SlideShare a Scribd company logo
1 of 161
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
YÊN NGỌC TRUNG
TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
YÊN NGỌC TRUNG
TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG
2. PGS.TS. LÊ VĂN TÍCH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Yên Ngọc Trung
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Nghiên cứu triết lý 6
1.2. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh 11
1.3. Nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh 16
1.4. Kết quả nghiên cứu và vấn đề đặt ra cho luận án 30
Chương 2: KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH, BẢN CHẤT TRIẾT LÝ
HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 33
2.1. Một số khái niệm 33
2.2. Cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh 43
2.3. Bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh 67
Chương 3: NỘI DUNG CƠ BẢN TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 78
3.1. Triết lý về mục tiêu hành động 78
3.2. Triết lý về động lực hành động 88
3.3. Triết lý về phương pháp hành động 102
Chương 4: GIÁ TRỊ DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG
HỒ CHÍ MINH 123
4.1. Giá trị đối với sự phát triển dân tộc 123
4.2. Giá trị thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh 137
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Bằng hành động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, trải qua một cuộc đời oanh
liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng
và đẹp đẽ, Hồ Chí Minh đã hình thành triết lý hành động của mình từ rất sớm, trở
thành chủ đề nhất quán xuyên suốt đến tận cuối đời. Cùng với tư tưởng, đạo đức,
phong cách, phương pháp, triết lý hành động Hồ Chí Minh được thực hiện trên
thực tế đã đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi đã đưa
nhân dân một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đô hộ trở thành người
làm chủ, đất nước được độc lập, hòa bình, nhân dân được tự do, hạnh phúc.
Triết lý hành động Hồ Chí Minh hình thành trước nhu cầu lựa chọn con
đường cách mạng để giải phóng và phát triển dân tộc. Đi ra thế giới, đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Triết lý hành động Hồ Chí
Minh chỉ ra độc lập dân tộc, quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm
phạm và tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu hành động. Nội dung mục
tiêu hành động Hồ Chí Minh là những giá trị bất biến, mục tiêu bất biến được thể
hiện bằng những hành động phong phú, mạnh mẽ của Hồ Chí Minh trong quá
trình lãnh đạo, thực hiện hóa các mục tiêu cách mạng. Triết lý về mục tiêu hành
động Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị, góp phần định hướng hành động cho
Đảng, nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Qua lăng kính chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ chọn lọc
được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây mà còn nhận
thấy và phát triển các động lực cho hành động cách mạng. Triết lý về sức mạnh
của quần chúng, vai trò của quần chúng nhân dân được quán triệt trong hành
động. Dân là điểm mấu chốt, cốt lõi của mọi hành động, triết lý hành động Hồ
Chí Minh. Lòng yêu nước và tinh thần yêu nước của nhân dân trong truyền
thống dân tộc được Hồ Chí Minh xác định như các thứ của quý, Người bằng
hành động cụ thể, thiết thực khơi dậy và phát huy các thứ của quý đó phục vụ
2
cho sự nghiệp cách mạng. Lòng yêu nước được phát huy bằng thi đua là yêu
nước, yêu nước phải thi đua, cùng tinh thần đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết dân
tộc và quốc tế, tạo ra động lực hành động mạnh mẽ quyết định cho những thắng
lợi cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng, phương pháp dân chủ, phong cách
dân chủ được thực hành đã trở thành cái chìa khóa vạn năng để có thể giải quyết
mọi khó khăn. Triết lý về động lực hành động thể hiện trong triết lý hành động
Hồ Chí Minh có cơ sở lý luận khoa học, có kết quả thực tiễn phong phú khẳng
định, đã và đang là những nội dung định hướng cho hành động của Đảng trong
hoạch định chủ trương, xây dựng chính sách nhằm phát huy tốt nhất các động
lực cho sự nghiệp cách mạng trong điều kiện mới của đất nước.
Triết lý về phương pháp hành động Hồ Chí Minh thể hiện trong sự nghiệp
cách mạng phong phú và sâu sắc. Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương
pháp hành động, chỉ đạo hành động số một của Hồ Chí Minh. Quán triệt triết lý
này trong hành động đảm bảo kiên định mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do,
hạnh phúc của nhân dân, đồng thời thể hiện tính linh hoạt, sáng tạo trong phương
pháp hành động cụ thể nhằm hoàn thành các mục tiêu mà cách mạng đặt ra.
Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, nói không đi đôi với làm,
nói một đằng, làm một nẻo,... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, các triết lý
về phương pháp hành động miệng nói tay làm, nêu gương trong hành động, đảng
viên đi trước làng nước theo sau, đảng viên là đầu tàu gương mẫu trong triết lý
hành động Hồ Chí Minh càng khẳng định giá trị mạnh mẽ của việc vận dụng, thực
hành triết lý. Triết lý hành động Hồ Chí Minh về nói đi đôi với làm, nêu gương,
làm gương trong hành động là một giá trị cần được phát triển, mở rộng, trở thành
các tiêu chí quan trọng trong đánh giá phẩm chất đạo đức, tư tưởng của cán bộ,
đảng viên hiện nay.
Với những kết quả đạt được trong thực tế hành động cách mạng, triết lý
hành động Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển triết lý hành động có trong chủ
nghĩa Mác - Lênin, phát triển triết lý hành động của dân tộc lên tầm cao mới. Nội
3
dung triết lý định hướng hành động cho Đảng, định hướng xây dựng phẩm chất,
chuẩn mực hành động, chiến đấu, lao động học tập cho cán bộ, đảng viên. Đồng
thời những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của triết lý hành động Hồ Chí
Minh đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa trên
thế giới. Thực hiện triết lý hành động của mình, Hồ Chí Minh cho thấy tấm
gương người chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thủy chung, khẳng định triết
lý hành động nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Triết lý hành động Hồ Chí Minh, với những nội dung khoa học và sâu sắc,
các giá trị của nó làm phong phú di sản Hồ Chí Minh, tài sản tinh thần vô cùng
to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, giá trị lý luận và thực tiễn của triết lý
có ý nghĩa đối với sự phát triển của dân tộc và thời đại. Vì những lý do đó tôi
chọn Triết lý hành động Hồ Chí Minh làm luận án tiến sĩ với mong muốn được
hiểu biết và góp phần làm sáng tỏ kho tàng di sản Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án nghiên cứu làm rõ về khái niệm, cơ sở hình thành, bản chất, nội
dung cơ bản; giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra
những kết quả và xác định những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
- Xác định khái niệm; cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh.
- Phân tích nội dung, xác định bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh.
- Đánh giá giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Triết lý hành động Hồ Chí Minh bao gồm các khía cạnh cơ sở hình thành,
nội dung, bản chất, giá trị dân tộc và thời đại của triết lý.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ Hồ Chí Minh học, về tư liệu, luận án phân tích hành động,
việc làm, bài viết, bài nói, chỉ đạo thực tiễn của Hồ Chí Minh; về nội dung là
những quan điểm, hành động thực tiễn; về thời gian chủ yếu từ sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến năm 1969, để làm rõ nội dung, giá trị của triết lý.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
con đường, mục tiêu, động lực, phương pháp hành động cách mạng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
các phương pháp cụ thể như: phương pháp logic và phương pháp lịch sử trong
phân tích, đánh giá các sự kiện, hành động của Hồ Chí Minh; sử dụng phương
pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa để làm rõ triết lý hành động Hồ Chí Minh
biểu đạt trên các lĩnh vực, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể khác
như phân tích, so sánh, tổng hợp,… để hoàn thành mục đích luận án đặt ra.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài góp phần làm rõ khái niệm, xác định bản chất triết lý hành động
Hồ Chí Minh.
- Đề tài làm rõ cơ sở hình thành, nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh.
- Xác định giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh;
góp phần khẳng định tính toàn diện của di sản Hồ Chí Minh.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần là cơ sở khoa học định
hướng hành động cho các chủ thể lãnh đạo tiến trình cách mạng, đảm bảo sự
thống nhất, xuyên suốt trong mọi hành động. Định hướng xây dựng mục tiêu
hành động, lựa chọn phương pháp hành động, xác định động lực và phát huy
động lực cách mạng. Triết lý góp phần làm căn cứ khoa học trong xây dựng,
5
cũng như đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên. Góp phần truyền cảm hứng hành
động đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, hình thành nên một đội ngũ cán bộ,
đảng viên có tâm, có đức, có tài trong xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án góp phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị nói chung, Hồ
Chí Minh học nói riêng và là cơ sở lý luận để khai thác tốt hơn di sản Hồ Chí
Minh vào quá trình phát triển xã hội.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập
trong các chuyên ngành của khoa học chính trị như: Hồ Chí Minh học, chính trị
học, xây dựng Đảng cũng như vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hiện nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
thành 4 chương, 12 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ
Triết lý là khái niệm có lịch sử ra đời sớm và được bàn luận nhiều trong các
công trình nghiên cứu liên quan đến nhân sinh quan, thế giới quan. Nhưng cho đến
nay, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu triết lý. Khái niệm triết lý chỉ
được luận bàn trong mối quan hệ với triết học hoặc minh triết, cũng có thể được
bàn đến trong các nghiên cứu liên quan đến một số triết lý cụ thể như: triết lý phát
triển, triết lý giáo dục, triết lý nhân sinh,… Trong những công trình này, các tác
giả bước đầu đưa ra khái niệm triết lý, đặc điểm nhận biết, phân biệt giữa triết lý,
triết học hay minh triết. Mặc dù còn có những quan điểm chưa thống nhất về vị trí
của triết lý trong mối quan hệ với minh triết, triết học nhưng cơ bản các nhà
nghiên cứu dần đi đến sự thống nhất về đặc điểm, nội dung, bản chất để xác định
vị trí của các khái niệm này trong mối quan hệ với nhau.
Nghiên cứu khái niệm triết lý, có thể kể đến Những dị biệt giữa hai nền
triết lý Đông Tây [11] của Kim Định. Trong tiểu luận này, tác giả so sánh cả ba
khái niệm triết lý, minh triết và triết học. Qua nghiên cứu, ông cho rằng triết lý
và minh triết giống nhau ở đối tượng, cả hai lấy cứu cánh con người làm trọng
tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên của con người làm
mục tiêu. Triết lý và minh triết khác nhau ở phương pháp, minh triết nhìn thẳng
trực nghiệm không đưa ra lý sự biện chứng, bàn giải như triết lý. Ông đi đến kết
luận, xét về nội tại triết lý thấp hơn minh triết, nhưng lại có giá trị hơn minh triết
ở chỗ nó gần với quảng đại quần chúng nhân dân, phần nào giúp quần chúng
nhân dân hiểu được minh triết.
So sánh triết lý và triết học, tác giả nhận định triết học khác triết lý ở ba
điểm: Thứ nhất, triết học không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung
tâm suy tư. Thứ hai, triết học theo lối khoa học phê phán và phân tích cố gắng tìm
ra những ý niệm độc đáo và tích lũy sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc
chặt chẽ. Về mục tiêu, triết học lấy tri thức làm cùng đích, vì thế nó không nhằm
7
thực hiện vào bản thân như triết lý mà nhằm tìm biết sự khách quan. Thứ ba,
phương Đông thiên về minh triết và triết lý còn phương Tây thiên về triết học.
Như vậy, trong Tiểu luận nghiên cứu Những dị biệt giữa hai nền triết lý
Đông Tây, tác giả không xác định các khái niệm triết học, triết lý, minh triết mà
là đưa ra các đặc điểm để phân biệt các khái niệm này.
Cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu [74], một công
trình nghiên cứu của nhiều học giả về phát triển xã hội. Cuốn sách trình bày khái
niệm triết học, triết lý và phân tích mối quan hệ về bản chất giữa hai khái niệm.
Trong sách, các tác giả trích dẫn quan điểm của Trần Văn Giàu cho rằng,
triết học và triết lý không giống nhau, “triết học chủ yếu là lý luận về nhận
thức… Còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý; hướng về đạo lý, chứ không chỉ là
đạo lý” [74, tr.20-21]. Triết lý chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay không nên
chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải. Giữa hai loại vấn đề ấy
tuy có quan hệ với nhau, nhưng có khác nhau. Quan hệ với nhau của hai vấn đề
có thể hiểu đều là những nội dung của tư tưởng, nhưng phạm trù và nội dung cần
tìm hiểu của mỗi vấn đề là khác nhau.
Trên cùng mạch luận giải vấn đề, các tác giả trích dẫn quan điểm của Vũ
Khiêu, “Triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Triết lý không thể hiện tầm
khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà thể hiện ý nghĩ và hành vi có ý nghĩa
chỉ đạo cuộc sống con người” [74, tr.21]. Như vậy, triết lý cũng giống như triết
học, đều đề cập những vấn đề thuộc phạm trù tư tưởng, nhưng triết lý ở mức độ
khiêm tốn hơn triết học về tầm khái quát. Quan điểm này phản ánh sự thâm trầm
nhưng hết sức sâu sắc, ý nghĩa của triết lý. Không thể hiện là một hệ thống như
triết học nhưng chứa đựng những giá trị quan trọng, cốt lõi của tư tưởng, của đạo
lý, trực tiếp chỉ đạo cuộc sống của con người.
Cũng bàn về vấn đề này, Hoàng Trinh cho rằng,
Triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản được dùng
làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con người về cội nguồn, bản
chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản thân, làm phương châm
8
cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành động sống hàng
ngày,… Có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu mặc dầu chưa có
triết học với hệ thống các khái niệm của nó [93, tr.8].
Như vậy, Hoàng Trinh cùng quan điểm với Vũ Khiêu khi cho rằng triết lý
là những ý tưởng cơ bản, nền tảng cho sự tìm tòi. Quan điểm này có điểm tương
đồng với quan điểm triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Tuy nhiên, ở đây
ông lại quan niệm đó là những nguyên lý đầu tiên, cơ bản, nền tảng cho sự tìm
tòi và suy lý. Và đi đến khẳng định có những dân tộc có triết lý từ lâu mặc dù
chưa có triết học.
Từ quan điểm của các giáo sư, cùng với sự phân tích, ví dụ minh chứng cụ
thể để so sánh sự khác biệt giữa triết học và triết lý, các tác giả của cuốn sách đi
đến nhận định và đưa ra một cách hiểu khác về triết lý. Các tác giả không hướng
tới việc đánh giá triết học và triết lý cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào cao
hơn cái nào mà chỉ đánh giá về tính hệ thống, mức độ khái quát của các khái
niệm. Trong quan niệm của các tác giả, triết lý ở khía cạnh là những kết luận
được rút ra, suy ra từ một triết thuyết, một hệ thống các nguyên lý triết học nhất
định, như vậy, triết lý cô đọng hơn triết học. Chính đặc điểm này của triết lý tạo
nên cảm quan về sự rời rạc của những nội dung triết lý. Khó có thể thấy tính hệ
thống khi mỗi nội dung được cô đọng theo một cách và ở mức sâu sắc nhất có
thể. Các tác giả còn chỉ ra triết lý là những kết luận được rút ra, triết lý còn là
những tư tưởng, những quan niệm, “là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm
và đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi
nhất về cuộc sống cũng như về những hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con
người trong xã hội” [74, tr.31]. Đưa đến một cách hiểu về triết lý như vậy, cũng
cho thấy sự phù hợp trong quá trình phát triển của triết học và triết lý. Rõ ràng,
khi các trường phái triết học đã phát triển, được phổ biến sâu rộng nhưng không
làm hạn chế hay đánh mất cơ hội ra đời của triết lý, các triết lý vẫn tiếp tục được
đúc kết, ra đời và phát huy những giá trị của nó trong đời sống xã hội. Và nó thể
hiện rõ nghiên cứu triết học hay triết lý thì đều trên cùng một cấp độ là nghiên
9
cứu tư tưởng, chỉ khác ở góc độ triết học và triết lý hướng đến cái gì, hình thành
như thế nào trên cùng một chủ thể tư tưởng.
Bài viết Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý [83] của Hồ Sỹ Quý chứa
đựng những suy nghĩ, nghiền ngẫm có chiều sâu về mối quan hệ giữa triết học và
triết lý. Hồ Sỹ Quý đồng quan điểm với Trần Văn Giàu khi cho rằng triết lý và
triết học là hai khái niệm khác nhau. Nhưng trong bài viết, Hồ Sỹ Quý quan
niệm “nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn luôn ở trình độ thấp
hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết
vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy” [83, tr.57]. Quan điểm này thống nhất
với quan điểm của các nhà nghiên cứu khác khi so sánh về tính hệ thống, đặc
điểm hình thức của triết học và triết lý. Tuy nhiên, khi chỉ ra trong “đa số các
trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ hơn, phiến diện hơn và có nhiều khả
năng chứa đựng mâu thuẫn hơn so với triết học” [83, tr.57], thì đã cho thấy một
cách đánh giá vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt với quan điểm triết lý là
triết học khiêm tốn nói về mình của Vũ Khiêu, hay triết lý là những nguyên lý
đầu tiên, những ý tưởng cơ bản của Hoàng Trinh.
Về mặt hình thức thể hiện triết lý, Hồ Sỹ Quý cũng cho rằng “triết lý có
thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm,… mang tính
khái quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các
cách phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngữ pháp” [83, tr.57] và nó cũng có
giá trị định hướng cho hoạt động của con người trong đời sống xã hội về mặt thế
giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan. Quan điểm này hoàn toàn
đồng nhất với quan điểm của các nhà khoa học khi nghiên cứu về triết lý.
Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn
[2] do Phạm Ngọc Anh chủ biên, các tác giả phân tích, lý giải rõ hơn về mối
quan hệ giữa triết học và triết lý. Về mặt hình thức thể hiện, giá trị của triết lý,
các tác giả đồng quan điểm với nhận định trong các nghiên cứu trước đó của các
nhà khoa học. Trên cơ sở nhận định của các nhà nghiên cứu, các tác giả vừa bổ
sung và hệ thống các đánh giá, đưa ra nhận định về triết lý, triết học. Các tác giả
nhận định,
10
Triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những nguyên lý triết học,
hay cơ sở thực tiễn của con người, được thể hiện dưới dạng những luận
điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về cuộc
sống, về con người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận, coi đó là
nguyên tắc xử thế, phương châm sống và hành động [2, tr.27-28].
Điểm khác trong quan điểm của các tác giả so với các nhà nghiên cứu
trước đó khi khẳng định triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những
