SlideShare a Scribd company logo
1 of 228
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ CẦN
TR¸CH NHIÖM GI¶I TR×NH CñA CHÝNH PHñ
TRONG HO¹CH §ÞNH Vµ THùC THI CHÝNH S¸CH C¤NG
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ CẦN
TR¸CH NHIÖM GI¶I TR×NH CñA CHÝNH PHñ
TRONG HO¹CH §ÞNH Vµ THùC THI CHÝNH S¸CH C¤NG
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ: 62 31 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS.TS Vũ Hoàng Công
2. TS. Phạm Thế Lực
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Bùi Thị Cần
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................... 10
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................................. 10
1.2. Kế thừa kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra........................................... 30
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG........... 34
2.1. Khái niệm hoạch định, thực thi chính sách công và trách nhiệm giải trình
của chính phủ................................................................................................... 34
2.2. Cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong
hoạch định, thực thi chính sách công................................................................ 40
2.3. Sự cần thiết thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công.......................................................................... 47
2.4. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình
của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công................................ 52
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của chính phủ trong
hoạch định, thực thi chính sách công................................................................ 59
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở
VIỆT NAM......................................................................................................68
3.1. Thực trạng cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính
phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công ................................................ 68
3.2. Thực trạng thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công .......................................................................... 81
3.3. Đánh giá khái quát thực trạng và nguyên nhân .................................................. 96
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ TRONG
HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM....... 111
4.1. Quan điểm định hướng.................................................................................... 111
4.2. Giải pháp......................................................................................................... 120
KẾT LUẬN............................................................................................................ 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSC : Chính sách công
ĐBQH : Đại biểu Quốc hội
HĐCS : Hoạch định chính sách
Nxb : Nhà xuất bản
TNGT : Trách nhiệm giải trình
TTCS : Thực thi chính sách
VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm giải trình (accountability) đã trở thành một thuật ngữ thông dụng
trong phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, lĩnh vực chính trị nói riêng
và được áp dụng như một công cụ để đánh giá năng lực của các thể chế điều hành, mà
chủ yếu là vai trò của chính phủ. Chính phủ là chủ thể giữ một vai trò quan trọng trong
quá trình hoạch định và thực thi chính sách công (CSC) gắn liền với việc thực hiện trách
nhiệm giải trình (TNGT) để đảm bảo tính hiệu lực, tính khả thi và dân chủ của quá trình
đó. Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, việc thực hiện TNGT của chính phủ
trong quá trình CSC mang tính khách quan và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trước hết, trách nhiệm giải trình được hình thành xuất phát từ những yêu cầu
đặt ra trong cơ chế ủy quyền, quyền lực đại diện và trong sự phân công, phối hợp,
kiểm soát quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm quyền.
Trong các mô hình nhà nước hiện đại, quyền lực nhà nước có thể được phân
công làm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nhánh quyền lực này phải
thực hiện trách nhiệm giải trình lẫn nhau. Đó chính là thiết chế để giới hạn quyền lực
của bộ máy nhà nước, trước hết là giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước và sự
kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan đó tạo ra sự kiềm chế, đối trọng về quyền lực
nhằm đảm bảo quyền lực được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả, chống lại sự lạm
quyền. Đồng thời, xuất phát từ nguyên lý chủ quyền, quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân thì các nhánh quyền lực nhà nước không những phải có TNGT lẫn nhau mà
còn phải có TNGT với xã hội (công dân, các tổ chức xã hội độc lập và các doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng bởi quyết sách nhà nước). TNGT sẽ làm cho hoạt động của
nhà nước trở nên minh bạch, hiệu quả làm cho người dân dễ dàng kiểm soát được
những gì nhà nước đang làm cho mình, góp phần thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả
quyền lực được trao. Theo Fukuyama (2011), nhà nước hiệu quả chỉ khi tạo ra được
cơ chế giải trình hiệu quả [126, tr.40].
Để thực hiện tốt vai trò của mình, hầu hết các nhà nước đều sử dụng chính sách
công. Đó là chính sách của nhà nước, là tập hợp những quyết định của nhà nước có liên
quan với nhau do nhà nước ban hành để giải quyết một vấn đề công ảnh hưởng một
2
cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của người dân nhằm cung cấp những hàng
hóa và dịch vụ công tới người dân, thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất
định. Nhà nước có nhiệm vụ thay mặt người dân, đại diện cho người dân soạn thảo và
thông qua chính sách. Mọi quyền lực mà nhà nước thực thi là nhân danh nhân dân. Một
nhà nước hiệu quả, trung tâm là chính phủ phải là một nhà nước xây dựng được cho
mình những chính sách tốt và bảo đảm tính hiệu lực của nó trong đời sống xã hội. Một
chính sách tốt phải được xây dựng trên nền tảng của sự đối thoại dân chủ, minh bạch và
có trách nhiệm giữa chính phủ với người dân và xã hội. Do đó, trong toàn bộ quá trình
này, chính phủ cần phải giải trình trước nhân dân về những việc mình đã, đang và sẽ
làm. Nói cách khác, với tư cách là chủ thể gốc của quyền lực, người dân có quyền được
biết những người đại diện của mình đang thực thi các quyền lực được ủy nhiệm như
thế nào, tức là chính phủ phải có TNGT trước nhân dân. Vì vậy, TNGT của chính phủ
trở thành một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong nền dân chủ đại diện. Thực hiện
TNGT của chính phủ trong quá trình CSC, đặc biệt trong hai giai đoạn quan trọng
hoạch định chính sách (HĐCS) và thực thi chính sách (TTCS) góp phần quan trọng
trong tiến trình đẩy mạnh dân chủ và pháp quyền, xây dựng một chính phủ mạnh, năng
động, có trách nhiệm, giải quyết hiệu quả và kịp thời những vấn đề do thực tiễn đời
sống đặt ra, đảm bảo một chính phủ thực sự vì lợi ích của người dân.
Ở Việt Nam, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong thời gian qua đã có
những kết quả đáng ghi nhận. Tuy vậy, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong
hoạch định và thực thi CSC còn tồn tại những hạn chế đặt ra nhiều vấn đề nan giải.
Nhân dân Việt Nam - người chủ của quyền lực thông qua cơ quan đại diện là
Quốc hội - ủy quyền cho Chính phủ và mong muốn quyền lực đó được sử dụng đúng,
hiệu quả. Tuy nhiên, thực trạng hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam còn có những
hạn chế và chưa thiết lập được một hệ thống TNGT thuyết phục. Chính phủ Việt Nam
có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình chính sách, từ khâu HĐCS, TTCS cho đến
đánh giá chính sách. Do vậy, một chính sách tốt hay không, hiệu quả hay không phụ
thuộc rất lớn vào vai trò của Chính phủ, năng lực hoạch định và thực thi chính sách của
Chính phủ. Thực tiễn cho thấy, những thành tựu trong quá trình đổi mới và phát triển
mà Việt Nam đạt được trong hơn 30 năm qua là nhờ có những chính sách đúng đắn và
3
hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công ban đầu, quá trình chính sách nói
chung, vai trò của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC nói riêng cũng còn
nhiều bất cập, hạn chế. Đồng thời, trong các loại hình tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay, tham nhũng chính sách được coi là loại hình tham nhũng rất nguy hiểm bởi nó liên
quan đến các hoạt động tiêu cực làm “thay đổi mục tiêu chính sách”, méo mó, biến
tướng các CSC thành chính sách của riêng các nhóm lợi ích, các chính trị gia và các
nhà hoạch định, thực thi CSC, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả của quá
trình chính sách. Và hậu quả là gây ra sự bảo hộ, độc quyền bất hợp lý, sự phân biệt đối
xử và không công bằng trong phân bổ các giá trị xã hội, cản trở lớn đối với quá trình
cải cách kinh tế và phát triển đất nước. Theo kết quả nghiên cứu được thừa nhận khá
phổ biến, tham nhũng dựa trên 3 yếu tố, mà mối liên hệ giữa chúng có thể được hình
thành theo công thức: tham nhũng = độc quyền + bưng bít thông tin – trách nhiệm giải
trình [41, tr.7]. Thực trạng này có thể thấy rất rõ trong các lĩnh vực nhạy cảm. Do đó,
để phòng, chống tham nhũng chính sách có hiệu quả, hạn chế các tác động tiêu cực của
các nhóm lợi ích thì việc nghiên cứu và làm rõ TNGT của Chính phủ trong hoạch định,
thực thi CSC ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.
Trên thực tế, Chính phủ đã thực hiện việc giải trình dưới nhiều hình thức khác
nhau trước Quốc hội, nhân dân và trước xã hội nói chung. Tuy nhiên, kết quả thực
hiện TNGT theo những hình thức này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.
Trong đời sống xã hội hàng ngày, hàng giờ vẫn đang xảy ra rất nhiều sự việc liên
quan đến sai phạm, thiếu sót của các cơ quan nhà nước nhưng lại không có cơ quan
nào đứng ra nhận trách nhiệm; các chính sách được hoạch định và thực thi kém hiệu
quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời
sống của người dân thì không ai chịu trách nhiệm, không ai giải trình, thậm chí giải
trình rồi nhưng không biết lỗi thuộc về ai. Trước thực trạng đó, rất cần thiết có một hệ
thống pháp lý quy định đầy đủ với cơ chế TNGT hữu hiệu để tăng cường việc thực
hiện TNGT của Chính phủ trước Quốc hội, trước người dân, xã hội và các bên liên
quan trong quá trình chính sách.
Hơn nữa, bối cảnh mới của đất nước và quốc tế với xu hướng xây dựng một
chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động đòi hỏi ngày càng cao sự gia tăng tiếng nói
4
người dân và cải thiện TNGT của chính phủ. Trước yêu cầu của sự phát triển đất nước,
sự tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, quản trị quốc gia
hiệu quả là chìa khóa để đạt được sự phát triển kinh tế bền vững không ngừng đặt ra
yêu cầu bức thiết về TNGT của Chính phủ. Những thách thức mà Chính phủ hiện nay
phải đối mặt là không nhỏ từ nền kinh tế toàn cầu, công nghệ và thông tin mới cũng
như từ các đòi hỏi dân chủ, sự tham gia rộng rãi hơn của người dân. Chất lượng của
chính quyền, tính minh bạch và TNGT trong hoạt động công vụ ngày càng trở nên
quan trọng để xây dựng niềm tin công chúng thúc đẩy một chính quyền hiệu quả. Đối
với Việt Nam, tìm cách xây dựng các thể chế chính trị cởi mở hơn và có TNGT hơn sẽ
ngày càng trở thành yêu cầu quan trọng trước bối cảnh hội nhập và phát triển trong khi
các tổ chức quốc tế đánh giá “quản trị công xếp hạng Việt Nam ở mức độ khá thấp
trong góc nhìn về trách nhiệm giai trình của nền hành chính”. Sự phát triển kinh tế - xã
hội cần tới một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động gắn liền với sự minh bạch và
chịu trách nhiệm. Do đó, thiết lập và tăng cường TNGT của Chính phủ vừa là điều kiện,
vừa là sự bảo đảm cho các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thiếu điều kiện đó khó
có thể nói tới huy động và thu hút các dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Mặt khác, có thể nhận thấy các nghiên cứu về TNGT của Nhà nước nói chung
và TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC nói riêng ở Việt Nam vẫn
còn là khoảng trống lớn. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học chính trị nào
nghiên cứu một cách có hệ thống về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực
thi CSC ở Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn,
nghiên cứu sinh đã lựa chọn nghiên cứu “Trách nhiệm giải trình của Chính phủ
trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
án tiến sĩ, chuyên ngành chính trị học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm giải trình của
chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC và khảo sát thực trạng TNGT của Chính
phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp cơ bản
5
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi
CSC ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên
quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về TNGT; TNGT của Chính phủ trong
hoạch định, thực thi CSC.
- Phân tích, đánh giá thực trạng TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực
thi CSC ở Việt Nam
- Đề xuất quan điểm định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao TNGT của
Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Trách nhiệm giải trình của Chính phủ
trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam, cụ thể là TNGT về việc
thực hiện nhiệm vụ, chức năng trong quá trình hoạch định, thực thi CSC.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án không nghiên cứu TNGT nói chung của Chính phủ Việt Nam về việc
thực hiện tất cả các nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ mà chỉ tập trung nghiên cứu
TNGT của Chính phủ Việt Nam trong hoạch định và thực thi CSC từ các quy định của
pháp luật Việt Nam về TNGT và việc thực hiện TNGT của Chính phủ trên thực tế.
- Luận án tập trung nghiên cứu TNGT của Chính phủ Việt Nam, cụ thể là
TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và
trước nhân dân, xã hội nói chung đối với một số chính sách.
- Phạm vi về thời gian: từ 2008 đến nay (vì năm 2008 là năm ban hành Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật), nhất là các chính sách điển hình trong nhiệm
kỳ Chính phủ 2011-2016.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước, thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước.
6
- Luận án tiếp cận từ góc độ chính trị học. Cụ thể là lý luận về dân chủ, về tổ chức
và thực thi quyền lực nhà nước, về cơ chế ủy quyền và kiểm soát quyền lực ủy nhiệm.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
- Các phương pháp cụ thể:
Thứ nhất, sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp trong quá trình
thực hiện luận án, đặc biệt để làm rõ lý luận căn bản về trách nhiệm giải trình
(TNGT) của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở chương 1 và chương 2
như: Khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng, cơ sở chính trị - pháp lý, nội dung,
hình thức, những nhân tố ảnh hưởng... Các tài liệu thứ cấp được sử dụng bao gồm các
tài liệu trong nước và nước ngoài đã nghiên cứu về TNGT nói chung và TNGT của
Chính phủ nói riêng; về quá trình chính sách công (CSC) ở Việt Nam, cụ thể là giai
đoạn HĐCS, TTCS. Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành lập
kế hoạch xác định nhóm vấn đề tương ứng với các nhóm tài liệu cần tìm, cần nghiên
cứu. Sau đó, tiến hành thu thập các nhóm tài liệu; đọc, phân tích và chọn lọc, ghi
chép lại các nội dung quan trọng; so sánh và đối chiếu với mục đích, định hướng
nghiên cứu của luận án kết hợp với kiến thức đã có để bước đầu đánh giá, khái quát
và đưa ra những nhận định riêng của tác giả luận án.
Thứ hai, sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia, đặc biệt để làm rõ thực
trạng thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở chương 3 và
đề xuất giải pháp ở chương 4. Các chuyên gia được phỏng vấn là những người nghiên
cứu, am hiểu trong các lĩnh vực CSC, luật học, hành chính học, chính trị học... với
những hiểu biết và kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học về một số vấn đề liên
quan đến đề tài luận án. Các chuyên gia đã đưa ra những quan điểm, những nhận định
khoa học quan trọng về nhận thức lý luận và đánh giá thực trạng TNGT của Chính
phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, các chuyên
gia cũng gợi mở những ý tưởng về giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện
TNGT của Chính phủ ở chương 4 của luận án. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn tiến
hành phỏng vấn xin ý kiến của các nhà lãnh đạo ở các cấp và một số đại biểu Quốc
7
hội đại diện ở một số tỉnh thành có chức năng giám sát Chính phủ, trực tiếp với hoạt
động thực hiện TNGT của Chính phủ cũng đưa ra rất nhiều ý kiến quan trọng thiết
thực, khách quan về TNGT và TNGT của Chính phủ Việt Nam.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành lập kế hoạch xác định
các chuyên gia ở các lĩnh vực liên quan đến luận án cần phỏng vấn. Sau đó, lập bảng
phỏng vấn với các nội dung câu hỏi và kế hoạch liên lạc với chuyên gia, nhà lãnh đạo, đại
biểu Quốc hội để tiến hành phỏng vấn. Sau phỏng vấn, tác giả tập hợp ý kiến, phân tích,
đánh giá khái quát ý kiến đã tiếp nhận được. Kết quả phỏng vấn và khảo sát được tác giả
sử dụng trong quá trình phân tích đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
Thứ ba, sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong phân tích làm rõ
thực trạng TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam, trước Quốc hội và
trước nhân dân, xã hội. Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ (gọi tắt là Nghị
định 116): Về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương
trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn là một trường hợp chính sách được lựa chọn để nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành thu thập tài liệu,
thông tin liên quan đến chính sách theo Nghị định 116, xem lại các phiên giải trình
xoay quanh việc hoạch định, thực thi chính sách đó. Tiếp đến, phân tích và chọn lọc,
ghi chép lại các nội dung quan trọng theo các vấn đề thuộc TNGT của Chính phủ; so
sánh và đối chiếu với mục đích, định hướng nghiên cứu của luận án kết hợp với tìm
hiểu các đánh giá của các cơ quan giám sát, truyền thông... về Nghị định 116. Từ đó,
tác giả bước đầu đánh giá, khái quát và đưa ra những nhận định riêng.
Thứ tư, phương pháp phân tích hệ thống, phân tích cấu trúc - chức năng được
sử dụng để xem xét và đánh giá vị trí, vai trò của chính phủ trong việc tổ chức và
thực thi quyền lực nhà nước nói chung cũng như trách nhiệm, thẩm quyền của Chính
phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC nói riêng.
Sử dụng kết hợp các phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa; các phương pháp thực nghiệm, dựa trên bằng
chứng... trong quá trình thực hiện luận án để làm rõ luận cứ, luận chứng; các trường
hợp chính sách được lựa chọn nghiên cứu; các nhận định, đánh giá; các giải pháp
được đề xuất.
8
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đóng góp khoa học của luận án được thể hiện ở những điểm mới:
Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu một cách hệ thống dưới góc độ chính
trị học về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam.
Thứ hai, trong phần nghiên cứu lý luận, luận án đã chỉ rõ được nội hàm cơ bản
