SlideShare a Scribd company logo
1 of 97
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
PH¸P LUËT VÒ PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP
Cã YÕU Tè N¦íC NGOµI: KINH NGHIÖM N¦íC NGOµI
Vµ NH÷NG GîI ý §èI VíI VIÖT NAM
LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
PH¸P LUËT VÒ PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP
Cã YÕU Tè N¦íC NGOµI: KINH NGHIÖM N¦íC NGOµI
Vµ NH÷NG GîI ý §èI VíI VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08
LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI XUÂN NHỰ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI............................................................ 3
1.1. Nhận thức chung về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài...... 3
1.1.1. Khái niệm chung về phá sản doanh nghiệp.......................................... 3
1.1.2. Quan điểm về “Yếu tố nước ngoài” trong thuật ngữ phá sản
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ..................................................... 7
1.1.3. Phân biệt phá sản và giải thể................................................................ 9
1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu
tố nước ngoài.....................................................................................13
1.2.1. Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là sản phẩm tất yếu
của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.......13
1.2.2. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là
thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt..........................................................14
1.3. Vai trò của pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài trong nền kinh tế thị trường .................................................19
1.3.1. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là công cụ
bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp chủ nợ .....................................................................................19
1.3.2. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài bảo vệ lợi
ích của các doanh nghiệp con nợ, tạo cơ hội để những doanh
nghiệp này rút khỏi thương trường một cách trật tự ..........................20
1.3.3. Pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài góp
phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh hiệu quả ...........................................................................22
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI – THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI (DNCYTNN)
CỦA VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI...................23
2.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài.........................................................................................23
2.1.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam ....................................................................23
2.1.2. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài tại một số quốc gia khác..................................................34
2.1.3. Tập quán và nguyên tắc áp dụng tập quán về việc mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài .............................................41
2.2. Trình tự thủ tục tiến hành phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài.........................................................................................44
2.2.1. Luật áp dụng đối với thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài..........................................................................................44
2.2.2. Phối hợp các thủ tục phá sản mở tại nhiều nước khác nhau ..............51
2.2.3. Các trường hợp ngoại lệ về giải quyết phá sản có yếu tố nước ngoài.......56
2.3. Kinh nghiệm giải quyết phá sản có yếu tố nước ngoài tại một
số quốc gia.........................................................................................68
2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài tại Pháp.....................................................................................68
2.3.2. Kinh nghiệm giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (trừ Đan Mạch)...........70
2.3.3. Thực tiễn áp dụng Luật mẫu về tình trạng mất khả năng thanh
toán có yếu tố nước ngoài theo Ủy ban của Liên Hợp quốc về
luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và thông qua .....71
Chương 3: XU HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT
NAM HÀI HÒA VỚI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ ....73
3.1. Cần thiết sửa đổi luật Phá sản ........................................................73
3.1.1. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài lâm vào tình trạng phá sản........................................................73
3.1.2. Cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục
phá sản có yếu tố nước ngoài .............................................................74
3.1.3. Về việc thực hiện quản lý tài sản của doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài trong quá trình giải quyết phá sản...................................76
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Phá sản và
các văn bản pháp luật có liên quan ................................................78
3.2.1. Hoàn thiện quy định về đăng ký quyền sở hữu, đăng ký quyền sử
dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm đối với doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài...........................................................................................78
3.2.2. Hướng dẫn về xử lý tài sản được cầm cố, thế chấp của doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài ..............................................................79
3.2.3. Hướng dẫn về xử lý quyền sử dụng đất của doanh nghiệp có yếu
tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản ..........................................84
3.3. Một số kiến nghị khác......................................................................85
3.3.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý tài sản của
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản........85
3.3.2. Tăng cường kỷ luật tài chính kế toán đối với doanh nghiệp có yếu
tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản ..........................................86
3.3.3. Giải tỏa yếu tố tâm lý của chủ doanh nghiệp/người quản lý doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản...................87
KẾT LUẬN....................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................89
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
DN: Doanh nghiệp
DNCYTNN: Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
HĐQT: Hội đồng quản trị
HTX: Hợp tác xã
TAND: Tòa án nhân dân
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
1
MỞ ĐẦU
Trong xu thế phát triển hiện nay, việc giao thoa kinh tế, văn hóa xã hội là
một xu thế tất yếu. Trong nội bộ nền kinh tế nước ta có một bộ phận doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có mối liên hệ xuyên quốc gia về mặt tài sản.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài không ít, do đó tồn tại
tài sản của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam ở nước ngoài, quan hệ kinh tế,
thương mại quốc tế còn dẫn đến nhiều trường hợp đa dạng khác mà tài sản
doanh nghiệp phá sản không chỉ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Các doanh
nghiệp hình thành, hoạt động, phát triển ngày càng đa dạng kéo theo rất nhiều
những vấn đề liên quan cần được nghiên cứu, điều chỉnh một cách thích đáng.
Phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là một vấn đề quan trọng cấp bách
nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những vấn đề phát sinh liên
quan đến Phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến
toàn bộ nền kinh tế xã hội của một hay nhiều quốc gia liên quan, thậm chí còn
có thể ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao, tình chính chính trị trong nước và
giữa các quốc gia liên quan. Luật phá sản nhiều nước quy định hiệu lực của
việc áp dụng các thủ tục giải quyết phá sản theo luật phá sản của họ có hiệu lực
đối với cả các tài sản của doanh nghiệp mắc nợ ở trong và ngoài lãnh thổ nước
mình. Đồng Thời Luật phá sản của một số nước cũng quy định luôn việc công
nhận và áp dụng các phán quyết về phá sản của toà án nước ngoài.
Thực tế cho thấy, cùng với việc nghiên cứu, từng bước hoàn thiện pháp
luật về việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài,
pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có một vị trí vô cùng
quan trọng, cần được xem xét nghiêm túc và khoa học.
Luận văn thạc sỹ với đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài: Kinh nghiệm nước ngoài và những gợi ý đối với Việt
Nam nhằm tìm hiểu, nghiên cứu về các Khái niệm về phá sản doanh nghiệp
2
và phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài; Thủ tục phá sản doanh nghiệp
có yếu tố nước ngoài và thẩm quyền của tòa án nước ngoài trong việc mở thủ
tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài cũng như Trình tự, thủ tục Phá
sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài sẽ góp phần làm phong phú thêm tài
liệu khoa học về lĩnh vực đang được rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài
nước quan tâm, nghiên cứu.
3
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Nhận thức chung về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm chung về phá sản doanh nghiệp
1.1.1.1. Phá sản doanh nghiệp
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ tiếng Latinh "RUIN" có nghĩa là là
"sự khánh tận" khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi
của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp và rõ nhất của sự mất cân đối
giữa thu và chi là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn phải trả.
Hiện tượng phá sản trong nền kinh tế thị trường của các doanh nghiệp
là hiện tượng bình thường và là tất yếu của quy luật cạnh tranh trong sản xuất
kinh doanh.
Quy luật này diễn ra ở bất cứ quốc gia nào bất cứ doanh nghiệp nào có
cơ chế quản lý không phù hợp và không theo kịp nền kinh tế thị trường.
Hiện tượng phá sản chính là quy luật tất yếu của sự cạnh tranh nhằm
tạo ra các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của toàn xã hội, tạo thêm không khí mới trong sản xuất kinh doanh.
Pháp luật của nhà nước trên thế giới có nhiều chế định khác nhau về
pháp luật phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp. Thậm chí có nhiều quan
điểm khác nhau về định lượng và định tính trong việc xác định một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản doanh nghiệp hay mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn như luật phá sản của Malayxia, Hunggari, Trung Quốc... Song cho
dù có các chế định khác nhau như vậy nhưng pháp luật các nước đều có khái
niệm thống nhất là một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh
nghiệp đó không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn.
4
Theo quy định tại điều 4 Luật Phá sản nước Cộng Hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam số 51/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015: “Phá
sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị
Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”.
“ Phá sản doanh nghiệp” là thuật ngữ chỉ tình trạng một con nợ không
có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời đây cũng là thuật
ngữ chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết tình trạng khó khăn đó trên cơ
sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của tòa án.
Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này không còn được sử dụng
trong pháp luật hiện đại, đặc biệt là trong pháp luật của nước Pháp. Thay vì sử
dụng thuật ngữ “Phá sản”, pháp luật của nước Pháp thường sử dụng các thuật
ngữ khác như: “Thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán”, “phục
hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp” hoặc “Thủ tục giải quyết nợ tập thể”.
Trong xu thế phát triển của pháp luật hiện đại, thuật ngữ “Phá sản” còn
mang ý nghĩa là biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo
đó, chủ doanh nghiệp sẽ không được phép tham gia hoạt động thương mại
hoặc tham gia lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù vậy, Tư pháp quốc tế vẫn tiếp
tục sử dụng thuật ngữ “Phá sản” bởi lý do thuật ngữ này đơn giản và dễ được
thừa nhận ở nước ngoài.
1.1.1.2. Đặc điểm phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Phá sản có yếu tố nước ngoài (cross-border insolvency) có thể được
hiểu theo nghĩa hẹp là trường hợp con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản có tài
sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ “Phá sản có yếu tố nước ngoài”
được sử dụng đối với trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu tố nước ngoài nào
như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngoài lãnh thổ quốc gia dù cho hoạt động
đó không có sự hỗ trợ tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh nghiệp ở
nước ngoài.
5
Theo quy định tại Luật Phá Sản năm 2014 có hiệu lực từ 01/01/2015,
chỉ có 02 điều nói về thủ tục phá sản có yếu tố nước ngoài (điều 116 và điều
117). Như vậy là chưa thể đủ để giải quyết những trường hợp phát sinh vô
cùng phức tạp trong thực tế về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.
Trong hội nhập kinh tế, kèm theo cơ hội giao thương với nước ngoài là những
vấn đề tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Từ thực tế giải quyết các vụ phá sản
cho thấy, có 3 đặc điểm về phá sản doanh nghiệp có yếu tố liên quan nước
ngoài bao gồm:
- Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài.
- Đại diện theo pháp luật của DN là người nước ngoài.
- Chủ nợ/con nợ là tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Thứ nhất, đối với chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài: có trường
hợp chủ đầu tư nước ngoài đã bị phá sản, khi đó, liên doanh Việt Nam rơi vào
cảnh bơ vơ, không rõ ai là ông chủ, ai sẽ đại diện cho phần vốn nước ngoài tại
liên doanh để tham gia vào quá trình giải quyết phá sản.
Thứ hai, đối với DN liên doanh tự đề nghị Tòa án tuyên bố phá sản DN
của mình, người đại diện theo pháp luật là người nước ngoài, khi thấy thủ tục
giải quyết phá sản quá phức tạp thì đã về nước mà không báo cho ai. Lý do họ
đưa ra là khi Tòa tuyên bố mở thủ tục phá sản thì họ không được trả lương,
không có lương thì họ về nước. Cho đến nay, chưa có cơ chế cấm xuất cảnh
nào đối với những người này. Phía Việt Nam trong liên doanh cũng không có
quyền yêu cầu họ ở lại. Hiện các Tòa án không biết phải giải quyết trường
hợp này thế nào. Liệu có thể áp dụng thủ tục tố tụng dân sự để đình chỉ giải
quyết việc phá sản khi triệu tập hai lần mà người yêu cầu tuyên bố phá sản đối
với chính DN của họ không đến Tòa án để giải quyết?
Thứ ba, khi chủ nợ/con nợ là người nước ngoài, chi phí dịch tài liệu lấy
ở đâu khi mà DN đã lâm vào tình trạng phá sản? Nhiều trường hợp thông báo,
6
công văn của Tòa án gửi đi, nhưng chủ nợ/con nợ không nhận được, vì họ đã
chuyển trụ sở và không thông báo cho DN Việt Nam biết. Vấn đề là liệu có
thể áp dụng quy định khi Tòa án thông báo hai lần mà không đến thì mất
quyền đòi nợ (đối với chủ nợ) như thủ tục tố tụng dân sự, cũng như làm cách
nào thu hồi nợ đối với con nợ? Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này có thể
vấp phải phản ứng của phía nước ngoài khi họ đưa ra lý do rằng họ không biết
thông tin về vụ phá sản, chứ không phải biết mà không thực hiện. Trong
trường hợp này, có thể áp dụng thủ tục ủy thác tư pháp theo Bộ luật Tố tụng
dân sự hay không? Trên thực tế, nếu được áp dụng chế định ủy thác tư pháp,
thì việc thực hiện ủy thác cũng rất khó khăn và có thể không thực hiện được,
vì không có địa chỉ mới của các tổ chức, cá nhân này.
Chưa kể, thực tế cho thấy, tỷ lệ nợ nước ngoài thường khá cao, điều
này dẫn đến tình trạng khó có thể mở hội nghị chủ nợ, bởi hội nghị chủ nợ
yêu cầu có trên 50% số chủ nợ không có bảo đảm tham gia và đại diện cho ít
nhất 2/3 tổng số nợ. Bởi vậy, nếu không thể thông báo cho chủ nợ nước
ngoài, vụ phá sản có thể sẽ lâm vào tình trạng bế tắc, không thể đình chỉ, cũng
không thể tiếp tục, không biết đến bao giờ mới có thể giải quyết.
Nghiên cứu một số vụ phá sản có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam thời gian
qua, ngoài những đặc điểm nêu trên còn có một số đặc điểm nổi bật như sau:
- Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài hình thành chủ yếu trong
quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, đặc biệt trong những năm
gần đây khi đất nước ta đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.Trước
thời kỳ đổi mới, mở cửa, nền kinh tế nước ta khép kín, kinh tế đối ngoại chủ
yếu là các hoạt động kinh tế kế hoạch với một số nước xã hội chủ nghĩa. Sau
năm 1986, nhất là từ sau thời kỳ bình thường hoá quan hệ với Mỹ và đẩy
mạnh quan hệ kinh tế với một số nền kinh tế lớn trên thế giới như Nhật Bản,
Tây Âu, các hoạt động kinh tế của nước ta diễn ra đa dạng về hình thức và
7
tăng mạnh mẽ từng năm về cán cân thương mại với các nước, đặc biệt là từ
sau khi Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tham gia một số tổ chức, định
chế tài chính, kinh tế lớn ở khu vực và trên thế giới như Tổ chức Thương mại
thế giới, Hiệp hội các nước ASEAN…. Theo đó, các doanh nghiệp, các tổ
chức tài chính, kinh tế thế giới và khu vực đến Việt Nam nghiên cứu, hợp tác
và tiến hành các hoạt động kinh tế, tài chính, thương mại cũng ngày một tăng
lên; nguồn vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam ngày
càng lớn, năm sau cao hơn năm trước. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam
ra đầu tư ra nước ngoài ngày càng nhiều.
- Tài sản trong các phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có
nguồn gốc ở cả trong và ngoài nước, trong đó nhiều vụ án có nguồn gốc tài
sản từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức từ nước ngoài. Tài sản có
nguồn gốc từ nước ngoài như: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tài sản là các
phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị công nghệ, thiết bị kỹ thuật phực
vụ xây dựng, giao thông, sản xuất công nghiệp có nguồn gốc từ nước ngoài.
- Đa số các vụ phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài việc phát
hiện, xử lý thường kéo dài; nhiều vụ việc chậm được xem xét, kết luận.
1.1.2. Quan điểm về “Yếu tố nước ngoài” trong thuật ngữ phá sản
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Ở Việt Nam chưa có quy định pháp luật nào đưa ra định nghĩa
về “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 quy định "yếu tố nước ngoài" bao gồm:
1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; 2. Căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó phát sinh tại nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài; 3.
Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Điều 758 BLDS 2005 quy định có 3 loại yếu tố nước ngoài mà một
8