nguyên lý triết học rõ ràng, dứt khoát. Đây là cách một số triết lý được hình
thành sau khi khoa học triết học đã ra đời và được biết đến rộng rãi. Quan điểm
này có hơi hướng từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trước triết lý là
triết học khiêm tốn nói về mình, hay triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý
tưởng cơ bản nhưng chưa khẳng định rõ.
Trong sách Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam [21] của Phạm Minh
Hạc, nhắc đến ba khái niệm triết học, triết lý, minh triết. Cả ba khái niệm được
dẫn theo các cuốn từ điển. Tác giả không đi sâu tìm chỗ giống nhau và điểm
khác biệt mà dẫn người đọc hiểu đại thể triết lý là triết học đã được vận dụng vào
một trường hợp cụ thể, gắn với cuộc sống thực ở một cấp độ nào đó, trong một
phạm vi nào đó. Hay sách, Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí
Minh [50], các tác giả hiểu về triết lý theo quan điểm nêu trong Từ điển tiếng
Việt [77] do Hoàng Phê chủ biên, Triết lý là lý luận về triết học hoặc là quan
niệm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội.
Tóm lại, nghiên cứu về triết lý không nhiều, một số công trình nghiên cứu
có bàn đến triết lý chỉ nhằm thống nhất nhận thức về triết lý, làm cơ sở nghiên cứu
nội dung một triết lý cụ thể. Tổng quan tình hình nghiên cứu triết lý cho thấy nhận
thức về khái niệm, đặc điểm nhận biết trong mối quan hệ với triết học của các nhà
nghiên cứu là tương đối thống nhất. Các nghiên cứu cũng cho thấy điểm chưa
thống nhất trong nhận định về triết lý, nhưng các điểm đó không mâu thuẫn mà
chỉ thể hiện khía cạnh quan sát khác nhau. Đặc biệt, các nghiên cứu luôn đặt triết
lý trong mối quan hệ với triết học, so sánh, phân biệt các khái niệm, cũng như
11
quan hệ bổ sung cho nhau của các khái niệm. Các công trình nghiên cứu về sau có
kế thừa và bổ sung cho các công trình công bố trước đó, ngày càng làm sáng rõ
mối quan hệ hay cách hiểu về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Dựa vào tổng
quan nghiên cứu triết lý, tác giả luận án có thêm cơ sở để xác định rõ khái niệm,
bản chất của triết lý hành động Hồ Chí Minh, hoàn thành mục tiêu luận án đặt ra.
1.2. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HỒ CHÍ MINH
Trước những vấn đề đặt ra trong phát triển xã hội, trong nghiên cứu di sản
Hồ Chí Minh, nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh thời gian gần đây được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Tần suất xuất hiện các khái niệm triết lý, triết lý phát triển
trên các sách, báo, tạp chí, phương tiện truyền thông ngày càng nhiều. Lựa chọn
cho mình một triết lý phát triển không chỉ đặt ở cấp độ quốc gia mà còn là vấn đề
của từng địa phương, vùng miền, từng doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế,… Tuy
nhiên, các công trình chuyên biệt nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh không nhiều.
Triết lý Hồ Chí Minh, cách thức tiếp cận triết lý được đề cập sớm trong
các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của Trần Văn Giàu. Trong sách Sự
hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh [19], Trần Văn Giàu không bàn về
triết lý Hồ Chí Minh nhưng đưa ra một gợi ý hết sức quan trọng cho nghiên cứu
triết lý Hồ Chí Minh. Đó là, “Đạo đức học Hồ Chí Minh là một bộ phận lớn của
triết lý Hồ Chí Minh” [19, tr.164]. Bộ phận lớn ấy chính là, “Tận tụy quên mình,
vì đời, vì người, vì nước, vì dân, và suốt đời như vậy đó chỉ có thể là nhân cách
của một bậc thánh, một nhà hiền triết hành động” [19, tr.170].
Trong sách Vĩ đại một con người [20], Trần Văn Giàu “xem việc lấy hành
động mà xét tư tưởng, như là một phương pháp để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh. Mà đó cũng là phương pháp của Nguyễn Ái Quốc sẽ dùng để đi tìm tư
tưởng đích thực của một người hay một tổ chức” [20, tr.226]. Tuy nhiên, để lấy
hành động mà xét tư tưởng có những trở ngại nhất định, vì thế:
Thực ra thì vẫn căn cứ vào tư liệu viết, nhưng khi cần phải theo
phương châm xưa “ý tại ngôn ngoại” mới tiếp cận nổi những chỗ thâm
thúy nhất của tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh. Lại phải xem toàn
12
bộ cuộc đời hoạt động trước sau như một của Cụ Hồ như là kho tư
tưởng triết học phong phú nhất [20, tr.284].
Đây là chỉ dẫn hết sức quý báu trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh, đặc
biệt nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu thêm một gợi ý
khi nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh,
Cụ Hồ là mácxít, thế giới quan của Cụ là duy vật biện chứng. Nhưng
chủ nghĩa Mác chưa hề cấm cản người mácxít uyên bác đóng góp tư
tưởng triết lý vào vũ trụ quan mácxít làm cho nó phong phú thêm lên.
Một chiến sĩ cách mạng Đông phương sao lại không thể, trong lúc
mình là mácxít hay chính vì mình là mácxít có kế thừa và làm cho duy
vật biện chứng càng có tác dụng tích cực trong nhận thức luận và hành
động thực tiễn ở Đông phương [20, tr.285].
Nhận định này lý giải điều đặc biệt, Hồ Chí Minh không có công trình đồ sộ
bàn về triết học nhưng về mặt nào đó triết lý Hồ Chí Minh thực tiễn hơn triết học.
Thấy rõ Hồ Chí Minh là nhà triết học hành động, Người chỉ thâu nạp những gì cần
thiết, hữu ích cho cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân.
Đây là những định hướng quan trọng cho nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh.
Triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh không là trọng tâm nghiên cứu
trong cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam - mấy vấn đề cốt yếu [74] do Phạm
Xuân Nam chủ biên, nhưng sách có một chương bàn về Triết lý phát triển xã hội
của Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát
triển cho đất nước. Phải lấy triết lý phát triển đó làm “một trong những công cụ
định hướng hành động quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội” [74, tr.41-42].
Từ việc nhận định nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát triển đất nước, các tác
giả tiến đến bàn về triết lý Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, “Triết lý Hồ
13
Chí Minh nặng về những chiêm nghiệm làm người và ở đời… những quan niệm
gắn liền với cách sống, lối sống, với hành vi và phẩm chất của hành vi, với hoạt
động cách mạng giải phóng con người và giải phóng dân tộc…” [74, tr.463].
Nhận định này, cùng quan niệm về triết lý Hồ Chí Minh của các nhà nghiên cứu
ở các công trình khác. Trong sách, các tác giả đồng tình với Trần Văn Giàu trong
quan điểm triết lý Hồ Chí Minh mang thế giới quan triết học mácxít, bổ sung
làm phong phú triết học mácxít. Các tác giả chỉ ra, “điều vừa nói không cản trở
việc tiếp thu, vận dụng và phát triển phong cách duy lý của các trường phái tư
tưởng phương Tây cũng như tinh hoa của các trường phái tư tưởng mà Hồ Chí
Minh đã từng lĩnh hội” [74, tr.463]. Đây cũng là quan niệm có sự thống nhất với
một số nhà nghiên cứu khác.
Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo không
luận bàn về một triết lý cụ thể của Hồ Chí Minh, nhưng đề cập đến tên gọi của
nhiều triết lý: triết lý nhân sinh, triết lý thân dân, triết lý sống, triết lý hành động,
triết lý hạnh phúc, triết lý phát triển, triết lý giáo dục, triết lý đạo đức,… và nhận
định về triết lý Hồ Chí Minh, đó là triết lý về lẽ sống ở đời và đạo làm người, triết lý
đó có nền tảng thế giới quan khoa học duy vật biện chứng và nhân sinh quan cách
mạng. Tác giả khẳng định, “Đó là triết lý hành động chủ động, tích cực và sáng tạo
để thực hiện khát vọng giải phóng con người, phát triển xã hội nhằm đạt tới những
giá trị đích thực của cuộc sống: Độc lập, Tự do và Hạnh phúc” [3, tr.177].
Mục tiêu Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, nhưng nội dung sách
không chỉ là nét phác thảo cơ bản về một số triết lý Hồ Chí Minh mà còn sử
dụng một số khái niệm như: triết học hành động; triết học chính trị thực tiễn;
triết học nhân sinh và cách mạng, đồng thời nhận định:
Triết học mang hình hài, sắc thái, diện mạo của những triết lý Hồ Chí
Minh, nó chính là linh hồn của Hồ Chí Minh học - triết học để hành
động và phát triển, triết lý nhân sinh quy tụ ở chữ Dân, nó hướng tới
Đạo đức Thân Dân và Chính Tâm, nó trở thành lẽ sống và đạo lý ở đời
và làm người [3, tr.304].
14
Việc đưa các khái niệm, đặt ra yêu cầu giải quyết, làm rõ mối quan hệ
giữa triết học và triết lý trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh theo xu hướng
triết học làm nền tảng hình thành triết lý của Hoàng Chí Bảo trùng với quan
điểm Trần Nhâm trong sách: Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài [76]. Trong
sách này, Trần Nhâm nhận định, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, nhà tư tưởng
thiên tài, mà “là nhà tư tưởng, không thể không lấy tư tưởng triết học làm điểm
xuất phát cho hệ thống lý luận của mình. Hệ tư tưởng với tư duy triết học của
một nhà tư tưởng gắn với nhau như hình với bóng. Không có nhà tư tưởng nào
lại không có hệ tư tưởng triết học của riêng mình” [76, tr.470].
Với những nhận định về mối quan hệ giữa triết học và triết lý ở Hồ Chí
Minh, cho thấy Hồ Chí Minh khá đặc biệt khi nắm hệ thống quan điểm, hệ tư tưởng
triết học của mình - triết học mácxít, nhưng không trình bày các quan điểm tư tưởng
của mình thiên về cách mà các nhà triết học làm. Hồ Chí Minh thể hiện hầu hết các
quan điểm, tư tưởng phong phú và toàn diện dưới hình hài, màu sắc, diện mạo của
triết lý. Đây cũng chính là điều tạo nên sự gần gũi, dễ hiểu, tính khoa học và sâu sắc
của triết lý Hồ Chí Minh, cũng như phản ánh đặc điểm hình thành triết lý.
Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh đáng kể nhất có hai công trình: Triết lý
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh [25] của Nguyễn Hùng
Hậu; Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn [2] của Phạm
Ngọc Anh chủ biên được xuất bản.
Sách Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
[25], tác giả khẳng định “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là đỉnh cao phương pháp
hành động Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ cái bất biến trong
tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra là độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc, dân chủ
cho nhân dân. Mọi sự vạn biến trong hành động, chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí
Minh suốt cuộc đời xoay quanh cái bất biến xác định. Tác giả cho thấy sự vạn
biến trong hành động, chỉ đạo của Hồ Chí Minh không phải là những thay đổi
giản đơn mà nó chứa đựng sự sâu sắc của tri thức, kinh nghiệm và vốn sống. Tìm
hiểu cụ thể từng sự kiện, từng hành động thấy rõ nó mang tính nghệ thuật, thể
15
hiện rõ sự thâu thái tinh hoa văn hóa, nắm chắc thời cuộc và vạn biến - thay đổi
để giành lấy thế chủ động cho mình. Trên cơ sở nhận thức về cái bất biến trong
tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất vận dụng triết lý này vào sự
nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước trên một số lĩnh vực.
Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giá trị lý luận và thực tiễn [2],
các tác giả phân tích khái niệm: triết lý, triết lý phát triển, triết lý phát triển Hồ Chí
Minh và mối quan hệ giữa triết lý với triết học. Sách thể hiện những khảo cứu về
triết lý Việt Nam, triết lý phương Đông và phương Tây, tìm hiểu nguồn gốc tư
tưởng - lý luận hình thành nên triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Trên cơ sở làm rõ
khái niệm, nguồn gốc hình thành, các tác giả tìm hiểu về Bản chất của triết lý phát
triển Hồ Chí Minh và Nội dung của triết lý phát triển Hồ Chí Minh; đồng thời,
Vận dụng triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay. Các tác giả trình bày những nghiên cứu khá toàn diện về triết lý phát triển Hồ
Chí Minh - những vấn đề đặt ra trong phát triển ở Việt Nam.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên biệt, dày dặn, công phu kể trên,
còn một số bài viết trên các tạp chí, kỷ yếu Hội thảo khoa học có bàn về triết lý Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, nội dung các bài viết, cũng như quan điểm thể hiện trong bài
viết đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu của chính tác giả được xuất bản
thành sách. Chính vì vậy, trong tổng quan đánh giá về các công trình, bài viết tạp
chí, luận án không đi vào phân tích, đánh giá lại các công trình, bài viết này.
Các nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh chưa được xã hội hóa, còn là luận
án, luận văn không có nhiều, đáng kể nhất trong số này có bài của Phan Duy
Anh nghiên cứu về Triết lý chính trị Hồ Chí Minh: Cơ sở hình thành và nội dung
cơ bản. Trong bài, tác giả đưa ra cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn hình thành triết lý
chính trị Hồ Chí Minh và những nội dung cơ bản. Trong đó, Triết lý về mục tiêu
và giá trị chính trị; Triết lý về quá trình chính trị; Triết lý về chủ thể chính trị;
Triết lý về thể chế chính trị là những nội dung triết lý chính trị Hồ Chí Minh
được đề cập.
16
Trong nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh, đa số các nhà nghiên cứu khi
luận giải, làm rõ nội dung một triết lý cụ thể đều có luận bàn đến triết lý hành
động Hồ Chí Minh. Đây là nội dung sẽ được trình bày rõ hơn trong luận án. Có
thể đánh giá nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh chưa nhiều, các công trình nghiên
cứu chuyên biệt về một triết lý còn ít, đa số các nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh
mới dừng lại ở cấp độ bài viết tạp chí hay bài viết chuyên đề khoa học. Nghiên
cứu triết lý Hồ Chí Minh cần tiếp tục nhận được quan tâm hơn nữa từ các nhà
khoa học, giới nghiên cứu Hồ Chí Minh học.
1.3. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH
Cho đến nay, chưa có nhà khoa học nào lấy triết lý hành động Hồ Chí
Minh làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, trong nghiên cứu các triết lý của Hồ
Chí Minh hoặc trong nghiên cứu phương pháp, phong cách hay tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh, các nhà khoa học ít nhiều có đề cập đến triết lý hành động Hồ
Chí Minh. Qua các công trình nghiên cứu, tiếp cận từ góc độ nghiên cứu triết lý
hành động Hồ Chí Minh, luận án đánh giá một số nội dung sau:
- Về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh, trong cuốn Tìm hiểu phương pháp
Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo cho rằng, cuộc đời Hồ Chí Minh là cuộc đời
của một con người mọi hành động đều xuất phát từ Dân. “Người hướng tới dân,
hòa trong dân, hóa thân vào nhân dân, lấy sức mạnh từ lực lượng đoàn kết của
dân, mưu sự vững bền từ đồng tâm nhất trí, đoàn kết, đồng thuận của muôn dân”
[3, tr.10]. Tác giả khẳng định, từ những hành động đó mà “triết lý Hồ Chí Minh
là triết lý thân dân, là triết lý nhân sinh, triết lý hành động [3, tr.10]. Đây không
chỉ là điểm nổi bật, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh mà nó là mục tiêu cơ bản, mục
tiêu cốt lõi của mọi triết lý Hồ Chí Minh, được triết lý hành động Hồ Chí Minh
chuyển tải vào thực tiễn cuộc sống và được thể hiện trong mục tiêu triết lý hành
động Hồ Chí Minh.
Trong sách, Hoàng Chí Bảo không khẳng định triết lý hành động Hồ Chí
Minh có giá trị định hướng cho các triết lý khác, nhưng nhận thấy: “Lôgíc trong
triết lý sống ở đời và làm người của Hồ Chí Minh đã từ triết lý hành động, triết
17
lý nhân sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thấm sâu vào triết lý giáo
dục, đào tạo để phát triển con người, đem lại hạnh phúc làm người cho từng
người và cho tất cả” [3, tr.186]. Điều đó cũng có nghĩa là thấm sâu vào mỗi triết
lý là mục tiêu, là cái đích hướng tới của triết lý hành động. Ngược lại triết lý
hành động cũng có thể được rút ra từ sự biểu đạt của các triết lý khác, triết lý
hành động là cơ sở biểu đạt cho các triết lý khác. Điều này không chỉ khẳng định
giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh mà còn gợi ý để luận giải làm rõ triết lý
hành động Hồ Chí Minh.
Cũng trong sách này, Hoàng Chí Bảo cho thấy chiều sâu của văn hóa, đạo
lý tinh thần Việt Nam ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý Hồ Chí Minh. “Ở
đời” và “làm người” là điều cốt lõi của triết lý ấy, nó làm cho triết lý Hồ Chí
Minh về thực chất là triết lý nhân sinh, triết lý hành động. Vì nhân sinh phải
hành động, trước hết và chủ yếu là hành động” [3, tr.178]. Đây là thứ động lực
nội sinh mạnh mẽ để con người hành động. Một giá trị được đúc rút, thấm sâu
vào tâm hồn mỗi người con đất Việt qua ngàn đời chiến đấu và dựng xây. Là thứ
động lực khiến con người đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh, quên mình vì Tổ
quốc, là mục tiêu cho mọi hành động.
Trong sách Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng thiên tài [76], Trần Nhâm cho
rằng: “Đặc điểm nổi bật của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học hành
động và nhân sinh, triết học giải phóng và phát triển” [76, tr.471]. Và “triết
học Hồ Chí Minh là triết học hành động, vì triết học đó lấy thực tiễn Việt Nam
làm điểm xuất phát, lấy cải tạo, biến đổi xã hội Việt Nam làm mục tiêu cho
hành động cách mạng của cả cuộc đời mình” [76, tr.472-473]. Tác giả khẳng
định tư duy triết học Hồ Chí Minh là tư duy triết học hành động vì thế vượt qua
lối mòn, qua hướng đi của các bậc tiền bối, một cách đầy tự chủ, sáng tạo, Hồ
Chí Minh lựa chọn cho mình một hướng đi khác với một câu hỏi đầy trăn trở là
làm thế nào để giành được độc lập, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho đồng
bào. “Lẽ sống ở đời và đạo làm người là nền tảng thế giới quan và nhân sinh
quan của triết lý hành động vì nhân sinh của Hồ Chí Minh. Triết lý đó lấy việc
18
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người làm mục tiêu hành
động” [76, tr.504].
Qua đó, có thể thấy quan điểm của Trần Nhâm đồng nhất với các nhà
nghiên cứu khác khi nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa
nhân văn hành động Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong quan điểm này, Trần Nhâm
nghiêng nhiều hơn về cách tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh. Lẽ sống ở
đời và đạo làm người trở thành nền tảng thế giới quan và nhân sinh quan hành
động Hồ Chí Minh. Đồng thời Trần Nhâm cho rằng:
Triết lý ấy chỉ có thể nảy sinh, tồn tại và phát triển từ con người có
mục đích và lý tưởng, có hoài bão và lòng tin lớn lao, có ý chí và bản
lĩnh kiên cường. Điểm tựa cho suy nghĩ và hành động của Hồ Chí
Minh chính là triết lý hành động vì nhân sinh gắn tư tưởng, đạo đức,
phương pháp và phong cách với cuộc đời, sự nghiệp, lẽ sống và đạo
làm người của Người [76, tr.504-505].
Trong sách này, Trần Nhâm cũng có quan điểm tương đồng với Hoàng
Chí Bảo khi cho rằng Hồ Chí Minh thấy rõ muốn hành động phải hiểu biết và sự
hiểu biết ấy phải được tích lũy qua học tập không ngừng để thâu thái kiến thức,
tích lũy vốn sống và kinh nghiệm nhằm nâng cao hiểu biết, làm cơ sở cho hành
động. Và “phải chăng ngay từ đầu, phương hướng ấy, triết lý ấy đã chi phối lẽ
sống, đạo làm người và hành động vì nhân sinh của Hồ Chí Minh” [76, tr.504].
Do định hướng nhận thức như vậy, “suốt cuộc đời mình, trong nhận thức cũng
như trong hành động, Hồ Chí Minh luôn trung thành với nguyên tắc nhận thức