của khái niệm TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC; chỉ rõ được mối
quan hệ giữa vai trò, vị trí của chính phủ - chủ thể quan trọng trong việc đề xuất, khởi
xướng và điều hành CSC - với tính tất yếu của việc thực hiện TNGT của chính phủ trong
quá trình hoạch định, thực thi CSC. Đây chính là điểm mới bước đầu được luận án khai
thác khi luận giải một cách khoa học về TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi
CSC ở Việt Nam. Đồng thời, luận án đã trình bày khái quát và hệ thống được các cơ sở
khác để lý giải cho việc chính phủ phải thực hiện TNGT trong quá trình hoạch định, thực
thi CSC là: Nguồn gốc quyền lực của chính phủ, yêu cầu về nguyên tắc phân quyền
trong kiểm soát quyền lực của chính phủ, bản chất của CSC. Đặc biệt, trong chương 2,
luận án đã có đóng góp khi phân tích được mục đích, các nội dung, hình thức giải trình
của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC, từ đó xác định cụ thể về chủ thể giải
trình, đối tượng giải trình cũng như khái quát được các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực
hiện TNGT của chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC.
Thứ ba, ở phần nghiên cứu thực trạng, công trình đã có những đóng góp đáng
kể. Cụ thể là làm rõ được những nét căn bản nhất của thực trạng cơ sở chính trị - pháp
lý và thực trạng giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt
Nam. Trong đó, luận án đã tập trung phân tích mối quan hệ chính trị giữa Chính phủ
với Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, giữa Chính phủ với Quốc hội và xã hội. Từ
đó, xác định được cơ chế TNGT giữa các chủ thể với các đối tượng đó. Đồng thời,
luận án đã hệ thống được các quy định pháp lý về TNGT của Chính phủ trong hoạch
định, thực thi CSC ở Việt Nam để hình thành được bộ khung cơ bản về TNGT của
Chính phủ xuyên qua các quy định hiện hành.
Trong phần thực trạng giải trình của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC
ở Việt Nam, luận án đã phân tích, làm rõ được giải trình của Chính phủ trước Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và trước xã hội nói chung; tìm ra
9
nguyên nhân của các thành tựu và hạn chế của việc giải trình của Chính phủ trong
hoạch định, thực thi CSC làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp.
Thứ tư, ở chương 4 về quan điểm định hướng và giải pháp nâng cao TNGT
của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC, công trình đã có những đóng góp
quan trọng. Luận án trình bày khái quát các quan điểm định hướng và xây dựng được
hệ thống các giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện TNGT của Chính phủ
trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam. Hệ thống giải pháp đó là: Nâng cao nhận
thức; hoàn thiện quy định của pháp luật; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sự giám sát của các cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đối với
Chính phủ; đẩy mạnh việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công trên thực tế một cách hiệu quả. Điều đáng ghi nhận là
trong từng giải pháp, luận án đã chỉ rõ được các biện pháp mẫu chốt, chìa khóa quan
trọng để có thể tập trung góp phần nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định
và thực thi CSC ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung những
hiểu biết, những luận cứ, luận chứng, những quan điểm khoa học về TNGT của
Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án bước đầu cung cấp những
cơ sở khoa học để nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở
Việt Nam và góp phần xây dựng Nhà nước liêm chính, kiến tạo, phục vụ... Đồng thời,
với kết quả nghiên cứu, luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo chuyên ngành chính trị học, hành chính học, khoa
học CSC ở khía cạnh TNGT, TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu 4 chương 12 tiết.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về trách nhiệm giải trình của
chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công
- Quan niệm về trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực
thi chính sách công
Các công trình nghiên cứu về khái niệm TNGT của chính phủ, có thể kể đến:
Adam Przeworski, Susan C. Stokes, Democracy, Accountability and Representation
(Dân chủ, trách nhiệm giải trình và đại diện) [115]; David Dearly and Andrew
Thomas, Managing by Accountability: What every Leader needs to know about
responsibility, integrity and result, (Quản lý bởi trách nhiệm giải trình: Điều mà
những người lãnh đạo cần biết về trách nhiệm, tính toàn vẹn và kết quả) [119]; Minh
Võ, “Trách nhiệm giải trình: định nghĩa, các loại hình và cơ chế” [204]; Đinh Văn
Minh, “Bàn về trách nhiệm giải trình”, [189]; Phạm Duy Nghĩa, “Cải cách thể chế:
Góc nhìn xác lập trách nhiệm giải trình” [192];...
Adam Przeworski, Susan C. Stokes, Democracy, Accountability and
Representation (Dân chủ, trách nhiệm giải trình và đại diện) [115]. Đây là công trình
bàn khá sâu về thuật ngữ TNGT và mối quan hệ giữa TNGT với vấn đề dân chủ và đại
diện. Cơ sở cho việc xác định TNGT đó là sự ủy quyền của người dân và tính đại diện
của bộ máy nhà nước. Với tư cách là người chủ, người dân phải có quyền được biết
chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua các thủ tục về tiếp cận thông tin,
công khai minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền, cơ chế giám sát quyền lực,
v.v.. Công trình này còn cho rằng, TNGT của chính phủ thể hiện trách nhiệm của chính
quyền trước người dân và góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền
trong công việc, theo đó TNGT của Chính phủ được nhìn nhận ở 2 góc độ chủ yếu: (i)
Giải trình chính trị - giải trình của các chính khách trước người dân về trách nhiệm
chính trị của mình đối với các vấn đề liên quan; (ii) Giải trình pháp lý: giải trình của
công chức, viên chức khi để xảy ra các sự việc ảnh hưởng đến tính đúng đắn trong thực
11
thi nhiệm vụ, công vụ. Giải trình của các chính khách, là giải trình trước cử tri, trước
nhân dân; giải trình của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ là giải
trình trước người lãnh đạo, người giao nhiệm vụ và cả với những người có liên quan,
chịu sự ảnh hưởng bởi các quyết định, hành vi của cán bộ, công chức.
Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) xây dựng hệ thống TNGT được
cấu thành từ khung TNGT và chính sách giám sát. UNDP sử dụng khái niệm TNGT của
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD). Theo đó, TNGT là nghĩa vụ (i) chứng minh
rằng công việc đã được thực hiện phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đã đồng
thuận và (ii) báo cáo đầy đủ, chính xác kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch theo nhiệm
kỳ. Theo www.vocabulary.com, TNGT là một danh từ mô tả việc nhận trách nhiệm, có thể
được thực hiện hoặc công khai thực hiện như: Chính phủ phải chịu trách nhiệm về các
quyết định, các hoạt động tác động đến công dân của mình; cá nhân công chức phải có
trách nhiệm về hành động và hành vi thực thi pháp luật của mình. Việc nhận trách nhiệm
còn có nghĩa là thừa nhận việc làm sai và có thể dẫn đến hình phạt[168].
Theo tài liệu của Ngân hàng phát triển châu Á, Phục vụ và duy trì: Cải thiện
hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, TNGT có nghĩa là khả năng yêu cầu
quan chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành động của mình, bao gồm hai yếu
tố: khả năng giải đáp và chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra [61, tr.12-13]. Theo đó,
quan chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ
đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực nào được sử dụng
vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt kết quả gì. Cần phải dự đoán (dự báo khoa học,
căn cứ vào các dữ liệu, thông tin giải trình để dự báo, để quy kết trách nhiệm) được
những hậu quả có thể xảy ra từ hành động của quan chức công quyền.
Như vậy, các công trình trong và ngoài nước đã đưa ra những quan điểm về
TNGT tương đối đa dạng nhưng về cơ bản có sự tương đồng ở một số khía cạnh liên
quan đến nội dung khái niệm TNGT của chính phủ. Có thể khái quát: Trách nhiệm
giải trình của chính phủ là một phương thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhằm đáp
ứng yêu cầu của người ủy quyền đối với người được ủy quyền. Đó là sự giải trình và
sự chịu trách nhiệm của chính phủ, trước tiên là sự chịu trách nhiệm về việc công
khai, minh bạch thông tin gắn liền với nghĩa vụ báo cáo, giải thích một cách chính
12
xác, đầy đủ về các công việc liên quan trong thực hiện quyền lực đã được ủy nhiệm
và sự chịu trách nhiệm của chính phủ về kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ (bao
gồm sự gánh chịu hình phạt khi để xảy ra hậu quả tiêu cực trong các công việc, các
hành động của Chính phủ).
Một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước bước đầu có những phân
tích về mục đích, sự cần thiết TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC.
Theo đó, các công trình đã phân tích, chỉ ra mặt trái của nhóm lợi ích và vận động
hành lang đối với quá trình chính sách. Theo các nghiên cứu này, sự lớn mạnh của
các nhóm lợi ích, nhất là các nhóm lợi ích về kinh tế, đã dẫn đến tình trạng các quyết
định, chính sách được ban hành chủ yếu phục vụ cho các lợi ích nhóm chứ không
phải phục vụ cho những lợi ích công như đúng bản chất của nó. Biểu hiện cụ thể đó là
sự cấu kết giữa các nhóm lợi ích với quyền lực nhà nước để thao túng chính sách
nhằm tối đa hóa lợi ích cho mình. Chính vì vậy, để hạn chế những tác động tiêu cực
trong hoạt động vận động hành lang của các nhóm lợi ích, thì việc xây dựng cơ chế
TNGT trong HĐCS là hết sức cần thiết. Đó là phương tiện để thúc đẩy dân chủ, minh
bạch hóa quá trình ra quyết định cũng như hạn chế sự lạm dụng quyền lực của chính
phủ trong quá trình chính sách. Một chính phủ tốt phải có trách nhiệm cung cấp bằng
chứng, giải thích cho người dân hiểu được bản chất của một chính sách, một quyết
định mà mình có trách nhiệm ban hành. Sự minh bạch và TNGT phải xuất phát từ sự
liêm chính của các nhà HĐCS, các thể chế cung cấp và trao đổi thông tin/quyền tiếp
cận thông tin, sự phản biện và giám sát từ phía dư luận thông qua các thể chế xã hội
như truyền thông và báo chí độc lập. Tiêu biểu có thể kể đến các công trình: Kathe
Callahan, Elements of Effective Governance: Measurement, Accountability and
Participation (Các yếu tố của quản trị hiệu quả: cách đo lường, trách nhiệm giải trình
và sự tham gia) [141]; Roger H Davidson, Walter J Oleszek, Frances E Lee, Congress
and Its Members (Quốc hội và các thành viên) [157]; Mark J. Green, James M.
Fallows, David Zwick, Ai chỉ huy Quốc hội (Sự thật về Quốc hội Mỹ) [59]; Arik Hart,
Group Interest in Decision Making: Yes We Can!? (Lợi ích nhóm trong hoạch định
chính sách: Điều chúng ta có thể?) [117]; Kevin W. Hula, Lobbying Together:
Interest Group Coalitions in Legislative Politics (Cùng nhau vận động: Liên minh
nhóm lợi ích trong nền chính trị lập pháp), [144];...
13
Một số công trình đã phân tích mối quan hệ giữa nhóm lợi ích kinh tế (mà cụ thể
là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước) với các chủ thể
hoạch định và thực thi CSC trong bộ máy nhà nước. Qua đó, đã chỉ ra sự cần thiết của
việc thực hiện TNGT: Nếu thiếu việc giải trình của các chủ thể HĐCS, TTCS thì vấn đề
tham nhũng chính sách ở Việt Nam sẽ càng có cơ hội lan rộng, tinh vi và phức tạp. Tham
nhũng chính sách ở Việt Nam có thể nhìn thấy về mặt hiện tượng nhưng rất khó để phát
hiện và xử lý. Nguyên nhân chủ yếu của tham nhũng chính sách được nhắc đến đó là:
Chính phủ chưa tách rời được chức năng quản lý kinh tế của nhà nước với chức năng sản
xuất kinh doanh, nhiều lĩnh vực vẫn còn cơ chế xin-cho, vẫn còn chiếm vị thế độc quyền
và được bảo hộ lớn từ phía nhà nước; luật phòng, chống tham nhũng thực thi nhưng kém
hiệu quả; các chính sách kinh tế hoạch định trong tình trạng thiếu dân chủ và minh bạch,
cơ chế kiểm soát quyền lực còn lỏng lẻo, v.v.. Các công trình nghiên cứu nhiều về vấn đề
này là: Văn Thường Nguyễn, Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Những lực cản cần phải
vượt qua [70]; Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực, Nhận diện tham nhũng và các giải pháp
phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay [90];...
- Về cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong
hoạch định, thực thi chính sách công
Các tác giả Dennis D. Riley, Bryan E. Brophy - Baermann, trong cuốn sách có
tiêu đề: Bureaucracy and the Policy Process: Keeping the Promises (Bộ máy quan
liêu và quá trình chính sách: Việc giữ lời hứa) [123] đã phân tích vai trò của bộ máy
quan liêu trong quá trình chính sách, đặc biệt là quá trình hoạch định và thực thi CSC.
Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích các khái niệm như: bộ máy quan liêu,
quyền lực hành pháp và điều kiện cơ cấu của nó; mối quan hệ giữa trách nhiệm,
thông tin và truyền thông; vai trò của các thể chế để thúc đẩy trách nhiệm của bộ máy
quan liêu trong quá trình chính sách; cơ chế và công cụ để huy động công luận thúc
đẩy TNGT. Một số trường hợp nghiên cứu trên thế giới được sử dụng nhằm minh họa
cho lập luận chính của các tác giả như: bộ máy quan liêu vừa có ảnh hưởng tích cực,
vừa có ảnh hưởng tiêu cực đối với quá trình chính sách, và chính TNGT của bộ máy
quan liêu trong HĐCS là phương tiện chắc chắn nhất để đem lại lợi ích cho người
dân, nhất là ở các nước đang phát triển. Cuốn sách luận giải cơ sở chính trị - pháp lý
14
TNGT của chính phủ từ việc nhấn mạnh vị trí, vai trò quan trọng của chính phủ trong
hoạch định và thực thi CSC. Đây là cuốn sách được thiết kế cho các nhà làm chính
sách và các chuyên gia quản trị làm việc trong cộng đồng phát triển quốc tế, chính
phủ các nước, các tổ chức cơ sở, các nhà hoạt động, và các học giả tham gia trong
việc tìm hiểu, phân tích sự tương tác giữa TNGT của bộ máy quan liêu với chất lượng
của chính sách và vấn đề thúc đẩy dân chủ, minh bạch trong quá trình chính sách.
Lý thuyết chính sách là sự cụ thể hóa các quyết định hành chính. Đặc điểm
chung của những tư tưởng hành chính công kinh điển và kinh điển kiểu mới trong thời
cận đại cho tới nay là sự tách hành chính công khỏi việc đề ra chính sách thông qua lập
pháp. Đại diện tiêu biểu có thể kể đến các tác giả như: J. Dewey với tác phẩm Logic,
Theory of Inquiry (Logic, Lý luận về nghiên cứu điều tra), H. D. Laswell, The Policy
Sciences (Khoa học chính sách) [129]; F. Morstein Marx, The Social Function of
Public Administration (Chức năng xã hội của hành chính công) [125];... Đây là những
quan điểm được hình thành ở những năm giữa thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu có sự
thống nhất với nhau khi khẳng định: Chính sách không chỉ là việc riêng của ngành lập
pháp, mà nó còn có sự tham dự rất quan trọng của hành pháp; là sự cụ thể hóa các
quyết định chính trị và hành chính. Chính sự tham dự rất quan trọng của hành pháp
trong HĐCS, TTCS là cơ sở để hành pháp thực hiện trách nhiệm, TNGT về quá trình
HĐCS, TTCS.
Nhiều công trình đã khẳng định trung tâm của bộ máy nhà nước là bộ máy
hành pháp, do vậy TNGT của bộ máy hành pháp phải được đề cao. TNGT của chính
phủ bao gồm hai yếu tố: khả năng giải đáp và chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra.
Chính quyền phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng thẩm quyền, các nguồn lực công
và giải trình kết quả thu được thông qua ý kiến phản hồi của người sử dụng dịch vụ
và của mọi người dân. Tác giả Adam Przeworski, Susan C. Stokes, trong cuốn sách
Democracy, Accountability and Representation (Dân chủ, trách nhiệm giải trình và
đại diện) [115] cũng đã chỉ rõ cơ sở cho việc xác định TNGT là sự ủy quyền của
người dân và tính đại diện của bộ máy nhà nước. Với tư cách là người chủ, người dân
phải có quyền được biết chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua các
thủ tục về tiếp cận thông tin, công khai minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền,
15
cơ chế giám sát quyền lực, v.v.. Và, với tư cách là người được ủy quyền, chính phủ
phải thực hiện TNGT nhằm thể hiện trách nhiệm của chính quyền trước người dân và
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền trong công việc.
Các công trình nghiên cứu trong nước ít nhiều góp phần luận giải về cơ sở chính
trị - pháp lý TNGT của Chính phủ trong HĐCS, TTCS ở Việt Nam. Từ việc lý giải
Chính phủ có trách nhiệm rất lớn trong việc đề xuất, khởi xướng CSC và gắn liền với
việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong quá trình đó, đặc biệt trước xu hướng dân
chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, kiến tạo sự phát triển. Các công trình có thể kể
đến như: Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước [17]; Báo cáo
phát triển Việt Nam 2010, Các thể chế hiện đại [63]; Đào Trí Úc, “Vấn đề trách nhiệm
giải trình trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam” [104]; Nguyễn Hữu
Hải, Cải cách hành chính nhà nước - Lý luận và thực tiễn [38]...
Tác giả Nguyễn Đăng Dung, trong cuốn sách Ý tưởng về một nhà nước chịu
trách nhiệm nhấn mạnh những nghiên cứu về cách thức làm cho nhà nước luôn có xu
hướng phục vụ cuộc sống cho con người, để cho cuộc sống ngày càng công bằng hơn,
bình đẳng và bác ái hơn, luôn là một vấn đề cấp thiết. Sự hiện diện khách quan của
nhà nước đại diện đặt ra những yêu cầu bắt buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm,
trong đó có TNGT. Tác giả đã luận giải về các tiêu chuẩn của một chính quyền có
trách nhiệm, cho đến các nội dung, hình thức chính quyền chịu trách nhiệm trong đó
phân tích sâu sắc cơ sở cho sự chịu trách nhiệm rõ ràng của hai loại chủ thể hành
pháp chính trị và hành chính công vụ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; sự
phân chia trách nhiệm ở chiều dọc trung ương và địa phương; bầu cử là một hình thức
quan trọng để nhân dân thực hiện sự đánh giá trách nhiệm; Hiến pháp là hình thức
chứa đựng những nội dung sự phân định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Công
trình đã trình bày những vấn đề lý luận gắn liền với thực tiễn về trách nhiệm của
chính quyền nhà nước Việt Nam với sự lập luận logic từ vai trò của Chính phủ, sự
phân quyền và chỉ rõ Chính phủ Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội Việt
Nam, tiêu điểm của vấn đề trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam - Chính phủ chịu
trách nhiệm là Chính phủ phải biết HĐCS đến những đảm bảo cho vị trí, vai trò chịu
trách nhiệm hiện nay của Chính phủ - cơ quan hành pháp... Công trình đã chỉ rõ
16
những ý nghĩa rất quan trọng về cả phương diện lý luận và thực tiễn, cung cấp những
hiểu biết căn bản nhất về nguồn gốc, cơ sở chính trị - pháp lý trách nhiệm của Chính
phủ nhất là xuất phát từ vai trò, chức năng hoạch định và tổ chức thực thi chính sách
của Chính phủ; nội dung, các hình thức để Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước
nhân dân và gợi mở những ý tưởng, biện pháp để tăng cường sự chịu trách nhiệm của
Nhà nước trong xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong cuốn Cải cách hành chính nhà nước - Lý luận và thực tiễn, tác giả Nguyễn
Hữu Hải đã trình bày một nội dung rất quan trọng về vai trò của chính phủ với quyền hành
pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước. Đó là cơ sở chính trị để chính phủ phải thực hiện
TNGT trong quá trình chính sách. Sau khi phân tích một cách khái quát các quan điểm về