quan hệ dân sự có sự hiện diện của một trong ba loại yếu tố đó thì thuộc đối
tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Đó là:
Thứ nhất, chủ thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Thứhai,kháchthểcủaquanhệđóởnướcngoài(disảnthừakếởnướcngoài).
Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
đó xảy ra ở nước ngoài.
Tuy nhiên, trên thực tế, theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện
hành, rất khó xác định được thế nào là “một doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài”. Ngay cả các cơ quan tư pháp của Việt Nam cũng thường xuyên gặp
phải sự lúng túng khi xác định “yếu tố nước ngoài” để phân định thẩm quyền
thụ lý của các cấp Tòa án. Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2003 của Việt Nam
quy định Tòa án Nhân dân cấp tỉnh được xét xử những án có yếu tố nước
ngoài, Tòa án Nhân dân cấp quận, huyện không được thụ lý án có yếu tố đó.
Quy định có vẻ là rất rõ nhưng khi áp dụng lại nảy sinh nhiều vướng mắc (VD
như trường hợp vụ kiện các đại lý ra TAND TP.Hà Nội để đòi tiền nợ của
công ty nước giải khát Coca-Cola, Pepsi, A&B… và đã có vướng mắc trong
việc xác định các công ty này có “yếu tố nước ngoài” hay không). Có quan
điểm cho rằng, những công ty dù có vốn nước ngoài, nhưng được thành lập và
hoạt động tại Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam (tức là có “quốc tịch” Việt
Nam) nên phải được hiểu là doanh nghiệp Việt Nam chứ không phải là
“doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”. Việc xác định “doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài” dựa vào quốc tịch của doanh nghiệp có thể coi là tiêu chí hợp lý
hơn vì điều này còn liên quan đến vấn đề ủy thác điều tra và hợp thức hóa
lãnh sự. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, có vốn nước ngoài thì đương
nhiên là “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”. Cho đến thời điểm hiện nay,
Tòa án Nhân dân tối cao Việt Nam chưa có hướng dẫn cụ thể tiêu chí để xác
định “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”.
9
1.1.3. Phân biệt phá sản và giải thể
Nếu xét về hiện tượng, hình thức bên ngoài thì giải thể và phá sản có
điểm giống nhau đó là đều chia giá trị tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải
quyết quyền lợi cho người lao động… Nhưng về mặt bản chất giữa giải thể và
phá sản là hai chế định có sự khác nhau căn bản dưới đây:
Thứ nhất: Lý do giải thể rộng hơn nhiều lý do một doanh nghiệp phá
sản. Điều này thể hiện ở chỗ nếu như cơ sở sản xuất kinh doanh có thể chấm
dứt hoạt động của mình khi thấy mục tiêu đề ra không thể đạt được hoặc đã
hoàn thành song mục tiêu đó, hoặc bị thu hồi giấy phép hoạt động do vi phạm
nghiêm trọng pháp luật. Lý do phá sản chỉ có một nguyên nhân duy nhất gây
ra đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai: Nếu như việc giải thể các cơ sở sản xuất kinh doanh là do
những người làm chủ doanh nghiệp tự mình quyết định hoặc do cơ quan có
thẩm quyền cho phép thành lập quyết định khi thấy không cần cần thiết. Việc
tuyên bố phá sản doanh nghiệp đó là nhiệm vụ và quyền hạn của tòa kinh tế
thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Thứ ba: Thủ tục tiến hành giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh là thủ tục
hành chính còn thủ tục tuyên bố phá sản lại là thủ tục tư pháp thuần túy, do
tòa án có thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp luật
phá sản (thủ tục tư pháp đặc biệt đã được phân tích ở trên).
Thứ tư: Giải thể bao giờ cũng dẫn đến chấm dứt hoạt động và xóa tên
cơ sở sản xuất kinh doanh, trong khi đó, phá sản không phải bao giờ cũng dẫn
đến hệ quả như vậy. Một doanh nghiệp bị phá sản nhưng doanh nghiệp đó vẫn
giữ nguyên tên doanh nghiệp của mình nếu có thể, nhãn hiệu hàng hóa vẫn có
thể được lưu hành trên thị trường, cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn hoạt động
bình thường nếu như doanh nghiệp được một người khác mua lại toàn bộ
doanh nghiệp bao gồm cả khoản nợ đến hạn.
10
Thứ năm: Nhìn chung, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay
người quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh trong hai trường hợp
trên cũng có phân biệt. Chẳng hạn pháp luật của nhiều nước quy định chủ
sở hữu hay người quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh bị phá sản
không được hành nghề trong một thời gian nhất định còn trong trường hợp
giải thể pháp luật không đưa ra vấn đề hạn chế quyền tự do kinh doanh
(vấn đề này luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam quy định tại điều 50 –
Khoản 1 điều 50 luật Phá sản doanh nghiệp quy định: Giám đốc, chủ tịch
và các thành viên Hội đồng quản trị không được đảm đương các chức vụ đó
ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ 1-3 năm kể từ ngày doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Như vậy, có thể thấy rằng, việc phân biệt giữa Phá sản Doanh nghiệp
và Giải thể Doanh nghiệp là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Về mặt nguyên nhân:
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến giải
thể doanh nghiệp như:
(i) Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ công ty
mà không có quyết định gia hạn;
(ii) Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
tư nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của
Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;
(iii) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo
quy định của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn 6 tháng liên tục;
(iv) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh [17].
Giải thể vì hết thời hạn hoạt động mà không gia hạn thêm, vì bị thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay đơn giản là do quyết định giải thể của
11
chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, doanh nghiệp chỉ được giải
thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác.
Trong khi đó, doanh nghiệp bị Tòa án có thẩm quyền tuyên bố phá sản
theo thủ tục luật định khi không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
và khi chủ nợ có yêu cầu. Hiểu một cách khác, phá sản xảy ra khi doanh
nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
có yêu cầu.
Về mặt Thủ tục giải quyết
Khi giải thể, doanh nghiệp phải ban hành quyết định bằng văn bản có
đầy đủ nội dung luật định và phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh,
tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao
động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và
chi nhánh của doanh nghiệp.
Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ,
doanh nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh để xoá
tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Trường hợp bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn 6
tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy này.
Đối với trường hợp phá sản, khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, các chủ nợ, người lao động có quyền và/hoặc đại diện
hợp pháp của doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp. Khi có căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, Toà án sẽ ra quyết định mở thủ tục phá sản và thông báo
đến doanh nghiệp, chủ nợ, con nợ của doanh nghiệp và đăng trên báo địa
phương, báo trung ương.
Tùy tình hình thực tế của doanh nghiệp mà Tòa án có thể quyết định áp
dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp hoặc có thể
12
bỏ qua giai đoạn này nếu doanh nghiệp không còn khả năng phục hồi hoặc
không cần thiết và chuyển sang giai đoạn thanh lý tài sản. Việc phân chia tài
sản của doanh nghiệp theo thứ tự sau: phí phá sản; nợ lương, trợ cấp thôi việc,
bảo hiểm xã hội; nợ không có bảo đảm. Sau khi phân chia, giá trị tài sản còn
lại sẽ thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân; các thành viên; các cổ đông của
công ty. Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản sau khi áp dụng đầy đủ
hoặc một phần các thủ tục phá sản như nêu trên.
Như vậy, thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp theo quyết định của
Tòa án, giải thể là thủ tục hành chính do chính chủ doanh nghiệp tiến hành. Thời
gian giải quyết phá sản dài hơn rất nhiều so với giải thể doanh nghiệp.
Về hậu quả pháp lý và quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp khác
Trong khi giải thể là sự chấm dứt hoàn toàn của một doanh nghiệp, phá
sản đôi khi không làm chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp nếu sau khi
nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, doanh nghiệp vẫn có thể phục hồi hoạt
động kinh doanh.
Về quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp khác, chủ doanh nghiệp bị
giải thể có thể tiếp tục thành lập và quản lý một doanh nghiệp khác sau khi
thực hiện xong những nghĩa vụ tài sản của mình.
Ngược lại, cả chủ doanh nghiệp và người quản lý của doanh nghiệp
bị phá sản đều bị pháp luật cấm thành lập và quản lý một doanh nghiệp mới
trong thời hạn từ 1 đến 3 năm, trừ trường hợp phá sản do những trường hợp
bất khả kháng, ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp; ví dụ: hỏa hoạn, chiến
tranh, thiên tai, dịch bệnh, bạo loạn, đình công, khủng hoảng kinh tế, chính
sách pháp luật của nhà nước thay đổi hoặc nhà nước nơi doanh nghiệp hợp
tác kinh doanh thay đổi chính sách của họ,… dẫn đến doanh nghiệp bị tổn
thất nặng nề, không thể tiếp tục duy trì hoạt động và buộc tiến hành làm thủ
tục phá sản.
13
Có thể nhận thấy rất rõ ràng, theo quy định của pháp luật hiện hành,
giải thể hay phá sản thì đều dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp ngừng sản xuất
kinh doanh, chấm dứt sự tồn tại của Doanh nghiệp. Đồng nghĩa với việc kể từ
thời điểm phá sản hay giải thể, doanh nghiệp sẽ bị thu hồi con dấu và giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn giải thể hay
tuyên bố phá sản thì đều phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản của mình.
Có sự khác nhau cơ bản về lý do, thủ tục pháp lý, hậu quả, thái độ của
nhà nước đối với các hoạt động giải thể và phá sản doanh nghiệp.
Doanh nghiệp giải thể sẽ chấm dứt sự tồn tại vĩnh viễn. Tuy vậy, một
doanh nghiệp bị phá sản có thể được mua lại (đổi chủ sở hữu) và vẫn có thể
tiếp tục hoạt động.
Chủ doanh nghiệp sau khi phá sản hầu như không có quyền gì liên
quan đến tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện
xong các nghĩa vụ tài sản vẫn có thể chuyển sang một ngành nghề kinh doanh
khác nếu có thể. Giám đốc doanh nghiệp giải thể có thể đứng ra thành lập,
điều hành công ty mới. Giám đốc doanh nghiệp phá sản phải ngừng giữ chức
giám đốc ở một doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất định.
1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu
tố nước ngoài
1.2.1. Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là sản phẩm tất
yếu của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên
thế giới đã cho thấy rằng phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định. Điều này giải thích lý do vì sao phá sản là hiện tượng
bình thường, phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Phá sản đã xuất hiện từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ
biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị
14
trường, các quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền tự do kinh doanh
được nhà nước tôn trọng, đề cao, bảo vệ. Quyền tự do kinh doanh có nội hàm
rất rộng, bao gồm các quyền như: tự do thành lập doanh nghiệp, quyết định
quy mô kinh doanh, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, định đoạt các vấn đề
phát sinh trong kinh doanh, thiết lập các quan hệ kinh tế, lựa chọn các cơ
quan giải quyết tranh chấp, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật…Như vậy,
tự do cạnh tranh như là một bộ phận cấu thành quan trọng của quyền tự do
kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc
chiến với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như
mọi cuộc chiến khác, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp cũng mang lại hậu
quả nhất định và cũng không tránh khỏi có thể xảy ra trường hợp có một bộ
phận không nhỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng chất,
không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm
dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một
vấn đề đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo
điều kiện để doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm
thấm, có trật tự và ít gây hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng
và cho xã hội nói chung. Và vì có hiện tượng phá sản nên pháp luật về phá
sản ra đời. Pháp luật về phá sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban
hành, trong đó quy định về tình trạng phá sản, điều kiện áp dụng các thủ tục
phá sản (thủ tục phục hồi, thanh lý), địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố
tụng phá sản, trình tự tiến hành việc giải quyết phá sản, thứ tự ưu tiên thanh
toán từ tài sản phá sản và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết
một vụ phá sản cụ thể.
1.2.2. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
là thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt
Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) hay thủ
15
tục giải quyết một vụ kiện kinh tế (tố tụng kinh tế), thủ tục giải quyết một vụ
phá sản nói chung (tố tụng phá sản) hay giải quyết một vụ phá sản doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài được coi là một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do
tính chất đặc biệt này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài bao giờ cũng được điều chỉnh bởi một hệ
thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản phá
sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là một
thủ tục đòi nợ tập thể. Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể pháp luật có
thể tham gia vào rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, và do đó, có thể trở
thành chủ thể của nhiều quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau. Ví dụ, khi ký
hợp đồng với doanh nghiệp khác và bị doanh nghiệp đó vi phạm hợp đồng thì
doanh nghiệp bị hại có quyền làm đơn kiện ra Tòa án một cách độc lập, riêng
lẻ để yêu cầu Tòa án can thiệp. Như vậy, đặc điểm nổi bật của tố tụng dân sự
và tố tụng kinh tế là ở chỗ trong tố tụng này, các chủ nợ thực hiện việc đòi nợ
một cách độc lập, riêng lẻ, nói một cách nôm na, nợ của ai thì người đó kiện
ra Tòa án mà đòi. Khác với thủ tục đòi nợ thông thường này, thủ tục phá sản
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là thủ tục mà ở đó, việc đòi nợ và thanh
toán nợ được tiến hành một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc
phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ
đều phải được tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất, gọi là Hội nghị
chủ nợ. Hội nghị chủ nợ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc
giải quyết phá sản. Khi bị áp dụng thủ tục thanh lý thì toàn bộ tài sản của con
nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả cho các chủ nợ theo một thứ tự
ưu tiên nhất định đã được Luật Phá Sản quy định trước. Nếu tài sản của con
nợ không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán
theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản còn
lại của doanh nghiệp.
16
Thứ hai, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là thủ tục
đòi nợ được tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối
cùng của quá trình đòi nợ. Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường (đòi nợ
thông qua việc khiếu kiện ra Tòa án) có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì
thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mắc nợ đã lâm vào một
tình trạng tài chính bi đát, dường như không có lối thoát mà người ta thường
gọi là tình trạng phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản có yếu tố nước ngoài
là thủ tục pháp lý không dễ được xảy ra; nó chỉ xuất hiện như một giải pháp
cuối cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức đòi
nợ thông thường đã trở nên bất lực.
Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự
chấm dứt hoạt động của một thương nhân.
Trong tố tụng dân sự hoặc kinh tế, sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật thì con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ
thông thường. Điều đáng lưu ý của các loại tố tụng thông thường này là ở chỗ,
sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì con nợ đương nhiên có
nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ thông thường. Điều đáng lưu ý của các loại
tố tụng thông thường này là ở chỗ, sau khi trả nợ xong thì con nợ vẫn tồn tại
và hoạt động một cách bình thường. Trong tố tụng phá sản thì tình hình lại
khác. Cái khác biệt của thủ tục này so với tố tụng dân sự, kinh tế là ở chỗ,
thông thường, để giúp các chủ nợ thu hồi được các món nợ của mình thì Tòa
án phải ra những quyết định pháp lý đặc biệt như quyết định áp dụng thủ tục
thanh lý (thực chất là quyết định nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp)
để rồi nhân cơ hội đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Nói
cách khác, đặc thù của thủ tục phá sản là ở chỗ, kết quả thục hiện thường dẫn
đến sự chấm dứt hoạt động của chính bản thân con nợ.
17
Thứ tư, thủ tục phá sản không chỉ thuần túy là một thủ tục đòi nợ mà
còn là một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi.
Như đã nói ở phần trên, mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ tục
đòi nợ tập thể nhưng điều đó không có nghĩa là khi con nợ bị mở thủ tục phá
sản thì ngay lập tức, tài sản của nó sẽ bị dùng để thanh toán cho các chủ nợ.
Hiện nay, ngoài mục tiêu thanh lý, pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế
giới còn đặt thêm một mục tiêu rất quan trọng nữa cho thủ tục phá sản, đó là
việc giúp con nợ phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Mục tiêu
này cần phải được đặt ra là vì Nhà nước nào cũng muốn tránh được càng
nhiều càng tốt những hậu quả xấu do việc phá sản gây ra. Việc tuyên bố phá
sản một doanh nghiệp sẽ không chỉ ảnh hưởng xấu đền quyền và lợi ích hợp
pháp của bản thân chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu
quả bất lợi cho xã hội nói chung. Đối với các chủ nợ, trong trường hợp con nợ
gặp khó khăn, việc thanh lý ngay tài sản của con nợ để thu hồi nợ không phải
bao giờ cũng là giải pháp tối ưu cho họ vì không phải doanh nghiệp nào lâm
vào tình trạng phá sản cũng còn đủ tài sản để thanh toán hết các món nợ của
mình. Vì vậy, sẽ là tốt hơn nếu con nợ được giúp đỡ để thoát khỏi tình trạng
phá sản, tiếp tục hoạt động để có cơ hội tốt hơn cho việc trả nợ. Đối với người
lao động, việc doanh nghiệp nơi họ đang làm việc bị phá sản sẽ dẫn tới việc
hàng loạt người bị thất nghiệp và kéo theo đó là những hậu quả xấu về mặt xã
hội như đói nghèo, tệ nạn xã hội, tội phạm…Đối với môi trường kinh doanh,
việc phá sản của các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp lớn, có nhiều
đối tác làm ăn hoặc hoạt động trong những ngành nghề quan trọng đối với
quốc kế dân sinh rất dễ làm phát sinh tác động dây chuyền đến các lĩnh vực