luận của mình là gắn lý luận với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi
đôi với hành” [76, tr.564].
Qua các quan điểm, Trần Nhâm khẳng định tư duy triết lý Hồ Chí Minh
là tư duy triết lý thực tiễn, tư duy triết lý hành động. Tư duy triết lý Hồ Chí
Minh xoay quanh câu hỏi làm sao để dân tộc được độc lập, nhân dân được tự
do, hạnh phúc. Đây là mấu chốt làm cho triết lý hành động Hồ Chí Minh không
hề phi lịch sử, đầy tính thực tiễn. Từ khi nảy sinh triết lý Hồ Chí Minh có điểm
19
tựa là thực tiễn lịch sử, thực tiễn đấu tranh của dân tộc. Triết lý được hoàn
chỉnh, trở nên sâu sắc trong quá trình thực hiện lẽ sống và đạo làm người của
con người có mục đích, có lý tưởng, hoài bão, niềm tin, bản lĩnh và nghị lực
kiên cường - Hồ Chí Minh.
Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn, các
tác giả không nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, nhưng từ nghiên cứu triết
lý phát triển Hồ Chí Minh, các tác giả nhận định: “Triết lý phát triển Hồ Chí Minh
bắt đầu từ triết lý giải phóng dân tộc đến triết lý phát triển đất nước và hòa quyện
trong đó là triết lý hành động” [2, tr.228]. Quan điểm cho thấy sự tương đồng với
quan điểm trong sách Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu.
Nhìn một cách tổng quát, đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng
- hành động. Triết lý của Hồ Chí Minh về một xã hội phát triển và giải
pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện quá trình phát triển xã
hội không chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà nó được hòa quyện vào mọi
hành động của Người; nó thể hiện ngay trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Người sáng lập và rèn luyện [74, tr.123-124].
Với quan điểm triết lý Hồ Chí Minh hòa quyện vào mọi hành động và đây
là giải pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện phát triển xã hội. Tiếp cận
triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong nghiên cứu, các tác giả khẳng định,
“Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hầu hết các chủ đề, theo chúng tôi, ngoài
việc tìm hiểu, khái quát từ văn bản, còn cần thiết phải tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh thông qua các triết lý hành động của Người” [74, tr.461]. Thực hiện các
triết lý hành động của Người cũng nhằm mục tiêu phát triển xã hội, mục tiêu bao
trùm các mục tiêu khác bắt đầu từ giải phóng, đổi mới, phát triển, nhân văn,
nhân đạo,… của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Trong sách Suy ngẫm về triết Hồ Chí Minh [26], Nguyễn Hùng Hậu nhận
định: “Ở Hồ Chí Minh, triết lý và hành động không tách rời nhau; triết lý hướng
đến hành động, bao chứa xu hướng hành động, hành động nói lên triết lý, trong
20
hành động đã bao hàm triết lý; từ đó hình thành nên triết lý hành động mà không
phải vĩ nhân nào cũng có được” [26, tr.21].
Đối với tác giả luận án, nhận định triết lý hành động hòa quyện trong các
triết lý khác, gợi ý cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về bản chất triết lý hành động
Hồ Chí Minh, làm rõ sự biểu đạt, giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Trong sách Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh [9], Thành Duy cho
rằng: “Vấn đề không phải ở chỗ khẳng định có tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
mà quan trọng là tìm hiểu triết lý hành động tạo nên chủ nghĩa nhân văn mang
đặc điểm và sắc thái riêng của Người” [9, tr.27-28]. Tác giả khẳng định, đó
không phải là quá trình nhận thức lý luận để hình thành nên chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh mà “phải trải qua hoạt động thực tiễn, biến tình cảm yêu thương
con người thành ý chí cách mạng, thành nguyên tắc và phương pháp giải phóng
con người, giải phóng xã hội, đem lại hạnh phúc, tự do thật sự cho con người”
[9, tr.27-28]. Mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh, mọi hành động trong quá
trình cách mạng của Hồ Chí Minh đều hướng tới mục tiêu nhân văn cao đẹp đó.
Thành Duy nhấn mạnh phải thông qua hành động thực tiễn, có nguyên tắc và
phương pháp mới đạt mục tiêu. Tác giả chỉ ra, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nối
triết lý hành động theo triết học mácxít mà quan trọng hơn là Người tìm ra con
đường hành động theo triết lý nhân văn mácxít phù hợp với điều kiện và thực
tiễn xã hội Việt Nam. Qua những nội dung Thành Duy trình bày trong sách Về
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, tác giả cũng chỉ ra một số nội dung mục tiêu
triết lý hành động Hồ Chí Minh, có điều chưa khái quát nội dung đó theo hướng
tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh.
- Về phương pháp hành động Hồ Chí Minh, trong sách Vĩ đại một con
người [20], Trần Văn Giàu khẳng định: “Ở Nguyễn, tri và hành thống nhất, sáng
tạo tư tưởng là sáng tạo trong thực tiễn công tác, thực tiễn chứng minh và bổ
sung tư tưởng, hai mặt không hề tách rời nhau” [20, tr.232]. Đánh giá này cho
thấy sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hành động Hồ Chí Minh không
chỉ có ý nghĩa là nguyên tắc tối cao mà còn là phương pháp để vận dụng, sáng
21
tạo, phát triển lý luận, làm phong phú lý luận. Điều này, đã được Trần Văn Giàu
đề cập trong sách Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh,
Hẳn Cụ Hồ là một người hành động, một nhà hành động xuất sắc,
song nhận ra như thế mà không nói rằng hành động của ông Hồ là
hành động thủy chung như nhất, tức là hành động theo một hệ thống
tư tưởng, chủ trương trước sau như một, thì đó là nói có một phần ông
Hồ mà quên phần chính, phần hồn, phần lý tính;… Hành động thực
tiễn xuất sắc chính là do lý luận tư tưởng đúng đắn [19, tr.10].
Ở Hồ Chí Minh, hành động theo một hệ thống tư tưởng là hành động cả
đời vì nước, vì dân, đó là mục tiêu hành động cốt lõi, quán xuyến mọi hành
động. Hay cũng nên hiểu hệ thống tư tưởng ấy không chỉ có mục tiêu mà bao
gồm cả nguyên tắc, phương pháp,… hình thành hệ thống lý luận để hành động
và đó là phần lý luận tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định,
“có thể nói rằng từ Vương Dương Minh, qua Tôn Dật Tiên, đến Hồ Chí Minh
mới thấy có một điển hình của sự thống nhất giữa tri và hành, giữa lý luận và
thực tiễn” [19, tr.10].
Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo cho
rằng: “Hồ Chí Minh là người thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn và lấy
hành động làm điều căn bản trong triết lý sống của mình” [3, tr.119]. Từ quan
điểm thực tiễn, Hồ Chí Minh bằng hành động để cụ thể hóa và thực chứng về thế
giới quan duy vật và phương pháp biện chứng mácxít trong cách mạng Việt
Nam. Tác giả khẳng định đó là thực hành triết học duy vật biện chứng vào đời
sống, vào thực tiễn cách mạng. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh “nổi bật ở hành
động thực tiễn, ở sự thực hành phép biện chứng duy vật” [3, tr.160].
Hoàng Chí Bảo khẳng định sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh. “Người đã nhận đường từ tổng kết thực
tiễn,… lý luận thống nhất với thực tiễn, nhận thức để hành động” [3, tr.9]. Hơn
thế, “Hồ Chí Minh tổng kết thực tiễn vừa là thực hành lý luận vừa là khảo duyệt,
đánh giá lý luận, nâng cao lý luận bằng sức sống của thực tiễn đồng thời mở
22
rộng và làm sâu sắc thêm bản chất của thực tiễn nhờ sức mạng của lý luận khoa
học và cách mạng” [3, tr.9]. Hoàng Chí Bảo khẳng định Hồ Chí Minh sớm nhận
ra cái đích, mục tiêu của mình là hành động, là thực hành sự lãnh đạo của lý
luận, Hồ Chí Minh thể hiện phương pháp trong hành động, bằng việc làm, và
“Người thực hành phép biện chứng trong cuộc sống, trong thực tiễn đấu tranh
cách mạng một cách thành thục” [3, tr.33].
Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng tính hữu ích thực tế, bất cứ việc gì dù
to hay nhỏ cũng phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, thiết thực, có ích
không phù phiếm, khoa trương, hình thức,… Thực tiễn là điểm xuất phát
mà cũng là chỗ trở về, chỗ đi tới của mọi nhận thức [3, tr.136-137].
Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn chỉ ra, “Người là một con người có lòng
tin mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí, nghị lực phi thường; có đầu óc thực tiễn, thiết
thực cụ thể, lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm” [16, tr.67].
“Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa cơ sở xuất phát và
quyết định mọi nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh là quan điểm thực tiễn và
nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn” [16, tr.295].
Khi luận bàn về phương pháp hành động Hồ Chí Minh, trong các công
trình nghiên cứu, các tác giả đặc biệt quan tâm đến Dĩ bất biến ứng vạn biến như
là nguyên tắc, phương pháp luận hành động Hồ Chí Minh. Trong sách Tìm hiểu
phương pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo chỉ ra nó “là triết lý hành động,
phương châm công tác, cách ứng xử của Người” [3, tr.168]. Biểu hiện của nó là
“sự kết hợp giữa tính kiên định về nguyên tắc, lập trường, quan điểm với tính
linh hoạt về phương pháp, biện pháp, sách lược, mưu lược, mềm dẻo và uyển
chuyển trước mọi thay đổi của tình hình, sự kiện” [3, tr.168].
Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong khi luận bàn về phương pháp Hồ Chí
Minh, tác giả nhấn mạnh đến Dĩ bất biến ứng vạn biến, và khẳng định “nhiều tác
giả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cho “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là nguyên
23
tắc xem xét và hành động số một của Hồ Chí Minh trong giải quyết những vấn
đề chiến lược và sách lược” [16, tr.305]. Tác giả nhấn mạnh, Dĩ bất biến ứng vạn
biến là quan điểm, phương pháp cách mạng, khoa học, là sự vận dụng tổng hợp
các nguyên tắc, quy luật của phép biện chứng duy vật từ nguyên tắc khách quan,
toàn diện, lịch sử đến phát triển” [16, tr.306]. Và khẳng định “Dĩ bất biến ứng
vạn biến” không chỉ là một nguyên tắc cụ thể mà là phép biện chứng Hồ Chí
Minh, là phương châm xem xét và hành động đúng đắn, khoa học được Người
vận dụng, xử lý thành công trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, mọi tình
huống” [16, tr.306].
Trong sách Triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh [25], tác giả Nguyễn Hùng Hậu cho rằng dĩ bất biến ứng vạn biến là đỉnh
cao phương pháp hành động Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định chữ dĩ nói lên
triết lý không phải để triết lý, mà triết lý phải dẫn đến làm, đến hành động. Đó là
triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và thực tiễn liên hệ mật thiết với nhau,
không tách rời nhau. Đó chỉ có thể là triết lý sinh ra trong hoạt động thực tiễn,
không phải là lý luận suông, có tính tư biện. Đây là công trình nghiên cứu có
đánh giá sâu sắc về chữ dĩ với ý nghĩa triết lý để hành động, sinh ra trong hành
động, vạn biến trong hành động.
Từ những nghiên cứu, lập luận, tác giả nêu một số giải pháp vận dụng triết
lý Dĩ bất biến ứng vạn biến trong thời đại ngày nay. Xác định yếu tố bất biến
trong bối cảnh đất nước và quốc tế mới, cũng như những tác động của bối cảnh
đến những yếu tố bất biến để có lựa chọn thích hợp cho sự phát triển đất nước.
Về cơ bản, Dĩ bất biến ứng vạn biến trong tư tưởng, phương pháp hành
động Hồ Chí Minh được nhiều học giả, nhà nghiên cứu đề cập và khai thác ở
nhiều góc độ. Có thể thấy Dĩ bất biến ứng vạn biến khi là phương châm, là mục
tiêu hành động, có khi lại là nguyên tắc, phương pháp hành động. Nhiều nhà
nghiên cứu còn khẳng định Dĩ bất biến ứng vạn biến là phương pháp luận hành
động. Hay có quan điểm khẳng định Dĩ bất biến ứng vạn biến là đỉnh cao nghệ
thuật hành động Hồ Chí Minh. Điều đó không chỉ khẳng định tính khoa học,
24
biện chứng cách mạng mà còn cho thấy sự tinh tế, sâu sắc, uyển chuyển đặc sắc
của tư duy phương Đông trong tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh. Về cơ bản,
các nhà nghiên cứu có quan điểm thống nhất với nhau và trong các nghiên cứu
không chỉ dừng lại xem xét Dĩ bất biến ứng vạn biến ở một góc độ mà thường ở
nhiều góc độ khác nhau, để khẳng định giá trị của Dĩ bất biến ứng vạn biến trong
di sản Hồ Chí Minh.
- Về hình thức biểu đạt triết lý Hồ Chí Minh, trong sách Tìm hiểu phương
pháp Hồ Chí Minh tác giả nhận định:
Triết lý cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt ra khỏi câu chữ lời
văn của Người, càng không phải trên bề mặt câu chữ mà thấm sâu, ẩn
kín đằng sau, bên trong câu chữ ấy, hơn thế nữa nó thấm nhuần trong
hoạt động của Người giữa cuộc đời và trong dân chúng. Triết lý ấy
hàm súc, cô đọng, mang phong vị cổ điển của truyền thống phương
Đông “ý tại ngôn ngoại, hàm súc dư ba”. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng
lớn mà tư tưởng ở giữa hai dòng chữ. Nhà tư tưởng ấy vĩ đại, sống
động bởi tư tưởng và hành động đều xuất phát từ cuộc sống của dân,
vì dân mà sống, tranh đấu, yêu thương cho trọn đời [3, tr.193].
Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét, đối với vấn đề phức tạp, lý luận sâu
sắc, thực tiễn cách mạng đa đạng, Người thường “đề cập một cách giản dị dễ
hiểu, gắn nguyên lý với hành động, lý luận với thực tiễn, gắn những nguyên lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa văn hóa Việt Nam và văn hóa
phương Đông” [16, tr.63]. Nhận xét cho thấy hành động của Hồ Chí Minh luôn
có nguyên lý chỉ dẫn, là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời khẳng
định, sự thống nhất giữa những nguyên lý phổ biến với hành động, với thực tiễn
ở Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện trên bề mặt mà còn là sự thống nhất trong
chiều sâu nền tảng văn hóa dân tộc. Điều này đem lại giản dị, dễ hiểu nhưng
không giản đơn mà sâu sắc, khoa học của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
25
Hoàng Chí Bảo nhận thấy sự biểu đạt triết lý hành động Hồ Chí Minh
chính ở “Nói và làm đi đôi với nhau, nhất quán từ lối sống đến hành động, trong
cả cuộc đời, đó là thước đo hàng đầu đối với đạo đức và nhân cách” [3, tr.11]
của Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định ở Hồ Chí Minh, “cái chủ yếu, cái đích vẫn
là hành động. Lời nói phục vụ cho hành động, dẫn tới hành động, qua hành động
mà thấy lời nói (ở đây là tư tưởng và phương pháp) chân xác đến đâu, có giá trị
và ý nghĩa tới mức nào” [3, tr.52]. Đồng thời chỉ rõ cái tạo nên sự nhất quán giữa
lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh chính là “tất cả
phải hướng tới dân, vì quyền lợi của dân, hạnh phúc của dân” [3, tr.53]. Tác giả
chỉ ra:
Người chủ trương hành động là chủ yếu, nói ít làm nhiều, đã viết và
nói thì phải ngắn, gọn, rõ ràng, dễ hiểu, sao cho quần chúng hiểu
đúng để làm đúng. Chỉ nói và viết những khi cần thiết. Lấy kết quả và
tác dụng của những việc làm thiết thực mà thuyết phục dân chúng.
Đặc biệt là, Người luôn luôn nhấn mạnh lời nói phải đi đôi với việc
làm, phải nhất quán giữa động cơ và hành động, từ việc lớn tới việc
nhỏ, cái gì cũng phải rõ ràng, thấu đáo, cụ thể, có chương trình, biện
pháp, có kế hoạch và cách làm với bước đi hợp lý [3, tr.179].
Về vấn đề nói đi đôi với làm trong hành động Hồ Chí Minh, biểu đạt triết lý
hành động Hồ Chí Minh cũng được nhiều nhà nghiên cứu luận bàn. Trong sách
Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh [78], Bùi Đình Phong khẳng định:
Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa nói và làm. Triết lý sống của
Người là “ở đời và làm người”, tức là phải “thương nước, thương dân,
thương nhân loại bị đau khổ, áp bức”,… Tư tưởng và hành động của
Người là đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho mỗi
người và muôn người,… [78, tr.221- 222].
Quan điểm của Bùi Đình Phong tiếp tục khẳng định sự thống nhất giữa
nói và làm ở Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác giả chỉ ra sự thống nhất giữa động lực
hành động và mục tiêu hành động trong nói và làm ở Hồ Chí Minh. Nó không
26
chỉ dừng lại là nguyên tắc hành động mà tác giả xem nó như một nguyên tắc đạo
đức, đạo đức hành động Hồ Chí Minh. Đây cũng là quan điểm mà ta thấy trong
sách Minh triết Hồ Chí Minh [35], Vũ Ngọc Khánh đã đề cập.
Ta thường nói đến nguyên tắc: nói và làm đi đôi (ngôn hành hợp
nhất), nhắc ra để làm một lời khuyên bảo hay chỉ dẫn. Quần chúng
Việt Nam không xem đó là một sự chỉ dẫn, một sự nhắc nhở mà xem
là một nội dung đạo đức hẳn hoi. Những lý thuyết đạo đức nêu lên,
dẫn chứng thường không được bàn bạc tranh cãi xem giá trị lý luận
của nó như thế nào (họ không có trình độ và cũng không quen làm
việc đó). Nhưng họ cần thấy lý thuyết ấy đã được cụ thể hóa ra sao
trong hành vi, trong tư cách của con người [35, tr.13].
Và trong sách Luận bàn minh triết và minh triết Việt [27], Hoàng Ngọc
Hiến còn khẳng định mạnh mẽ hơn khi cho rằng: “Nói đi đôi với làm” là một giá
trị hằng hữu của minh triết Hồ Chí Minh” [27, tr.51]. “Những “tấm gương sống”,
những “người tốt” có sức thuyết phục hồn nhiên và sâu sắc vì họ là hiện thân của
công việc, của lao động, của thực hành, của “miệng nói tay làm”, của “nói ít làm
nhiều”, họ là sự hiện thân của minh triết Hồ Chí Minh” [27, tr.53].
- Về con đường hình thành triết lý, trong sách Vĩ đại một con người, Trần
Văn Giàu nhận thấy tri của Hồ Chí Minh cũng được hình thành theo cách riêng,
thông qua hoạt động yêu nước và cách mạng với đồng đội, đồng bào, đồng tâm
trên khắp thế giới, thông qua thực tiễn Hồ Chí Minh “tích lũy kinh nghiệm cá
nhân, quốc gia và quốc tế, từng vụ từng thời sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, từ đó
nảy sinh tư tưởng, lý luận làm sáng tỏ thêm, làm phong phú thêm học thuyết
chứa đựng trong sách vở của các hiền triết tiền bối và của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin” [20, tr.231].
Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh tác giả Hoàng Chí Bảo chỉ
ra, Hồ Chí Minh biết rõ nhận thức là một quá trình, phải trải qua hành động, bằng
hành động trong thực tiễn mới biết mình hay, dở ở chỗ nào, mạnh yếu ra sao để
không ngừng rút kinh nghiệm, sửa chữa, bổ sung làm cho mình mau chóng tiến bộ
27
và dần trở nên hoàn thiện. “Lấy hành động làm lẽ sống nên Hồ Chí Minh đã lao
động và tranh đấu không mệt mỏi, đồng thời Người kiên trì học tập, bằng mọi con
đường tự học để thâu thái kiến thức, tích lũy vốn sống và tạo thành kinh nghiệm
tạo thành hiểu biết để hành động” [3, tr.178]. Những hiểu biết của Người được
tích lũy từ trong sách vở, nhưng đặc biệt quan trọng là tích lũy qua lao động và
thực tiễn đấu tranh. Lấy hành động làm điều căn bản trong triết lý sống của mình,
Hồ Chí Minh “biến mọi tri thức và kinh nghiệm thành phương pháp ứng xử và
hành động với một thái độ độc lập, tự chủ, sáng tạo, không bị cầm tù bởi giáo điều
sách vở, không chịu lệ thuộc vào những kết luận đã có trước, những lối mòn
khuôn sáo đã định hình” [3, tr.178]. Và hành động luôn lấy thực tiễn làm căn cứ
thì cũng không thể có gì là giáo điều, sách vở có thể tồn tại ở Hồ Chí Minh.
Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho thấy thông qua thực tiễn phong phú, sinh
động làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển ngày càng toàn
diện. “Nó là kết quả của sự tác động biện chứng giữa nhận thức và hành động, lý
luận và thực tiễn, vì vậy mà ngày càng tiếp cận với chân lý của cuộc sống” [16,
