hát Grand Canal (Dublin, Ireland),.. và nhiều đồ án nhà ở tại khu vực châu Á. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có giải thưởng Nghệ thuật Hiroshima 2001 dành cho nghệ sĩ có công trình góp phần vào việc đề cao sự hiểu biết lẫn nhau và hòa bình trên thế giới. Năm 2003, Libeskind đã thắng trong cuộc thi qui hoạch tổng thể xây dựng lại khu vực Trung tâm Thương mại Thế giới tại Lower Manhattan. Trung tâm mua sắm Westside ở Bern, Thụy Sĩ Daniel Libeskind thay đổi diện mạo cho các trung tâm thương mại - “thành phố trong thành phố” tại cửa ngõ phía tây của Bern. Đó là một không gian công cộng với các dịch vụ và tiện nghi bất tận, một nơi giao thoa của thương mại và văn hóa trong một kiến trúc hoàn toàn mới lạ của thế kỷ 21 Đối với một công trình theo chủ nghĩa giải tỏa kết cấu, những đường thẳng, những hình khối vuông vức, mạnh mẽ, những thông số theo đúng chuẩn mực của kiến trúc hiện đại bị chối bỏ hoàn toàn. Thay vào đó là những chi tiết móp méo, cong vẹo, không tuân theo bất cứ quy tắc nào (mà Peter Eisenman gọi là “sự đánh giá lại không gian kiến trúc”) được tận dụng tối đa. Chi tiết cấu trúc mặt ngoài của Westside là một cuộc cách mạng so với lối kiến trúc truyền thống. Cửa sổ hầu hết là những khối hình học bất quy tắc với đủ hình dáng, từ tam giác, tứ giác đến ngũ giác với đủ kích cỡ lớn nhỏ khác nhau ngả nghiêng hỗn độn. Bắt nguồn từ ý tưởng “là nơi hội tụ của thương mại, văn hóa và giải trí” nên ngay cả vật liệu tạo nên công trình cũng là sự tổng hợp đa dạng hài hòa trong một
  • 18. 11 mô hình chặt chẽ. Đó là sự kết hợp của một cấu trúc trông như một khối pha lê, với bộ khung chống đỡ bằng bêtông cốt thép bao phủ lấy bề ngoài Những vết cắt trên mái làm thay đổi ánh sáng rọi vào bên trong 2 khối công trình. Một khối phóng tầm nhìn ra quanh cảnh xung quanh thành phố Bern và nối liền với hồ bơi của trung tâm, trong khi khối còn lại nằm kề với khách sạn và rạp chiếu phim. Những đường gấp khúc bất quy tắc của các bức tường cũng như hệ thống đèn lắp ngổn ngang như những họa tiết trang trí trong khu mua sắm tạo nên sự thích thú khám phá và chiêm ngưỡng cho khách hàng khi dạo bước mua sắm qua các cửa hàng. Hệ thống xà chạy dọc nóc nhà cũng không theo một đường nét cụ thể, tất cả đều tự nhiên và bản năng đúng theo tinh thần của kiến trúc giải tỏa kết cấu - xu hướng thịnh hành và phát triển nhất trong thế kỷ 21 (Tổng hợp từ World Architecture và Archtonic) 1.2.5. KTS Rem Koolhaas (Hà Lan) Rem Koolhaas (sinh 17/11/1944 ở Rotterdam, Hµ Lan), nguyªn lµ phãng viªn vµ nhµ biªn kÞch, theo häc kiÕn tróc t¹i Tr−êng KiÕn tróc London. ¤ng lµ thµnh viªn chÝnh cña h·ng OMA (Office for Metropolitan Architecture) vµ bé phËn nghiªn cøu AMO cña h·ng. ¤ng còng lµ gi¸o s− kiÕn tróc vµ thiÕt kÕ ®« thÞ t¹i §H Harvard. Gi¶i th−ëng Pritzker 2000. ¤ng lµ KTS ®Çu tiªn biÓu ®¹t mét c¸ch cã hÖ thèng c¸c vÊn ®Ò x· héi vµ kiÕn tróc cã liªn kÕt chÆt chÏ víi nhau KiÕn tróc kh«ng ®¬n thuÇn lµ mét c¸i hép v« tri v« gi¸c, mµ lµ ®iÓm giao cña v« sè sù kiÖn hçn ®én, m©u thuÉn lÉn nhau KiÕn tróc sÏ ph¸t triÓn theo xu h−íng toµn cÇu ho¸ trong t−¬ng lai víi møc ®é kh¸c nhau tuú theo tõng khu vùc. Rem Koolhaas ®· më réng giíi h¹n vèn cã cña kiÕn tróc. ¤ng tËp trung vµo mèi liªn hÖ gi÷a con ng−êi và kh«ng gian. ¤ng s¸ng t¹o những tßa nhµ, n¬i con ng−êi gÇn gòi nhau vµ nhê ®ã mµ kiÕn tróc đạt ®−îc c¸c môc tiªu ®Çy tham väng. ¶nh h−ëng cña «ng trªn thÕ giíi ®· v−ît rất xa ngoài giíi h¹n cña kiÕn tróc. Công trình tiêu biểu o §¹i sø qu¸n Hµ Lan t¹i Berlin, §øc (Fritzker 2000). o House of music, Porto, Bå §µo Nha : x©y dùng thiÕt kÕ t¸o b¹o ®¸nh dÊu mét b−íc ngoÆt trong lÞch sö cña thµnh phè vµ më ra con ®−êng hiÖn ®¹i. N»m liÒn kÒ víi khu vùc trung t©m lÞch sö cña thµnh phè nã chiÕm mét kh«ng gian mµ d−êng nh− ®Ó ®−îc chê ®îi trong nhiÒu n¨m. o Th− viÖn Trung t©m Seattle Seattle, Hoa Kú
  • 19. 12 Víi diÖn tÝch 34000m2 cã søc chøa 1,45 triÖu cuèn s¸ch, thu hót 2 triÖu l−ît ng−êi truy cËp trong n¨m ®Çu tiªn. Th− viÖn lµ mét sù xuÊt hiÖn ®éc ®¸o, næi bËt, bao gåm nh÷ng h×nh khèi rêi r¹c, bång bÒnh, d−êng nh− ®−îc bao bäc trong mét m¹ng l−íi thÐp lín víi vá bäc lµ kÝnh o Trung t©m V¨n hãa TruyÒn h×nh B¾c Kinh (TVCC) o §µi truyÒn h×nh trung −¬ng Trung Quèc (CCTV). 1.2.6. KTS Zaha Hadid (Anh) sinh ngày 3/10/1950 ở Baghdad, Iraq. Học kiến trúc tại London, một thời gian làm việc tại OMA (Office for Metropolitan Architecture), là trợ lý cho Reem Koolhas rồi mở VP riêng. Là nữ KTS đầu tiên giành Giải thưởng Pritzker (2004). - Các công trình của bà mang nặng tính ý tưởng với những hình khối động và những giải pháp đặc biệt để để tiếp cận cũng như giải quyết công trình, đột xuất các chiều hướng - Hầu hết các công trình của Zaha Hadid đều thể hiện một bút pháp giàu tính biểu cảm và kịch tính cao giữa hình khối và không gian, khi thì co cụm đông đặc, khi thì giãn nở một cách bùng nổ. Công trình tiêu biểu o Trạm cứu hỏa Vitra, Weil am Rhein, Đức, 1993 o Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Rosenthal, Cincinnati, Ohio, Mỹ, 1998 o Ga phía bắc Hoenheim, Strasbourg, Pháp, 2001 o Cầu trượt tuyết Bergisel, Innsbruck, Áo, 2002 o Ordrupgaard annexe, Copenhagen, Đan Mạch, 2005 o Trung tâm Khoa học Phaeno, Wolfsburg, Đức, 2005 o Ga tàu điện trên cao Nordketten, Innsbruck, Áo, 2005 o Toà nhà trung tâm trong tổ hợp sản xuất xe hơi BMW, Leipzig, Đức, 2005 o Ga tàu điện cao tốc ở Afragola, Ý, 2008 Bảo tàng Eli & Edythe (2012). Michigan State University, East Lansing, USA KTS Zaha Hadid & Patrik Schumacher. Diện tích: 46,000 m2 Tận dụng hai mặt phẳng sẵn có từ các dòng lưu thông và kết nối trong khuôn viên, phần chính của bảo tàng được xây nổi lên với các nếp gấp xung quanh các diện với không gian ba chiều được xác định. Công trình với sự “vuông vắn, thẳng thắn” của các con đường tạo ra một cuộc đối thoại mang tính hình học, có phần khác lạ so với phong cách mềm mại thường gặp của Z.Hadid.
  • 20. 13 Hình thái công trình duy trì một mối quan hệ mở độc đáo dành cho những người còn lưu luyến với không gian thoáng đãng nơi đây. Bảo tàng ngoài chức năng của mình sẽ làm tốt nhiệm vụ là một trung tâm văn hóa cộng đồng. Không hề phá vỡ cảnh quan vốn có, nó điểm xuyết thêm một chức năng cần phải có và hài hòa với tất cả. o Dongdaemun Design park & Plaza seoul, south korea 2007- 2013 Dongdaemun Design Plaza & Park (DDP) là một dự án phát triển đô thị được xây dựng ở Dongdaemun , Seoul , Hàn Quốc . Nó sẽ chứa một công viên đa dụng, một trung tâm thời trang, trung tâm mua sắm ngầm, và phục hồi của một số hạng mục của di sản quốc gia. Để thay thế các cựu Sân vận động Dongdaemun , một sân vận động bóng chày mới sẽ được xây dựng trong Gocheok-dong .  cảm hứng của trung tâm này cung cấp một liên kết quan trọng giữa các nền văn hóa đương đại, đồ tạo tác lịch sử và thiên nhiên đang nổi lên tại trung tâm của Dongdeamun, Seoul. một nguồn lưc học tập cho các nhà thiết kế và các thành viên của công chúng kết hợp với một ốc đảo đô thị để thư giãn, giải trí và nơi chú ẩn, cảnh quan liên tục của nó thúc đẩy suy nghĩ chất dịch trên tất cả lĩnh vực thiết kế o Beko Masterplan Belgrade, Serbia Lamda phát triển 94.000m2 Dự án foscusses tái tạo đô thị của một trang web quan trọng tại ngã tư của các dự án văn hóa trọng điểm trong thành phố Belgrade. Theo truyền thông hiện đại mạnh mẽ của khu vực, quy hoạch tổng thể đã áp dụng khái niệm mới và phương pháp kiểm tra và tổ chức các chương trình của trang web Ý tưởng thiết kế đã được công bố cho "quy hoạch tổng thể BEKO" nằm ở trung tâm của vùng văn hóa Belgrade. Khu phức hợp mới sẽ bao gồm một khu dân cư, không gian bán lẻ và trung tâm thương mại, trung tâm hội nghị lớn và một khách sạn 5 sao, nằm bên cạnh bức tường lâu đài lịch sử Kalemegdan. Dự án kết nối các yếu tố cá nhân của quy hoạch theo một cách duy trì tính độc đáo và tạo ra cảm giác của một lớp chảy tự nhiên của đô thị, tích hợp hoàn toàn với kiến trúc. Không gian riêng tư và công cộng chồng chéo nhau như cấu trúc pha trộn vào cảnh quan, tạo ra một loạt các môi trường năng động trong một cấu trúc liên tục. Mái kéo dài xuống mặt đất. o Nhà hát Opera Quảng Châu Diện tích khu đất xây dựng: 70.000 m2 Diện tích xây dựng công trình: 42,393m2 Năm xây dựng công trình: 2003-2010 Đây là dự án đầu tiên của Zaha Hadid tại Trung Quốc. Zaha Hadid cho rằng đó sẽ là
  • 21. 14 một công trình hài hòa với các mối quan hệ theo ngữ cảnh đô thị, kết hợp truyền thống lịch sử, văn hóa đã định hình của Quảng Châu và sẽ tạo ra một bản sắc mới trong tương lai, là một biểu tượng của Quảng Châu - một điểm đến văn hóa của châu Á Tổ hợp công trình rộng 70.000 m2 được đặt tại trung tâm khu đô thị văn hóa với mục đích tạo nên mối liên kết giữa sông Pearl với phía Nam, phát triển chức năng đô thị thông qua việc kết nối bờ sông và cảng biển. Hình thức kiến trúc độc đáo với ý tưởng “những viên sỏi dưới lòng suối được bào nhẵn" bởi dòng chảy lịch sử - văn hóa. Công trình gồm hai khối lớn là nhà hát 1.800 chỗ và khán phòng đa mục đích (biểu diễn nghệ thuật, opera và hoà nhạc...). Khẳng định phong cách kiến trúc của Zaha Hadid - khái niệm trọng lực dường như không tồn tại, và sự chuyển động của hình khối. o Cung thể thao dưới nước London được xây dựng để phục vụ Thế vận hội mùa hè 2012 tổ chức tại London (Anh). Phần mái của cung thể thao dưới nước được thiết kế theo đường cong gợn sóng. Ở phần mái nhô cao vừa mang vẻ đẹp sáng tạo, vừa tận dụng thêm khoảng không gian cho hàng ghế vòng ở khán đài. Công trình có một cây cầu dành cho người đi bộ, nối liền giữa cầu Stratford và các cung thể thao của Thế vận hội mùa hè London 2012. Hơn 2/3 khán giả dự kiến sẽ di chuyển bằng lối này. Phía dưới cây cầu là hồ bơi huấn luyện hiện đại, phần mái thiết kế mở nên nhận được ánh sáng mặt trời. Hồ thi đấu dài 50m và hồ lặn nằm ở sảnh lớn. Phần mái gợn sóng dài 160m và rộng 90m có khung đỡ nặng đến 3.000 tấn Phần mái gợn sóng của cung thể thao dưới nước là một cấu trúc độc đáo, có chiều dài 160m và phần rộng nhất là 90m với khung đỡ mái nặng 3.000 tấn. Phần ngoại thất được phủ lớp sơn màu kim loại và cột gỗ. o apoli Afragola High Speed Train Station NAples, Italy RFI spa Đang xây dựng 20.000m2 Một cửa ngõ đến Naples, được tổ chức tốt giao thông vận tải trao đổi và chọn một cột mốc công bố phương pháp tiếp cận đến thành phố. Khái niệm của chúng tôi là một cây cầu mở rộng qua các bài hát, một đô thị hóa công cộng liên kết được hình thành bởi một ngôn ngữ kiến trúc năng động hướng tới phát âm của phong trào
  • 22. 15 o Burnham pavillion Chicago, Hoa Kỳ2009-2009 Diện tích 1200m2 Một gian hàng tạm thời được thiết kế và xây dựng ở công viên Thiên niên kỷ là một phần lễ kỷ niệm kế hoạch Burnham. phản ánh truyền thống lâu đời của Chicago. là công trình điêu khắc của Zaha Hadid và Ben van Berkel tại Millennium Park , biểu tượng theo đuổi tiếp tục của thành phố tầm nhìn kiến trúc của Kế hoạch với kiến trúc hiện đại và lập kế hoạch. Những tác phẩm điêu khắc đã được tư nhân tài trợ và cư trú tại Millennium Park. Các gian hàng được thiết kế để cấu trúc tạm thời. 1.3. Những nghiên cứu & đánh giá về kiến trúc De-Construction. 1.3.1. Những nhận xét của BGK giải Pritzker. (về F.O.Gehry (http://www.pritzkerprize.com/1989/announcement), http://architect.architecture.sk/frank-owen-gehry-architect/frank-owen- gehry-architect.php),R.Koolhaas, Z.Hadid, T.Mayner / Morphosis) Peter Eisenman (-> đưa vào chương 2 – triết lý / tư tưởng của Deconstruction qua quan điểm của các tác giả tiêu biểu). Ông có thấy hạnh phúc khi nó kết thúc không? Eisenman: Không. Chắc chắn không. Nó cũng giống như nói rằng bạn hạnh phúc khi chuẩn bị chết vậy. Tôi không phải là người đến để hoàn thiện, tôi là người khởi xướng. Và tôi luôn suy nghĩ, dự án sắp tới chúng tôi sẽ làm là gì, điều đó kích thích tôi. Sự kết thúc, như tôi vẫn nói, giống sự mang thai của người phụ nữ. Khi sinh con, cô ấy hạnh phúc vì có nó, nhưng có một cảm giác gọi là thời kỳ suy thoái hậu sinh, khi cô ta không còn mang đứa trẻ trong bụng nữa. Có gì hứng thú khi quan sát mọi việc kết thúc? Cảm giác thỏa mãn hoàn thiện ư? Nó có nhiều hơn mức tôi có thể nghĩ không? Primo Levi (nhà hóa học Italia gốc Do Thái, sống sót sau cuộc thảm sát, là tác giả của rất nhiều tiểu thuyết, thơ và truyện ngắn về thời kỳ đó) cũng nói về một ý tưởng tương tự trong cuốn sách về Auschwitz. Ông viết về những người tù, không còn sống nữa, nhưng cũng chưa hẳn đã chết. Đúng hơn là họ dường như đang bị kéo xuống địa ngục của chính họ. Tôi chợt nhớ đến những dòng đó khi tôi trông thấy
  • 23. 16 những cái đầu biến mất trong khu tưởng niệm. Bạn sẽ không thường xuyên nhìn thấy cảnh tượng này đâu, trên một bình diện phẳng như vậy Tôi nghĩ là nó vẫn quá thẩm mỹ, thiên về tạo hình. Không phải tôi mong nó xấu xí, nhưng tôi không muốn nó có vẻ như được thiết kế. Tôi muốn những thứ tầm thường, vô vị. Nếu muốn khoe một bức ảnh, thì hãy khoe đi, đừng mất quá nhiều thời gian để tỉa tót nó. Tôi chỉ muốn mọi người có cảm nhận về thực tại, và trải qua một cảm giác mà họ chưa từng kinh qua bao giờ. Một trong số đó là cảm giác về sự khác biệt, một chút hoang mang. Thế giới vốn đầy những thông tin mà nơi đây lại không có thông tin gì hết. Bernard Tschumi Bernard Tschumi đã đánh giá lại vai trò của kiến trúc qua việc thực hành của cá nhân và quan điểm tự do về chính trị. Từ những năm 1970- ông lập luận rằng không có mối quan hệ cố định giữa hình thức kiến trúc và các sự kiện diễn ra bên trong nó. Theo ông, kiến trúc không phải để diễn tả một thực thể xã hội, nhưng có chức năng như một công cụ để tham vấn và sửa đổi cấu trúc của nó. Những năm 1970- ông giảng dạy ở Hiệp hội kiến trúc London và các dự án như Screenplays 1977, Manhattan Transcripts 1981. Ông đã kết hợp phim ảnh và lý thuyết văn học với kiến trúc, mở rộng công việc của các nhà tư tưởng như Roland Barthes và Michel Foucault nhằm tái kiểm tra trách nhiệm của kiến trúc trong việc tăng cường các câu chuyện văn hoá không thể chất vấn. Ảnh hưởng lớn tới công việc này là các lý thuyết và sơ đồ cấu trúc của nhà làm phim nguời Nga Sergei Einsenstein. Trong các nghiên cứu của mình, B.Tschumi đã chuyển thể phương pháp đồ hoạ của Eisenstein để khai thác điều kiện nội tại giữa các yếu tố của hệ thống tạo thành bởi không gian, sự kiện và chuyển động / hoạt động. Trong tuyên bố về chủ trương của mình như là “tuyển thủ bóng đá di chuyển ngang qua khắp các chiến trường”, ông đã làm nổi bật sự đảo lộn định hướng và bất kỳ khả năng của một cách đọc đơn giản. Cách tiếp cận này diễn ra trong kiến trúc của ông theo hai cấp: đầu tiên, bằng cách phơi bày các kết nối thông thường đã được xác đinh giữa trình tự kiến trúc và không gian, chương trình, và sự chuyển động sản xuất và nhắc lại các trình tự này. thứ hai, bằng cách sáng tạo những kết hợp mới giữa không gian và các sự kiện diễn ra trong đó qua các tiến trình xoá bỏ thói quen, giải trừ cấu trúc, siêu áp đặt, và chương trình chéo.
  • 24. 17 những năm cuối thập niên 70 công việc của tschumi được cải tiến thông qua các công trình khoa học. Ông giảng dạy ở hiệp hội kiến trúc và các dự án như Screenplays 1977, Manhttan transcripts 1981 và được phát triển từ các kỹ thuật dựng phim lấy từ phim và các kỹ thuật của kiến trúc La mã cách tân . ông sử dụng các yếu tố dựng phim như một kỹ thuật để tổ chức chương trình (các hệ thống không gian ,sự kiện ,trào lưu, như các kỹ thuật trực quan và chính thức )thách thức công việc của các kiến trúc sư đương thời đã đang được tiến hành tập trung vào các kỹ thuật dựng phim như các chiến lược chính thức hoàn toàn. những tác phẩm của ông đáp ứng những móc nối phổ biến của lý thuyết kiến trúc đương đại đã đạt đến điểm hoàn thiện, hoặc qua sự hiểu nhầm của hậu cấu trúc, hoặc lẩm tưởng trong giấc mơ tự do, tả khuynh của cuộc cách mạng văn hoá chinh trị thành công. Ví dụ, Superstudio như một nhánh học thuyết của chủ nghĩa kiến trúc hậu hiện đại Năm 1978, ông xuất bản bài viết “Sự thỏa mãn của Kiến trúc”, trong đó ông sử dụng quan hệ tình dục như sự tương đồng đặc điểm với kiến trúc. Ông tuyên bố rằng kiến trúc bởi tự nhiên là vô dụng một cách căn bản, thiết lập ngoài việc "xây dựng". Ông đòi hỏi sự tôn vinh những điều vô dụng kiến trúc, trong đó sự hỗn loạn của nhục dục và thứ tự của sự tinh khiết kết hợp để tạo thành cấu trúc gợi lại những không gian mà trong đó chúng được xây dựng. Ông phân biệt giữa sự hình thành kiến thức và sự hiểu biết về hình thức, tranh luận rằng kiến trúc là quá thường xuyên sa thải vì sau đó khi nó thường có thể được sử dụng như trước đây. Bài luận này là tiền thân của một chuỗi các tác phẩm được gọi Tschumi là “Giới hạn kiến trúc”. Parc de la Villette năm 1982 tại Paris là công trình công cộng lớn đầu tiên mà B.Tschumi có thể hiện thực hoá các nghiên cứu thiết kế và lý thuyết đã được thử nghiệm trong các dự án Manhattan Transcripts & Screenplays. Các trình tự chương trình, không gian và cảnh quan trong công viên đã được sử dụng để tạo ra các vị trí thực hành xã hội khác, điều đó thách thức các giá trị sử dụng dự kiến được củng cố bởi một công viên đô thị lớn ở Paris. (?) Tschumi tiếp tục quy trình này trong một loạt các cuộc thi và dự án xây dựng từ năm 1983. Nhà hát Quốc gia Tokyo năm 1986 và Dự án Nhà hát được tiếp tục nghiên cứu Tschumi bắt đầu trong các bản thảo Manhattan, đưa vào kỹ thuật ký hiệu từ điệu nhảy thử nghiệm và điểm số âm nhạc, và sử dụng quá trình thiết kế riêng của mình để thách thức các cách thức của thói quen tư duy về không gian, trong sự trái ngược với sự tĩnh lặng trước đó, các kỹ thuật biểu hiện không gian hai chiều trong đó mô tả các phác thảo của một tòa nhà nhưng không phải là cường độ của cuộc sống bên trong nó. Ở quy mô cục bộ trong cửa hàng video 1990 tại Groningen, tường trong suốt và sàn nghiêng tạo ra một sự xáo trộn mãnh liệt các đối tượng liên quan đến tiêu chuẩn như tường, nội thất, ngoại thất và đường nằm ngang. Ở quy mô đô thị trong các dự án như Le Fresnoy năm 1992 (Triển lãm nghệ thuật đương đại thế giới ở Tourcoing, Pháp) và trường kiến trúc tại Marne la Vallee, Pháp
  • 25. 18 năm 1995 (cả hai đều hoàn thành năm 1999), các không gian lớn hơn thách thức các chuỗi chương trình chuẩn mực và được chấp nhận sử dụng. Công trình phức hợp Le Fresnoy sử dụng không gian giữa những mái nhà của các tòa nhà hiện có và thêm mái ô lớn ở trên để tạo ra một vùng xen kẽ của công trình trên đường dốc và sàn diễn. Khu vực này là những gì mà Tschumi gọi là sự nằm giữa, một sự phủ định hình thức tinh khiết đã được thực hành trong đồ án dự thi Karlsruhe ZKM (1989), nơi một không gian lớn ở khu vực giữa sảnh được ngắt quãng bởi sự lưu thông khép kín và các phần nhỏ hơn và tập chương trình nhỏ hơn được phát triển nhiều hơn một mạng lưới không gian xen kẽ. 6 CONCEPT cơ bản định hình quan điểm kiến trúc của Bernard Tschumi - CONCEPT 1: Technologies of Defamiliarization (công nghệ phá vỡ thói quen) Trong giữa thập niên 1970 nhóm nhỏ có ý tưởng khác lạ bắt đầu hình thành từ các kiến trúc sư khác nhau trên thế giới như ở England,Áo, Hoa Kỳ, Nhật Bản (chủ yếu là các nước có sự khủng hoảng và ảnh hưởng văn hóa thời hậu công nghiệp) tận dụng tình trạng tan rã và hời hợt để chống lại chính sự khô cứng quy củ của nó. Họ đóng vai trò là những người tiên phong phá vỡ các thói quen của chủ nghĩa hiện đại, phá bỏ những quy tắc lặp lại, sự không cần thiết phải có cửa sổ hay hệ thống trụ cột và khung chịu lực truyền thống nhàm chán. Cách mạng công nghiệp trong xây dựng với nhiều ứng dụng cụ thể về thép bê tông ,vật liệu mới và những tiến bộ mang tính chính xác và mô phỏng của công nghệ thông tin ,hiện thực hóa những yêu cầu của việc phải phá vỡ các thói quen về hình thức và không gian mà các kiến trúc sư trong giai đoạn tiên phong với những thử nghiệm nho nhỏ ban đầu đã đặt ra mà trước đó tất cả chỉ dừng lại ở vấn đề ý tưởng hay đồ án kiến trúc thể hiện quan điểm triết lý và cách cảm nhận, truyền tải về không gian của kiến trúc sư . - CONCEPT 2: The Mediated “Metropolitan” Shock (cú shock giữa đô thị) Đó là những hình ảnh chập chờn, tạo ra các ấn tượng về thị giác. Trong thời đại của thông tin thuần túy mọi thứ được phổ cập phơi bày thì như Walter Benjamin (trong tác phẩm “Kỷ nguyên của sinh sản cơ khí”). “Tôi ghét phải trích dẫn một "cổ điển", điều đó toát lên sự mệt mỏi khi phải tiếp nhận mãi những gì không có sự đổi mới, sáng tạo mới ngoài những chân lý kèo dài hàng thế kỷ - chúng ta cần những yếu tố bất ngờ, những yếu tố gây ngạc nhiên, những cú shock thật sự từ hình ảnh. Nó cũng là đặc thù của các điều kiện đương thời và những điều nguy hiểm bấp bênh của cuộc sống trong các đô thị hiện đại. Những mối nguy hiểm dẫn đến sự lo lắng liên tục về việc tìm kiếm chính mình trong một thế giới mà tất cả mọi thứ là không đáng kể và rẻ tiền. Sự trải nghiệm về các lo lắng như một kinh nghiêm về việc phá
  • 26. 19 vỡ thói quen (ngay cả nếp sống thông thường). Phân tích của Benjamin tương ứng với các vấn đề khó giải quyết được rõ ràng trong triết học và lịch sử kiến trúc khi nói đó là một sự đơn giản hay một hình thức nghệ thuật. Kiến trúc và những công trình đô thị như những nơi để trải nghiệm và thử nghiệm những phản xạ thú vị của xã hội đương đại. Như “deconstruct and self-destruct” (giải cấu trúc và tự hủy) - ai đó nhìn thấy vai trò của kiến trúc như việc tái tạo (nhìn) lại thói quen, các bối cảnh, sự chen lấn, nói một cách khác, có cách nhìn như những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa ngữ cảnh và chủ nghĩa lịch sử, đẩy chủ nghĩa hiện đại trong kiến trúc về phía sau với những giá trị lịch sử và cổ điển. Công chúng hầu như luôn đứng sau các giá trị truyền thống, với họ kiến trúc là sự thoải mái, là chỗ ở, là vật liệu. Tuy nhiên, đối với những người mà kiến trúc không cần thoải mái (người vô gia cư, người có nhu cầu tối thiểu, hay tội phạm - những mặt trái song song tồn tại của thời kỳ hậu công nghiệp), cũng là vì tiến bộ xã hội và phát triển chung, thì các thiết bị tạo sốc có thể là một công cụ không thể thiếu. Những điều này có thể thấy dễ dàng trong các siêu đô thị từ những giải pháp không quen thuộc đến các vấn đề thú vị. những sự phân rã xáo trộn xuất hiện nhiều hơn trong các thể loại công trình đa dạng như những dấu hiệu tích cực đưa khái niệm shock gần gũi hơn trở thành những điểm nhấn của hàng chuỗi nhàm chán, ngược với những nỗ lực hoài cổ khôi phục lại những tiếp nối không thể của quá khứ. Những điều này vẫn diễn ra và phát triển suốt 50 năm sau những lý thuyết của Benjamin, như minh chứng cho lý thuyết tạo “Shock” của ông. Những nhu cầu thay đổi không ngừng tăng lên trái ngược với những gì là hời hợt nông cạn, những nhu cầu tầm thường được giới truyền thông đánh bóng rồi nhanh chóng chìm vào dĩ vãng, làm đảo lộn nhận thức, hiểu lầm các giá trị đích thực, không đồng nghĩa với việc làm suy yếu biểu tượng kiến trúc như việc làm suy giảm sức mạnh và quyền lực đã diễn ra trong lịch sử. - CONCEPT 3: De-structuring (Giải cấu trúc) sự “suy yếu” này của kiến trúc, mối quan hệ đã thay đổi giữa cấu trúc và hình ảnh, cấu trúc và lớp vỏ - là đề tài thú vị để xem xét dưới ánh sáng của một cuộc tranh luận gần đây trong giới kiến trúc, cụ thể là: cấu trúc so với vật trang trí. Từ thời Phục Hưng, lý thuyết kiến trúc luôn luôn phân biệt cấu trúc với trang trí, và đặt ra hệ thống phân cấp giữa chúng. Theo Leon Baptista Alberti, "trang trí có đặc điểm của một cái gì đó được đính kèm hoặc bổ sung". Trang trí được hiểu là phụ gia, nó không thách thức hoặc làm suy yếu cấu trúc. Nhưng những gì tạo ra hệ thống phân cấp này theo nghĩa ngày nay, khi cấu trúc thường vẫn giữ nguyên - một mạng lưới lặp đi lặp lại và vô hiệu hóa ?
  • 27. 20 Trước đây với một bộ khung cơ bản bằng gỗ, thép hoặc bê tông thì quyết định có nên xây dựng khung từ những chất liệu này thường là các kỹ sư và các nhà kinh tế chứ không phải KTS. Các KTS không có nghĩa vụ phải hỏi về kết cấu. Cấu trúc phải đứng vững. Sau cùng, những gì sẽ xảy ra đã có bảo hiểm. Nếu bị đổ có nghĩa là cả tòa nhà và toàn bộ căn cứ địa của tư tưởng sụp đổ theo. So với khoa học hay triết học, kiến trúc hiếm khi đặt câu hỏi với nền tảng của mình. Kết quả của những "thói quen tư duy" trong kiến trúc là kỹ sư kết cấu không được phép hỏi nhiều hơn, như cơ chế vận hành của máy chiếu khi xem phim, hoặc phần cứng của cái TV khi xem trên màn hình của nó. Đó là điều hiển nhiên. Nhà phê bình xã hội thường xuyên đặt câu hỏi về hình ảnh, nhưng hiếm khi đặt câu hỏi về bộ máy / bộ khung. Tuy nhiên, trong hơn một thế kỷ - đặc biệt là 20 năm qua - đã thấy bắt đầu có những câu hỏi như vậy. Triết học đương đại đã đề cập đến mối quan hệ giữa cái khung và hình ảnh - khung được xem là cấu trúc / phần cứng, còn hình ảnh là vật trang trí. Parergon Jacques Derrida đã viết câu hỏi như vậy vào giữa khung và hình ảnh của bức tranh. Theo truyền thống, cả khung và cấu trúc đều thực hiện những chức năng tương tự là "giữ nó lại với nhau". - CONCEPT 4: Superimposition (Siêu chồng chéo) Ngay từ đầu, các cuộc bút chiến của giải cấu trúc cùng với nhiều tư tưởng hậu cấu trúc, ít được các KTS quan tâm vì dường như nó đặt câu hỏi về nguyên tắc của geborgenheit (sự an toàn) - cái mà chính chủ nghĩa hậu hiện đại đã cố gắng thúc đẩy. Jacques Derrida đặt câu hỏi: "Nhưng làm sao một KTS có thể quan tâm đến giải cấu trúc? Vì giải cấu trúc là chống hình thức, chống hệ thống phân cấp, phản cấu trúc, trái ngược với tất cả những gì mà kiến trúc là đại diện". Và B.Tschumi trả lời:"Chính vì thế". Có nhiều cách giải thích mà các KTS đưa ra để giải cấu trúc ngày càng có nhiều lý thuyết hơn. Đối với một KTS nó phải được làm với sự che đậy hình thức khác, với sự phân mảnh, sự dịch chuyển. Một trích dẫn của Nietzsche: "Không có sự thật, chỉ có một cách giải thích vô hạn" Và rất sớm, có lẽ do thực tế là nhiều KTS đều chia sẻ không thích sự an toàn của "chủ nghĩa lịch sử hậu hiện đại" cùng những đam mê tiên phong đầu thế kỷ XX, mà Deconstructivism - chủ nghĩa giải toả kết cấu đã nảy sinh và ngay lập tức được gọi là "phong cách" - như chính những gì các KTS đã cố gắng tránh. Bất kỳ sự quan tâm nào trong tư tưởng hậu cấu trúc và giải cấu trúc xuất phát từ thực tế rằng họ đã thách thức ý tưởng về một hình ảnh đồng bộ thống nhất, ý tưởng về sự chắc chắn, và tất nhiên, ý tưởng về một ngôn ngữ nhận dạng. Các nhà lý thuyết kiến trúc muốn đối đầu với những đối lập nhị nguyên của kiến trúc truyền thống - hình thức so với công năng, hoặc trừu tượng so với biểu hiện. Tuy nhiên, họ cũng muốn thách thức các hệ thống phân cấp ngụ ý ẩn trong các cuộc
  • 28. 21 tranh chấp, chẳng hạn như, "hình thức đi theo công năng" và "trang trí phục tùng cấu trúc." Thoái thác này của hệ thống phân cấp dẫn đến sự đam mê những hình ảnh phức tạp, đồng thời là “cả hai” (neither/nor) - là sự chồng chéo / siêu chồng chéo của nhiều hình ảnh khác. Superimposition đã trở thành một công cụ mấu chốt.   Trong Manhattan Transcripts (1981) hoặc Screenplays (1977), các thiết bị được sử dụng trong các tập phim đầu tiên được dựa trên nguyên lý phim và trào lưu Roman mới. Sự khác biệt giữa cấu trúc (hoặc khung), hình thức (hoặc không gian), sự kiện (hoặc chức năng), cơ thể (hoặc di chuyển), và hư cấu (hoặc tự sự) đã bị làm mờ một cách hệ thống thông qua thủ pháp superimposition, xung đột, bóp méo, sự phân mảnh,.. superimposition được sử dụng khá rõ rệt trong kiến trúc của Peter Eisenman, đẩy văn học và triết học đến thái cực song song, không ngừng cố gắng để problematize (vấn đề hoá) đối tượng kiến trúc, vượt qua ranh giới giữa văn học, điện ảnh và kiến trúc ("Đó có phải là một vở kịch hay là một phần của kiến trúc?"). Phần lớn công việc này được hưởng lợi từ môi trường của các trường đại học và các trường nghệ thuật - nơi sự chồng chéo giữa các lĩnh vực khác nhau cho phép các KTS làm mờ sự phân biệt các loại hình, câu hỏi lien tục về nguyên tắc của kiến trúc và hệ thống phân cấp hình thức. Tuy nhiên, nếu tôi đã xem xét cả công việc của tôi thời gian này cũng như các đồng nghiệp của tôi, tôi sẽ nói rằng cả hai phát triển từ một bài phê bình về kiến trúc, về bản chất của kiến trúc. Nó tháo dỡ các khái niệm và trở thành một công cụ ý niệm đáng chú ý, nhưng nó không thể giải quyết một trong những điều làm cho công việc của KTS rốt cuộc khác với của nhà triết học. Cũng như logic của các từ hay của bản vẽ, của vật liệu không giống nhau. Một lời không phải là một khối bê tông. Theo Gilles Deleuze, “những ý tưởng của bộ phim không được đưa ra trong bộ phim". Các cột đá mà không chạm đất không phải là kết cấu, mà là vật trang trí. Tiểu thuyết và kể chuyện thu hút rất nhiều KTS, có lẽ bởi vì, chúng ta biết thêm nhiều về các cuốn sách hơn là về các tòa nhà.    Một sự khác biệt thú vị giữa hai cách giải thích về vai trò của tiểu thuyết trong kiến trúc, một cái gọi là "chủ nghĩa lịch sử hậu hiện đại" lòng trung thành, cái kia gọi là "chủ nghĩa giải cấu trúc tân hiện đại" lòng trung thành. Mặc dù cả hai xuất phát từ các ích lợi sớm trong ngôn ngữ học và ký hiệu học, nhóm đầu tiên đã nhìn thấy tiểu thuyết và kể chuyện như là một phần của vương quốc ẩn dụ, của việc diễn giải kiến trúc mới, của hình thức, trong khi nhóm thứ hai đã thấy tiểu thuyết và kịch bản tương tự như các chương trình và chức năng. - CONCEPT 5: Crossprogramming (sự giao thoa công năng) trong thế giới ngày nay, nơi nhà ga trở thành bảo tàng và nhà thờ trở thành Nightclub. Sự thay thế nhau hoàn toàn về hình thức và chức năng, sự mất mát của các mối quan hệ nhân quả truyền thống, mẫu mực thần thánh của chủ nghĩa hiện
  • 29. 22 đại. Công năng không theo hình thức, hình thức không theo chức năng - hoặc giả tưởng cho vấn đề đó - thì giữa chúng chắc chắn vẫn có sự tương tác lẫn nhau. Nếu kiến trúc bao gồm cả khái niệm và kinh nghiệm, không gian và việc sử dụng, cấu trúc và hình ảnh bề mặt - không có sự phân cấp - sau đó kiến trúc phải dừng tách riêng các loại này và thay vào đó ghép lại thành sự kết hợp chưa từng có của các chương trình (chức năng) và không gian. "nội dung bao chứa bao gồm các hoạt động khác nhau,"nội dung chuyển đổi","nội dung thay thế biến mất" - Tôi đã xây dựng dựa trên những khái niệm này ở những nơi khác, cho thấy sự dịch chuyển và lây nhiễm ảnh hưởng nhau giữa các hạng mục. - CONCEPT VI: Events - The Turning Point (các sự kiện - bước ngoặt) Không có kiến trúc nằm ngoài các sự kiện / các hành động, không hoạt động, không có chức năng. Kiến trúc là sự kết hợp của không gian, sự kiện, và các chuyển động mà không có bất kỳ sự phân cấp hoặc ưu tiên giữa các quan điểm. Mối quan hệ nhân quả giữa công năng và hình thức là một trong những điều chắc chắn lớn của tư duy kiến trúc - cho biết chúng ta đang sống trong những ngôi nhà "được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của chúng ta", hoặc ở các thành phố được quy hoạch như những cỗ máy để ở - những ý nghĩa an toàn của quan điểm này đi ngược lại cả hai thực tế "sự thỏa mãn" của kiến trúc, trong sự kết hợp bất ngờ của các thành phần của nó, và thực tế của cuộc sống đô thị hiện đại nằm trong phần lớn sự kích cầu, sự định hướng đáng lo ngại của nó. Do đó, trong Manhattan Transcripts, định nghĩa kiến trúc có thể không là hình dạng hoặc bức tường, nhưng phải là sự kết hợp đồng nhất và tương ứng của các thành phần. Việc thêm vào các cụm từ "sự kiện" và "phong trào" bị ảnh hưởng bởi thuyết tình huống chủ nghĩa và “giai đoạn 68” tham khảo ở trang (http://en.internationalism.org/wr/316/situationism) (http://thesituationist.wordpress.com) (http://contestingarchitecture.blogspot.com/2012/06/exit-review-excerpts- premise.html) Các thành tố như thế đã được gọi là những "sự kiện" trong hành động cũng như trong tư tưởng. Việc dựng lên một rào cản (công năng) trên đường phố Paris (hình mẫu) là không hoàn toàn tương đương với là một hinh mẫu nhân vật đường phố trong văn học Pháp (chức năng_như đại diện tượng trưng) hình mẫu. Ở đây tất cả các mối quan hệ thứ bậc giữa hình thức và chức năng kết thúc để tồn tại. Sự kết hợp của các sự kiện và không gian đã được giao nhiệm vụ với các khả năng lật đổ, để nó thách thức cả hai yếu tố công năng và không gian. Đối đầu song song như thế gần với mô tả của Rem Koolhaas về công việc ở câu lạc bộ thể thao "Ăn hàu với găng tay đấm bốc, trần truồng, trên tầng thứ n”.
  • 30. 23 Có thể thấy vấn đề này ngay tại Tokyo, với nhiều cách thức rải rác khắp các tầng của các tòa nhà cao tầng: một cửa hàng bách hóa, một bảo tàng, câu lạc bộ sức khỏe, và một nhà ga xe lửa, trồng rau xanh trên mái. Và chúng ta sẽ tìm thấy cách thức của tương lai, nơi sân bay đồng thời là khu giải trí, cơ sở thể thao, rạp chiếu phim, và như vậy. Cho dù chúng là kết quả của các tổ hợp cơ hội, hay do áp lực của giá đất tăng cao, như các mối quan hệ không phải nhân quả giữa hình thức và chức năng, hoặc không gian và hoạt động. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Michel_Foucault) Michel Foucault giới thiệu trích dẫn trong một cuốn sách của John Rajchman. Ông đã mở rộng việc sử dụng thuật ngữ "sự kiện" theo cách thức vượt ra ngoài các hành động / hoạt động đơn lẻ để nói về "các vấn đề tư tưởng". Đối với Foucault, một sự kiện không chỉ đơn giản là một trình tự hợp lý của các từ / hành động, mà là "thời khắc của sự xói mòn, sụp đổ, chất vấn, hoặc vấn đề về các giả định thiêt lập trong đó như những gì có thể xảy ra trong một bộ phim - Nhân các cơ hội / khả năng khác nhau mà thiết đặt khác nhau. "Sự kiện ở đây được xem như một bước ngoặt - không phải là xuất phát điểm hay sự kết thúc - trái ngược với các mệnh đề như “hình thức theo sau công năng". Tương lai của kiến trúc nằm trong việc xây dựng các sự kiện như vậy. Quan trọng là không gian đi với sự kiện. Như một khái niệm khác với các dự án của phong trào hiện đại, tìm cách khẳng định những điều chắc chắn trong một sự thống nhất không tưởng trái ngược với câu hỏi thông thường của chúng ta về sự nhiều, manh mún, địa hình chật trội. Trong một bài luận về Parc de la Villette, Jacques Derrida mở rộng định nghĩa của sự kiện, gọi đó là "sự ra đời của tính đa dạng khác nhau." Tôi đã liên tục nhấn mạnh trong các cuộc thảo luận và các nơi khác nữa, nơi mà những điểm này được gọi là Folies - là các điểm hoạt động, các chương trình, các sự kiện. Derrida xây dựng dựa trên khái niệm này, đề xuất khả năng của một nền "kiến trúc sự kiện" đó sẽ "eventualize-sự kiện hóa" hoặc mở ra cái mà trong đó, lịch sử hay truyền thống của chúng ta, được hiểu là cố định, thiết yếu, hoành tráng. Trước đó, ông đã đề xuất từ "sự kiện" đã chia sẻ các nguồn gốc với "phát minh", vì thế quan điểm của sự kiện, của hành động trong không gian là các bước ngoặt / sáng chế. Tôi muốn kết hợp nó với khái niệm về cú sốc, một cú sốc rằng để có thể có hiệu quả trong nền văn hóa trung gian, văn hóa hình ảnh, phải đi xa hơn định nghĩa của Walter Benjamin và kết hợp các ý tưởng về chức năng hoặc hành động với các hình ảnh. Thật vậy, kiến trúc thấy mình trong một tình huống đặc biệt: đó là nguyên tắc duy nhất theo định nghĩa kết hợp khái niệm và kinh nghiệm, hình thức và sử dụng, hình ảnh và cấu trúc. Các triết gia có thể viết, các nhà toán học có thể phát triển không gian ảo, nhưng các kiến trúc sư là những người duy nhất, là tù nhân của nghệ thuật lai ghép, nơi mà các hình ảnh hầu như không từng tồn tại mà không có một hoạt động kết hợp.
  • 31. 24 Đó là đấu tranh của tôi mà rất lâu mới được gọi lĩnh vực đau khổ từ thiếu năng lực đặt câu hỏi về các cấu trúc và cơ sở của nó, nó là lĩnh vực mà những khám phá vĩ đại nhất sẽ diễn ra trong thế kỷ tới. Tính không đồng nhất của định nghĩa về kiến trúc & không gian, hành động & chuyển động – khiến nó trở thành sự kiện, nơi sốc, hoặc nơi chúng ta tự mình phat minh. Sự kiện này là nơi ở đó xét lại và định dạng lại các yếu tố khác nhau của kiến trúc, nhiều trong số đó đã dẫn đến hoặc bổ sung vào các bất bình đẳng của xã hội hiện đại, có thể dẫn đến giải pháp của chúng. Bằng định nghĩa nó là nơi kết hợp của các sự khác biệt. Điều này sẽ không xảy ra bằng việc bắt chước quá khứ, cũng sẽ không xảy ra bởi các ý kiến đơn giản, thông qua thiết kế, dựa trên các sai lệch khác nhau ở điều kiện đương đại và những bất ổn về tình trạng hiện nay. Tôi không tin điều đó là có thể, hoặc cũng không có ý nghĩa, để thiết kế các tòa nhà đó là các nỗ lực chính thống để làm mờ các cấu trúc truyền thống, đó là, các hình thức biểu hiện ở đâu đó giữa trừu tượng và hiện hữu, hoặc giữa cấu trúc và trang trí, hay đơn giản được cắt nhỏ và bị làm sai lệch vì các lý do thẩm mỹ. Kiến trúc không phải là một nghệ thuật để minh họa cho các lý thuyết. không thể thiết kế deconstruction, cũng không thể thiết kế một định nghĩa mới về các thành phố và kiến trúc. Nhưng có thể thiết kế từ các điều kiện đó làm cho nó không phân cấp, xã hội phi truyền thống này xảy ra. Bằng sự hiểu biết bản chất các hoàn cảnh hiện đại và các quy trình truyền thông đi cùng với chúng, các KTS có khả năng về các điều kiện xây dựng, điều đó sẽ tạo ra một thành phố mới và nhiều mối quan hệ mới giữa các không gian và các sự kiện. Kiến trúc không phải là về các điều kiện của thiết kế, mà là về việc thiết kế của các điều kiện. Nó sẽ chia xẻ hầu hết khía cạnh truyền thống và thoái lui của xã hội chúng ta, tái tổ chức đồng loạt các yếu tố theo cách tự do nhất, nơi mà kinh nghiệm sẽ trở thành những trải nghiệm của các sự kiện được tổ chức và ý đồ chiến lựơc qua kiến trúc. Chiến lược là một từ khoá quan trọng trong kiến trúc ngày nay. Không có nhiều quy hoạch tổng thể, vị trí ở một nơi cố định, nhưng một không gian lý tưởng và đồng nhất (heterotopia) mới. Đó là những gì các đô thị phải phấn đấu hướng tới mà các KTS phải giúp đạt được bằng cách tăng cường sự va chạm giữa các sự kiện và không gian. Tokyo và New York chỉ hiển thị sự hỗn loạn. Thay vào đó, chúng đánh dấu sự xuất hiện một cấu trúc đô thị mới. Các cuộc đối đầu và tổ hợp các yếu tố của chúng có thể cung cấp các sự kiện, các cú sốc, sẽ làm cho kiến trúc các thành phố có một bước ngoặt trong văn hóa và xã hội. 1.3.1.3 Nguyên lý sáng tác KTS Frank O.Gehry Theo ông, kiến trúc giải toả kết cấu phải được: - Làm phân tán và mất trật tự tổ chức bố cục, hình dáng, tỉ lệ, màu sắc trong kiến trúc.
  • 32. 25 - Làm mất đi sự hoàn thiện mang tính quy chỉnh truyền thống của sự vật , tạo cho công trình kiến trúc sự dở dang. - Làm đột biến , gây ra những sự thay đổi đột ngột. - Tạo cảm giác động thái, do có những hình thái uốn vặn, mất ổn định , mất trọng lượng, gây ấn tượng bay bổng (khác với cảm giác đối xứng, cân bằng thường thấy trong kiến trúc cổ điển). - Tạo nên sự tương phản quá lớn giữa các khối kiến trúc mỏng manh bên cạnh những khối to lớn quá khổ, tạo lên một cảm giác không ổn định, dễ đổ vỡ. - Tạo lập sự cách tân về hình thức đến mức cao nhất. 1.3.1.4  Nguyên lý sáng tác KTS Daniel Libeskind ông dựa vào 17 “từ khóa” : o Lạc quan & bi quan, o Biểu cảm & trung lập, o Sự khác biệt & bảo thủ, o Sự cảm xúc & lạnh lùng, o Giải thích & đã hiểu được, o Đôi tay & máy tính, o Phức tạp & đơn giản, o Chính trị & sự lẩn tránh, o Thật & giả, o Đoán trướ c& thói quen, o Thô mộc & tinh tế, o Nhọn & cùn, o Đáng ghi nhớ & có thể quên, o Cởi mở & thầm lặng, o Mạo hiểm & an toàn, o Không gian & thời trang, o Dân chủ & độc đoán.   1.3.1.4  Nguyên lý sáng tác KTS Rem Koolhaas (Hà Lan) o ¤ng lµ kiÕn tróc s− ®Çu tiªn biÓu ®¹t mét c¸ch cã hÖ thèng c¸c vÊn ®Ò x· héi vµ kiÕn tróc cã liªn kÕt chÆt chÏ víi nhau. o KiÕn tróc kh«ng chØ ®¬n thuÇn lµ mét c¸i hép v« tri v« gi¸c, mµ lµ ®iÓm giao cña v« sè sù kiÖn hçn ®én, m©u thuÉn lÉn nhau. o KiÕn tróc sÏ ph¸t triÓn theo xu h−íng toµn cÇu ho¸ trong t−¬ng lai víi møc ®é kh¸c nhau tuú theo tõng khu vùc. o Rem Koolhaas ®· më réng giíi h¹n vèn cã cña kiÕn tróc. ¤ng ®· tËp trung vµo mèi liªn hÖ gi÷a con ng−êi víi kh«ng gian. ¤ng s¸ng t¹o ra c¸c tßa nhµ,
  • 33. 26 n¬i con ng−êi gÇn gòi nhau vµ nhê ®ã mµ kiÕn tróc cã ®−îc c¸c môc tiªu ®Çy tham väng. ¶nh h−ëng cña «ng trªn thÕ giíi ®· v−ît qu¸ xa khái tÇm giíi h¹n cña kiÕn tróc. Con ng−êi trong nhiÒu ngµnh nghÒ nãi chung, c¶m thÊy mét sù tù do rÊt lín tõ ngay c«ng viÖc cña m×nh. 1.2.6. KTS Zaha Hadid (Anh) o Sự điểm xuyết cho một chức năng cần phải có và hài hòa với tất cả. o Thúc đẩy suy nghĩ chất dịch trên tất cả lĩnh vực thiết kế o Hình khối động và những giải pháp đặc biệt để để tiếp cận cũng như giải quyết công trình, đột xuất các chiều hướng. o Sự kịch tính cao giữa các khối và không gian, khi thì co cụm đông đặc, khi thì giãn nở một cách bùng nổ. o Tạo ra cảm giác của một lớp chảy tự nhiên của đô thị o Không gian riêng tư và công cộng chồng chéo nhau như cấu trúc pha trộn vào cảnh quan, tạo ra một loạt các môi trường năng động trong một cấu trúc liên tục. Mái kéo dài xuống mặt đất. o Khái niệm về trọng lực dường như không tồn tại, sự chuyển động của hình khối, tính bản thể đặc trưng. 1.3.2. Nhận định về Deconstruction trong các nghiên cứu lý luận & lịch sử. Thuật ngữ Kiến trúc De-Construction đã thu hút được sự chú ý của nhiều người và một chủ đề được thảo luận rộng rãi là nó có phải là một chủ nghĩa trong kiến trúc hay không, có phải đã có một hình thức kiến trúc mới xuất hiện hay không. Giải thích khái niệm này, có thể thấy nổi lên hai xu hướng sau: Xu hướng thứ nhất cho rằng kiến trúc Deconstruction không phải là một phong cách, không phải là một tín điều, mà chỉ là mong muốn tái thẩm định những giá trị của kiến trúc Hiện đại. Ngay trên lối vào cuộc triển lãm ở New York năm 1988 đã ghi rõ “tuyên ngôn” của trào lưu này: “Hình thức thuần túy đã bị ô nhiễm, đang biến kiến trúc thành một tác nhân bất ổn định, bất hòa và xung đột”. De- Construction thông qua sự rối ren của hình học để ‘bổ sung” cho kiến trúc Hiện đại như là một quá trình tự tìm kiếm bản thân của nó. Theo tinh thần đó, nhà sử học kiến trúc Jenifer Taylor cho rằng Deconstruction chỉ là một phương pháp phân tích và xem xét lại các vấn đề, các ý đồ trong quá khứ và tìm cách giải thích lại theo một lối khác. Ví dụ: trong khi kiến trúc Hiện đại khẳng định hình khối phải đi theo chức năng, thì Deconstruction thì cho rằng không nhất thiết phải như vậy. Những người ủng hộ quan điểm De-Construction chỉ đơn thuần thăm dò những lối đi mới cho các vấn đề cũ hoặc để “tái thẩm định” các giá trị (cũ) của chúng, vì vậy mà De-Construction không phải là một phong cách kiến
  • 34. 27 trúc, lại càng không liên quan tới khái niệm Constructivism của Chủ nghĩa Kết cấu Nga những năm 1920-. De-Construction thực chất là tư tưởng chứa đựng những ý niệm lạc quan, tích cực, hướng đến cái mới từ những cái cũ bị lãng quên. Theo hướng này, mục tiêu của De-Construction gồm: - De-Construction là một bộ phận của tư tưởng Hậu Hiện đại, giúp xem xét lại những cái đã qua để từ đó tìm đường hướng mới. - De-Construction không nhằm phá hủy các truyền thống cũ, mà xem xét nó để áp dụng trong tương lai, nó chỉ là phương tiện giúp cho việc giải thích thế giới mới. - De-Construction mong muốn khám phá những cái trước kia đã bị che đậy, giấu đi, bị đàn áp,.. tìm lại những mảnh nhỏ còn sót lại của quá khứ và đưa ra những cách giải thích khác. Theo cách lý giải trên, có thể xếp các sáng tác của nhóm SITE và KTS Bernard Tschumi là đại diện cho nhánh thứ nhất của De-Construction. Sáng tác của nhóm SITE mang màu sắc của chủ nghĩa hoài nghi khi đề xướng triết học về cái dở dang hay sự đảo ngược trong kiến trúc. Còn Bernard Tschumi thì cho rằng thế giới đang bùng nổ, tan vỡ ra nhiều mảnh, do đó phải lập lại trật tự cho nó. Trong đồ án Công viên La Villette, ông đã đề xuất giải pháp sử dụng một hệ thống cấu trúc dựa trên một mạng lưới ô vuông để định vị toàn bộ cấu trúc của nó với ý tưởng rằng điều đó lập lại tính trật tự của kiến trúc. Xu hướng thứ hai lại cho rằng De-Construction là một phong cách kiến trúc mới, vì các KTS De-Construction đi tìm một thứ ngôn ngữ gây ấn tượng mạnh về thị giác mà không cần chú ý đến yêu cầu chức năng, thậm chí còn chống lại và từ bỏ các chuẩn mực trong xây dựng và trang trí. Đó cũng là nét tương đồng trong quan niệm triết học giữa Hậu Hiện đại và De-Construction. Tuy vậy, có sự khác biệt thể hiện rõ trong khẩu hiệu “Hình thức sinh ra từ trí tưởng tượng” mà Bernard Tschumi đưa ra nhằm khẳng định giá trị của De-Construction và tuyên chiến với kiến trúc Hậu Hiện đại - vì xu hướng Hậu Hiện đại không “tưởng tượng” ra kiến trúc mà chỉ chú trọng khai thác những chủ đề sẵn có từ lịch sử. Chính từ De-Construction đã sản sinh ra khái niệm về “sự hoàn hảo bị xáo trộn” giống như một trò chơi với những hình khối được lắp ráp tỉ mỉ nhưng lại gây ra cảm giác có thể sụp đổ hoặc chuyển động. Hình ảnh chung mà các KTS De-Construction tạo ra là những hình khối kiến trúc mỏng manh được sắp đặt bên cạnh những khối to lớn quá khổ và quái dị, nhằm tạo nên một trạng thái không ổn định, dễ sụp đổ. Trong cuốn sách “Các KTS Mỹ đương đại” (1993), Philip Jodidio đã nhận xét: “Trong các phương án thiết kế của Peter Eisenman có thể bắt gặp đôi nét của Chủ nghĩa Hiện đại, nhưng vượt trội và lấn lướt hơn cả vẫn là những đặc điểm điển hình của Deconstruction”.