kinh tế khác cũng như đến hoạt động của các doanh nghiệp khác trong nền
kinh tế. Vì vậy, việc tạo điều kiện phục hồi cho con nợ là một xu hướng ngày
càng được khẳng định trong pháp luật phá sản hiện đại.
18
Trong thủ tục phá sản, con nợ được tòa án tạo điều kiện tối đa cho việc
phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ
thoát khỏi tình trạng phá sản là pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây
dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ để thông
qua và nếu được thông qua thì về cơ bản, doanh nghiệp con nợ được khôi
phục lại vị trí pháp lý ban đầu, tiếp tục sản xuất, kinh doanh một cách bình
thường. Theo Luật phá sản của nhiều nước thì Tòa án chỉ ra quyết định áp
dụng thủ tục thanh lý đối với những con nợ trong trường hợp đã có căn cứ rõ
ràng chứng minh về việc con nợ đã không thể phục hồi hoặc con nợ đã không
thành công trong việc thực hiện phương án phục hồi.
Thứ năm, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp.
So với tố tụng dân sự và kinh tế thì tố tụng phá sản phức tạp hơn nhiều.
Tính phức tạp của thủ tục này thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Tòa
án phải thụ lý và xử lý rất nhiều công việc khác nhau về tính chất chứ không
chỉ đơn thuần là các công việc có tính chất tài sản như trong tố tụng dân sự và
kinh tế thông thường. Tòa án không chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến
việc xác định xem doanh nghiệp có mất khả năng thanh toán nợ hay không,
nợ bao nhiêu, nợ ai… Ngoài ra, Tòa án còn phải giải quyết nhiều vấn đề khác
nữa như: việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, việc quản lý tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ, việc thành lập và điều hành hoạt động của thiết chế
quản lý và thanh lý tài sản, việc triệu tập và chủ trì hội nghị chủ nợ…Việc
phải xử lý một lúc nhiều công việc phức tạp như vừa nêu trên đã làm cho tố
tụng phá sản hoàn toàn khác với tố tụng dân sự, kinh tế thông thường không
chỉ về quy mô mà còn cả về tính chất. Điều này lý giải tại sao tố tụng phá sản
luôn luôn được điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật riêng và trở thành một
thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt.
19
1.3. Vai trò của pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài trong nền kinh tế thị trường
1.3.1. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là công
cụ bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp
chủ nợ
Trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít
doanh nghiệp nào tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có quyền đòi
nợ thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp
khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên, việc đòi nợ bằng con đường kiện tụng ra Tòa
dân sự, Tòa kinh tế nhiều khi không thể giải quyết được một cách thỏa đáng
quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Vì vậy, bên cạnh tố tụng
dân sự và tố tụng kinh tế với tư cách là các thủ tục đòi nợ thông thường, Nhà
nước phải thiết kế thêm một cơ chế đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần
thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó là thủ tục phá sản.
Tính ưu việt của cơ chế đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc
đòi nợ được đảm bảo bằng việc Tòa án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại
của con nợ và thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả nợ cho các
chủ nợ. Mặc dù ngày này, tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một số
mục tiêu nữa, trong đó có mục tiêu giúp doanh nghiệp mắc nợ phục hồi (tức
là bảo vệ cả lợi ích của con nợ) nhưng về cơ bản, tố tụng phá sản từ khi ra đời
đến nay vẫn là loại tố tụng tư pháp được đặt ra nhằm trước hết và chủ yếu là
để bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Việc ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích của các
chủ nợ đã làm cho thủ tục phá sản trở thành một công cụ pháp lý có vai trò rất
lớn trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh doanh. Từ khi có
Luật Phá sản, các nhà kinh doanh sẽ yên tâm hơn vì các món nợ của họ đã có
một cơ chế tốt hơn để được bảo vệ.
Pháp luật Phá sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của Nhà
20
nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này
được thể hiện qua hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến quyền năng
của chủ nợ như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản, quyền
khiếu nại Danh sách chủ nợ, quyền có đại diện trong thiết chế quản lý tài sản
và thanh toán tài sản, quyền đề xuất phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của con nợ, quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản,…
1.3.2. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài bảo vệ
lợi ích của các doanh nghiệp con nợ, tạo cơ hội để những doanh nghiệp
này rút khỏi thương trường một cách trật tự
Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con
nợ. Lúc đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá
sản là một phạm nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị
trừng phạt bằng nhiều hình thức, kể cả việc tử hình. Ngày nay, quan niệm về
việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước và pháp
luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã được thiết kế theo
hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động
chứa đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu
tố khách quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến
hạn đều có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với bất kỳ nhà kinh doanh nào. Mặt
khác, một doanh nghiệp bị phá sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối
với xã hội mà trước hết là đối với người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy
mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề
đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết không phải là việc tuyên bố doanh
nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó cho các chủ nợ mà là việc
phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn
này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số các nước đều quy định
nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản lựa chọn, áp dụng.
21
Pháp luật phá sản Việt Nam cũng đã được xây dựng theo khuynh
hướng này. Luật Phá sản năm 2014 hiệu lực từ 01/01/2015 đã không chỉ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho cả doanh nghiệp mắc nợ và đặc biệt là đã không coi phá sản là
một tội phạm như quan niệm của một số nước trên thế giới. Điều này có thể
thấy qua việc pháp luật quy định hàng loạt những quyền cho doanh nghiệp
mắc nợ trong quá trình giải quyết phá sản. Chẳng hạn, kể từ thời điểm Tòa án
ra quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, tất cả quyền đòi nợ đều được
đình chỉ và giải quyết theo một thủ tục chung duy nhất do Tòa án tiến hành,
đồng thời nghiêm cấm việc đòi nợ một cách riêng lẻ. Pháp luật phá sản của
nhiều nước đã tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp mắc nợ khắc phục khó
khăn về tài chính, thoát khỏi tình trạng phá sản để trở lại hoạt động bình
thường mà không quy định bắt buộc Tòa án phải tuyên bố phá sản ngay khi
có đơn yêu cầu. Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp
mắc nợ cũng có quyền xây dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại
sản xuất, kinh doanh, trình Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua. Tòa án chỉ ra
quyết định mở thủ tục thanh lý khi Hội nghị chủ nợ không thông qua phương
án tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, hay trong trường hợp doanh
nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không thành công phương án tổ chức
lại hoạt đông sản xuất, kinh doanh đã được Hội nghị chủ nợ thông qua. Ngoài
ra, con nợ còn có quyền cử người đại diện tham gia Tổ quản lý tài sản và Tổ
thanh toán tài sản, quyền được khiếu nại danh sách chủ nợ, khiếu nại quyết
định tuyên bố phá sản… Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý, tài sản còn lại
của doanh nghiệp sẽ được thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự nhất định;
sau khi thanh toán, mọi khoản nợ của doanh nghiệp, cho dù chưa được thanh
toán đầy đủ cũng được coi là đã thanh toán và các chủ nợ không có quyền đòi
nợ nữa, trừ một vài ngoại lệ được quy định trong Luật Phá sản của từng nước.
22
Các quy định có nội dung tương tự cũng đã được Luật Phá sản năm 2014 ghi
nhận đầy đủ và cụ thể hơn qua việc quy định thủ tục phục hồi bên cạnh thủ
tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
1.3.3. Pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài góp
phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh hiệu quả
Phá sản không phải là hiện tượng hoàn toàn có ý nghĩa tiêu cực. Xét
trên phạm vi toàn cục của nền kinh tế thì việc phá sản và giải quyết phá sản là
có ý nghĩa tích cực. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, phá sản và pháp luật phá sản là công cụ răn đe các nhà kinh
doanh, buộc họ phải năng động, sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng trong khi
hành nghề. Một thái độ hành nghề, trong đó có sự kết hợp giữa tính năng động,
sáng tạo và tính cẩn trọng là hết sức cần thiết vì nó giúp các nhà kinh doanh đưa
ra được những quyết định hợp lý – tiền đề cho sự làm ăn có hiệu quả của từng
doanh nghiệp. Sự làm ăn có hiệu quả của các doanh nghiệp riêng lẻ đương nhiên
sẽ kéo theo sự làm ăn có hiệu quả của cả nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, pháp luật phá sản không chỉ là công cụ răn đe, buộc các
doanh nghiệp phải luôn tự hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển mà còn
là cơ sở pháp lý để xóa bỏ các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, tạo
ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư. Thông qua thủ tục
phá sản, những doanh nghiệp thua lỗ triền miên, nợ nần chồng chất như
những “con bệnh” trong nền kinh tế đều phải được xử lý, đưa ra khỏi
thương trường. Như vậy, thủ tục phá sản đã góp phần tạo ra môi trường
pháp lý an toàn, lành mạnh – một yếu tố không thể thiếu được cho sự phát
triển bền vững của nền kinh tế.
23
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI – THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH
NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI (DNCYTNN) CỦA VIỆT NAM
VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI
2.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài
2.1.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam
Theo quy định tại Luật Phá Sản số 51/2014/QH13 ngày 19/06/2014 có
hiệu lực từ 01/01/2015, thủ tục áp dụng phá sản có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam được thực hiện theo nguyên tắc: Người tham gia thủ tục phá sản là
người nước ngoài phải thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản
của Việt Nam. Nói cách khác, dấu hiệu “người tham gia thủ tục phá sản là
người nước ngoài” là căn cứ để xác định một vụ phá sản có yếu tố nước ngoài
hay không? và xác định Luật áp dụng trong trường hợp này là Pháp luật về
phá sản của Việt Nam.
Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản có yếu tố nước ngoài, Tòa
án nhân dân thực hiện ủy thác tư pháp theo hiệp định tương trợ tư pháp mà
Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có
đi có lại. Thủ tục ủy thác tư pháp được thực hiện theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự, pháp luật về tương trợ tư pháp.
Tuy nhiên, thủ tục ủy thác tư pháp theo quy định tại Luật tương trợ
Tư pháp năm 2007 còn quy định một cách chung chung, chưa được hướng
dẫn thực hiện thống nhất. Hiện nay, các quy định về việc thực hiện ủy thác
tư pháp chưa mang tính hệ thống, chưa được sự phối hợp của các cơ quan
24
liên quan. Các văn bản luật này chỉ dừng lại là những điều luật khung và chỉ
đưa ra các nguyên tắc về ủy thác tư pháp. Bên cạnh đó, một trong những
nguyên tắc quan trọng của ủy thác tư pháp là nếu Việt Nam và quốc gia tiếp
nhận ủy thác tư pháp đã ký hiệp định tương trợ tư pháp thì việc ủy thác tư
pháp phải thực hiện theo điều ước đã ký. Nhưng hiện nay, ngành tòa án
không cập nhật được danh sách các quốc gia mà Việt nam đã ký hiệp định
tương trợ tư pháp về dân sự. Đồng thời, tòa cũng không biết về nội dung của
những hiệp định tương trợ đó.
Mặc dù việc ủy thác tư pháp đã được thỏa thuận nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu thực tiễn.
Thứ nhất, với việc ủy thác tư pháp để thu thập tài liệu chứng cứ, đối
với những cá nhân, tổ chức nước ngoài thì hồ sơ ủy thác tư pháp gửi cho tòa
án có thẩm quyền của nước tiếp nhận ủy thác thông qua Bộ Tư Pháp Việt
Nam. Còn những cá nhân, tổ chức Việt Nam thì hồ sơ ủy thác tư pháp gửi
cho Đại sứ quán Việt Nam ở nước tiếp nhận ủy thác thông qua Bộ Tư Pháp
Việt Nam. Theo Luật Tương Trợ Tư Pháp, hồ sơ ủy thác gửi cho đương sự ở
nước ngoài hai lần. Đến lần hai mà vẫn không có kết quả (tổng cộng hết năm
tháng) thì tòa sẽ xử.
Thứ hai, thủ tục ủy thác tư pháp tống đạt bản án hay quyết định thì sau
khi gửi đi, nếu tòa không nhận được kết quả và không có kháng cáo hay
kháng nghị gì thì bản án hay quyết định sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực pháp luật
sau ba tháng kể từ ngày gửi đi.
Trên thực tế, hầu hết các trường hợp phải ủy thác tòa đều không nhận
được kết quả. Tòa không nhận được trả lời của đương sự liên quan, không
nhận được hồi âm của Bộ Tư Pháp, của đại sứ quán Việt Nam và của Tòa án
có thẩm quyền của nước ngoài. Do vậy, theo thỏa thuận, tòa đã đem ra xử.
Mặc dù trước đây, Tòa án Nhân dân tối cao Việt Nam đồng tình với cách xử
25
lý như trên nhưng kể từ thời điểm tháng 9 năm 2009, Tòa cấp Phúc thẩm lại
không chấp thuận dẫn đến hàng loạt án liên quan đều bị hủy vì vi phạm tố
tụng thực hiện việc ủy thác tư pháp không hợp lệ.
Theo quy trình ủy thác, đầu tiên, tòa án Việt Nam phải chuyển hồ sơ
qua Bộ Tư Pháp. Bộ này chuyển đến Bộ Ngoại Giao, Bộ Ngoại Giao chuyển
đến đại sứ quán Việt Nam tại nước sở tại. Từ đây hồ sơ vụ án mới được
chuyển đến các cơ quan tư pháp nước bạn để nhờ thu thập, xác minh chứng
cứ. Nếu quá trình xác minh thuận lợi, hồ sơ sẽ lần lượt ngược hành trình trên
quay về tòa án Việt Nam.
Ủy thác thành công là vậy, còn nếu thất bại hoặc bị ách lại ở một cơ
quan nào đó thì tòa chỉ có cách duy nhất ngồi cơ.Và chưa kể đến việc các cơ
quan ở nước bạn không nhiệt tình, không hào hứng giúp đỡ thì coi như án
chôn chân tại chỗ.
Như vậy là trong quá trình thực hiện thủ tục tư pháp theo quy định của
pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc,Tòa án Nhân dân tối cao cần
phối hợp với các cơ quan liên quan như Bộ Tư Pháp, Bộ Ngoại giao…để ban
hành thông tư liên tịch hướng dẫn việc thực hiện ủy thác tư pháp giải quyết
các vụ việc theo từng giai đoạn, từ giai đoạn thụ lý, thu thập tài liệu, chứng
cứ, tổ chức hòa giải cho đến khi đưa vụ việc ra giải quyết. Và cả việc thực
hiện thủ tục tống đạt bản án, quyết định cho các đương sự ở nước ngoài nhằm
xác định thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong trường hợp
các đương sự không có kháng cáo, viện Kiểm sát không kháng nghị mà việc
ủy thác tư pháp tống đạt bản án, quyết định cho đương sự ở nước ngoài không
nhận được hồi âm…
Việc công nhận và cho thi hành quyết định giải quyết phá sản của
Tòa án nước ngoài được thực hiện theo quy định của Hiệp định tương trợ tư
pháp mà Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và quy định khác
của pháp luật về tương trợ tư pháp.
26
Điều 14 Luật Tương trợ tư pháp quy định sau khi nhận được hồ sơ ủy
thác tư pháp, Bộ Tư pháp phải vào sổ, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và
chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của điều
ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành viên hoặc thông qua kênh
ngoại giao. Nhưng hiện nay, số nước mà Việt nam có ký hiệp định Tương trợ
tư pháp chỉ là 14 nước. Trong khi một số nước có công dân Việt nam sinh
sống đông thì chưa ký Hiệp định Tương Trợ Tư Pháp với Việt Nam như Mỹ,
Úc, Canada, Đài Loan.
Khái niệm về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước
ngoài đã hình thành từ lâu trong tư pháp quốc tế, có thể hiểu đó là một thủ tục
tố tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành án
tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài trên phạm
vi lãnh thổ của nước mình. Sau khi bản án, quyết định của nước ngoài đó đã
được xem xét và công nhận tính hiệu lực, nó sẽ được đảm bảo cưỡng chế thi
hành trên lãnh thổ của nước đã công nhận. Thủ tục đặc biệt này nhằm đảm
bảo giải quyết các xung đột về quyền tài phán và đảm bảo tôn trọng quyền tài
phán của mỗi quốc gia.
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài và Quyết định của Trọng tài nước ngoài có một ý nghĩa quan trọng,
đảm bảo khả năng thi hành các bản án, quyết định đã được cơ quan tài phán
nước ngoài tuyên. Từ đó, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người được thi
hành án cũng như tránh tình trạng về cùng một vụ việc nhưng lại bị xét xử 2
lần. Cùng với xu thế hội nhập, giao lưu kinh tế văn hóa xã hội giữa các quốc
gia, số lượng các bản án, quyết định được tuyên ở một nước nhưng cần được
thi hành ở một nước khác ngày càng tăng, dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các
quốc gia, số lượng các bản án, quyết định được tuyên ở một nước nhưng cần
27
được thi hành ở một nước khác ngày càng tăng, dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa
các nước để thỏa thuận công nhận và cho thi hành của nhau các bản án, quyết
định của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.
Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết với 14 nước Hiệp định song phương
về tương trợ tư pháp, bao gồm: Liên bang Nga, Séc, Xlôvakia, Ba Lan,
Hungari, Bungari, CuBa, CHDCND Lào, Trung Quốc, CHDCND Triều
Tiên, Ucraina, Belarut, Pháp, Mông Cổ. Tất cả các Hiệp định song phương
này đều có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Chế định công
nhận và thi hành bản án, quyết định của nước ngoài trong các Hiệp định
tương trợ tư pháp thường bao gồm các nội dung: phạm vi công nhận và thi
hành; về điều kiện công nhận và thi hành; về nội dung đơn yêu cầu công
nhận và thi hành; thủ tục công nhận và thi hành; việc chuyển tiền và tài sản
để đảm bảo thi hành quyết định.
2.1.1.1. Phạm vi công nhận và thi hành
Các bản án, quyết định của nước ngoài được công nhận và cho thi hành
bao gồm: bản án, quyết định dân sự; phần dân sự trong bản án hình sự; các
quyết định của Trọng tài thương mại. Đặc biệt trong một số các Hiệp định
tương trợ tư pháp ký với các nước còn phân biệt các bản án, quyết định dân
sự có tính chất tài sản và bản án, quyết định không mang tính chất tài sản
trong việc công nhận và cho thi hành.
Điều 51 Hiệp định với Nga quy định đối với các bản án, quyết định dân
sự không mang tính tài sản của Bên ký kết này được công nhận trên lãnh thổ
của Bên ký kết kia mà không phải qua một thủ tục đặc biệt nào. Như vậy, ở
đây có thể hiểu việc Toà án xem xét công nhận và cho thi hành chủ yếu đặt ra
đối với các bản án, quyết định có tính chất tài sản và trong tương lai sẽ phải