tr.66]. Thực tiễn hành động Hồ Chí Minh chỉ ra rằng không chỉ có sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn mà còn là sự thống nhất giữa nhận thức và hành động,
nó nặng yếu tố chủ quan của con người, nó chứng tỏ lý luận được tiêu hóa, thấm
nhuần, biến thành hành động cụ thể.
Một số nội dung triết lý về động lực hành động, phát huy động lực hành
động Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu đề cập, trong sách Tìm hiểu phương
pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo chỉ ra, “Để hành động, Người còn chú trọng
xây dựng tổ chức, lực lượng, phát động thành phong trào thực tiễn và tự mình
làm gương trong những hành động kiểu mẫu” [3, tr.151]. Đây là những vấn đề
căn bản trong nội dung động lực hành động của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Muốn thống nhất hành động phải có lãnh đạo hành động. Có lãnh đạo rồi phải
triển khai trên thực tế, biến thành các phong trào hành động rộng lớn, thông qua
28
các hình thức thi đua. Được làm gương, cũng như được nêu gương là một động
lực thúc đẩy hành động của con người.
Hay vấn đề Hồ Chí Minh nhận thức về thời đại, quy luật thời đại để hành
động, Phan Ngọc Liên trong sách Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động
cách mạng [55], cho rằng “Sự cống hiến của Hồ Chí Minh được thế giới công nhận,
một phần không nhỏ là do người đã đạt được sự thống nhất trong nhận thức về thời
đại và hành động theo xu thế chung, hợp quy luật của thời đại” [55, tr.62]. Đánh giá
khẳng định vai trò của nhận thức thực tiễn trong hành động cách mạng. Tuy không
trình bày sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn hay là sáng tạo lý luận
trong chính thực tiễn hành động thành chương, mục, nhưng cuốn sách cho thấy tính
thống nhất biện chứng giữa nhận thức lý luận và hành động thực tiễn của Hồ Chí
Minh, cũng như khẳng định thực tiễn là cơ sở để Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận
của mình, phù hợp với xu thế chung, quy luật thời đại.
- Về giá trị tư tưởng, triết lý Hồ Chí Minh, hầu hết các sách, công trình
nghiên cứu về tư tưởng, triết lý, hay đề cập triết lý hành động Hồ Chí Minh đều có
nhận định, đánh giá về những giá trị, nêu phương hướng vận dụng vào công cuộc
xây dựng, đổi mới, hội nhập của đất nước hiện nay. Trong sách Triết lý “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sau khi phân tích về cái bất
biến, mối quan hệ giữa cái bất biến và cái vạn biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
tác giả dành Chương ba để phân tích về cái bất biến và cái vạn biến trong công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Giá trị triết lý Dĩ bất biến ứng vạn
biến Hồ Chí Minh thể hiện ở mục tiêu: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh” [25, tr.158]; là “Hội nhập nhưng không hòa tan, hội
nhập nhưng vẫn giữ độc lập tự chủ” [25, tr.163]; là kiên định “Phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời
kỳ quá độ” [25, tr.175].
Trong sách, Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu, khi bàn về
Triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh các tác giả khẳng định:
29
Nội dung cơ bản của triết lý Hồ Chí Minh về phát triển xã hội, đặc biệt
là linh hồn của triết lý phát triển đó - kết hợp độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội nhằm phát triển theo hướng nhân văn, phát triển bền vững
- chính là quan điểm phát triển khoa học, đúng đắn và tiến bộ, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại ngày nay [74, tr.124].
Trong sách, Triết lý phát triển Hồ Chí Minh giá trị lý luận và thực tiễn, các
tác giả khẳng định: “Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - cơ sở lý luận xác lập và
hoàn thiện triết lý phát triển Việt Nam hiện đại” [2, tr.226]. Những cơ sở lý luận
được các tác giả chỉ ra trước đó trong nội dung triết lý phát triển Hồ Chí Minh là
lý luận về mục tiêu trên ba phương diện cơ bản: phương diện vật chất - kinh tế;
phương diện chính trị; phương diện văn hóa - xã hội và con đường phát triển Việt
Nam: xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Lý luận về mô thức phát triển đất
nước, giữa phát triển đồng đều, toàn diện các mặt đời sống của xã hội Việt Nam
với xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong phát triển, cũng như
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế trong triết lý phát triển
Hồ Chí Minh. Đây là những nội dung, giá trị nổi bật của triết lý phát triển Hồ Chí
Minh được các tác giả chỉ ra phương hướng vận dụng trong điều kiện phát triển
hiện nay của đất nước.
Tác giả luận án tổng quan một số công trình đánh giá về giá trị triết lý Hồ
Chí Minh nhằm có cơ sở, cũng như cách tiếp cận khi đánh giá triết lý hành động
Hồ Chí Minh về giá trị đối với dân tộc và thời đại của triết lý này.
Tóm lại, nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh chưa nhiều, các
nghiên cứu có đề cập triết lý hành động Hồ Chí Minh còn ở mức độ là những nét
vẽ đầu tiên chưa hoàn thiện. Trong các công trình nghiên cứu triết lý Hồ Chí
Minh, các tác giả có sự kế thừa kết quả của những công trình nghiên cứu trước
đó, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu làm rõ triết lý hành động Hồ Chí
Minh. Nhiệm vụ đặt ra trong nghiên cứu Triết lý hành động Hồ Chí Minh là tiếp
tục làm rõ cơ sở hình thành, chỉ ra bản chất, nội dung cơ bản, giá trị và ý nghĩa
thời đại của triết lý.
30
1.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LUẬN ÁN
1.4.1. Kết quả các công trình nghiên cứu đạt được
Qua tìm hiểu, đánh giá kết quả nghiên cứu của những công trình được công
bố có đề cập đến triết lý, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh, tác
giả luận án nhận thấy các công trình nghiên cứu đã đề cập những vấn đề sau:
Thứ nhất, qua các công trình, các tác giả cơ bản thống nhất khái niệm
triết lý, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Bước đầu tìm
hiểu mối quan hệ giữa triết học và triết lý Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa
triết lý hành động Hồ Chí Minh với các triết lý khác của Hồ Chí Minh. Không
trình bày cụ thể, nhưng các công trình đều đánh giá mối quan hệ giữa triết lý,
triết học hay các triết lý với nhau trên cùng một cấp độ là nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Thứ hai, các nhà nghiên cứu khẳng định Hồ Chí Minh có nhiều triết lý
như triết lý phát triển, triết lý về dân, triết lý nhân sinh, triết lý đạo đức, triết lý
giáo dục,… và khẳng định có triết lý hành động Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh,
triết lý về mọi vấn đề được thể hiện bằng hành động cụ thể, hình thành nên triết
lý hành động, thông qua triết lý hành động Hồ Chí Minh để biểu đạt cho các triết
lý khác. Triết lý hành động Hồ Chí Minh hòa quyện trong các triết lý khác.
Thứ ba, các nhà nghiên cứu nhận định triết học Mác - Lênin là nền tảng
cơ bản hình thành triết lý Hồ Chí Minh. Các nhà nghiên cứu thống nhất, Hồ Chí
Minh là nhà triết học thực hành. Người vận dụng các nguyên lý, quy luật, các
cặp phạm trù triết học Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam theo cách
người Việt Nam, người phương Đông, thực hiện cải tạo và phát triển xã hội theo
đúng tinh thần Mác - Lênin, hình thành nên triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu khẳng định có triết lý hành động Hồ
Chí Minh, nêu ra một số khía cạnh nội dung, biểu hiện của hình thức, mối quan
hệ của triết lý hành động với các phạm trù đạo đức, nhân văn,… hay mối quan
hệ giữa triết lý hành động với triết lý phát triển Hồ Chí Minh nhưng chưa đầy đủ
và chỉ đặt trong mục tiêu nghiên cứu nội dung khác.
31
Thứ năm, các công trình nghiên cứu khi đề cập đến triết lý Hồ Chí Minh,
vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm và tần suất xuất hiện nhiều là: triết lý
về dân, triết lý thân dân, mục tiêu hành động là giải phóng nhân dân, giải phóng
con người, giải phóng xã hội; lý luận gắn liền với thực tiễn là nguyên tắc tối cao,
là cái đích cho hành động; lời nói đi đôi với việc làm là một trong những nội
dung thể hiện đặc trưng phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh; dĩ bất biến ứng
vạn biến là nguyên tắc xem xét hành động số một, đỉnh cao phương pháp hành
động Hồ Chí Minh. Đây là những vấn đề sẽ được tác giả luận án luận giải từ góc
độ tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra cho Luận án tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu, các gợi ý, luận án tiếp thu, kế thừa và
tiếp tục nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, tiếp thu và trình bày hệ thống các khái niệm liên quan đến triết
lý, triết lý hành động Hồ Chí Minh. Hình thành khái niệm Triết lý hành động Hồ
Chí Minh. Khẳng định Triết lý hành động Hồ Chí Minh là cơ sở để xác định nội
dung mục tiêu, động lực, phương pháp hành động cho các triết lý khác của Hồ
Chí Minh, đồng thời cũng là phương pháp cơ bản để biểu đạt cho các triết lý của
Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng.
Thứ hai, luận án nghiên cứu tìm hiểu cơ sở hình thành, xác định bản chất
triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Thứ ba, từ các gợi ý, lập luận trong các công trình nghiên cứu về thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, về nói đi đôi với làm, về dĩ bất biến ứng vạn
biến,… tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ nội dung triết lý hành động Hồ
Chí Minh, các vấn đề về mục tiêu, động lực, phương pháp hành động trong nội
dung triết lý hành động Hồ Chí Minh.
Thứ tư, từ xác định cơ sở hình thành, bản chất, nội dung cơ bản, luận án
xác định giá trị đối với dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
32
Tiểu kết Chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, nghiên cứu triết lý, triết lý Hồ
Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh đã đạt được một số kết quả bước đầu.
Các nhà nghiên cứu thống nhất có triết lý hành động Hồ Chí Minh. Triết lý này
thể hiện trong các bài viết, bài nói, hành động của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng. Trong các công trình, các nhà nghiên cứu chỉ nêu ra
một hoặc một số khía cạnh nội dung của triết lý hành động Hồ Chí Minh, không
có công trình nào lấy triết lý hành động Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu.
Tiếp cận nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, luận án chỉ ra một số nội
dung của triết lý đã được các công trình đề cập, trên cơ sở đó đánh giá kết quả
các công trình nghiên cứu đạt được và những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục
nghiên cứu. Tổng quan tình hình nghiên cứu là cơ sở để luận án hoàn thành mục
đích, nhiệm vụ nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh.
33
Chương 2
KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH,
BẢN CHẤT TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
2.1.1. Khái niệm “Triết học”
Triết học là thuật ngữ có gốc xuất phát từ tiếng Hy Lạp, chữ Philosophia
có nghĩa là yêu mến sự thông thái, anh minh. Theo truyền thuyết, Pythagoras là
người đầu tiên sử dụng khái niệm triết học, nhưng ở thời kỳ này các nhà triết học
không gọi học thuyết của mình là triết học mà gọi là sử học. Đến thế kỷ IV trước
công nguyên, các học trò của Socrates mới sử dụng danh từ triết học. Trong quá
trình phát triển của khoa học triết học, ở phương Tây và phương Đông, triết học
được dùng với nghĩa phổ biến là môn khoa học nghiên cứu những vấn đề chung
nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung,
của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học cung cấp thế
giới quan và phương pháp luận tổng quát cho các khoa học khác.
Về hình thức, triết học là một dạng đặc biệt của ý thức và nhận thức, được
thể hiện bằng một hệ thống các nguyên lý, quan điểm có tính trừu tượng, tính
khái quát hóa cao với logic nội tại tương đối chặt chẽ. Nó là hệ thống tri thức về
những cơ sở và những nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa con người với tự
nhiên, xã hội và đời sống tinh thần, là sự biểu thị một kiểu nhận thức duy lý đặc
biệt về hệ thống những vấn đề cơ bản của tồn tại người. “Triết học một trong
những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người
về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy” [41].
Tuy nhiên, cùng là nghiên cứu về triết học nhưng triết học phương Tây
chú ý đến sự mạch lạc của hệ thống lý luận, chú ý đến nhận thức thế giới xung
quanh, tìm những hiểu biết về thế giới xung quanh, tìm chân lý ở bên ngoài con
người bằng suy luận logic và thực nghiệm, thí nghiệm khoa học còn triết học
34
phương Đông, nổi bật là triết học Trung Quốc và Ấn Độ, là triết lý của đời sống,
là đạo sống của con người.
Ngay từ khi ra đời, triết học đã phân làm hai phe đối lập nhau là chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, sự đấu tranh giữa hai phe làm cho triết học phát
triển. Cùng với sự phát triển của triết học, hay đúng hơn là sự phát triển của
phương pháp tư duy về thế giới và con người của hai phe làm cho sự mâu thuẫn
giữa hai phương pháp tư duy biện chứng và tư duy siêu hình ngày càng đối lập.
Cuộc đấu tranh của giữa hai trường phái thể hiện tính tiến bộ, của lực lượng tiến
bộ, giai cấp tiến bộ, đặc biệt trong nhận thức về quy luật phát triển xã hội.
Theo Ph.Ăngghen, vấn đề cơ bản của mọi triết học là vấn đề quan hệ giữa
tư duy và tồn tại, ý thức và vật chất. Khi đề cập đến vấn đề cơ bản của triết học,
hai câu hỏi lớn luôn được các nhà triết học đặt ra là: Giữa tư duy và tồn tại, ý
thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định? Tư duy
của con người có thể nhận thức được thế giới hiện thực hay không? Tùy theo
cách giải đáp hai câu hỏi đó mà các nhà triết học đặt mình vào trường phái duy
vật hay duy tâm, khả tri hay bất khả tri.
Đồng thời với sự phát triển lực lượng sản xuất, sự mâu thuẫn ngày càng lớn
trong quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối triết học mácxít đã ra đời. Sự ra đời
của triết học mácxít góp phần quyết định lý giải nguyên nhân các mâu thuẫn xã
hội và chỉ ra con đường, quy luật tất yếu đi đến xóa bỏ những mâu thuẫn đó.
Triết học mácxít ra đời trên cơ sở kế thừa những di sản quý báu trong
lịch sử phát triển của triết học và văn minh nhân loại, trên cơ sở khái
quát thực tiễn xã hội hiện đại, là triết học duy vật biện chứng - khoa
học về những mối liên hệ phổ biến và các quy luật vận động và phát
triển chung nhất của cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học mácxít là
thế giới quan, đồng thời là vũ khí lí luận của giai cấp vô sản trong
cuộc đấu tranh giải phóng bản thân và giải phóng những người lao
động khỏi áp bức và bóc lột [41, tr.585].
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy vũ khí lý luận,
nhận ra con đường để giải phóng và phát triển dân tộc. Thế giới quan, nhân sinh
35
quan Hồ Chí Minh là duy vật biện chứng. Nền tảng cơ bản tư duy triết học Hồ
Chí Minh là triết học mácxít - vũ khí lý luận của chiến sĩ cách mạng vô sản Hồ
Chí Minh. Nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh phải thấy rõ lập trường,
quan điểm triết học mácxít trong tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh.
2.1.2. Khái niệm “Triết lý”
Ở phương Tây, châu Âu, do những điều kiện hình thành nền văn minh cổ
đại, để tồn tại và phát triển con người phải khắc chế, chinh phục tự nhiên. Khám
phá khoa học và phát triển kỹ thuật là những vấn đề được quan tâm hàng đầu,
đóng vai trò quyết định cho sự phát triển xã hội. Khoa học và tính duy lý khoa
học đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội. Đặc điểm này tác động đến mọi
loại hình tư duy và bản thân các nhà triết học chính là các nhà khoa học, nhà bác
học. Triết học gắn liền với những thành tựu khoa học, đặc biệt khoa học tự nhiên
như vật lý, toán học, thiên văn học,... Trong buổi đầu hình thành và phát triển,
triết học đóng vai trò quan trọng cho sự khám phá, tìm tòi của các ngành khoa
học khác. Ảnh hưởng của nó dẫn đến quan niệm coi triết học như khoa học về
các quy luật chung nhất cho sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con
người, khoa học của mọi khoa học.
Quá trình hình thành các nền văn minh cổ đại, tùy theo điều kiện địa lý
- tự nhiên, mỗi nền văn minh có những đặc điểm văn hóa, xã hội khác nhau.
Sự khác biệt về điều kiện, hoàn cảnh sống dẫn tới sự khác biệt trong lối tư
duy, ứng xử và hành động. Nếu như tư duy của người phương Tây lấy sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên làm đối tượng để khám phá, tìm hiểu, tìm chân lý ở
bên ngoài con người bằng suy luận logic và thực nghiệm khoa học thì ngược
lại người phương Đông lấy suy nghĩ và hành động của con người làm đối
tượng, mọi hành động đều hướng vào con người làm thay đổi cách suy nghĩ,
ứng xử và hành động của con người. Tư duy của người phương Tây thiên về
logic chặt chẽ, khoa học thực nghiệm hướng vào các sự vật, hiện tượng bên
ngoài con người. Còn tư duy của người phương Đông thường là triết lý về đời
sống, đạo sống của con người. Tư duy phương Tây thiên về lý tính, còn tư
duy phương Đông nặng về cảm tính, trực giác.
36
Có thể phần nào lý giải điều này, bởi điều kiện địa lý - tự nhiên của các
nền văn minh cổ đại phương Đông khá thuận lợi cho cuộc sống của con người.
Vấn đề của xã hội phương Đông không phải là khắc chế, chinh phục tự nhiên mà
là vấn đề quan hệ giữa người với người. Xử lý mối quan hệ con người với con
người trong tập thể, cộng đồng hướng tới sự cố kết gắn bó để cùng nhau sản xuất
và chiến đấu. Người phương Đông, về cơ bản sống hài hòa với tự nhiên, thuận
theo tự nhiên. Vì thế, đặc trưng nổi bật trong xử lý mối quan hệ của con người là
những suy ngẫm về các mối quan hệ giữa người với người hằng ngày, những vấn
đề về luân lý, đạo đức, nghệ thuật,... chứ không phải là xử lý mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên.
Từ những đặc trưng của điều kiện sống mà sự hình thành nền văn minh
phương Đông khác với phương Tây. Văn minh phương Tây đánh giá mối quan
hệ giữa con người với con người cơ bản là bình đẳng, chỉ trong mối quan hệ với
tự nhiên con người mới thể hiện vai trò làm chủ và chinh phục. Lấy sự vật, hiện
tượng tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu, các nhà khoa học phương Tây mong
muốn mở rộng hiểu biết của con người về vạn vật xung quanh.
Triết học phương Tây được xem xét dựa vào các tri thức khoa học, những
khám phá về tự nhiên, vạn vật tồn tại trong thế giới. Hệ quả của nó là nhiều kết
quả nghiên cứu trong thời đại này phải đến những thời đại sau mới được công
nhận và sử dụng, cũng có những kết quả nghiên cứu hiện vẫn còn là câu hỏi chưa
có lời giải. Cũng như triết học phương Tây nhiều khi là khá trừu tượng so với tư
duy triết học phương Đông. Phương Đông lấy con người làm đối tượng, làm
trọng tâm nghiên cứu nên biết không chỉ để biết, mà biết để làm ngay, điều chỉnh
ngay mối quan hệ, hành vi xã hội của con người. Thậm chí, ngay trong cái cần
biết, cái hướng tới cũng là cái để nhằm điều chỉnh hành vi con người, ứng xử
giữa người với người, giải quyết cụ thể một mối quan hệ trong xã hội.
Đây là lý do mà cùng một thuật ngữ philosophia khi dịch ra tiếng Việt hay
tiếng Trung Quốc thành triết học như môn triết học, khoa triết học, trường phái
triết học,… nhưng bên cạnh thuật ngữ triết học còn có thuật ngữ triết lý.
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY

More Related Content

What's hot

Tieu luan mon triet hoc
Tieu luan mon triet hocTieu luan mon triet hoc
Tieu luan mon triet hoc
quangbk1994
 
Các đặc điểm của quá trình dạy học
Các đặc điểm của quá trình dạy họcCác đặc điểm của quá trình dạy học
Các đặc điểm của quá trình dạy học
Pe Tii
 

What's hot (20)

Luận văn: Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ, 9đ
Luận văn: Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ, 9đLuận văn: Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ, 9đ
Luận văn: Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ, 9đ
 
Luận án: Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên ĐH Thái Nguyên
Luận án: Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên ĐH Thái NguyênLuận án: Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên ĐH Thái Nguyên
Luận án: Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên ĐH Thái Nguyên
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
Giáo Trình Tâm Lý Học Giao Tiếp
 
Tieu luan tuyen ngon cua dang cong san hct
Tieu luan tuyen ngon cua dang cong san hctTieu luan tuyen ngon cua dang cong san hct
Tieu luan tuyen ngon cua dang cong san hct
 
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
 
Bài Giảng Tâm Lý Đạo Đức Kinh Doanh
Bài Giảng Tâm Lý Đạo Đức Kinh Doanh Bài Giảng Tâm Lý Đạo Đức Kinh Doanh
Bài Giảng Tâm Lý Đạo Đức Kinh Doanh
 
Những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí MinhNhững chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
 
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON
 
Luận án: Tác phẩm tuyển chọn gắn với giáo dục giá trị cho sinh viên
Luận án: Tác phẩm tuyển chọn gắn với giáo dục giá trị cho sinh viênLuận án: Tác phẩm tuyển chọn gắn với giáo dục giá trị cho sinh viên
Luận án: Tác phẩm tuyển chọn gắn với giáo dục giá trị cho sinh viên
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
 
Ứng xử trong sư phạm và các tình huống
Ứng xử trong sư phạm và các tình huốngỨng xử trong sư phạm và các tình huống
Ứng xử trong sư phạm và các tình huống
 
Tieu luan mon triet hoc
Tieu luan mon triet hocTieu luan mon triet hoc
Tieu luan mon triet hoc
 
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
 
Tâm lý Báo chí
Tâm lý Báo chíTâm lý Báo chí
Tâm lý Báo chí
 
Các đặc điểm của quá trình dạy học
Các đặc điểm của quá trình dạy họcCác đặc điểm của quá trình dạy học
Các đặc điểm của quá trình dạy học
 
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI Tác giả TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN_10300312052019
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI Tác giả TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN_10300312052019TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI Tác giả TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN_10300312052019
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI Tác giả TRẦN QUỐC THÀNH - NGUYỄN ĐỨC SƠN_10300312052019
 
Học và làm theo lời Bác
Học và làm theo lời BácHọc và làm theo lời Bác
Học và làm theo lời Bác
 
Ly luan day hoc
Ly luan day hocLy luan day hoc
Ly luan day hoc
 
Tiểu luận triết học
Tiểu luận triết họcTiểu luận triết học
Tiểu luận triết học
 
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
GIÁO TRÌNH XÃ HỘI HỌC GIỚI
 

Similar to Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY

Tư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minhTư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minh
hangngoc14
 
Chương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINH
Chương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINHChương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINH
Chương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINH
laikaa88
 

Similar to Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY (20)

Bài mẫu Tiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, HAYBài mẫu Tiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới, HAY
 
Chương 1 giới thiệu về học phần tư tưởng hồ chí minh
Chương 1 giới thiệu về học phần tư tưởng hồ chí minhChương 1 giới thiệu về học phần tư tưởng hồ chí minh
Chương 1 giới thiệu về học phần tư tưởng hồ chí minh
 
Đề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdf
Đề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdfĐề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdf
Đề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdf
 
Tt hcm cmd moi
Tt hcm cmd moiTt hcm cmd moi
Tt hcm cmd moi
 
Tiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.docx
Tiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.docxTiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.docx
Tiểu luận về nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.docx
 
tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdf
tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdftu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdf
tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdf
 
Tóm tắt TV Lương Thị Thúy Nga.pdf
Tóm tắt TV Lương Thị Thúy Nga.pdfTóm tắt TV Lương Thị Thúy Nga.pdf
Tóm tắt TV Lương Thị Thúy Nga.pdf
 
Luận án: Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo xã hội, HAY
Luận án: Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo xã hội, HAYLuận án: Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo xã hội, HAY
Luận án: Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo xã hội, HAY
 
Chuong 1.pptx
Chuong 1.pptxChuong 1.pptx
Chuong 1.pptx
 
Tư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minhTư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minh
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnTư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí MinhTư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
 
Luận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAYLuận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAY
 
Tailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet nam
Tailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet namTailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet nam
Tailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet nam
 
Chương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINH
Chương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINHChương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINH
Chương 1- TTHCM.pptx. SLide giới thiệu về tư tưởng HỒ CHÍ MINH
 
Luận án: Công tác dân vận trong dân tộc Khmer theo tư tưởng HCM - Gửi miễn ph...
Luận án: Công tác dân vận trong dân tộc Khmer theo tư tưởng HCM - Gửi miễn ph...Luận án: Công tác dân vận trong dân tộc Khmer theo tư tưởng HCM - Gửi miễn ph...
Luận án: Công tác dân vận trong dân tộc Khmer theo tư tưởng HCM - Gửi miễn ph...
 
Tieuluan1
Tieuluan1Tieuluan1
Tieuluan1
 
Không gian văn hóa Huế với sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh
Không gian văn hóa Huế với sự hình thành nhân cách Hồ Chí MinhKhông gian văn hóa Huế với sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh
Không gian văn hóa Huế với sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh
 
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc xây dựng đạo đức cho đội ...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc xây dựng đạo đức cho đội ...Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc xây dựng đạo đức cho đội ...
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc xây dựng đạo đức cho đội ...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 

Recently uploaded (20)