quyền hành pháp trên thế giới từ trước đến nay, tác giả đã luận giải một cách logic về nội
hàm của quyền hành pháp trong các nhà nước dân chủ và pháp quyền. Điều quan trọng tác
giả nhấn mạnh quyền hành pháp không chỉ bó hẹp trong việc chấp hành luật, mà còn là
quyền chủ động khởi xướng, HĐCS quốc gia. Quyền hành pháp không chỉ là quyền hành
chính nhà nước, tức là quyền cai trị hay quản lý nhà nước theo pháp luật, quyền đưa pháp
luật vào cuộc sống một cách thụ động mà còn là quyền điều hành các chính sách. Đây là
quyền chủ động trong tổ chức nhân sự và bảo đảm nguồn lực tốt nhất để thực hiện chính
sách quốc gia, quyền chủ động điều khiển một cách nhanh nhạy, sáng tạo, kịp thời và hiệu
quả các chính sách quốc gia hay là chính sách công.
Các công trình nghiên cứu về cơ sở pháp lý để thiết lập và tăng cường TNGT
của Chính phủ đã phân tích một số nét cơ bản về các quy định pháp lý hiện hành ở
Việt Nam qua Hiến pháp và các bộ luật, chỉ ra được các điểm chính về cơ sở pháp lý
cho việc thực hiện TNGT của Chính phủ trước Đảng, Quốc hội, nhân dân và xã hội
nói chung: Nguyễn Tuấn Khanh, “Thực trạng các điều kiện về thể chế pháp lý cho
việc thực hiện và thực tiễn thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành pháp ở
Việt Nam” [53]; Trần Văn Long, “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình
trong phòng, chống tham nhũng” [50];...
- Về phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công
Trong cuốn A Study of Decision - Making Process in Administration
Organization (Nghiên cứu quá trình ra quyết định trong tổ chức hành chính) [128],
17
H.A.Simon đã phân chia các giai đoạn của quá trình quyết định chính sách; phân biệt
các quyết định chính trị với các quyết định hành chính. Năm 1958, trong một số
nghiên cứu viết chung với J.G.March, Simon cho rằng cần phải có sự phân quyền, sự
giám sát trong các quyết định chính sách để ngăn ngừa sự lạm dụng và lợi dụng quyền
lực của các nhóm, cá nhân. TNGT của các chủ thể quyết định chính sách chính là cơ sở
để xác định trách nhiệm thuộc về ai; nội dung giải trình chính là làm rõ quyền lực đã
được sử dụng như thế nào trong quá trình chính sách, quyết định chính sách.
Kathe Callahan, Elements of Effective Governance: Measurement, Accountability
and Participation (Các yếu tố của quản trị hiệu quả: Phương pháp đo lường, trách
nhiệm giải trình và sự tham gia) [141]. Mục đích của cuốn sách là để khám phá mối
quan hệ giữa hoạt động chính phủ, trách nhiệm của khu vực công và sự tham gia của
công dân. Giả định chính của cuốn sách nhấn mạnh: Nếu có đo lường hiệu suất của
chính phủ, thì sẽ có thể khiến cho chính phủ phải chịu trách nhiệm về những sản phẩm
của mình; nếu có cơ chế buộc người ra quyết định chịu trách nhiệm về hoạt động của
họ, thì hiệu suất lao động của họ sẽ được cải thiện; nếu quá trình quản lý công khai và
minh bạch, tính trách nhiệm sẽ cao hơn. Công trình này khái quát tương đối hệ thống lý
luận về TNGT của chính phủ từ khái niệm, nội dung, hình thức đến phương pháp, kinh
nghiệm thực tiễn của một số nước trên thế giới trong việc nâng cao việc thực hiện
TNGT của chính phủ. Trong đó, công trình đã chỉ rõ các nội dung chính phủ phải giải
trình là các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của chính phủ; nhấn mạnh đến
sự tuân thủ và đo lường kết quả, hiệu suất của công việc mà chính phủ thực hiện. Đồng
thời, các hình thức TNGT của chính phủ được phân tích theo các loại TNGT như
TNGT truyền thống, TNGT pháp lý, TNGT nghề nghiệp... TNGT của chính phủ đối
với cơ quan lập pháp, kiểm toán và đối với bên ngoài (xã hội).
Sina Odugbemi, Taeku Lee, Accountability through Public Opinion: From
Inertia to Public Action (Trách nhiệm giải trình thông qua dư luận xã hội: từ quán
tính đến hành động) [162]. Công trình này cho rằng thuật ngữ “trách nhiệm giải
trình” đã trở thành một từ thông dụng trong phát triển quốc tế và được áp dụng như
một công cụ để đánh giá năng lực của các thể chế điều hành, mà chủ yếu là vai trò
của Chính phủ. Cuốn sách này đã đặt ra và cố gắng trả lời một cách khá thuyết phục
18
về các câu hỏi liên quan đến hình thức và phương pháp thực hiện TNGT: Tại sao
TNGT là quan trọng để nâng cao hiệu quả viện trợ phát triển; làm thế nào để các
chính phủ có trách nhiệm với công dân của họ; làm thế nào để TNGT được thực hiện
một cách đầy đủ và hiệu quả; làm thế nào để ràng buộc Chính phủ vào những cam kết
trong quá trình chính sách. Lập luận chính của cuốn sách nhấn mạnh là TNGT chịu
sự tác động lớn từ phía dư luận xã hội. Chính phủ sẽ chỉ chịu trách nhiệm nếu có
những biện pháp khuyến khích họ làm như vậy, và chính dư luận xã hội sẽ là công cụ
tích cực và quan trọng để thay đổi động cơ của một quan chức chính phủ, làm cho họ
đáp ứng nhu cầu của công dân. TNGT mà không dựa trên ý kiến phản hồi của công
chúng, của dư luận sẽ không đem lại một giải pháp hiệu quả về mặt chính sách.
O’Donnell, G.A trong nghiên cứu: “Why the rule of law matters” (Tại sao luật
pháp lại quan trọng) [152], cho rằng có hai hình thức TNGT: TNGT theo chiều ngang
và TNGT theo chiều dọc. TNGT theo chiều ngang là khái niệm để chỉ tồn tại của các
cơ quan nhà nước về mặt pháp lý có khả năng và được trao quyền hành động khi các
cơ quan công quyền khác, hoặc cán bộ nhà nước có hành vi sai trái. Các hành động
có thể bao gồm từ giám sát thường xuyên đến xử phạt hoặc buộc tội. Điều này có
nghĩa là một cơ quan nhà nước này có quyền giám sát và buộc cơ quan nhà nước
khác phải có TNGT về hành động của mình. Các tổ chức này là cơ quan lập pháp
hoặc cơ quan tư pháp. Ngoài ra, có thể là cơ quan kiểm toán tối cao, cơ quan thanh tra
độc lập, ủy ban chống tham nhũng... TNGT theo chiều dọc được hiểu là TNGT với
người dân và xã hội là các hình thức trong đó người dân và các tổ chức xã hội có
quyền yêu cầu chính phủ giải trình.
Molgan, R.G, Holding power to account: accountability in modern democracies
(Nắm giữ quyền lực: Trách nhiệm giải trình trong các nền dân chủ tiên tiến) [148] đã
chỉ rõ các phương pháp thực hiện TNGT của chính phủ tương ứng với các cơ chế vận
hành tùy thuộc vào cấu trúc chính trị của từng quốc gia như bầu cử thì phương pháp là
chiến dịch tranh cử của các nhóm chính trị; đối thoại chính sách thì có các phương pháp
thông qua nhóm tư vấn chính sách, cộng đồng chính sách hay biểu tình; điều tra độc lập
thì các phương pháp thông qua điều trần, báo cáo, thanh tra định kỳ, thanh tra hoạt
động... Ông cũng chỉ rõ có những xác định cụ thể về chủ thể, đối tượng TNGT của chính
19
phủ thông qua cơ chế: kiểm tra lập pháp (chủ thể giải trình là chính phủ, cơ quan chính
phủ, viên chức chính phủ; đối tượng giải trình là cơ quan lập pháp/công chúng), đối thoại
chính sách (chủ thể giải trình là chính phủ, bộ máy hành chính; đối tượng giải trình là
nhóm lợi ích, nhóm bị tác động, công chúng), điều tra độc lập: cơ quan kiểm toán chính
phủ độc lập (chủ thể giải trình là chính phủ được bầu, bộ máy hành chính; đối tượng giải
trình là thanh tra chính phủ độc lập/ tòa án/công chúng...
Thông qua nghiên cứu về hình thức, nội dung và phương pháp thực hiện
TNGT của chính phủ, các công trình cũng đồng thời xác định tương đối rõ về chủ thể
và đối tượng giải trình. Trong cuốn sách Policy Design for Democracy (Thiết kế
chính sách cho nền dân chủ) [160] và “Policy - Making and Collective Action:
Defining Coalitions within the Advocacy Coalition Framework” (Hoạch định chính
sách và Hành động tập thể: định nghĩa về liên minh trong khung liên minh vận động)
[159] các tác giả đi sâu phân tích quá trình HĐCS có các chủ thể chính thức, chủ thể
tham gia và các bên liên quan nhằm làm cho chính sách đảm bảo tính dân chủ. Các
chủ thể chính thức, có tiếng nói quyết định đến quá trình HĐCS gắn liền với việc
thực hiện TNGT bao gồm: Nghị viện, Chính phủ và cơ quan tư pháp. Các chủ thể này
giữ vai trò độc lập với nhau trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và thực
hiện vai trò giám sát lẫn nhau trong quá trình chính sách. Các chủ thể không chính
thức của quá trình chính sách bao gồm: các nhóm lợi ích, các đảng phái chính trị, các
tổ chức nghiên cứu, các phương tiện thông tin đại chúng, các chuyên gia tư vấn và cá
nhân công dân. Mỗi tổ chức này đều tác động đến quá trình HĐCS thông qua các
kênh và bằng các biện pháp khác nhau. Chính sự tham gia đa dạng của các chủ thể
trong quá trình HĐCS đã làm cho quá trình này được kiểm soát tốt hơn và bản thân
sản phẩm chính sách cũng tốt hơn. Trong các chủ thể đó, tùy theo mức độ tham gia
vào quá trình CSC mà các chủ thể chính thức phải có TNGT. Một số các công trình
khác cũng bàn nhiều đến vấn đề này có thể kể đến: Parsons, Wayne, Public Policy:
An Introduction to the Theory and Practice of Policy Analysis (Chính sách công: Giới
thiệu Lý thuyết và thực tiễn về phân tích Chính sách) [154]; Mazmanian, Daniel, and
Paul Sabatier, “A Multivariate Model of Public Policy-Making.” (Một mô hình về
hoạch định chính sách công), [150]; H.D. Lasswell, Harold (1956), The Decision
Process (Quy trình ra quyết định) [130];...
20
Khá nhiều nghiên cứu trong nước, phân tích các chiều cạnh của TNGT và thực
hiện TNGT của Chính phủ cả nội dung, hình thức, chủ thể, đối tượng và phương pháp
thực hiện TNGT. Nguyễn Tuấn Khanh với bài viết “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về
trách nhiệm giải trình” [188] đã nhìn nhận TNGT là điều kiện cần để công khai, minh
bạch đặc biệt trong công tác phòng chống tham nhũng, “trách nhiệm giải trình” được
xem như là một yếu tố cấu thành không thể thiếu khi đề cập đến “công khai, minh
bạch” hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến
các hình thức giải trình: Giải trình chủ động là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
chủ động thông tin, chủ động công khai nội dung hoạt động của mình. Giải trình bị
động: là các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin theo yêu cầu của các chủ
thể có liên quan. Để giải trình về hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thì phải
sử dụng các hình thức công khai thông tin.
Nguyễn Đức Thành (Chủ biên), Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2017,
Đẩy nhanh cải cách vì một nhà nước kiến tạo [95] đã cho rằng: TNGT trong HĐCS
là cách thức để tạo ra một chính sách hiệu quả và công bằng, đặc biệt là TNGT của
chính phủ - cơ quan chủ yếu dự thảo các chính sách. Các công trình này cũng đã đề
cập đến hai loại TNGT mà Chính phủ phải thực hiện, đó là trách nhiệm giải trình
chéo (internal accountability) và trách nhiệm giải trình trước xã hội (external
accountability). Trách nhiệm giải trình chéo: quyền lực nhà nước được chia ra làm ba
nhánh (lập pháp, hành pháp, và tư pháp) kiểm soát lẫn nhau. TNGT trước xã hội: nhà
nước chịu TNGT với những nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng bởi các quyết sách đưa
ra (công dân, doanh nghiệp, và các tổ chức xã hội độc lập).
Trong Báo cáo phát triển Việt Nam 2010, Các thể chế hiện đại [63], các tác
giả nhấn mạnh: sự phân cấp và trao quyền trong các thập kỷ qua diễn ra trên một loạt
các lĩnh vực hoạt động và dịch vụ, đồng thời phải có các cơ chế mới về đảm bảo trách
nhiệm. Trong Báo cáo đã phân biệt hai hình thức TNGT quan trọng: TNGT hướng
lên trên (hệ thống TNGT đảm bảo việc tuân thủ) tập trung vào việc tuân thủ các quy
tắc, các chỉ thị và chỉ đạo đến từ bộ máy nhà nước. Đặc trưng của hình thức TNGT
này là hệ thống cấp bậc cũng như các hình thức thưởng phạt hành chính; TNGT
hướng xuống dưới (hệ thống TNGT đối với kết quả hoạt động) tập trung vào các kết
21
quả mà một cá nhân hay một cơ quan có nhiệm vụ thực hiện. Một cá nhân hay cơ
quan với TNGT hướng xuống dưới sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc phục vụ khách
hàng. Đặc trưng của hình thức TNGT hướng xuống dưới là ý kiến phản hồi từ khách
hàng, các thông tin cung cấp cho khách hàng, và sự tham gia vào quá trình ra quyết
định. Đây là một trong những tài liệu cung cấp những lập luận về tính khách quan cần
phải thực hiện kết hợp nhiều hình thức TNGT trong cơ chế trao quyền, ủy quyền và
cần thiết phải đảm bảo quyền lực được sử dụng một cách hiệu quả trong thực thi công
vụ trước người dân, người ủy quyền.
Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn sách Ý tưởng về một nhà nước chịu
trách nhiệm [18] đã xác định chủ thể, đối tượng TNGT của Chính phủ một cách khá
cụ thể. Từ việc luận giải vai trò của Chính phủ trong HĐCS, TTCS; nhấn mạnh tiêu
điểm của vấn đề trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam - Chính phủ chịu trách nhiệm
là Chính phủ phải hoạch định, đề xướng, điều hành được các chính sách tốt để phát
triển đất nước đến việc Chính phủ phải thực hiện TNGT trong quá trình đó. Công
trình chỉ rõ chủ thể thực hiện TNGT của Chính phủ Việt Nam cụ thể là Thủ tướng
Chính phủ và các Bộ trưởng phải chịu TNGT trước Quốc hội, trước nhân dân. Hệ quả
TNGT của Chính phủ cũng được bàn đến theo các mức độ khác nhau như vấn đề bỏ
phiếu tín nhiệm đến việc buộc phải từ chức. Nếu Chính phủ không thể hoạch định
được các chính sách tốt, hoặc không thể tổ chức thực thi CSC hiệu quả, hay không
thể giải trình được quá trình HĐCS, TTCS khi để xảy ra những hậu quả từ các hành
động, quyết sách của Chính phủ thì Chính phủ phải từ chức.
- Về các nhân tố ảnh hưởng trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công
Các công trình nước ngoài nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích những nhân tố
ảnh hưởng đến thực hiện TNGT của chính phủ trong HĐCS, TTCS cũng khá phong
phú. Kathe Callahan, Elements of Effective Governance: Measurement,
Accountability and Participation (Các yếu tố của quản trị hiệu quả: Phương pháp đo
lường, trách nhiệm giải trình và sự tham gia) [141] đã phân tích bao quát các nhân tố
ảnh hưởng đến việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình CSC như: Cơ
quan truyền thông, báo chí; dư luận xã hội, sự tham gia của công dân... Đồng thời,
22
công trình cũng có những nghiên cứu về thực tế các yếu tố này tác động đến việc thực
hiện TNGT của chính phủ một số nước trên thế giới, điển hình là Mỹ.
Khi đề cập đến quá trình HĐCS nói chung và giám sát quá trình HĐCS nói
riêng, nhiều nghiên cứu cũng đã phân tích mối quan hệ cũng như vai trò của các
Think tank trong quá trình HĐCS, TTCS. Trong cuốn sách How think tanks shape
social development policies (Các tổ chức tư vấn định hình chính sách phát triển xã
hội như thế nào) [136], hệ thống think tank được xem là chủ thể đóng vai trò then
chốt trong quá trình tư vấn, nghiên cứu, cung cấp thông tin, định hướng HĐCS. Là
những tổ chức chuyên môn với tính chuyên nghiệp cao trong các hoạt động tư vấn và
phản biện chính sách, think tank có khả năng nhanh nhạy trong việc phát hiện nguy
cơ và đưa ra những giải pháp đối phó trong quá trình HĐCS, giúp người lãnh đạo
luôn chủ động trước mọi tình huống. Còn tác giả James G. McGann, Think Tanks and
Policy Advice in the US: Academics, Advisors and Advocates (Các tổ chức tư vấn và
lời khuyên chính sách ở Hoa Kỳ, các học giả, cố vấn và hành vi vận động) [137] và
Donald E.Abelson, Do Think Tanks Matter?Assessing the Impact of Public Policy
Institutes, (Các tổ chức tư vấn chính sách có vấn đề gì không? Đánh giá ảnh hưởng
của các thể chế chính sách công) [124] cho rằng sự thất bại của thị trường và nhà
nước thường là kết quả của những chính sách sai lầm. Nguyên nhân gây ra sai lầm
trong HĐCS là do sự chủ quan, thiếu toàn diện của cơ quan quyết sách (ban lãnh đạo
và các cơ quan nghiên cứu - tư vấn của họ). Nếu biết tranh thủ lắng nghe, tiếp thu ý
kiến tư vấn của bên thứ ba - các cá nhân hoặc tổ chức tư vấn độc lập với nhà nước
(Think tank), thì mức độ phạm sai lầm sẽ giảm đáng kể và chính những tổ chức tư
vấn độc lập này sẽ là nhân tố quan trọng trong việc tác động, gây ảnh hưởng và đặt ra
những yêu cầu đối với việc thực hiện TNGT của chính phủ ngày càng tích cực hơn.
Trong đề tài cấp bộ, Viện Khoa học Thanh tra, Thực hiện trách nhiệm giải
trình trong thực thi công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam hiện nay [41]
đã có những nghiên cứu chuyên sâu về các nhân tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm
việc thực hiện TNGT, TNGT của Chính phủ trong HĐCS, TTCS gồm các yếu tố: Sự
phát triển của nền kinh tế, văn hóa cá nhân, trình độ dân trí, sự tham gia của người
dân; cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, quyền tiếp cận thông tin được đảm bảo, sự
phân công nhiệm vụ công vụ rõ ràng.
23
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng trách nhiệm giải trình
của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công
Những công trình nghiên cứu về thực trạng TNGT của chính phủ chủ yếu khai
thác trên hai phương diện là: thực trạng các quy định pháp lý ở một số nước về TNGT
của chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC và thực trạng thực hiện TNGT của chính
phủ trong hoạch định, thực thi CSC trên thực tế. Tiêu biểu có các công trình như:
Drewry, G.,et al. Contracts, performance measurements, and accountability in the
public sector, (Hợp đồng, đo lường hiệu suất, và trách nhiệm giải trình trong khu vực
công) [120]; Shah, Anwar “Balance, accountability, and responsiveness: lessons about
decentralization” (Cân bằng, trách nhiệm giải trình và sự phản hồi: bài học về phân
quyền) [161]; Lederman,Daniel,Loayza,Norman, Reis Soares, Rodrigo “Accountability
and corruption: political institutions matter” (Trách nhiệm giải trình và chống tham
nhũng: vấn đề thể chế chính trị) [146];... Các công trình đã chỉ rõ: Từ các quy định về
quyền hành pháp, Hiến pháp các nước có những quy định về TNGT của chính phủ gắn
liền với quyền đó. Có thể kể đến: Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp năm 1958, Hiến
pháp nước Cộng hòa Liên bang Đức - Luật cơ bản năm 1949, Hiến pháp nước Cộng
hòa Italia năm 1947... Đồng thời, các công trình đã phân tích thực trạng thực hiện cơ
chế TNGT của Chính phủ Anh, Pháp, Mỹ, Australia... trong quá trình CSC. Đặc biệt,
kết quả nghiên cứu của các công trình đã nhấn mạnh đến những thành tựu quan trọng
của việc thực hiện TNGT mà Việt Nam có thể tham khảo như: Quy định pháp lý phải
được xây dựng một cách rõ ràng, hệ thống; các tổ chức chính trị - xã hội phải được
phát triển; quyền công dân phải được đảm bảo trên thực tế; các cơ chế thưởng - phạt
trong thực hiện TNGT phải được thiết lập và thực hiện nghiêm.
Một số công trình trong nước đã bước đầu nghiên cứu thực trạng TNGT của
Chính phủ Việt Nam, tiêu biểu như: Đào Trí Úc, “Vấn đề trách nhiệm giải trình trong
cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam” [104]; Đinh Tuấn Minh và Phạm
Thế Anh (chủ biên), Từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển [56];
Nguyễn Tuấn Khanh, “Thực trạng các điều kiện về thể chế pháp lý cho việc thực hiện
và thực tiễn thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành pháp ở Việt Nam” [53];
Trần Văn Long, “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình trong phòng, chống
24
tham nhũng” [50]; Phạm Duy Nghĩa, Trách nhiệm giải trình: vươn tới những chuẩn
mực của một nền hành chính phục vụ phát triển [191];...
Tháng 7 năm 2014, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đưa ra sáng
kiến xây dựng Báo cáo "Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công
bằng và Dân chủ" [62], Báo cáo khuyến nghị Việt Nam cần thực hiện sáu chuyển đổi
quan trọng để trở thành một nền kinh tế thu nhập trung bình cao. Trong Báo cáo đã