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành nếu người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành.
28
2.1.1.2. Điều kiện công nhận và thi hành
Các Hiệp định đều quy định rất cụ thể các điều kiện đặt ra đối với một
bản án, quyết định để có thể được công nhận và cho thi hành. Tựu chung lại
có 3 điều kiện chính: Thứ nhất, bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp luật
trên lãnh thổ nước tuyên bản án, quyết định đó. Thứ hai, bản án, quyết định
được cơ quan có thẩm quyền tuyên. Thứ ba, các thủ tục tố tụng (liên quan đến
luật hình thức) phải được đảm bảo.
2.1.1.3. Đơn yêu cầu
Việc công nhận và cho thi hành chỉ đặt ra khi có yêu cầu. Các nước sẽ
chỉ đặt ra việc xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của
nước ngoài tại nước mình nếu có yêu cầu của đương sự có liên quan hoặc cơ
quan có thẩm quyền của nước đã ra bản án, quyết định đó.
Theo các Hiệp định tương trợ tư pháp, đơn yêu cầu có thể gửi qua hai kênh:
- Qua kênh ngoại giao hoặc qua cơ quan tư pháp có thẩm quyền: theo
đó, các cơ quan tư pháp đã tuyên bản án, quyết định có thể trực tiếp hoặc
thông qua cơ quan trung ương chuyển đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
cho cơ quan có thẩm quyền của Bên ký kết kia. (Hiệp định tương trợ tư pháp
với Hungary, Bungary...).
- Các đương sự trực tiếp gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành.
2.1.1.4. Thủ tục xem xét đơn công nhận và thi hành
Tất cả các Hiệp định đều quy định Toà án là cơ quan xem xét và ra quyết
định công nhận và thi hành bản án, quyết định của nước ngoài. Ở đây, Toà án
không xem xét lại nội dung bản án, quyết định. Thẩm quyền tài phán của Toà án,
trọng tài đã tuyên bản án, quyết định được tôn trọng và bảo đảm. Thủ tục công
nhận chỉ nhằm xem xét tính khánh quan của quá trình ra bản án, quyết định đó.
2.1.1.5. Các vấn đề về thi hành bản án, quyết định
Các Hiệp định tương trợ tư pháp chủ yếu chỉ đề cập đến trình tự, thủ
29
tục, điều kiện công nhận và thi hành bản án, quyết định của các Bên ký kết.
Tuy vậy, một phần quan trọng không kém là khi đã được công nhận và cho thi
hành thì cơ chế để thi hành như thế nào? Hầu hết các Hiệp định chỉ quy định
việc chuyển tiền và tài sản thi hành bản án, quyết định ra nước ngoài. Các nội
dung liên quan đến việc cưỡng chế thi hành bản án, quyết định được hiểu là
do pháp luật của nước thi hành bản án, quyết định đó quy định.
Công ước về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước
ngoài ngày 10/6/1958 (Công ước NewYork năm 1958): Việc công nhận và thi
hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài hiện nay được hầu hết các nước
áp dụng theo Công ước NewYork năm 1958. Trong các Hiệp định tương trợ
tư pháp mà nước ta ký thời gian gần đây (Hiệp định với Nga, Trung Quốc,
Pháp) cũng quy định đối với việc công nhận và thi hành các quyết định của
Trọng tài thực hiện theo các quy định của Công ước này. Nội dung Công ước
New York quy định các nước thành viên phải công nhận các phán quyết
Trọng tài được đưa ra ngoài lãnh thổ của họ và các phán quyết không được
coi là phán quyết trong nước của các nước thành viên. Các phán quyết Trọng
tài nước ngoài sẽ được thi hành như những quyết định của Toà án địa phương
và hệ thống các cơ quan tư pháp của Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp
cưỡng chế để thi hành phán quyết. Khi tham gia Công ước, Nhà nước ta đã
tuyên bố 3 điểm bảo lưu:
1/ Chỉ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và thi hành tại Việt
Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các
quốc gia thành viên của Công ước; đối với quyết định của Trọng tài nước
ngoài tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước,
Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.
2/ Chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
pháp luật thương mại.
30
3/ Mọi sự giải thích Công ước trước Toà án hoặc cơ quan có thẩm
quyền khác của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp
luật Việt Nam.
Vấn đề công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài hiện
đã được điều chỉnh trong Bộ Luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004. Bộ
luật đã luật hoá hai Pháp lệnh trước đây điều chỉnh về vấn đề này là Pháp
lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà
án nước ngoài được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 17/4/1993
và Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng
tài nước ngoài được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày
14/9/1995. Phần thứ sáu của Bộ luật tố tụng dân sự “Thủ tục công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước
ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài” với 31 điều (từ Điều 342 đến
Điều 373) quy định một cách chi tiết không chỉ về thủ tục, trình tự xét công
nhận và cho thi hành mà cả các quy định mang tính nguyên tắc cơ bản của
việc công nhận và cho thi hành.
Về nguyên tắc công nhận và cho thi hành. Theo quy định tại Điều 343
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì Toà án Việt Nam xem xét đơn yêu cầu
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản:
- Thứ nhất, dựa trên cơ sở điều ước quốc tế:
a) Bản án, quyết định dân sự của Toà án của nước mà Việt
Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về
vấn đề này; Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trong trường
hợp quyết định được tuyên tại nước hoặc của Trọng tài của nước
mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn
đề này [18, Điều 343, Khoản 1,2]
31
- Thứ hai, dựa trên nguyên tắc có đi có lại:
Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định
của Trọng tài nước ngoài cũng có thể được Toà án Việt Nam xem
xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại
mà không đòi hỏi Việt Nam và nước đó phải ký kết hoặc gia nhập
điều ước quốc tế về vấn đề đó [18, Điều 343, Khoản 3]
Đây là nguyên tắc mới đối với việc công nhận và cho thi hành các bản
án, quyết định của Toà án nước ngoài. Trước đây, nguyên tắc có đi có lại mới
chỉ đặt ra cho việc công nhận và cho thi hành các quyết định dân sự của
Trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tiễn còn vướng mắc do pháp luật
chưa định ra được thẩm quyền, trình tự cũng như thủ tục cho việc áp dụng
nguyên tắc có đi có lại.
Về thủ tục và trình tự xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của
Trọng tài nước ngoài.
* Giai đoạn nhận đơn, thụ lý đơn, yêu cầu giải thích và chuẩn bị việc
xét đơn yêu cầu: Theo quy định tại Điều 350 BLTTDS thì Bộ Tư pháp là cơ
quan đầu mối trong việc tiếp nhận các hồ sơ giấy tờ yêu cầu công nhận và thi
hành bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của trọng tài nước
ngoài sau đó kiểm tra tính hợp pháp, hợp thức của các giấy tờ, hồ sơ, chuyển
hồ sơ đến Toà án có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết đơn
yêu cầu, đơn kháng cáo. Việc nhận đơn chỉ được tiến hành trong trường hợp
người phải thi hành đang cư trú hoặc làm việc tại Việt Nam, hay người đó có
tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam vào thời điểm gửi đơn. Về
thẩm quyền xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước
ngoài, theo quy định tại Điều 352 BLTTDS là Toà án nhân dân tỉnh, thành
32
phố trực thuộc trung ương nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc
nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày
nhận đơn yêu cầu và các giấy tờ hợp lệ kèm theo, Bộ Tư pháp phải chuyển
đơn cho Toà án có thẩm quyền. Trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu
công nhận và cho thi hành, nếu Toà án thấy có vấn đề gì chưa rõ trong bản án,
quyết định của Toà án hoặc quyết định của Trọng tài nước ngoài, thì Toà án
có quyền yêu cầu Toà án, trọng tài đã ra bản án, quyết định đó giải thích. Sau
4 tháng kể từ ngày thụ lý, Toà án phải ra quyết định mở phiên toà xét đơn yêu
cầu nếu không có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ. Trong giai đoạn này ngoài
việc xem xét, nghiên cứu hồ sơ vụ việc, Toà án còn phải tiến hành một số
công việc khác như: xác minh về nơi cư trú của người phải thi hành, tài sản
liên quan đến việc thi hành.
* Phiên toà xét đơn: Theo quy định tại Điều 355 BLTTDS, thì phiên
toà xét đơn yêu cầu bao gồm những người sau đây:
+ Việc xét đơn yêu cầu do một Hội đồng gồm ba thẩm phán tiến hành,
trong đó có một thẩm phán do chánh án chỉ định làm chủ toạ.
+ Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà.
Trường hợp kiểm sát viên vắng mặt, thì phải hoãn phiên toà.
+ Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của người có nghĩa vụ phải thi
hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó. Những người này được triệu
tập đến phiên toà theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc xét đơn yêu cầu
vẫn được tiến hành nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của
người đó yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt không có lý do chính đáng.
Sau khi xem xét đơn và các giấy tờ kèm theo, nghe ý kiến của người
triệu tập, của kiểm sát viên, Hội đồng xét đơn yêu cầu thảo luận và quyết định
(theo đa số) công nhận và cho thi hành hoặc quyết định không công nhận bản
án, quyết định của nước ngoài. Sau phiên toà sơ thẩm, quyền kháng cáo của
đương sự được đảm bảo theo quy định của pháp luật Việt Nam.
33
Các đơn kháng cáo, kháng nghị sẽ được Toà án nhân dân tối cao xem
xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Điểm đặc biệt lưu ý là theo quy định tại
Khoản 4 Điều 355 BTTDS là khi xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của Trọng tài nước
ngoài, Toà án Việt Nam không được xét xử lại vụ kiện mà chỉ xem xét xem
các thủ tục về mặt tố tụng của việc tuyên bản án,quyết định đó có đảm bảo
không (chỉ xem xét các quy định của luật hình thức mà không xem xét các
quy định của luật nội dung).
Hiện nay, khi xét đơn yêu cầu ở một số vụ việc xem xét công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định
của Trọng tài nước ngoài, một số Hội đồng xét đơn yêu cầu đã xem xét luôn
lại nội dung vụ kiện đó. Lỗi thường hay gặp phải là Hội đồng xét đơn yêu cầu
so sánh việc áp dụng luật của nước ngoài với pháp luật trong nước, để xem lại
nội dung vụ kiện có đúng với pháp luật của Việt Nam hay không, sau đó mới
ra quyết định công nhận và cho thi hành hay không công nhận. Cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và
cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài theo pháp luật hiện này cũng
còn lỏng lẻo. Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối, trực tiếp tiếp nhận hồ sơ từ
đương sự, thu lệ phí và có trách nhiệm như là "cầu nối" giữa các cơ quan có
thẩm quyền trong nước với cá nhân, tổ chức yêu cầu thi hành án (phần lớn là
ở nước ngoài). Tuy vậy, khi các Toà án tiến hành thụ lý đơn cũng như trong
quá trình xét xử, có một thực tế là các Toà án hoàn toàn không có thông báo
cũng như báo cáo Bộ Tư pháp về các hoạt động của mình, dẫn đến việc Bộ
Tư pháp hoàn toàn bị động trước các vấn đề mà cá nhân, tổ chức nước ngoài
hỏi hoặc yêu cầu. Về hướng dẫn giải quyết các vụ việc này, Toà án nhân dân
tối cao hiện nay cũng chưa quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng mỗi toà án
giải quyết theo một kiểu, không nhất quán và gây tâm lý không tốt cho các cá
nhân, tổ chức nước ngoài.
34
2.1.2. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài tại một số quốc gia khác
Thẩm quyền của Tòa án của mỗi quốc gia trong việc mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp được xác định theo 2 cơ chế: cơ chế thẩm quyền trực tiếp
(Tòa án trực tiếp thụ lý đơn giải quyết vụ phá sản) và cơ chế thẩm quyền gián
tiếp (thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp của Tòa án nước ngoài.
2.1.2.1. Mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thẩm quyền trực tiếp
Thẩm quyền trực tiếp của Tòa án trong việc quyết định mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp được xác định theo 2 loại tiêu chí. Theo quan điểm của
pháp luật quốc tế, đặc biệt là theo tập quán quốc tế, loại tiêu chí thứ nhất được
coi là tiêu chí cơ bản và không phải bàn cãi về tính phổ biến của nó. Ngoài ra
còn có một số tiêu chí phụ và còn nhiều vấn đề cần làm rõ.
a) Tiêu chí cơ bản: Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có trụ sở chính
của doanh nghiệp
Thủ tục giải quyết phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu được
xây dựng dựa trên tiêu chí Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có trụ sở
chính của doanh nghiệp. Thực vậy, dường như trong mọi trường hợp, thủ
tục phá sản đều có thể mở tại nước có trụ sở chính của doanh nghiệp, tức là
tại nơi doanh nghiệp mắc nợ thực sự quản lý lợi nhuận thu được từ hoạt
động kinh doanh, do đó doanh nghiệp mắc nợ có thể đưa ra được những
chứng cứ về những lợi nhuận đó.
Tiêu chí này được quy định trong tư pháp quốc tế của nước Cộng Hòa
Pháp để xác định thẩm quyền của tòa án Pháp đối với việc mở thủ tục phục
hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp cả đối với thủ tục thuần túy trong nước và thủ
tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại điều 1
khoản 1 Nghị định ngày 27/12/1980: “Trên phương diện lãnh thổ, tòa án có
35
thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp là tòa án nơi
doanh nghiệp mắc nợ có trụ sở chính”. Do đó, nếu không trái với trường hợp
quy định tại phần b sau đây thì chúng ta có thể suy ra rằng nếu doanh nghiệp
mắc nợ có trụ sở chính tại nước Pháp thì tòa án Pháp có thẩm quyền mở thủ
tục phục hồi hoặc thanh lý đối với doanh nghiệp mắc nợ.
Tiêu chí này cũng được quy định trong Nghị định số 1346/2000 dưới
một hình thức khác. Điều 3 Nghị định này quy định: “Tòa án của nước thành
viên có thẩm quyền mở thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán
là tòa án nơi tập trung những lợi ích chính của doanh nghiệp mắc nợ”. Cũng
theo điều khoản này, nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi tập trung các lợi ích chính
của công ty hoặc pháp nhân được xác định theo điều lệ doanh nghiệp. Điều
này cũng được công nhận trong án lệ của Pháp. Tuy nhiên, nơi đặt trụ sở hoặc
nơi tập trung các lợi ích chính xác định theo điều lệ chỉ là một suy đoán đơn
giản và có thể bị phản bác nếu có chứng cứ ngược lại chứng minh rằng trụ sở
được quy định trong điều lệ là không có thật và “tất cả hoặc hầu như tất cả các
hoạt động của công ty đều thực hiện ở một nơi khác” (theo một bản án của tòa
án Tư pháp tối cao). Chúng ta cũng thường gặp khó khăn khi xác định trụ sở
chính thực tế của nhóm công ty bởi lẽ trên phương diện pháp lý, các công ty
con trong tập đoàn là những pháp nhân hoàn toàn độc lập quan hệ với nhau
thông qua các mối quan hệ về tiền vốn. Tuy nhiên, do tất các công ty con nằm
dưới sự quản lý của công ty mẹ cho nên chỉ có trụ sở chính của công ty mẹ
được coi là trụ sở chính thực tế. Điều này còn gây nhiều tranh cãi.
b) Các tiêu chí phụ để xác định thẩm quyền trực tiếp
Trong số các tiêu chí phụ để xác định thẩm quyền trực tiếp được nêu ra
sau đây, một số tiêu chí có thể được chấp nhận, một số khác thì ít được chấp
nhận hơn.
Theo quy định tại điều 1, khoản 1, Nghị định ngày 27/132/1985 (đã đề
36
cập ở phần trên) cho phép mở thủ tục phá sản trên lãnh thổ Pháp, nếu lãnh thổ
Pháp là nơi “tập trung các lợi ích chủ yếu của doanh nghiệp mắc nợ”. Nếu đọc
sơ qua thì có thể lầm tưởng rằng quy định này giống với quy định trong Nghị
định số 1346/2000 nhưng thực chất đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Trong Nghị định của Liên minh Châu Âu đề cập đến nơi tập trung các lợi ích
chính, tức là trụ sở chính trong khi đó theo Nghị định ngày 27/12/1985 thị nơi
tập trung các lợi ích chủ yếu tương ứng với cơ sở chính đặt tại Pháp. Ví dụ,
doanh nghiệp không có trụ sở chính ở Pháp mà chỉ đặt một cơ sở thứ hai ở đó.
Về mặt pháp lý, cơ sở thứ hai này khá độc lập, có ban lãnh đạo và một đội ngũ
nhân viên cho phép nó có thể tiến hành đàm phán với các bên thứ ba. Theo quan
điểm cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ thì có thể mở thủ
tục phá sản tại nơi doanh nghiệp có cơ sở thứ hai nếu việc này nhằm đáp ứng
nhu cầu bảo vệ lợi ích của quốc gia hoặc theo quan điểm hiện đại hơn, để đơn
giản hóa thủ tục thanh lý các tài sản nằm tại nhiều nước khác nhau.
Với mục đích đó, Nghị định 1346/2000 (điều 3.2 và các điều tiếp theo)
quy định việc mở các thủ tục, còn gọi là các thủ tục phụ hoặc các thủ tục có
hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ tại các nước mà doanh nghiệp mắc nợ có cơ
sở thứ hai, tức là tại các nước khác ngoài nước nơi tập trung các lợi ích chính
hoặc nơi có trụ sở chính.
Trong tình hình phát triển mạnh mẽ hiện nay, pháp luật Pháp còn chấp
nhận trường hợp mở thủ tục phá sản trong phạm vi lãnh thổ Pháp nếu doanh
nghiệp mắc nợ chỉ có tài sản riêng lẻ ở Pháp hoặc nếu doanh nghiệp mắc nợ
có quan hệ hợp đồng ở Pháp, thậm chí nếu các Bên (doanh nghiệp mắc nợ và
chủ nợ) có quốc tịch Pháp.
Trường hợp cuối cùng được chấp nhận trên cơ sở áp dụng điều 14 và
15 Bộ Luật Dân sự Pháp. Hai điều luật này tạo ra đặc quyền về thẩm quyền
xét xử. Các điều kiện cho phép mở thủ tục phụ giải quyết phá sản quy định tại
37
Nghị định 1346/2000 do đó các trường hợp này không đưa vào phạm vi áp
dụng của Nghị định nêu trên. Hơn nữa, các điều kiện này cũng không phù hợp
với cơ chế mở thủ tục giải quyết phá sản thứ hai: công nhận và cho thi hành
quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản do Tòa án nước ngoài tuyên.
2.1.2.2. Mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thẩm quyền gián
tiếp: việc công nhận và cho thi hành quyết định của tòa án nước ngoài mở thủ
tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Theo quan điểm cho rằng thủ tục phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn
cầu, khi thủ tục phá sản được mở ở một nước thì liệu thủ tục đó có thể có hiệu
lực đối với tất cả các nước khác thông qua cơ chế công nhận và cho thi hành
quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản đó?
Quy định trong pháp luật của Pháp mới đây đã chấp nhận quan niệm về
hiệu lực toàn cầu của quyết định mở thủ tục phá sản trong bản án Banque
Worms nổi tiếng ngày 19 tháng 11 năm 2002. Lần đầu tiên, bản án này
tuyên như sau:
Căn cứ nguyên tắc hiệu lực toàn cầu của thủ tục giải quyết
phá sản… Nếu không trái với các điều ước quốc tế hoặc các văn
bản của Liên minh Châu Âu và phù hợp với trật tự pháp luật của
các nước khác thì thủ tục phục hồi doanh nghiệp được mở tại Pháp
có hiệu lực ở tất cả những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản…
Phản ứng của các cơ quan chức năng nước ngoài về vấn đề này là điều
tất yếu. họ có thể không thừa nhận hiệu lực của quyết định mở thủ tục phá sản
của Tòa án Pháp trên lãnh thổ nước mình ngay cả khi trụ sở chính của doanh
nghiệp đặt tại Pháp. Trong khi đó, về lý thuyết quyết định mở thủ tục phá sản
đó có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu. Ngược lại, án lệ của Pháp luôn luôn
thừa nhận hiệu lực tại Pháp của các quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản
của Tòa nước ngoài thông qua thủ tục công nhận và thi hành quyết định, bản
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài

More Related Content

What's hot

Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...
Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...
Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệpLuận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...
Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...
Luận văn: Pháp luật về sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài v...
 
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
 
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí TuệKhóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
 
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đLuận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
Luận văn: Hợp đồng lao động vô hiệu theo pháp luật lao động, 9đ
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAYLuận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt NamLuận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
 
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công tyĐề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
 
Luận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nayLuận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Khóa luận: Pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp, 9 ĐIỂMKhóa luận: Pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp, 9 ĐIỂM
Khóa luận: Pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về lao động là người khuyết tật ở Việt Nam
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luậtLuận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
 
Luận văn: Hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao động
Luận văn: Hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao động Luận văn: Hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao động
Luận văn: Hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao động
 
Luận văn: Hỗ trợ đầu tư dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Luận văn: Hỗ trợ đầu tư dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàiLuận văn: Hỗ trợ đầu tư dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Luận văn: Hỗ trợ đầu tư dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao độngLuận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài

Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...huynhminhquan
 
Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...
Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...
Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài (20)

Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, HAY
Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, HAYLuận văn: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, HAY
Luận văn: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước trong hoạt động ngoại thương, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước trong hoạt động ngoại thương, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước trong hoạt động ngoại thương, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước trong hoạt động ngoại thương, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động ngoại thương, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động ngoại thương, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động ngoại thương, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động ngoại thương, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận văn: Quản lý nhà nước về ngoại thương ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
 
Luận văn: Quản Lý Nhà Nước Về Ngoại Thương Ở Việt Nam
Luận văn: Quản Lý Nhà Nước Về Ngoại Thương Ở Việt NamLuận văn: Quản Lý Nhà Nước Về Ngoại Thương Ở Việt Nam
Luận văn: Quản Lý Nhà Nước Về Ngoại Thương Ở Việt Nam
 
Pháp luật về hình thức khai thác thương mại đối với sáng chế, HOT
Pháp luật về hình thức khai thác thương mại đối với sáng chế, HOTPháp luật về hình thức khai thác thương mại đối với sáng chế, HOT
Pháp luật về hình thức khai thác thương mại đối với sáng chế, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về hình thức khai thác thương mại về sáng chế
Luận văn: Pháp luật về hình thức khai thác thương mại về sáng chếLuận văn: Pháp luật về hình thức khai thác thương mại về sáng chế
Luận văn: Pháp luật về hình thức khai thác thương mại về sáng chế
 
Đề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần
Đề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phầnĐề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần
Đề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần
 
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoánĐịa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
 
Giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài
Giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoàiGiải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài
Giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài
 
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mạiLuận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
 
Luận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAY
Luận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAYLuận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAY
Luận văn: Phát hành trái phiếu của công ty cổ phần đại chúng, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAY
Luận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAYLuận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAY
Luận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAY
 
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
 
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mạiCông nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
 
Luận án: Cải thiện môi trường đầu tư ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
Luận án: Cải thiện môi trường đầu tư ở các tỉnh Trung du, miền núi phía BắcLuận án: Cải thiện môi trường đầu tư ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
Luận án: Cải thiện môi trường đầu tư ở các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc
 
Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...
Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...
Luận văn PHÁP LUẬT về tổ chức và QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN - sdt/ ZALO 093 189 ...
 
Luận văn: Xác định tài sản có của thương nhân theo luật phá sản
Luận văn: Xác định tài sản có của thương nhân theo luật phá sảnLuận văn: Xác định tài sản có của thương nhân theo luật phá sản
Luận văn: Xác định tài sản có của thương nhân theo luật phá sản
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 

Recently uploaded (20)

Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 

Đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG PH¸P LUËT VÒ PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP Cã YÕU Tè N¦íC NGOµI: KINH NGHIÖM N¦íC NGOµI Vµ NH÷NG GîI ý §èI VíI VIÖT NAM LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG PH¸P LUËT VÒ PH¸ S¶N DOANH NGHIÖP Cã YÕU Tè N¦íC NGOµI: KINH NGHIÖM N¦íC NGOµI Vµ NH÷NG GîI ý §èI VíI VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI XUÂN NHỰ HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Hồng Nhung
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI............................................................ 3 1.1. Nhận thức chung về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài...... 3 1.1.1. Khái niệm chung về phá sản doanh nghiệp.......................................... 3 1.1.2. Quan điểm về “Yếu tố nước ngoài” trong thuật ngữ phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ..................................................... 7 1.1.3. Phân biệt phá sản và giải thể................................................................ 9 1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.....................................................................................13 1.2.1. Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.......13 1.2.2. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt..........................................................14 1.3. Vai trò của pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài trong nền kinh tế thị trường .................................................19 1.3.1. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là công cụ bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp chủ nợ .....................................................................................19 1.3.2. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp con nợ, tạo cơ hội để những doanh nghiệp này rút khỏi thương trường một cách trật tự ..........................20 1.3.3. Pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài góp phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả ...........................................................................22
  • 5. Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI – THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI (DNCYTNN) CỦA VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI...................23 2.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.........................................................................................23 2.1.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam ....................................................................23 2.1.2. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại một số quốc gia khác..................................................34 2.1.3. Tập quán và nguyên tắc áp dụng tập quán về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài .............................................41 2.2. Trình tự thủ tục tiến hành phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.........................................................................................44 2.2.1. Luật áp dụng đối với thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài..........................................................................................44 2.2.2. Phối hợp các thủ tục phá sản mở tại nhiều nước khác nhau ..............51 2.2.3. Các trường hợp ngoại lệ về giải quyết phá sản có yếu tố nước ngoài.......56 2.3. Kinh nghiệm giải quyết phá sản có yếu tố nước ngoài tại một số quốc gia.........................................................................................68 2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Pháp.....................................................................................68 2.3.2. Kinh nghiệm giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (trừ Đan Mạch)...........70 2.3.3. Thực tiễn áp dụng Luật mẫu về tình trạng mất khả năng thanh toán có yếu tố nước ngoài theo Ủy ban của Liên Hợp quốc về luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và thông qua .....71 Chương 3: XU HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM HÀI HÒA VỚI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ ....73 3.1. Cần thiết sửa đổi luật Phá sản ........................................................73
  • 6. 3.1.1. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản........................................................73 3.1.2. Cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục phá sản có yếu tố nước ngoài .............................................................74 3.1.3. Về việc thực hiện quản lý tài sản của doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài trong quá trình giải quyết phá sản...................................76 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Phá sản và các văn bản pháp luật có liên quan ................................................78 3.2.1. Hoàn thiện quy định về đăng ký quyền sở hữu, đăng ký quyền sử dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm đối với doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài...........................................................................................78 3.2.2. Hướng dẫn về xử lý tài sản được cầm cố, thế chấp của doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ..............................................................79 3.2.3. Hướng dẫn về xử lý quyền sử dụng đất của doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản ..........................................84 3.3. Một số kiến nghị khác......................................................................85 3.3.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý tài sản của doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản........85 3.3.2. Tăng cường kỷ luật tài chính kế toán đối với doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản ..........................................86 3.3.3. Giải tỏa yếu tố tâm lý của chủ doanh nghiệp/người quản lý doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài lâm vào tình trạng phá sản...................87 KẾT LUẬN....................................................................................................88 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................89
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự DN: Doanh nghiệp DNCYTNN: Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài HĐQT: Hội đồng quản trị HTX: Hợp tác xã TAND: Tòa án nhân dân TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
  • 8. 1 MỞ ĐẦU Trong xu thế phát triển hiện nay, việc giao thoa kinh tế, văn hóa xã hội là một xu thế tất yếu. Trong nội bộ nền kinh tế nước ta có một bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có mối liên hệ xuyên quốc gia về mặt tài sản. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài không ít, do đó tồn tại tài sản của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam ở nước ngoài, quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế còn dẫn đến nhiều trường hợp đa dạng khác mà tài sản doanh nghiệp phá sản không chỉ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Các doanh nghiệp hình thành, hoạt động, phát triển ngày càng đa dạng kéo theo rất nhiều những vấn đề liên quan cần được nghiên cứu, điều chỉnh một cách thích đáng. Phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là một vấn đề quan trọng cấp bách nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những vấn đề phát sinh liên quan đến Phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế xã hội của một hay nhiều quốc gia liên quan, thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao, tình chính chính trị trong nước và giữa các quốc gia liên quan. Luật phá sản nhiều nước quy định hiệu lực của việc áp dụng các thủ tục giải quyết phá sản theo luật phá sản của họ có hiệu lực đối với cả các tài sản của doanh nghiệp mắc nợ ở trong và ngoài lãnh thổ nước mình. Đồng Thời Luật phá sản của một số nước cũng quy định luôn việc công nhận và áp dụng các phán quyết về phá sản của toà án nước ngoài. Thực tế cho thấy, cùng với việc nghiên cứu, từng bước hoàn thiện pháp luật về việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài, pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có một vị trí vô cùng quan trọng, cần được xem xét nghiêm túc và khoa học. Luận văn thạc sỹ với đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài: Kinh nghiệm nước ngoài và những gợi ý đối với Việt Nam nhằm tìm hiểu, nghiên cứu về các Khái niệm về phá sản doanh nghiệp
  • 9. 2 và phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài; Thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài và thẩm quyền của tòa án nước ngoài trong việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài cũng như Trình tự, thủ tục Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài sẽ góp phần làm phong phú thêm tài liệu khoa học về lĩnh vực đang được rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu.
  • 10. 3 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1. Nhận thức chung về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài 1.1.1. Khái niệm chung về phá sản doanh nghiệp 1.1.1.1. Phá sản doanh nghiệp Danh từ phá sản được bắt nguồn từ tiếng Latinh "RUIN" có nghĩa là là "sự khánh tận" khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp và rõ nhất của sự mất cân đối giữa thu và chi là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn phải trả. Hiện tượng phá sản trong nền kinh tế thị trường của các doanh nghiệp là hiện tượng bình thường và là tất yếu của quy luật cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh. Quy luật này diễn ra ở bất cứ quốc gia nào bất cứ doanh nghiệp nào có cơ chế quản lý không phù hợp và không theo kịp nền kinh tế thị trường. Hiện tượng phá sản chính là quy luật tất yếu của sự cạnh tranh nhằm tạo ra các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của toàn xã hội, tạo thêm không khí mới trong sản xuất kinh doanh. Pháp luật của nhà nước trên thế giới có nhiều chế định khác nhau về pháp luật phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp. Thậm chí có nhiều quan điểm khác nhau về định lượng và định tính trong việc xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản doanh nghiệp hay mất khả năng thanh toán nợ đến hạn như luật phá sản của Malayxia, Hunggari, Trung Quốc... Song cho dù có các chế định khác nhau như vậy nhưng pháp luật các nước đều có khái niệm thống nhất là một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp đó không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn.
  • 11. 4 Theo quy định tại điều 4 Luật Phá sản nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 51/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015: “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. “ Phá sản doanh nghiệp” là thuật ngữ chỉ tình trạng một con nợ không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời đây cũng là thuật ngữ chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết tình trạng khó khăn đó trên cơ sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của tòa án. Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này không còn được sử dụng trong pháp luật hiện đại, đặc biệt là trong pháp luật của nước Pháp. Thay vì sử dụng thuật ngữ “Phá sản”, pháp luật của nước Pháp thường sử dụng các thuật ngữ khác như: “Thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán”, “phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp” hoặc “Thủ tục giải quyết nợ tập thể”. Trong xu thế phát triển của pháp luật hiện đại, thuật ngữ “Phá sản” còn mang ý nghĩa là biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo đó, chủ doanh nghiệp sẽ không được phép tham gia hoạt động thương mại hoặc tham gia lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù vậy, Tư pháp quốc tế vẫn tiếp tục sử dụng thuật ngữ “Phá sản” bởi lý do thuật ngữ này đơn giản và dễ được thừa nhận ở nước ngoài. 1.1.1.2. Đặc điểm phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài Phá sản có yếu tố nước ngoài (cross-border insolvency) có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là trường hợp con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản có tài sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ “Phá sản có yếu tố nước ngoài” được sử dụng đối với trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu tố nước ngoài nào như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngoài lãnh thổ quốc gia dù cho hoạt động đó không có sự hỗ trợ tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh nghiệp ở nước ngoài.
  • 12. 5 Theo quy định tại Luật Phá Sản năm 2014 có hiệu lực từ 01/01/2015, chỉ có 02 điều nói về thủ tục phá sản có yếu tố nước ngoài (điều 116 và điều 117). Như vậy là chưa thể đủ để giải quyết những trường hợp phát sinh vô cùng phức tạp trong thực tế về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Trong hội nhập kinh tế, kèm theo cơ hội giao thương với nước ngoài là những vấn đề tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Từ thực tế giải quyết các vụ phá sản cho thấy, có 3 đặc điểm về phá sản doanh nghiệp có yếu tố liên quan nước ngoài bao gồm: - Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài. - Đại diện theo pháp luật của DN là người nước ngoài. - Chủ nợ/con nợ là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Thứ nhất, đối với chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài: có trường hợp chủ đầu tư nước ngoài đã bị phá sản, khi đó, liên doanh Việt Nam rơi vào cảnh bơ vơ, không rõ ai là ông chủ, ai sẽ đại diện cho phần vốn nước ngoài tại liên doanh để tham gia vào quá trình giải quyết phá sản. Thứ hai, đối với DN liên doanh tự đề nghị Tòa án tuyên bố phá sản DN của mình, người đại diện theo pháp luật là người nước ngoài, khi thấy thủ tục giải quyết phá sản quá phức tạp thì đã về nước mà không báo cho ai. Lý do họ đưa ra là khi Tòa tuyên bố mở thủ tục phá sản thì họ không được trả lương, không có lương thì họ về nước. Cho đến nay, chưa có cơ chế cấm xuất cảnh nào đối với những người này. Phía Việt Nam trong liên doanh cũng không có quyền yêu cầu họ ở lại. Hiện các Tòa án không biết phải giải quyết trường hợp này thế nào. Liệu có thể áp dụng thủ tục tố tụng dân sự để đình chỉ giải quyết việc phá sản khi triệu tập hai lần mà người yêu cầu tuyên bố phá sản đối với chính DN của họ không đến Tòa án để giải quyết? Thứ ba, khi chủ nợ/con nợ là người nước ngoài, chi phí dịch tài liệu lấy ở đâu khi mà DN đã lâm vào tình trạng phá sản? Nhiều trường hợp thông báo,
  • 13. 6 công văn của Tòa án gửi đi, nhưng chủ nợ/con nợ không nhận được, vì họ đã chuyển trụ sở và không thông báo cho DN Việt Nam biết. Vấn đề là liệu có thể áp dụng quy định khi Tòa án thông báo hai lần mà không đến thì mất quyền đòi nợ (đối với chủ nợ) như thủ tục tố tụng dân sự, cũng như làm cách nào thu hồi nợ đối với con nợ? Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này có thể vấp phải phản ứng của phía nước ngoài khi họ đưa ra lý do rằng họ không biết thông tin về vụ phá sản, chứ không phải biết mà không thực hiện. Trong trường hợp này, có thể áp dụng thủ tục ủy thác tư pháp theo Bộ luật Tố tụng dân sự hay không? Trên thực tế, nếu được áp dụng chế định ủy thác tư pháp, thì việc thực hiện ủy thác cũng rất khó khăn và có thể không thực hiện được, vì không có địa chỉ mới của các tổ chức, cá nhân này. Chưa kể, thực tế cho thấy, tỷ lệ nợ nước ngoài thường khá cao, điều này dẫn đến tình trạng khó có thể mở hội nghị chủ nợ, bởi hội nghị chủ nợ yêu cầu có trên 50% số chủ nợ không có bảo đảm tham gia và đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ. Bởi vậy, nếu không thể thông báo cho chủ nợ nước ngoài, vụ phá sản có thể sẽ lâm vào tình trạng bế tắc, không thể đình chỉ, cũng không thể tiếp tục, không biết đến bao giờ mới có thể giải quyết. Nghiên cứu một số vụ phá sản có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua, ngoài những đặc điểm nêu trên còn có một số đặc điểm nổi bật như sau: - Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài hình thành chủ yếu trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, đặc biệt trong những năm gần đây khi đất nước ta đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.Trước thời kỳ đổi mới, mở cửa, nền kinh tế nước ta khép kín, kinh tế đối ngoại chủ yếu là các hoạt động kinh tế kế hoạch với một số nước xã hội chủ nghĩa. Sau năm 1986, nhất là từ sau thời kỳ bình thường hoá quan hệ với Mỹ và đẩy mạnh quan hệ kinh tế với một số nền kinh tế lớn trên thế giới như Nhật Bản, Tây Âu, các hoạt động kinh tế của nước ta diễn ra đa dạng về hình thức và
  • 14. 7 tăng mạnh mẽ từng năm về cán cân thương mại với các nước, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tham gia một số tổ chức, định chế tài chính, kinh tế lớn ở khu vực và trên thế giới như Tổ chức Thương mại thế giới, Hiệp hội các nước ASEAN…. Theo đó, các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, kinh tế thế giới và khu vực đến Việt Nam nghiên cứu, hợp tác và tiến hành các hoạt động kinh tế, tài chính, thương mại cũng ngày một tăng lên; nguồn vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng lớn, năm sau cao hơn năm trước. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam ra đầu tư ra nước ngoài ngày càng nhiều. - Tài sản trong các phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có nguồn gốc ở cả trong và ngoài nước, trong đó nhiều vụ án có nguồn gốc tài sản từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức từ nước ngoài. Tài sản có nguồn gốc từ nước ngoài như: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tài sản là các phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị công nghệ, thiết bị kỹ thuật phực vụ xây dựng, giao thông, sản xuất công nghiệp có nguồn gốc từ nước ngoài. - Đa số các vụ phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài việc phát hiện, xử lý thường kéo dài; nhiều vụ việc chậm được xem xét, kết luận. 1.1.2. Quan điểm về “Yếu tố nước ngoài” trong thuật ngữ phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài Ở Việt Nam chưa có quy định pháp luật nào đưa ra định nghĩa về “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 quy định "yếu tố nước ngoài" bao gồm: 1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; 2. Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh tại nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài; 3. Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Điều 758 BLDS 2005 quy định có 3 loại yếu tố nước ngoài mà một
  • 15. 8 quan hệ dân sự có sự hiện diện của một trong ba loại yếu tố đó thì thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Đó là: Thứ nhất, chủ thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Thứhai,kháchthểcủaquanhệđóởnướcngoài(disảnthừakếởnướcngoài). Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành, rất khó xác định được thế nào là “một doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”. Ngay cả các cơ quan tư pháp của Việt Nam cũng thường xuyên gặp phải sự lúng túng khi xác định “yếu tố nước ngoài” để phân định thẩm quyền thụ lý của các cấp Tòa án. Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2003 của Việt Nam quy định Tòa án Nhân dân cấp tỉnh được xét xử những án có yếu tố nước ngoài, Tòa án Nhân dân cấp quận, huyện không được thụ lý án có yếu tố đó. Quy định có vẻ là rất rõ nhưng khi áp dụng lại nảy sinh nhiều vướng mắc (VD như trường hợp vụ kiện các đại lý ra TAND TP.Hà Nội để đòi tiền nợ của công ty nước giải khát Coca-Cola, Pepsi, A&B… và đã có vướng mắc trong việc xác định các công ty này có “yếu tố nước ngoài” hay không). Có quan điểm cho rằng, những công ty dù có vốn nước ngoài, nhưng được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam (tức là có “quốc tịch” Việt Nam) nên phải được hiểu là doanh nghiệp Việt Nam chứ không phải là “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”. Việc xác định “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài” dựa vào quốc tịch của doanh nghiệp có thể coi là tiêu chí hợp lý hơn vì điều này còn liên quan đến vấn đề ủy thác điều tra và hợp thức hóa lãnh sự. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, có vốn nước ngoài thì đương nhiên là “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”. Cho đến thời điểm hiện nay, Tòa án Nhân dân tối cao Việt Nam chưa có hướng dẫn cụ thể tiêu chí để xác định “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”.
  • 16. 9 1.1.3. Phân biệt phá sản và giải thể Nếu xét về hiện tượng, hình thức bên ngoài thì giải thể và phá sản có điểm giống nhau đó là đều chia giá trị tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải quyết quyền lợi cho người lao động… Nhưng về mặt bản chất giữa giải thể và phá sản là hai chế định có sự khác nhau căn bản dưới đây: Thứ nhất: Lý do giải thể rộng hơn nhiều lý do một doanh nghiệp phá sản. Điều này thể hiện ở chỗ nếu như cơ sở sản xuất kinh doanh có thể chấm dứt hoạt động của mình khi thấy mục tiêu đề ra không thể đạt được hoặc đã hoàn thành song mục tiêu đó, hoặc bị thu hồi giấy phép hoạt động do vi phạm nghiêm trọng pháp luật. Lý do phá sản chỉ có một nguyên nhân duy nhất gây ra đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp. Thứ hai: Nếu như việc giải thể các cơ sở sản xuất kinh doanh là do những người làm chủ doanh nghiệp tự mình quyết định hoặc do cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định khi thấy không cần cần thiết. Việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp đó là nhiệm vụ và quyền hạn của tòa kinh tế thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh. Thứ ba: Thủ tục tiến hành giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh là thủ tục hành chính còn thủ tục tuyên bố phá sản lại là thủ tục tư pháp thuần túy, do tòa án có thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp luật phá sản (thủ tục tư pháp đặc biệt đã được phân tích ở trên). Thứ tư: Giải thể bao giờ cũng dẫn đến chấm dứt hoạt động và xóa tên cơ sở sản xuất kinh doanh, trong khi đó, phá sản không phải bao giờ cũng dẫn đến hệ quả như vậy. Một doanh nghiệp bị phá sản nhưng doanh nghiệp đó vẫn giữ nguyên tên doanh nghiệp của mình nếu có thể, nhãn hiệu hàng hóa vẫn có thể được lưu hành trên thị trường, cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn hoạt động bình thường nếu như doanh nghiệp được một người khác mua lại toàn bộ doanh nghiệp bao gồm cả khoản nợ đến hạn.
  • 17. 10 Thứ năm: Nhìn chung, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay người quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh trong hai trường hợp trên cũng có phân biệt. Chẳng hạn pháp luật của nhiều nước quy định chủ sở hữu hay người quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh bị phá sản không được hành nghề trong một thời gian nhất định còn trong trường hợp giải thể pháp luật không đưa ra vấn đề hạn chế quyền tự do kinh doanh (vấn đề này luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam quy định tại điều 50 – Khoản 1 điều 50 luật Phá sản doanh nghiệp quy định: Giám đốc, chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị không được đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ 1-3 năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Như vậy, có thể thấy rằng, việc phân biệt giữa Phá sản Doanh nghiệp và Giải thể Doanh nghiệp là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Về mặt nguyên nhân: Theo Luật Doanh nghiệp 2005, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến giải thể doanh nghiệp như: (i) Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn; (ii) Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần; (iii) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn 6 tháng liên tục; (iv) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh [17]. Giải thể vì hết thời hạn hoạt động mà không gia hạn thêm, vì bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay đơn giản là do quyết định giải thể của