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 

Luận án: Triết lý hành động Hồ Chí Minh, HAY

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH YÊN NGỌC TRUNG TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2017
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH YÊN NGỌC TRUNG TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 62 31 02 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG 2. PGS.TS. LÊ VĂN TÍCH HÀ NỘI - 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Yên Ngọc Trung
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6 1.1. Nghiên cứu triết lý 6 1.2. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh 11 1.3. Nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh 16 1.4. Kết quả nghiên cứu và vấn đề đặt ra cho luận án 30 Chương 2: KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH, BẢN CHẤT TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 33 2.1. Một số khái niệm 33 2.2. Cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh 43 2.3. Bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh 67 Chương 3: NỘI DUNG CƠ BẢN TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 78 3.1. Triết lý về mục tiêu hành động 78 3.2. Triết lý về động lực hành động 88 3.3. Triết lý về phương pháp hành động 102 Chương 4: GIÁ TRỊ DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 123 4.1. Giá trị đối với sự phát triển dân tộc 123 4.2. Giá trị thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh 137 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Bằng hành động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, Hồ Chí Minh đã hình thành triết lý hành động của mình từ rất sớm, trở thành chủ đề nhất quán xuyên suốt đến tận cuối đời. Cùng với tư tưởng, đạo đức, phong cách, phương pháp, triết lý hành động Hồ Chí Minh được thực hiện trên thực tế đã đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi đã đưa nhân dân một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đô hộ trở thành người làm chủ, đất nước được độc lập, hòa bình, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Triết lý hành động Hồ Chí Minh hình thành trước nhu cầu lựa chọn con đường cách mạng để giải phóng và phát triển dân tộc. Đi ra thế giới, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Triết lý hành động Hồ Chí Minh chỉ ra độc lập dân tộc, quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu hành động. Nội dung mục tiêu hành động Hồ Chí Minh là những giá trị bất biến, mục tiêu bất biến được thể hiện bằng những hành động phong phú, mạnh mẽ của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo, thực hiện hóa các mục tiêu cách mạng. Triết lý về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị, góp phần định hướng hành động cho Đảng, nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Qua lăng kính chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ chọn lọc được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây mà còn nhận thấy và phát triển các động lực cho hành động cách mạng. Triết lý về sức mạnh của quần chúng, vai trò của quần chúng nhân dân được quán triệt trong hành động. Dân là điểm mấu chốt, cốt lõi của mọi hành động, triết lý hành động Hồ Chí Minh. Lòng yêu nước và tinh thần yêu nước của nhân dân trong truyền thống dân tộc được Hồ Chí Minh xác định như các thứ của quý, Người bằng hành động cụ thể, thiết thực khơi dậy và phát huy các thứ của quý đó phục vụ
  • 6. 2 cho sự nghiệp cách mạng. Lòng yêu nước được phát huy bằng thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua, cùng tinh thần đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc và quốc tế, tạo ra động lực hành động mạnh mẽ quyết định cho những thắng lợi cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng, phương pháp dân chủ, phong cách dân chủ được thực hành đã trở thành cái chìa khóa vạn năng để có thể giải quyết mọi khó khăn. Triết lý về động lực hành động thể hiện trong triết lý hành động Hồ Chí Minh có cơ sở lý luận khoa học, có kết quả thực tiễn phong phú khẳng định, đã và đang là những nội dung định hướng cho hành động của Đảng trong hoạch định chủ trương, xây dựng chính sách nhằm phát huy tốt nhất các động lực cho sự nghiệp cách mạng trong điều kiện mới của đất nước. Triết lý về phương pháp hành động Hồ Chí Minh thể hiện trong sự nghiệp cách mạng phong phú và sâu sắc. Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương pháp hành động, chỉ đạo hành động số một của Hồ Chí Minh. Quán triệt triết lý này trong hành động đảm bảo kiên định mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, đồng thời thể hiện tính linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp hành động cụ thể nhằm hoàn thành các mục tiêu mà cách mạng đặt ra. Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, nói không đi đôi với làm, nói một đằng, làm một nẻo,... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, các triết lý về phương pháp hành động miệng nói tay làm, nêu gương trong hành động, đảng viên đi trước làng nước theo sau, đảng viên là đầu tàu gương mẫu trong triết lý hành động Hồ Chí Minh càng khẳng định giá trị mạnh mẽ của việc vận dụng, thực hành triết lý. Triết lý hành động Hồ Chí Minh về nói đi đôi với làm, nêu gương, làm gương trong hành động là một giá trị cần được phát triển, mở rộng, trở thành các tiêu chí quan trọng trong đánh giá phẩm chất đạo đức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên hiện nay. Với những kết quả đạt được trong thực tế hành động cách mạng, triết lý hành động Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển triết lý hành động có trong chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển triết lý hành động của dân tộc lên tầm cao mới. Nội
  • 7. 3 dung triết lý định hướng hành động cho Đảng, định hướng xây dựng phẩm chất, chuẩn mực hành động, chiến đấu, lao động học tập cho cán bộ, đảng viên. Đồng thời những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của triết lý hành động Hồ Chí Minh đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa trên thế giới. Thực hiện triết lý hành động của mình, Hồ Chí Minh cho thấy tấm gương người chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thủy chung, khẳng định triết lý hành động nhân văn của dân tộc Việt Nam. Triết lý hành động Hồ Chí Minh, với những nội dung khoa học và sâu sắc, các giá trị của nó làm phong phú di sản Hồ Chí Minh, tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, giá trị lý luận và thực tiễn của triết lý có ý nghĩa đối với sự phát triển của dân tộc và thời đại. Vì những lý do đó tôi chọn Triết lý hành động Hồ Chí Minh làm luận án tiến sĩ với mong muốn được hiểu biết và góp phần làm sáng tỏ kho tàng di sản Hồ Chí Minh. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Luận án nghiên cứu làm rõ về khái niệm, cơ sở hình thành, bản chất, nội dung cơ bản; giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra những kết quả và xác định những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. - Xác định khái niệm; cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Phân tích nội dung, xác định bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Đánh giá giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Triết lý hành động Hồ Chí Minh bao gồm các khía cạnh cơ sở hình thành, nội dung, bản chất, giá trị dân tộc và thời đại của triết lý.
  • 8. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Dưới góc độ Hồ Chí Minh học, về tư liệu, luận án phân tích hành động, việc làm, bài viết, bài nói, chỉ đạo thực tiễn của Hồ Chí Minh; về nội dung là những quan điểm, hành động thực tiễn; về thời gian chủ yếu từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1969, để làm rõ nội dung, giá trị của triết lý. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường, mục tiêu, động lực, phương pháp hành động cách mạng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như: phương pháp logic và phương pháp lịch sử trong phân tích, đánh giá các sự kiện, hành động của Hồ Chí Minh; sử dụng phương pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa để làm rõ triết lý hành động Hồ Chí Minh biểu đạt trên các lĩnh vực, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể khác như phân tích, so sánh, tổng hợp,… để hoàn thành mục đích luận án đặt ra. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 5.1. Ý nghĩa khoa học - Đề tài góp phần làm rõ khái niệm, xác định bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Đề tài làm rõ cơ sở hình thành, nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Xác định giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh; góp phần khẳng định tính toàn diện của di sản Hồ Chí Minh. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần là cơ sở khoa học định hướng hành động cho các chủ thể lãnh đạo tiến trình cách mạng, đảm bảo sự thống nhất, xuyên suốt trong mọi hành động. Định hướng xây dựng mục tiêu hành động, lựa chọn phương pháp hành động, xác định động lực và phát huy động lực cách mạng. Triết lý góp phần làm căn cứ khoa học trong xây dựng,
  • 9. 5 cũng như đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên. Góp phần truyền cảm hứng hành động đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, hình thành nên một đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có đức, có tài trong xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án góp phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị nói chung, Hồ Chí Minh học nói riêng và là cơ sở lý luận để khai thác tốt hơn di sản Hồ Chí Minh vào quá trình phát triển xã hội. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập trong các chuyên ngành của khoa học chính trị như: Hồ Chí Minh học, chính trị học, xây dựng Đảng cũng như vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết.
  • 10. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ Triết lý là khái niệm có lịch sử ra đời sớm và được bàn luận nhiều trong các công trình nghiên cứu liên quan đến nhân sinh quan, thế giới quan. Nhưng cho đến nay, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu triết lý. Khái niệm triết lý chỉ được luận bàn trong mối quan hệ với triết học hoặc minh triết, cũng có thể được bàn đến trong các nghiên cứu liên quan đến một số triết lý cụ thể như: triết lý phát triển, triết lý giáo dục, triết lý nhân sinh,… Trong những công trình này, các tác giả bước đầu đưa ra khái niệm triết lý, đặc điểm nhận biết, phân biệt giữa triết lý, triết học hay minh triết. Mặc dù còn có những quan điểm chưa thống nhất về vị trí của triết lý trong mối quan hệ với minh triết, triết học nhưng cơ bản các nhà nghiên cứu dần đi đến sự thống nhất về đặc điểm, nội dung, bản chất để xác định vị trí của các khái niệm này trong mối quan hệ với nhau. Nghiên cứu khái niệm triết lý, có thể kể đến Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây [11] của Kim Định. Trong tiểu luận này, tác giả so sánh cả ba khái niệm triết lý, minh triết và triết học. Qua nghiên cứu, ông cho rằng triết lý và minh triết giống nhau ở đối tượng, cả hai lấy cứu cánh con người làm trọng tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên của con người làm mục tiêu. Triết lý và minh triết khác nhau ở phương pháp, minh triết nhìn thẳng trực nghiệm không đưa ra lý sự biện chứng, bàn giải như triết lý. Ông đi đến kết luận, xét về nội tại triết lý thấp hơn minh triết, nhưng lại có giá trị hơn minh triết ở chỗ nó gần với quảng đại quần chúng nhân dân, phần nào giúp quần chúng nhân dân hiểu được minh triết. So sánh triết lý và triết học, tác giả nhận định triết học khác triết lý ở ba điểm: Thứ nhất, triết học không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung tâm suy tư. Thứ hai, triết học theo lối khoa học phê phán và phân tích cố gắng tìm ra những ý niệm độc đáo và tích lũy sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc chặt chẽ. Về mục tiêu, triết học lấy tri thức làm cùng đích, vì thế nó không nhằm
  • 11. 7 thực hiện vào bản thân như triết lý mà nhằm tìm biết sự khách quan. Thứ ba, phương Đông thiên về minh triết và triết lý còn phương Tây thiên về triết học. Như vậy, trong Tiểu luận nghiên cứu Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây, tác giả không xác định các khái niệm triết học, triết lý, minh triết mà là đưa ra các đặc điểm để phân biệt các khái niệm này. Cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu [74], một công trình nghiên cứu của nhiều học giả về phát triển xã hội. Cuốn sách trình bày khái niệm triết học, triết lý và phân tích mối quan hệ về bản chất giữa hai khái niệm. Trong sách, các tác giả trích dẫn quan điểm của Trần Văn Giàu cho rằng, triết học và triết lý không giống nhau, “triết học chủ yếu là lý luận về nhận thức… Còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý; hướng về đạo lý, chứ không chỉ là đạo lý” [74, tr.20-21]. Triết lý chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay không nên chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải. Giữa hai loại vấn đề ấy tuy có quan hệ với nhau, nhưng có khác nhau. Quan hệ với nhau của hai vấn đề có thể hiểu đều là những nội dung của tư tưởng, nhưng phạm trù và nội dung cần tìm hiểu của mỗi vấn đề là khác nhau. Trên cùng mạch luận giải vấn đề, các tác giả trích dẫn quan điểm của Vũ Khiêu, “Triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Triết lý không thể hiện tầm khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà thể hiện ý nghĩ và hành vi có ý nghĩa chỉ đạo cuộc sống con người” [74, tr.21]. Như vậy, triết lý cũng giống như triết học, đều đề cập những vấn đề thuộc phạm trù tư tưởng, nhưng triết lý ở mức độ khiêm tốn hơn triết học về tầm khái quát. Quan điểm này phản ánh sự thâm trầm nhưng hết sức sâu sắc, ý nghĩa của triết lý. Không thể hiện là một hệ thống như triết học nhưng chứa đựng những giá trị quan trọng, cốt lõi của tư tưởng, của đạo lý, trực tiếp chỉ đạo cuộc sống của con người. Cũng bàn về vấn đề này, Hoàng Trinh cho rằng, Triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản được dùng làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con người về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản thân, làm phương châm
  • 12. 8 cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành động sống hàng ngày,… Có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu mặc dầu chưa có triết học với hệ thống các khái niệm của nó [93, tr.8]. Như vậy, Hoàng Trinh cùng quan điểm với Vũ Khiêu khi cho rằng triết lý là những ý tưởng cơ bản, nền tảng cho sự tìm tòi. Quan điểm này có điểm tương đồng với quan điểm triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Tuy nhiên, ở đây ông lại quan niệm đó là những nguyên lý đầu tiên, cơ bản, nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý. Và đi đến khẳng định có những dân tộc có triết lý từ lâu mặc dù chưa có triết học. Từ quan điểm của các giáo sư, cùng với sự phân tích, ví dụ minh chứng cụ thể để so sánh sự khác biệt giữa triết học và triết lý, các tác giả của cuốn sách đi đến nhận định và đưa ra một cách hiểu khác về triết lý. Các tác giả không hướng tới việc đánh giá triết học và triết lý cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào cao hơn cái nào mà chỉ đánh giá về tính hệ thống, mức độ khái quát của các khái niệm. Trong quan niệm của các tác giả, triết lý ở khía cạnh là những kết luận được rút ra, suy ra từ một triết thuyết, một hệ thống các nguyên lý triết học nhất định, như vậy, triết lý cô đọng hơn triết học. Chính đặc điểm này của triết lý tạo nên cảm quan về sự rời rạc của những nội dung triết lý. Khó có thể thấy tính hệ thống khi mỗi nội dung được cô đọng theo một cách và ở mức sâu sắc nhất có thể. Các tác giả còn chỉ ra triết lý là những kết luận được rút ra, triết lý còn là những tư tưởng, những quan niệm, “là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về những hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội” [74, tr.31]. Đưa đến một cách hiểu về triết lý như vậy, cũng cho thấy sự phù hợp trong quá trình phát triển của triết học và triết lý. Rõ ràng, khi các trường phái triết học đã phát triển, được phổ biến sâu rộng nhưng không làm hạn chế hay đánh mất cơ hội ra đời của triết lý, các triết lý vẫn tiếp tục được đúc kết, ra đời và phát huy những giá trị của nó trong đời sống xã hội. Và nó thể hiện rõ nghiên cứu triết học hay triết lý thì đều trên cùng một cấp độ là nghiên
  • 13. 9 cứu tư tưởng, chỉ khác ở góc độ triết học và triết lý hướng đến cái gì, hình thành như thế nào trên cùng một chủ thể tư tưởng. Bài viết Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý [83] của Hồ Sỹ Quý chứa đựng những suy nghĩ, nghiền ngẫm có chiều sâu về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Hồ Sỹ Quý đồng quan điểm với Trần Văn Giàu khi cho rằng triết lý và triết học là hai khái niệm khác nhau. Nhưng trong bài viết, Hồ Sỹ Quý quan niệm “nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn luôn ở trình độ thấp hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy” [83, tr.57]. Quan điểm này thống nhất với quan điểm của các nhà nghiên cứu khác khi so sánh về tính hệ thống, đặc điểm hình thức của triết học và triết lý. Tuy nhiên, khi chỉ ra trong “đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ hơn, phiến diện hơn và có nhiều khả năng chứa đựng mâu thuẫn hơn so với triết học” [83, tr.57], thì đã cho thấy một cách đánh giá vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt với quan điểm triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình của Vũ Khiêu, hay triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản của Hoàng Trinh. Về mặt hình thức thể hiện triết lý, Hồ Sỹ Quý cũng cho rằng “triết lý có thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm,… mang tính khái quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các cách phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngữ pháp” [83, tr.57] và nó cũng có giá trị định hướng cho hoạt động của con người trong đời sống xã hội về mặt thế giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan. Quan điểm này hoàn toàn đồng nhất với quan điểm của các nhà khoa học khi nghiên cứu về triết lý. Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn [2] do Phạm Ngọc Anh chủ biên, các tác giả phân tích, lý giải rõ hơn về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Về mặt hình thức thể hiện, giá trị của triết lý, các tác giả đồng quan điểm với nhận định trong các nghiên cứu trước đó của các nhà khoa học. Trên cơ sở nhận định của các nhà nghiên cứu, các tác giả vừa bổ sung và hệ thống các đánh giá, đưa ra nhận định về triết lý, triết học. Các tác giả nhận định,
  • 14. 10 Triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những nguyên lý triết học, hay cơ sở thực tiễn của con người, được thể hiện dưới dạng những luận điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về cuộc sống, về con người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận, coi đó là nguyên tắc xử thế, phương châm sống và hành động [2, tr.27-28]. Điểm khác trong quan điểm của các tác giả so với các nhà nghiên cứu trước đó khi khẳng định triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những nguyên lý triết học rõ ràng, dứt khoát. Đây là cách một số triết lý được hình thành sau khi khoa học triết học đã ra đời và được biết đến rộng rãi. Quan điểm này có hơi hướng từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trước triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình, hay triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản nhưng chưa khẳng định rõ. Trong sách Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam [21] của Phạm Minh Hạc, nhắc đến ba khái niệm triết học, triết lý, minh triết. Cả ba khái niệm được dẫn theo các cuốn từ điển. Tác giả không đi sâu tìm chỗ giống nhau và điểm khác biệt mà dẫn người đọc hiểu đại thể triết lý là triết học đã được vận dụng vào một trường hợp cụ thể, gắn với cuộc sống thực ở một cấp độ nào đó, trong một phạm vi nào đó. Hay sách, Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [50], các tác giả hiểu về triết lý theo quan điểm nêu trong Từ điển tiếng Việt [77] do Hoàng Phê chủ biên, Triết lý là lý luận về triết học hoặc là quan niệm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Tóm lại, nghiên cứu về triết lý không nhiều, một số công trình nghiên cứu có bàn đến triết lý chỉ nhằm thống nhất nhận thức về triết lý, làm cơ sở nghiên cứu nội dung một triết lý cụ thể. Tổng quan tình hình nghiên cứu triết lý cho thấy nhận thức về khái niệm, đặc điểm nhận biết trong mối quan hệ với triết học của các nhà nghiên cứu là tương đối thống nhất. Các nghiên cứu cũng cho thấy điểm chưa thống nhất trong nhận định về triết lý, nhưng các điểm đó không mâu thuẫn mà chỉ thể hiện khía cạnh quan sát khác nhau. Đặc biệt, các nghiên cứu luôn đặt triết lý trong mối quan hệ với triết học, so sánh, phân biệt các khái niệm, cũng như
  • 15. 11 quan hệ bổ sung cho nhau của các khái niệm. Các công trình nghiên cứu về sau có kế thừa và bổ sung cho các công trình công bố trước đó, ngày càng làm sáng rõ mối quan hệ hay cách hiểu về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Dựa vào tổng quan nghiên cứu triết lý, tác giả luận án có thêm cơ sở để xác định rõ khái niệm, bản chất của triết lý hành động Hồ Chí Minh, hoàn thành mục tiêu luận án đặt ra. 1.2. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HỒ CHÍ MINH Trước những vấn đề đặt ra trong phát triển xã hội, trong nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh, nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh thời gian gần đây được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tần suất xuất hiện các khái niệm triết lý, triết lý phát triển trên các sách, báo, tạp chí, phương tiện truyền thông ngày càng nhiều. Lựa chọn cho mình một triết lý phát triển không chỉ đặt ở cấp độ quốc gia mà còn là vấn đề của từng địa phương, vùng miền, từng doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế,… Tuy nhiên, các công trình chuyên biệt nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh không nhiều. Triết lý Hồ Chí Minh, cách thức tiếp cận triết lý được đề cập sớm trong các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của Trần Văn Giàu. Trong sách Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh [19], Trần Văn Giàu không bàn về triết lý Hồ Chí Minh nhưng đưa ra một gợi ý hết sức quan trọng cho nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh. Đó là, “Đạo đức học Hồ Chí Minh là một bộ phận lớn của triết lý Hồ Chí Minh” [19, tr.164]. Bộ phận lớn ấy chính là, “Tận tụy quên mình, vì đời, vì người, vì nước, vì dân, và suốt đời như vậy đó chỉ có thể là nhân cách của một bậc thánh, một nhà hiền triết hành động” [19, tr.170]. Trong sách Vĩ đại một con người [20], Trần Văn Giàu “xem việc lấy hành động mà xét tư tưởng, như là một phương pháp để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà đó cũng là phương pháp của Nguyễn Ái Quốc sẽ dùng để đi tìm tư tưởng đích thực của một người hay một tổ chức” [20, tr.226]. Tuy nhiên, để lấy hành động mà xét tư tưởng có những trở ngại nhất định, vì thế: Thực ra thì vẫn căn cứ vào tư liệu viết, nhưng khi cần phải theo phương châm xưa “ý tại ngôn ngoại” mới tiếp cận nổi những chỗ thâm thúy nhất của tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh. Lại phải xem toàn
  • 16. 12 bộ cuộc đời hoạt động trước sau như một của Cụ Hồ như là kho tư tưởng triết học phong phú nhất [20, tr.284]. Đây là chỉ dẫn hết sức quý báu trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh, đặc biệt nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu thêm một gợi ý khi nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh, Cụ Hồ là mácxít, thế giới quan của Cụ là duy vật biện chứng. Nhưng chủ nghĩa Mác chưa hề cấm cản người mácxít uyên bác đóng góp tư tưởng triết lý vào vũ trụ quan mácxít làm cho nó phong phú thêm lên. Một chiến sĩ cách mạng Đông phương sao lại không thể, trong lúc mình là mácxít hay chính vì mình là mácxít có kế thừa và làm cho duy vật biện chứng càng có tác dụng tích cực trong nhận thức luận và hành động thực tiễn ở Đông phương [20, tr.285]. Nhận định này lý giải điều đặc biệt, Hồ Chí Minh không có công trình đồ sộ bàn về triết học nhưng về mặt nào đó triết lý Hồ Chí Minh thực tiễn hơn triết học. Thấy rõ Hồ Chí Minh là nhà triết học hành động, Người chỉ thâu nạp những gì cần thiết, hữu ích cho cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Đây là những định hướng quan trọng cho nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh. Triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh không là trọng tâm nghiên cứu trong cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam - mấy vấn đề cốt yếu [74] do Phạm Xuân Nam chủ biên, nhưng sách có một chương bàn về Triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát triển cho đất nước. Phải lấy triết lý phát triển đó làm “một trong những công cụ định hướng hành động quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [74, tr.41-42]. Từ việc nhận định nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát triển đất nước, các tác giả tiến đến bàn về triết lý Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, “Triết lý Hồ
