Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành chính trị học với đề tài: Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh – Bộ Công an trong tình hình hiện nay
Luận văn: Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ, 9đ
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN CHẾ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC
AN NINH – BỘ CÔNG AN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN CHẾ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC
AN NINH – BỘ CÔNG AN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8 31 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS, TS. TRƯƠNG GIANG LONG
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của thầy GS, TS. Trương Giang Long.
Nội dung của luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước với
những trích dẫn và sử dụng tài liệu trong giới hạn cho phép.
Các kết quả của luận văn chưa được công bố trong các công trình nào khác.
Các số liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và có nguồn
gốc rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn
Trần Văn Chế
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN
SỸ CÔNG AN NHÂN DÂN ........................................................................... 9
1.1. Nhận thức chung về công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân............................................................. 9
1.2. Nhận thức chung về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân.......................................... 27
Chương 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG
CỤC AN NINH.............................................................................................. 34
2.1. Những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh........................... 34
2.2. Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng.............. 43
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC AN NINH ................................. 64
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh ................................... 64
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh........................... 68
KẾT LUẬN.................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 1
PHỤ LỤC
5. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
An ninh, trật tự : ANTT
An ninh nhân dân : ANND
Ban Chấp hành Trung ương : BCHTW
Bộ Chính trị : BCT
Cán bộ, chiến sỹ : CBCS
Công an nhân dân : CAND
Chủ nghĩa xã hội khoa học : CNXHKH
Chủ nghĩa xã hội : CNXH
Kinh tế thị trường : KTTT
Tổng cục An ninh : TCAN
Xã hội chủ nghĩa : XHCN
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một trong những yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với mỗi
người cán bộ, đảng viên nói chung, của CBCS CAND nói riêng. Theo Hồ Chí
Minh, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, có tài mà không có đức là người vô
dụng. Đạo đức là một nhân tố mang tính quyết định đối với mục đích, diễn biến, kết
quả hành động của mỗi cá nhân nói riêng và của xã hội nói chung.
Đối với CBCS CAND, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng. Bởi vì CAND là thanh
bảo kiếm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân nên mang bản chất chính trị sâu sắc;
phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, có lối sống trong sạch, lành mạnh. Những
nhiệm vụ chính trị đặc biệt mà Đảng và nhân dân giao phó cho các CBCS CAND
có được thực hiện hay không và thực hiện ở mức độ nào, kết quả như thế nào chịu
ảnh hưởng rất lớn từ phẩm chất đạo đức của người đó. Giáo dục đạo đức cách mạng
cho người CBCS CAND giúp nâng cao ý thức đạo đức, bồi dưỡng niềm tin, tình
cảm đạo đức, hình thành lối sống chuẩn mực, thanh cao, trong sáng, tận tâm với
nghề, tận tuỵ với nhân dân. Do đó, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND có tầm quan trọng đặc biệt.
Với sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng nhiều và đề ra nhiệm vụ xây dựng
Đảng, chính quyền về đạo đức, đặc biệt đối với lực lượng CAND. Tuy nhiên, trong
thời gian gần đây, ta đã phát hiện nhiều những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức cách mạng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với những
diễn biến ngày càng phức tạp. Sự phai nhạt về niềm tin, lý tưởng, dao động lập
trường chính trị, quan điểm không đúng đắn về tiến trình xây dựng CNXH, về nền
tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên dẫn đến sự vi phạm về đạo đức, pháp luật; biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá”, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch... Trong lực lượng CAND đã xuất hiện một bộ phận cán bộ, kể cả ở cán bộ cấp
7. 2
cao, vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phải chịu trách nhiệm trước
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực tế này đã làm cho uy tín Đảng, của lực lượng
CAND phần nào bị sút giảm, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước đang có
dấu hiệu bị ảnh hưởng. Do đó, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND, đấu tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực, tha hoá đạo đức – đứng trước
những chuyển biến mạnh mẽ, những khó khăn, thử thách của thời đại mới, được đặt
lên hàng đầu trong tình hình hiện nay.
Trong những năm qua, lãnh đạo TCAN đã chỉ đạo sát sao, chú trọng đúng
mức đến việc thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
CBCS Tổng cục. Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN được tiến
hành thường xuyên, là một nhiệm vụ chính trị của đơn vị, của các cấp lãnh đạo và
mỗi cá nhân. Đại bộ phận CBCS Tổng cục An ninh đã có những nhận thức đúng
đắn về vai trò của đạo đức, của việc tự rèn luyện, tự bồi dưỡng để hoàn thiện bản
thân, đồng thời đem lại hiệu quả cao cho công việc của mình. Tuy nhiên, trong thực
tế công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN có lúc, có nơi vẫn còn
tồn tại những hạn chế nhất định, tồn tại một bộ phận CBCS vi phạm kỷ luật, đạo
đức, chưa thực hành lối sống trong sạch, lành mạnh. Điều này xuất phát từ cả
nguyên nhân chủ quan và khách quan, những mặt còn hạn chế của công tác giáo dục
đạo đức cách mạng, từ phía người thực hiện công tác giáo dục đạo đức cách mạng
đến CBCS là đối tượng của công tác giáo dục; của tình hình thực tế công tác của
đơn vị TCAN; sự tác động từ phía môi trường xã hội… Tình hình trên đòi hỏi phải
tiến hành nghiên cứu, khảo sát, nắm bắt những mặt thuận lợi để phát huy, những
khó khăn, hạn chế để khắc phục nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong công tác giáo
dục đạo đức cách mạng của CBCS TCAN.
Nhằm tiến hành nghiên cứu một cách khách quan, khoa học, nghiêm túc,
khảo sát bao quát từ lý luận đến thực tiễn để có thể nắm bắt, phân tích vấn đề một
cách toàn diện, mang lại hiệu quả tối ưu trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng
của CBCS TCAN nói riêng, của CBCS CAND nói chung trong tình hình hiện nay,
chúng tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng
8. 3
cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh – Bộ Công an trong tình hình hiện
nay” để nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ vấn đề.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhận thức tầm quan trọng của đạo đức cách mạng trong việc xây dựng xã
hội mới tốt đẹp hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong thời đại mới, từng
bước thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, những năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước bàn về vấn đề đạo đức cách mạng và
giáo dục đạo đức cách mạng nói chung, cụ thể như:
- Thành Duy (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng, Nxb. Thông tin lý
luận, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Thanh Lê (2004), Giáo dục lối sống nếp sống mới, Nxb. Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh.
- Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Long (1982), Sự hình thành đạo đức xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
Luận án tiến sỹ Triết học, Mátxcơva.
- Phạm Huy Kỳ (1999), “Suy nghĩ về giải pháp khắc phục sự suy thoái đạo
đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay”, Tạp chí Báo chí Tuyên truyền, số
3/1999.
- Nguyễn Trọng Chuẩn (2001), “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức”, in trong Tạp
chí Triết học, số 9/2001.
- Đỗ Lan Hiền (2002), “Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển
9. 4
kinh tế thị trường”, in trong Tạp chí Triết học, số 4/2002.
- Đỗ Huy (2002), “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành vi đạo
đức cá nhân”, in trong Tạp chí Triết học, số 2/2002.
- Phạm Mạnh Hà (2002), “Những nguyên nhân chủ quan chủ yếu của tình
trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay”, in trong Tạp chí Triết học, số 3/2002.
- Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Phóc (2003), “Mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường”, in trong Tạp chí Triết học, số 1/2003.
- Vũ Khiêu (2003), “Sự suy thoái đạo đức và giải pháp của chúng ta”, in
trong Tạp chí Tâm lý học, số 9/2003.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2013), Bàn về giải pháp ngăn
chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hiện nay, Nxb. Chính
trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2014), Tư diễn biến, tự chuyển
hóa về vấn đề đặt ra đối với thanh niên hiện nay, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2015), Công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng trong lực lượng Công an nhân dân hiện nay, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội.
Các công trình trên, ở mức độ nhất định, đã đề cập những vấn đề lý luận và
thực tiễn cơ bản về đạo đức cách mạng, đặc biệt là việc xây dựng, hoàn thiện những
giá trị đạo đức mới trong điều kiện xã hội chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền
KTTT định hướng XHCN; những giá trị đạo đức mới - đạo đức XHCN, đạo đức
cách mạng, lối sống mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh; những mặt tích cực và những
mặt tiêu cực, những biểu hiện tha hoá về đạo đức, “tự diễn biến, tự chuyển hóa”,
đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên ta cùng những nguyên nhân khách
quan, chủ quan chủ yếu; bước đầu đưa ra những phương hướng, giải pháp để nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói riêng,
cho toàn thể nhân dân Việt Nam nói chung.
Bàn về nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
CBCS CAND cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan, làm rõ được
10. 5
một số mặt về lý luận và thực tiễn nhằm củng cố, nâng cao chất lượng công tác, cụ
thể như:
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2015), “Định hướng giá trị
trong giáo dục thanh niên, sinh viên Công an nhân dân hiện nay”, Tạp chí Lý luận
Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 6/2015.
- Thiếu tướng, GS, TS. Trương Giang Long (2017), “Xây dựng đội ngũ cán
bộ, chiến sỹ Công an nhân dân vững vàng về bản lĩnh chính trị - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, Tạp chí Cộng sản, tháng 9/2017.
- Giáp Văn Thông (2004), Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ,
chiến sỹ CAND trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
Hà Nội.
- Phạm Bá Lượng (2009), Giá trị đạo đức truyền thống trong việc giáo dục
đạo đức cho sinh viên Công an nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận văn Tiến sỹ Triết
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Phan Thuý Quỳnh (2012), Hiệu quả giáo dục 6 điều Bác Hồ dạy Công an
nhân dân trong sinh viên học viện An ninh nhân dân, Luận văn Thạc sỹ, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Phạm Thị Nguyệt (2012), Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học
sinh hệ đào tạo trung cấp an ninh ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Triết học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Phạm Thị Tâm (2013), Công tác giáo dục tư tưởng chính trị của Đảng đối
với cán bộ, chiến sỹ Công an Huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội hiện nay, Luận
văn Thạc sỹ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Y Quyết B’Krông (2015), Đảng uỷ Công an Tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo công
tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân tỉnh hiện
nay, Luận văn Thạc sỹ Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
- Đặng Thái Giáp (1997), “Suy nghĩ về đức và tài của người Công an cách
11. 6
mạng”, in trong Tạp chí Công an nhân dân, số 6/1997.
- Đặng Thái Giáp (1998), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công an trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, in trong Tạp chí Công an nhân dân, số
7/1998.
- Tô Lâm (2018), Xây dựng đạo đức người Công an nhân dân trong tình
hình mới, đăng trên www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 15/3/2018.
- Phạm Thái Bình (2009), “Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức trong các
trường Công an nhân dân trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh”, in trong Tạp chí
Công an nhân dân, số 1/2009.
Những công trình trên đã phần nào nghiên cứu, làm rõ những mặt của công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND nói chung: Các công trình đã
hướng tới xây dựng hệ giá trị đạo đức cách mạng mới của CBCS CAND; phân tích
những quan điểm Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục đạo
đức cách mạng cho CBCS CAND; phân tích những vấn đề về lý luận và khảo sát
thực tiễn xã hội Việt Nam những yếu tố tác động đến công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND, đặc biệt trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay; những nguyên nhân dẫn đến hạn chế của công tác giáo dục đạo
đức cách mạng của CBCS CAND để khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào khảo sát, đưa ra hệ các tiêu chí và đánh giá hiệu quả
công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND nói chung, của CBCS
TCAN nói riêng. Do đó, đề tài mà học viên lựa chọn không trùng với các công trình
khoa học đã được công bố, có giá trị đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về chung về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho CBCS CAND, luận văn đi sâu phân tích, làm rõ thực trạng hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS TCAN, qua đó đề xuất những phương
hướng và một số giải pháp để nâng cao chất lượng mặt công tác trên trong thời gian
tới.
12. 7
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Một số vấn đề lý luận về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho CBCS CAND.
- Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
TCAN.
- Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS TCAN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
TCAN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
TCAN từ năm 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về đạo đức cách mạng của người CBCS CAND trong quá trình thực hiện mục tiêu
của luận văn.
Luận văn còn được thực hiện dựa trên việc vận dụng những phương pháp
chung như phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp điều tra xã
hội học, phương pháp logic, phương pháp lịch sử…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện các căn cứ
khoa học và thực tiễn để đánh giá và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND nói chung, của CBCS TCAN nói riêng trong thời gian
tới.
13. 8
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu, giảng dạy chuyên đề, ứng dụng của các nhà nghiên cứu về chính trị, các nhà
hoạt động chính trị trong lực lượng vũ trang, lực lượng CAND và ứng dụng trong
công tác lãnh đạo của Đảng uỷ các đơn vị CAND.
7. Kết của của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh.
14. 9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Nhận thức chung về công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán
bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Ý thức về đạo đức xuất hiện tương
đối sớm trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau kể từ khi có sự xuất hiện của
loài người. Đạo đức đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội; sự phát
triển về trình độ nhận thức về đạo đức là một trong những thước đo cho sự phát
triển của loài người. Trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND, đạo đức ở đây là đạo đức cộng sản, đạo đức Mác – Lênin hình thành nên cơ
sở lý luận về đạo đức cách mạng. Các nhà sáng lập, phát triển CNXHKH từ C. Mác,
Ph. Ăngghen, Lênin đến Hồ Chí Minh luôn chú ý đến vấn đề đạo đức.
Các nhà triết học, nhà tư tưởng trước C. Mác và Ph. Ăngghen, do những hạn
chế về mặt lịch sử, hệ tư tưởng về cơ bản đã không đưa ra được một quan niệm
đúng đắn về đạo đức, họ thường quy bản chất đạo đức về một bản nguyên, cội
nguồn phi lịch sử nào đó.
Với việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật biện chứng hình thành quan niệm
duy vật lịch sử, C. Mác đã lý giải một cách khoa học các mặt trong đời sống xã hội
con người. Trong tác phẩm kinh điển Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị,
C.Mác khẳng định: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình
sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người
quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của
họ” [65, tr.15]. Hay nói cách khác, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, hệ thống
các quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực, niềm tin, lý tưởng đạo đức…hợp thành hình
thái ý thức đạo đức được quy định bởi trình độ phát triển của đời sống vật chất
15. 10
trong xã hội.
Ph. Ăngghen khi tiến hành phê phán nhận thức về đạo đức của Đuyrinh (ông
Đuyrinh cho rằng đạo đức có tính chân lý vĩnh cữu) đã chỉ rõ và phân tích một cách
thấu đáu về các học thuyết đạo đức đang tồn tại trong xã hội Châu Âu. Đó là sự tồn
tại của các học thuyết đạo đức trong xã hội phong kiến, đạo đức trong xã hội tư sản
cận đại và đạo đức vô sản của tương lai. Ph. Ăngghen nhận định: “không có đạo
đức nào là chân chính cả, nếu nói theo ý nghĩa tuyệt đối cuối cùng; nhưng tất nhiên,
thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích
tương lai, tức là đạo đức vô sản, - là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những
nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài” [66, tr.136]. Như vậy, Ph. Ăngghen cho rằng
đạo đức của giai cấp vô sản là đạo đức của tương lai loài người, là đạo đức phát
triển ở mức độ cao nhất với ý nghĩa là một hình thái ý thức xã hội. Sau này, các học
trò của C. Mác, Ph. Ăngghen, đặc biệt là lãnh tụ V.I.Lênin, đã khẳng định đạo đức
của giai cấp vô sản trong thời kỳ mới là đạo đức cộng sản, đạo đức mới, đạo đức
XHCN.
V.I. Lênin cho rằng đạo đức của chủ nghĩa duy tâm, siêu hình là đạo đức
phản động không phải là đại diện cho sự tiến bộ, văn minh của xã hội con người
tương lai, thậm chí là trở lực cho sự phát triển; đạo đức của xã hội tương lai phải là
đạo đức cộng sản. V.I.Lênin đã luận giải một cách sâu sắc về lĩnh vực đạo đức mới
của những người cộng sản và có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa tư tưởng
về đạo đức mới - đạo đức cộng sản - trên thực tiễn xây dựng nhà nước XHCN Liên
Xô. Theo V.I.Lênin: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn
bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô
sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [106, tr.369].
Với việc học tập, nghiên cứu, tiếp thu một cách sâu sắc những quan điểm
mang tính chất phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào điều
kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã chủ trương xây dựng nền đạo đức mới, đạo
đức của những người cộng sản, đạo đức cách mạng ở nước ta. Cụm từ “đạo đức
16. 11
cách mạng” do Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên nêu ra chính là nền đạo đức của
những người cộng sản, đạo đức của CNXH, chủ nghĩa cộng sản mà C. Mác, Ph.
Ăngghen, V.I.Lênin đã phát triển trong quá trình đấu tranh cho nhân loại tiến bộ
toàn thế giới. Tiếp nối các nhà sáng lập CNXHKH, Hồ Chí Minh nhận định: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [43, tr. 220]. Như
vậy, Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức mới hay đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản
nó vượt qua trình độ của đạo đức phong kiến lạc hậu, cũ kỹ và cũng khác biệt, thậm
chí trái ngược hẳn với đạo đức tư sản vốn nhấn mạnh nhiều đến chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa vụ lợi... Đồng thời, Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cách mạng chính là
cái gốc, cái nền của người làm cách mạng, “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” [42, tr. 292]. Chính đạo đức mới, đạo đức cách
mạng giúp cho mỗi người cán bộ cách mạng có sức mạnh to lớn, lòng kiên trì trong
việc thực hiện các mục tiêu cách mạng đề ra.
Tóm lại, dựa trên sự phân tích các quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể hiểu: Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội; là một hình thái ý thức xã hội chịu sự
quy định của tồn tại xã hội và có sự tác động trở lại một cách tương đối.
Đạo đức mà các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng
ta nêu lên là đạo đức mới, đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng – đó là thành tố mà
công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND đề cập. Với sự quan niệm
về khái niệm đạo đức như trên, ta có thể hiểu: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới
do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặt nền móng xây dựng; là
sản phẩm của sự kết hợp những quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin với
tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại; là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực, giá
17. 12
trị đạo đức tiên tiến, biểu hiện tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức của người làm
cách mạng, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.1.1.2. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là một quá trình quan trọng của đời sống xã hội loài người. Nhờ có
giáo dục, con người được truyền thụ những tri thức, những hiểu biết được tích lũy
qua quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Giáo dục là một quá trình hai mặt:
giáo dục tạo ra sự tác động từ bên ngoài hướng đến đối tượng giáo dục (Nhà giáo
dục tạo nên sự tác động của tri thức, văn hóa vào trong tư tưởng, hành động của
người học), từ đó, đối tượng tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự phát triển
thông qua giáo dục.
Theo C. Mác, con người chính là một thực thể có sự thống nhất của mặt sinh
học và mặt xã hội. Đó là sự đúc kết khoa học của C. Mác thông qua một quá trình
nghiên cứu sự hình thành, phát triển của con người. Mác cho rằng đứa trẻ khi vừa
được sinh ra chính là một “con người dự bị”; “con người dự bị” sẽ không thể thực
sự trở thành con người nếu bị cô lập, bị tách biệt khỏi đời sống xã hội (chỉ có mặt tự
nhiên mà không có mặt xã hội). Khi trình bày trong tác phẩm Bản thảo kinh tế -
triết học năm 1844, C.Mác đã khẳng định: “Cá nhân là thực thể xã hội, cho nên
mọi biểu hiện sinh hoạt của nó, ngay cả nếu nó không biểu hiện sinh hoạt tập thể,
được biểu hiện cùng với những người khác - là biểu hiện và khẳng định của sinh
hoạt tập thể” [69, tr. 171]. Hay nói cách khác, Mác khẳng định một con người thực
sự là con người đầy đủ khi “con người dự bị” được tham gia vào môi trường xã hội,
được đắm mình trong các hoạt động xã hội trong quá trình tồn tại, phát triển của
mình. Khi tham gia vào các hoạt động xã hội, thông qua những thiết chế xã hội (đặc
biệt là thông qua quá trình được giáo dục), con người hòa nhập vào xã hội, phát
triển mặt xã hội của mình để trở thành một con người toàn vẹn. Giáo dục chính là
một hoạt động cần thiết để con người truyền thụ lại những kinh nghiệm cần thiết
cho các thế hệ tiếp nối, nhằm phục vụ cho quá trình sống, thích ứng và phát triển
trong môi trường xã hội. Đặc biệt, quá trình giáo dục truyền thụ lại trong các thế hệ
18. 13
con người những giá trị tri thức và văn hóa. Các nhà sáng lập CNXHKH đã nhấn
mạnh mối quan hệ biện chứng giữa môi trường xã hội và hoạt động giáo dục – nhân
tố xã hội có tác dụng quy định những yếu tố của hoạt động giáo dục, có tác dụng
định hướng cho sự phát triển của giáo dục, còn giáo dục lại đóng vai trò tích cực,
quan trọng đối với sự phát triển của môi trường xã hội và sự tồn tại của con người.
Khi tìm tòi, đúc kết những quy luật của sự phát triển xã hội loài người, các
nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: Lịch sử, khi nhìn nhận ở
góc độ khoa học, khách quan, chính là sự phát triển và thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội (từ thời kỳ Cộng sản nguyên thủy - Chiếm hữu nô lệ -
Phong kiến - Tư bản chủ nghĩa - XHCN - Cộng sản chủ nghĩa). Mỗi hình thái kinh
tế - xã hội lại có tương ứng các nền giáo dục khác nhau một cách phù hợp với mỗi
hình thái kinh tế - xã hội đó. Sự xuất hiện của hình thái kinh tế - xã hội mới thay
cho hình thái kinh tế - xã hội cũ sẽ tương ứng với sự thay đổi của nền giáo dục mới
thay cho nền giáo dục cũ. Nền giáo dục mới sẽ chứa đựng những yếu tố tiến bộ, tích
cực hơn so với nền giáo dục cũ bởi lẽ sự thay thế, phát triển các hình thái kinh tế -
xã hội là sự phát triển về chất – hình thái kinh tế - xã hội mới bao giờ cũng tiến bộ
hơn, trước hết là sự tiến bộ về trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
phát triển hơn kéo theo sự biến đổi trong mối quan hệ giữa con người với con người
trong sản xuất, từ đó dẫn đến sự biến đổi các mối quan hệ xã hội và đến mỗi cá
nhân. Trước thực tại này, Ph.Ăngghen phân tích rõ: “giống như trong thế kỷ trước,
người nông dân và người công nhân công trường thủ công, sau khi được thu hút vào
đại công nghiệp, đã thay đổi toàn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã trở thành
những con người hoàn toàn khác hẳn” [67, tr. 474]. Bởi vì sự phát triển của lực
lượng sản xuất (mà trước hết là trình độ của trí tuệ con người và công cụ sản xuất)
thể hiện trình độ phát triển của con người trong việc chinh phục và chiếm lĩnh các
lực lượng trong tự nhiên với tư cách là yếu tố cơ sở vật chất cho hoạt động sống của
chính con người. Điều này, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “sẽ cần những con
người hoàn toàn mới” và “cũng cần có những con người có năng lực phát triển toàn
diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất”; do đó, “công tác giáo dục sẽ làm
19. 14
cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản
xuất trong thực tiễn…” và làm cho những thành viên trong xã hội “có khả năng sử
dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình” [69, tr. 475].
Đồng thời, C. Mác và Ph. Ăngghen còn đưa ra những dự báo thiên tài của
mình rằng: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở
nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi phí hơn là
vào sức mạnh của những tác nhân được khơi động trong thời gian lao động, và bản
thân những tác nhân, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng), tuyệt đối không
tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng
ra, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật,
hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất… Thiên nhiên không
chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động,
v.v.. Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người, là vật liệu tự
nhiên được chuyển hoá thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự
nhiên, hoặc của hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Tất cả những cái đó
đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều là sức
mạnh đã được vật hoá của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho
thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hoá đến mức độ nào thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình
sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và
đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản
xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà
cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá
trình sống hiện thực” [70, tr. 368-369, 372-373]. Chính vì vậy, các nhà lý luận kinh
điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết luận: “bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công
nhân hiểu rất rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân tức là tương lai của loài người,
hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” [71, tr. 7].
Nhìn nhận xuyên suốt quá trình phát triển các quan niệm về giáo dục, tư
tưởng giáo dục, triết lý giáo dục, các nhà tư tưởng đều nhìn nhận giáo dục chính là
20. 15
một cách thức để truyền thụ những tri thức của nhân loại, giá trị của xã hội đến
người học; thông qua quá trình giáo dục, con người được truyền thụ về các giá trị xã
hội, học cách để gia nhập vào xã hội và phục vụ cho một chế độ xã hội thể hiện
trong một giai đoạn xác định. Giáo dục ở đây được hiểu là có mục đích lấy xã hội
làm trung tâm, xã hội trang bị cho đối tượng học tập các kiến thức cơ bản về kinh
tế, kỹ thuật... nhằm phục vụ xã hội. Tuy nhiên, có một sự khác biệt trong quan niệm
của C. Mác và các nhà tư tưởng trước C. Mác về giáo dục: nếu như các quan niệm
trước C. Mác đều xem giáo dục chính là cách thức để đào tạo nên con người trở
thành những cỗ máy thực sự để phục vụ cho xã hội đương thời thì C. Mác lại xem
giáo dục không chỉ làm cho con người thích nghi với xã hội, nhằm phục vụ cho xã
hội, mà quan trọng hơn, giáo dục làm cho người người được phát triển toàn diện các
năng lực của mình. Ở điểm này, C.Mác quan niệm nền giáo dục sau này sẽ là nền
giáo dục làm cho mỗi một trẻ em, khi đến lứa tuổi nhất định, đều biết “kết hợp trí
dục và thể dục với lao động chân tay và do đó, kết hợp lao động chân tay với trí dục
và thể dục”, “kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục” và coi đó không phải
chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một
phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện…” [68,
tr. 687, 688].
Nhìn lại lịch sử nhân loại, có thể khẳng định: Quan niệm của Chủ nghĩa Mác
– Lênin về giáo dục có mục đích chính là vì sự phát triển của con người là một quan
niệm đúng đắn, tiến bộ, phù hợp với nhân tính của con người, vì sự tiến bộ của nhân
loại. Như vậy, giáo dục hướng tới sự phát triển của chính bản thân con người.
Về mặt định nghĩa, có thể hiểu theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê làm
chủ biên: Giáo dục là “hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có
được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [104, tr. 394]. Giáo trình
Giáo dục học đã đưa ra định nghĩa: “Giáo dục là quá trình thống nhất của sự hình
thành tinh thần và thể chất của mỗi các nhân trong xã hội. Giáo dục là một mặt
không thể tách rời của cuộc sống con người, của xã hội, nó là một hiện tượng đặc
21. 16
trưng của xã hội loài người. Trong quá trình tiến hoá của nhân loại, giáo dục xuất
hiện cùng với sự xuất hiện của loài người, khi con người có quan hệ với tự nhiên
bằng công cụ và phương tiện lao động thì nhu cầu về sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm của thế hệ trước cho thế hệ sau mới xuất hiện. Giáo dục như là một phương
thức của xã hội đảm bảo việc kế thừa văn hoá, phát triển nhân cách” [35, tr. 14]...
Tóm lại, có thể hiểu giáo dục là một trong những loại hình hoạt động của
các tổ chức và cá nhân nhằm tác động vào đối tượng dưới các phương pháp, cách
thức khác nhau nhằm làm thay đổi sự phát triển của đối tượng tác động theo chiều
hướng tốt hơn, tích cực hơn theo mong muốn của chủ thể giáo dục.
Giáo dục mà công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND đề cập
là nền giáo dục của những người cộng sản, hướng tới xây dựng những con người
mới XHCN nói chung, người CBCS CAND nói riêng.
1.1.1.3. Khái niệm giáo dục đạo đức cách mạng
Qua việc tìm hiểu về khái niệm đạo đức, ta có thể hiểu giáo dục đạo đức
chính là quá trình chủ thể giáo dục tạo nên sự tác động vào đối tượng giáo dục, cốt
yếu nhằm hình thành ở đối tượng giáo dục những nội dung về ý thức, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng, hành vi đạo đức hay những phẩm chất đạo đức cần thiết trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định, phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Thông qua giáo dục đạo đức cách mạng, những phẩm chất đạo đức cần thiết,
phù hợp với chuẩn mực của xã hội - được xem là yêu cầu của xã hội - sẽ được
chuyển hóa trở thành sự thúc đẩy của nội tâm trong đối tượng giáo dục. Đó chính là
con đường, cách thức cơ bản để góp phần điều chỉnh nhận thức và hành vi của đối
tượng giáo dục một cách đầy đủ, đúng đắn, chủ động, phù hợp với yêu cầu mà xã
hội đặt ra.
Bên cạnh mục đích nâng cao trình độ nhận thức của đối tượng giáo dục về
những chuẩn mực, giá trị đạo đức của xã hội, công tác giáo dục đạo đức cách mạng
còn là một phương thức để xây dựng được những quan điểm, phẩm chất đạo đức
mới, quan niệm và lẽ sống tích cực ở đối tượng nhận tác động. Giáo dục đạo đức
cách mạng giúp cho đối tượng giáo dục hiểu biết và nhận diện một cách rõ ràng
22. 17
những hành vi nào vi phạm đạo đức, những quan niệm nào lệch lạc, sai lầm hoặc
lạc hậu so với tình hình mới.
Đặc điểm to lớn nhất của công tác giáo dục đạo đức cách mạng là đưa những
chuẩn mực đạo đức cách mạng từ đòi hỏi bên ngoài thuộc về của chung của xã hội
chuyển thành sự hối thúc bên trong của mỗi cá nhân trong xã hội, thành tình cảm,
giá trị sống, niềm tin, nhu cầu, thói quen của đối tượng được giáo dục. Nội dung của
công tác giáo dục đạo đức cách mạng có thể bao gồm những nội dung cơ bản như:
thế giới quan, nhân sinh quan, chính trị quan, các phẩm chất đạo đức cao đẹp của
con người... Những nội dung giáo dục đạo đức cách mạng định hướng mỗi con
người nâng cao được trình độ nhận thức về các giá trị đạo đức cách mạng, góp phần
tạo nên cơ chế điều chỉnh hành vi ở mỗi người phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức cách mạng theo yêu cầu xã hội đặt ra. Giáo dục đạo đức cách mạng cũng là cơ
sở để mỗi cộng đồng xã hội (hay mở rộng ra cả loài người) có thể bảo tồn, kế thừa,
phát triển những giá trị đạo đức cách mạng tốt đẹp mà các thế hệ trước đã sáng tạo
nên, xóa bỏ và khắc phục những giá trị đã lỗi thời, lệch chuẩn, những thói hư tật
xấu, những hiện tượng trái đạo đức cần được xóa bỏ...
Công tác giáo dục đạo đức cách mạng có vai trò to lớn trong việc hình thành
nên ở mỗi người nhận thức, tình cảm, những hành vi đạo đức cách mạng của con
người nói chung, của mỗi người CBCS CAND nói riêng. Đặc biệt trong bối cảnh
hiện nay, trước nhiều biến động phức tạp của đạo đức cách mạng trong xã hội, trước
những biểu hiện suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên thì công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu, góp phần xây dựng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu công tác trong thời đại mới.
1.1.2. Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an
nhân dân
1.1.2.1. Sự cần thiết phải tiến hành công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn
23. 18
Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị; trong đó, lực lượng CAND là
lực lượng làm nòng cốt. Đó là công tác liên quan đến một lĩnh vực đặc biệt, có tầm
quan trọng hàng đầu đến sự tồn vong và phát triển của một đất nước, đến cuộc sống
bình yên của nhân dân. Trách nhiệm mà lực lượng CAND được giao là bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; thực hiện những biện pháp nhằm
thống nhất quản lý về bảo vệ ANTT; kiên quyết đấu tranh để phòng, chống mọi âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm và các hành vi
vi phạm pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Về phạm vi
hoạt động, địa bàn công tác của lực lượng CAND được trải khắp các lĩnh vực, các
mối quan hệ của đời sống xã hội; lực lượng CAND trực tiếp tiếp xúc với các đối
tượng là con người hiện thực, con người cụ thể đang sinh sống, làm việc, hoạt động
trong xã hội hiện thực.
Với những nhiệm vụ ấy, lực lượng CAND phải nêu cao vai trò của mình
trong việc bám sát địa bàn, bám sát các đối tượng, phát hiện và ngăn chặn kịp thời
những mặt trái, những tiêu cực tồn tại trong xã hội; lực lượng CAND phải sử dụng
các biện pháp, sức mạnh từ pháp luật và nghiệp vụ, sự vững vàng về chính trị, bản
lĩnh chính trị, sự kiên quyết, khôn khéo qua quá trình đào tạo và kinh nghiệm đúc
kết được để đấu tranh với những mặt tiêu cực, mặt xấu của xã hội;... Chính vì vậy,
nghề nghiệp của lực lượng CAND quy định sự hy sinh thầm lặng, bí mật do yêu cầu
nghiệp vụ đặt ra, sự tuân thủ một cách chặt chẽ và vận dụng linh hoạt các biện pháp
nghiệp vụ theo pháp luật, đảm bảo những định hướng phát triển đất nước mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta lựa chọn.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất của
CNXH, công tác bảo vệ ANTT đặt ra ngày càng nặng nề hơn, phức tạp hơn; các loại tội
phạm và thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi hơn trong phương thức, thủ đoạn
hoạt động phạm tội, sử dụng những thành tựu khoa học, công nghệ... Những diễn biến đó
của tình hình tội phạm gây nên những khó khăn, thử thách ngày càng tăng đối với lực
lượng CAND, đòi hỏi lực lượng CAND phải không ngừng học tập, nghiên cứu, nâng cao
trình độ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới.
24. 19
Trong những năm qua, lực lượng CAND đã phấn đấu hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đạt được nhiều thành tích
đáng ghi nhận, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những
chiến công đã đạt được, không ít CBCS CAND trong quá trình công tác đã không
giữ được những phẩm chất đạo đức cách mạng trong sạch, lành mạnh như bản chất
của người công an cách mạng. Đối mặt với những cám dỗ xã hội, ghi nhận không ít
CBCS trong lực lượng CAND, kể cả cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo có biểu hiện suy
thoái về đạo đức, lối sống đến mức phải xử lý kỷ luật, thậm chí bị truy tố trước pháp
luật. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XI), Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 (Khóa XII) đã chỉ ra tình hình vi phạm về đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên nói chung, của CBCS CAND trong thời gian vừa qua. Những
nguyên nhân được chỉ ra đó là: những hệ lụy từ sự khủng hoảng và sụp đổ của hệ
thống các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu; những tác động tiêu cực từ mặt trái
của cơ chế phát triển nền KTTT; những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa
học công nghệ thông tin, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; sự khó khăn, thử thách
trong công cuộc xây dựng CNXH của các quốc gia lựa chọn đi theo định hướng của
Chủ nghĩa Mác – Lênin vạch ra trong thời đại ngày nay; những vấn đề mới, phức
tạp phát sinh từ thực tiễn chưa có hướng lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả; chiến
lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động, thủ đoạn lợi dụng
“dân chủ”, “nhân quyền”, chính sách dân tộc, tôn giáo cùng những yếu kém, mất
cảnh giác, sơ hở của cơ quan chính quyền nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình ngày
càng tinh vi, phức tạp hơn; hiện tượng cổ súy theo lối sống hưởng thụ, thực dụng,
chủ nghĩa cá nhân vị kỷ.... Về chủ quan, đó là những nguyên nhân sâu xa gây nên
tình trạng suy thoái về đạo đức của cán bộ, đảng viên mà Đảng ta đã chỉ ra. Tuy
nhiên, Đảng ta nhấn mạnh nguyên nhân trực tiếp hàng đầu dẫn đến tình trạng suy
thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên lại chính là do sự thiếu tự giác tu dưỡng, rèn
luyện, ham hưởng thụ của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; do những yếu
tố chủ quan như lập trường không vững vàng, tư tưởng còn hoang mang, dao động
trước những yếu tố tác động của môi trường bên ngoài; cán bộ, đảng viên sa vào
25. 20
những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, hẹp hòi, ham hưởng thụ vật chất,
không xem trọng nhiệm vụ trước Đảng và nhân dân, Một nguyên nhân khác cần
nhận diện là về công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
có lúc, có nơi còn chưa được thực hiện tốt; các nội dung cơ bản về Chủ nghĩa Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Đảng đôi khi còn được giảng
dạy và học tập dưới hình thức kém hiệu quả, phương pháp kém sức thuyết phục,
chậm đổi mới cho phù hợp với điều kiện mới; chưa tạo được sự thống nhất cao độ
về nhận thức của toàn thể cán bộ, đảng viên về tình trạng suy thoái, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và những hậu quả do nó gây ra; trong quá trình tổ
chức sinh hoạt đảng ở một số chi bộ ở nhiều nơi còn mang tính hình thức, đơn điệu;
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp
tình hình thực tế; công tác xây dựng, tuyên truyền, nhân rộng những mô hình mới,
những tấm gương điển hình tiên tiến còn có lúc chưa được thực hiện hiệu quả,
nghiêm túc. Một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát
thực tiễn, thiếu tính khả thi và thiếu chế tài xử lý. Không ít cấp ủy, tổ chức đảng,
người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; các chủ trương, đường lối
của Đảng (đặc biệt là những nội dung thể hiện trong Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận
của BCHTW, BCT, Ban Bí thư) chưa được cụ thể hóa một cách nghiêm túc, bám
sát tình hình thực tiễn ở một số địa phương, đơn vị, nội dung còn mang tính chung
chung, thiếu tính chỉ đạo quyết liệt, thiếu cách thức kiểm tra, kiểm soát mà trông
chờ, ỷ lại vào sự chỉ đạo của cấp trên; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; việc xử lý cán bộ, đảng
viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen
thưởng những tập thể, cá nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và
xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm
túc; việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với
nền KTTT định hướng XHCN chưa kịp thời; tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng
chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả cùng với cơ chế kiểm soát quyền lực chậm
được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán
26. 21
bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém
hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; chậm ban hành
quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa"; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ cùng một số cơ chế,
chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng; chính sách tiền lương,
nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho cán bộ, công chức; việc thực hiện kỷ
cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu hiện "nhẹ trên, nặng dưới", công
tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ; nguyên tắc tập trung dân chủ ở
nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không
nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu tranh phê bình; sự phối hợp giữa công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố,
xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ nghiêm minh; công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu; việc kê khai tài sản, thu nhập còn hình thức;
chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh
hội nhập quốc tế sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ;
việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ mạnh để đấu tranh có hiệu
quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế
lực thù địch , phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị; việc phát huy vai trò,
trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan
truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.... Tất cả
những nguyên nhân nói trên đã tạo ra những tác động tiêu cực, khiến cho cán bộ,
đảng viên nói chung, CBCS CAND nói riêng có nguy cơ bị tác động, chuyển hóa
dẫn đến suy thoái về đạo đức nếu không có cơ chế ngăn chặn và sự giáo dục, tự tu
dưỡng, rèn luyện một cách đúng đắn.
1.1.2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung và phương pháp tiến hành công tác
giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
* Chủ thể giáo dục đạo đức cách mạng
Trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng, chủ thể giáo dục là nhân tố có
27. 22
vai trò rất quan trọng, là nhân tố quyết định đến cách thức, phương pháp, điều kiện
và chất lượng tiến hành công tác. Khi chủ thể đứng ở cương vị là người lãnh đạo,
quản lý, chủ thể vạch ra những hướng đi, chủ trương, mục đích, yêu cầu và xử lý
việc phân phối các nguồn lực cho công tác giáo dục đạo đức cách mạng. Khi chủ
thể đứng ở cương vị là người tổ chức thực hiện công tác giáo dục đạo đức cách
mạng, chủ thể giáo dục là người sẽ nghiên cứu, lựa chọn nội dung, hình thức, biện
pháp, phương tiện, công cụ hỗ trợ, thời gian, địa điểm... tiến hành công tác giáo dục
đạo đức cách mạng. Khi chủ thể đứng ở cương vị là người kiểm tra, đánh giá kết
quả thực hiện công tác giáo dục đạo đức cách mạng, chủ thể sẽ lựa chọn những hệ
tiêu chí đánh giá chất lượng công tác cho phù hợp, sát với tình hình thực tiễn, sự
chuyển biến trong cán bộ, đảng viên của đơn vị. Như vậy, trong công tác giáo dục
đạo đức cách mạng, chủ thể giáo dục có sự chủ động, là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định chất lượng rèn luyện đạo đức cách mạng cho CBCS CAND,
chi phối việc lựa chọn nội dung và hình thức giáo dục.
Xem xét trên thực tế công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND, có thể phân chia nhóm các chủ thể thực hiện công tác trên thành các nhóm
cơ bản như: Nhóm chủ thể giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong lực lượng CAND;
nhóm chủ thể thực hiện công tác truyền đạt kiến thức về lý luận chính trị, đạo đức
cách mạng; nhóm chủ thể tiến hành việc tổ chức thực hiện các hoạt động trên thực
tiễn nhằm tiến hành giáo dục đạo đức cách mạng.
Trong đó, nhóm chủ thể giữ cương vị lãnh đạo, quản lý trong lực lượng
CAND là những cán bộ thuộc cấp ủy các đơn vị, Thủ trưởng các đơn vị Công an
các cấp. Nhóm chủ thể này thông qua chức trách, nhiệm vụ là lãnh đạo, chỉ huy,
vạch phương hướng để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đơn vị, kiểm tra, kiểm
soát CBCS – qua đó, chủ thể bám sát nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho
CBCS CAND.
Đối với nhóm chủ thể thực hiện công tác truyền đạt kiến thức về lý luận
chính trị, đạo đức cách mạng, phần lớn thuộc về đội ngũ cán bộ có trình độ tri thức
cao, chủ yếu là các nhà khoa học nghiên cứu về các môn lý luận chính trị, nghiên
28. 23
cứu nắm vững về tâm lý con người và quá trình giáo dục cho con người về đạo đức
cách mạng; là những giảng viên, báo cáo viên, chuyên viên, tuyên truyền viên...
thường xuyên thực hiện việc truyền thụ các nội dung liên quan đến đạo đức cách
mạng cho các đối tượng cán bộ, đảng viên, nhân dân nói chung, cho CBCS CAND
nói riêng.
Đối với nhóm chủ thể tiến hành việc tổ chức thực hiện các hoạt động trên
thực tiễn nhằm tiến hành giáo dục đạo đức cách mạng, đó là các cơ quan, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội trong lực lượng CAND. Nhóm chủ thể này trên
thực tế có thể bao gồm những cơ quan chuyên về công tác chính trị, đạo đức cách
mạng (Các Cục Chính trị, Cục Chính trị - Hậu cần, văn phòng Tổng cục trước đây,
các cơ quan thực hiện Công tác Đảng - Công tác Chính trị - Công tác Quần
chúng...), các Ban Chấp hành thuộc những đoàn thể quần chúng (Đoàn Thanh niên,
Hội Phụ Nữ, Công đoàn...) trong lực lượng CAND. Đặc điểm của các cơ quan này
là gắn liền việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình bằng việc tổ chức các hoạt
động thực tiễn với công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho
CBCS CAND; thực hiện tham mưu cho các cấp ủy Đảng, các cán bộ lãnh đạo các
cấp trong CAND về việc ban hành những chủ trương, phương hướng nâng cao đạo
đức cách mạng cho CBCS; báo cáo với các cấp lãnh đạo về thực trạng đạo đức cách
mạng và kết quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND theo định
kỳ, thường xuyên....
* Đối tượng giáo dục đạo đức cách mạng
Đối tượng mà công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND
hướng đến là toàn thể CBCS thuộc lực lượng, là nhân tố quyết định trực tiếp, quyết
định hàng đầu đến chất lượng công tác giáo dục. Bởi vì, nếu bản thân người CBCS
không có ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện, không chủ động tiếp thu những giá trị
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng tốt đẹp thì công tác giáo dục cũng không
thể đạt được mục tiêu đề ra từ đầu. Đối tượng giáo dục là toàn thể CBCS nên rất
phong phú, đa dạng về đặc điểm của từng CBCS (đó là nhóm đối tượng giữ chức vụ
lãnh đạo, chỉ huy và CBCS cấp dưới; CBCS là đảng viên và CBCS chưa đứng vào
29. 24
hàng ngũ của Đảng; CBCS đã vào biên chế của lực lượng CAND và CBCS hợp
đồng...; khác biệt về trình độ, năng lực học tập và kinh nghiệm thực tiễn, về môi
trường công tác, điều kiện làm việc, đời sống vật chất và tinh thần khác nhau...). Về
vị trí của đối tượng giáo dục trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng, đối tượng
giáo dục không chỉ tiếp nhận một cách thụ động những tác động từ công tác giáo
dục mà còn có tính chủ động, thậm chí quyết định đến hiệu quả công tác giáo dục;
đôi lúc có những tác động trở lại đối với chủ thể ở số mặt công tác.
* Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng
Về mặt nội dung, công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND
thuộc một phần hoạt động của công tác tư tưởng của lực lượng, được đặt dưới sự
chỉ đạo một cách chặt chẽ về nội dung và hình thức, sự hướng dẫn về nghiệp vụ của
Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương và của Đảng ủy Công an Trung ương. Tuy
nhiên, công tác giáo dục đạo đức cách mạng chủ yếu được tiến hành ngay tại đơn vị
nơi CBCS công tác.
Nhằm giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND là một lực lượng vũ
trang nhân dân, có chức năng chính là giữ gìn ANTT, cho nên, công tác giáo dục
đạo đức cách mạng cho CBCS không những sẽ bao hàm các nội dung giáo dục đạo
đức cách mạng theo tinh thần của Đảng ta mà sẽ chứa dựng những đặc điểm riêng,
yêu cầu riêng mang tính đặc trưng của Ngành. Những đặc điểm riêng này thể hiện
một cách sâu sắc trong các nội dung, phương phâm, nguyên tắc, phương pháp, công
cụ hỗ trợ thực hiện công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức cách mạng cho CBCS
CAND.
Nội dung của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND như
vậy sẽ bao hàm những vấn đề cơ bản sau đây:
- Nội dung giáo dục về chính trị - tư tưởng, tập trung vào việc nâng cao các
phẩm chất chính trị tốt đẹp, bản lĩnh chính trị; nhận thức một cách sâu sắc về các
vấn đề chính trị cơ bản; bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng nhiệt tình cách mạng và
lòng tin tưởng và tuyệt đối trung thành với sự nghiệp độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH; nâng cao nhận thức về chủ quyền lãnh thổ, sự ổn định chính trị của quốc
30. 25
gia, ý thức giữ gìn ANTT để bảo vệ sự bình yên của đất nước và nhân dân.
- Nội dung giáo dục về các phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo
đức của người cộng sản, tập trung vào các phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư; tinh thần nhiệt tình, tận tâm trong công việc, trong việc phục vụ nhân
dân và bảo vệ sự bình yên của nhân dân; cụ thể hóa đạo đức cách mạng thành
những phẩm chất đạo đức, những hành động đạo đức gắn liền với nghề nghiệp của
người CBCS CAND.
- Nội dung giáo dục đạo đức gắn liền với thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy
CAND; xây dựng mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa CBCS CAND với nhân dân,
tinh thần CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ; xây dựng mối quan hệ đoàn kết
giữa đồng chí, đồng đội trong quá trình công tác và trong cuộc sống; xây dựng tinh
thần đoàn kết gắn liền với đấu tranh, với tự phê bình, phê bình cốt để nâng cao trình
độ về chất của tổ chức và cá nhân mỗi người CBCS...
- Nội dung giáo dục đạo đức gắn với việc xây dựng lễ tiết, tác phong chấp
hành nghiêm túc điều lệnh, nội quy, kỷ luật, quy trình, quy chế công tác; xây dựng
tác phong ứng xử có văn hóa với đồng chí, đồng đội, với nhân dân; giáo dục lối
sống giản dị, trong sạch, nghị lực vượt khó khăn, vượt lên chính mình, không ngừng
hoàn thiện đạo đức, nhân cách, chống chủ nghĩa cá nhân, có dũng khí, bản lĩnh
đứng ngoài vòng danh lợi, không màng danh lợi theo tấm gương trong sáng, mẫu
mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh....
* Phương pháp, phương tiện giáo dục đạo đức cách mạng
- Về phương pháp giáo dục:
Phương pháp giáo dục là cách thức hoạt động của chủ thể giáo dục và đối
tượng giáo dục đạo đức người công an cách mạng nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND thường áp dụng các
biện pháp sau:
Phương pháp đối thoại: là một phương pháp đang được chú ý tăng cường sử
dụng để cùng trao đổi ý kiến, thảo luận, tranh luận giữa chủ thể và đối tượng giáo
dục để làm sáng tỏ những vấn đề tư tưởng, nhằm đi đến thống nhất ý chí và hành
31. 26
động theo định hướng giáo dục.
Phương pháp thực tiễn: thu hút CBCS CAND tham gia các hoạt động thực
tiễn và các phong trào hoạt động cách mạng để giáo dục đạo đức. Đây là phương
pháp trọng yếu nhất. Bởi vì chỉ có thông quan thực tiễn chiến đấu và công tác,
người CBCS CAND mới có điều kiện rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng.
Phương pháp thuyết trình: là cách thức sử dụng lời nói để trình bày, giảng
giải những vấn đề tư tưởng có tính chất lý luận một cách có hệ thống nhằm trang bị
tri thức, củng cố niềm tin cho CBCS CAND. Đây là một phương pháp phổ biến
mang tính “truyền thống”, có nhiều ưu điểm như: có tác dụng tích cực, dễ áp dụng
với việc kết hợp với các báo cáo viên, giảng viên có uy tín về lĩnh vực giáo dục đạo
đức cách mạng.
Phương pháp trực quan: là phương pháp chủ thể giáo dục sử dụng các
phương tiện trực quan để tác động vào lý trí, tình cảm con người nhằm hướng dẫn
nhận thức và hành vi của đối tượng giáo dục. Đây là phương pháp dễ gây ấn tượng
mạnh cho đối tượng giáo dục, nó tác động trực tiếp vào các giác quan, tạo cảm xúc
và sự khắc sâu kiến thức. Trong giáo dục đạo đức người công an cách mạng cho
CBCS CAND, đó là việc chủ thể giáo dục sử dụng các tranh ảnh, khẩu hiệu, áp
phích, phim, video... có ý nghĩa giáo dục đạo đức cao tác động trực tiếp vào tâm lý,
tình cảm của CBCS nên dễ có khái niệm cụ thể về đúng, sai, đồng thời nhanh chóng
hình thành những hành động noi gương, bắt chước với những việc làm nhân đạo,
những hành động hợp với giá trị đạo đức theo định hướng của Đảng.
Phương pháp nêu gương: là phương pháp tác động vào tâm lý, tình cảm của
đối tượng nhằm tạo ra nguồn cảm hứng thường xuyên với những hành động cụ thể
được xã hội tôn vinh và ngăn ngừa những hành động đi ngược lại lợi ích xã hội.
Đây là phương pháp mà chủ thể giáo dục chủ động lựa chọn, bồi dưỡng những tập
thể, cá nhân tiên tiến thành những mô hình điển hình tiên tiến và phát động sâu rộng
phong trào học tập, phấn đấu theo gương các điển hình tiên tiến. Trong điều kiện
hiện nay, đây là một trong những giải pháp hiệu quả, nhằm thúc đẩy tinh thần học
tập, rèn luyện đạo đức cách mạng ở CBCS CAND, tạo nguồn sức mạnh đủ sức hoàn
32. 27
thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
- Về phương tiện giáo dục:
Phương tiện giáo dục đạo đức cách mạng là những vật mang nội dung và
phương pháp tác động giáo dục, là những công cụ công tác của chủ thể và công cụ
mà nhờ nó đối tượng tiếp nhận, lĩnh hội nội dung giáo dục về đạo đức cách mạng.
Trong đó, truyền thông và các phương tiện công nghệ hiện đại có sức tác động lan
tỏa mạnh mẽ.
1.2. Nhận thức chung về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
1.2.1. Hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sỹ
Công an nhân dân
Có thể hiểu “hiệu quả” là khái niệm dùng để chỉ “kết quả như yêu cầu của
việc làm mang lại” [104, tr. 440]. Như vậy, khi đề cập đến hiệu quả của một mặt
công tác, ta phải thực hiện việc so sánh kết quả giữa trước và sau khi thực hiện công
tác, giữa kết quả đạt được và mục tiêu, nhiệm vụ đề ra từ trước cùng với với hao tổn
về vật lực, tài lực để đạt được kết quả đó. Từ sự phân tích trên, ta có thể hiểu khái
niệm hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND là khái niệm dùng để
chỉ sự so sánh về kết quả đạt được các mục tiêu mà công tác giáo dục về đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND đặt ra, phù hợp với yêu cầu công tác của Ngành và
yêu cầu xây dựng CNXH trong tình hình mới, so với trước khi CBCS nhận được sự
tác động từ công tác giáo dục đạo đức cách mạng; trong đó, có tính toán về chi phí,
sức lực, vật lực đã tổn hao trong quá trình thực hiện công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND. Hay nói cách khác, hiệu quả của giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND ta có thể hiểu đó là kết quả cao đạt được trong tương
quan so sánh với mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra từ trước và hao tổn về vật lực, tài lực
cần thiết để thực hiện.
Khi đề cập đến hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng, có thể phân chia thành
nhiều loại hình khác nhau tùy vào tiêu chí xác định. Nếu dựa vào tiêu chí thời gian
tác động, ta phân chia thành hai loại: hiệu quả trước mắt (được kiểm tra, đánh giá
33. 28
ngay trong một khoảng thời gian ngắn như một quý, nửa năm, một năm....) và hiệu
quả lâu dài (được kiểm tra, đánh giá qua một thời gian dài như năm năm, mười
năm...); nếu dựa vào tiêu chí lĩnh vực tác động, ta có thể phân chia thành hai loại:
hiệu quả tinh thần (được kiểm tra, đánh giá dựa trên sự thay đổi trong những yếu tố
thuộc về nhận thức, tinh thần, tình cảm, ý chí... của người nhận tác động) và hiệu
quả thực tiễn (được kiểm tra, đánh giá bằng kết quả của mình trong hoàn thành
nhiệm vụ, tính tích cực, tính chủ động, tự giác trong công việc thể hiện bằng hành
động thực tiễn)...
1.2.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
1.2.2.1. Tiêu chí về nhận thức đạo đức cách mạng của cán bộ, chiến sỹ Công
an nhân dân
Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND hướng tới trước hết
là mặt tư tưởng, nhận thức của CBCS. Chỉ khi nào CBCS có nhận thức đúng đắn
mới có thể dẫn đến những hành động đúng đắn. Tiêu chí về nhận thức đạo đức cách
mạng của CBCS CAND có thể cụ thể hóa bao gồm:
- Nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng đối với CBCS CAND.
Trong đó, phải hình thành nhận thức của CBCS CAND về sự gắn bó mật thiết giữa
hai mặt đức và tài, lấy đức làm gốc, làm nền tảng.
- Nhận thức về những giá trị đạo đức mới, đạo đức cách mạng cùng với lối
sống mới, lối sống XHCN. Nội dung của đạo đức mới, lối sống mới được quán triệt
theo những quan điểm có tính nguyên tắc của thế giới quan, phương pháp luận khoa
học của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phải chú ý giáo
dục, rèn luyện các phẩm chất đạo đức của người công an cách mạng mà Hồ Chí
Minh chỉ ra là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; giáo dục tinh thần, thái độ tận
tụy với công việc, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân; đấu tranh phòng, chống tội
phạm và các tệ nạn xã hội... Giáo dục nhận thức về hành động đạo đức trong các
mối quan hệ: với mình, với người khác, với công việc.
- Giáo dục nhận thức về tính cấp bách ngăn chặn, đẩy lùi, tẩy trừ mọi tệ nạn
34. 29
do thoái hóa biến chất gây nên. Trước hết là sự tự nhận thức về yêu cầu tự tu dưỡng,
rèn luyện của mỗi cá nhân người CBCS CAND. Hơn nữa, CBCS CAND phải nhận
thức được vai trò của mình trong việc đấu tranh giữ gìn sự đạo đức cách mạng trong
sạch, lành mạnh của người CBCS CAND.
- Giáo dục nhận thức về tinh thần tiên phong, nêu gương về đạo đức; gắn
chặt lời nói với hành động, giữa nhận thức về đạo đức cách mạng với thái độ, niềm
tin và hành động thực tiễn thể hiện nhận thức đúng đắn và hành động hiệu quả...
1.2.2.2. Tiêu chí về ý thức hành động tự giác, tích cực tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng của cán bộ, chiến sỹ Công an nhân dân
Nhận thức về đạo đức cách mạng một cách đầy đủ, toàn diện là yêu cầu đầu
tiên để xây dựng một người CBCS CAND cách mạng. Tuy nhiên, nhận thức đó
trước hết phải được chuyển hóa thành thái độ hành động đúng đắn. Do đó, kết quả
của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND cũng được thể hiện ở ý
thức hành động tự giác, tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của CBCS
CAND, cụ thể như:
- Ý thức tự giác, tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của CBCS
CAND thể hiện ở nhu cầu tự giáo dục, tự rèn luyện về đạo đức và lối sống “như
mỗi ngày phải rửa mặt”. Phải biến nhu cầu tự tu dưỡng, rèn luyện của CBCS
CAND thành nhu cầu tự thân, từ tự phát sang tự giác có định hướng đúng đắn theo
đạo đức cộng sản, lối sống trong sạch, lành mạnh.
- CBCS CAND tự nhận thức được mặt ưu điểm và khuyết điểm của mình.
Từ đó, CBCS CAND có ý thức xây dựng, phát triển mặt ưu điểm của mình song
song với việc khắc phục dần những khuyết điểm trong đạo đức, trong lối sống như
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi” [45, tr. 672].
- CBCS CAND nêu cao tinh thần tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo
đức cách mạng trong sáng, giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; nghiêm túc quán triệt
và thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy CAND. Thông qua các mối quan hệ ứng xử với
bản thân, với người khác và với công việc, CBCS CAND thể hiện nhân cách người
35. 30
Công an cách mạng được giáo dục, rèn luyện về đạo đức cách mạng. Đồng thời,
CBCS CAND tự giác thực hiện theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước; kỷ luật, điều lệnh của Ngành và của đơn vị.
- CBCS CAND có tinh thần tích cực rèn luyện cả đức và tài; tích cực, tự giác
học tập, nâng cao trình độ chuyên môn giỏi đi liền với bản lĩnh chính trị, trình độ
chính trị đáp ứng yêu cầu công tác đặt ra.
- CBCS CAND biến tinh thần tự giác, tích cực rèn luyện về đạo đức cách
mạng thành thói quen, nếp sống của bản thân để phát huy tinh thần nêu gương tại
đơn vị công tác nói riêng, lực lượng CAND nói chung. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý phải phát huy tinh thần tiên phong, gương mẫu về đạo
đức cách mạng...
- Hiện thực hóa sự mẫu mực của người CBCS CAND trong cuộc sống, sinh
hoạt xã hội, công việc tạo nên sức mạnh hoàn thành nhiệm vụ được giao và trở
thành một tấm gương mẫu mực, tốt đẹp đối với quần chúng.
1.2.2.3. Tinh thần đấu tranh chống lại biểu hiện vi phạm, suy thoái về đạo
đức, lối sống
CBCS CAND không chỉ phát huy tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng của bản thân mà còn chú ý xây dựng điều này thành tác phong của toàn
thể lực lượng. Muốn thực hiện tốt các vấn đề trên, CBCS CAND nêu cao nguyên
tắc tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất trên cơ sở đấu tranh chống lại mọi
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng. Cụ thể: CBCS CAND
kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích vị kỷ cá
nhân, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, tranh giành chức vụ, quyền hạn, kèn cựa địa vị;
chống lại biểu hiện, thái độ tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo; thực hành nghiêm túc và
kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
chống lại thái độ đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; chống lại biểu hiện độc
đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành; chống lại các căn bệnh háo
danh, bệnh phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng”
tên tuổi; phát hiện kịp thời, tố cáo hành vi chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy
36. 31
luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội, “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy
danh hiệu”; lên án, phòng, chống biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, thờ ơ, vô
cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của
nhân dân; ngăn chặn, đẩy lùi các hành vi gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản,
ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên, mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy
định, chi tiêu công quỹ tùy tiện, vô nguyên tắc...; kiên quyết ngăn chặn nạn tham ô,
tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng
khác để trục lợi cho cá nhân và gia đình, hay lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn
được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực; chống lại nạn
thao túng trong công tác cán bộ; phòng chống nạn đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín
dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp, sa vào các tệ nạn
xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc,
chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội đối với CBCS đơn vị mình nói riêng, trong
lực lượng CAND nói chung...
1.2.2.4. Tiêu chí kết quả công tác thực tiễn thể hiện sự tu dưỡng về đạo đức
cách mạng
Thước cho hiệu quả nhất đối với hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng là kết quả hoạt động thực tiễn hay mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà
CBCS CAND được giao. Kết quả công tác thực tiễn thể hiện sự tu dưỡng về đạo
đức cách mạng có thể bao gồm:
- Có ý chí phấn đấu, tận tụy trong công việc, ham học hỏi và thực tế hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. CBCS CAND không quản ngại khó khăn, gian
khổ đế vươn lên đạt được hiệu quả tốt nhất trong công tác. Đặc biệt là hiệu quả
trong công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm xâm phạm an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội có biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp cùng với những
chuyển biến của xã hội.
- Trong công tác, CBCS CAND luôn thể hiện tinh thần tương thân tương ái,
đoàn kết với đồng chí, đồng đội và thân ái giúp đỡ, cùng nhau phấn đấu hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ của Ngành, của đơn vị nói chung, của mỗi CBCS nói riêng.
37. 32
- Trong công tác tiếp xúc với nhân dân, CBCS CAND luôn thể hiện tinh thần
trọng dân, thân dân, gần gũi với nhân dân, giúp đỡ nhân dân, giữ gìn sự bình yên
cho nhân dân; làm cho nhân dân thực sự tin tưởng và tận tình giúp đỡ CAND trong
công tác đấu tranh giữ gìn ANTT...
1.2.2.5. Tiêu chí về hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong công tác giáo dục
đạo đức cách mạng
Nguồn lực cơ bản, có tính quyết định trong công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho CBCS CAND là nguồn lực con người. Nguồn lực con người ở đây trước
hết phải kể đến là các cá nhân trong cấp ủy, lãnh đạo, quản lý có vai trò định hướng,
chỉ đạo, tổ chức, quản lý, tuyên truyền, giáo dục trực tiếp các CBCS CAND là đối
tượng nhận tác động. Họ vừa là chủ thể, vừa là nguồn lực rất quan trọng trong công
tác giáo dục đạo đức cách mạng. Bởi vì, sự quan tậm chỉ đạo và phối hợp nhịp
nhàng, có định hướng rõ ràng của các CBCS giữ chức vụ lãnh đạo, chỉ huy sẽ tạo
nên hiệu quả cao cho hoạt động giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND,
trước hết là sự huy động toàn bộ các nguồn lực và có định hướng rõ ràng thực hiện
công tác này.
Nguồn lực cơ bản lớn thứ hai phải kể đến đối với công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS CAND là chi phí: về thời gian, về kinh phí, về cơ sở vật chất
– kỹ thuật đã hao tổn cho hoạt động giáo dục. Về thời gian, công tác giáo dục đạo
đức cách mạng không thể đòi hỏi đạt được hiệu quả ngay, nhất thời mà phải hướng
đến hiệu quả lâu dài và giữ vững kết quả đã đạt được; đòi hỏi các chủ thể giáo dục
phải đầu tư thời gian liên tục, tiến hành thường xuyên công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho CBCS, lồng ghép trong mọi lĩnh vực hoạt động, công tác, kể cả lối
sống, thói quen sinh hoạt của CBCS. Về kinh phí, để tiến hành công tác giáo dục
đạo đức cách mạng cho CBCS CAND một cách có hiệu quả, không thể không áp
dụng những biện pháp, cách thức phong phú, sáng tạo, linh hoạt, lôi cuốn, hấp dẫn
đối với CBCS CAND, đặc biệt là những hoạt động thực tiễn: điều này đòi hỏi phải
có sự đầu tư về kinh phí một cách hợp lý trên tất cả các khâu giáo dục. Ngoài ra, hệ
thống cơ sở vật chất – kỹ thuật cần thiết phải tính đến để phục vụ cho công tác giáo
38. 33
dục đạo đức cách mạng; các hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật hỗ trợ cho việc lan
truyền nhanh chóng các nội dung giáo dục đến toàn thể CBCS CAND...
Tóm lại, khi xem xét về hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho
CBCS CAND, cần thiết phải tính đến việc đo lường về thời gian, về kinh phí và hao
tổn, đầu tư về cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ cho công tác ở mức độ nào, có phù
hợp với kết quả đã đề ra hay không hay cần có sự điều chỉnh cho phù hợp...
Tiểu kết chương 1
Thực tiễn đã chỉ ra rằng: đạo đức cách mạng là một trong những nhân tố
hàng đầu quyết định đến hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị (Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội) cũng như mỗi cá nhân
người cán bộ, đảng viên. Đối với CBCS CAND, yêu cầu từ công tác nghề nghiệp,
từ môi trường xã hội mà mỗi người tiếp xúc càng đặt ra những yêu cầu cao đối với
các phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng. Hay nói cách khác, xuất phát từ yêu
cầu thực tế, công tác giáo dục đạo đức cách mạng có tầm quan trọng hàng đầu trong
lực lượng CAND.
Để thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND,
trước hết phải nắm rõ về chủ thể, đối tượng, điều kiện thực hiện, nội dung và
phương pháp tiến hành công tác giáo dục đạo đức cách mạng. Đặc biệt, để xác định
khách quan hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND,
cần thiết phải quy định các hệ tiêu chí đánh giá chất lượng, nội dung có thể bao
gồm: Tiêu chí về nhận thức đạo đức cách mạng; tiêu chí về ý thức hành động tự
giác, tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; tinh thần đấu tranh chống lại
biểu hiện vi phạm, suy thoái về đạo đức; tiêu chí kết quả công tác thực tiễn thể hiện
sự tu dưỡng về đạo đức cách mạng; tiêu chí về hiệu quả sử dụng các nguồn lực
trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng.
39. 34
Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO CÁN BỘ, CHIẾN SỸ CỦA TỔNG CỤC AN NINH
2.1. Những yếu tố tác động đến hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho cán bộ, chiến sỹ của Tổng cục An ninh
2.1.1. Tình hình thế giới và trong nước
2.1.1.1. Tình hình thế giới, khu vực
- Tình hình an ninh, chính trị - xã hội trên thế giới
Thế giới trong những năm qua có những biến động phức tạp, diễn biến khó
lường, đặc biệt là về tình hình an ninh, chính trị - xã hội. Trong đó, diễn biến ngày
càng phức tạp, gay gắt, xảy ra ở những tác động xâm phạm chủ quyền quốc gia, dân
tộc; những hiện tượng tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên; những hiện
tượng xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp, bạo loạn lật đổ, khủng bố, chiến tranh
mạng, chiến tranh cục bộ... Những sự kiện lớn mang tầm quốc tế đã xảy ra tạo nên
những chuyển biến về bộ mặt của an ninh chính trị quốc tế. Dưới những chuyển
biến đó, thế giới ngày nay đang phát triển theo những xu thế như: toàn cầu hóa; xu
thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, ổn định để phát triển; xu hướng liên kết, hợp
tác giữa các quốc gia, dân tộc trở thành xu thế hàng đầu thay vì mâu thuẫn, chiến
tranh với nhau; các quốc gia – dân tộc ngày càng có ý thức rõ ràng hơn về độc lập,
tự chủ, tự cường dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; những lực
lượng XHCN trên thế giới trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tiếp tục
kiên trì đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH, phục vụ sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; cục diện
Chiến tranh Lạnh kết thúc, thế giới trở nên cục diện đa cực, các nước có chế độ
chính trị khác nhau thúc đẩy tinh thần vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại trong
hòa bình... Như vậy, đặc điểm của tình hình an ninh, chính trị, xã hội của thế giới
ngày nay có sự đan xen những yếu tố phức tạp, yếu tố phát triển nằm bên cạnh yếu
tố suy thoái, yếu tố hợp tác nằm bên cạnh yếu tố đấu tranh, yếu tố ổn định nằm bên
40. 35
cạnh yếu tố mất ổn định những nhưng xu thế lớn nhất vẫn là hòa bình, hợp tác và
phát triển. Những xu thế ổn định, những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của CNXH
hiện thực, những trào lưu dân chủ, tiến bộ của nhân loại củng cố thêm niềm tin, lập
trường vững vàng của CBCS CAND; những yếu tố mất ổn định, tiêu cực, độc hại từ
Chủ nghĩa đế quốc, Chủ nghĩa tư bản hiện đại giúp nhìn nhận rõ hơn về những quy
luật khách quan của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà các nhà sáng lập nên CNXH
khoa học đã chỉ ra – đó là những thuận lợi cho công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho CBCS CAND.
Nhìn nhận dưới góc độ tác động vào công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế không chỉ nhằm
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mà còn có vai trò quan trọng trong việc cung cấp
những cơ sở, phương tiện cho công tác giáo dục đạo đức cách mạng. Bởi lẽ, toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế làm cho khoa học công nghệ phát triển vượt bậc, những
thành tựu công nghệ thông tin mang những nội dung, giá trị của Chủ nghĩa Mác –
Lênin truyền bá trên phạm vi toàn thế giới, được toàn thể nhân loại kiểm nghiệm,
đánh giá một cách khách quan, toàn diện hơn. Thông qua trình độ phát triển của
công nghệ thông tin, những chủ thể giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên nói chung, cho CBCS CAND nói riêng có điều kiện để cung cấp cho đối tượng
giáo dục có sự chọn lọc, thu thập và xử lý thông tin nhanh nhất để biến thành tri
thức một cách nhanh chóng và thuận lợi. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin không chỉ có mặt tích cực là tạo nên nguồn thông tin dồi dào,
phong phú cho đối tượng của công tác giáo dục đạo đức cách mạng tiếp cận, mà nó
còn tiềm ẩn những yếu tố tiêu cực, những luồng thông tin độc hại, sai sự thật, xuyên
tạc thực tế khách quan. Những yếu tố đó chắc chắn là những rào cản đối với công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho CBCS CAND.
- Tình hình an ninh, chính trị - xã hội trong khu vực
Bên cạnh những đặc điểm chung từ xu thế phát triển của thế giới, khu vực
Đông Nam Á (mà Việt Nam ta là một thành viên) tiếp tục khẳng định vị thế là một
trung tâm phát triển năng động, mang trong mình vị trí kinh tế - chính trị chiến lược