  • 18. 11 chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Trong khi đó, doanh nghiệp bị Tòa án có thẩm quyền tuyên bố phá sản theo thủ tục luật định khi không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và khi chủ nợ có yêu cầu. Hiểu một cách khác, phá sản xảy ra khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Về mặt Thủ tục giải quyết Khi giải thể, doanh nghiệp phải ban hành quyết định bằng văn bản có đầy đủ nội dung luật định và phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ, doanh nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh để xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy này. Đối với trường hợp phá sản, khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các chủ nợ, người lao động có quyền và/hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp. Khi có căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Toà án sẽ ra quyết định mở thủ tục phá sản và thông báo đến doanh nghiệp, chủ nợ, con nợ của doanh nghiệp và đăng trên báo địa phương, báo trung ương. Tùy tình hình thực tế của doanh nghiệp mà Tòa án có thể quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp hoặc có thể
  • 19. 12 bỏ qua giai đoạn này nếu doanh nghiệp không còn khả năng phục hồi hoặc không cần thiết và chuyển sang giai đoạn thanh lý tài sản. Việc phân chia tài sản của doanh nghiệp theo thứ tự sau: phí phá sản; nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội; nợ không có bảo đảm. Sau khi phân chia, giá trị tài sản còn lại sẽ thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân; các thành viên; các cổ đông của công ty. Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản sau khi áp dụng đầy đủ hoặc một phần các thủ tục phá sản như nêu trên. Như vậy, thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp theo quyết định của Tòa án, giải thể là thủ tục hành chính do chính chủ doanh nghiệp tiến hành. Thời gian giải quyết phá sản dài hơn rất nhiều so với giải thể doanh nghiệp. Về hậu quả pháp lý và quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp khác Trong khi giải thể là sự chấm dứt hoàn toàn của một doanh nghiệp, phá sản đôi khi không làm chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp nếu sau khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, doanh nghiệp vẫn có thể phục hồi hoạt động kinh doanh. Về quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp khác, chủ doanh nghiệp bị giải thể có thể tiếp tục thành lập và quản lý một doanh nghiệp khác sau khi thực hiện xong những nghĩa vụ tài sản của mình. Ngược lại, cả chủ doanh nghiệp và người quản lý của doanh nghiệp bị phá sản đều bị pháp luật cấm thành lập và quản lý một doanh nghiệp mới trong thời hạn từ 1 đến 3 năm, trừ trường hợp phá sản do những trường hợp bất khả kháng, ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp; ví dụ: hỏa hoạn, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, bạo loạn, đình công, khủng hoảng kinh tế, chính sách pháp luật của nhà nước thay đổi hoặc nhà nước nơi doanh nghiệp hợp tác kinh doanh thay đổi chính sách của họ,… dẫn đến doanh nghiệp bị tổn thất nặng nề, không thể tiếp tục duy trì hoạt động và buộc tiến hành làm thủ tục phá sản.
  • 20. 13 Có thể nhận thấy rất rõ ràng, theo quy định của pháp luật hiện hành, giải thể hay phá sản thì đều dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh, chấm dứt sự tồn tại của Doanh nghiệp. Đồng nghĩa với việc kể từ thời điểm phá sản hay giải thể, doanh nghiệp sẽ bị thu hồi con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn giải thể hay tuyên bố phá sản thì đều phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản của mình. Có sự khác nhau cơ bản về lý do, thủ tục pháp lý, hậu quả, thái độ của nhà nước đối với các hoạt động giải thể và phá sản doanh nghiệp. Doanh nghiệp giải thể sẽ chấm dứt sự tồn tại vĩnh viễn. Tuy vậy, một doanh nghiệp bị phá sản có thể được mua lại (đổi chủ sở hữu) và vẫn có thể tiếp tục hoạt động. Chủ doanh nghiệp sau khi phá sản hầu như không có quyền gì liên quan đến tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài sản vẫn có thể chuyển sang một ngành nghề kinh doanh khác nếu có thể. Giám đốc doanh nghiệp giải thể có thể đứng ra thành lập, điều hành công ty mới. Giám đốc doanh nghiệp phá sản phải ngừng giữ chức giám đốc ở một doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất định. 1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài 1.2.1. Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên thế giới đã cho thấy rằng phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Điều này giải thích lý do vì sao phá sản là hiện tượng bình thường, phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Phá sản đã xuất hiện từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị
  • 21. 14 trường, các quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền tự do kinh doanh được nhà nước tôn trọng, đề cao, bảo vệ. Quyền tự do kinh doanh có nội hàm rất rộng, bao gồm các quyền như: tự do thành lập doanh nghiệp, quyết định quy mô kinh doanh, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, định đoạt các vấn đề phát sinh trong kinh doanh, thiết lập các quan hệ kinh tế, lựa chọn các cơ quan giải quyết tranh chấp, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật…Như vậy, tự do cạnh tranh như là một bộ phận cấu thành quan trọng của quyền tự do kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc chiến với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi cuộc chiến khác, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp cũng mang lại hậu quả nhất định và cũng không tránh khỏi có thể xảy ra trường hợp có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo điều kiện để doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm thấm, có trật tự và ít gây hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng và cho xã hội nói chung. Và vì có hiện tượng phá sản nên pháp luật về phá sản ra đời. Pháp luật về phá sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban hành, trong đó quy định về tình trạng phá sản, điều kiện áp dụng các thủ tục phá sản (thủ tục phục hồi, thanh lý), địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố tụng phá sản, trình tự tiến hành việc giải quyết phá sản, thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết một vụ phá sản cụ thể. 1.2.2. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) hay thủ
  • 22. 15 tục giải quyết một vụ kiện kinh tế (tố tụng kinh tế), thủ tục giải quyết một vụ phá sản nói chung (tố tụng phá sản) hay giải quyết một vụ phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài được coi là một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do tính chất đặc biệt này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài bao giờ cũng được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài được thể hiện ở những điểm sau đây: Thứ nhất, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là một thủ tục đòi nợ tập thể. Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể pháp luật có thể tham gia vào rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, và do đó, có thể trở thành chủ thể của nhiều quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau. Ví dụ, khi ký hợp đồng với doanh nghiệp khác và bị doanh nghiệp đó vi phạm hợp đồng thì doanh nghiệp bị hại có quyền làm đơn kiện ra Tòa án một cách độc lập, riêng lẻ để yêu cầu Tòa án can thiệp. Như vậy, đặc điểm nổi bật của tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế là ở chỗ trong tố tụng này, các chủ nợ thực hiện việc đòi nợ một cách độc lập, riêng lẻ, nói một cách nôm na, nợ của ai thì người đó kiện ra Tòa án mà đòi. Khác với thủ tục đòi nợ thông thường này, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là thủ tục mà ở đó, việc đòi nợ và thanh toán nợ được tiến hành một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ đều phải được tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất, gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Khi bị áp dụng thủ tục thanh lý thì toàn bộ tài sản của con nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả cho các chủ nợ theo một thứ tự ưu tiên nhất định đã được Luật Phá Sản quy định trước. Nếu tài sản của con nợ không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản còn lại của doanh nghiệp.
  • 23. 16 Thứ hai, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là thủ tục đòi nợ được tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ. Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường (đòi nợ thông qua việc khiếu kiện ra Tòa án) có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mắc nợ đã lâm vào một tình trạng tài chính bi đát, dường như không có lối thoát mà người ta thường gọi là tình trạng phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản có yếu tố nước ngoài là thủ tục pháp lý không dễ được xảy ra; nó chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức đòi nợ thông thường đã trở nên bất lực. Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự chấm dứt hoạt động của một thương nhân. Trong tố tụng dân sự hoặc kinh tế, sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ thông thường. Điều đáng lưu ý của các loại tố tụng thông thường này là ở chỗ, sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ thông thường. Điều đáng lưu ý của các loại tố tụng thông thường này là ở chỗ, sau khi trả nợ xong thì con nợ vẫn tồn tại và hoạt động một cách bình thường. Trong tố tụng phá sản thì tình hình lại khác. Cái khác biệt của thủ tục này so với tố tụng dân sự, kinh tế là ở chỗ, thông thường, để giúp các chủ nợ thu hồi được các món nợ của mình thì Tòa án phải ra những quyết định pháp lý đặc biệt như quyết định áp dụng thủ tục thanh lý (thực chất là quyết định nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp) để rồi nhân cơ hội đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Nói cách khác, đặc thù của thủ tục phá sản là ở chỗ, kết quả thục hiện thường dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của chính bản thân con nợ.
  • 24. 17 Thứ tư, thủ tục phá sản không chỉ thuần túy là một thủ tục đòi nợ mà còn là một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi. Như đã nói ở phần trên, mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ tục đòi nợ tập thể nhưng điều đó không có nghĩa là khi con nợ bị mở thủ tục phá sản thì ngay lập tức, tài sản của nó sẽ bị dùng để thanh toán cho các chủ nợ. Hiện nay, ngoài mục tiêu thanh lý, pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế giới còn đặt thêm một mục tiêu rất quan trọng nữa cho thủ tục phá sản, đó là việc giúp con nợ phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Mục tiêu này cần phải được đặt ra là vì Nhà nước nào cũng muốn tránh được càng nhiều càng tốt những hậu quả xấu do việc phá sản gây ra. Việc tuyên bố phá sản một doanh nghiệp sẽ không chỉ ảnh hưởng xấu đền quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu quả bất lợi cho xã hội nói chung. Đối với các chủ nợ, trong trường hợp con nợ gặp khó khăn, việc thanh lý ngay tài sản của con nợ để thu hồi nợ không phải bao giờ cũng là giải pháp tối ưu cho họ vì không phải doanh nghiệp nào lâm vào tình trạng phá sản cũng còn đủ tài sản để thanh toán hết các món nợ của mình. Vì vậy, sẽ là tốt hơn nếu con nợ được giúp đỡ để thoát khỏi tình trạng phá sản, tiếp tục hoạt động để có cơ hội tốt hơn cho việc trả nợ. Đối với người lao động, việc doanh nghiệp nơi họ đang làm việc bị phá sản sẽ dẫn tới việc hàng loạt người bị thất nghiệp và kéo theo đó là những hậu quả xấu về mặt xã hội như đói nghèo, tệ nạn xã hội, tội phạm…Đối với môi trường kinh doanh, việc phá sản của các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp lớn, có nhiều đối tác làm ăn hoặc hoạt động trong những ngành nghề quan trọng đối với quốc kế dân sinh rất dễ làm phát sinh tác động dây chuyền đến các lĩnh vực kinh tế khác cũng như đến hoạt động của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Vì vậy, việc tạo điều kiện phục hồi cho con nợ là một xu hướng ngày càng được khẳng định trong pháp luật phá sản hiện đại.
  • 25. 18 Trong thủ tục phá sản, con nợ được tòa án tạo điều kiện tối đa cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ thoát khỏi tình trạng phá sản là pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ để thông qua và nếu được thông qua thì về cơ bản, doanh nghiệp con nợ được khôi phục lại vị trí pháp lý ban đầu, tiếp tục sản xuất, kinh doanh một cách bình thường. Theo Luật phá sản của nhiều nước thì Tòa án chỉ ra quyết định áp dụng thủ tục thanh lý đối với những con nợ trong trường hợp đã có căn cứ rõ ràng chứng minh về việc con nợ đã không thể phục hồi hoặc con nợ đã không thành công trong việc thực hiện phương án phục hồi. Thứ năm, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp. So với tố tụng dân sự và kinh tế thì tố tụng phá sản phức tạp hơn nhiều. Tính phức tạp của thủ tục này thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Tòa án phải thụ lý và xử lý rất nhiều công việc khác nhau về tính chất chứ không chỉ đơn thuần là các công việc có tính chất tài sản như trong tố tụng dân sự và kinh tế thông thường. Tòa án không chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến việc xác định xem doanh nghiệp có mất khả năng thanh toán nợ hay không, nợ bao nhiêu, nợ ai… Ngoài ra, Tòa án còn phải giải quyết nhiều vấn đề khác nữa như: việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, việc quản lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ, việc thành lập và điều hành hoạt động của thiết chế quản lý và thanh lý tài sản, việc triệu tập và chủ trì hội nghị chủ nợ…Việc phải xử lý một lúc nhiều công việc phức tạp như vừa nêu trên đã làm cho tố tụng phá sản hoàn toàn khác với tố tụng dân sự, kinh tế thông thường không chỉ về quy mô mà còn cả về tính chất. Điều này lý giải tại sao tố tụng phá sản luôn luôn được điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật riêng và trở thành một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt.
  • 26. 19 1.3. Vai trò của pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài trong nền kinh tế thị trường 1.3.1. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là công cụ bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp chủ nợ Trong kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít doanh nghiệp nào tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên có quyền đòi nợ thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên, việc đòi nợ bằng con đường kiện tụng ra Tòa dân sự, Tòa kinh tế nhiều khi không thể giải quyết được một cách thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Vì vậy, bên cạnh tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế với tư cách là các thủ tục đòi nợ thông thường, Nhà nước phải thiết kế thêm một cơ chế đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó là thủ tục phá sản. Tính ưu việt của cơ chế đòi nợ thông qua thủ tục phá sản là ở chỗ, việc đòi nợ được đảm bảo bằng việc Tòa án có thể tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của con nợ và thông qua đó mà bán toàn bộ tài sản của nó để trả nợ cho các chủ nợ. Mặc dù ngày này, tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một số mục tiêu nữa, trong đó có mục tiêu giúp doanh nghiệp mắc nợ phục hồi (tức là bảo vệ cả lợi ích của con nợ) nhưng về cơ bản, tố tụng phá sản từ khi ra đời đến nay vẫn là loại tố tụng tư pháp được đặt ra nhằm trước hết và chủ yếu là để bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Việc ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ đã làm cho thủ tục phá sản trở thành một công cụ pháp lý có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh doanh. Từ khi có Luật Phá sản, các nhà kinh doanh sẽ yên tâm hơn vì các món nợ của họ đã có một cơ chế tốt hơn để được bảo vệ. Pháp luật Phá sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của Nhà
  • 27. 20 nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này được thể hiện qua hàng loạt các quy định pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản, quyền khiếu nại Danh sách chủ nợ, quyền có đại diện trong thiết chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản, quyền đề xuất phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ, quyền được khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản,… 1.3.2. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp con nợ, tạo cơ hội để những doanh nghiệp này rút khỏi thương trường một cách trật tự Khi mới xuất hiện, pháp luật phá sản không đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ. Lúc đó, người ta cho rằng, phá sản là một tội phạm và người gây ra sự phá sản là một phạm nhân, do đó, họ không những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều hình thức, kể cả việc tử hình. Ngày nay, quan niệm về việc kinh doanh đã được thay đổi, do đó, cách ứng xử của Nhà nước và pháp luật đối với con nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng đã được thiết kế theo hướng tích cực, có lợi cho con nợ. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với bất kỳ nhà kinh doanh nào. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá sản thì có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội mà trước hết là đối với người lao động và các chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà Nhà nước quan tâm giải quyết không phải là việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay và phân chia tài sản của nó cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này. Điều đó giải thích tại sao, pháp luật của đa số các nước đều quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lựa chọn, áp dụng.
  • 28. 21 Pháp luật phá sản Việt Nam cũng đã được xây dựng theo khuynh hướng này. Luật Phá sản năm 2014 hiệu lực từ 01/01/2015 đã không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cả doanh nghiệp mắc nợ và đặc biệt là đã không coi phá sản là một tội phạm như quan niệm của một số nước trên thế giới. Điều này có thể thấy qua việc pháp luật quy định hàng loạt những quyền cho doanh nghiệp mắc nợ trong quá trình giải quyết phá sản. Chẳng hạn, kể từ thời điểm Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, tất cả quyền đòi nợ đều được đình chỉ và giải quyết theo một thủ tục chung duy nhất do Tòa án tiến hành, đồng thời nghiêm cấm việc đòi nợ một cách riêng lẻ. Pháp luật phá sản của nhiều nước đã tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp mắc nợ khắc phục khó khăn về tài chính, thoát khỏi tình trạng phá sản để trở lại hoạt động bình thường mà không quy định bắt buộc Tòa án phải tuyên bố phá sản ngay khi có đơn yêu cầu. Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp mắc nợ cũng có quyền xây dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại sản xuất, kinh doanh, trình Hội nghị chủ nợ xem xét thông qua. Tòa án chỉ ra quyết định mở thủ tục thanh lý khi Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh, hay trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không thành công phương án tổ chức lại hoạt đông sản xuất, kinh doanh đã được Hội nghị chủ nợ thông qua. Ngoài ra, con nợ còn có quyền cử người đại diện tham gia Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản, quyền được khiếu nại danh sách chủ nợ, khiếu nại quyết định tuyên bố phá sản… Khi có quyết định mở thủ tục thanh lý, tài sản còn lại của doanh nghiệp sẽ được thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự nhất định; sau khi thanh toán, mọi khoản nợ của doanh nghiệp, cho dù chưa được thanh toán đầy đủ cũng được coi là đã thanh toán và các chủ nợ không có quyền đòi nợ nữa, trừ một vài ngoại lệ được quy định trong Luật Phá sản của từng nước.
  • 29. 22 Các quy định có nội dung tương tự cũng đã được Luật Phá sản năm 2014 ghi nhận đầy đủ và cụ thể hơn qua việc quy định thủ tục phục hồi bên cạnh thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp. 1.3.3. Pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài góp phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả Phá sản không phải là hiện tượng hoàn toàn có ý nghĩa tiêu cực. Xét trên phạm vi toàn cục của nền kinh tế thì việc phá sản và giải quyết phá sản là có ý nghĩa tích cực. Điều này được thể hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, phá sản và pháp luật phá sản là công cụ răn đe các nhà kinh doanh, buộc họ phải năng động, sáng tạo nhưng cũng phải thận trọng trong khi hành nghề. Một thái độ hành nghề, trong đó có sự kết hợp giữa tính năng động, sáng tạo và tính cẩn trọng là hết sức cần thiết vì nó giúp các nhà kinh doanh đưa ra được những quyết định hợp lý – tiền đề cho sự làm ăn có hiệu quả của từng doanh nghiệp. Sự làm ăn có hiệu quả của các doanh nghiệp riêng lẻ đương nhiên sẽ kéo theo sự làm ăn có hiệu quả của cả nền kinh tế nói chung. Thứ hai, pháp luật phá sản không chỉ là công cụ răn đe, buộc các doanh nghiệp phải luôn tự hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển mà còn là cơ sở pháp lý để xóa bỏ các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư. Thông qua thủ tục phá sản, những doanh nghiệp thua lỗ triền miên, nợ nần chồng chất như những “con bệnh” trong nền kinh tế đều phải được xử lý, đưa ra khỏi thương trường. Như vậy, thủ tục phá sản đã góp phần tạo ra môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh – một yếu tố không thể thiếu được cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
  • 30. 23 Chương 2 PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI – THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI (DNCYTNN) CỦA VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI 2.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài 2.1.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam Theo quy định tại Luật Phá Sản số 51/2014/QH13 ngày 19/06/2014 có hiệu lực từ 01/01/2015, thủ tục áp dụng phá sản có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc: Người tham gia thủ tục phá sản là người nước ngoài phải thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản của Việt Nam. Nói cách khác, dấu hiệu “người tham gia thủ tục phá sản là người nước ngoài” là căn cứ để xác định một vụ phá sản có yếu tố nước ngoài hay không? và xác định Luật áp dụng trong trường hợp này là Pháp luật về phá sản của Việt Nam. Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản có yếu tố nước ngoài, Tòa án nhân dân thực hiện ủy thác tư pháp theo hiệp định tương trợ tư pháp mà Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Thủ tục ủy thác tư pháp được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, pháp luật về tương trợ tư pháp. Tuy nhiên, thủ tục ủy thác tư pháp theo quy định tại Luật tương trợ Tư pháp năm 2007 còn quy định một cách chung chung, chưa được hướng dẫn thực hiện thống nhất. Hiện nay, các quy định về việc thực hiện ủy thác tư pháp chưa mang tính hệ thống, chưa được sự phối hợp của các cơ quan
  • 31. 24 liên quan. Các văn bản luật này chỉ dừng lại là những điều luật khung và chỉ đưa ra các nguyên tắc về ủy thác tư pháp. Bên cạnh đó, một trong những nguyên tắc quan trọng của ủy thác tư pháp là nếu Việt Nam và quốc gia tiếp nhận ủy thác tư pháp đã ký hiệp định tương trợ tư pháp thì việc ủy thác tư pháp phải thực hiện theo điều ước đã ký. Nhưng hiện nay, ngành tòa án không cập nhật được danh sách các quốc gia mà Việt nam đã ký hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự. Đồng thời, tòa cũng không biết về nội dung của những hiệp định tương trợ đó. Mặc dù việc ủy thác tư pháp đã được thỏa thuận nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Thứ nhất, với việc ủy thác tư pháp để thu thập tài liệu chứng cứ, đối với những cá nhân, tổ chức nước ngoài thì hồ sơ ủy thác tư pháp gửi cho tòa án có thẩm quyền của nước tiếp nhận ủy thác thông qua Bộ Tư Pháp Việt Nam. Còn những cá nhân, tổ chức Việt Nam thì hồ sơ ủy thác tư pháp gửi cho Đại sứ quán Việt Nam ở nước tiếp nhận ủy thác thông qua Bộ Tư Pháp Việt Nam. Theo Luật Tương Trợ Tư Pháp, hồ sơ ủy thác gửi cho đương sự ở nước ngoài hai lần. Đến lần hai mà vẫn không có kết quả (tổng cộng hết năm tháng) thì tòa sẽ xử. Thứ hai, thủ tục ủy thác tư pháp tống đạt bản án hay quyết định thì sau khi gửi đi, nếu tòa không nhận được kết quả và không có kháng cáo hay kháng nghị gì thì bản án hay quyết định sơ thẩm đó sẽ có hiệu lực pháp luật sau ba tháng kể từ ngày gửi đi. Trên thực tế, hầu hết các trường hợp phải ủy thác tòa đều không nhận được kết quả. Tòa không nhận được trả lời của đương sự liên quan, không nhận được hồi âm của Bộ Tư Pháp, của đại sứ quán Việt Nam và của Tòa án có thẩm quyền của nước ngoài. Do vậy, theo thỏa thuận, tòa đã đem ra xử. Mặc dù trước đây, Tòa án Nhân dân tối cao Việt Nam đồng tình với cách xử