  • 17. 13 Chí Minh nặng về những chiêm nghiệm làm người và ở đời… những quan niệm gắn liền với cách sống, lối sống, với hành vi và phẩm chất của hành vi, với hoạt động cách mạng giải phóng con người và giải phóng dân tộc…” [74, tr.463]. Nhận định này, cùng quan niệm về triết lý Hồ Chí Minh của các nhà nghiên cứu ở các công trình khác. Trong sách, các tác giả đồng tình với Trần Văn Giàu trong quan điểm triết lý Hồ Chí Minh mang thế giới quan triết học mácxít, bổ sung làm phong phú triết học mácxít. Các tác giả chỉ ra, “điều vừa nói không cản trở việc tiếp thu, vận dụng và phát triển phong cách duy lý của các trường phái tư tưởng phương Tây cũng như tinh hoa của các trường phái tư tưởng mà Hồ Chí Minh đã từng lĩnh hội” [74, tr.463]. Đây cũng là quan niệm có sự thống nhất với một số nhà nghiên cứu khác. Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo không luận bàn về một triết lý cụ thể của Hồ Chí Minh, nhưng đề cập đến tên gọi của nhiều triết lý: triết lý nhân sinh, triết lý thân dân, triết lý sống, triết lý hành động, triết lý hạnh phúc, triết lý phát triển, triết lý giáo dục, triết lý đạo đức,… và nhận định về triết lý Hồ Chí Minh, đó là triết lý về lẽ sống ở đời và đạo làm người, triết lý đó có nền tảng thế giới quan khoa học duy vật biện chứng và nhân sinh quan cách mạng. Tác giả khẳng định, “Đó là triết lý hành động chủ động, tích cực và sáng tạo để thực hiện khát vọng giải phóng con người, phát triển xã hội nhằm đạt tới những giá trị đích thực của cuộc sống: Độc lập, Tự do và Hạnh phúc” [3, tr.177]. Mục tiêu Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, nhưng nội dung sách không chỉ là nét phác thảo cơ bản về một số triết lý Hồ Chí Minh mà còn sử dụng một số khái niệm như: triết học hành động; triết học chính trị thực tiễn; triết học nhân sinh và cách mạng, đồng thời nhận định: Triết học mang hình hài, sắc thái, diện mạo của những triết lý Hồ Chí Minh, nó chính là linh hồn của Hồ Chí Minh học - triết học để hành động và phát triển, triết lý nhân sinh quy tụ ở chữ Dân, nó hướng tới Đạo đức Thân Dân và Chính Tâm, nó trở thành lẽ sống và đạo lý ở đời và làm người [3, tr.304].
  • 18. 14 Việc đưa các khái niệm, đặt ra yêu cầu giải quyết, làm rõ mối quan hệ giữa triết học và triết lý trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh theo xu hướng triết học làm nền tảng hình thành triết lý của Hoàng Chí Bảo trùng với quan điểm Trần Nhâm trong sách: Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài [76]. Trong sách này, Trần Nhâm nhận định, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, nhà tư tưởng thiên tài, mà “là nhà tư tưởng, không thể không lấy tư tưởng triết học làm điểm xuất phát cho hệ thống lý luận của mình. Hệ tư tưởng với tư duy triết học của một nhà tư tưởng gắn với nhau như hình với bóng. Không có nhà tư tưởng nào lại không có hệ tư tưởng triết học của riêng mình” [76, tr.470]. Với những nhận định về mối quan hệ giữa triết học và triết lý ở Hồ Chí Minh, cho thấy Hồ Chí Minh khá đặc biệt khi nắm hệ thống quan điểm, hệ tư tưởng triết học của mình - triết học mácxít, nhưng không trình bày các quan điểm tư tưởng của mình thiên về cách mà các nhà triết học làm. Hồ Chí Minh thể hiện hầu hết các quan điểm, tư tưởng phong phú và toàn diện dưới hình hài, màu sắc, diện mạo của triết lý. Đây cũng chính là điều tạo nên sự gần gũi, dễ hiểu, tính khoa học và sâu sắc của triết lý Hồ Chí Minh, cũng như phản ánh đặc điểm hình thành triết lý. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh đáng kể nhất có hai công trình: Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh [25] của Nguyễn Hùng Hậu; Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn [2] của Phạm Ngọc Anh chủ biên được xuất bản. Sách Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh [25], tác giả khẳng định “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là đỉnh cao phương pháp hành động Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ cái bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra là độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc, dân chủ cho nhân dân. Mọi sự vạn biến trong hành động, chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh suốt cuộc đời xoay quanh cái bất biến xác định. Tác giả cho thấy sự vạn biến trong hành động, chỉ đạo của Hồ Chí Minh không phải là những thay đổi giản đơn mà nó chứa đựng sự sâu sắc của tri thức, kinh nghiệm và vốn sống. Tìm hiểu cụ thể từng sự kiện, từng hành động thấy rõ nó mang tính nghệ thuật, thể
  • 19. 15 hiện rõ sự thâu thái tinh hoa văn hóa, nắm chắc thời cuộc và vạn biến - thay đổi để giành lấy thế chủ động cho mình. Trên cơ sở nhận thức về cái bất biến trong tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất vận dụng triết lý này vào sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước trên một số lĩnh vực. Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giá trị lý luận và thực tiễn [2], các tác giả phân tích khái niệm: triết lý, triết lý phát triển, triết lý phát triển Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa triết lý với triết học. Sách thể hiện những khảo cứu về triết lý Việt Nam, triết lý phương Đông và phương Tây, tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng - lý luận hình thành nên triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Trên cơ sở làm rõ khái niệm, nguồn gốc hình thành, các tác giả tìm hiểu về Bản chất của triết lý phát triển Hồ Chí Minh và Nội dung của triết lý phát triển Hồ Chí Minh; đồng thời, Vận dụng triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Các tác giả trình bày những nghiên cứu khá toàn diện về triết lý phát triển Hồ Chí Minh - những vấn đề đặt ra trong phát triển ở Việt Nam. Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên biệt, dày dặn, công phu kể trên, còn một số bài viết trên các tạp chí, kỷ yếu Hội thảo khoa học có bàn về triết lý Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nội dung các bài viết, cũng như quan điểm thể hiện trong bài viết đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu của chính tác giả được xuất bản thành sách. Chính vì vậy, trong tổng quan đánh giá về các công trình, bài viết tạp chí, luận án không đi vào phân tích, đánh giá lại các công trình, bài viết này. Các nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh chưa được xã hội hóa, còn là luận án, luận văn không có nhiều, đáng kể nhất trong số này có bài của Phan Duy Anh nghiên cứu về Triết lý chính trị Hồ Chí Minh: Cơ sở hình thành và nội dung cơ bản. Trong bài, tác giả đưa ra cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn hình thành triết lý chính trị Hồ Chí Minh và những nội dung cơ bản. Trong đó, Triết lý về mục tiêu và giá trị chính trị; Triết lý về quá trình chính trị; Triết lý về chủ thể chính trị; Triết lý về thể chế chính trị là những nội dung triết lý chính trị Hồ Chí Minh được đề cập.
  • 20. 16 Trong nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh, đa số các nhà nghiên cứu khi luận giải, làm rõ nội dung một triết lý cụ thể đều có luận bàn đến triết lý hành động Hồ Chí Minh. Đây là nội dung sẽ được trình bày rõ hơn trong luận án. Có thể đánh giá nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh chưa nhiều, các công trình nghiên cứu chuyên biệt về một triết lý còn ít, đa số các nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh mới dừng lại ở cấp độ bài viết tạp chí hay bài viết chuyên đề khoa học. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh cần tiếp tục nhận được quan tâm hơn nữa từ các nhà khoa học, giới nghiên cứu Hồ Chí Minh học. 1.3. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH Cho đến nay, chưa có nhà khoa học nào lấy triết lý hành động Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, trong nghiên cứu các triết lý của Hồ Chí Minh hoặc trong nghiên cứu phương pháp, phong cách hay tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, các nhà khoa học ít nhiều có đề cập đến triết lý hành động Hồ Chí Minh. Qua các công trình nghiên cứu, tiếp cận từ góc độ nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, luận án đánh giá một số nội dung sau: - Về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh, trong cuốn Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo cho rằng, cuộc đời Hồ Chí Minh là cuộc đời của một con người mọi hành động đều xuất phát từ Dân. “Người hướng tới dân, hòa trong dân, hóa thân vào nhân dân, lấy sức mạnh từ lực lượng đoàn kết của dân, mưu sự vững bền từ đồng tâm nhất trí, đoàn kết, đồng thuận của muôn dân” [3, tr.10]. Tác giả khẳng định, từ những hành động đó mà “triết lý Hồ Chí Minh là triết lý thân dân, là triết lý nhân sinh, triết lý hành động [3, tr.10]. Đây không chỉ là điểm nổi bật, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh mà nó là mục tiêu cơ bản, mục tiêu cốt lõi của mọi triết lý Hồ Chí Minh, được triết lý hành động Hồ Chí Minh chuyển tải vào thực tiễn cuộc sống và được thể hiện trong mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trong sách, Hoàng Chí Bảo không khẳng định triết lý hành động Hồ Chí Minh có giá trị định hướng cho các triết lý khác, nhưng nhận thấy: “Lôgíc trong triết lý sống ở đời và làm người của Hồ Chí Minh đã từ triết lý hành động, triết
  • 21. 17 lý nhân sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thấm sâu vào triết lý giáo dục, đào tạo để phát triển con người, đem lại hạnh phúc làm người cho từng người và cho tất cả” [3, tr.186]. Điều đó cũng có nghĩa là thấm sâu vào mỗi triết lý là mục tiêu, là cái đích hướng tới của triết lý hành động. Ngược lại triết lý hành động cũng có thể được rút ra từ sự biểu đạt của các triết lý khác, triết lý hành động là cơ sở biểu đạt cho các triết lý khác. Điều này không chỉ khẳng định giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh mà còn gợi ý để luận giải làm rõ triết lý hành động Hồ Chí Minh. Cũng trong sách này, Hoàng Chí Bảo cho thấy chiều sâu của văn hóa, đạo lý tinh thần Việt Nam ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý Hồ Chí Minh. “Ở đời” và “làm người” là điều cốt lõi của triết lý ấy, nó làm cho triết lý Hồ Chí Minh về thực chất là triết lý nhân sinh, triết lý hành động. Vì nhân sinh phải hành động, trước hết và chủ yếu là hành động” [3, tr.178]. Đây là thứ động lực nội sinh mạnh mẽ để con người hành động. Một giá trị được đúc rút, thấm sâu vào tâm hồn mỗi người con đất Việt qua ngàn đời chiến đấu và dựng xây. Là thứ động lực khiến con người đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh, quên mình vì Tổ quốc, là mục tiêu cho mọi hành động. Trong sách Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng thiên tài [76], Trần Nhâm cho rằng: “Đặc điểm nổi bật của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học hành động và nhân sinh, triết học giải phóng và phát triển” [76, tr.471]. Và “triết học Hồ Chí Minh là triết học hành động, vì triết học đó lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo, biến đổi xã hội Việt Nam làm mục tiêu cho hành động cách mạng của cả cuộc đời mình” [76, tr.472-473]. Tác giả khẳng định tư duy triết học Hồ Chí Minh là tư duy triết học hành động vì thế vượt qua lối mòn, qua hướng đi của các bậc tiền bối, một cách đầy tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh lựa chọn cho mình một hướng đi khác với một câu hỏi đầy trăn trở là làm thế nào để giành được độc lập, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho đồng bào. “Lẽ sống ở đời và đạo làm người là nền tảng thế giới quan và nhân sinh quan của triết lý hành động vì nhân sinh của Hồ Chí Minh. Triết lý đó lấy việc
  • 22. 18 giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người làm mục tiêu hành động” [76, tr.504]. Qua đó, có thể thấy quan điểm của Trần Nhâm đồng nhất với các nhà nghiên cứu khác khi nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa nhân văn hành động Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong quan điểm này, Trần Nhâm nghiêng nhiều hơn về cách tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh. Lẽ sống ở đời và đạo làm người trở thành nền tảng thế giới quan và nhân sinh quan hành động Hồ Chí Minh. Đồng thời Trần Nhâm cho rằng: Triết lý ấy chỉ có thể nảy sinh, tồn tại và phát triển từ con người có mục đích và lý tưởng, có hoài bão và lòng tin lớn lao, có ý chí và bản lĩnh kiên cường. Điểm tựa cho suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh chính là triết lý hành động vì nhân sinh gắn tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách với cuộc đời, sự nghiệp, lẽ sống và đạo làm người của Người [76, tr.504-505]. Trong sách này, Trần Nhâm cũng có quan điểm tương đồng với Hoàng Chí Bảo khi cho rằng Hồ Chí Minh thấy rõ muốn hành động phải hiểu biết và sự hiểu biết ấy phải được tích lũy qua học tập không ngừng để thâu thái kiến thức, tích lũy vốn sống và kinh nghiệm nhằm nâng cao hiểu biết, làm cơ sở cho hành động. Và “phải chăng ngay từ đầu, phương hướng ấy, triết lý ấy đã chi phối lẽ sống, đạo làm người và hành động vì nhân sinh của Hồ Chí Minh” [76, tr.504]. Do định hướng nhận thức như vậy, “suốt cuộc đời mình, trong nhận thức cũng như trong hành động, Hồ Chí Minh luôn trung thành với nguyên tắc nhận thức luận của mình là gắn lý luận với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành” [76, tr.564]. Qua các quan điểm, Trần Nhâm khẳng định tư duy triết lý Hồ Chí Minh là tư duy triết lý thực tiễn, tư duy triết lý hành động. Tư duy triết lý Hồ Chí Minh xoay quanh câu hỏi làm sao để dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Đây là mấu chốt làm cho triết lý hành động Hồ Chí Minh không hề phi lịch sử, đầy tính thực tiễn. Từ khi nảy sinh triết lý Hồ Chí Minh có điểm
  • 23. 19 tựa là thực tiễn lịch sử, thực tiễn đấu tranh của dân tộc. Triết lý được hoàn chỉnh, trở nên sâu sắc trong quá trình thực hiện lẽ sống và đạo làm người của con người có mục đích, có lý tưởng, hoài bão, niềm tin, bản lĩnh và nghị lực kiên cường - Hồ Chí Minh. Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn, các tác giả không nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, nhưng từ nghiên cứu triết lý phát triển Hồ Chí Minh, các tác giả nhận định: “Triết lý phát triển Hồ Chí Minh bắt đầu từ triết lý giải phóng dân tộc đến triết lý phát triển đất nước và hòa quyện trong đó là triết lý hành động” [2, tr.228]. Quan điểm cho thấy sự tương đồng với quan điểm trong sách Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu. Nhìn một cách tổng quát, đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng - hành động. Triết lý của Hồ Chí Minh về một xã hội phát triển và giải pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện quá trình phát triển xã hội không chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà nó được hòa quyện vào mọi hành động của Người; nó thể hiện ngay trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập và rèn luyện [74, tr.123-124]. Với quan điểm triết lý Hồ Chí Minh hòa quyện vào mọi hành động và đây là giải pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện phát triển xã hội. Tiếp cận triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong nghiên cứu, các tác giả khẳng định, “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hầu hết các chủ đề, theo chúng tôi, ngoài việc tìm hiểu, khái quát từ văn bản, còn cần thiết phải tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua các triết lý hành động của Người” [74, tr.461]. Thực hiện các triết lý hành động của Người cũng nhằm mục tiêu phát triển xã hội, mục tiêu bao trùm các mục tiêu khác bắt đầu từ giải phóng, đổi mới, phát triển, nhân văn, nhân đạo,… của triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trong sách Suy ngẫm về triết Hồ Chí Minh [26], Nguyễn Hùng Hậu nhận định: “Ở Hồ Chí Minh, triết lý và hành động không tách rời nhau; triết lý hướng đến hành động, bao chứa xu hướng hành động, hành động nói lên triết lý, trong
  • 24. 20 hành động đã bao hàm triết lý; từ đó hình thành nên triết lý hành động mà không phải vĩ nhân nào cũng có được” [26, tr.21]. Đối với tác giả luận án, nhận định triết lý hành động hòa quyện trong các triết lý khác, gợi ý cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh, làm rõ sự biểu đạt, giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trong sách Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh [9], Thành Duy cho rằng: “Vấn đề không phải ở chỗ khẳng định có tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mà quan trọng là tìm hiểu triết lý hành động tạo nên chủ nghĩa nhân văn mang đặc điểm và sắc thái riêng của Người” [9, tr.27-28]. Tác giả khẳng định, đó không phải là quá trình nhận thức lý luận để hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mà “phải trải qua hoạt động thực tiễn, biến tình cảm yêu thương con người thành ý chí cách mạng, thành nguyên tắc và phương pháp giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem lại hạnh phúc, tự do thật sự cho con người” [9, tr.27-28]. Mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh, mọi hành động trong quá trình cách mạng của Hồ Chí Minh đều hướng tới mục tiêu nhân văn cao đẹp đó. Thành Duy nhấn mạnh phải thông qua hành động thực tiễn, có nguyên tắc và phương pháp mới đạt mục tiêu. Tác giả chỉ ra, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nối triết lý hành động theo triết học mácxít mà quan trọng hơn là Người tìm ra con đường hành động theo triết lý nhân văn mácxít phù hợp với điều kiện và thực tiễn xã hội Việt Nam. Qua những nội dung Thành Duy trình bày trong sách Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, tác giả cũng chỉ ra một số nội dung mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh, có điều chưa khái quát nội dung đó theo hướng tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Về phương pháp hành động Hồ Chí Minh, trong sách Vĩ đại một con người [20], Trần Văn Giàu khẳng định: “Ở Nguyễn, tri và hành thống nhất, sáng tạo tư tưởng là sáng tạo trong thực tiễn công tác, thực tiễn chứng minh và bổ sung tư tưởng, hai mặt không hề tách rời nhau” [20, tr.232]. Đánh giá này cho thấy sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hành động Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa là nguyên tắc tối cao mà còn là phương pháp để vận dụng, sáng
  • 25. 21 tạo, phát triển lý luận, làm phong phú lý luận. Điều này, đã được Trần Văn Giàu đề cập trong sách Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Hẳn Cụ Hồ là một người hành động, một nhà hành động xuất sắc, song nhận ra như thế mà không nói rằng hành động của ông Hồ là hành động thủy chung như nhất, tức là hành động theo một hệ thống tư tưởng, chủ trương trước sau như một, thì đó là nói có một phần ông Hồ mà quên phần chính, phần hồn, phần lý tính;… Hành động thực tiễn xuất sắc chính là do lý luận tư tưởng đúng đắn [19, tr.10]. Ở Hồ Chí Minh, hành động theo một hệ thống tư tưởng là hành động cả đời vì nước, vì dân, đó là mục tiêu hành động cốt lõi, quán xuyến mọi hành động. Hay cũng nên hiểu hệ thống tư tưởng ấy không chỉ có mục tiêu mà bao gồm cả nguyên tắc, phương pháp,… hình thành hệ thống lý luận để hành động và đó là phần lý luận tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định, “có thể nói rằng từ Vương Dương Minh, qua Tôn Dật Tiên, đến Hồ Chí Minh mới thấy có một điển hình của sự thống nhất giữa tri và hành, giữa lý luận và thực tiễn” [19, tr.10]. Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo cho rằng: “Hồ Chí Minh là người thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn và lấy hành động làm điều căn bản trong triết lý sống của mình” [3, tr.119]. Từ quan điểm thực tiễn, Hồ Chí Minh bằng hành động để cụ thể hóa và thực chứng về thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng mácxít trong cách mạng Việt Nam. Tác giả khẳng định đó là thực hành triết học duy vật biện chứng vào đời sống, vào thực tiễn cách mạng. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh “nổi bật ở hành động thực tiễn, ở sự thực hành phép biện chứng duy vật” [3, tr.160]. Hoàng Chí Bảo khẳng định sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh. “Người đã nhận đường từ tổng kết thực tiễn,… lý luận thống nhất với thực tiễn, nhận thức để hành động” [3, tr.9]. Hơn thế, “Hồ Chí Minh tổng kết thực tiễn vừa là thực hành lý luận vừa là khảo duyệt, đánh giá lý luận, nâng cao lý luận bằng sức sống của thực tiễn đồng thời mở
  • 26. 22 rộng và làm sâu sắc thêm bản chất của thực tiễn nhờ sức mạng của lý luận khoa học và cách mạng” [3, tr.9]. Hoàng Chí Bảo khẳng định Hồ Chí Minh sớm nhận ra cái đích, mục tiêu của mình là hành động, là thực hành sự lãnh đạo của lý luận, Hồ Chí Minh thể hiện phương pháp trong hành động, bằng việc làm, và “Người thực hành phép biện chứng trong cuộc sống, trong thực tiễn đấu tranh cách mạng một cách thành thục” [3, tr.33]. Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng tính hữu ích thực tế, bất cứ việc gì dù to hay nhỏ cũng phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, thiết thực, có ích không phù phiếm, khoa trương, hình thức,… Thực tiễn là điểm xuất phát mà cũng là chỗ trở về, chỗ đi tới của mọi nhận thức [3, tr.136-137]. Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn chỉ ra, “Người là một con người có lòng tin mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí, nghị lực phi thường; có đầu óc thực tiễn, thiết thực cụ thể, lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm” [16, tr.67]. “Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa cơ sở xuất phát và quyết định mọi nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh là quan điểm thực tiễn và nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn” [16, tr.295]. Khi luận bàn về phương pháp hành động Hồ Chí Minh, trong các công trình nghiên cứu, các tác giả đặc biệt quan tâm đến Dĩ bất biến ứng vạn biến như là nguyên tắc, phương pháp luận hành động Hồ Chí Minh. Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo chỉ ra nó “là triết lý hành động, phương châm công tác, cách ứng xử của Người” [3, tr.168]. Biểu hiện của nó là “sự kết hợp giữa tính kiên định về nguyên tắc, lập trường, quan điểm với tính linh hoạt về phương pháp, biện pháp, sách lược, mưu lược, mềm dẻo và uyển chuyển trước mọi thay đổi của tình hình, sự kiện” [3, tr.168]. Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong khi luận bàn về phương pháp Hồ Chí Minh, tác giả nhấn mạnh đến Dĩ bất biến ứng vạn biến, và khẳng định “nhiều tác giả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cho “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là nguyên
  • 27. 23 tắc xem xét và hành động số một của Hồ Chí Minh trong giải quyết những vấn đề chiến lược và sách lược” [16, tr.305]. Tác giả nhấn mạnh, Dĩ bất biến ứng vạn biến là quan điểm, phương pháp cách mạng, khoa học, là sự vận dụng tổng hợp các nguyên tắc, quy luật của phép biện chứng duy vật từ nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử đến phát triển” [16, tr.306]. Và khẳng định “Dĩ bất biến ứng vạn biến” không chỉ là một nguyên tắc cụ thể mà là phép biện chứng Hồ Chí Minh, là phương châm xem xét và hành động đúng đắn, khoa học được Người vận dụng, xử lý thành công trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, mọi tình huống” [16, tr.306]. Trong sách Triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh [25], tác giả Nguyễn Hùng Hậu cho rằng dĩ bất biến ứng vạn biến là đỉnh cao phương pháp hành động Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định chữ dĩ nói lên triết lý không phải để triết lý, mà triết lý phải dẫn đến làm, đến hành động. Đó là triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và thực tiễn liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Đó chỉ có thể là triết lý sinh ra trong hoạt động thực tiễn, không phải là lý luận suông, có tính tư biện. Đây là công trình nghiên cứu có đánh giá sâu sắc về chữ dĩ với ý nghĩa triết lý để hành động, sinh ra trong hành động, vạn biến trong hành động. Từ những nghiên cứu, lập luận, tác giả nêu một số giải pháp vận dụng triết lý Dĩ bất biến ứng vạn biến trong thời đại ngày nay. Xác định yếu tố bất biến trong bối cảnh đất nước và quốc tế mới, cũng như những tác động của bối cảnh đến những yếu tố bất biến để có lựa chọn thích hợp cho sự phát triển đất nước. Về cơ bản, Dĩ bất biến ứng vạn biến trong tư tưởng, phương pháp hành động Hồ Chí Minh được nhiều học giả, nhà nghiên cứu đề cập và khai thác ở nhiều góc độ. Có thể thấy Dĩ bất biến ứng vạn biến khi là phương châm, là mục tiêu hành động, có khi lại là nguyên tắc, phương pháp hành động. Nhiều nhà nghiên cứu còn khẳng định Dĩ bất biến ứng vạn biến là phương pháp luận hành động. Hay có quan điểm khẳng định Dĩ bất biến ứng vạn biến là đỉnh cao nghệ thuật hành động Hồ Chí Minh. Điều đó không chỉ khẳng định tính khoa học,