phân tích thực trạng TNGT của Chính phủ trên các phương diện: quy định pháp lý và
thực trạng thực hiện. Qua đó, Báo cáo chỉ rõ những rào cản đối với TNGT của Chính
phủ ở Việt Nam như: Thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau mang tính cân bằng
trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; những hạn chế
trong hoạt động giám sát của Quốc hội; bộ máy tư pháp chưa có tính độc lập; sự kết
hợp của một số yếu tố làm giảm vai trò của tiếng nói và sự tham gia của người dân
trong quá trình xây dựng và thực thi CSC.
Phạm Duy Nghĩa, Trách nhiệm giải trình: vươn tới những chuẩn mực của một
nền hành chính phục vụ phát triển [191]. Bài viết của tác giả đã giải thích các kênh
thiết lập TNGT hiện hành, nhận diện các nút thắt, phân tích các chuẩn mực TNGT mà
Việt Nam cần đạt tới trong hai thập niên tới, cũng như các giải pháp cần triển khai để
đạt được mục đích đó. Bài viết nhấn mạnh TNGT của cá nhân/tổ chức trong nền hành
chính công ngày càng phải được xác lập rõ ràng và trực tiếp hơn trước các bên liên
quan, đặc biệt là trước nhân dân. Trong bài viết, tác giả đã chỉ rõ những “trục trặc”
trong thiết lập TNGT ở Việt Nam hay là những hạn chế, nút thắt cần được tháo gỡ
trong TNGT của Chính phủ như vấn đề các quy định pháp lý, các cơ chế ràng buộc
TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và
nhân dân. Đặc biệt, tác giả đã chỉ rõ hạn chế trong từng hình thức TNGT, chẳng hạn
TNGT về chính trị thì nút thắt cần tháo gỡ là nguy cơ xa dân; nút thắt trong trách
nhiệm hành chính theo chiều dọc là: Bất tuân thủ và né tránh trách nhiệm cá nhân;
nút thắt trong trách nhiệm hành chính theo chiều ngang là: Thiếu tư duy kiềm chế và
đối trọng quyền lực; nút thắt trong trách nhiệm trước xã hội: Phản biện của báo chí và
các tổ chức chính trị - xã hội chưa bền vững.
Nguyễn Quốc Hiệp, Thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ
nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam hiện nay [41] đã nghiên cứu thực trạng thực
25
hiện TNGT của Chính phủ nhằm phòng chống tham nhũng. Công trình đã phân tích,
khái quát những nét cơ bản về thực trạng thực hiện TNGT của Chính phủ Việt Nam
thời gian qua trước Quốc hội, nhân dân và xã hội trong đó có TNGT của Chính phủ về
hoạch định, thực thi CSC. Qua đó, công trình bước đầu có những đánh giá về thành tựu
và hạn chế trong các quy định pháp lý về TNGT của Chính phủ, thực trạng thực hiện
TNGT của Chính phủ. Công trình khẳng định, bên cạnh những kết quả đã đạt được,
quy định và việc thực hiện TNGT vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế làm ảnh hưởng đến
công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ
quan nhà nước nói chung. Cụ thể có những bất cập như: Nhiều quy định còn mang
nặng tính hình thức, khó triển khai hiệu quả trên thực tế; Nghị định số 90/2013/NĐ-CP
quy định TNGT của các cơ quan nhà nước mới chỉ là quy định bước đầu, dừng lại ở
việc quy định giải trình khi có yêu cầu của người dân mà chưa quy định việc chủ động
giải trình của cơ quan nhà nước; quá trình thực hiện TNGT của Chính phủ cũng còn
nhiều bất cập như: mang nặng tính hình thức, thể hiện cụ thể qua việc trả lời chất vấn
của các bộ trưởng trước cơ quan dân cử và trước cơ quan báo chí nhiều khi còn chung
chung, không đi trực tiếp vào vấn đề được hỏi, né tránh trách nhiệm, thông tin giải trình
trong các buổi họp báo còn hạn hẹp, một số vấn đề được dư luận xã hội quan tâm chưa
được giải trình một cách minh bạch, rõ ràng, còn gây bất bình trong dân chúng, nhiều bộ,
ngành, địa phương chưa thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai, minh bạch, còn
có các vi phạm về nội dung công khai, hình thức công khai, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn
vị viện lý do thông tin thuộc bí mật nhà nước để hạn chế giải trình cho người dân và xã
hội, việc tiếp nhận và xử lý các phản ánh kiến nghị của người dân chưa thấu đáo, triệt để,
chưa đáp ứng kỳ vọng của người dân... Đồng thời, TNGT trong nội bộ liên quan đến
nhiều vấn đề như công tác tổ chức cán bộ, sử dụng ngân sách,… chưa được thực hiện
nghiêm là kẽ hở cho các hành vi tham nhũng xảy ra, các báo cáo công tác mang nặng
tính hình thức, chưa đánh giá đúng được kết quả công tác, tính chịu trách nhiệm về kết
quả thực thi công vụ không cao, khó quy trách nhiệm cho từng cá nhân; các hình thức để
cán bộ, công chức chịu trách nhiệm khi không thực hiện đúng trách nhiệm chưa được áp
dụng nghiêm túc: Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh trong Chính phủ mới
được áp dụng và chưa đi vào thực chất, còn nể nang, hình thức.
26
Các tác giả Đinh Tuấn Minh và Phạm Thế Anh (chủ biên) trong cuốn sách Từ
nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển [57] đã phân tích thực trạng
TNGT của một số nước như Liên bang Nga, TNGT ở Ấn Độ, TNGT ở Đài Loan,
TNGT ở Nhật Bản... Đồng thời, có những phân tích, đánh giá tương đối cụ thể về
TNGT của Chính phủ Việt Nam. Theo đó, các tác giả nhấn mạnh các vấn đề đặt ra
trong việc thực hiện TNGT của Chính phủ như: Hoạt động giải trình của Chính phủ và
hoạt động giải trình của các cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp đang diễn ra khá mờ
nhạt; mức độ giải trình của Chính phủ với bên ngoài (xã hội) còn thấp, còn yếu kém;
các yếu tố về tính độc lập của các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông chưa được
đảm bảo để tăng cường việc thực hiện TNGT của Chính phủ; sự phân tách quyền lực
giữa ba nhánh hành pháp, lập pháp, tư pháp chưa thực sự tốt;... nên trên thực tế, việc
thực hiện TNGT của Chính phủ chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được kỳ vọng
của nhân dân cũng như yêu cầu của việc xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển.
Qua phân tích các công trình nói trên, cho thấy được phần nào bức tranh thực
trạng TNGT của Chính phủ ở Việt Nam. Bên cạnh những kết quả, thành tựu thì còn có
những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp lý cũng như trong thực trạng thực hiện
TNGT của Chính phủ. Xét đến cùng, các hạn chế, bất cập lớn được xem là các vấn đề
nan giải tức là vấn đề tồn tại, những vấn đề đặt ra rất khó khăn, gian nan trong giải
quyết. Tiếp cận trực tiếp về các vấn đề nan giải của việc thực hiện TNGT của chính
phủ trong quá trình chính sách, một số công trình trong và ngoài nước đã có được
những kết quả nghiên cứu quan trọng để làm sáng rõ hơn bức tranh thực trạng TNGT
của các chính phủ nói chung, Chính phủ Việt Nam nói riêng. Các công trình đã phân
tích và chỉ ra vấn đề nan giải trong việc thực hiện TNGT của chính phủ trên một số
khía cạnh, có thể khái quát là: Trách nhiệm giải trình được xem là câu trả lời cho nhiều
vấn đề chính phủ phải đối mặt trong khu vực công như thiếu sự lãnh đạo, thiếu sự phối
hợp, các hành vi tham nhũng gia tăng... Nhưng, liệu rằng giải trình có thể làm rõ được
các vấn đề đó không; cơ chế nào để ràng buộc sự giải trình gắn liền với việc chịu trách
nhiệm; có quá nhiều thông tin trong TNGT của chính phủ và sẽ mất nhiều thời gian để
xem xét các thông tin, tính đúng sai của thông tin và chi phí là rất lớn.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu nói trên đã chỉ ra một số vấn đề được
xem là nan giải khi thực hiện TNGT của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính
27
sách. Các vấn đề đó lại xuất phát từ chính quá trình HĐCS, TTCS và chính những
phức tạp trong sự ủy quyền với nguy cơ thường trực là người đại diện luôn có xu
hướng “che giấu thông tin”, “che giấu hành động” trước người chủ đã ủy quyền cho
mình để có thể sử dụng quyền lực được ủy nhiệm theo mục đích có lợi cho mình hoặc
theo các mục đích khác nhau mà không theo ý của người chủ. Vì vậy, thiết kế các
hình thức, cơ chế giải trình như thế nào mới có thể khắc phục được những nan giải đó
là câu hỏi lớn để tìm ra giải pháp hữu hiệu.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao trách nhiệm
giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công
Sau khi phân tích, đánh giá thực trạng về TNGT của chính phủ trong hoạch
định, thực thi CSC, một số công trình đã đưa ra các quan điểm định hướng và đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao TNGT của chính phủ. Các quan điểm được nhấn
mạnh để nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC là: Chú
trọng mối quan hệ giữa TNGT của chính phủ với đổi mới thể chế; chú trọng sự phân
quyền giữa các cơ quan quyền lực nhà nước; gắn liền với đổi mới quá trình CSC theo
hướng dân chủ, công khai, minh bạch... Tiêu biểu có thể kể đến các công trình: Shah,
Anwar“Balance, accountability, and responsiveness: lessons about decentralization”
(Cân bằng, trách nhiệm giải trình và sự phản hồi: bài học về phân quyền) [161]; Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong
một thế giới cạnh tranh [61]; Ngân hàng Thế giới, Jody zall kusek Ray C. Rist, Mười
bước tiến tới hệ thống giám sát và đánh giá dựa trên kết quả [64]; Ngân hàng Thế giới,
Keith Mackay (2008), Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá thế nào để hoàn thiện
công tác quản lý của nhà nước [65];...
Keith Mackay, Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá thế nào để hoàn thiện
công tác quản lý của nhà nước. Cuốn sách này ra đời với mục đích giúp các chính
phủ xây dựng, củng cố và tổ chức thể chế hóa các hệ thống giám sát và đánh giá
M&E, tiến đến mục tiêu cuối cùng là hỗ trợ và cải thiện bộ máy nhà nước. Cuốn sách
này tổng hợp những kinh nghiệm mà Nhóm đánh giá độc lập (IEG) thuộc Ngân hàng
Thế giới đã thu thập từ các chương trình hỗ trợ bộ máy nhà nước dài hạn và những
kinh nghiệm của toàn thể nhân viên, chuyên viên thuộc Ngân hàng thế giới; khai thác
28
những nguồn thông tin, kiến thức ngày càng phong phú về TNGT của chính phủ với
yêu cầu ngày càng cao cần được hỗ trợ, phát triển hệ thống giám sát và đánh giá
M&E. Cuốn sách đã nhấn mạnh: Việc thiết lập hệ thống giám sát và đánh giá M&E
sẽ giúp chính phủ xây dựng được hệ thống thông tin về tình hình thực thi các chính
sách, kế hoạch, chương trình và có thể chỉ ra được những ǵ đang có hiệu quả, những
gì không, và lý do tại sao. M&E cũng có thể cho biết thông tin về tình hình hoạt động
của chính phủ, của cá nhân các bộ, ngành và của các nhà quản lý cũng như nhân viên
cấp dưới... từ đó giúp xã hội dân sự có được thông tin về chính sách một cách phong
phú nhất, người dân có thể đánh giá, phản biện về các thông tin chính sách của chính
phủ và đặt ra những yêu cầu về TNGT của chính phủ một cách hợp pháp, có căn cứ.
Và, chính phủ thông qua hệ thống giám sát và đánh giá M&E cũng sẽ thực hiện
TNGT một cách hiệu quả hơn, chủ động hơn mang tính hệ thống cao và tiết kiệm
được rất nhiều thời gian.
Báo cáo "Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và
Dân chủ" đã xác định tầm nhìn đến năm 2035, Nhà nước Việt Nam sẽ có một hệ
thống vận hành hiệu quả cơ chế kiểm soát và cân bằng giữa các nhánh quyền lực nhà
nước và tăng cường năng lực của người dân trong việc quy trách nhiệm đối với nhà
nước. Cả hai khía cạnh cần được thực hiện theo hướng thúc đẩy một tinh thần trách
nhiệm cao hơn của mỗi cá nhân cán bộ, công chức và đề cao TNGT của bản thân mỗi
cá nhân cán bộ, công chức nhà nước. Đồng thời, cần nâng cao khả năng truy TNGT
của nhà nước từ phía người dân. Từ đó, Báo cáo đã đi đến những kết luận về các giải
pháp, nhất là hoàn thiện các yếu tố thể chế chính trị để tăng cường việc thực hiện
TNGT của Chính phủ; nâng cao trình độ dân trí, tính tích cực của công dân trong việc
tham gia của vào quá trình CSC.
Phạm Duy Nghĩa, Trách nhiệm giải trình: vươn tới những chuẩn mực của một
nền hành chính phục vụ phát triển [191] đã khái quát những chuẩn mực mới về
TNGT với “tầm nhìn Việt Nam 2035” trong một nền hành chính công phục vụ người
dân. Tác giả nhấn mạnh cần tạo liên minh cho cải cách: Gợi ý chính sách thúc đẩy
TNGT trong hai thập kỷ tới. Tác giả nhấn mạnh các khía cạnh: Đối với trách nhiệm
giải trình về chính trị trước Đảng phải thiết lập các kênh chịu trách nhiệm của Đảng
29
trước nhân dân; Đối với TNGT về chính trị trước nhân dân, cử tri phải thiết lập được
quyền ủy trị thực sự của mình, dùng lá phiếu mà bầu ra, hoặc khi cần, cũng dùng lá
phiếu mà thúc ép thay đổi chính quyền một cách ôn hòa và văn minh, từ đó thay đổi
những người lãnh đạo nền hành chính công, nếu họ không đáp ứng được mong đợi
của nhân dân. Muốn vậy, bầu cử phải thật sự tự do, nhất là việc tự do ứng cử hoặc đề
cử các ứng viên cho đại diện dân cử; nền hành pháp phải chịu sức ép của lá phiếu,
của sức ép thay thế người ủy trị. Đối với TNGT hành chính theo hàng dọc, một mặt
phải đẩy lùi dần trách nhiệm tập thể, làm rõ trách nhiệm cá nhân, mặt khác, phải gắn
kết quả đầu ra của nền hành chính công với sự thực hiện của từng công chức. Đối với
TNGT theo hàng ngang với các thiết chế có chức năng giám sát như Thanh tra công
vụ, Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan có chức năng giám sát của Quốc hội, cơ quan
dân cử địa phương phải được thiết kế trên căn bản phân chia và đối trọng quyền lực
và phải được đảm bảo độc lập về pháp lý, tài chính, nhân sự, phạm vi hoạt động một
cách tương đối trong quan hệ với các cơ quan của bộ máy hành pháp. Ngoài ra, các
khuôn khổ và thể chế thúc đẩy thực thi quyền lập hội, quyền tự do báo chí, quyền tiếp
cận thông tin cần phải được xác lập để nâng cao TNGT của chính phủ với xã hội.
Nguyễn Thị Thanh, “Một số kinh nghiệm các nước trong việc thực hiện trách
nhiệm giải trình nhằm phòng ngừa tham nhũng” [94] đã khái quát các cơ chế thực hiện
TNGT của Chính phủ ở một số quốc gia trên thế giới từ đó, rút ra các kinh nghiệm và
gợi mở các giải pháp cho việc nâng cao TNGT của Chính phủ ở Việt Nam hiện nay.
Các kinh nghiệm về: Xây dựng cơ chế trách nhiệm chính trị chính qua bầu cử tự do và
công bằng; cơ chế trách nhiệm pháp lý bao gồm hiến pháp, đạo luật, nghị định, quy tắc,
và các công cụ pháp lý khác quy định những gì mà các công chức có thể và không thể
làm, đặc biệt thiết lập Tư pháp độc lập (cơ quan điều tra và xét xử mang tính độc lập) là
một yêu cầu cần thiết cho sự thành công của trách nhiệm pháp lý; cơ chế giải trình
trách nhiệm hành chính bao gồm các văn phòng trong cơ quan, các Bộ và thực tiễn
trong quá trình hành chính được thiết kế để đảm bảo rằng các quyết định và hành động
của các quan chức luôn bảo đảm cho các lợi ích của công dân chứ không phải lợi ích
của các bộ, cơ quan nhà nước... Đặc biệt, thiết lập bộ quy tắc đạo đức trong TNGT
hành chính. Ngoài ra, có thể thành lập một cơ quan độc lập gọi là Cơ quan kiểm toán
30
quốc gia (The Australian National Audit Office) để giúp Nghị viện giám sát hiệu quả
sử dụng ngân sách của chính phủ (Australia); ở Mỹ có Văn phòng TNGT chính phủ
Mỹ (GAO) là một cơ quan độc lập, không liên quan tới các đảng phái chính trị và luật
pháp ở Mỹ cho phép công dân được công khai xem xét các hoạt động của chính phủ...
Từ đó, chuyên đề đã chỉ rõ các vấn đề cần thực hiện đề góp phần nâng cao TNGT của
Chính phủ ở Việt Nam như: Thiết lập và tạo ra được môi trường công khai, minh bạch
về thông tin liên quan tới hoạt động của chính phủ; đảm bảo quyền được tiếp cận thông
tin của công dân; xây dựng bộ quy tắc thực hiện TNGT đối với cơ quan nhà nước và
cán bộ, công chức nhà nước; hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về TNGT.
1.2. KẾ THỪA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
1.2.1. Kế thừa những kết quả nghiên cứu trong các công trình
Qua tìm hiểu, phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể
nhận thấy vấn đề TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC đã được
nghiên cứu ở nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Những công trình đó đã đóng
góp quan trọng trong việc đưa ra những quan niệm về TNGT, TNGT của chính phủ
từ khái niệm, mục đích, sự cần thiết, cơ sở chính trị - pháp lý và các phương thức.
Nhiều công trình đã thảo luận, phân tích các trường hợp thực hiện trách nhiệm,
TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở các nước trên thế giới, cung
cấp các kinh nghiệm và gợi mở những giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của
quá trình hoạch định và thực thi CSC cũng như nâng cao việc thực hiện trách nhiệm,
TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách.
Các công trình đã phân tích, làm rõ vị trí, vai trò của các chủ thể tham gia
hoạch định và thực thi CSC. Trong đó, nhiều nghiên cứu đã khẳng định vai trò chủ
yếu của chính phủ - cơ quan hành pháp trong HĐCS, TTCS - từ đó luận giải tính tất
yếu của việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách. Đây là cơ sở
lý luận quan trọng để luận án triển khai nghiên cứu TNGT của Chính phủ Việt Nam
trên phương diện phải nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng của Chính phủ
trong quá trình HĐCS, TTCS cũng như các cơ sở chính trị - pháp lý của việc thực
hiện TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC.
Thông qua việc phân tích các hình thức TNGT, nội dung, phương pháp giải
trình của chính phủ trong quá trình CSC, nhiều nghiên cứu đã xác định tương đối cụ
31
thể về chủ thể, đối tượng, hệ quả, thời điểm... thực hiện TNGT của chính phủ. Đồng
thời, một số công trình cung cấp những luận cứ khoa học về nhân tố ảnh hưởng
TNGT của chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC và bước đầu bàn đến các vấn đề
nan giải TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách.
Trên cơ sở kế thừa giá trị nghiên cứu về TNGT trên thế giới, những nghiên cứu
trong nước về TNGT cũng góp phần đưa ra các quan điểm, cách hiểu về TNGT và có sự
thống nhất TNGT được thể hiện ở các khía cạnh: nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp, công
khai, minh bạch thông tin; giải thích, chứng minh về quá trình thực hiện nhiệm vụ và sự
chịu trách nhiệm trong quá trình đó cũng như chịu trách nhiệm đối với kết quả.
Các nghiên cứu nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa TNGT của Chính phủ với
vấn đề công khai, minh bạch; với cải cách thể chế, phòng chống tham nhũng, nâng
cao dân chủ của một nhà nước hiện đại trong quá trình chính sách; nhấn mạnh việc
thực hiện TNGT của Chính phủ trước Quốc hội, nhân dân và xã hội. Một trong các
hạn chế của việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở
Việt Nam được chỉ ra đó là: TNGT của quá trình HĐCS, TTCS của Chính phủ còn
yếu, mang tính hình thức; TNGT của Chính phủ chưa thực sự hiệu quả, thiếu cơ chế
ràng buộc trách nhiệm cụ thể... Đây là những dữ liệu quan trọng để tác giả kế thừa
trong nghiên cứu đề tài luận án.
Đồng thời, một số công trình đã kỳ công nghiên cứu, dự báo, đề xuất tầm nhìn
về TNGT của Chính phủ trong tương lai và hướng giải quyết. Đặc biệt, một số cơ chế
TNGT của Chính phủ cũng đã được nghiên cứu, nhất là cơ chế về chịu trách nhiệm
chính trị - pháp lý của Chính phủ như bỏ phiếu tín nhiệm, hay vấn đề từ chức nếu
trong quá trình HĐCS, TTCS gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà không thực
hiện TNGT hoặc giải trình không thuyết phục, không thỏa đáng.
Tóm lại, với các kết quả nghiên cứu từ các công trình nêu trên đã giúp cho tác
giả có cách nhìn tổng quan về TNGT của chính phủ trong quá trình hoạch định, thực
thi CSC. Các công trình đó đã cung cấp những luận điểm khoa học quan trọng để tác
giả có thể kế thừa và phát triển trong luận án. Qua tổng quan, cho thấy đến nay vẫn
chưa có một công trình khoa học chính trị nào nghiên cứu một cách có hệ thống về
TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam.
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam

More Related Content

What's hot

Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...
Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...
Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...PinkHandmade
 
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh MônBáo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Mônphuongqtvpk1d
 
BÙI QUANG XUÂN 3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docx
BÙI QUANG XUÂN   3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docxBÙI QUANG XUÂN   3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docx
BÙI QUANG XUÂN 3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docxBùi Quang Xuân
 
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...PinkHandmade
 

What's hot (20)

Luận văn: Tuyển dụng công chức tại Bộ Nội vụ, HAY
Luận văn: Tuyển dụng công chức tại Bộ Nội vụ, HAYLuận văn: Tuyển dụng công chức tại Bộ Nội vụ, HAY
Luận văn: Tuyển dụng công chức tại Bộ Nội vụ, HAY
 
Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...
Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...
Thực Trạng Và Giải Pháp Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức Huyện Th...
 
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOTLuận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
 
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 
Luận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAYLuận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận án: Đảm bảo an sinh xã hội tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú ThọBáo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Báo cáo thực tập tại UBND huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
 
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh MônBáo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
Báo cáo kiến tập tại UBND Huyện Kinh Môn
 
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAYĐề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
 
BÙI QUANG XUÂN 3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docx
BÙI QUANG XUÂN   3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docxBÙI QUANG XUÂN   3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docx
BÙI QUANG XUÂN 3. QUẢN LÝ CÔNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN.docx
 
Luận văn: Quản lý chi ngân sách nhà nước tại quận Thanh Khê
Luận văn: Quản lý chi ngân sách nhà nước tại quận Thanh KhêLuận văn: Quản lý chi ngân sách nhà nước tại quận Thanh Khê
Luận văn: Quản lý chi ngân sách nhà nước tại quận Thanh Khê
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOTLuận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới ở huyện Mỹ Hào, Hưng Yên, HOT
 
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAYLuận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
Luận văn: Thực hiện văn hoá công sở tại uỷ ban nhân dân Huyện Ứng Hoà, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể trong nông nghiệp
Luận văn: Quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể trong nông nghiệpLuận văn: Quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể trong nông nghiệp
Luận văn: Quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể trong nông nghiệp
 
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại UBND huyện Trà Bồng
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại UBND huyện Trà BồngLuận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại UBND huyện Trà Bồng
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực tại UBND huyện Trà Bồng
 
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Cấp Xã ...
 
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể tại tp HCM
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể tại tp HCMLuận văn: Quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể tại tp HCM
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể tại tp HCM
 
Luận văn: Giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
Luận văn: Giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa Luận văn: Giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
Luận văn: Giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
 
Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò VấpChất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
 

Similar to Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam

Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
MOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdf
MOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdfMOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdf
MOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdfTmNguyn8182
 
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam (20)

Luận Văn Thực Hiện Chính Sách Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức.
Luận Văn Thực Hiện Chính Sách Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức.Luận Văn Thực Hiện Chính Sách Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức.
Luận Văn Thực Hiện Chính Sách Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Công Chức.
 
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách xã hội hóa y tế.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách xã hội hóa y tế.docxCơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách xã hội hóa y tế.docx
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách xã hội hóa y tế.docx
 
Luận án: Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ, HAY
Luận án: Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ, HAYLuận án: Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ, HAY
Luận án: Vận động chính sách công ở Anh, Pháp, Mỹ, HAY
 
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
Luận Văn Thạc Sĩ Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Việc Kiểm Soát Quyền Lự...
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
 
Tiểu luạn Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế.docx
Tiểu luạn Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế.docxTiểu luạn Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế.docx
Tiểu luạn Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế.docx
 
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
 
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAYLuận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
Luận văn: Yếu tố phân quyền trong lịch sử lập Hiến pháp, HAY
 
Chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAY
Chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAYChính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAY
Chính sách giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, HAY
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
 
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAYPháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
 
MOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdf
MOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdfMOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdf
MOI 2019 Tài liệu bồi dưỡng ngạch CVC.pdf
 
Bài Thu Hoạch Chức Danh Nghề Nghiệp Viên Chức Ngành Tài Nguyên Và Môi Trường ...
Bài Thu Hoạch Chức Danh Nghề Nghiệp Viên Chức Ngành Tài Nguyên Và Môi Trường ...Bài Thu Hoạch Chức Danh Nghề Nghiệp Viên Chức Ngành Tài Nguyên Và Môi Trường ...
Bài Thu Hoạch Chức Danh Nghề Nghiệp Viên Chức Ngành Tài Nguyên Và Môi Trường ...
 
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Quyền tham gia chính trị ở Việt Nam hiện nay, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
 
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT...
 
BÀI MẪU Luận văn quản lý nhà nước phòng chống tham nhũng, HAY
BÀI MẪU Luận văn quản lý nhà nước phòng chống tham nhũng, HAYBÀI MẪU Luận văn quản lý nhà nước phòng chống tham nhũng, HAY
BÀI MẪU Luận văn quản lý nhà nước phòng chống tham nhũng, HAY
 