  • 32. 25 lý như trên nhưng kể từ thời điểm tháng 9 năm 2009, Tòa cấp Phúc thẩm lại không chấp thuận dẫn đến hàng loạt án liên quan đều bị hủy vì vi phạm tố tụng thực hiện việc ủy thác tư pháp không hợp lệ. Theo quy trình ủy thác, đầu tiên, tòa án Việt Nam phải chuyển hồ sơ qua Bộ Tư Pháp. Bộ này chuyển đến Bộ Ngoại Giao, Bộ Ngoại Giao chuyển đến đại sứ quán Việt Nam tại nước sở tại. Từ đây hồ sơ vụ án mới được chuyển đến các cơ quan tư pháp nước bạn để nhờ thu thập, xác minh chứng cứ. Nếu quá trình xác minh thuận lợi, hồ sơ sẽ lần lượt ngược hành trình trên quay về tòa án Việt Nam. Ủy thác thành công là vậy, còn nếu thất bại hoặc bị ách lại ở một cơ quan nào đó thì tòa chỉ có cách duy nhất ngồi cơ.Và chưa kể đến việc các cơ quan ở nước bạn không nhiệt tình, không hào hứng giúp đỡ thì coi như án chôn chân tại chỗ. Như vậy là trong quá trình thực hiện thủ tục tư pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc,Tòa án Nhân dân tối cao cần phối hợp với các cơ quan liên quan như Bộ Tư Pháp, Bộ Ngoại giao…để ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn việc thực hiện ủy thác tư pháp giải quyết các vụ việc theo từng giai đoạn, từ giai đoạn thụ lý, thu thập tài liệu, chứng cứ, tổ chức hòa giải cho đến khi đưa vụ việc ra giải quyết. Và cả việc thực hiện thủ tục tống đạt bản án, quyết định cho các đương sự ở nước ngoài nhằm xác định thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong trường hợp các đương sự không có kháng cáo, viện Kiểm sát không kháng nghị mà việc ủy thác tư pháp tống đạt bản án, quyết định cho đương sự ở nước ngoài không nhận được hồi âm… Việc công nhận và cho thi hành quyết định giải quyết phá sản của Tòa án nước ngoài được thực hiện theo quy định của Hiệp định tương trợ tư pháp mà Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và quy định khác của pháp luật về tương trợ tư pháp.
  • 33. 26 Điều 14 Luật Tương trợ tư pháp quy định sau khi nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp, Bộ Tư pháp phải vào sổ, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài là thành viên hoặc thông qua kênh ngoại giao. Nhưng hiện nay, số nước mà Việt nam có ký hiệp định Tương trợ tư pháp chỉ là 14 nước. Trong khi một số nước có công dân Việt nam sinh sống đông thì chưa ký Hiệp định Tương Trợ Tư Pháp với Việt Nam như Mỹ, Úc, Canada, Đài Loan. Khái niệm về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài đã hình thành từ lâu trong tư pháp quốc tế, có thể hiểu đó là một thủ tục tố tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi hành án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của nước mình. Sau khi bản án, quyết định của nước ngoài đó đã được xem xét và công nhận tính hiệu lực, nó sẽ được đảm bảo cưỡng chế thi hành trên lãnh thổ của nước đã công nhận. Thủ tục đặc biệt này nhằm đảm bảo giải quyết các xung đột về quyền tài phán và đảm bảo tôn trọng quyền tài phán của mỗi quốc gia. Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài và Quyết định của Trọng tài nước ngoài có một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo khả năng thi hành các bản án, quyết định đã được cơ quan tài phán nước ngoài tuyên. Từ đó, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án cũng như tránh tình trạng về cùng một vụ việc nhưng lại bị xét xử 2 lần. Cùng với xu thế hội nhập, giao lưu kinh tế văn hóa xã hội giữa các quốc gia, số lượng các bản án, quyết định được tuyên ở một nước nhưng cần được thi hành ở một nước khác ngày càng tăng, dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia, số lượng các bản án, quyết định được tuyên ở một nước nhưng cần
  • 34. 27 được thi hành ở một nước khác ngày càng tăng, dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các nước để thỏa thuận công nhận và cho thi hành của nhau các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết với 14 nước Hiệp định song phương về tương trợ tư pháp, bao gồm: Liên bang Nga, Séc, Xlôvakia, Ba Lan, Hungari, Bungari, CuBa, CHDCND Lào, Trung Quốc, CHDCND Triều Tiên, Ucraina, Belarut, Pháp, Mông Cổ. Tất cả các Hiệp định song phương này đều có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Chế định công nhận và thi hành bản án, quyết định của nước ngoài trong các Hiệp định tương trợ tư pháp thường bao gồm các nội dung: phạm vi công nhận và thi hành; về điều kiện công nhận và thi hành; về nội dung đơn yêu cầu công nhận và thi hành; thủ tục công nhận và thi hành; việc chuyển tiền và tài sản để đảm bảo thi hành quyết định. 2.1.1.1. Phạm vi công nhận và thi hành Các bản án, quyết định của nước ngoài được công nhận và cho thi hành bao gồm: bản án, quyết định dân sự; phần dân sự trong bản án hình sự; các quyết định của Trọng tài thương mại. Đặc biệt trong một số các Hiệp định tương trợ tư pháp ký với các nước còn phân biệt các bản án, quyết định dân sự có tính chất tài sản và bản án, quyết định không mang tính chất tài sản trong việc công nhận và cho thi hành. Điều 51 Hiệp định với Nga quy định đối với các bản án, quyết định dân sự không mang tính tài sản của Bên ký kết này được công nhận trên lãnh thổ của Bên ký kết kia mà không phải qua một thủ tục đặc biệt nào. Như vậy, ở đây có thể hiểu việc Toà án xem xét công nhận và cho thi hành chủ yếu đặt ra đối với các bản án, quyết định có tính chất tài sản và trong tương lai sẽ phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành.
  • 35. 28 2.1.1.2. Điều kiện công nhận và thi hành Các Hiệp định đều quy định rất cụ thể các điều kiện đặt ra đối với một bản án, quyết định để có thể được công nhận và cho thi hành. Tựu chung lại có 3 điều kiện chính: Thứ nhất, bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp luật trên lãnh thổ nước tuyên bản án, quyết định đó. Thứ hai, bản án, quyết định được cơ quan có thẩm quyền tuyên. Thứ ba, các thủ tục tố tụng (liên quan đến luật hình thức) phải được đảm bảo. 2.1.1.3. Đơn yêu cầu Việc công nhận và cho thi hành chỉ đặt ra khi có yêu cầu. Các nước sẽ chỉ đặt ra việc xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài tại nước mình nếu có yêu cầu của đương sự có liên quan hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước đã ra bản án, quyết định đó. Theo các Hiệp định tương trợ tư pháp, đơn yêu cầu có thể gửi qua hai kênh: - Qua kênh ngoại giao hoặc qua cơ quan tư pháp có thẩm quyền: theo đó, các cơ quan tư pháp đã tuyên bản án, quyết định có thể trực tiếp hoặc thông qua cơ quan trung ương chuyển đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành cho cơ quan có thẩm quyền của Bên ký kết kia. (Hiệp định tương trợ tư pháp với Hungary, Bungary...). - Các đương sự trực tiếp gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành. 2.1.1.4. Thủ tục xem xét đơn công nhận và thi hành Tất cả các Hiệp định đều quy định Toà án là cơ quan xem xét và ra quyết định công nhận và thi hành bản án, quyết định của nước ngoài. Ở đây, Toà án không xem xét lại nội dung bản án, quyết định. Thẩm quyền tài phán của Toà án, trọng tài đã tuyên bản án, quyết định được tôn trọng và bảo đảm. Thủ tục công nhận chỉ nhằm xem xét tính khánh quan của quá trình ra bản án, quyết định đó. 2.1.1.5. Các vấn đề về thi hành bản án, quyết định Các Hiệp định tương trợ tư pháp chủ yếu chỉ đề cập đến trình tự, thủ
  • 36. 29 tục, điều kiện công nhận và thi hành bản án, quyết định của các Bên ký kết. Tuy vậy, một phần quan trọng không kém là khi đã được công nhận và cho thi hành thì cơ chế để thi hành như thế nào? Hầu hết các Hiệp định chỉ quy định việc chuyển tiền và tài sản thi hành bản án, quyết định ra nước ngoài. Các nội dung liên quan đến việc cưỡng chế thi hành bản án, quyết định được hiểu là do pháp luật của nước thi hành bản án, quyết định đó quy định. Công ước về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài ngày 10/6/1958 (Công ước NewYork năm 1958): Việc công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài hiện nay được hầu hết các nước áp dụng theo Công ước NewYork năm 1958. Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà nước ta ký thời gian gần đây (Hiệp định với Nga, Trung Quốc, Pháp) cũng quy định đối với việc công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài thực hiện theo các quy định của Công ước này. Nội dung Công ước New York quy định các nước thành viên phải công nhận các phán quyết Trọng tài được đưa ra ngoài lãnh thổ của họ và các phán quyết không được coi là phán quyết trong nước của các nước thành viên. Các phán quyết Trọng tài nước ngoài sẽ được thi hành như những quyết định của Toà án địa phương và hệ thống các cơ quan tư pháp của Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành phán quyết. Khi tham gia Công ước, Nhà nước ta đã tuyên bố 3 điểm bảo lưu: 1/ Chỉ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các quốc gia thành viên của Công ước; đối với quyết định của Trọng tài nước ngoài tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại. 2/ Chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại.
  • 37. 30 3/ Mọi sự giải thích Công ước trước Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Vấn đề công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài hiện đã được điều chỉnh trong Bộ Luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004. Bộ luật đã luật hoá hai Pháp lệnh trước đây điều chỉnh về vấn đề này là Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 17/4/1993 và Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14/9/1995. Phần thứ sáu của Bộ luật tố tụng dân sự “Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài” với 31 điều (từ Điều 342 đến Điều 373) quy định một cách chi tiết không chỉ về thủ tục, trình tự xét công nhận và cho thi hành mà cả các quy định mang tính nguyên tắc cơ bản của việc công nhận và cho thi hành. Về nguyên tắc công nhận và cho thi hành. Theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì Toà án Việt Nam xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản: - Thứ nhất, dựa trên cơ sở điều ước quốc tế: a) Bản án, quyết định dân sự của Toà án của nước mà Việt Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này; Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trong trường hợp quyết định được tuyên tại nước hoặc của Trọng tài của nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề này [18, Điều 343, Khoản 1,2]
  • 38. 31 - Thứ hai, dựa trên nguyên tắc có đi có lại: Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng có thể được Toà án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại mà không đòi hỏi Việt Nam và nước đó phải ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó [18, Điều 343, Khoản 3] Đây là nguyên tắc mới đối với việc công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Toà án nước ngoài. Trước đây, nguyên tắc có đi có lại mới chỉ đặt ra cho việc công nhận và cho thi hành các quyết định dân sự của Trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tiễn còn vướng mắc do pháp luật chưa định ra được thẩm quyền, trình tự cũng như thủ tục cho việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Về thủ tục và trình tự xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của Trọng tài nước ngoài. * Giai đoạn nhận đơn, thụ lý đơn, yêu cầu giải thích và chuẩn bị việc xét đơn yêu cầu: Theo quy định tại Điều 350 BLTTDS thì Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối trong việc tiếp nhận các hồ sơ giấy tờ yêu cầu công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của trọng tài nước ngoài sau đó kiểm tra tính hợp pháp, hợp thức của các giấy tờ, hồ sơ, chuyển hồ sơ đến Toà án có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết đơn yêu cầu, đơn kháng cáo. Việc nhận đơn chỉ được tiến hành trong trường hợp người phải thi hành đang cư trú hoặc làm việc tại Việt Nam, hay người đó có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam vào thời điểm gửi đơn. Về thẩm quyền xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài, theo quy định tại Điều 352 BLTTDS là Toà án nhân dân tỉnh, thành
  • 39. 32 phố trực thuộc trung ương nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận đơn yêu cầu và các giấy tờ hợp lệ kèm theo, Bộ Tư pháp phải chuyển đơn cho Toà án có thẩm quyền. Trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành, nếu Toà án thấy có vấn đề gì chưa rõ trong bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của Trọng tài nước ngoài, thì Toà án có quyền yêu cầu Toà án, trọng tài đã ra bản án, quyết định đó giải thích. Sau 4 tháng kể từ ngày thụ lý, Toà án phải ra quyết định mở phiên toà xét đơn yêu cầu nếu không có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ. Trong giai đoạn này ngoài việc xem xét, nghiên cứu hồ sơ vụ việc, Toà án còn phải tiến hành một số công việc khác như: xác minh về nơi cư trú của người phải thi hành, tài sản liên quan đến việc thi hành. * Phiên toà xét đơn: Theo quy định tại Điều 355 BLTTDS, thì phiên toà xét đơn yêu cầu bao gồm những người sau đây: + Việc xét đơn yêu cầu do một Hội đồng gồm ba thẩm phán tiến hành, trong đó có một thẩm phán do chánh án chỉ định làm chủ toạ. + Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà. Trường hợp kiểm sát viên vắng mặt, thì phải hoãn phiên toà. + Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của người có nghĩa vụ phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó. Những người này được triệu tập đến phiên toà theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau khi xem xét đơn và các giấy tờ kèm theo, nghe ý kiến của người triệu tập, của kiểm sát viên, Hội đồng xét đơn yêu cầu thảo luận và quyết định (theo đa số) công nhận và cho thi hành hoặc quyết định không công nhận bản án, quyết định của nước ngoài. Sau phiên toà sơ thẩm, quyền kháng cáo của đương sự được đảm bảo theo quy định của pháp luật Việt Nam.
  • 40. 33 Các đơn kháng cáo, kháng nghị sẽ được Toà án nhân dân tối cao xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Điểm đặc biệt lưu ý là theo quy định tại Khoản 4 Điều 355 BTTDS là khi xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án, quyết định của Trọng tài nước ngoài, Toà án Việt Nam không được xét xử lại vụ kiện mà chỉ xem xét xem các thủ tục về mặt tố tụng của việc tuyên bản án,quyết định đó có đảm bảo không (chỉ xem xét các quy định của luật hình thức mà không xem xét các quy định của luật nội dung). Hiện nay, khi xét đơn yêu cầu ở một số vụ việc xem xét công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài, một số Hội đồng xét đơn yêu cầu đã xem xét luôn lại nội dung vụ kiện đó. Lỗi thường hay gặp phải là Hội đồng xét đơn yêu cầu so sánh việc áp dụng luật của nước ngoài với pháp luật trong nước, để xem lại nội dung vụ kiện có đúng với pháp luật của Việt Nam hay không, sau đó mới ra quyết định công nhận và cho thi hành hay không công nhận. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của nước ngoài theo pháp luật hiện này cũng còn lỏng lẻo. Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối, trực tiếp tiếp nhận hồ sơ từ đương sự, thu lệ phí và có trách nhiệm như là "cầu nối" giữa các cơ quan có thẩm quyền trong nước với cá nhân, tổ chức yêu cầu thi hành án (phần lớn là ở nước ngoài). Tuy vậy, khi các Toà án tiến hành thụ lý đơn cũng như trong quá trình xét xử, có một thực tế là các Toà án hoàn toàn không có thông báo cũng như báo cáo Bộ Tư pháp về các hoạt động của mình, dẫn đến việc Bộ Tư pháp hoàn toàn bị động trước các vấn đề mà cá nhân, tổ chức nước ngoài hỏi hoặc yêu cầu. Về hướng dẫn giải quyết các vụ việc này, Toà án nhân dân tối cao hiện nay cũng chưa quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng mỗi toà án giải quyết theo một kiểu, không nhất quán và gây tâm lý không tốt cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
  • 41. 34 2.1.2. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại một số quốc gia khác Thẩm quyền của Tòa án của mỗi quốc gia trong việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp được xác định theo 2 cơ chế: cơ chế thẩm quyền trực tiếp (Tòa án trực tiếp thụ lý đơn giải quyết vụ phá sản) và cơ chế thẩm quyền gián tiếp (thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của Tòa án nước ngoài. 2.1.2.1. Mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thẩm quyền trực tiếp Thẩm quyền trực tiếp của Tòa án trong việc quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp được xác định theo 2 loại tiêu chí. Theo quan điểm của pháp luật quốc tế, đặc biệt là theo tập quán quốc tế, loại tiêu chí thứ nhất được coi là tiêu chí cơ bản và không phải bàn cãi về tính phổ biến của nó. Ngoài ra còn có một số tiêu chí phụ và còn nhiều vấn đề cần làm rõ. a) Tiêu chí cơ bản: Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp Thủ tục giải quyết phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu được xây dựng dựa trên tiêu chí Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp. Thực vậy, dường như trong mọi trường hợp, thủ tục phá sản đều có thể mở tại nước có trụ sở chính của doanh nghiệp, tức là tại nơi doanh nghiệp mắc nợ thực sự quản lý lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, do đó doanh nghiệp mắc nợ có thể đưa ra được những chứng cứ về những lợi nhuận đó. Tiêu chí này được quy định trong tư pháp quốc tế của nước Cộng Hòa Pháp để xác định thẩm quyền của tòa án Pháp đối với việc mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp cả đối với thủ tục thuần túy trong nước và thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại điều 1 khoản 1 Nghị định ngày 27/12/1980: “Trên phương diện lãnh thổ, tòa án có
  • 42. 35 thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp là tòa án nơi doanh nghiệp mắc nợ có trụ sở chính”. Do đó, nếu không trái với trường hợp quy định tại phần b sau đây thì chúng ta có thể suy ra rằng nếu doanh nghiệp mắc nợ có trụ sở chính tại nước Pháp thì tòa án Pháp có thẩm quyền mở thủ tục phục hồi hoặc thanh lý đối với doanh nghiệp mắc nợ. Tiêu chí này cũng được quy định trong Nghị định số 1346/2000 dưới một hình thức khác. Điều 3 Nghị định này quy định: “Tòa án của nước thành viên có thẩm quyền mở thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán là tòa án nơi tập trung những lợi ích chính của doanh nghiệp mắc nợ”. Cũng theo điều khoản này, nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi tập trung các lợi ích chính của công ty hoặc pháp nhân được xác định theo điều lệ doanh nghiệp. Điều này cũng được công nhận trong án lệ của Pháp. Tuy nhiên, nơi đặt trụ sở hoặc nơi tập trung các lợi ích chính xác định theo điều lệ chỉ là một suy đoán đơn giản và có thể bị phản bác nếu có chứng cứ ngược lại chứng minh rằng trụ sở được quy định trong điều lệ là không có thật và “tất cả hoặc hầu như tất cả các hoạt động của công ty đều thực hiện ở một nơi khác” (theo một bản án của tòa án Tư pháp tối cao). Chúng ta cũng thường gặp khó khăn khi xác định trụ sở chính thực tế của nhóm công ty bởi lẽ trên phương diện pháp lý, các công ty con trong tập đoàn là những pháp nhân hoàn toàn độc lập quan hệ với nhau thông qua các mối quan hệ về tiền vốn. Tuy nhiên, do tất các công ty con nằm dưới sự quản lý của công ty mẹ cho nên chỉ có trụ sở chính của công ty mẹ được coi là trụ sở chính thực tế. Điều này còn gây nhiều tranh cãi. b) Các tiêu chí phụ để xác định thẩm quyền trực tiếp Trong số các tiêu chí phụ để xác định thẩm quyền trực tiếp được nêu ra sau đây, một số tiêu chí có thể được chấp nhận, một số khác thì ít được chấp nhận hơn. Theo quy định tại điều 1, khoản 1, Nghị định ngày 27/132/1985 (đã đề
  • 43. 36 cập ở phần trên) cho phép mở thủ tục phá sản trên lãnh thổ Pháp, nếu lãnh thổ Pháp là nơi “tập trung các lợi ích chủ yếu của doanh nghiệp mắc nợ”. Nếu đọc sơ qua thì có thể lầm tưởng rằng quy định này giống với quy định trong Nghị định số 1346/2000 nhưng thực chất đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Trong Nghị định của Liên minh Châu Âu đề cập đến nơi tập trung các lợi ích chính, tức là trụ sở chính trong khi đó theo Nghị định ngày 27/12/1985 thị nơi tập trung các lợi ích chủ yếu tương ứng với cơ sở chính đặt tại Pháp. Ví dụ, doanh nghiệp không có trụ sở chính ở Pháp mà chỉ đặt một cơ sở thứ hai ở đó. Về mặt pháp lý, cơ sở thứ hai này khá độc lập, có ban lãnh đạo và một đội ngũ nhân viên cho phép nó có thể tiến hành đàm phán với các bên thứ ba. Theo quan điểm cho rằng thủ tục phá sản doanh nghiệp mang tính lãnh thổ thì có thể mở thủ tục phá sản tại nơi doanh nghiệp có cơ sở thứ hai nếu việc này nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ lợi ích của quốc gia hoặc theo quan điểm hiện đại hơn, để đơn giản hóa thủ tục thanh lý các tài sản nằm tại nhiều nước khác nhau. Với mục đích đó, Nghị định 1346/2000 (điều 3.2 và các điều tiếp theo) quy định việc mở các thủ tục, còn gọi là các thủ tục phụ hoặc các thủ tục có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ tại các nước mà doanh nghiệp mắc nợ có cơ sở thứ hai, tức là tại các nước khác ngoài nước nơi tập trung các lợi ích chính hoặc nơi có trụ sở chính. Trong tình hình phát triển mạnh mẽ hiện nay, pháp luật Pháp còn chấp nhận trường hợp mở thủ tục phá sản trong phạm vi lãnh thổ Pháp nếu doanh nghiệp mắc nợ chỉ có tài sản riêng lẻ ở Pháp hoặc nếu doanh nghiệp mắc nợ có quan hệ hợp đồng ở Pháp, thậm chí nếu các Bên (doanh nghiệp mắc nợ và chủ nợ) có quốc tịch Pháp. Trường hợp cuối cùng được chấp nhận trên cơ sở áp dụng điều 14 và 15 Bộ Luật Dân sự Pháp. Hai điều luật này tạo ra đặc quyền về thẩm quyền xét xử. Các điều kiện cho phép mở thủ tục phụ giải quyết phá sản quy định tại
  • 44. 37 Nghị định 1346/2000 do đó các trường hợp này không đưa vào phạm vi áp dụng của Nghị định nêu trên. Hơn nữa, các điều kiện này cũng không phù hợp với cơ chế mở thủ tục giải quyết phá sản thứ hai: công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản do Tòa án nước ngoài tuyên. 2.1.2.2. Mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thẩm quyền gián tiếp: việc công nhận và cho thi hành quyết định của tòa án nước ngoài mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài Theo quan điểm cho rằng thủ tục phá sản có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu, khi thủ tục phá sản được mở ở một nước thì liệu thủ tục đó có thể có hiệu lực đối với tất cả các nước khác thông qua cơ chế công nhận và cho thi hành quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản đó? Quy định trong pháp luật của Pháp mới đây đã chấp nhận quan niệm về hiệu lực toàn cầu của quyết định mở thủ tục phá sản trong bản án Banque Worms nổi tiếng ngày 19 tháng 11 năm 2002. Lần đầu tiên, bản án này tuyên như sau: Căn cứ nguyên tắc hiệu lực toàn cầu của thủ tục giải quyết phá sản… Nếu không trái với các điều ước quốc tế hoặc các văn bản của Liên minh Châu Âu và phù hợp với trật tự pháp luật của các nước khác thì thủ tục phục hồi doanh nghiệp được mở tại Pháp có hiệu lực ở tất cả những nơi mà doanh nghiệp mắc nợ có tài sản… Phản ứng của các cơ quan chức năng nước ngoài về vấn đề này là điều tất yếu. họ có thể không thừa nhận hiệu lực của quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án Pháp trên lãnh thổ nước mình ngay cả khi trụ sở chính của doanh nghiệp đặt tại Pháp. Trong khi đó, về lý thuyết quyết định mở thủ tục phá sản đó có hiệu lực trên phạm vi toàn cầu. Ngược lại, án lệ của Pháp luôn luôn thừa nhận hiệu lực tại Pháp của các quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản của Tòa nước ngoài thông qua thủ tục công nhận và thi hành quyết định, bản