  • 28. 24 biện chứng cách mạng mà còn cho thấy sự tinh tế, sâu sắc, uyển chuyển đặc sắc của tư duy phương Đông trong tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu có quan điểm thống nhất với nhau và trong các nghiên cứu không chỉ dừng lại xem xét Dĩ bất biến ứng vạn biến ở một góc độ mà thường ở nhiều góc độ khác nhau, để khẳng định giá trị của Dĩ bất biến ứng vạn biến trong di sản Hồ Chí Minh. - Về hình thức biểu đạt triết lý Hồ Chí Minh, trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh tác giả nhận định: Triết lý cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt ra khỏi câu chữ lời văn của Người, càng không phải trên bề mặt câu chữ mà thấm sâu, ẩn kín đằng sau, bên trong câu chữ ấy, hơn thế nữa nó thấm nhuần trong hoạt động của Người giữa cuộc đời và trong dân chúng. Triết lý ấy hàm súc, cô đọng, mang phong vị cổ điển của truyền thống phương Đông “ý tại ngôn ngoại, hàm súc dư ba”. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn mà tư tưởng ở giữa hai dòng chữ. Nhà tư tưởng ấy vĩ đại, sống động bởi tư tưởng và hành động đều xuất phát từ cuộc sống của dân, vì dân mà sống, tranh đấu, yêu thương cho trọn đời [3, tr.193]. Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét, đối với vấn đề phức tạp, lý luận sâu sắc, thực tiễn cách mạng đa đạng, Người thường “đề cập một cách giản dị dễ hiểu, gắn nguyên lý với hành động, lý luận với thực tiễn, gắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông” [16, tr.63]. Nhận xét cho thấy hành động của Hồ Chí Minh luôn có nguyên lý chỉ dẫn, là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời khẳng định, sự thống nhất giữa những nguyên lý phổ biến với hành động, với thực tiễn ở Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện trên bề mặt mà còn là sự thống nhất trong chiều sâu nền tảng văn hóa dân tộc. Điều này đem lại giản dị, dễ hiểu nhưng không giản đơn mà sâu sắc, khoa học của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
  • 29. 25 Hoàng Chí Bảo nhận thấy sự biểu đạt triết lý hành động Hồ Chí Minh chính ở “Nói và làm đi đôi với nhau, nhất quán từ lối sống đến hành động, trong cả cuộc đời, đó là thước đo hàng đầu đối với đạo đức và nhân cách” [3, tr.11] của Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định ở Hồ Chí Minh, “cái chủ yếu, cái đích vẫn là hành động. Lời nói phục vụ cho hành động, dẫn tới hành động, qua hành động mà thấy lời nói (ở đây là tư tưởng và phương pháp) chân xác đến đâu, có giá trị và ý nghĩa tới mức nào” [3, tr.52]. Đồng thời chỉ rõ cái tạo nên sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh chính là “tất cả phải hướng tới dân, vì quyền lợi của dân, hạnh phúc của dân” [3, tr.53]. Tác giả chỉ ra: Người chủ trương hành động là chủ yếu, nói ít làm nhiều, đã viết và nói thì phải ngắn, gọn, rõ ràng, dễ hiểu, sao cho quần chúng hiểu đúng để làm đúng. Chỉ nói và viết những khi cần thiết. Lấy kết quả và tác dụng của những việc làm thiết thực mà thuyết phục dân chúng. Đặc biệt là, Người luôn luôn nhấn mạnh lời nói phải đi đôi với việc làm, phải nhất quán giữa động cơ và hành động, từ việc lớn tới việc nhỏ, cái gì cũng phải rõ ràng, thấu đáo, cụ thể, có chương trình, biện pháp, có kế hoạch và cách làm với bước đi hợp lý [3, tr.179]. Về vấn đề nói đi đôi với làm trong hành động Hồ Chí Minh, biểu đạt triết lý hành động Hồ Chí Minh cũng được nhiều nhà nghiên cứu luận bàn. Trong sách Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh [78], Bùi Đình Phong khẳng định: Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa nói và làm. Triết lý sống của Người là “ở đời và làm người”, tức là phải “thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức”,… Tư tưởng và hành động của Người là đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho mỗi người và muôn người,… [78, tr.221- 222]. Quan điểm của Bùi Đình Phong tiếp tục khẳng định sự thống nhất giữa nói và làm ở Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác giả chỉ ra sự thống nhất giữa động lực hành động và mục tiêu hành động trong nói và làm ở Hồ Chí Minh. Nó không
  • 30. 26 chỉ dừng lại là nguyên tắc hành động mà tác giả xem nó như một nguyên tắc đạo đức, đạo đức hành động Hồ Chí Minh. Đây cũng là quan điểm mà ta thấy trong sách Minh triết Hồ Chí Minh [35], Vũ Ngọc Khánh đã đề cập. Ta thường nói đến nguyên tắc: nói và làm đi đôi (ngôn hành hợp nhất), nhắc ra để làm một lời khuyên bảo hay chỉ dẫn. Quần chúng Việt Nam không xem đó là một sự chỉ dẫn, một sự nhắc nhở mà xem là một nội dung đạo đức hẳn hoi. Những lý thuyết đạo đức nêu lên, dẫn chứng thường không được bàn bạc tranh cãi xem giá trị lý luận của nó như thế nào (họ không có trình độ và cũng không quen làm việc đó). Nhưng họ cần thấy lý thuyết ấy đã được cụ thể hóa ra sao trong hành vi, trong tư cách của con người [35, tr.13]. Và trong sách Luận bàn minh triết và minh triết Việt [27], Hoàng Ngọc Hiến còn khẳng định mạnh mẽ hơn khi cho rằng: “Nói đi đôi với làm” là một giá trị hằng hữu của minh triết Hồ Chí Minh” [27, tr.51]. “Những “tấm gương sống”, những “người tốt” có sức thuyết phục hồn nhiên và sâu sắc vì họ là hiện thân của công việc, của lao động, của thực hành, của “miệng nói tay làm”, của “nói ít làm nhiều”, họ là sự hiện thân của minh triết Hồ Chí Minh” [27, tr.53]. - Về con đường hình thành triết lý, trong sách Vĩ đại một con người, Trần Văn Giàu nhận thấy tri của Hồ Chí Minh cũng được hình thành theo cách riêng, thông qua hoạt động yêu nước và cách mạng với đồng đội, đồng bào, đồng tâm trên khắp thế giới, thông qua thực tiễn Hồ Chí Minh “tích lũy kinh nghiệm cá nhân, quốc gia và quốc tế, từng vụ từng thời sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, từ đó nảy sinh tư tưởng, lý luận làm sáng tỏ thêm, làm phong phú thêm học thuyết chứa đựng trong sách vở của các hiền triết tiền bối và của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin” [20, tr.231]. Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh tác giả Hoàng Chí Bảo chỉ ra, Hồ Chí Minh biết rõ nhận thức là một quá trình, phải trải qua hành động, bằng hành động trong thực tiễn mới biết mình hay, dở ở chỗ nào, mạnh yếu ra sao để không ngừng rút kinh nghiệm, sửa chữa, bổ sung làm cho mình mau chóng tiến bộ
  • 31. 27 và dần trở nên hoàn thiện. “Lấy hành động làm lẽ sống nên Hồ Chí Minh đã lao động và tranh đấu không mệt mỏi, đồng thời Người kiên trì học tập, bằng mọi con đường tự học để thâu thái kiến thức, tích lũy vốn sống và tạo thành kinh nghiệm tạo thành hiểu biết để hành động” [3, tr.178]. Những hiểu biết của Người được tích lũy từ trong sách vở, nhưng đặc biệt quan trọng là tích lũy qua lao động và thực tiễn đấu tranh. Lấy hành động làm điều căn bản trong triết lý sống của mình, Hồ Chí Minh “biến mọi tri thức và kinh nghiệm thành phương pháp ứng xử và hành động với một thái độ độc lập, tự chủ, sáng tạo, không bị cầm tù bởi giáo điều sách vở, không chịu lệ thuộc vào những kết luận đã có trước, những lối mòn khuôn sáo đã định hình” [3, tr.178]. Và hành động luôn lấy thực tiễn làm căn cứ thì cũng không thể có gì là giáo điều, sách vở có thể tồn tại ở Hồ Chí Minh. Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho thấy thông qua thực tiễn phong phú, sinh động làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển ngày càng toàn diện. “Nó là kết quả của sự tác động biện chứng giữa nhận thức và hành động, lý luận và thực tiễn, vì vậy mà ngày càng tiếp cận với chân lý của cuộc sống” [16, tr.66]. Thực tiễn hành động Hồ Chí Minh chỉ ra rằng không chỉ có sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mà còn là sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, nó nặng yếu tố chủ quan của con người, nó chứng tỏ lý luận được tiêu hóa, thấm nhuần, biến thành hành động cụ thể. Một số nội dung triết lý về động lực hành động, phát huy động lực hành động Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu đề cập, trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo chỉ ra, “Để hành động, Người còn chú trọng xây dựng tổ chức, lực lượng, phát động thành phong trào thực tiễn và tự mình làm gương trong những hành động kiểu mẫu” [3, tr.151]. Đây là những vấn đề căn bản trong nội dung động lực hành động của triết lý hành động Hồ Chí Minh. Muốn thống nhất hành động phải có lãnh đạo hành động. Có lãnh đạo rồi phải triển khai trên thực tế, biến thành các phong trào hành động rộng lớn, thông qua
  • 32. 28 các hình thức thi đua. Được làm gương, cũng như được nêu gương là một động lực thúc đẩy hành động của con người. Hay vấn đề Hồ Chí Minh nhận thức về thời đại, quy luật thời đại để hành động, Phan Ngọc Liên trong sách Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động cách mạng [55], cho rằng “Sự cống hiến của Hồ Chí Minh được thế giới công nhận, một phần không nhỏ là do người đã đạt được sự thống nhất trong nhận thức về thời đại và hành động theo xu thế chung, hợp quy luật của thời đại” [55, tr.62]. Đánh giá khẳng định vai trò của nhận thức thực tiễn trong hành động cách mạng. Tuy không trình bày sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn hay là sáng tạo lý luận trong chính thực tiễn hành động thành chương, mục, nhưng cuốn sách cho thấy tính thống nhất biện chứng giữa nhận thức lý luận và hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh, cũng như khẳng định thực tiễn là cơ sở để Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận của mình, phù hợp với xu thế chung, quy luật thời đại. - Về giá trị tư tưởng, triết lý Hồ Chí Minh, hầu hết các sách, công trình nghiên cứu về tư tưởng, triết lý, hay đề cập triết lý hành động Hồ Chí Minh đều có nhận định, đánh giá về những giá trị, nêu phương hướng vận dụng vào công cuộc xây dựng, đổi mới, hội nhập của đất nước hiện nay. Trong sách Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sau khi phân tích về cái bất biến, mối quan hệ giữa cái bất biến và cái vạn biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả dành Chương ba để phân tích về cái bất biến và cái vạn biến trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Giá trị triết lý Dĩ bất biến ứng vạn biến Hồ Chí Minh thể hiện ở mục tiêu: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [25, tr.158]; là “Hội nhập nhưng không hòa tan, hội nhập nhưng vẫn giữ độc lập tự chủ” [25, tr.163]; là kiên định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ” [25, tr.175]. Trong sách, Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu, khi bàn về Triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh các tác giả khẳng định:
  • 33. 29 Nội dung cơ bản của triết lý Hồ Chí Minh về phát triển xã hội, đặc biệt là linh hồn của triết lý phát triển đó - kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội nhằm phát triển theo hướng nhân văn, phát triển bền vững - chính là quan điểm phát triển khoa học, đúng đắn và tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay [74, tr.124]. Trong sách, Triết lý phát triển Hồ Chí Minh giá trị lý luận và thực tiễn, các tác giả khẳng định: “Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - cơ sở lý luận xác lập và hoàn thiện triết lý phát triển Việt Nam hiện đại” [2, tr.226]. Những cơ sở lý luận được các tác giả chỉ ra trước đó trong nội dung triết lý phát triển Hồ Chí Minh là lý luận về mục tiêu trên ba phương diện cơ bản: phương diện vật chất - kinh tế; phương diện chính trị; phương diện văn hóa - xã hội và con đường phát triển Việt Nam: xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Lý luận về mô thức phát triển đất nước, giữa phát triển đồng đều, toàn diện các mặt đời sống của xã hội Việt Nam với xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong phát triển, cũng như mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Đây là những nội dung, giá trị nổi bật của triết lý phát triển Hồ Chí Minh được các tác giả chỉ ra phương hướng vận dụng trong điều kiện phát triển hiện nay của đất nước. Tác giả luận án tổng quan một số công trình đánh giá về giá trị triết lý Hồ Chí Minh nhằm có cơ sở, cũng như cách tiếp cận khi đánh giá triết lý hành động Hồ Chí Minh về giá trị đối với dân tộc và thời đại của triết lý này. Tóm lại, nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh chưa nhiều, các nghiên cứu có đề cập triết lý hành động Hồ Chí Minh còn ở mức độ là những nét vẽ đầu tiên chưa hoàn thiện. Trong các công trình nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh, các tác giả có sự kế thừa kết quả của những công trình nghiên cứu trước đó, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu làm rõ triết lý hành động Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ đặt ra trong nghiên cứu Triết lý hành động Hồ Chí Minh là tiếp tục làm rõ cơ sở hình thành, chỉ ra bản chất, nội dung cơ bản, giá trị và ý nghĩa thời đại của triết lý.
  • 34. 30 1.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LUẬN ÁN 1.4.1. Kết quả các công trình nghiên cứu đạt được Qua tìm hiểu, đánh giá kết quả nghiên cứu của những công trình được công bố có đề cập đến triết lý, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh, tác giả luận án nhận thấy các công trình nghiên cứu đã đề cập những vấn đề sau: Thứ nhất, qua các công trình, các tác giả cơ bản thống nhất khái niệm triết lý, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa triết học và triết lý Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa triết lý hành động Hồ Chí Minh với các triết lý khác của Hồ Chí Minh. Không trình bày cụ thể, nhưng các công trình đều đánh giá mối quan hệ giữa triết lý, triết học hay các triết lý với nhau trên cùng một cấp độ là nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ hai, các nhà nghiên cứu khẳng định Hồ Chí Minh có nhiều triết lý như triết lý phát triển, triết lý về dân, triết lý nhân sinh, triết lý đạo đức, triết lý giáo dục,… và khẳng định có triết lý hành động Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh, triết lý về mọi vấn đề được thể hiện bằng hành động cụ thể, hình thành nên triết lý hành động, thông qua triết lý hành động Hồ Chí Minh để biểu đạt cho các triết lý khác. Triết lý hành động Hồ Chí Minh hòa quyện trong các triết lý khác. Thứ ba, các nhà nghiên cứu nhận định triết học Mác - Lênin là nền tảng cơ bản hình thành triết lý Hồ Chí Minh. Các nhà nghiên cứu thống nhất, Hồ Chí Minh là nhà triết học thực hành. Người vận dụng các nguyên lý, quy luật, các cặp phạm trù triết học Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam theo cách người Việt Nam, người phương Đông, thực hiện cải tạo và phát triển xã hội theo đúng tinh thần Mác - Lênin, hình thành nên triết lý hành động Hồ Chí Minh. Thứ tư, các công trình nghiên cứu khẳng định có triết lý hành động Hồ Chí Minh, nêu ra một số khía cạnh nội dung, biểu hiện của hình thức, mối quan hệ của triết lý hành động với các phạm trù đạo đức, nhân văn,… hay mối quan hệ giữa triết lý hành động với triết lý phát triển Hồ Chí Minh nhưng chưa đầy đủ và chỉ đặt trong mục tiêu nghiên cứu nội dung khác.
  • 35. 31 Thứ năm, các công trình nghiên cứu khi đề cập đến triết lý Hồ Chí Minh, vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm và tần suất xuất hiện nhiều là: triết lý về dân, triết lý thân dân, mục tiêu hành động là giải phóng nhân dân, giải phóng con người, giải phóng xã hội; lý luận gắn liền với thực tiễn là nguyên tắc tối cao, là cái đích cho hành động; lời nói đi đôi với việc làm là một trong những nội dung thể hiện đặc trưng phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh; dĩ bất biến ứng vạn biến là nguyên tắc xem xét hành động số một, đỉnh cao phương pháp hành động Hồ Chí Minh. Đây là những vấn đề sẽ được tác giả luận án luận giải từ góc độ tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh. 1.4.2. Những vấn đề đặt ra cho Luận án tiếp tục nghiên cứu Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu, các gợi ý, luận án tiếp thu, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh trên một số nội dung sau: Thứ nhất, tiếp thu và trình bày hệ thống các khái niệm liên quan đến triết lý, triết lý hành động Hồ Chí Minh. Hình thành khái niệm Triết lý hành động Hồ Chí Minh. Khẳng định Triết lý hành động Hồ Chí Minh là cơ sở để xác định nội dung mục tiêu, động lực, phương pháp hành động cho các triết lý khác của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là phương pháp cơ bản để biểu đạt cho các triết lý của Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng. Thứ hai, luận án nghiên cứu tìm hiểu cơ sở hình thành, xác định bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh. Thứ ba, từ các gợi ý, lập luận trong các công trình nghiên cứu về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, về nói đi đôi với làm, về dĩ bất biến ứng vạn biến,… tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh, các vấn đề về mục tiêu, động lực, phương pháp hành động trong nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh. Thứ tư, từ xác định cơ sở hình thành, bản chất, nội dung cơ bản, luận án xác định giá trị đối với dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh.
  • 36. 32 Tiểu kết Chương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, nghiên cứu triết lý, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh đã đạt được một số kết quả bước đầu. Các nhà nghiên cứu thống nhất có triết lý hành động Hồ Chí Minh. Triết lý này thể hiện trong các bài viết, bài nói, hành động của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Trong các công trình, các nhà nghiên cứu chỉ nêu ra một hoặc một số khía cạnh nội dung của triết lý hành động Hồ Chí Minh, không có công trình nào lấy triết lý hành động Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu. Tiếp cận nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, luận án chỉ ra một số nội dung của triết lý đã được các công trình đề cập, trên cơ sở đó đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu đạt được và những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục nghiên cứu. Tổng quan tình hình nghiên cứu là cơ sở để luận án hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh.
  • 37. 33 Chương 2 KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH, BẢN CHẤT TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 2.1.1. Khái niệm “Triết học” Triết học là thuật ngữ có gốc xuất phát từ tiếng Hy Lạp, chữ Philosophia có nghĩa là yêu mến sự thông thái, anh minh. Theo truyền thuyết, Pythagoras là người đầu tiên sử dụng khái niệm triết học, nhưng ở thời kỳ này các nhà triết học không gọi học thuyết của mình là triết học mà gọi là sử học. Đến thế kỷ IV trước công nguyên, các học trò của Socrates mới sử dụng danh từ triết học. Trong quá trình phát triển của khoa học triết học, ở phương Tây và phương Đông, triết học được dùng với nghĩa phổ biến là môn khoa học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học cung cấp thế giới quan và phương pháp luận tổng quát cho các khoa học khác. Về hình thức, triết học là một dạng đặc biệt của ý thức và nhận thức, được thể hiện bằng một hệ thống các nguyên lý, quan điểm có tính trừu tượng, tính khái quát hóa cao với logic nội tại tương đối chặt chẽ. Nó là hệ thống tri thức về những cơ sở và những nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và đời sống tinh thần, là sự biểu thị một kiểu nhận thức duy lý đặc biệt về hệ thống những vấn đề cơ bản của tồn tại người. “Triết học một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy” [41]. Tuy nhiên, cùng là nghiên cứu về triết học nhưng triết học phương Tây chú ý đến sự mạch lạc của hệ thống lý luận, chú ý đến nhận thức thế giới xung quanh, tìm những hiểu biết về thế giới xung quanh, tìm chân lý ở bên ngoài con người bằng suy luận logic và thực nghiệm, thí nghiệm khoa học còn triết học
  • 38. 34 phương Đông, nổi bật là triết học Trung Quốc và Ấn Độ, là triết lý của đời sống, là đạo sống của con người. Ngay từ khi ra đời, triết học đã phân làm hai phe đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, sự đấu tranh giữa hai phe làm cho triết học phát triển. Cùng với sự phát triển của triết học, hay đúng hơn là sự phát triển của phương pháp tư duy về thế giới và con người của hai phe làm cho sự mâu thuẫn giữa hai phương pháp tư duy biện chứng và tư duy siêu hình ngày càng đối lập. Cuộc đấu tranh của giữa hai trường phái thể hiện tính tiến bộ, của lực lượng tiến bộ, giai cấp tiến bộ, đặc biệt trong nhận thức về quy luật phát triển xã hội. Theo Ph.Ăngghen, vấn đề cơ bản của mọi triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, ý thức và vật chất. Khi đề cập đến vấn đề cơ bản của triết học, hai câu hỏi lớn luôn được các nhà triết học đặt ra là: Giữa tư duy và tồn tại, ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định? Tư duy của con người có thể nhận thức được thế giới hiện thực hay không? Tùy theo cách giải đáp hai câu hỏi đó mà các nhà triết học đặt mình vào trường phái duy vật hay duy tâm, khả tri hay bất khả tri. Đồng thời với sự phát triển lực lượng sản xuất, sự mâu thuẫn ngày càng lớn trong quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối triết học mácxít đã ra đời. Sự ra đời của triết học mácxít góp phần quyết định lý giải nguyên nhân các mâu thuẫn xã hội và chỉ ra con đường, quy luật tất yếu đi đến xóa bỏ những mâu thuẫn đó. Triết học mácxít ra đời trên cơ sở kế thừa những di sản quý báu trong lịch sử phát triển của triết học và văn minh nhân loại, trên cơ sở khái quát thực tiễn xã hội hiện đại, là triết học duy vật biện chứng - khoa học về những mối liên hệ phổ biến và các quy luật vận động và phát triển chung nhất của cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học mácxít là thế giới quan, đồng thời là vũ khí lí luận của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng bản thân và giải phóng những người lao động khỏi áp bức và bóc lột [41, tr.585]. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy vũ khí lý luận, nhận ra con đường để giải phóng và phát triển dân tộc. Thế giới quan, nhân sinh
  • 39. 35 quan Hồ Chí Minh là duy vật biện chứng. Nền tảng cơ bản tư duy triết học Hồ Chí Minh là triết học mácxít - vũ khí lý luận của chiến sĩ cách mạng vô sản Hồ Chí Minh. Nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh phải thấy rõ lập trường, quan điểm triết học mácxít trong tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh. 2.1.2. Khái niệm “Triết lý” Ở phương Tây, châu Âu, do những điều kiện hình thành nền văn minh cổ đại, để tồn tại và phát triển con người phải khắc chế, chinh phục tự nhiên. Khám phá khoa học và phát triển kỹ thuật là những vấn đề được quan tâm hàng đầu, đóng vai trò quyết định cho sự phát triển xã hội. Khoa học và tính duy lý khoa học đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội. Đặc điểm này tác động đến mọi loại hình tư duy và bản thân các nhà triết học chính là các nhà khoa học, nhà bác học. Triết học gắn liền với những thành tựu khoa học, đặc biệt khoa học tự nhiên như vật lý, toán học, thiên văn học,... Trong buổi đầu hình thành và phát triển, triết học đóng vai trò quan trọng cho sự khám phá, tìm tòi của các ngành khoa học khác. Ảnh hưởng của nó dẫn đến quan niệm coi triết học như khoa học về các quy luật chung nhất cho sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người, khoa học của mọi khoa học. Quá trình hình thành các nền văn minh cổ đại, tùy theo điều kiện địa lý - tự nhiên, mỗi nền văn minh có những đặc điểm văn hóa, xã hội khác nhau. Sự khác biệt về điều kiện, hoàn cảnh sống dẫn tới sự khác biệt trong lối tư duy, ứng xử và hành động. Nếu như tư duy của người phương Tây lấy sự vật, hiện tượng trong tự nhiên làm đối tượng để khám phá, tìm hiểu, tìm chân lý ở bên ngoài con người bằng suy luận logic và thực nghiệm khoa học thì ngược lại người phương Đông lấy suy nghĩ và hành động của con người làm đối tượng, mọi hành động đều hướng vào con người làm thay đổi cách suy nghĩ, ứng xử và hành động của con người. Tư duy của người phương Tây thiên về logic chặt chẽ, khoa học thực nghiệm hướng vào các sự vật, hiện tượng bên ngoài con người. Còn tư duy của người phương Đông thường là triết lý về đời sống, đạo sống của con người. Tư duy phương Tây thiên về lý tính, còn tư duy phương Đông nặng về cảm tính, trực giác.
  • 40. 36 Có thể phần nào lý giải điều này, bởi điều kiện địa lý - tự nhiên của các nền văn minh cổ đại phương Đông khá thuận lợi cho cuộc sống của con người. Vấn đề của xã hội phương Đông không phải là khắc chế, chinh phục tự nhiên mà là vấn đề quan hệ giữa người với người. Xử lý mối quan hệ con người với con người trong tập thể, cộng đồng hướng tới sự cố kết gắn bó để cùng nhau sản xuất và chiến đấu. Người phương Đông, về cơ bản sống hài hòa với tự nhiên, thuận theo tự nhiên. Vì thế, đặc trưng nổi bật trong xử lý mối quan hệ của con người là những suy ngẫm về các mối quan hệ giữa người với người hằng ngày, những vấn đề về luân lý, đạo đức, nghệ thuật,... chứ không phải là xử lý mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Từ những đặc trưng của điều kiện sống mà sự hình thành nền văn minh phương Đông khác với phương Tây. Văn minh phương Tây đánh giá mối quan hệ giữa con người với con người cơ bản là bình đẳng, chỉ trong mối quan hệ với tự nhiên con người mới thể hiện vai trò làm chủ và chinh phục. Lấy sự vật, hiện tượng tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu, các nhà khoa học phương Tây mong muốn mở rộng hiểu biết của con người về vạn vật xung quanh. Triết học phương Tây được xem xét dựa vào các tri thức khoa học, những khám phá về tự nhiên, vạn vật tồn tại trong thế giới. Hệ quả của nó là nhiều kết quả nghiên cứu trong thời đại này phải đến những thời đại sau mới được công nhận và sử dụng, cũng có những kết quả nghiên cứu hiện vẫn còn là câu hỏi chưa có lời giải. Cũng như triết học phương Tây nhiều khi là khá trừu tượng so với tư duy triết học phương Đông. Phương Đông lấy con người làm đối tượng, làm trọng tâm nghiên cứu nên biết không chỉ để biết, mà biết để làm ngay, điều chỉnh ngay mối quan hệ, hành vi xã hội của con người. Thậm chí, ngay trong cái cần biết, cái hướng tới cũng là cái để nhằm điều chỉnh hành vi con người, ứng xử giữa người với người, giải quyết cụ thể một mối quan hệ trong xã hội. Đây là lý do mà cùng một thuật ngữ philosophia khi dịch ra tiếng Việt hay tiếng Trung Quốc thành triết học như môn triết học, khoa triết học, trường phái triết học,… nhưng bên cạnh thuật ngữ triết học còn có thuật ngữ triết lý.