Luận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAY
Luận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAYLuận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAY
Luận án: Vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh ở Sơn La, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ CẦN TR¸CH NHIÖM GI¶I TR×NH CñA CHÝNH PHñ TRONG HO¹CH §ÞNH Vµ THùC THI CHÝNH S¸CH C¤NG ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2018
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI THỊ CẦN TR¸CH NHIÖM GI¶I TR×NH CñA CHÝNH PHñ TRONG HO¹CH §ÞNH Vµ THùC THI CHÝNH S¸CH C¤NG ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC MÃ SỐ: 62 31 02 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS.TS Vũ Hoàng Công 2. TS. Phạm Thế Lực HÀ NỘI - 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Bùi Thị Cần
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................... 10 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................................. 10 1.2. Kế thừa kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra........................................... 30 CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ TRONG HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG........... 34 2.1. Khái niệm hoạch định, thực thi chính sách công và trách nhiệm giải trình của chính phủ................................................................................................... 34 2.2. Cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công................................................................ 40 2.3. Sự cần thiết thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công.......................................................................... 47 2.4. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công................................ 52 2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công................................................................ 59 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ TRONG HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM......................................................................................................68 3.1. Thực trạng cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công ................................................ 68 3.2. Thực trạng thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công .......................................................................... 81 3.3. Đánh giá khái quát thực trạng và nguyên nhân .................................................. 96 CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ TRONG HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM....... 111 4.1. Quan điểm định hướng.................................................................................... 111 4.2. Giải pháp......................................................................................................... 120 KẾT LUẬN............................................................................................................ 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CSC : Chính sách công ĐBQH : Đại biểu Quốc hội HĐCS : Hoạch định chính sách Nxb : Nhà xuất bản TNGT : Trách nhiệm giải trình TTCS : Thực thi chính sách VBQPPL : Văn bản quy phạm pháp luật XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trách nhiệm giải trình (accountability) đã trở thành một thuật ngữ thông dụng trong phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, lĩnh vực chính trị nói riêng và được áp dụng như một công cụ để đánh giá năng lực của các thể chế điều hành, mà chủ yếu là vai trò của chính phủ. Chính phủ là chủ thể giữ một vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách công (CSC) gắn liền với việc thực hiện trách nhiệm giải trình (TNGT) để đảm bảo tính hiệu lực, tính khả thi và dân chủ của quá trình đó. Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình CSC mang tính khách quan và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trước hết, trách nhiệm giải trình được hình thành xuất phát từ những yêu cầu đặt ra trong cơ chế ủy quyền, quyền lực đại diện và trong sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm quyền. Trong các mô hình nhà nước hiện đại, quyền lực nhà nước có thể được phân công làm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nhánh quyền lực này phải thực hiện trách nhiệm giải trình lẫn nhau. Đó chính là thiết chế để giới hạn quyền lực của bộ máy nhà nước, trước hết là giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước và sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan đó tạo ra sự kiềm chế, đối trọng về quyền lực nhằm đảm bảo quyền lực được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả, chống lại sự lạm quyền. Đồng thời, xuất phát từ nguyên lý chủ quyền, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì các nhánh quyền lực nhà nước không những phải có TNGT lẫn nhau mà còn phải có TNGT với xã hội (công dân, các tổ chức xã hội độc lập và các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi quyết sách nhà nước). TNGT sẽ làm cho hoạt động của nhà nước trở nên minh bạch, hiệu quả làm cho người dân dễ dàng kiểm soát được những gì nhà nước đang làm cho mình, góp phần thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả quyền lực được trao. Theo Fukuyama (2011), nhà nước hiệu quả chỉ khi tạo ra được cơ chế giải trình hiệu quả [126, tr.40]. Để thực hiện tốt vai trò của mình, hầu hết các nhà nước đều sử dụng chính sách công. Đó là chính sách của nhà nước, là tập hợp những quyết định của nhà nước có liên quan với nhau do nhà nước ban hành để giải quyết một vấn đề công ảnh hưởng một
  • 7. 2 cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của người dân nhằm cung cấp những hàng hóa và dịch vụ công tới người dân, thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định. Nhà nước có nhiệm vụ thay mặt người dân, đại diện cho người dân soạn thảo và thông qua chính sách. Mọi quyền lực mà nhà nước thực thi là nhân danh nhân dân. Một nhà nước hiệu quả, trung tâm là chính phủ phải là một nhà nước xây dựng được cho mình những chính sách tốt và bảo đảm tính hiệu lực của nó trong đời sống xã hội. Một chính sách tốt phải được xây dựng trên nền tảng của sự đối thoại dân chủ, minh bạch và có trách nhiệm giữa chính phủ với người dân và xã hội. Do đó, trong toàn bộ quá trình này, chính phủ cần phải giải trình trước nhân dân về những việc mình đã, đang và sẽ làm. Nói cách khác, với tư cách là chủ thể gốc của quyền lực, người dân có quyền được biết những người đại diện của mình đang thực thi các quyền lực được ủy nhiệm như thế nào, tức là chính phủ phải có TNGT trước nhân dân. Vì vậy, TNGT của chính phủ trở thành một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong nền dân chủ đại diện. Thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình CSC, đặc biệt trong hai giai đoạn quan trọng hoạch định chính sách (HĐCS) và thực thi chính sách (TTCS) góp phần quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh dân chủ và pháp quyền, xây dựng một chính phủ mạnh, năng động, có trách nhiệm, giải quyết hiệu quả và kịp thời những vấn đề do thực tiễn đời sống đặt ra, đảm bảo một chính phủ thực sự vì lợi ích của người dân. Ở Việt Nam, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong thời gian qua đã có những kết quả đáng ghi nhận. Tuy vậy, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC còn tồn tại những hạn chế đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Nhân dân Việt Nam - người chủ của quyền lực thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội - ủy quyền cho Chính phủ và mong muốn quyền lực đó được sử dụng đúng, hiệu quả. Tuy nhiên, thực trạng hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam còn có những hạn chế và chưa thiết lập được một hệ thống TNGT thuyết phục. Chính phủ Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình chính sách, từ khâu HĐCS, TTCS cho đến đánh giá chính sách. Do vậy, một chính sách tốt hay không, hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào vai trò của Chính phủ, năng lực hoạch định và thực thi chính sách của Chính phủ. Thực tiễn cho thấy, những thành tựu trong quá trình đổi mới và phát triển mà Việt Nam đạt được trong hơn 30 năm qua là nhờ có những chính sách đúng đắn và
  • 8. 3 hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công ban đầu, quá trình chính sách nói chung, vai trò của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC nói riêng cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Đồng thời, trong các loại hình tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, tham nhũng chính sách được coi là loại hình tham nhũng rất nguy hiểm bởi nó liên quan đến các hoạt động tiêu cực làm “thay đổi mục tiêu chính sách”, méo mó, biến tướng các CSC thành chính sách của riêng các nhóm lợi ích, các chính trị gia và các nhà hoạch định, thực thi CSC, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả của quá trình chính sách. Và hậu quả là gây ra sự bảo hộ, độc quyền bất hợp lý, sự phân biệt đối xử và không công bằng trong phân bổ các giá trị xã hội, cản trở lớn đối với quá trình cải cách kinh tế và phát triển đất nước. Theo kết quả nghiên cứu được thừa nhận khá phổ biến, tham nhũng dựa trên 3 yếu tố, mà mối liên hệ giữa chúng có thể được hình thành theo công thức: tham nhũng = độc quyền + bưng bít thông tin – trách nhiệm giải trình [41, tr.7]. Thực trạng này có thể thấy rất rõ trong các lĩnh vực nhạy cảm. Do đó, để phòng, chống tham nhũng chính sách có hiệu quả, hạn chế các tác động tiêu cực của các nhóm lợi ích thì việc nghiên cứu và làm rõ TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết. Trên thực tế, Chính phủ đã thực hiện việc giải trình dưới nhiều hình thức khác nhau trước Quốc hội, nhân dân và trước xã hội nói chung. Tuy nhiên, kết quả thực hiện TNGT theo những hình thức này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân. Trong đời sống xã hội hàng ngày, hàng giờ vẫn đang xảy ra rất nhiều sự việc liên quan đến sai phạm, thiếu sót của các cơ quan nhà nước nhưng lại không có cơ quan nào đứng ra nhận trách nhiệm; các chính sách được hoạch định và thực thi kém hiệu quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống của người dân thì không ai chịu trách nhiệm, không ai giải trình, thậm chí giải trình rồi nhưng không biết lỗi thuộc về ai. Trước thực trạng đó, rất cần thiết có một hệ thống pháp lý quy định đầy đủ với cơ chế TNGT hữu hiệu để tăng cường việc thực hiện TNGT của Chính phủ trước Quốc hội, trước người dân, xã hội và các bên liên quan trong quá trình chính sách. Hơn nữa, bối cảnh mới của đất nước và quốc tế với xu hướng xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động đòi hỏi ngày càng cao sự gia tăng tiếng nói
  • 9. 4 người dân và cải thiện TNGT của chính phủ. Trước yêu cầu của sự phát triển đất nước, sự tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, quản trị quốc gia hiệu quả là chìa khóa để đạt được sự phát triển kinh tế bền vững không ngừng đặt ra yêu cầu bức thiết về TNGT của Chính phủ. Những thách thức mà Chính phủ hiện nay phải đối mặt là không nhỏ từ nền kinh tế toàn cầu, công nghệ và thông tin mới cũng như từ các đòi hỏi dân chủ, sự tham gia rộng rãi hơn của người dân. Chất lượng của chính quyền, tính minh bạch và TNGT trong hoạt động công vụ ngày càng trở nên quan trọng để xây dựng niềm tin công chúng thúc đẩy một chính quyền hiệu quả. Đối với Việt Nam, tìm cách xây dựng các thể chế chính trị cởi mở hơn và có TNGT hơn sẽ ngày càng trở thành yêu cầu quan trọng trước bối cảnh hội nhập và phát triển trong khi các tổ chức quốc tế đánh giá “quản trị công xếp hạng Việt Nam ở mức độ khá thấp trong góc nhìn về trách nhiệm giai trình của nền hành chính”. Sự phát triển kinh tế - xã hội cần tới một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động gắn liền với sự minh bạch và chịu trách nhiệm. Do đó, thiết lập và tăng cường TNGT của Chính phủ vừa là điều kiện, vừa là sự bảo đảm cho các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thiếu điều kiện đó khó có thể nói tới huy động và thu hút các dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác, có thể nhận thấy các nghiên cứu về TNGT của Nhà nước nói chung và TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC nói riêng ở Việt Nam vẫn còn là khoảng trống lớn. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học chính trị nào nghiên cứu một cách có hệ thống về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sinh đã lựa chọn nghiên cứu “Trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành chính trị học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC và khảo sát thực trạng TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp cơ bản
  • 10. 5 nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa và đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án. - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về TNGT; TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC. - Phân tích, đánh giá thực trạng TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam - Đề xuất quan điểm định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam, cụ thể là TNGT về việc thực hiện nhiệm vụ, chức năng trong quá trình hoạch định, thực thi CSC. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận án không nghiên cứu TNGT nói chung của Chính phủ Việt Nam về việc thực hiện tất cả các nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ mà chỉ tập trung nghiên cứu TNGT của Chính phủ Việt Nam trong hoạch định và thực thi CSC từ các quy định của pháp luật Việt Nam về TNGT và việc thực hiện TNGT của Chính phủ trên thực tế. - Luận án tập trung nghiên cứu TNGT của Chính phủ Việt Nam, cụ thể là TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và trước nhân dân, xã hội nói chung đối với một số chính sách. - Phạm vi về thời gian: từ 2008 đến nay (vì năm 2008 là năm ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật), nhất là các chính sách điển hình trong nhiệm kỳ Chính phủ 2011-2016. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước, thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước.
  • 11. 6 - Luận án tiếp cận từ góc độ chính trị học. Cụ thể là lý luận về dân chủ, về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, về cơ chế ủy quyền và kiểm soát quyền lực ủy nhiệm. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Các phương pháp cụ thể: Thứ nhất, sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp trong quá trình thực hiện luận án, đặc biệt để làm rõ lý luận căn bản về trách nhiệm giải trình (TNGT) của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở chương 1 và chương 2 như: Khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng, cơ sở chính trị - pháp lý, nội dung, hình thức, những nhân tố ảnh hưởng... Các tài liệu thứ cấp được sử dụng bao gồm các tài liệu trong nước và nước ngoài đã nghiên cứu về TNGT nói chung và TNGT của Chính phủ nói riêng; về quá trình chính sách công (CSC) ở Việt Nam, cụ thể là giai đoạn HĐCS, TTCS. Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành lập kế hoạch xác định nhóm vấn đề tương ứng với các nhóm tài liệu cần tìm, cần nghiên cứu. Sau đó, tiến hành thu thập các nhóm tài liệu; đọc, phân tích và chọn lọc, ghi chép lại các nội dung quan trọng; so sánh và đối chiếu với mục đích, định hướng nghiên cứu của luận án kết hợp với kiến thức đã có để bước đầu đánh giá, khái quát và đưa ra những nhận định riêng của tác giả luận án. Thứ hai, sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia, đặc biệt để làm rõ thực trạng thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở chương 3 và đề xuất giải pháp ở chương 4. Các chuyên gia được phỏng vấn là những người nghiên cứu, am hiểu trong các lĩnh vực CSC, luật học, hành chính học, chính trị học... với những hiểu biết và kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học về một số vấn đề liên quan đến đề tài luận án. Các chuyên gia đã đưa ra những quan điểm, những nhận định khoa học quan trọng về nhận thức lý luận và đánh giá thực trạng TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, các chuyên gia cũng gợi mở những ý tưởng về giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện TNGT của Chính phủ ở chương 4 của luận án. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn tiến hành phỏng vấn xin ý kiến của các nhà lãnh đạo ở các cấp và một số đại biểu Quốc
  • 12. 7 hội đại diện ở một số tỉnh thành có chức năng giám sát Chính phủ, trực tiếp với hoạt động thực hiện TNGT của Chính phủ cũng đưa ra rất nhiều ý kiến quan trọng thiết thực, khách quan về TNGT và TNGT của Chính phủ Việt Nam. Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành lập kế hoạch xác định các chuyên gia ở các lĩnh vực liên quan đến luận án cần phỏng vấn. Sau đó, lập bảng phỏng vấn với các nội dung câu hỏi và kế hoạch liên lạc với chuyên gia, nhà lãnh đạo, đại biểu Quốc hội để tiến hành phỏng vấn. Sau phỏng vấn, tác giả tập hợp ý kiến, phân tích, đánh giá khái quát ý kiến đã tiếp nhận được. Kết quả phỏng vấn và khảo sát được tác giả sử dụng trong quá trình phân tích đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đề xuất giải pháp. Thứ ba, sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong phân tích làm rõ thực trạng TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam, trước Quốc hội và trước nhân dân, xã hội. Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ (gọi tắt là Nghị định 116): Về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là một trường hợp chính sách được lựa chọn để nghiên cứu. Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành thu thập tài liệu, thông tin liên quan đến chính sách theo Nghị định 116, xem lại các phiên giải trình xoay quanh việc hoạch định, thực thi chính sách đó. Tiếp đến, phân tích và chọn lọc, ghi chép lại các nội dung quan trọng theo các vấn đề thuộc TNGT của Chính phủ; so sánh và đối chiếu với mục đích, định hướng nghiên cứu của luận án kết hợp với tìm hiểu các đánh giá của các cơ quan giám sát, truyền thông... về Nghị định 116. Từ đó, tác giả bước đầu đánh giá, khái quát và đưa ra những nhận định riêng. Thứ tư, phương pháp phân tích hệ thống, phân tích cấu trúc - chức năng được sử dụng để xem xét và đánh giá vị trí, vai trò của chính phủ trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước nói chung cũng như trách nhiệm, thẩm quyền của Chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC nói riêng. Sử dụng kết hợp các phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa; các phương pháp thực nghiệm, dựa trên bằng chứng... trong quá trình thực hiện luận án để làm rõ luận cứ, luận chứng; các trường hợp chính sách được lựa chọn nghiên cứu; các nhận định, đánh giá; các giải pháp được đề xuất.
  • 13. 8 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Đóng góp khoa học của luận án được thể hiện ở những điểm mới: Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu một cách hệ thống dưới góc độ chính trị học về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam. Thứ hai, trong phần nghiên cứu lý luận, luận án đã chỉ rõ được nội hàm cơ bản của khái niệm TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC; chỉ rõ được mối quan hệ giữa vai trò, vị trí của chính phủ - chủ thể quan trọng trong việc đề xuất, khởi xướng và điều hành CSC - với tính tất yếu của việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình hoạch định, thực thi CSC. Đây chính là điểm mới bước đầu được luận án khai thác khi luận giải một cách khoa học về TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam. Đồng thời, luận án đã trình bày khái quát và hệ thống được các cơ sở khác để lý giải cho việc chính phủ phải thực hiện TNGT trong quá trình hoạch định, thực thi CSC là: Nguồn gốc quyền lực của chính phủ, yêu cầu về nguyên tắc phân quyền trong kiểm soát quyền lực của chính phủ, bản chất của CSC. Đặc biệt, trong chương 2, luận án đã có đóng góp khi phân tích được mục đích, các nội dung, hình thức giải trình của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC, từ đó xác định cụ thể về chủ thể giải trình, đối tượng giải trình cũng như khái quát được các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC. Thứ ba, ở phần nghiên cứu thực trạng, công trình đã có những đóng góp đáng kể. Cụ thể là làm rõ được những nét căn bản nhất của thực trạng cơ sở chính trị - pháp lý và thực trạng giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam. Trong đó, luận án đã tập trung phân tích mối quan hệ chính trị giữa Chính phủ với Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, giữa Chính phủ với Quốc hội và xã hội. Từ đó, xác định được cơ chế TNGT giữa các chủ thể với các đối tượng đó. Đồng thời, luận án đã hệ thống được các quy định pháp lý về TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam để hình thành được bộ khung cơ bản về TNGT của Chính phủ xuyên qua các quy định hiện hành. Trong phần thực trạng giải trình của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam, luận án đã phân tích, làm rõ được giải trình của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và trước xã hội nói chung; tìm ra
  • 14. 9 nguyên nhân của các thành tựu và hạn chế của việc giải trình của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp. Thứ tư, ở chương 4 về quan điểm định hướng và giải pháp nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC, công trình đã có những đóng góp quan trọng. Luận án trình bày khái quát các quan điểm định hướng và xây dựng được hệ thống các giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam. Hệ thống giải pháp đó là: Nâng cao nhận thức; hoàn thiện quy định của pháp luật; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự giám sát của các cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đối với Chính phủ; đẩy mạnh việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công trên thực tế một cách hiệu quả. Điều đáng ghi nhận là trong từng giải pháp, luận án đã chỉ rõ được các biện pháp mẫu chốt, chìa khóa quan trọng để có thể tập trung góp phần nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung những hiểu biết, những luận cứ, luận chứng, những quan điểm khoa học về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án bước đầu cung cấp những cơ sở khoa học để nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam và góp phần xây dựng Nhà nước liêm chính, kiến tạo, phục vụ... Đồng thời, với kết quả nghiên cứu, luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo chuyên ngành chính trị học, hành chính học, khoa học CSC ở khía cạnh TNGT, TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu 4 chương 12 tiết.
  • 15. 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công - Quan niệm về trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công Các công trình nghiên cứu về khái niệm TNGT của chính phủ, có thể kể đến: Adam Przeworski, Susan C. Stokes, Democracy, Accountability and Representation (Dân chủ, trách nhiệm giải trình và đại diện) [115]; David Dearly and Andrew Thomas, Managing by Accountability: What every Leader needs to know about responsibility, integrity and result, (Quản lý bởi trách nhiệm giải trình: Điều mà những người lãnh đạo cần biết về trách nhiệm, tính toàn vẹn và kết quả) [119]; Minh Võ, “Trách nhiệm giải trình: định nghĩa, các loại hình và cơ chế” [204]; Đinh Văn Minh, “Bàn về trách nhiệm giải trình”, [189]; Phạm Duy Nghĩa, “Cải cách thể chế: Góc nhìn xác lập trách nhiệm giải trình” [192];... Adam Przeworski, Susan C. Stokes, Democracy, Accountability and Representation (Dân chủ, trách nhiệm giải trình và đại diện) [115]. Đây là công trình bàn khá sâu về thuật ngữ TNGT và mối quan hệ giữa TNGT với vấn đề dân chủ và đại diện. Cơ sở cho việc xác định TNGT đó là sự ủy quyền của người dân và tính đại diện của bộ máy nhà nước. Với tư cách là người chủ, người dân phải có quyền được biết chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua các thủ tục về tiếp cận thông tin, công khai minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền, cơ chế giám sát quyền lực, v.v.. Công trình này còn cho rằng, TNGT của chính phủ thể hiện trách nhiệm của chính quyền trước người dân và góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền trong công việc, theo đó TNGT của Chính phủ được nhìn nhận ở 2 góc độ chủ yếu: (i) Giải trình chính trị - giải trình của các chính khách trước người dân về trách nhiệm chính trị của mình đối với các vấn đề liên quan; (ii) Giải trình pháp lý: giải trình của công chức, viên chức khi để xảy ra các sự việc ảnh hưởng đến tính đúng đắn trong thực
