Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí công với đề tài: Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, cho các bạn làm luận văn tham khảo
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
Di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận tại Phú Thọ
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ BÌNH NAM GIANG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, NĂM 2017
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGÔ BÌNH NAM GIANG
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ HƢỜNG
HÀ NỘI, NĂM 2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, khách quan dựa trên kết
quả khảo sát thực tế và chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào của
các tác giả khác./.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017
Tác giả
Ngô Bình Nam Giang
4. LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi
lời cảm ơn tới:
Hội đồng Khoa học thuộc Học viện Hành chính;
Các Thầy giáo, Cô giáo, đã trang bị những kiến thức quý báu và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính;
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hƣờng, ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, tận tình chỉ
bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2017
Tác giả
Ngô Bình Nam Giang
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BNV: Bộ Nội Vụ
BVHTTDL: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
GS: Giáo sƣ
Nxb: Nhà xuất bản
PGS: Phó giáo sƣ
QĐ: Quyết định
TP Thành phố
TTg: Thủ tƣớng Chính phủ
Ths: Thạc sĩ
TS: Tiến sĩ
UBND: Ủy ban nhân dân
UNESCO: United Nations Educational, Scientific
and Cultural Organization
(Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên hiệp quốc)
6. DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa ....................25
Sơ đồ 1.2: Bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể
sau khi đƣợc UNESCO công nhận.....................................................32
Sơ đồ 2.1: Bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể
đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ...................61
Biểu đồ 2.2: Đánh giá tính hiệu quả của các chính sách đã đƣợc đƣa ra
để bảo tồn và phát huy di sản thế giới trên địa bàn tỉnh Phú Thọ......70
Biểu đồ 2.3: Số liệu khảo sát sự hiểu biết về di sản văn hóa phi vật thể
đã đƣợc UNESCO công nhận của tỉnh Phú Thọ................................72
Biểu đồ 2.4: Các phƣơng án nâng cao chất lƣợng quản lý di sản thế
giới trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (%).....................................................76
Biểu đồ 3: Tỷ lệ ngƣời đồng ý nên có một bộ phận chuyên quản lý các
di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận...................89
7. MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ..............................................................1
MỞ ĐẦU .................................................................................................................1
Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN..........................................10
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN....................10
1.1.1. Di sản văn hóa .............................................................................................10
1.1.2. Di sản văn hóa phi vật thể............................................................................14
1.1.3. Di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận tại Việt Nam .....19
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐƢỢC
UNESCO CÔNG NHẬN ......................................................................................22
1.2.1. Quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa............................................................22
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO
công nhận...............................................................................................................28
1.2.3. Sự cần thiết của quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận..............................................................................................35
1.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN ......................37
1.4. KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN ......................38
1.4.1. Kinh nghiệm từ các địa phƣơng ..................................................................38
1.4.2. Bài học từ các địa phƣơng...........................................................................43
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
PHÚ THỌ ..............................................................................................................46
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH PHÚ THỌ VÀ CÁC DI SẢN VĂN HÓA PHI
VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ................46
2.1.1. Tổng quan về tỉnh Phú Thọ .........................................................................46
2.1.2. Các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ...........................................................................................................50
2.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỂ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT
THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ 54
8. 2.2.1. Xây dựng, ban hành, tổ chức thực thi chính sách về di sản văn hóa phi vật
thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ................................54
2.2.2. Bộ máy tổ chức quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận của tỉnh Phú Thọ .................................................................60
2.2.3. Tuyên truyền, giáo dục và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ...........................................63
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN
VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH PHÚ THỌ ..........................................................................................67
2.3.1. Kết quả đạt đƣợc trong công tác quản lý các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ...........................................67
2.3.2. Tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ...........................................69
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG
NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ..........................................................79
3.1. QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỤC TIÊU QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC CÔNG NHẬN......79
3.1.1. Quan điểm của Đảng ...................................................................................79
3.1.2. Phƣơng hƣớng chung...................................................................................83
3.1.3. Mục tiêu của Phú Thọ..................................................................................86
3.2. HỆ THỐNG CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO
CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ..............................................87
3.2.1. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nƣớc..........................................................87
3.2.2. Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả xây dựng, ban hành và tổ chức thực thi
chính sách ..............................................................................................................91
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục................................................................94
3.2.4. Các giải pháp khác giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về di sản văn
hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ .............96
KẾT LUẬN..........................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................104
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.................................108
PHỤ LỤC ............................................................................................................109
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Việt Nam là đất nƣớc có năm mƣơi tƣ dân tộc với hàng ngàn năm văn
hiến, mỗi dân tộc lại sản sinh và lƣu giữ những giá trị văn hóa truyền thống
mang bản sắc riêng của từng vùng, miền. Bảo vệ và phát huy các giá trị di sản
văn hóa là một chính sách lớn, xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
và Nhà nƣớc ta.
Việt Nam hiện đang sở hữu hai mƣơi ba di sản đƣợc UNESCO vinh
danh. Bao gồm di sản thiên nhiên, di sản vật thể, di sản phi vật thể, di sản tƣ
liệu và di sản hỗn hợp. Trong số này, quần thể di tích cố đô Huế, đƣợc công
nhận là di sản văn hóa thế giới sớm nhất (năm 1993). Gần đây nhất, ngày 01
tháng 12 năm 2016, Thực hành tín ngƣỡng thờ Mẫu tam phủ của ngƣời Việt
đã đƣợc UNESCO ghi danh. Đây là vinh dự và cũng là niềm tự hào của Việt
Nam khi giới thiệu văn hóa truyền thống đến với thế giới.
Trong kho tàng di sản văn hóa của Việt Nam, di sản văn hóa phi vật thể
đóng một vai trò quan trọng, đƣợc coi nhƣ “linh hồn” của di sản văn hóa vật
thể, nhƣng năm 2000, GS. TS. Nguyễn Chí Bền, một chuyên gia về văn hóa
đã cảnh báo là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam đang ở tình trạng báo
động đỏ. Tình trạng trên xẩy ra do nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên
nhân chính là do đất nƣớc chúng ta đã phải trải qua chiến tranh trong một thời
gian dài, kinh tế khó khăn và những giá trị văn hóa đã không đƣợc nhận thức
đúng đắn. Thậm chí có những lãnh đạo và cán bộ địa phƣơng vẫn còn chƣa
hiểu rõ di sản văn hóa phi vật thể là gì. Thêm vào đó, việc đầu tƣ cho di sản
văn hóa phi vật thể không mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt cho nên việc bảo
tồn đã bị coi nhẹ. Dù rằng việc bảo tồn di tích đã đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam
đặt ra ngay sau ngày đầu thành lập nƣớc (ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL về việc bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam),
10. 2
nhƣng phần linh hồn của văn hóa cộng đồng là di sản văn hóa phi vật thể thì
lại chƣa đƣợc quan tâm đúng cách.
Chỉ đến năm 2001, một động thái có ý nghĩa rất lớn với di sản văn hóa
phi vật thể, đó là Nhà nƣớc triển khai chƣơng trình mục tiêu quốc gia về văn
hóa với các Dự án Sƣu tầm và Bảo tồn những giá trị văn hoá phi vật thể tiêu
biểu; xây dựng ngân hàng dữ liệu về văn hoá phi vật thể; sƣu tầm, bảo tồn và
phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc. Bƣớc đầu,
chƣơng trình đã mang lại một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, Việt Nam là
đất nƣớc có lịch sử lâu đời nên mỗi vùng đất đều chất chứa rất nhiều di sản
văn hóa phi vật thể, mà công việc kiểm kê, xây dựng ngân hàng dữ liệu khó
có thể hoàn tất trong một thời gian ngắn. Đó là còn chƣa kể đến một số lƣợng
lớn các di sản văn hóa phi vật thể đã bị mai một, thất truyền do các nghệ nhân
đã qua đời. Ngoài ra, những bất cập về nhận thức trong công tác quản lý nhà
nƣớc dẫn đến tác động làm sai lệch giá trị di sản. Nguồn nhân lực cho quản lý
di sản tại các địa phƣơng rất thiếu, năng lực hạn chế, chƣa có điều kiện đào
tạo và tập huấn chuyên sâu, trong khi nguồn tài chính hỗ trợ cộng đồng phục
hồi, bảo tồn và phát huy di sản rất ít, không thƣờng xuyên.
Phú Thọ - đất tổ Hùng Vƣơng, đất phát tích của dân tộc Việt Nam chỉ
trong bốn năm đã có ba di sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO vinh danh,
bao gồm: hát Ca trù của ngƣời Việt (năm 2009, Phú Thọ là 1 trong 14 tỉnh
đƣợc ghi danh), hát Xoan (năm 2011) và Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng
(năm 2012).
Nhiều năm qua, tỉnh Phú Thọ đã triển khai đồng bộ công tác bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa vùng đất Tổ thông qua công tác nghiên cứu,
sƣu tầm, hệ thống hóa các tƣ liệu. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp bảo
tồn, khai thác các giá trị phù hợp và đạt hiệu quả thiết thực, phục vụ công tác
giáo dục truyền thống, quảng bá phát triển du lịch và góp phần gìn giữ bản
11. 3
sắc văn hóa dân tộc, đƣa di sản văn hóa phi vật thể trở thành sản phẩm du lịch
của vùng đất Tổ. Phú Thọ cũng đã triển khai nhiều chƣơng trình, dự án, đề tài
khoa học về di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là các đề tài, dự án liên quan
đến hát Ca trù, hát Xoan và Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng. với tính thực
tiễn hiệu quả cao. Công tác quản lý nhà nƣớc đối với các di sản văn hóa phi
vật thể cũng đƣợc lãnh đạo tỉnh, các ngành, các cấp quan tâm bằng những chủ
trƣơng, chính sách đƣợc đƣa ra kịp thời để bảo vệ và phát huy các giá trị bền
vững, thu hút đƣợc sự tham gia tích cực của toàn xã hội và tranh thủ sự ủng
hộ có hiệu quả của các Bộ, Ban, Ngành và cộng đồng quốc tế.
Tuy Phú Thọ đã có những thành công bƣớc đầu trong việc bảo vệ và
phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc UNESCO công
nhận, nhƣng hiện nay công tác quản lý các di sản thế giới này vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập đòi hỏi các cấp, các ngành và tỉnh Phú Thọ phải tiếp tục tìm
kiếm những hƣớng khắc phục hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Do những điểm đặc biệt nêu trên, trên cơ sở kế thừa những kết quả
nghiên cứu của các thế hệ đi trƣớc đã công bố và sự hiểu biết khiêm tốn của
cá nhân, tôi chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể đã
được UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” cho luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Cho đến nay, đã có rất nhiều chuyên gia quan tâm khảo sát và nghiên
cứu về di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ngay cả trƣớc và
sau khi các di sản đƣợc UNESCO vinh danh. Các nhà khoa học đã nghiên cứu
và công bố hàng trăm công trình, tiểu luận, bài báo, luận văn, luận án… liên
quan đến các di sản văn hóa của Phú Thọ.
Đơn cử nhƣ công trình nghiên cứu của TS. Phạm Trọng Toàn “Hát Xoan
Phú Thọ” (2006) đã nghiên cứu chi tiết về hát Xoan. Sách “Tín ngƣỡng thờ
12. 4
cúng Hùng Vƣơng” của GS.TS. Nguyễn Chí Bền và PGS.TS. Bùi Quang
Thanh; bài báo của nhà nghiên cứu Đinh Vũ “Ca trù trên đất tổ”; bài báo của
TS. Lê Minh Lý - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản
văn hóa (thuộc Hội Di sản Văn hóa Việt Nam) “Hát Xoan Phú Thọ - Âm vang
dân tộc Việt” (2016)… Tuy nhiên, các nghiên cứu đó hầu nhƣ chỉ tập trung
chủ yếu vào việc sƣu tầm, đánh giá giá trị, nêu lên những điểm khác biệt và
đề xuất các biện pháp bảo vệ, phát huy từng loại hình di sản văn hóa.
Ngoài các công trình viết về di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh Phú Thọ
đã đƣợc UNESCO vinh danh, thì còn có các nghiên cứu đề cập đến vấn đề
quản lý nhà nƣớc đối với di sản văn hóa, chẳng hạn nhƣ sách “Quản lý di sản
văn hóa” của TS. Nguyễn Trƣờng Tân và Ths. Nguyễn Thị Kim Loan đã nêu
rõ quan điểm của tác giả về di sản văn hóa và quản lý nhà nƣớc về di sản văn
hóa dân tộc; “Vấn đề quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa”
của PGS. TS. Đặng Văn Bài (nguyên Cục trƣởng Cục Di Sản văn hóa - Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) nhắc đến các vấn đề trong quản lý di sản văn
hóa. Đặc biệt cuốn kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “10 năm thực hiện công
ƣớc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO: Bài học kinh nghiệm và
định hƣớng tƣơng lai” đã có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu trong
nƣớc và thế giới đề cập đến công tác bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn
hóa phi vật thể, những thành tựu đã đạt đƣợc sau khi thực hiện Công ƣớc
UNECSO 2003 về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam.
Ngoài ra, cũng có rất nhiều học viên lựa chọn vấn đề quản lý các di sản
cho luận văn thạc sĩ của mình, ví dụ nhƣ Ths. Lê Trƣờng Giang - “Quản lý
nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” (năm 2013,
chuyên ngành quản lý hành chính công) đã nghiên cứu công tác quản lý nhà
nƣớc về các loại hình di sản văn hóa phi vật thể mà tỉnh Phú Thọ đang có, tập
trung khai thác, nhấn mạnh tầm quan trọng của các di sản văn hóa đặc biệt là
13. 5
di sản văn hóa phi vật thể trên toàn địa bàn tỉnh, đồng thời đƣa ra một số giải
pháp và kiến nghị nhằm tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc đối với các di
sản đó; Ths. Vũ Mạnh Hùng - “Quản lý nhà nƣớc về bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” (luận văn thạc sĩ quản lý
hành chính công năm 2012) chủ yếu tập trung vào công tác quản lý nhà nƣớc
về di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu nhất của tỉnh, đó là dân ca Quan họ Bắc
Ninh; Ths. Triệu Thị Ngọc - “Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa
trên địa bàn thành phố Hà Nội” (năm 2011, chuyên ngành quản lý hành chính
công), luận văn tập trung khảo sát nghiên cứu các đối tƣợng là di sản văn hóa
và các vấn đề chủ yếu trên địa bàn Thủ đô Hà Nội; Ths. Hoàng Việt Hà -
“Quản lý nhà nƣớc về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trên địa bàn huyện
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam” (năm 2015, chuyên ngành quản lý công) đề cập
đến các giá trị to lớn của các di sản văn hóa trên địa bàn huyện Thanh Liêm
và cần tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc để bảo tồn và phát huy
các di sản này.
Thực tế cho thấy, những công trình nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào
nghiên cứu về từng loại di sản văn hóa phi vật thể, hoặc quản lý di sản nói
chung, hoặc quản lý nhà nƣớc về các loại hình di sản văn hóa phi vật thể tại
một địa phƣơng cụ thể, chƣa có một đề tài nào trực tiếp nghiên cứu vấn đề
quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa phi vật thể mà đã đƣợc UNESCO
công nhận. Tỉnh Phú Thọ còn là một trƣờng hợp đặc biệt vì có đến ba di sản
văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO ghi danh, nơi mà chính quyền địa
phƣơng đã đƣa ra rất nhiều phƣơng thức quản lý để bảo tồn và phát huy các
loại hình di sản văn hoá truyền thống đặc sắc này. Mô hình quản lý nhà nƣớc
về di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận của tỉnh Phú
Thọ đã đạt đƣợc hiệu quả nhất định giúp khôi phục, gìn giữ và phát huy đƣợc
các loại hình văn hóa truyền thống của địa phƣơng - những di sản phi vật thể
đang đứng trƣớc nguy cơ bị mai một.
14. 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ thực trạng các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc ghi danh trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất các giải pháp phù hợp, mang tính ứng
dụng khả thi, nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả quản lý nhà nƣớc về các di
sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các tài liệu và tƣ liệu để làm lý luận cơ bản và căn cứ cho
quá trình nghiên cứu.
- Nghiên cứu, khảo sát và hình thành nguồn tƣ liệu sơ cấp
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa
phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận, xác định các vấn đề cần quan tâm
giải quyết.
- Xây dựng, đề xuất giải pháp để nâng cao vai trò và tính hiệu quả trong
quản lý nhà nƣớc về các di sản đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Hoạt động quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nƣớc về di
sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO công nhận ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ - nơi là cái nôi của các di sản văn hóa phi vật thể bao gồm Ca trù (Câu lạc bộ
Ca trù Việt Trì); hát Xoan (bốn phƣờng Xoan cổ nằm ở làng Kim Đái (Kim Đới),
Phù Đức, Thét của xã Kim Đức và làng An Thái xã Phƣợng Lâu); Tín ngƣỡng thờ
cúng Hùng Vƣơng (Khu di tích tịch sử quốc gia Đền Hùng).
15. 7
- Về thời gian: Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng
của việc quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO
công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn từ năm 2010 - 2016 (sau
khi các di sản đƣợc UNESCO công nhận).
- Về nội dung: luận văn tập trung vào các nội dung quản lý nhà nƣớc sau:
+ Xây dựng và tổ chức thực thi chính sách quản lý các di sản văn hóa phi
vật thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận ở cấp tỉnh.
+ Tổ chức bộ máy quản lý các di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc
UNESCO công nhận ở cấp tỉnh.
+ Nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục để bảo vệ và phát huy di sản
văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận ở tỉnh Phú Thọ.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phƣơng pháp luận
Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận khoa học (chủ nghĩa duy vật biện
chứng, khoa học quản lý…)
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp phỏng vấn cá nhân (phỏng vấn định tính): phỏng vấn sâu
với các cá nhân và thảo luận nhóm đối với các đối tƣợng nhất định nhƣ cán bộ
quản lý văn hóa tại địa phƣơng, nhóm nghệ nhân, câu lạc bộ, ngƣời dân, nhà
nghiên cứu…
- thành phố Việt
Trì, tỉnh Phú Thọ, trực tiếp quan sát và tham gia vào các hoạt động bảo vệ,
khai thác di sản văn hóa phi vật thể ở địa phƣơng (nhƣ các lớp truyền dạy, câu
lạc bộ, trƣờng học...)
- Phƣơng pháp tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp.
- Phƣơng pháp điều tra xã hội học: đối tƣợng của điều tra xã hội học
trong phạm vi luận văn này là quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa phi vật
thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Phiếu
16. 8
bao gồm những câu hỏi về nội dung quản lý nhà nƣớc đối với các di sản văn
hóa phi vật thể của Phú Thọ sau khi đƣợc vinh danh. Thông qua phiếu
thu thập thông tin về di sản trên địa bàn tỉnh và việc quản lý các di sản đó sau
khi đƣợc công nhận nhằm làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận văn.
Chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát tại các cấp quản lý di sản nhƣ: Cục
Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); Vụ Văn hóa đối ngoại và
UNESCO (Bộ Ngoại giao); UBND tỉnh Phú Thọ; Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Phú Thọ; Bảo tàng Hùng Vƣơng (Việt Trì, Phú Thọ); Ban quản
lý Khu di tích lịch sử quốc gia Đền Hùng; cán bộ quản lý văn hóa của hai xã
Kim Đức và Phƣợng Lâu (nơi có các làng Xoan cổ), Học viện Âm nhạc Quốc
gia Việt Nam (nơi làm hồ sơ Ca trù của ngƣời Việt và hát Xoan Phú Thọ),
Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (nơi làm hồ sơ Tín ngƣỡng thờ
cúng Hùng Vƣơng), một số nghệ nhân dân gian và ngƣời dân ở Phú Thọ với
100 phiếu điều tra và tiến hành xử lý dữ liệu trên phần mềm Epidata.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để xử lý tƣ liệu thu
thập đƣợc từ thực tiễn và các bản ghi chép của các cá nhân tại địa phƣơng
nhằm làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống một số cơ sở khoa học quản lý nhà nƣớc về di sản
văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận và thực trạng hoạt động
quản lý nhà nƣớc về các di sản này. Qua đó, bƣớc đầu phác họa một mô hình
quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc công nhận.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn khái quát thực trạng quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi
vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Bƣớc đầu
giúp làm tiền đề tham khảo cho việc vận dụng và đề ra các giải pháp phù hợp,
17. 9
sát thực tiễn, chấn chỉnh, đẩy mạnh công tác quản lý nhà nƣớc về di sản văn
hóa phi vật thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận, góp phần bảo tồn, khai
thác và phát huy các di sản văn hoá phi vật thể theo hƣớng bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn đƣợc chia làm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật
thể đã đƣợc UNESCO công nhận
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Chƣơng 3: Quan điểm, phƣơng hƣớng và giải pháp quản lý nhà nƣớc về
di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ
18. 10
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.1.1. Di sản văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa
Văn hóa là một phạm trù rất rộng và có rất nhiều cách tiếp cận khác
nhau khi định nghĩa về nó. Cũng có rất nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà
nghiên cứu văn hóa ở trong nƣớc và trên thế giới mà nguyên nhân chính là do
tính phức tạp, đa nghĩa trong bản thân khái niệm “văn hóa”. Nhìn chung, hiện
nay ngƣời ta sử dụng khái niệm “văn hóa” nhằm để chỉ văn học, nghệ thuật
nhƣ: thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Một cách hiểu thông thƣờng khác
thì văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cƣ xử, đức
tin, tri thức... Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam cũng
đã định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
là văn hóa.” [25]
“Nói một cách đơn giản, văn hóa là tất cả những gì không phải thiên
nhiên, nghĩa là tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan
trực tiếp nhất đến con người”. [15, tr.9] hay “Nói tới văn hóa là nói tới con
người; có con người, có xã hội loài người thì mới có văn hóa. Vì vậy, dù quan
niệm về văn hóa xưa, nay còn khác nhau, nhưng vẫn có điểm chung: đó là
con người” [27, tr.18-19]. Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
19. 11
sống xã hội của ngƣời dân và mỗi quốc gia. Nó chính là năng lực sáng tạo, trí
tuệ, tài năng, đạo đức của con ngƣời; trụ cột phát triển bền vững của mỗi dân
tộc và toàn nhân loại.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh rằng, nhờ có nền tảng văn hóa,
hội nhập và phát triển mà nhân dân ta đã phát huy đƣợc sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, sức sáng tạo to lớn để chiến thắng “thiên tai, địch họa”,
giữ vững nền độc lập và bản sắc văn hóa trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nƣớc và giữ nƣớc hào hùng của dân tộc. Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, vì mục tiêu “dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
thì vai trò của văn hóa càng đƣợc khẳng định, nhất là trong việc điều tiết, cân
bằng sự phát triển của đất nƣớc, không để sự phát triển nóng dẫn tới những hệ
lụy khó lƣờng cho nền kinh tế, văn hóa và xã hội.
Bất cứ dân tộc nào cũng có các di sản mang đặc trƣng của dân tộc đó.
Chính điều này thể hiện bản sắc riêng của từng dân tộc và cũng để thể hiện sự
khác biệt đối với thế giới. Việt Nam là một nƣớc nghìn năm văn hiến với năm
mƣơi tƣ dân tộc nên chúng ta có một kho tàng đồ sộ các di sản văn hóa.
“Tính chất lưu truyền đã biến văn hóa của thế hệ trước trở thành di
sản văn hóa của thế hệ sau. Vì vậy, di sản văn hóa chính là hệ thống các giá
trị vật chất và tinh thần do một cộng đồng người sáng tạo và tích lũy trong
một quá trình lịch sử lâu dài và được lưu truyền từ thế hệ trước cho thế hệ
sau”. [23, tr.3]
Trong điều 1, Luật Di sản văn hóa của Việt Nam nêu rõ định nghĩa về
di sản văn hóa nhƣ sau: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể
và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. [29]
20. 12
Tại Kỳ họp lần thứ 17 diễn ra tại Thủ đô Paris (Cộng hòa Pháp), Đại
hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
(UNESCO) đã thông qua Công ƣớc về Bảo vệ Di sản văn hóa và Thiên nhiên
thế giới (Công ƣớc Di sản Thế giới 1972). Để đáp ứng mục đích của Công
ƣớc này, những loại hình sau đây sẽ đƣợc coi là “di sản văn hoá”:
- Di tích kiến trúc (monuments): các công trình kiến trúc, các công
trình điêu khắc và hội hoạ kiến trúc, các bộ phận hoặc kết cấu có tính chất
khảo cổ học, các bi ký, các hang động cư trú và những bộ phận kết hợp, mà
xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hoặc khoa học là có giá trị nổi tiếng
toàn cầu;
- Nhóm công trình xây dựng (groups of buildings): các nhóm công
trình riêng lẻ hoặc liên kết mà do tính chất kiến trúc, tính chất đồng nhất
hoặc vị thế của chúng trong cảnh quan, xét theo quan điểm lịch sử, nghệ
thuật hoặc khoa học là có giá trị nổi tiếng toàn cầu;
- Các di chỉ (sites): các công trình của con người hoặc công trình kết
hợp giữa con người và thiên nhiên, cũng như các khu vực có các di chỉ khảo
cổ học mà xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân học là
có giá trị nổi tiếng toàn cầu. [33]
Theo cách tiếp cận giá trị văn hóa này, di sản văn hóa bao gồm hầu hết
các giá trị văn hóa do thiên nhiên và con ngƣời tạo nên. Đó là phần tinh túy,
mang tính chất đặc trƣng của từng vùng miền và đặc biệt là đƣợc lƣu giữ, trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Di sản văn hóa là những giá trị bền vững vì nó đƣợc sáng tạo, bảo vệ và
lƣu truyền ở trong chính cộng đồng, trải qua một thời gian dài nên cũng mang
những dấu ấn đổi thay của lịch sử. Đó chính là tính chất đặc thù của di sản
văn hóa khi phân biệt với khái niệm văn hóa. Do vậy, di sản văn hóa cũng
chính là một phần chủ đạo của văn hóa. Trong dòng chảy của lịch sử, có rất
21. 13
nhiều yếu tố văn hóa bị mai một do không vƣợt qua đƣợc thử thách của thời
gian nên không đƣợc trở thành di sản văn hóa. Trải qua sự thẩm định của lịch
sử và thời gian, các di sản văn hóa còn tồn tại đến bây giờ chính là phần tinh
túy của văn hóa dân tộc, thể hiện bản sắc riêng của từng vùng miền và cộng
đồng dân cƣ.
1.1.1.2. Đặc trưng, tính chất của di sản văn hóa
Đặc trƣng cơ bản của di sản văn hóa chắc chắn phải mang những nét
đặc trƣng cơ bản của văn hóa. Theo GS.TS. Trần Ngọc Thêm, văn hóa có bốn
đặc trƣng cơ bản là: tính nhân sinh, tính lịch sử, tính giá trị và tính hệ thống.
Di sản văn hóa dân tộc là do cộng đồng sáng tạo ra và đƣợc trao truyền
từ đời này sang đời khác, cộng đồng này sang cộng đồng khác. Do vậy, di sản
văn hóa cũng có đặc trƣng cơ bản là tính nhân sinh và tính lịch sử.
Văn hóa là hoạt động sáng tạo của con ngƣời, tạo ra nét tiêu biểu, đặc
trƣng riêng góp phần vào sự phát triển xã hội. Hoạt động sáng tạo gắn liền với
sự vận động của đời sống xã hội, và chỉ có những sản phẩm mang lại lợi ích
cho đời sống, hƣớng con ngƣời đến những giá trị tốt đẹp thì mới đƣợc coi là
một di sản văn hóa. Văn hóa và di sản văn hóa phải có tính giá trị.
Văn hóa và di sản văn hóa đều bao gồm nhiều thành phần và bộ phận
khác nhau, giữa chúng luôn có mối quan hệ qua lại. Đó cũng chính là tính hệ
thống của di sản văn hóa.
Ngoài những đặc trƣng cơ bản, di sản văn hóa còn có một vài đặc trƣng
riêng xuất phát từ những đặc trƣng cơ bản của văn hóa. GS.TS. Hoàng Vinh
cho rằng, “di sản văn hóa đặc trưng bởi tính hiểu biết, tính biểu tượng và tính
sử liệu” [39, tr.16]
Tính hiểu biết là đặc trƣng của di sản văn hóa do chứa đựng vốn kinh
nghiệm và tri thức sống của con ngƣời, nó hiển thị ở khả năng sáng tạo và tích
luỹ thông tin.
22. 14
Tính biểu tƣợng là khả năng trình bày, diễn đạt một ý nghĩa trừu tƣợng,
sâu sắc bằng một hình ảnh cụ thể. Nhờ có tính biểu tƣợng mà giúp di sản văn
hóa giàu có, phong phú hơn rất nhiều so với số lƣợng các hiện vật hay hình
tƣợng mà một nền văn hóa sản sinh ra, vì một hình tƣợng, một hiện vật có thể
chứa vô số lớp nghĩa khác nhau. Tính biểu tƣợng của văn hóa buộc con ngƣời
khi giao tiếp với nhau phải có hiểu biết chung về văn hóa, nó thể hiện bản sắc
nhƣng cũng là rào cản khi những ngƣời thuộc các nền văn hóa khác nhau giao
tiếp với nhau.
Di sản văn hóa còn mang tính sử liệu. Bất cứ vật thể đại diện cho một
sự kiện lịch sử trọng đại nào, một giai đoạn lịch sử tiêu biểu, hay một nhân
vật lịch sử nào cũng đều có thể trở thành di sản văn hóa. Nó ghi dấu các sự
kiện trọng đại, hơn thế nữa, di sản văn hóa còn cung cấp các dữ liệu. Đó chính
là tƣ liệu phản ánh trình độ, quan niệm của mỗi cộng đồng, quốc gia trong quá
trình lịch sử. Do những đổi thay liên tục của lịch sử mà các di sản luôn mang
những dấu tích của thời đại, do vậy, chúng lƣu trữ trong mình những sử liệu
thuộc nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
Tuy một đối tƣợng hay sự vật không nhất thiết phải hội tụ cả ba yếu tố
trên nhƣng ít nhất phải có một tiêu chí đặc sắc thì đối tƣợng hay sự vật ấy mới
trở thành di sản văn hóa.
1.1.2. Di sản văn hóa phi vật thể
1.1.2.1. Khái niệm
“Ở Việt Nam, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được coi là hai bộ
phận chính cấu thành kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Chúng luôn gắn bó
mật thiết, có tác động tương hỗ và tôn vinh lẫn nhau, nhưng vẫn có tính độc
lập tương đối.” [1]
Theo điều 1, chƣơng 1 của Luật Di sản văn hóa 2001 thì “Di sản văn
hóa quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn
23. 15
hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.” [29]
Do di sản văn hóa phi vật thể đóng vai trò quan trọng trong di sản văn
hóa nên nó đã đƣợc định nghĩa rõ trong Luật Di sản văn hóa năm 2001, đƣợc
sửa đổi, bổ sung năm 2009. Cụ thể, trong khoản 1, điều 4 của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, số 32/2009/QH12 nhƣ sau: “Di sản
văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân,
vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và
các hình thức khác.” [30]
Nghị định số 98/2010/NĐ- CP của Chính phủ ban hành ngày 21/9/2010
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của luật di sản văn hóa, theo đó, có 7 hình thức biểu hiện
của “Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân
gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội
truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian.” [7]
Di sản văn hóa phi vật thể (intangible cultural heritage) hiện nay đã
đƣợc đƣa vào các chƣơng trình bảo vệ khẩn cấp của thế giới và mỗi quốc gia.
Trong thời gian dài, nhiều cuộc nghiên cứu đã đƣợc tiến hành để trả lời câu
hỏi “di sản văn hóa phi vật thể là gì?” và trong khoản 1, điều 2, mục I, Công
ƣớc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO năm 2003 đã ghi nhận:
“Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, hình thức thể
hiện, biểu đạt, tri thức, kĩ năng và kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ
tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm
người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di
24. 16
sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản
văn hóa phi vật thể được các cộng đồng, các nhóm người không ngừng tái tạo
để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự
nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và
sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với đa dạng văn hóa và tính
sáng tạo của con người.” [34]
Trong khái niệm này, UNSECO đã cố gắng cụ thể hóa tính “trừu
tƣợng” của di sản văn hóa phi vật thể bằng việc đƣa ra một số định dạng của
di sản văn hóa phi vật thể nhƣ: tập quán, biểu đạt tri thức, kỹ năng, các không
gian văn hóa có liên quan… Di sản văn hóa phi vật thể phải có sự gắn bó chặt
chẽ với đời sống tinh thần của cộng đồng, đƣợc lƣu truyền, tái tạo để tạo nên
bản sắc riêng của mỗi cộng đồng và sự đa dạng văn hóa trên toàn thế giới.
Bản sắc của mỗi dân tộc là khác nhau và vì thế, di sản văn hóa phi vật thể ở
mỗi quốc gia cũng đƣợc biểu hiện khác nhau.
Qua các cách định nghĩa trên có thể thấy:
Thứ nhất, di sản văn hóa phi vật thể mang tính trừu tƣợng cao, khó nắm
bắt nên cần phải đƣa ra các hình thức biểu hiện cơ bản của loại hình di sản
này. Không có một khuôn mẫu chung cho tất cả các quốc gia, mà dựa trên đặc
điểm văn hóa và bản sắc riêng của các cộng đồng đang lƣu giữ di sản mà mỗi
quốc gia sẽ đƣa ra các hình thức biểu hiện cụ thể;
Thứ hai, khi đánh giá di sản thì ngoài dựa vào hình thức còn cần căn cứ
vào các yếu tố khác nhƣ: sức sống của di sản (chuyển giao từ thế hệ này sang
thế hệ khác), sự vận động, gắn bó với cộng đồng (tái tạo để thích nghi với môi
trƣờng sống); giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật…;
Thứ ba, vai trò quan trọng nhất là đại diện cho bản sắc dân tộc. Thông
qua di sản văn hóa phi vật thể, chúng ta có thể hiểu hơn về quan niệm, cách
25. 17
nghĩ, tâm tƣ, tình cảm, lối sống tốt đẹp của cộng đồng đó, những điều mà khó
có thể tìm thấy ở một cộng đồng khác.
Di sản văn hóa phi vật thể biểu hiện các mặt giá trị phần lớn thông qua
các cử chỉ, hoạt động trình diễn của các nghệ nhân dân gian - những chủ thể
sáng tạo và chủ sở hữu di sản. Di sản văn hóa phi vật thể tồn tại và đƣợc lƣu
truyền phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của ngƣời dân và cộng đồng. Khi
chủ thể sáng tạo và chủ sở hữu di sản là một cộng đồng cƣ dân, thì ý chí, khát
vọng, nhu cầu và lợi ích của họ cũng tác động đến di sản đó. Chính họ là nhân
tố quyết định di sản văn hóa phi vật thể nào cần đƣợc bảo tồn, phƣơng cách
bảo tồn ra sao, sử dụng và khai thác nhƣ thế nào để thỏa mãn nhu cầu hƣởng
thụ văn hóa của ngƣời dân và cộng đồng.
1.1.2.2. Đặc điểm, tính chất của di sản văn hóa phi vật thể
Trong tài liệu của UNESCO mang tên “What is intangible culture
heritage?” (Di sản văn hóa phi vật thể là gì?) có phân tích tính chất của di sản
văn hóa phi vật thể bao gồm: (i) tính truyền thống, đƣơng đại, sống động; (ii)
tính bao hàm, (iii) tính đại diện, (iv) tính tùy thuộc vào cộng đồng. Từ đó ta
có thể thấy rằng:
- Thứ nhất, di sản văn hóa phi vật thể được chuyển giao qua nhiều thế
hệ, được cải biên để thích nghi với biến đổi của đời sống và lịch sử. Di sản
văn hóa phi vật thể được sáng tạo và lưu truyền trong chính người dân, do đó
nó có sự gắn bó chặt chẽ với đời sống của cộng đồng và sự vận động, biến
đổi của di sản là tất yếu. Bản chất của di sản văn hóa phi vật thể là sự tiếp
nối và biến đổi, còn bản chất của di sản văn hóa vật thể là sự cố định và
nguyên trạng.
- Thứ hai, di sản văn hóa phi vật thể giúp gắn kết mỗi cá nhân, và gắn
kết các cá nhân trong cộng đồng. Tính phổ biến, phổ cập, dễ hiểu thậm chí
còn quan trọng hơn cả tính độc đáo.
26. 18
- Thứ ba, di sản văn hóa phi vật thể phải đại diện cho bản sắc của dân
tộc. Di sản đó cần thể hiện được những nét đẹp về văn hóa, lối sống, cách
sống của cộng đồng. Đó là những nét đẹp nổi bật, riêng biệt, đặc trưng của
từng cộng đồng.
- Thứ tư, di sản văn hóa phi vật thể cần được công nhận bởi cộng đồng
sáng tạo sử dụng di sản. UNESCO đã nhận định rằng: “thiếu đi sự công nhận
của cộng đồng thì không ai có thể quyết định rằng những sự biểu đạt hay tập
quán đó là di sản của họ”. Cộng đồng chính là một phần của di sản và họ là
những người hiểu rõ nhất về nội dung cũng như giá trị của di sản. [35]
Để hiểu đƣợc tầm quan trọng của di sản đối với đời sống của con ngƣời
và cộng đồng, thì việc đánh giá là điều cần thiết. UNESCO và các quốc gia
đều công nhận di sản văn hóa phi vật thể có những giá trị cơ bản sau: giá trị
lịch sử, giá trị nghệ thuật, giá trị khoa học, giá trị gắn kết các dân tộc.
Ngoài ra, di sản văn hóa phi vật thể còn có giá trị về kinh tế: giá trị này
đối với mỗi cộng đồng thể hiện ở hai khía cạnh: tri thức và kĩ năng (nhƣ biểu
diễn nghệ thuật) đƣợc lƣu truyền trong cộng đồng. Do vậy, việc sử dụng hiệu
quả các di sản cũng sẽ đem lại lợi ích về kinh tế cho cộng đồng.
Ở Việt Nam thì các di sản văn hóa mang “tính dân gian” rất rõ rệt và
“tính dân gian” trong di sản văn hóa phi vật thể lại càng rõ nét hơn. Đặc
trưng này chính là yếu tố làm nên sự đa sắc trong di sản văn hóa của một dân
tộc, vì vậy cũng làm cho mức độ tinh tế trong di sản văn hóa phi vật thể tăng
lên đáng kể. Nó là cái gì đó rất “mỏng manh”, dễ “lay động”, dễ bị biến
dạng trước những tác động, dù là nhỏ nhất, từ con người và xã hội. Song,
trong chừng mực nào đó, chính độ nhạy cảm như vậy lại tạo ra khoảng không
gian rộng lớn cho sự sáng tạo của các chủ thể văn hóa. Đó chính là yếu tố
làm cho di sản càng mang tính đa dạng hơn. [1]
27. 19
Di sản văn hóa phi vật thể không “nhất thành bất biến” mà chúng hàm
chứa những nhân tố mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang hơi thở của thời
đại. Điều đó còn nhấn mạnh rằng để tồn tại đến ngày hôm nay, di sản văn hóa
phi vật thể đã trải qua một quá trình sàng lọc và sáng tạo không ngừng nghỉ.
Khi đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, những gì đƣợc coi là tinh
hoa nhất của di sản mới đƣợc bảo lƣu và chuyển giao. Không những thế,
những giá trị văn hóa mới còn luôn không ngừng đƣợc sáng tạo, bổ sung làm
cho kho tàng di sản văn hóa của quốc gia cũng nhƣ nhân loại ngày càng
phong phú và đa dạng hơn. Đó là con đƣờng phù hợp với quy luật sáng tạo và
phát triển của các giá trị văn hóa phi vật thể.
Việt Nam có rất nhiều các loại hình di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu
nhƣ: Nhã nhạc cung đình Huế, hát Ca trù, hát Xoan, Tín ngƣỡng thờ cúng
Hùng Vƣơng, Quan họ Bắc Ninh, Đờn ca tài tử, Chèo, Tuồng, Cải lƣơng Nam
Bộ… cũng hàm chứa những sáng tạo mới qua mỗi một giai đoạn lịch sử.
1.1.3. Di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận tại Việt Nam
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (viết
tắt UNESCO) là một trong những tổ chức chuyên môn lớn của Liên hiệp quốc
hoạt động với mục đích “thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo
dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân
quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam
nữ, ngôn ngữ, tôn giáo” [32].
UNESCO hiện có 195 quốc gia thành viên. Một số các dự án nổi bật
của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển
thế giới, di sản tƣ liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại. Ủy ban Di sản thế giới là một cơ quan của UNESCO,
đảm nhiệm việc xem xét và chấp thuận các di sản đƣợc đƣa vào danh sách Di
sản thế giới và chịu trách nhiệm về việc thi hành Công ƣớc Di sản thế giới,
28. 20
xác định việc sử dụng Quỹ Di sản Thế giới và phân bổ hỗ trợ tài chính khi có
yêu cầu từ các quốc gia.
Danh hiệu UNESCO ở Việt Nam bao gồm danh sách khu dự trữ sinh
quyển thế giới, di sản tƣ liệu thế giới, công viên địa chất toàn cầu, di sản thiên
nhiên, di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam đã
đƣợc UNESCO công nhận.
Di sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO công nhận tại Việt Nam là
các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam do một hoặc nhiều quốc gia đề cử
hồ sơ và đƣợc UNESCO xem xét, thông qua và ghi danh. Điều kiện thứ nhất
của hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể đƣợc đề cử đó là bề dày lịch sử cǎn cứ
trên những bằng chứng, vǎn kiện sử liệu hay hiện vật liên quan. Điều kiện thứ
hai để đƣợc xét đến đó là bề sâu nghệ thuật của di sản. Trong một loại hình di
sản phi vật thể thì bề sâu của nghệ thuật có rất nhiều yếu tố ví dụ nhƣ giá trị
thi ca, giá trị âm nhạc… tất cả phải đƣợc trình bày để tìm ra điểm đặc thù, nét
đặc trƣng riêng có của từng di sản. Điều kiện thứ ba là tuy di sản nghệ thuật
đó đặc sắc nhƣ thế nào, nhƣng lại có nguy cơ bị mai một, quên lãng do sự
biến động và thay đổi của kinh thế, chính trị, xã hội, thị hiếu và thói quen sinh
hoạt của cộng đồng. Điều kiện thứ tƣ là chính phủ, các cơ quan quản lý không
bỏ rơi các di sản nghệ thuật này. Chính quyền phải muốn bảo tồn di sản văn
hóa đấy. Không chỉ riêng các cấp quản lý mà nghệ nhân và quần chúng cũng
tha thiết muốn gìn giữ và lƣu truyền lại di sản cho đời sau. Có thể nói điều
kiện thứ tƣ là rất quan trọng và cần sự quan tâm, đồng lòng từ các cấp lãnh
đạo đến quần chúng nhân dân để hồ sơ đƣợc xem xét công nhận là di sản văn
hóa phi vật thể của thế giới. Thời gian thiết lập hồ sơ là hai nǎm mà hội đủ cả
bốn điều kiện trên không phải dễ, chính vì vậy mà nhiều bộ môn nổi tiếng của
các nƣớc vẫn chƣa lập hoặc không muốn lập hồ sơ để đệ trình UNESCO công
nhận là di sản vǎn hóa thế giới. Khi muốn giới thiệu một di sản văn hóa phi
29. 21
vật thể nào đó thì cần phải khéo léo tuyển lựa để đƣợc UNESCO thông qua và
vinh danh. Hồ sơ phải đƣợc gửi đi sáu tháng trƣớc khi Hội đồng Giám khảo
xét duyệt. Trong khoảng thời gian này, UNESCO sẽ tìm một chuyên gia quốc
tế để đánh giá bộ hồ sơ. Chuyên gia này sẽ không đƣợc là ngƣời cùng quốc
gia với bộ hồ sơ xin xét duyệt. Một Uỷ ban sơ khảo sẽ xét duyệt trƣớc khi
chuyển đến Ban Giám khảo và không bao giờ UNESCO xét lại một hồ sơ bị
loại. Có thể nói rằng, khi một hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO
công nhận thì trƣớc hết, đấy là niềm vinh dự của quốc gia đó. Tiếp theo sau là
cơ hội quảng bá và giới thiệu đất nƣớc cũng nhƣ các di sản văn hóa đến với
bạn bè thế giới.
Tại hội nghị lần thứ 3, tháng 11 năm 2008 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, để
biểu hiện sự đa dạng và giúp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng cũng nhƣ
tính cấp thiết của vấn đề bảo tồn, Ủy ban liên chính phủ về bảo tồn Di sản phi
vật thể của UNESCO đã đƣa ra hai loại danh sách:
- Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại;
- Danh sách di sản văn hoá phi vật thể cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp.
Ngày 17 tháng 10 năm 2003, UNESCO đã thông qua Công ƣớc về Bảo
vệ Di sản văn hóa phi vật thể (thƣờng đƣợc gọi là Công ƣớc 2003). Từ năm
2008, UNESCO đã bổ sung thêm Danh sách di sản văn hoá phi vật thể cần
đƣợc bảo vệ khẩn cấp, mà cộng đồng có liên quan và các quốc gia thành viên
cần có các biện pháp khẩn cấp để bảo tồn và phát huy di sản. Danh sách này
góp phần huy động sự hợp tác quốc tế và sự hỗ trợ cho các bên liên quan để
thực hiện các biện pháp bảo vệ thích hợp. Đó phải là các Di sản ở trong tình
trạng bị lãng quên, mai một, cần đƣợc vinh danh để khôi phục và bảo vệ.
Tính đến tháng 12 năm 2016, Việt Nam đã có 11 di sản văn hóa phi vật
thể đƣợc UNESCO công nhận là: Nhã nhạc cung đình Huế (2003); Không
gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên (2005), Dân ca Quan họ Bắc Ninh
30. 22
(2009); hát Ca trù của ngƣời Việt (2009); Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù
Đổng, Hà Nội (2010); hát Xoan Phú Thọ (2011); Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng
Vƣơng (2012); Đờn ca tài tử Nam Bộ (2013), Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
(2014); Tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ của ngƣời Việt (2016); đặc biệt, Nghi
lễ và trò chơi kéo co ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc và Philippines đã
chính thức đƣợc UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân loại vào tháng 12 năm 2015. Đây là hồ sơ di sản văn hóa đa
quốc gia đầu tiên mà Việt Nam tham gia đệ trình và đƣợc chấp thuận.
Trong 11 Di sản đó, có hai di sản nằm trong diện Danh sách di sản văn hóa
phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp đó là: hát Ca trù của ngƣời Việt (2009)
và hát Xoan Phú Thọ (2011).
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.2.1. Quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa
Trong sự tồn tại và phát triển của văn hóa thì quản lý nhà nƣớc về văn
hóa đóng vai trò rất quan trọng. Công tác quản lý nhà nƣớc về văn hóa góp
phần định hƣớng, điều chỉnh sự phát triển văn hóa của quốc gia, giúp hiện
thực hóa các chủ trƣơng, đƣờng lối văn hóa, văn nghệ của Đảng; từ đó tác
động đến mục tiêu, bản chất của văn hóa dân tộc. Hoạt động quản lý nhà nƣớc
về văn hóa trong các lĩnh vực, địa bàn, cộng đồng cụ thể sẽ giúp kiểm soát sự
cẩu thả, sai lệch trong việc thực thi các cơ chế, chính sách của Nhà nƣớc trong
lĩnh vực văn hóa. Ngày 09 tháng 6 năm 2014, Hội nghị Trung ƣơng 9 khóa XI
ra Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con ngƣời
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nƣớc, đã nêu rõ: “Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.” [14]
31. 23
Theo PGS.TS. Phan Hồng Giang thì “Quản lý văn hóa là công việc của
Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm
tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
văn hóa, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội của từng địa
phương nói riêng, cả nước nói chung.” [16, tr.25-26].
“Quản lý nhà nước về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức, có
chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy nhằm phát triển
văn hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh
vực văn hóa và liên quan.”[22]
Hoạt động quản lý nhà nƣớc về văn hóa thời gian qua đã góp phần đảm
bảo định hƣớng lớn của Đảng trong việc “xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp đƣợc bảo tồn và phát huy, bản sắc văn hóa dân tộc không bị mai một,
hòa tan trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Hoạt động quản lý văn hóa
cũng làm cho văn hóa trở thành một tác nhân kích thích sự phát triển kinh tế -
xã hội ở nhiều địa phƣơng.
Trong công tác quản lý văn hóa không thể thiếu việc quản lý nhà nƣớc
về di sản văn hóa. Quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa là việc Nhà nƣớc ban
hành các chính sách và luật pháp để bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Ngày nay, di sản văn hóa đã thực sự khẳng định đƣợc vị trí, vai trò của mình
trong đời sống xã hội. Công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hóa đã có một
truyền thống lâu đời và nhận đƣợc sự quan tâm to lớn của Đảng, Nhà nƣớc,
các Bộ, Ban, Ngành từ trung ƣơng đến địa phƣơng.
Luật di sản văn hóa đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 9, thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2002. Chƣơng V trong Luật Di sản
đã đề cập đến “Quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa” và mục 1: “Nội dung
32. 24
quản lý nhà nƣớc và cơ quan quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa” nêu rõ việc
quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa bao gồm các nội dung sau:
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản;
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di
sản văn hóa;
- Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ, phát huy, tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về di sản văn hóa;
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa;
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực;
- Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và xử lý vi phạm pháp luật;
- UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực
hiện việc quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa ở địa phƣơng theo phân cấp của
Chính phủ.
Sau 8 năm đƣợc ban hành, tại kỳ họp thứ 5, ngày 18 tháng 6 năm 2009,
Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Di sản văn hóa (số 32/2009/QH12), có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2010. Luật Di sản văn hóa quy định về các hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối
với di sản văn hóa nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để quy định
chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số vấn đề của Luật di sản văn hóa hiện
hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng 9
năm 2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa; Nghị định này
thay thế Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính
33. 25
phủ. Ngoài ra còn có Quyết định số 1569/QĐ-TTg ngày 19 tháng 8 năm 2010
của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt Quy chế tổ chức và hoạt động
của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia; Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12
tháng 7 năm 2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động văn hóa.
Bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa từ trung ƣơng đến địa
phƣơng đƣợc cụ thể hóa theo sơ đồ dƣới đây:
Sơ đồ 1.1: Bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa
CHÍNH PHỦ
UBND TỈNHBỘ VĂN HÓA, THỂ THAO
VÀ DU LỊCH
CỤC DI SẢN
VĂN HÓA
UBND HUYỆN
SỞ VĂN HÓA, THỂ
THAO VÀ DU LỊCH
PHÕNG VĂN
HÓA, THÔNG
TIN
UBND XÃ
(BAN VĂN XÃ)
34. 26
Theo Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2013 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: “Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ
quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia
đình, thể dục, thể thao và du lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước
các dịch vụ công thuộc lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch
theo quy định của pháp luật.” [8], Bộ chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa.
Theo Quyết định số 189/QĐ-BVHTTDL ngày 16 tháng 01 năm 2008
của Bộ trƣởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành lập Cục Di sản văn
hóa. Quyết định số 3878/QĐ-BVHTTDL ngày 01/11/2013 quy định chức
năng nhiệm vụ của Cục Di sản văn hóa: “Cục Di sản văn hóa là cơ quan của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về di sản văn hóa, được Bộ trưởng giao
trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động phát triển sự nghiệp bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa trong phạm vi cả nước theo đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.” [3]
Thông tƣ liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV, ngày 14 tháng
9 năm 2015 của Bộ trƣởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Bộ trƣởng Bộ
Nội vụ hƣớng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ƣơng; phòng Văn hóa và Thông tin thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, trong đó quy định:
- Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về văn hóa ở địa phương theo quy định của
pháp luật.
35. 27
- Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra, thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
- Phòng Văn hoá và Thông tin là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
huyện; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà
nước về văn hóa và chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn
nghiệp vụ của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
- Quản lý văn hóa cấp xã, phường, có ban Văn xã, và dưới nữa là cộng
đồng đang gìn giữ di sản văn hóa phi vật thể đó. [2]
Ở cấp tỉnh, UBND tỉnh giao cho một phó Chủ tịch UBND tỉnh trực tiếp
quản lý văn hóa cũng nhƣ di sản văn hóa trên toàn bộ địa bàn tỉnh. Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan quản lý nhà nƣớc về văn hóa tại địa
phƣơng, vừa là đơn vị chuyên môn trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch theo ngành, vừa là cơ quan tham mƣu cho tỉnh về lĩnh vực văn hóa. Bộ
luôn hƣớng dẫn và đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ƣơng phải tập trung chỉ đạo đơn vị thuộc Sở phối hợp
với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phƣơng các cấp, kiểm tra, rà
soát, giám sát để đảm bảo lƣu giữ và bảo vệ đƣợc các di sản văn hóa, tăng
cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa. Trong Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch có phòng di sản văn hóa, hoặc phòng quản lý văn hóa và di
sản văn hóa.
Ở cấp huyện, phòng Văn hóa và Thông tin là cơ quan chuyên môn
thuộc UBND huyện, có chức năng tham mƣu, quản lý nhà nƣớc về văn hóa và
di sản văn hóa trong phạm vi quận, huyện. Ở cấp xã có ban văn xã, các cán bộ
quản lý văn hóa cấp địa phƣơng này là những ngƣời nắm rõ nhất về các di sản
văn hóa trên địa bàn của mình cũng nhƣ thƣờng xuyên làm viêc, tiếp xúc với
những các nhân và cộng đồng đang lƣu giữ di sản.
36. 28
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận
1.2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể đã được
UNESCO công nhận
Quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc công nhận là
việc Đảng và Nhà nƣớc sử dụng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách…
thông qua bộ máy quản lý tác động có tính chất định hƣớng tới cộng đồng xã
hội nhằm đạt đƣợc mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị các di sản. Nhƣ vậy,
cũng có thể hiểu, quản lý nhà nƣớc về các di sản này là việc thiết lập mối
quan hệ gắn bó giữa cơ quan quản lý nhà nƣớc về văn hóa và cộng đồng đang
lƣu giữ di sản để giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thêm
vào đó, đối với các di sản mà đã đƣợc công nhận thì quốc gia đang sở hữu di
sản đó còn yêu cầu phải tuân theo đúng những cam kết về việc bảo tồn và
phát huy đã nêu ra trong hồ sơ đệ trình, cũng nhƣ những điều khoản của Công
ƣớc 2003 mà nƣớc đó là thành viên.
Quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO
công nhận tuy có điểm giống với việc quản lý các di sản văn hóa phi vật thể
trên cả nƣớc, nhƣng vẫn có những đặc trƣng riêng biệt do các di sản sau khi
đƣợc công nhận đã không chỉ mang tầm quốc gia mà còn là đại diện của thế
giới do đó sau khi đƣợc công nhận Chính phủ Việt Nam cũng đã đƣa ra các
chính sách, chƣơng trình hành động và thành lập cơ quan chuyên môn quản lý
các di sản. Chính phủ cũng giao việc quản lý di sản cho từng địa phƣơng nơi
đang gìn giữ và bảo vệ chính di sản đó. Hàng năm, UBND tỉnh đều phải có
báo cáo về tình trạng và công tác bảo tồn, phát huy di sản từ ngày di sản đƣợc
công nhận.
37. 29
1.2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể được
UNESCO công nhận
* Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý
nhà nước đối với di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận
Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đó là
hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Nhƣ vậy quản lý nhà nƣớc
về di sản nói chung và quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có
tính pháp quy. Quản lý các di sản văn hóa bằng pháp luật chứ không phải
bằng ý chí của nhà quản lý.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên đƣa di sản văn hóa phi
vật thể trở thành đối tƣợng điều chỉnh của Luật Di sản văn hóa năm 2001và
đƣợc điều chỉnh, bổ sung năm 2009. Có thể coi đây là bƣớc tiến mới về mặt
nhận thức, cho phép tiếp cận toàn diện cả hai bộ phận cấu thành di sản văn
hóa, xóa bỏ sự coi nhẹ di sản văn hóa phi vật thể kéo dài trong nhiều năm
trƣớc đây.
Trong bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa ở nƣớc ta, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã thành lập Cục Di sản văn hóa theo Quyết định số
189/QĐ-BVHTTDL ngày 16 tháng 01 năm 2008. Đồng thời, Cục Di sản văn
hóa đã thành lập phòng Quản lý văn hóa phi vật thể, có trách nhiệm tham
mƣu và quản lý các di sản văn hóa phi vật thể trên phạm vi cả nƣớc cũng nhƣ
các di sản văn hóa phi vật thể sau khi đã đƣợc UNESCO công nhận. Điều này
khẳng định sự quan tâm và phân cấp trong việc quản lý hai loại hình di sản
vật thể và phi vật thể.
Trong Luật Di sản văn hóa (số 28/2001/QH10) do Quốc Hội thông qua
ngày 29 tháng 6 năm 2001, chƣơng III nêu rõ về “Bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể”. Sau 8 năm, ngày 18 tháng 6 năm 2009, Quốc Hội
38. 30
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa (số 32/2009/QH12)
trong đó qui định: Nhà nƣớc bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi
vật thể. Trong Nghị Định số 98/2010/NĐ-CP của Chính phủ về “Quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của luật di sản văn hóa” đã có cả một chƣơng II với nội dung
“Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể”.
Những điều Luật và quy định của Nghị định nêu trên đã khẳng định
Nhà nƣớc luôn có sự quan tâm và đề cao vai trò của việc quản lý các di sản
văn hóa phi vật thể. Các tiêu chí để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật
thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận cũng đƣợc thể hiện một cách rõ ràng và
cụ thể.
Luật Di sản văn hóa và Nghị định cũng đã quy định từng bƣớc bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản. Tuy đó là một quá trình dài và yêu cầu sự hợp
tác phối hợp của rất nhiều bên, nhƣng khi một di sản văn hóa phi vật thể của
Việt Nam đƣợc UNESCO vinh danh thì đó không chỉ là niềm tự hào của riêng
địa phƣơng mà còn là cách để Việt Nam nâng cao vị thế của mình trên thế
giới. Đây là cách quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới một cách hiệu quả,
tinh tế và thuyết phục.
* Xây dựng và vận hành bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về di sản văn hóa
phi vật thể đã được UNESCO công nhận
Việc quản lý các di sản sau khi đƣợc công nhận vẫn gắn liền với chức
năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý di sản văn hóa từ trung ƣơng đến địa
phƣơng, trong đó Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nƣớc về văn hóa trên phạm vi cả nƣớc; chịu trách
nhiệm trƣớc chính phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa. Cục Di
sản văn hóa là cơ quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chức năng
39. 31
tham mƣu giúp Bộ trƣởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về di sản văn
hóa. Cơ cấu tổ chức của Cục Di sản văn hóa có phòng Quản lý di sản văn hóa
phi vật thể chuyên kiểm kê, giám sát việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
phi vật thể của các địa phƣơng, và di sản văn hóa đã đƣợc thế giới công nhận
trong cả nƣớc.
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch là đơn vị chuyên môn trực thuộc Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo ngành, đồng thời là cơ quan tham mƣu
giúp UBND tỉnh quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa bao gồm cả các di sản
văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO ghi danh. Tùy từng địa phƣơng mà Sở
có thành lập phòng di sản văn hóa, hoặc phòng quản lý văn hóa và di sản
văn hóa.
Ngày 15 tháng 6 năm 1977, Chính phủ thành lập Uỷ ban quốc gia
UNESCO của Việt Nam, đặt dƣới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Ngoại giao,
đảm nhiệm việc thực hiện các nghĩa vụ, quyền hạn thành viên UNESCO của
Việt Nam và thực hiện chính sách đối ngoại của Nhà nƣớc ta trong UNESCO.
Uỷ ban quốc gia UNESCO Việt Nam có nhiệm vụ nghiên cứu và trình lên
Thủ tƣớng Chính phủ các vấn đề về phƣơng hƣớng, chính sách, chƣơng trình
và kế hoạch hoạt động của Việt Nam đối với UNESCO cũng nhƣ phối hợp và
điều hành hoạt động của các ngành có liên quan tới UNESCO. Từ năm 1978,
Việt Nam đã cử Phái đoàn đại diện thƣờng trực bên cạnh tổ chức UNESCO
tại Paris và từ năm 1982 cử cấp đại sứ làm trƣởng Phái đoàn.
Đối với bộ máy quản lý các di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc
UNESCO công nhận thì ngoài bộ máy quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa
phi vật thể, còn cần thêm sự quản lý và giám sát của Ủy ban quốc gia
UNESCO Việt Nam (Bộ Ngoại giao).
Do vậy, bộ máy quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận đƣợc thể hiện cụ thể qua sơ đồ dƣới đây:
40. 32
CHÍNH PHỦ
BỘ NGOẠI GIAO UBND TỈNHBỘ VĂN HÓA, THỂ
THAO VÀ DU LỊCH
ỦY BAN QUỐC
GIA UNESCO
VIỆT NAM
CỤC DI SẢN
VĂN HÓA
UBND HUYỆN
SỞ VĂN HÓA, THỂ
THAO VÀ DU LỊCH
PHÒNG
VĂN HÓA,
THÔNG TIN
UBND XÃ
(BAN VĂN XÃ)
CỘNG ĐỒNG
LƢU GIỮ DI SẢN
Sơ đồ 1.2: Bộ máy quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể
sau khi đƣợc UNESCO công nhận
Đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận thì
theo cam kết với UNESCO, quốc gia có di sản đƣợc công nhận phải báo cáo
về tình trạng của di sản theo định kỳ. Yêu cầu báo cáo định kỳ đối với Di sản
41. 33
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là 6 năm, đối với Di sản văn hóa
phi vật thể cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp là 4 năm.
Do vậy, theo định kỳ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải báo cáo về
tình trạng quản lý di sản, công tác bảo tồn và phát huy di sản, thực hiện kế
hoạch bảo vệ di sản trong thời gian của bản báo cáo, những cam kết đã thực
hiện đến đâu, kế hoạch hoạt động trong tƣơng lai… cho Cục Di sản văn hóa
(Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cũng nhƣ Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt
Nam, Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO (Bộ Ngoại giao). Cục Di sản văn
hóa sẽ làm báo cáo quốc gia định kỳ và kết hợp với công hàm của Ủy ban
Quốc gia UNESCO Việt Nam để gửi báo cáo cho UNESCO về những thay
đổi từ ngày di sản đƣợc ghi danh vào Danh sách.
* Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về các di sản văn hóa phí vật thể đã
được UNESCO công nhận
Sau khi đƣợc UNESCO công nhận, thì các di sản của địa phƣơng đã
vƣợt xa khỏi tầm quốc gia mà đã trở thành di sản của thế giới. Do vậy, để bảo
tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể này mà Nhà nƣớc đã
thông qua các biện pháp sau đây:
- Tổ chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các
loại hình di sản;
- Khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, nghiên cứu, sƣu tầm, lƣu
giữ, truyền dạy và giới thiệu các di sản;
- Hƣớng dẫn nghiệp vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản theo đề nghị
của tổ chức, cá nhân nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể;
- Đầu tƣ kinh phí cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể, ngăn ngừa nguy cơ làm mai một, thất truyền di sản văn hóa
phi vật thể.
42. 34
Kể từ khi gia nhập UNESCO, Việt Nam đã nhận đƣợc sự ủng hộ và
giúp đỡ quý báu của UNESCO về ý tƣởng, nhận thức và kinh nghiệm cũng
nhƣ những đóng góp về tài chính và kỹ thuật ban đầu cho một số dự án của
Việt Nam. Công ƣớc 2003 của UNESCO đã góp phần nâng cao nhận thức
chung về vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội với tƣ
cách là “nền tảng tinh thần, mục tiêu và động lực” cho phát triển bền vững, và
đƣợc các nƣớc thành viên trong đó có Việt Nam áp dụng nhằm mục đích
chính là bảo vệ và từ đó phát huy giá trị văn hóa phi vật thể.
Thực thi trách nhiệm của một quốc gia thành viên tham gia Công ƣớc
UNESCO 2003, Chính phủ Việt Nam đã đƣa ra các quy định pháp luật hàm
chứa và phản ánh đúng các mục tiêu lớn của Công ƣớc này, đồng thời còn
khẳng định, Nhà nƣớc chịu trách nhiệm đầu tƣ kinh phí cho việc bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Đó là những tiền đề quan trọng
đảm bảo những điều kiện cần và đủ cho việc phát triển các hoạt động bảo vệ
và phát huy di sản văn hóa phi vật thể trên phạm vi cả nƣớc. Đó còn là “cú
hích” tạo động lực thu hút nguồn lực xã hội tham gia bảo vệ và phát huy di
sản văn hóa.
Thời gian qua ,Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả những
khuyến nghị của UNESCO tại Điều II của Công ƣớc 2003 liên quan tới trách
nhiệm của mỗi quốc gia thành viên. Thủ tƣớng Chính phủ đã phê duyệt
“Chiến lƣợc phát triển văn hóa đến năm 2020” và “Chƣơng trình mục tiêu
quốc gia giai đoạn 2012 - 2015”, trong đó có những mục tiêu cụ thể liên quan
tới việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc công nhận: “Xây dựng bản
đồ phân bố di sản văn hóa phi vật thể; tiến hành 500 dự án sƣu tầm, bảo tồn
lƣu giữ di sản văn hóa phi vật thể; đảm bảo việc giới thiệu, quảng bá và phát
huy di sản đã đƣợc sƣu tầm lƣu giữ; hoàn chỉnh ngân hàng dữ liệu”. Đặc biệt,
Việt Nam còn chủ động thực hiện các kế hoạch hành động liên quan tới bảo
43. 35
tồn 11 di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam đã đƣợc UNESCO công nhận
theo đúng tinh thần Công ƣớc 2003.
Nhà nƣớc và các tỉnh có di sản đƣợc vinh danh luôn quan tâm đến việc
tuyên truyền, phổ biến và giáo dục về các di sản, gây dựng niềm tự hào trong
nhân dân và ở các cộng đồng đang trực tiếp gìn giữ di sản. Hàng loạt kế
hoạch, chƣơng trình đƣa di sản vào dạy trong nhà trƣờng cũng nhƣ đào tạo
cán bộ, giảng viên chuyên sâu về di sản đã đƣợc triển khai liên tục và rộng
khắp trên cả nƣớc trong những năm qua.
1.2.3. Sự cần thiết của quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận
Tuy di sản văn hóa phi vật thể là một phần quan trọng và cấu thành nên
di sản văn hóa nhƣng nó lại không đƣợc quan tâm nhiều nhƣ những di sản văn
hóa vật thể. Có lúc các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam đã rơi vào
tình trạng báo động đỏ. Tình trạng trên xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, tuy
nhiên một nguyên nhân chính đó là đất nƣớc đã trải qua chiến tranh trong một
thời gian dài, kinh tế khó khăn và những giá trị văn hóa không đƣợc nhận
thức đúng đắn và đầy đủ. Nhiều nhà quản lý không có chuyên môn về di sản
văn hóa phi vật thể. Việc đầu tƣ cho di sản văn hóa phi vật thể lại không
mang đến hiệu quả về kinh tế một cách rõ rệt, cho nên việc bảo tồn đã bị coi
nhẹ; đó là còn chƣa kể đến một số lƣợng lớn các di sản đã bị mai một và thất
truyền mà công việc kiểm kê, xây dựng ngân hàng dữ liệu chƣa thể hoàn tất.
Điều rất nguy hiểm là di sản văn hóa phi vật thể không có hình hài vật
chất mà chỉ tồn tại trong ký ức của con ngƣời nên rất dễ bị mất mát, mai một;
trong khi đó, hầu hết các nghệ nhân dân gian đều đã cao tuổi. Nếu chúng ta
không có biện pháp kịp thời lƣu giữ lại tri thức, vốn liếng di sản quý giá của
họ, thì khi mỗi một nghệ nhân mất đi cũng sẽ vĩnh viễn mang theo một phần
linh hồn của di sản dân tộc mà sẽ không có cách gì khôi phục lại đƣợc.
44. 36
Xác định đƣợc tầm quan trọng của di sản văn hóa và đặc biệt là di sản
văn hóa phi vật thể, Đảng và Chính phủ đã luôn nhấn mạnh đến vai trò chủ
chốt của các cơ quan Nhà nƣớc trong việc quản lý di sản văn hóa phi vật thể.
Luật di sản, các Nghị định, Quyết định và Chƣơng trình mục tiêu quốc gia về
văn hóa đều lần lƣợt đƣợc thông qua và thực hiện. Nhà nƣớc đã triển khai các
Dự án sƣu tầm và bảo tồn những giá trị văn hoá phi vật thể tiêu biểu; xây
dựng ngân hàng dữ liệu về văn hoá phi vật thể; sƣu tầm, bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc.
Việt Nam đã ý thức đƣợc từ sớm vai trò của UNESCO trong việc bảo
vệ di sản và đặc biệt là Công ƣớc Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (Công ƣớc
2003), vì thế, để nâng cao mức độ quan tâm của ngƣời dân đối với các di sản
văn hóa phi vật thể đã đƣợc công nhận cũng nhƣ quảng bá các di sản đó ra thế
giới, Nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đã phê chuẩn tham gia
Công ƣớc 2003 từ tháng 4 năm 2006. Tính đến tháng 12 năm 2016, Việt Nam
đã có 11 di sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO vinh danh, điều này không
những khẳng định sự đa dạng văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc của nƣớc
ta, mà còn nâng cao vị thế của Việt Nam trên trƣờng quốc tế.
Sau khi các di sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO công nhận thì
Nhà nƣớc và các cấp quản lý đã có trách nhiệm hơn trong việc bảo tồn, khai
thác và lƣu truyền các di sản. Chính quyền địa phƣơng đã đƣa ra rất nhiều các
chƣơng trình hành động giúp khơi dậy tình yêu của cộng đồng, đặc biệt là
trong giới trẻ đối với di sản văn hóa phi vật thể. Đã có rất nhiều các chƣơng
trình, kế hoạch nhằm khuyến khích lớp trẻ nhiệt tình tham gia vào việc tìm
hiểu, hòa nhập cũng nhƣ tiếp nhận chuyển giao từ các nghệ nhân đi trƣớc.
Bên cạnh đó, nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc đã có những việc làm thiết thực
để thế hệ trẻ đƣợc tiếp cận với di sản văn hóa nhƣ mở các câu lạc bộ, đƣa giáo
trình vào nhà trƣờng để giảng dạy, tổ chức các cuộc thi, chính sách hỗ trợ…
45. 37
Vai trò của quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
công nhận là rất quan trọng. Điều này đảm bảo cho các di sản văn hóa phi vật
thể sau khi đƣợc công nhận sẽ đƣợc bảo vệ và phát huy tích cực, không làm
sai lệch và cải biên đi các giá trị truyền thống của di sản.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
Tuy chúng ta đang tiến hành quản lý di sản văn hóa trong thời kinh tế
thị trƣờng, nhƣng dấu ấn của cơ chế bao cấp vẫn còn khá sâu đậm, khiến cho
nhiều cơ quan quản lý, doanh nghiệp, tổ chức văn hóa vẫn trông chờ, ỷ lại vào
Nhà nƣớc, chƣa phát huy tốt tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Việc xây dựng
và hoàn thiện thể chế văn hóa còn nhiều hạn chế, chƣa đồng bộ. Chủ trƣơng
xã hội hóa các hoạt động văn hóa chƣa phát huy hiệu quả cao. Một số văn bản
pháp luật về di sản văn hóa mà đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
công nhận chƣa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, việc tổ chức thực hiện
còn chậm chạm, quan liêu, một số văn bản chƣa thực sự đi vào cuộc sống.
Công tác kiện toàn tổ chức, bộ máy nhân sự ngành văn hóa, nhất là khi
mới sáp nhập thành bộ đa ngành còn nhiều lúng túng. Năng lực quản lý văn
hóa của các cán bộ địa phƣơng vẫn còn nhiều yếu kém. Quản lý văn hóa là
một công việc rất phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi cả về kiến thức, kỹ năng lẫn
tâm huyết, tinh thần trách nhiệm, nhƣng một số cán bộ trong lĩnh vực này
(nhất là cán bộ cấp cơ sở) lại luôn biến động và còn nhiều hạn chế về chuyên
môn, nghiệp vụ, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu công tác. Thực tế cho thấy, năng
lực quản lý nhà nƣớc của các cán bộ địa phƣơng về di sản văn hóa phi vật thể
mà đặc biệt là các di sản đã đƣợc công nhận còn chƣa cao. Sự tách bạch giữa
quản lý nhà nƣớc với hoạt động tác nghiệp chƣa rõ, vẫn còn sự trùng chéo,
nhầm lẫn giữa chức năng quản lý nhà nƣớc với chức năng triển khai các hoạt
động mang tính sự nghiệp.
46. 38
Đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận,
trong việc quản lý các di sản đó, Việt Nam còn phải tuân theo những điều đã
cam kết trong Công ƣớc 2003. Làm thế nào để vẫn tôn vinh đƣợc giá trị của
các di sản mà không bị cuốn vào sự khát khao danh hiệu, chạy theo sự công
nhận danh hiệu. Điều này cũng là thách thức rất lớn đối với ngƣời quản lý di
sản, nếu nhƣ họ không đƣợc đào tạo bài bản, chuyên sâu và hiểu rõ về các di
sản văn hóa.
Thông thƣờng, khi làm hồ sơ đệ trình UNESCO, chúng ta thƣờng chọn
những di sản có vị trí độc đáo, đặc sắc nhất trong cộng đồng mà hiện có nguy
cơ mai một, biến mất khỏi đời sống xã hội. Mục đích xin đƣợc UNESCO
công nhận nhằm đánh thức, khuyến khích cộng đồng khu vực đó có ý thức
giữ gìn, bảo vệ tài sản văn hóa nghệ thuật của quá khứ. Các di sản phi vật thể
sau khi đƣợc xếp hạng luôn đối mặt với nguy cơ đến từ chính cơ quan quản lý
văn hóa, đó là bị nhà nƣớc hóa và sân khấu hóa. Rất nhiều cộng đồng đã đánh
đổi một tấm bằng công nhận di sản tinh thần của mình để biến nó thành một
loại hình trình diễn.
Làm thế nào để vẫn bảo vệ và lƣu truyền đƣợc di sản cho thế hệ sau,
mặt khác, di sản cũng vẫn đƣợc sử dụng nhƣ một thế mạnh và tiềm năng để
phát triển du lịch, đó là một bài toán khó với các địa phƣơng.
1.4. KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI
SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN
1.4.1. Kinh nghiệm từ các địa phƣơng có di sản văn hóa phi vật thể đƣợc
UNESCO công nhận
1.4.1.1. Tỉnh Thừa Thiên Huế
Nếu Phú Thọ tự hào là “một điểm đến 3 di sản” với: Ca trù, hát Xoan
và Tín ngƣỡng thờ cúng Vua Hùng, thì Huế đang hƣớng đến “Một điểm đến 5
di sản”. Đây là một điều hiếm thấy ở các nƣớc trên thế giới - trong một khu di
47. 39
sản nhƣng đƣợc UNESCO ghi danh đến 5 danh hiệu cao quý bao gồm: Quần
thể di tích Cố đô Huế - Di sản văn hóa thế giới (1993), Nhã nhạc cung đình
Huế - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2003) và 3 Di sản tƣ
liệu thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng gồm: Mộc bản triều Nguyễn
(2009), Châu bản triều Nguyễn (2014) và thơ văn trên kiến trúc cung đình
Huế (2016). Sau hơn 20 năm kể từ khi đƣợc công nhận là Di sản văn hóa thế
giới, Cố đô Huế đã đƣợc các chuyên gia UNESCO và các tổ chức quốc tế
đánh giá là “điểm sáng” trong công cuộc bảo tồn di sản. Phát huy những
thành quả đạt đƣợc, thời gian tới, các di sản của Huế sẽ tiếp tục “hồi sinh”
một cách toàn diện và chuyển sang giai đoạn phát triển bền vững. Có thể nói,
để đạt đƣợc những kết quả nhƣ ngày nay chính là do các cấp, ngành và toàn
thể nhân dân nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm với di sản văn hóa của Huế
đƣợc UNESCO công nhận, từ đó nỗ lực và nghiêm túc thực hiện các điều
khoản trong Công ƣớc bảo vệ di sản. Liên tục từ năm 2004 đến nay, Uỷ ban
Di sản Thế giới của UNESCO đều có thông điệp ca ngợi những thành tựu
xuất sắc trên phƣơng diện trùng tu di tích, bảo tồn di sản của Huế và nhấn
mạnh: Huế là một trong số ít địa danh trên thế giới có cả di sản vật thể và phi
vật thể đƣợc UNESCO công nhận giá trị toàn cầu. UNESCO đã xem Huế là
một ví dụ điển hình trong việc bảo tồn phát huy giá trị di sản.
Nhận đƣợc kết quả trên là do công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đƣợc Đảng bộ, Chính quyền địa
phƣơng quan tâm và đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng. Tỉnh Thừa Thiên
Huế luôn xác định di sản văn hóa là tài sản vô giá của cha ông để lại cho thế
hệ hôm nay và mai sau, có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ
về truyền thống lịch sử văn hóa, là phƣơng tiện để quảng bá hình ảnh địa
phƣơng, tạo tiền đề cho việc xây dựng chiến lƣợc phát triển du lịch, góp phần
vào sự tăng trƣởng kinh tế - xã hội.