  • 16. 11 thi nhiệm vụ, công vụ. Giải trình của các chính khách, là giải trình trước cử tri, trước nhân dân; giải trình của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ là giải trình trước người lãnh đạo, người giao nhiệm vụ và cả với những người có liên quan, chịu sự ảnh hưởng bởi các quyết định, hành vi của cán bộ, công chức. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) xây dựng hệ thống TNGT được cấu thành từ khung TNGT và chính sách giám sát. UNDP sử dụng khái niệm TNGT của Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD). Theo đó, TNGT là nghĩa vụ (i) chứng minh rằng công việc đã được thực hiện phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đã đồng thuận và (ii) báo cáo đầy đủ, chính xác kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch theo nhiệm kỳ. Theo www.vocabulary.com, TNGT là một danh từ mô tả việc nhận trách nhiệm, có thể được thực hiện hoặc công khai thực hiện như: Chính phủ phải chịu trách nhiệm về các quyết định, các hoạt động tác động đến công dân của mình; cá nhân công chức phải có trách nhiệm về hành động và hành vi thực thi pháp luật của mình. Việc nhận trách nhiệm còn có nghĩa là thừa nhận việc làm sai và có thể dẫn đến hình phạt[168]. Theo tài liệu của Ngân hàng phát triển châu Á, Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, TNGT có nghĩa là khả năng yêu cầu quan chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành động của mình, bao gồm hai yếu tố: khả năng giải đáp và chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra [61, tr.12-13]. Theo đó, quan chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực nào được sử dụng vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt kết quả gì. Cần phải dự đoán (dự báo khoa học, căn cứ vào các dữ liệu, thông tin giải trình để dự báo, để quy kết trách nhiệm) được những hậu quả có thể xảy ra từ hành động của quan chức công quyền. Như vậy, các công trình trong và ngoài nước đã đưa ra những quan điểm về TNGT tương đối đa dạng nhưng về cơ bản có sự tương đồng ở một số khía cạnh liên quan đến nội dung khái niệm TNGT của chính phủ. Có thể khái quát: Trách nhiệm giải trình của chính phủ là một phương thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhằm đáp ứng yêu cầu của người ủy quyền đối với người được ủy quyền. Đó là sự giải trình và sự chịu trách nhiệm của chính phủ, trước tiên là sự chịu trách nhiệm về việc công khai, minh bạch thông tin gắn liền với nghĩa vụ báo cáo, giải thích một cách chính
  • 17. 12 xác, đầy đủ về các công việc liên quan trong thực hiện quyền lực đã được ủy nhiệm và sự chịu trách nhiệm của chính phủ về kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ (bao gồm sự gánh chịu hình phạt khi để xảy ra hậu quả tiêu cực trong các công việc, các hành động của Chính phủ). Một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước bước đầu có những phân tích về mục đích, sự cần thiết TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC. Theo đó, các công trình đã phân tích, chỉ ra mặt trái của nhóm lợi ích và vận động hành lang đối với quá trình chính sách. Theo các nghiên cứu này, sự lớn mạnh của các nhóm lợi ích, nhất là các nhóm lợi ích về kinh tế, đã dẫn đến tình trạng các quyết định, chính sách được ban hành chủ yếu phục vụ cho các lợi ích nhóm chứ không phải phục vụ cho những lợi ích công như đúng bản chất của nó. Biểu hiện cụ thể đó là sự cấu kết giữa các nhóm lợi ích với quyền lực nhà nước để thao túng chính sách nhằm tối đa hóa lợi ích cho mình. Chính vì vậy, để hạn chế những tác động tiêu cực trong hoạt động vận động hành lang của các nhóm lợi ích, thì việc xây dựng cơ chế TNGT trong HĐCS là hết sức cần thiết. Đó là phương tiện để thúc đẩy dân chủ, minh bạch hóa quá trình ra quyết định cũng như hạn chế sự lạm dụng quyền lực của chính phủ trong quá trình chính sách. Một chính phủ tốt phải có trách nhiệm cung cấp bằng chứng, giải thích cho người dân hiểu được bản chất của một chính sách, một quyết định mà mình có trách nhiệm ban hành. Sự minh bạch và TNGT phải xuất phát từ sự liêm chính của các nhà HĐCS, các thể chế cung cấp và trao đổi thông tin/quyền tiếp cận thông tin, sự phản biện và giám sát từ phía dư luận thông qua các thể chế xã hội như truyền thông và báo chí độc lập. Tiêu biểu có thể kể đến các công trình: Kathe Callahan, Elements of Effective Governance: Measurement, Accountability and Participation (Các yếu tố của quản trị hiệu quả: cách đo lường, trách nhiệm giải trình và sự tham gia) [141]; Roger H Davidson, Walter J Oleszek, Frances E Lee, Congress and Its Members (Quốc hội và các thành viên) [157]; Mark J. Green, James M. Fallows, David Zwick, Ai chỉ huy Quốc hội (Sự thật về Quốc hội Mỹ) [59]; Arik Hart, Group Interest in Decision Making: Yes We Can!? (Lợi ích nhóm trong hoạch định chính sách: Điều chúng ta có thể?) [117]; Kevin W. Hula, Lobbying Together: Interest Group Coalitions in Legislative Politics (Cùng nhau vận động: Liên minh nhóm lợi ích trong nền chính trị lập pháp), [144];...
  • 18. 13 Một số công trình đã phân tích mối quan hệ giữa nhóm lợi ích kinh tế (mà cụ thể là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước) với các chủ thể hoạch định và thực thi CSC trong bộ máy nhà nước. Qua đó, đã chỉ ra sự cần thiết của việc thực hiện TNGT: Nếu thiếu việc giải trình của các chủ thể HĐCS, TTCS thì vấn đề tham nhũng chính sách ở Việt Nam sẽ càng có cơ hội lan rộng, tinh vi và phức tạp. Tham nhũng chính sách ở Việt Nam có thể nhìn thấy về mặt hiện tượng nhưng rất khó để phát hiện và xử lý. Nguyên nhân chủ yếu của tham nhũng chính sách được nhắc đến đó là: Chính phủ chưa tách rời được chức năng quản lý kinh tế của nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh, nhiều lĩnh vực vẫn còn cơ chế xin-cho, vẫn còn chiếm vị thế độc quyền và được bảo hộ lớn từ phía nhà nước; luật phòng, chống tham nhũng thực thi nhưng kém hiệu quả; các chính sách kinh tế hoạch định trong tình trạng thiếu dân chủ và minh bạch, cơ chế kiểm soát quyền lực còn lỏng lẻo, v.v.. Các công trình nghiên cứu nhiều về vấn đề này là: Văn Thường Nguyễn, Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Những lực cản cần phải vượt qua [70]; Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực, Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay [90];... - Về cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công Các tác giả Dennis D. Riley, Bryan E. Brophy - Baermann, trong cuốn sách có tiêu đề: Bureaucracy and the Policy Process: Keeping the Promises (Bộ máy quan liêu và quá trình chính sách: Việc giữ lời hứa) [123] đã phân tích vai trò của bộ máy quan liêu trong quá trình chính sách, đặc biệt là quá trình hoạch định và thực thi CSC. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích các khái niệm như: bộ máy quan liêu, quyền lực hành pháp và điều kiện cơ cấu của nó; mối quan hệ giữa trách nhiệm, thông tin và truyền thông; vai trò của các thể chế để thúc đẩy trách nhiệm của bộ máy quan liêu trong quá trình chính sách; cơ chế và công cụ để huy động công luận thúc đẩy TNGT. Một số trường hợp nghiên cứu trên thế giới được sử dụng nhằm minh họa cho lập luận chính của các tác giả như: bộ máy quan liêu vừa có ảnh hưởng tích cực, vừa có ảnh hưởng tiêu cực đối với quá trình chính sách, và chính TNGT của bộ máy quan liêu trong HĐCS là phương tiện chắc chắn nhất để đem lại lợi ích cho người dân, nhất là ở các nước đang phát triển. Cuốn sách luận giải cơ sở chính trị - pháp lý
  • 19. 14 TNGT của chính phủ từ việc nhấn mạnh vị trí, vai trò quan trọng của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC. Đây là cuốn sách được thiết kế cho các nhà làm chính sách và các chuyên gia quản trị làm việc trong cộng đồng phát triển quốc tế, chính phủ các nước, các tổ chức cơ sở, các nhà hoạt động, và các học giả tham gia trong việc tìm hiểu, phân tích sự tương tác giữa TNGT của bộ máy quan liêu với chất lượng của chính sách và vấn đề thúc đẩy dân chủ, minh bạch trong quá trình chính sách. Lý thuyết chính sách là sự cụ thể hóa các quyết định hành chính. Đặc điểm chung của những tư tưởng hành chính công kinh điển và kinh điển kiểu mới trong thời cận đại cho tới nay là sự tách hành chính công khỏi việc đề ra chính sách thông qua lập pháp. Đại diện tiêu biểu có thể kể đến các tác giả như: J. Dewey với tác phẩm Logic, Theory of Inquiry (Logic, Lý luận về nghiên cứu điều tra), H. D. Laswell, The Policy Sciences (Khoa học chính sách) [129]; F. Morstein Marx, The Social Function of Public Administration (Chức năng xã hội của hành chính công) [125];... Đây là những quan điểm được hình thành ở những năm giữa thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu có sự thống nhất với nhau khi khẳng định: Chính sách không chỉ là việc riêng của ngành lập pháp, mà nó còn có sự tham dự rất quan trọng của hành pháp; là sự cụ thể hóa các quyết định chính trị và hành chính. Chính sự tham dự rất quan trọng của hành pháp trong HĐCS, TTCS là cơ sở để hành pháp thực hiện trách nhiệm, TNGT về quá trình HĐCS, TTCS. Nhiều công trình đã khẳng định trung tâm của bộ máy nhà nước là bộ máy hành pháp, do vậy TNGT của bộ máy hành pháp phải được đề cao. TNGT của chính phủ bao gồm hai yếu tố: khả năng giải đáp và chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra. Chính quyền phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng thẩm quyền, các nguồn lực công và giải trình kết quả thu được thông qua ý kiến phản hồi của người sử dụng dịch vụ và của mọi người dân. Tác giả Adam Przeworski, Susan C. Stokes, trong cuốn sách Democracy, Accountability and Representation (Dân chủ, trách nhiệm giải trình và đại diện) [115] cũng đã chỉ rõ cơ sở cho việc xác định TNGT là sự ủy quyền của người dân và tính đại diện của bộ máy nhà nước. Với tư cách là người chủ, người dân phải có quyền được biết chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua các thủ tục về tiếp cận thông tin, công khai minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền,
  • 20. 15 cơ chế giám sát quyền lực, v.v.. Và, với tư cách là người được ủy quyền, chính phủ phải thực hiện TNGT nhằm thể hiện trách nhiệm của chính quyền trước người dân và góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền trong công việc. Các công trình nghiên cứu trong nước ít nhiều góp phần luận giải về cơ sở chính trị - pháp lý TNGT của Chính phủ trong HĐCS, TTCS ở Việt Nam. Từ việc lý giải Chính phủ có trách nhiệm rất lớn trong việc đề xuất, khởi xướng CSC và gắn liền với việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong quá trình đó, đặc biệt trước xu hướng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, kiến tạo sự phát triển. Các công trình có thể kể đến như: Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước [17]; Báo cáo phát triển Việt Nam 2010, Các thể chế hiện đại [63]; Đào Trí Úc, “Vấn đề trách nhiệm giải trình trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam” [104]; Nguyễn Hữu Hải, Cải cách hành chính nhà nước - Lý luận và thực tiễn [38]... Tác giả Nguyễn Đăng Dung, trong cuốn sách Ý tưởng về một nhà nước chịu trách nhiệm nhấn mạnh những nghiên cứu về cách thức làm cho nhà nước luôn có xu hướng phục vụ cuộc sống cho con người, để cho cuộc sống ngày càng công bằng hơn, bình đẳng và bác ái hơn, luôn là một vấn đề cấp thiết. Sự hiện diện khách quan của nhà nước đại diện đặt ra những yêu cầu bắt buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm, trong đó có TNGT. Tác giả đã luận giải về các tiêu chuẩn của một chính quyền có trách nhiệm, cho đến các nội dung, hình thức chính quyền chịu trách nhiệm trong đó phân tích sâu sắc cơ sở cho sự chịu trách nhiệm rõ ràng của hai loại chủ thể hành pháp chính trị và hành chính công vụ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; sự phân chia trách nhiệm ở chiều dọc trung ương và địa phương; bầu cử là một hình thức quan trọng để nhân dân thực hiện sự đánh giá trách nhiệm; Hiến pháp là hình thức chứa đựng những nội dung sự phân định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Công trình đã trình bày những vấn đề lý luận gắn liền với thực tiễn về trách nhiệm của chính quyền nhà nước Việt Nam với sự lập luận logic từ vai trò của Chính phủ, sự phân quyền và chỉ rõ Chính phủ Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội Việt Nam, tiêu điểm của vấn đề trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam - Chính phủ chịu trách nhiệm là Chính phủ phải biết HĐCS đến những đảm bảo cho vị trí, vai trò chịu trách nhiệm hiện nay của Chính phủ - cơ quan hành pháp... Công trình đã chỉ rõ
  • 21. 16 những ý nghĩa rất quan trọng về cả phương diện lý luận và thực tiễn, cung cấp những hiểu biết căn bản nhất về nguồn gốc, cơ sở chính trị - pháp lý trách nhiệm của Chính phủ nhất là xuất phát từ vai trò, chức năng hoạch định và tổ chức thực thi chính sách của Chính phủ; nội dung, các hình thức để Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước nhân dân và gợi mở những ý tưởng, biện pháp để tăng cường sự chịu trách nhiệm của Nhà nước trong xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong cuốn Cải cách hành chính nhà nước - Lý luận và thực tiễn, tác giả Nguyễn Hữu Hải đã trình bày một nội dung rất quan trọng về vai trò của chính phủ với quyền hành pháp trong hệ thống quyền lực nhà nước. Đó là cơ sở chính trị để chính phủ phải thực hiện TNGT trong quá trình chính sách. Sau khi phân tích một cách khái quát các quan điểm về quyền hành pháp trên thế giới từ trước đến nay, tác giả đã luận giải một cách logic về nội hàm của quyền hành pháp trong các nhà nước dân chủ và pháp quyền. Điều quan trọng tác giả nhấn mạnh quyền hành pháp không chỉ bó hẹp trong việc chấp hành luật, mà còn là quyền chủ động khởi xướng, HĐCS quốc gia. Quyền hành pháp không chỉ là quyền hành chính nhà nước, tức là quyền cai trị hay quản lý nhà nước theo pháp luật, quyền đưa pháp luật vào cuộc sống một cách thụ động mà còn là quyền điều hành các chính sách. Đây là quyền chủ động trong tổ chức nhân sự và bảo đảm nguồn lực tốt nhất để thực hiện chính sách quốc gia, quyền chủ động điều khiển một cách nhanh nhạy, sáng tạo, kịp thời và hiệu quả các chính sách quốc gia hay là chính sách công. Các công trình nghiên cứu về cơ sở pháp lý để thiết lập và tăng cường TNGT của Chính phủ đã phân tích một số nét cơ bản về các quy định pháp lý hiện hành ở Việt Nam qua Hiến pháp và các bộ luật, chỉ ra được các điểm chính về cơ sở pháp lý cho việc thực hiện TNGT của Chính phủ trước Đảng, Quốc hội, nhân dân và xã hội nói chung: Nguyễn Tuấn Khanh, “Thực trạng các điều kiện về thể chế pháp lý cho việc thực hiện và thực tiễn thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành pháp ở Việt Nam” [53]; Trần Văn Long, “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình trong phòng, chống tham nhũng” [50];... - Về phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công Trong cuốn A Study of Decision - Making Process in Administration Organization (Nghiên cứu quá trình ra quyết định trong tổ chức hành chính) [128],
  • 22. 17 H.A.Simon đã phân chia các giai đoạn của quá trình quyết định chính sách; phân biệt các quyết định chính trị với các quyết định hành chính. Năm 1958, trong một số nghiên cứu viết chung với J.G.March, Simon cho rằng cần phải có sự phân quyền, sự giám sát trong các quyết định chính sách để ngăn ngừa sự lạm dụng và lợi dụng quyền lực của các nhóm, cá nhân. TNGT của các chủ thể quyết định chính sách chính là cơ sở để xác định trách nhiệm thuộc về ai; nội dung giải trình chính là làm rõ quyền lực đã được sử dụng như thế nào trong quá trình chính sách, quyết định chính sách. Kathe Callahan, Elements of Effective Governance: Measurement, Accountability and Participation (Các yếu tố của quản trị hiệu quả: Phương pháp đo lường, trách nhiệm giải trình và sự tham gia) [141]. Mục đích của cuốn sách là để khám phá mối quan hệ giữa hoạt động chính phủ, trách nhiệm của khu vực công và sự tham gia của công dân. Giả định chính của cuốn sách nhấn mạnh: Nếu có đo lường hiệu suất của chính phủ, thì sẽ có thể khiến cho chính phủ phải chịu trách nhiệm về những sản phẩm của mình; nếu có cơ chế buộc người ra quyết định chịu trách nhiệm về hoạt động của họ, thì hiệu suất lao động của họ sẽ được cải thiện; nếu quá trình quản lý công khai và minh bạch, tính trách nhiệm sẽ cao hơn. Công trình này khái quát tương đối hệ thống lý luận về TNGT của chính phủ từ khái niệm, nội dung, hình thức đến phương pháp, kinh nghiệm thực tiễn của một số nước trên thế giới trong việc nâng cao việc thực hiện TNGT của chính phủ. Trong đó, công trình đã chỉ rõ các nội dung chính phủ phải giải trình là các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của chính phủ; nhấn mạnh đến sự tuân thủ và đo lường kết quả, hiệu suất của công việc mà chính phủ thực hiện. Đồng thời, các hình thức TNGT của chính phủ được phân tích theo các loại TNGT như TNGT truyền thống, TNGT pháp lý, TNGT nghề nghiệp... TNGT của chính phủ đối với cơ quan lập pháp, kiểm toán và đối với bên ngoài (xã hội). Sina Odugbemi, Taeku Lee, Accountability through Public Opinion: From Inertia to Public Action (Trách nhiệm giải trình thông qua dư luận xã hội: từ quán tính đến hành động) [162]. Công trình này cho rằng thuật ngữ “trách nhiệm giải trình” đã trở thành một từ thông dụng trong phát triển quốc tế và được áp dụng như một công cụ để đánh giá năng lực của các thể chế điều hành, mà chủ yếu là vai trò của Chính phủ. Cuốn sách này đã đặt ra và cố gắng trả lời một cách khá thuyết phục
  • 23. 18 về các câu hỏi liên quan đến hình thức và phương pháp thực hiện TNGT: Tại sao TNGT là quan trọng để nâng cao hiệu quả viện trợ phát triển; làm thế nào để các chính phủ có trách nhiệm với công dân của họ; làm thế nào để TNGT được thực hiện một cách đầy đủ và hiệu quả; làm thế nào để ràng buộc Chính phủ vào những cam kết trong quá trình chính sách. Lập luận chính của cuốn sách nhấn mạnh là TNGT chịu sự tác động lớn từ phía dư luận xã hội. Chính phủ sẽ chỉ chịu trách nhiệm nếu có những biện pháp khuyến khích họ làm như vậy, và chính dư luận xã hội sẽ là công cụ tích cực và quan trọng để thay đổi động cơ của một quan chức chính phủ, làm cho họ đáp ứng nhu cầu của công dân. TNGT mà không dựa trên ý kiến phản hồi của công chúng, của dư luận sẽ không đem lại một giải pháp hiệu quả về mặt chính sách. O’Donnell, G.A trong nghiên cứu: “Why the rule of law matters” (Tại sao luật pháp lại quan trọng) [152], cho rằng có hai hình thức TNGT: TNGT theo chiều ngang và TNGT theo chiều dọc. TNGT theo chiều ngang là khái niệm để chỉ tồn tại của các cơ quan nhà nước về mặt pháp lý có khả năng và được trao quyền hành động khi các cơ quan công quyền khác, hoặc cán bộ nhà nước có hành vi sai trái. Các hành động có thể bao gồm từ giám sát thường xuyên đến xử phạt hoặc buộc tội. Điều này có nghĩa là một cơ quan nhà nước này có quyền giám sát và buộc cơ quan nhà nước khác phải có TNGT về hành động của mình. Các tổ chức này là cơ quan lập pháp hoặc cơ quan tư pháp. Ngoài ra, có thể là cơ quan kiểm toán tối cao, cơ quan thanh tra độc lập, ủy ban chống tham nhũng... TNGT theo chiều dọc được hiểu là TNGT với người dân và xã hội là các hình thức trong đó người dân và các tổ chức xã hội có quyền yêu cầu chính phủ giải trình. Molgan, R.G, Holding power to account: accountability in modern democracies (Nắm giữ quyền lực: Trách nhiệm giải trình trong các nền dân chủ tiên tiến) [148] đã chỉ rõ các phương pháp thực hiện TNGT của chính phủ tương ứng với các cơ chế vận hành tùy thuộc vào cấu trúc chính trị của từng quốc gia như bầu cử thì phương pháp là chiến dịch tranh cử của các nhóm chính trị; đối thoại chính sách thì có các phương pháp thông qua nhóm tư vấn chính sách, cộng đồng chính sách hay biểu tình; điều tra độc lập thì các phương pháp thông qua điều trần, báo cáo, thanh tra định kỳ, thanh tra hoạt động... Ông cũng chỉ rõ có những xác định cụ thể về chủ thể, đối tượng TNGT của chính
  • 24. 19 phủ thông qua cơ chế: kiểm tra lập pháp (chủ thể giải trình là chính phủ, cơ quan chính phủ, viên chức chính phủ; đối tượng giải trình là cơ quan lập pháp/công chúng), đối thoại chính sách (chủ thể giải trình là chính phủ, bộ máy hành chính; đối tượng giải trình là nhóm lợi ích, nhóm bị tác động, công chúng), điều tra độc lập: cơ quan kiểm toán chính phủ độc lập (chủ thể giải trình là chính phủ được bầu, bộ máy hành chính; đối tượng giải trình là thanh tra chính phủ độc lập/ tòa án/công chúng... Thông qua nghiên cứu về hình thức, nội dung và phương pháp thực hiện TNGT của chính phủ, các công trình cũng đồng thời xác định tương đối rõ về chủ thể và đối tượng giải trình. Trong cuốn sách Policy Design for Democracy (Thiết kế chính sách cho nền dân chủ) [160] và “Policy - Making and Collective Action: Defining Coalitions within the Advocacy Coalition Framework” (Hoạch định chính sách và Hành động tập thể: định nghĩa về liên minh trong khung liên minh vận động) [159] các tác giả đi sâu phân tích quá trình HĐCS có các chủ thể chính thức, chủ thể tham gia và các bên liên quan nhằm làm cho chính sách đảm bảo tính dân chủ. Các chủ thể chính thức, có tiếng nói quyết định đến quá trình HĐCS gắn liền với việc thực hiện TNGT bao gồm: Nghị viện, Chính phủ và cơ quan tư pháp. Các chủ thể này giữ vai trò độc lập với nhau trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và thực hiện vai trò giám sát lẫn nhau trong quá trình chính sách. Các chủ thể không chính thức của quá trình chính sách bao gồm: các nhóm lợi ích, các đảng phái chính trị, các tổ chức nghiên cứu, các phương tiện thông tin đại chúng, các chuyên gia tư vấn và cá nhân công dân. Mỗi tổ chức này đều tác động đến quá trình HĐCS thông qua các kênh và bằng các biện pháp khác nhau. Chính sự tham gia đa dạng của các chủ thể trong quá trình HĐCS đã làm cho quá trình này được kiểm soát tốt hơn và bản thân sản phẩm chính sách cũng tốt hơn. Trong các chủ thể đó, tùy theo mức độ tham gia vào quá trình CSC mà các chủ thể chính thức phải có TNGT. Một số các công trình khác cũng bàn nhiều đến vấn đề này có thể kể đến: Parsons, Wayne, Public Policy: An Introduction to the Theory and Practice of Policy Analysis (Chính sách công: Giới thiệu Lý thuyết và thực tiễn về phân tích Chính sách) [154]; Mazmanian, Daniel, and Paul Sabatier, “A Multivariate Model of Public Policy-Making.” (Một mô hình về hoạch định chính sách công), [150]; H.D. Lasswell, Harold (1956), The Decision Process (Quy trình ra quyết định) [130];...
  • 25. 20 Khá nhiều nghiên cứu trong nước, phân tích các chiều cạnh của TNGT và thực hiện TNGT của Chính phủ cả nội dung, hình thức, chủ thể, đối tượng và phương pháp thực hiện TNGT. Nguyễn Tuấn Khanh với bài viết “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm giải trình” [188] đã nhìn nhận TNGT là điều kiện cần để công khai, minh bạch đặc biệt trong công tác phòng chống tham nhũng, “trách nhiệm giải trình” được xem như là một yếu tố cấu thành không thể thiếu khi đề cập đến “công khai, minh bạch” hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến các hình thức giải trình: Giải trình chủ động là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thông tin, chủ động công khai nội dung hoạt động của mình. Giải trình bị động: là các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin theo yêu cầu của các chủ thể có liên quan. Để giải trình về hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thì phải sử dụng các hình thức công khai thông tin. Nguyễn Đức Thành (Chủ biên), Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2017, Đẩy nhanh cải cách vì một nhà nước kiến tạo [95] đã cho rằng: TNGT trong HĐCS là cách thức để tạo ra một chính sách hiệu quả và công bằng, đặc biệt là TNGT của chính phủ - cơ quan chủ yếu dự thảo các chính sách. Các công trình này cũng đã đề cập đến hai loại TNGT mà Chính phủ phải thực hiện, đó là trách nhiệm giải trình chéo (internal accountability) và trách nhiệm giải trình trước xã hội (external accountability). Trách nhiệm giải trình chéo: quyền lực nhà nước được chia ra làm ba nhánh (lập pháp, hành pháp, và tư pháp) kiểm soát lẫn nhau. TNGT trước xã hội: nhà nước chịu TNGT với những nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng bởi các quyết sách đưa ra (công dân, doanh nghiệp, và các tổ chức xã hội độc lập). Trong Báo cáo phát triển Việt Nam 2010, Các thể chế hiện đại [63], các tác giả nhấn mạnh: sự phân cấp và trao quyền trong các thập kỷ qua diễn ra trên một loạt các lĩnh vực hoạt động và dịch vụ, đồng thời phải có các cơ chế mới về đảm bảo trách nhiệm. Trong Báo cáo đã phân biệt hai hình thức TNGT quan trọng: TNGT hướng lên trên (hệ thống TNGT đảm bảo việc tuân thủ) tập trung vào việc tuân thủ các quy tắc, các chỉ thị và chỉ đạo đến từ bộ máy nhà nước. Đặc trưng của hình thức TNGT này là hệ thống cấp bậc cũng như các hình thức thưởng phạt hành chính; TNGT hướng xuống dưới (hệ thống TNGT đối với kết quả hoạt động) tập trung vào các kết
  • 26. 21 quả mà một cá nhân hay một cơ quan có nhiệm vụ thực hiện. Một cá nhân hay cơ quan với TNGT hướng xuống dưới sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc phục vụ khách hàng. Đặc trưng của hình thức TNGT hướng xuống dưới là ý kiến phản hồi từ khách hàng, các thông tin cung cấp cho khách hàng, và sự tham gia vào quá trình ra quyết định. Đây là một trong những tài liệu cung cấp những lập luận về tính khách quan cần phải thực hiện kết hợp nhiều hình thức TNGT trong cơ chế trao quyền, ủy quyền và cần thiết phải đảm bảo quyền lực được sử dụng một cách hiệu quả trong thực thi công vụ trước người dân, người ủy quyền. Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn sách Ý tưởng về một nhà nước chịu trách nhiệm [18] đã xác định chủ thể, đối tượng TNGT của Chính phủ một cách khá cụ thể. Từ việc luận giải vai trò của Chính phủ trong HĐCS, TTCS; nhấn mạnh tiêu điểm của vấn đề trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam - Chính phủ chịu trách nhiệm là Chính phủ phải hoạch định, đề xướng, điều hành được các chính sách tốt để phát triển đất nước đến việc Chính phủ phải thực hiện TNGT trong quá trình đó. Công trình chỉ rõ chủ thể thực hiện TNGT của Chính phủ Việt Nam cụ thể là Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng phải chịu TNGT trước Quốc hội, trước nhân dân. Hệ quả TNGT của Chính phủ cũng được bàn đến theo các mức độ khác nhau như vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đến việc buộc phải từ chức. Nếu Chính phủ không thể hoạch định được các chính sách tốt, hoặc không thể tổ chức thực thi CSC hiệu quả, hay không thể giải trình được quá trình HĐCS, TTCS khi để xảy ra những hậu quả từ các hành động, quyết sách của Chính phủ thì Chính phủ phải từ chức. - Về các nhân tố ảnh hưởng trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công Các công trình nước ngoài nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện TNGT của chính phủ trong HĐCS, TTCS cũng khá phong phú. Kathe Callahan, Elements of Effective Governance: Measurement, Accountability and Participation (Các yếu tố của quản trị hiệu quả: Phương pháp đo lường, trách nhiệm giải trình và sự tham gia) [141] đã phân tích bao quát các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình CSC như: Cơ quan truyền thông, báo chí; dư luận xã hội, sự tham gia của công dân... Đồng thời,
  • 27. 22 công trình cũng có những nghiên cứu về thực tế các yếu tố này tác động đến việc thực hiện TNGT của chính phủ một số nước trên thế giới, điển hình là Mỹ. Khi đề cập đến quá trình HĐCS nói chung và giám sát quá trình HĐCS nói riêng, nhiều nghiên cứu cũng đã phân tích mối quan hệ cũng như vai trò của các Think tank trong quá trình HĐCS, TTCS. Trong cuốn sách How think tanks shape social development policies (Các tổ chức tư vấn định hình chính sách phát triển xã hội như thế nào) [136], hệ thống think tank được xem là chủ thể đóng vai trò then chốt trong quá trình tư vấn, nghiên cứu, cung cấp thông tin, định hướng HĐCS. Là những tổ chức chuyên môn với tính chuyên nghiệp cao trong các hoạt động tư vấn và phản biện chính sách, think tank có khả năng nhanh nhạy trong việc phát hiện nguy cơ và đưa ra những giải pháp đối phó trong quá trình HĐCS, giúp người lãnh đạo luôn chủ động trước mọi tình huống. Còn tác giả James G. McGann, Think Tanks and Policy Advice in the US: Academics, Advisors and Advocates (Các tổ chức tư vấn và lời khuyên chính sách ở Hoa Kỳ, các học giả, cố vấn và hành vi vận động) [137] và Donald E.Abelson, Do Think Tanks Matter?Assessing the Impact of Public Policy Institutes, (Các tổ chức tư vấn chính sách có vấn đề gì không? Đánh giá ảnh hưởng của các thể chế chính sách công) [124] cho rằng sự thất bại của thị trường và nhà nước thường là kết quả của những chính sách sai lầm. Nguyên nhân gây ra sai lầm trong HĐCS là do sự chủ quan, thiếu toàn diện của cơ quan quyết sách (ban lãnh đạo và các cơ quan nghiên cứu - tư vấn của họ). Nếu biết tranh thủ lắng nghe, tiếp thu ý kiến tư vấn của bên thứ ba - các cá nhân hoặc tổ chức tư vấn độc lập với nhà nước (Think tank), thì mức độ phạm sai lầm sẽ giảm đáng kể và chính những tổ chức tư vấn độc lập này sẽ là nhân tố quan trọng trong việc tác động, gây ảnh hưởng và đặt ra những yêu cầu đối với việc thực hiện TNGT của chính phủ ngày càng tích cực hơn. Trong đề tài cấp bộ, Viện Khoa học Thanh tra, Thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam hiện nay [41] đã có những nghiên cứu chuyên sâu về các nhân tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm việc thực hiện TNGT, TNGT của Chính phủ trong HĐCS, TTCS gồm các yếu tố: Sự phát triển của nền kinh tế, văn hóa cá nhân, trình độ dân trí, sự tham gia của người dân; cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, quyền tiếp cận thông tin được đảm bảo, sự phân công nhiệm vụ công vụ rõ ràng.
  • 28. 23 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công Những công trình nghiên cứu về thực trạng TNGT của chính phủ chủ yếu khai thác trên hai phương diện là: thực trạng các quy định pháp lý ở một số nước về TNGT của chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC và thực trạng thực hiện TNGT của chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC trên thực tế. Tiêu biểu có các công trình như: Drewry, G.,et al. Contracts, performance measurements, and accountability in the public sector, (Hợp đồng, đo lường hiệu suất, và trách nhiệm giải trình trong khu vực công) [120]; Shah, Anwar “Balance, accountability, and responsiveness: lessons about decentralization” (Cân bằng, trách nhiệm giải trình và sự phản hồi: bài học về phân quyền) [161]; Lederman,Daniel,Loayza,Norman, Reis Soares, Rodrigo “Accountability and corruption: political institutions matter” (Trách nhiệm giải trình và chống tham nhũng: vấn đề thể chế chính trị) [146];... Các công trình đã chỉ rõ: Từ các quy định về quyền hành pháp, Hiến pháp các nước có những quy định về TNGT của chính phủ gắn liền với quyền đó. Có thể kể đến: Hiến pháp nước Cộng hòa Pháp năm 1958, Hiến pháp nước Cộng hòa Liên bang Đức - Luật cơ bản năm 1949, Hiến pháp nước Cộng hòa Italia năm 1947... Đồng thời, các công trình đã phân tích thực trạng thực hiện cơ chế TNGT của Chính phủ Anh, Pháp, Mỹ, Australia... trong quá trình CSC. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu của các công trình đã nhấn mạnh đến những thành tựu quan trọng của việc thực hiện TNGT mà Việt Nam có thể tham khảo như: Quy định pháp lý phải được xây dựng một cách rõ ràng, hệ thống; các tổ chức chính trị - xã hội phải được phát triển; quyền công dân phải được đảm bảo trên thực tế; các cơ chế thưởng - phạt trong thực hiện TNGT phải được thiết lập và thực hiện nghiêm. Một số công trình trong nước đã bước đầu nghiên cứu thực trạng TNGT của Chính phủ Việt Nam, tiêu biểu như: Đào Trí Úc, “Vấn đề trách nhiệm giải trình trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam” [104]; Đinh Tuấn Minh và Phạm Thế Anh (chủ biên), Từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển [56]; Nguyễn Tuấn Khanh, “Thực trạng các điều kiện về thể chế pháp lý cho việc thực hiện và thực tiễn thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành pháp ở Việt Nam” [53]; Trần Văn Long, “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình trong phòng, chống
  • 29. 24 tham nhũng” [50]; Phạm Duy Nghĩa, Trách nhiệm giải trình: vươn tới những chuẩn mực của một nền hành chính phục vụ phát triển [191];... Tháng 7 năm 2014, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đưa ra sáng kiến xây dựng Báo cáo "Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ" [62], Báo cáo khuyến nghị Việt Nam cần thực hiện sáu chuyển đổi quan trọng để trở thành một nền kinh tế thu nhập trung bình cao. Trong Báo cáo đã phân tích thực trạng TNGT của Chính phủ trên các phương diện: quy định pháp lý và thực trạng thực hiện. Qua đó, Báo cáo chỉ rõ những rào cản đối với TNGT của Chính phủ ở Việt Nam như: Thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau mang tính cân bằng trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; những hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội; bộ máy tư pháp chưa có tính độc lập; sự kết hợp của một số yếu tố làm giảm vai trò của tiếng nói và sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng và thực thi CSC. Phạm Duy Nghĩa, Trách nhiệm giải trình: vươn tới những chuẩn mực của một nền hành chính phục vụ phát triển [191]. Bài viết của tác giả đã giải thích các kênh thiết lập TNGT hiện hành, nhận diện các nút thắt, phân tích các chuẩn mực TNGT mà Việt Nam cần đạt tới trong hai thập niên tới, cũng như các giải pháp cần triển khai để đạt được mục đích đó. Bài viết nhấn mạnh TNGT của cá nhân/tổ chức trong nền hành chính công ngày càng phải được xác lập rõ ràng và trực tiếp hơn trước các bên liên quan, đặc biệt là trước nhân dân. Trong bài viết, tác giả đã chỉ rõ những “trục trặc” trong thiết lập TNGT ở Việt Nam hay là những hạn chế, nút thắt cần được tháo gỡ trong TNGT của Chính phủ như vấn đề các quy định pháp lý, các cơ chế ràng buộc TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và nhân dân. Đặc biệt, tác giả đã chỉ rõ hạn chế trong từng hình thức TNGT, chẳng hạn TNGT về chính trị thì nút thắt cần tháo gỡ là nguy cơ xa dân; nút thắt trong trách nhiệm hành chính theo chiều dọc là: Bất tuân thủ và né tránh trách nhiệm cá nhân; nút thắt trong trách nhiệm hành chính theo chiều ngang là: Thiếu tư duy kiềm chế và đối trọng quyền lực; nút thắt trong trách nhiệm trước xã hội: Phản biện của báo chí và các tổ chức chính trị - xã hội chưa bền vững. Nguyễn Quốc Hiệp, Thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam hiện nay [41] đã nghiên cứu thực trạng thực
  • 30. 25 hiện TNGT của Chính phủ nhằm phòng chống tham nhũng. Công trình đã phân tích, khái quát những nét cơ bản về thực trạng thực hiện TNGT của Chính phủ Việt Nam thời gian qua trước Quốc hội, nhân dân và xã hội trong đó có TNGT của Chính phủ về hoạch định, thực thi CSC. Qua đó, công trình bước đầu có những đánh giá về thành tựu và hạn chế trong các quy định pháp lý về TNGT của Chính phủ, thực trạng thực hiện TNGT của Chính phủ. Công trình khẳng định, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quy định và việc thực hiện TNGT vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế làm ảnh hưởng đến công tác phòng, chống tham nhũng nói riêng và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung. Cụ thể có những bất cập như: Nhiều quy định còn mang nặng tính hình thức, khó triển khai hiệu quả trên thực tế; Nghị định số 90/2013/NĐ-CP quy định TNGT của các cơ quan nhà nước mới chỉ là quy định bước đầu, dừng lại ở việc quy định giải trình khi có yêu cầu của người dân mà chưa quy định việc chủ động giải trình của cơ quan nhà nước; quá trình thực hiện TNGT của Chính phủ cũng còn nhiều bất cập như: mang nặng tính hình thức, thể hiện cụ thể qua việc trả lời chất vấn của các bộ trưởng trước cơ quan dân cử và trước cơ quan báo chí nhiều khi còn chung chung, không đi trực tiếp vào vấn đề được hỏi, né tránh trách nhiệm, thông tin giải trình trong các buổi họp báo còn hạn hẹp, một số vấn đề được dư luận xã hội quan tâm chưa được giải trình một cách minh bạch, rõ ràng, còn gây bất bình trong dân chúng, nhiều bộ, ngành, địa phương chưa thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai, minh bạch, còn có các vi phạm về nội dung công khai, hình thức công khai, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị viện lý do thông tin thuộc bí mật nhà nước để hạn chế giải trình cho người dân và xã hội, việc tiếp nhận và xử lý các phản ánh kiến nghị của người dân chưa thấu đáo, triệt để, chưa đáp ứng kỳ vọng của người dân... Đồng thời, TNGT trong nội bộ liên quan đến nhiều vấn đề như công tác tổ chức cán bộ, sử dụng ngân sách,… chưa được thực hiện nghiêm là kẽ hở cho các hành vi tham nhũng xảy ra, các báo cáo công tác mang nặng tính hình thức, chưa đánh giá đúng được kết quả công tác, tính chịu trách nhiệm về kết quả thực thi công vụ không cao, khó quy trách nhiệm cho từng cá nhân; các hình thức để cán bộ, công chức chịu trách nhiệm khi không thực hiện đúng trách nhiệm chưa được áp dụng nghiêm túc: Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh trong Chính phủ mới được áp dụng và chưa đi vào thực chất, còn nể nang, hình thức.
  • 31. 26 Các tác giả Đinh Tuấn Minh và Phạm Thế Anh (chủ biên) trong cuốn sách Từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển [57] đã phân tích thực trạng TNGT của một số nước như Liên bang Nga, TNGT ở Ấn Độ, TNGT ở Đài Loan, TNGT ở Nhật Bản... Đồng thời, có những phân tích, đánh giá tương đối cụ thể về TNGT của Chính phủ Việt Nam. Theo đó, các tác giả nhấn mạnh các vấn đề đặt ra trong việc thực hiện TNGT của Chính phủ như: Hoạt động giải trình của Chính phủ và hoạt động giải trình của các cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp đang diễn ra khá mờ nhạt; mức độ giải trình của Chính phủ với bên ngoài (xã hội) còn thấp, còn yếu kém; các yếu tố về tính độc lập của các tổ chức chính trị - xã hội và truyền thông chưa được đảm bảo để tăng cường việc thực hiện TNGT của Chính phủ; sự phân tách quyền lực giữa ba nhánh hành pháp, lập pháp, tư pháp chưa thực sự tốt;... nên trên thực tế, việc thực hiện TNGT của Chính phủ chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân cũng như yêu cầu của việc xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển. Qua phân tích các công trình nói trên, cho thấy được phần nào bức tranh thực trạng TNGT của Chính phủ ở Việt Nam. Bên cạnh những kết quả, thành tựu thì còn có những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp lý cũng như trong thực trạng thực hiện TNGT của Chính phủ. Xét đến cùng, các hạn chế, bất cập lớn được xem là các vấn đề nan giải tức là vấn đề tồn tại, những vấn đề đặt ra rất khó khăn, gian nan trong giải quyết. Tiếp cận trực tiếp về các vấn đề nan giải của việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách, một số công trình trong và ngoài nước đã có được những kết quả nghiên cứu quan trọng để làm sáng rõ hơn bức tranh thực trạng TNGT của các chính phủ nói chung, Chính phủ Việt Nam nói riêng. Các công trình đã phân tích và chỉ ra vấn đề nan giải trong việc thực hiện TNGT của chính phủ trên một số khía cạnh, có thể khái quát là: Trách nhiệm giải trình được xem là câu trả lời cho nhiều vấn đề chính phủ phải đối mặt trong khu vực công như thiếu sự lãnh đạo, thiếu sự phối hợp, các hành vi tham nhũng gia tăng... Nhưng, liệu rằng giải trình có thể làm rõ được các vấn đề đó không; cơ chế nào để ràng buộc sự giải trình gắn liền với việc chịu trách nhiệm; có quá nhiều thông tin trong TNGT của chính phủ và sẽ mất nhiều thời gian để xem xét các thông tin, tính đúng sai của thông tin và chi phí là rất lớn. Có thể nói, các công trình nghiên cứu nói trên đã chỉ ra một số vấn đề được xem là nan giải khi thực hiện TNGT của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính
  • 32. 27 sách. Các vấn đề đó lại xuất phát từ chính quá trình HĐCS, TTCS và chính những phức tạp trong sự ủy quyền với nguy cơ thường trực là người đại diện luôn có xu hướng “che giấu thông tin”, “che giấu hành động” trước người chủ đã ủy quyền cho mình để có thể sử dụng quyền lực được ủy nhiệm theo mục đích có lợi cho mình hoặc theo các mục đích khác nhau mà không theo ý của người chủ. Vì vậy, thiết kế các hình thức, cơ chế giải trình như thế nào mới có thể khắc phục được những nan giải đó là câu hỏi lớn để tìm ra giải pháp hữu hiệu. 1.1.3. Các công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công Sau khi phân tích, đánh giá thực trạng về TNGT của chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC, một số công trình đã đưa ra các quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao TNGT của chính phủ. Các quan điểm được nhấn mạnh để nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC là: Chú trọng mối quan hệ giữa TNGT của chính phủ với đổi mới thể chế; chú trọng sự phân quyền giữa các cơ quan quyền lực nhà nước; gắn liền với đổi mới quá trình CSC theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch... Tiêu biểu có thể kể đến các công trình: Shah, Anwar“Balance, accountability, and responsiveness: lessons about decentralization” (Cân bằng, trách nhiệm giải trình và sự phản hồi: bài học về phân quyền) [161]; Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh [61]; Ngân hàng Thế giới, Jody zall kusek Ray C. Rist, Mười bước tiến tới hệ thống giám sát và đánh giá dựa trên kết quả [64]; Ngân hàng Thế giới, Keith Mackay (2008), Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá thế nào để hoàn thiện công tác quản lý của nhà nước [65];... Keith Mackay, Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá thế nào để hoàn thiện công tác quản lý của nhà nước. Cuốn sách này ra đời với mục đích giúp các chính phủ xây dựng, củng cố và tổ chức thể chế hóa các hệ thống giám sát và đánh giá M&E, tiến đến mục tiêu cuối cùng là hỗ trợ và cải thiện bộ máy nhà nước. Cuốn sách này tổng hợp những kinh nghiệm mà Nhóm đánh giá độc lập (IEG) thuộc Ngân hàng Thế giới đã thu thập từ các chương trình hỗ trợ bộ máy nhà nước dài hạn và những kinh nghiệm của toàn thể nhân viên, chuyên viên thuộc Ngân hàng thế giới; khai thác
  • 33. 28 những nguồn thông tin, kiến thức ngày càng phong phú về TNGT của chính phủ với yêu cầu ngày càng cao cần được hỗ trợ, phát triển hệ thống giám sát và đánh giá M&E. Cuốn sách đã nhấn mạnh: Việc thiết lập hệ thống giám sát và đánh giá M&E sẽ giúp chính phủ xây dựng được hệ thống thông tin về tình hình thực thi các chính sách, kế hoạch, chương trình và có thể chỉ ra được những ǵ đang có hiệu quả, những gì không, và lý do tại sao. M&E cũng có thể cho biết thông tin về tình hình hoạt động của chính phủ, của cá nhân các bộ, ngành và của các nhà quản lý cũng như nhân viên cấp dưới... từ đó giúp xã hội dân sự có được thông tin về chính sách một cách phong phú nhất, người dân có thể đánh giá, phản biện về các thông tin chính sách của chính phủ và đặt ra những yêu cầu về TNGT của chính phủ một cách hợp pháp, có căn cứ. Và, chính phủ thông qua hệ thống giám sát và đánh giá M&E cũng sẽ thực hiện TNGT một cách hiệu quả hơn, chủ động hơn mang tính hệ thống cao và tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Báo cáo "Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ" đã xác định tầm nhìn đến năm 2035, Nhà nước Việt Nam sẽ có một hệ thống vận hành hiệu quả cơ chế kiểm soát và cân bằng giữa các nhánh quyền lực nhà nước và tăng cường năng lực của người dân trong việc quy trách nhiệm đối với nhà nước. Cả hai khía cạnh cần được thực hiện theo hướng thúc đẩy một tinh thần trách nhiệm cao hơn của mỗi cá nhân cán bộ, công chức và đề cao TNGT của bản thân mỗi cá nhân cán bộ, công chức nhà nước. Đồng thời, cần nâng cao khả năng truy TNGT của nhà nước từ phía người dân. Từ đó, Báo cáo đã đi đến những kết luận về các giải pháp, nhất là hoàn thiện các yếu tố thể chế chính trị để tăng cường việc thực hiện TNGT của Chính phủ; nâng cao trình độ dân trí, tính tích cực của công dân trong việc tham gia của vào quá trình CSC. Phạm Duy Nghĩa, Trách nhiệm giải trình: vươn tới những chuẩn mực của một nền hành chính phục vụ phát triển [191] đã khái quát những chuẩn mực mới về TNGT với “tầm nhìn Việt Nam 2035” trong một nền hành chính công phục vụ người dân. Tác giả nhấn mạnh cần tạo liên minh cho cải cách: Gợi ý chính sách thúc đẩy TNGT trong hai thập kỷ tới. Tác giả nhấn mạnh các khía cạnh: Đối với trách nhiệm giải trình về chính trị trước Đảng phải thiết lập các kênh chịu trách nhiệm của Đảng
  • 34. 29 trước nhân dân; Đối với TNGT về chính trị trước nhân dân, cử tri phải thiết lập được quyền ủy trị thực sự của mình, dùng lá phiếu mà bầu ra, hoặc khi cần, cũng dùng lá phiếu mà thúc ép thay đổi chính quyền một cách ôn hòa và văn minh, từ đó thay đổi những người lãnh đạo nền hành chính công, nếu họ không đáp ứng được mong đợi của nhân dân. Muốn vậy, bầu cử phải thật sự tự do, nhất là việc tự do ứng cử hoặc đề cử các ứng viên cho đại diện dân cử; nền hành pháp phải chịu sức ép của lá phiếu, của sức ép thay thế người ủy trị. Đối với TNGT hành chính theo hàng dọc, một mặt phải đẩy lùi dần trách nhiệm tập thể, làm rõ trách nhiệm cá nhân, mặt khác, phải gắn kết quả đầu ra của nền hành chính công với sự thực hiện của từng công chức. Đối với TNGT theo hàng ngang với các thiết chế có chức năng giám sát như Thanh tra công vụ, Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan có chức năng giám sát của Quốc hội, cơ quan dân cử địa phương phải được thiết kế trên căn bản phân chia và đối trọng quyền lực và phải được đảm bảo độc lập về pháp lý, tài chính, nhân sự, phạm vi hoạt động một cách tương đối trong quan hệ với các cơ quan của bộ máy hành pháp. Ngoài ra, các khuôn khổ và thể chế thúc đẩy thực thi quyền lập hội, quyền tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin cần phải được xác lập để nâng cao TNGT của chính phủ với xã hội. Nguyễn Thị Thanh, “Một số kinh nghiệm các nước trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình nhằm phòng ngừa tham nhũng” [94] đã khái quát các cơ chế thực hiện TNGT của Chính phủ ở một số quốc gia trên thế giới từ đó, rút ra các kinh nghiệm và gợi mở các giải pháp cho việc nâng cao TNGT của Chính phủ ở Việt Nam hiện nay. Các kinh nghiệm về: Xây dựng cơ chế trách nhiệm chính trị chính qua bầu cử tự do và công bằng; cơ chế trách nhiệm pháp lý bao gồm hiến pháp, đạo luật, nghị định, quy tắc, và các công cụ pháp lý khác quy định những gì mà các công chức có thể và không thể làm, đặc biệt thiết lập Tư pháp độc lập (cơ quan điều tra và xét xử mang tính độc lập) là một yêu cầu cần thiết cho sự thành công của trách nhiệm pháp lý; cơ chế giải trình trách nhiệm hành chính bao gồm các văn phòng trong cơ quan, các Bộ và thực tiễn trong quá trình hành chính được thiết kế để đảm bảo rằng các quyết định và hành động của các quan chức luôn bảo đảm cho các lợi ích của công dân chứ không phải lợi ích của các bộ, cơ quan nhà nước... Đặc biệt, thiết lập bộ quy tắc đạo đức trong TNGT hành chính. Ngoài ra, có thể thành lập một cơ quan độc lập gọi là Cơ quan kiểm toán
  • 35. 30 quốc gia (The Australian National Audit Office) để giúp Nghị viện giám sát hiệu quả sử dụng ngân sách của chính phủ (Australia); ở Mỹ có Văn phòng TNGT chính phủ Mỹ (GAO) là một cơ quan độc lập, không liên quan tới các đảng phái chính trị và luật pháp ở Mỹ cho phép công dân được công khai xem xét các hoạt động của chính phủ... Từ đó, chuyên đề đã chỉ rõ các vấn đề cần thực hiện đề góp phần nâng cao TNGT của Chính phủ ở Việt Nam như: Thiết lập và tạo ra được môi trường công khai, minh bạch về thông tin liên quan tới hoạt động của chính phủ; đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin của công dân; xây dựng bộ quy tắc thực hiện TNGT đối với cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước; hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về TNGT. 1.2. KẾ THỪA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 1.2.1. Kế thừa những kết quả nghiên cứu trong các công trình Qua tìm hiểu, phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể nhận thấy vấn đề TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC đã được nghiên cứu ở nhiều phương diện, góc độ khác nhau. Những công trình đó đã đóng góp quan trọng trong việc đưa ra những quan niệm về TNGT, TNGT của chính phủ từ khái niệm, mục đích, sự cần thiết, cơ sở chính trị - pháp lý và các phương thức. Nhiều công trình đã thảo luận, phân tích các trường hợp thực hiện trách nhiệm, TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở các nước trên thế giới, cung cấp các kinh nghiệm và gợi mở những giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình hoạch định và thực thi CSC cũng như nâng cao việc thực hiện trách nhiệm, TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách. Các công trình đã phân tích, làm rõ vị trí, vai trò của các chủ thể tham gia hoạch định và thực thi CSC. Trong đó, nhiều nghiên cứu đã khẳng định vai trò chủ yếu của chính phủ - cơ quan hành pháp trong HĐCS, TTCS - từ đó luận giải tính tất yếu của việc thực hiện TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để luận án triển khai nghiên cứu TNGT của Chính phủ Việt Nam trên phương diện phải nhận thức được đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng của Chính phủ trong quá trình HĐCS, TTCS cũng như các cơ sở chính trị - pháp lý của việc thực hiện TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC. Thông qua việc phân tích các hình thức TNGT, nội dung, phương pháp giải trình của chính phủ trong quá trình CSC, nhiều nghiên cứu đã xác định tương đối cụ
  • 36. 31 thể về chủ thể, đối tượng, hệ quả, thời điểm... thực hiện TNGT của chính phủ. Đồng thời, một số công trình cung cấp những luận cứ khoa học về nhân tố ảnh hưởng TNGT của chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC và bước đầu bàn đến các vấn đề nan giải TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách. Trên cơ sở kế thừa giá trị nghiên cứu về TNGT trên thế giới, những nghiên cứu trong nước về TNGT cũng góp phần đưa ra các quan điểm, cách hiểu về TNGT và có sự thống nhất TNGT được thể hiện ở các khía cạnh: nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp, công khai, minh bạch thông tin; giải thích, chứng minh về quá trình thực hiện nhiệm vụ và sự chịu trách nhiệm trong quá trình đó cũng như chịu trách nhiệm đối với kết quả. Các nghiên cứu nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa TNGT của Chính phủ với vấn đề công khai, minh bạch; với cải cách thể chế, phòng chống tham nhũng, nâng cao dân chủ của một nhà nước hiện đại trong quá trình chính sách; nhấn mạnh việc thực hiện TNGT của Chính phủ trước Quốc hội, nhân dân và xã hội. Một trong các hạn chế của việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam được chỉ ra đó là: TNGT của quá trình HĐCS, TTCS của Chính phủ còn yếu, mang tính hình thức; TNGT của Chính phủ chưa thực sự hiệu quả, thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm cụ thể... Đây là những dữ liệu quan trọng để tác giả kế thừa trong nghiên cứu đề tài luận án. Đồng thời, một số công trình đã kỳ công nghiên cứu, dự báo, đề xuất tầm nhìn về TNGT của Chính phủ trong tương lai và hướng giải quyết. Đặc biệt, một số cơ chế TNGT của Chính phủ cũng đã được nghiên cứu, nhất là cơ chế về chịu trách nhiệm chính trị - pháp lý của Chính phủ như bỏ phiếu tín nhiệm, hay vấn đề từ chức nếu trong quá trình HĐCS, TTCS gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà không thực hiện TNGT hoặc giải trình không thuyết phục, không thỏa đáng. Tóm lại, với các kết quả nghiên cứu từ các công trình nêu trên đã giúp cho tác giả có cách nhìn tổng quan về TNGT của chính phủ trong quá trình hoạch định, thực thi CSC. Các công trình đó đã cung cấp những luận điểm khoa học quan trọng để tác giả có thể kế thừa và phát triển trong luận án. Qua tổng quan, cho thấy đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học chính trị nào nghiên cứu một cách có hệ thống về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam.