SlideShare a Scribd company logo
1 of 28
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 0
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
MÔN: TÁC PHẨM KINH ĐIỂN MÁC-LÊ NIN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
TÊN ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ XÂY
DỰNG ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN”. LIÊN HỆ VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM HIỆN NAY
Ngườithực hiện: HUỲNH CÁC TIÊN
Lớp Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước K37b Đồng Nai.
Đồng Nai tháng 12/2018
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 1
Mục lục
MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
1.Tính cấp thiết của đề tài. ........................................................................... 2
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ...................................................... 3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: ............................................................... 3
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài. ................................ 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:..................................................... 4
7. Kết cấu của đề tài: Ngoài mở đầu, kết luận, phục vụ và danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài gồm 3 chương và 8 tiết...................................................... 4
Chương 1: GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN ..................................................................................................5
1.1. Cuộc đời, sự nghiệp C.Mác, Ph.Ăngghen :............................................. 5
1.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” .......... 8
1.3. Nội dung chủ yếu của tác phẩm........................................................... 10
Chương 2. GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC TƯ TƯỞNG.......................................................................................12
2.1. Giá trị khoa học của tác phẩm.............................................................. 12
2.2. Giá trị trong lĩnh vực tư tưởng............................................................. 12
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY. ........................20
3.1. Trên lĩnh vực lý luận........................................................................... 20
3.2.Trên lĩnh vực tuyên truyền. .................................................................. 21
KẾT LUẬN.................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................27
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 2
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm vĩ đại của Mác và nó mở
đầu cho một thời kỳ cách mạng của giai cấp công nhân. Hơn 160 năm kể từ khi
ra đời đến may giá trị của tuyên ngôn vẫn là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định những giá trị đích thực của nó
trong thế giới đương đại ngày nay.
- Trong những năm cuối của thế kỷ XX chủ nghĩa xã hội lâm vào cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng và sâu sắc nhất trong lịch sử. Lợi dụng sự tan rã của
Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin
ra sức công kích, chống phá và bôi nhọ chủ nghĩa Mác, chúng cho rằng “bóng
ma” của chủ nghĩa xã hội vẫn chỉ là bóng ma, và rằng chủ nghĩa xã hội chỉ còn
sót lại bốn đứa con côi cút (Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba và Triều Tiên). Sự
sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa chỉ còn tính bằng ngày.
Một mặt chúng ra sức công kích chủ nghĩa Mác. Mặt khác chúng lại vận
dụng chủ nghĩa Mác để tự phù hợp nhằm kéo dài sự sống của mình. Song một
điều hiển nhiên đến nay đã rõ đó là chủ nghĩa xã hội không thể diệt vong, hơn
thế chủ nghĩa xã hội không chỉ tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa mà nó còn có
sức sống ở các trường Đại học Mỹ và ở trong lòng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung những giá trị tư tưởng trong
tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng, gần đây nhất là năm 2008
nhân kỷ niệm 160 năm ra đời của bản Tuyên ngôn đã có rất nhiều học giả, nhà
nghiên cứu, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã có nhiều bài viết khẳng định
tính khoa học và cáchmạng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Dưới góc độ nghiên cứu của công tác tư tưởng chúng ta cũng cần làm rõ
giá trị của tác phẩm đối với các lĩnh vực của công tác tư tưởng - liên hệ sự vận
dụng những luận điểm của Tuyên ngôn của Đảng ta trên lĩnh vực chính trị tư
tưởng. Từ đó tìm ra giải pháp để bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng ta và cũng là bảo
vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối với Việt Nam chúng ta hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa diễn ra
mạnh mẽ, công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm hàng đầu nhưng nó đòi hỏi chúng ta phải có lý luận cách mạng dẫn
đường nhằm đảm bảo cho sự phát triển ấy không đi chệch hướng con đường tiến
lên Chủ nghĩa xã hội. Để đấu tranh với những tư tưởng sai lệch về giá trị quan
trọng của lý luận về đảng cộng sản của Tuyên ngôn, giúp Đảng ta vững vàng lập
trường tư tưởng của chính Đảng lãnh đạo, trong phạm vi nhỏ hẹp của một tiểu
luận, tác giả chỉ đi vào tìm hiểu những tư tưởng về Đảng cộng sản của C.Mác và
Ph.Ăngghen qua đề tài: “Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng
đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”. Liên hệ với công tác
xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay”
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Lý luận lẫn thực tiễn để khẳng định rằng, lịch sử nhân loại, phong trào
cách mạng thế giới đang phải trải qua những bước quanh co, song cuối cùng,
nhân loại nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa của
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 3
lịch sử. Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại trong các chặng đường lịch sử tồn tại và phát triển của nó, cũng
như từ khát vọng và sự thức tỉnh của nhân dân các dân tộc yêu chuộng hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, tất có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới.
Trên cơ sở nộidung của 4 chương trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản” của C.Mác và Ph. Ăng ghen, tiểu luận tập trung nghiên cứu những quan điểm về
xây dụng Đảng, qua đó nhằm nâng cao nhận thức và lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong tình hình mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích: Làm rõ tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng nghen về xây dựng
Đảng trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, từ đó vận dụng sáng tạo những tư
tưởng đó vào công tác xây dựng Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
+ Tập trung làm rõ một số vấn đề các quan điểm của Mác - Ăngghen về
công tác tư tưởng được nêu trong tác phẩm quá trình tiếp cận chủ nghĩa Mác -
Lênin do Nguyễn Ái Quốc dẫn đường và sự hình thành hệ tư tưởng Mác xít
trong cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trình bày quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
+ Trình bày sự vận dụng các nội dung tư tưởng của tác phẩm Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác tư tưởng của Đảng ta qua các giai
đoạn cách mạng.
+ Quá trình khẳng định tính đúng đắn của tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”. Từ đó đấu tranh không khoan nhượng với các thế lực thù địch
nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Liên hệ với công tác xây dựng đảng cộng sản Việt Nam hiện nay
4. Đốitượng, phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen về xây dựng đảng trong tác phẩm “tuyên ngôn của đảng cộng sản”
Lý luận của C. Mác và Ph. Ăng ghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm
“Tuyên ngôncủaĐảng cộngsản” và ý nghĩacủa nó đối vớicách mạng Việt Nam hiện
nay.
Nộidungcốt lõicủa tác phẩm “Tuyên ngôncủaĐảng cộngsản” của C.Mác –
Ph. Ăngghen về xây dựng Đảng ở nước ta hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng ghen về xây
dựng Đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của C. Mác và Ph. Ăng
ghen. Sự vận dụng thực tiễn cách mạng Việt Nam
4.3. Phương pháp luận:Dựa vào những nguyên tắc phương pháp luận
của C.Mác, Ph.Ăngghen
4.4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nhận thức, phân tích, logic
lịch sử, nghiên cứu tư liệu, chọn lọc tổng hợp các tư liệu, hệ thống hóa các tri
thức.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 4
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
5.1. Cơ sở lý luận của đề tài :Chủnghĩa Mác-Ph. Ăng nghen, V.I. Lê nin, tư
tưởng Hồ ChíMinh và côngtác xâydựng Đảngở Việt Nam
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Quá trình làm tiểu luận đã sử dụng một số
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận và
thực tiễn, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Tiểu luận phân tích làm rõ quan điểm của C.Mác-Ph. Ăngghen về xây dựng
Đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Liên hệ về xây dựng
Đảng hiện nay ở nước ta
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nắm chắc quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong tác phẩm giúp
cho công tác xây dựng Đảng có thêm nhiều thực tiễn, từ đó rút ra được kinh nghiệm
và lý luận cơ bản về công tác xây dựng Đảng nước ta.
7. Kết cấu của đề tài: Ngoài mở đầu, kết luận, phục vụ và danh mục tài
liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CỦA C.MÁC,
PH.ĂNGGHEN VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM TUYÊN
NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
1. Cuộc đời và sự nghiệp
1.1. Vài nét về tác giả C.Mác, Ph.Ăngghen
1.1.1. Cuộc đờivà sự nghiệp của C.Mác
1.1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Ph.Ăngghen
1.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
1.2.1. Tiền đề về kinh tế.
1.2.2. Tiền đề chính trị - xã hội.
1.2.3. Tiền đề khoa học lý luận
1.3. Nộidung chủ yếu của tác phẩm.
1.3.1. Chủ đề
1.3.2. Nộidung của tác phẩm.
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG.
2.1. Giá trị khoa học
2.2. Giá trị trong lĩnh vực công tác tư tưởng.
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY.
3.1. Trên lĩnh vực lý luận.
3.2 trên lĩnh vực tuyên truyền
3.3 trên lĩnh vực cổ động
KẾT LUẬN
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 5
Tên đề tài: “Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng
đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”. Liên hệ với
công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay”.
Chương 1: GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN
1.1. Cuộc đời, sự nghiệp C.Mác, Ph.Ăngghen:
1.1.1.Cuộc đời, sự nghiệp của C.Mác
1.1.1.1. Cuộc đời(Karl Marx, sinh năm: 1818, mấtnăm 1883)
C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình
luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường trung
học ở Tơriơ. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở
những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về
toán học. Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu,
tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai
tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng
hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C.
Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên
cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu
triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập trung nghiên
cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23
tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa
triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường
Iêna.
Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và
ông đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen.
1.1.1.2. Sựnghiệp:
Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842,
khi Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische
Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C.
Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và
quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính
phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 6
1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph. Ăng-ghen cũng đến đây và hai
ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1848, ở
Pháp nổ ra Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng tư 1848, C.
Mác cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng biên tập tờ
Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng
cửa tờ báo và trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ lưu lại
ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối đời
(1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba 1883 ở Luân-đôn
1.1.2.Vàinétvề tác giả Ph. Ăngghen
1.1.2.1. Cuộc đời: Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels)
Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh,
Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Ph. Ăng- ghen đã
bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự
đe doạ trừng phạt không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng.
Cho đến năm 14 tuổi, Ph. Ăng- ghen học ở trường tại thành phố Barmen. Ph.
Ăng- ghen sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng Mười 1834, Ph. Ăng-
ghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ
thời bấy giờ. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ph. Ăng- ghen buộc phải rời bỏ
trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng
của bố ông. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học,
ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Ph. Ăng- ghen đến làm việc tại văn
phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 Ph. Ăng- ghen bắt
tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê- ghen. Tháng 9- 1841, Ph. Ăng- ghen
đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh ở đây ông được huấn luyện quân sự
mà trong những năm sau, ông rất cần đến nó, nhưng ông vẫn lui tới trường Đại
học tổng hợp Berlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn
giáo.
1.1.2.2. Sựnghiệp:
Mùa xuân 1842, Ph. Ăng- ghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung
(Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Ph. Ăng-
ghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc
Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ph. Ăng- ghen mãn
hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen, một tháng sau, Ph.
Ăng- ghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ph. Ăng- ghen
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 7
đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã gặp C. Mác, Tổng
biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh hai năm. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công
nhân ở Anh (1842) cùng với những bài báo khác của Ph. Ăng- ghen viết ra năm
đó đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc
chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ph. Ăng-
ghen tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 21844). Các
bài báo này đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích
các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản.
Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học của Ph.
Ăng-ghen đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh
hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 2-1845, cuốn sách Gia đình
và Thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ
nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi
tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845-1846), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của
Hê- ghen và phái Hê- ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất
quán của Ludvich Phoiơbach nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp đó năm 1848, Đại hội II Liên
đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph. Ăng-ghen quan tâm nhiều đến hoạt động
của BCH Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Uỷ viên của
Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức
(Tháng3-1848) do BCH Trung ương LĐNNCS lập ra.
Tháng 3- 1848, cùng với C. Mác , Ph. Ăng-ghen thảo ra Những yêu sách
của Đảng cộng sản Đức được BCH Trung ương LĐNNCS thông qua như là văn
kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4-
1848 ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức. Ngày 20
tháng 5/1848 Ph. Ăng-ghen đến cùng với C. Mác chuẩn bị xuất bản tờ Neue
Rheinische Zeitung. Ph. Ăng-ghen tham gia viết các bài xã luận, bài điểm tình
hình chính trị. Tháng 10/1848 ông đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền
Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị. Ph. Ăng- ghen lại đến Paris
sau đó sang Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức, ông được
bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này.
Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi
cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849) Ph. Ăng-ghen
đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến
hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph. Ăng- ghen đến Elberfeld và được
sung vào Ban quân sự. Ăng-ghen đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu
tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này,
ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Ph.
Ăng- ghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng.
Tháng 11/1849, Ph. Ăng- ghen đến Luân đôn và được bổ sung vào BCH
Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà C. Mác đã cải tổ sau khi đến
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 8
đây. Ph. Ăng-ghen sống ở Luân- đôn một năm, trong thời gian đó ông đã viết
các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân
ở Đức. Tháng 11-1850, Ph. Ăng-ghen buộc phải chuyển dến Manchester vàn lại
bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho Ăng-ghen
có thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động cách mạng. Ph. Ăng-ghen đặc
biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc
tế. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng
9-1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng của quốc tế
cộng sản I. Ph. Ăng- ghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái
Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1871, Ph. Ăng- ghen tham gia vào việc tổ
chức chiến dịch bảo vệ công xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăng-ghen đã viết
một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp
phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa C. Mác. Sau khi C. Mác
qua đời (1883), Ph. Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ
nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C. Mác
chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những
năm cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích
Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự
nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).
1.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" là bản cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là tác phẩm lý luận tổng kết toàn
bộ quá trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình bày những quan điểm cơ bản của
chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản. Tác phẩm này do
Các Mác (05/5/1818 - 14/3/1883) và Phê-đê-rích Ăng-ghen (28/11/1820 -
05/8/1895) soạn thảo vào cuối năm 1847, được công bố vào tháng 02 năm 1848
và xuất bản vào tháng 3/1848.
Mục đích của tác phẩm như C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: "Hiện nay
đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới
những quan điểm, ý đồ của mình và phải có một Tuyên ngôn của Đảng của mình
để đập lại một câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản".
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
(TBCN) đã thống trị ở Anh, Pháp và trong một chừng mực nào đó ở Đức. Ở
nhiều nước Tây Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) diễn ra
khá mạnh mẽ. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gây gắt.
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất TBCN đã trở nên không thể điều
hòa được. Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của CNTB mà trước hết là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.
Do đó, ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp
vô sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống chính trị - xã hội của quốc gia. Giữa những năm 40 của thế
kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách mạng chuyển sang nước Đức. Giai cấp
vô sản Đức tiến hành cuộc đấu tranh của mình nhưng sự giác ngộ của họ còn
yếu kém. Giữa lúc đó, Mác và Ăng-ghen nhận thức sâu sắc rằng: cần phải làm
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 9
cho giai cấp vô sản trở thành một lực lượng độc lập và làm cho họ tiến gần tới
việc thực hiện những mục đích của cộng sản chủ nghĩa. Tại Luân Đôn (thủ đô
nước Anh) tổ chức "Liên minh những người chính nghĩa" ra đời năm 1836 và
cuối năm 1847 họp Đại hội lần thứ hai. Mác và Ăng-ghen được ủy nhiệm soạn
thảo Cương lĩnh dưới hình thức một bản tuyên ngôn.
Mác và Ăng-ghen đã tập trung sức lực, trí tuệ để hoàn thành "Tuyên ngôn
Đảng cộng sản" trong một thời gian rất ngắn và lần đầu tiên được xuất bản tại
Luân Đôn. Ít lâu sau, Tuyên ngôn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở nhiều
nước khác nhau và mỗi lần tái bản được dịch sang một thứ tiếng khác đều được
tác giả viết lời tựa mới.
Tuyên ngôn được trình bày làm 4 chương với nội dung rất phong phú và cô
đọng. Chương I: Những người tư sản và những người vô sản. Chương II: Những
người vô sản và những người cộng sản. Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa
và cộng sản chủ nghĩa. Chương IV: Thái độ của những người cộng sản với các
đảng đối lập.
1.2.1. Tiền đềvề kinhtế.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội ở trình độ xã hội hóa cao nhờ
những cải tiến, phát minh về kỹ thuật công nghệ, dẫn đến sự ra đời của nền sản
xuất đại công nghiệp cơ khí. Mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là giữa tính
chất xã hội hóa của sản xuất với chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày
càng phát triển đã trở nên gay gắt và trở thành mâu thuẩn chủ yếu của xã hội.
1.2.2. Tiền đềchính trị - xã hội.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự ra đời và phát triển của
giai cấp công nhân. Cơ cấu xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa được hình thành
với đặc trưng cơ bản là tồn tại hai giai cấp đối lập nhau về lợi ích là: giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ngày càng lan rộng, phát triển từ
tụ phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị. Các cuộc đấu
tranh ở Liong, khởi nghĩa của những người thợ dệt ở XileZi, báo hiệu sự trưởng
thành về ý thức chính trị của giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
đòi hỏi bức xúc phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học và cách mạng. Lý luận
của Mác ra đời đáp ứng những đòihỏi ấy.
1.2.3. Tiền đềvề khoa học và lý luận.
Về khoa học tự nhiên, vào giữa thế kỷ XIX đã xuất hiện thuyết tiến hóa
giống loài của Đác-uyn học thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
Lomonoxop... các phương pháp nhận thức khoa học như: quy nạp, phân tích,
thực nghiệm, tổng hợp...đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa học không ngừng phát
triển.
Về lý luận, có những thành tựu của triết học cổ điển Đức (Can ter,
Hêggen...), kinh tế chính trị cổ điển Anh (Ađam Xmit, David Ricardo), chủ
nghĩa xã hội không tưởng của Pháp có (Xanh xi mông, Owen...)
C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa tiếp thu có
chọn lọc và phát triển những tiền đề lý luận trên để sáng tạo ra học thuyết khoa
học và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 10
học thuyết của mình hai ông đã làm sáng tỏ quy luật hình thành và phát triển,
diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô
sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp bách của tình hình thực tiển
cách mạng thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác không chỉ là sự phản ánh thực
tiễn xã hội, nhất là tình hình thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân, mà là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển hợp Logic của lịch
sử tư duy nhân loại, là thành tựu trí tuệ của loài người.
1.3. Nộidung chủ yếu của tác phẩm.
1.3.1. Chủ đề.
Chủ đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, giai cấp vô
sản cách mạng trong cuộc đấu tranh tiến tới xóa bỏ chế độ tư sản, xây dựng xã
hội cộng sản tương lai.
Luận điểm chỉ đạo - linh hồn của tuyên ngôn được thể hiện ở câu: “Như
vậy là sự phát triển của nền đại công nghiệp đã phá sập dưới chân của giai cấp
tư sản, chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế độ
sản xuất và chiếm hữu của nó. Trước hết giai cấp tư sản tạo ra người đào huyệt
chôn chính nó. Sự sụp đổ giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là
tất yếu như nhau“.
Tác phẩm cũng đã trình bày cho chúng ta thấy quan điểm lý luận và
phương pháp cách mạng. Đồng thời đưa ra dự báo có căn cứ và khoa học về tổ
chức, kiến thiết xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Nội dung của tác phẩm
Phần lời tựa:
Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Anh tại Luân đôn ngày
21/1/1882
Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Nga tại Luân đôn ngày
24/6/1883
Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Pháp Luân đôn ngày 28/6/1883.
Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Anh tại Luân đôn ngày
30/1/1888
Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Đức tại Luân đônngày 1/5/1872.
Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiến Anh tại Luân đônngày 24/6/1890.
Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiến Ba Lan tại Luân đôn ngày
10/2/1892
Nội dung nêu lên lý do tại sao giai cấp vô sản phải có truyên ngôn tuy
nhiên vàp mỗi thời kỳ lịch sử có những vấn đề mới nảy sinh vì vậy trong các lời
tựa đều thể hiện quan điểm của Mác – Ăng Ghen.
Chương I : TƯ SẢN VÀ VÔ SẢN
Tác phẩm đã trình bày khái quát tính phát triển tất của xã hội là lịch sử
phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Sự thay thế xã hội này bằng xã hội
khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu của lịch sử.ngay từ khi xã hội có giai
cấp đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 11
Trong thời đại ngày nay( khi tuyên ngôn ra đời) khi giai cấp Tư sản giành
được chính quyền từ giai cấp phong kiến, đã tạo ra một năng suất lao đông cao
nhờ sự phát triển của máy móc nhờ sự mở mang thị trường mà khắp các châu
lục, nền kinh tế đã có sự phát triển cao, có sự phân công lao động xã hội . Thực
tế ấy cho thấy so với phương thức sản xuất phong kiến thì phương thức sản xuất
Tư bản tiến bộ hơn.
Tuy nhiên khi lực lượng sản xuất phát triển với trình độ xã hội hoá ngày
càng cao thì chủ nghĩa Tư bản vẫn duy trì hình thức sở hữu tư nhân dẫn đến mâu
thuẩn giữa LLSX và QHSH.
Trên các lập luận khoa học đó tuyên ngôn đã khẳng định “Giai cấp Tư sản
đã sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư
sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”.
Chương II: NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN VÀ NHỮNG NGƯỜI CỘNG
SẢN
Tuyên ngôn nêu lên mối quan hệ giữa những người vô sản và những
người cộng sản.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đại diện cho lợi ích của
giai cấp vô sản.
Mục đích của những người cộng sản là xoá bỏ tư hữu xoá bỏ bóc lột áp
bức bất công “ Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận lý luận của mình
thành một luận điểm duy nhất này là : Xoá bỏ chế độ tư hữu”.
Tuyên ngôn cũng đưa ra những vấn đề chiến lược và sáchlược của đảng
cộng sản đó là:
Chỉ cho người lao động thấy được bản chất bóc lột, bất công của giai cấp
tư sản.
Những mối quan hệ xã hội tồn tại trong xã hội tư bản như quan hệ hôn
nhân , gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc; quan hệ và các thiết chế kiến trúc
thượng tầng; quan hệ của các hình thái ý thức xã hội VV…
Chương III VĂN HỌC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CỘNG SẢN CHỦ
NGHĨA.
Chương này nói lên sự cáo chung của các trào lưu
Chủ nghĩa xã hội phản động .
Trong phần này tuyên ngôn đã vạch trần tính mị dân của các trào lưu chủ
nghĩa xã hội phản động: gồm :
Chủ nghĩa xã hội phong kiến
Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản
Chủ nghĩa xã hội Đức hay chủ nghĩa xã hội “chân chính “
Các trào lưu nay đã lỗi thời và bị quần chúng lao động bài xích họ đã
dung văn học để làm phương tiên biện minh cho sự tồn tại của mình.
Đáng chú ý là một số bộ phận trong giai cấp tư sản tim cách chữa các căn
bệnh xã hội cốt đẻ củng cố xã hội tư sản.hộ đã dưa ra mô hình Chủ nghĩa xã hội
bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội Tư sản” một số tác phẩm đại diên cho trường phái
này là quyển “ Triết học về sự khốn cùng “ của Phu-đông.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 12
Chương IV:THÁI ĐỘ CỦA NHƯNG NGƯỜI CỘNG SẢN ĐỐI VỚI
CÁC ĐẢNG ĐỐI LẬP.
Chương này tác phẩm trinh bày lập trương mục đích của mình “tóm lại ở
tất cả mọi nơi những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng
chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành. Trong tất cả các phong trào ấy họ
đều đưa ra vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của
phong trào, không thể là nó đã có thể phát triển ở trình độ nào.
Sau hết những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và sự
liên hợp của các đảng dân chủ ở các nước.”
Kết thúc tuyên gôn Mác - Ăng Ghen đưa ra lời hiệu triệu “Vô Sản tất cả
các nước đoàn kết lại!.
Chương 2. GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC TƯ TƯỞNG.
2.1. Giá trị khoa học của tác phẩm.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ vị trí đặc biệt quan trọng ttrong kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh
dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận
cấu thành: Triết học, kinh tế chính trị học, và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Với
ý nghĩa đó V.I.Lênin khẳng định “Cuốn sách mỏng ấy có giá trị bằng hàng bộ
sách tinh thần của nó, đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô
sản có tổ chức và chiến đấu trong thế giới văn minh“.
2.2. Giá trị trong lĩnh vực tư tưởng
2.2.1. Tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khái quát hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân.(công tác lý luận)
Theo quan điểm của học thuyết Mác công tác tư tưởng được hiểu là: Hoạt
động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành, phát
triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động
vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của
Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị
trong đời sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Công tác lý luận chính trị được hiểu là: Một bộ phận của công tác tư tưởng
hướng vào việc nghiên cứu, phát triển sáng tạo hệ tư tưởng của giai cấp lãnh
đạo cách mạng - giai cấp công nhân, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn cách
mạng nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý luận và cơ sở lý luận cho việc
hoạch định đường lối, chính sách, các quyết định của Đảng và Nhà nước, đấu
tranh, phêphán các trào lưu tư tưởng sai trái, thù địch.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 13
Như vậy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác gồm ba yếu tố hợp thành đó là:
Triết học, Kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội Cộng sản. Với ba phát kiến
vĩ đại mà Mác để lại cho nhân loại đó là:
- Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội,
- Học thuyết về giá trị thặng dư,
- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Ba phát kiến này được thể hiện khá rõ nét trong tác phẩm
2.2.1.1 Lý luận triết học mà bản chất của nó là thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng và học thuyết hình thái kinhtế xã hội.
Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết quá trình lịch sử Mác -
Ăngghen đã nêu ra quan điểm duy vật lịch sử và hình thành học thuyết về hình
thái kinh tế - xã hội. Trong tuyên ngôn Mác viết: “Lịch sử tất cả các xã hội cho
đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người tự do và người nô lệ, quý
tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả của phường hội và thợ bạn, nói tóm
lại những kẻ áp bức và những người bị áp bức luôn luôn đối kháng với nhau, đã
tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một
cuộc đấu tranh mà bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cách mạng cải tạo
toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau.”1 Và
Mác cũng chỉ ra rằng: Sự thay đổi hình thái xã hội phong kiến thành hình thái
kinh tế xã hội tư bản là một bước tiến của nhân loại. Nhưng vẫn chỉ là sự thay
đổi về mặt hình thức bóc lột chứ không xóa bỏ đựơc hình thức bóc lột, đồng thời
Mác cũng đã chỉ ra mâu thuẫn giai cấp đối kháng hiện tại: “Xã hội tư sản hiện
đại sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xóa bỏ được
những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem lại những giai cấp mới, những điều kiện
áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những
điều kiện đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức,
những hình thức đấu tranh cũ mà thôi. Tuy nhiên đặc điểm của thời đại chúng ta,
của thời đại của giai cấp tư sản, là đã đơn giản hóa những đối kháng giai cấp. Xã
hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn
toàn đốilập với nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”1.
Tuyệt nhiên Mác cũng không phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản, Mác cho
rằng: nền văn minh mà chủ nghĩa tư bản lại cho nhân loại là to lớn và cũng là tất
yếu của lịch sử Mác viết: “Nhờ cải thiện, mau chóng công cụ sản xuất và làm
cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn
đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản
phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường
thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách kiên cường nhất cũng
phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất
tư sản, nếu không sẽ bị diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là
1 Tuyển tập Mác-Ănggen, tập I. Nxb Sự thật Hà Nội 1980. Tr541, 542
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 14
văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản. Nói tóm lại, nó tạo ra cho nó một thế
giới theo hình ảnh của nó”1 .
Từ lập luận trên ta thấy Mác đã phân tích làm rõ nguyên nhân của sự ra đời
của chế độ tư bản chủ nghĩa, thay thế chế độ phong kiến chính là sự phù hợp với
lực lượng sản xuất. Và cuộc cách mạng của những người vô sản tất yếu sẽ diễn
ra “Giai cấp vô sản và sựu giàu có là hai cái đối lập. Với tích cách như vậy,
chúng hợp thành một thể hoàn chỉnh thống nhất. Cả hai đều là sản phẩm của thế
giới của chế độ tư hữu. Toàn bộ vấn đề này là ở chỗ tìm hiểu xem mỗi cái trong
hai cái ấy chiếm một địa vị xác định nào trong sự đối lập ấy. Chỉ tuyên bố rằng
chúng là hai mặt của một thể hoàn chỉnh thì chưa đủ…Với tư cách là giai cấp vô
sản, giai cấp vô sản buộc phải thủ tiêu bản thân mình và do đó tiêu diệt cả cái
mặt đối lập của nó – tức là chế độ tư hữu – đang chí phối nó và làm cho nó
thành giai cấp vô sản. Đây là mặt phủ định của sự đối lập, là sự không yên ổn
bên trong sự đốilập, là chế độ tư hữu đang bị tiêu diệt và đang tự tiêu diệt”2
2.2.1.2. Lý luận về kinh tế chính trị mà cốt lõi của nó là học thuyết về giá
trị thặng dư.
Mác đã nhận định về bản chất của nền sản xuất tư bản trên phương diện
triết học theo lát cắt của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng theo
phương diện kinh tế chính trị học, Mác - Ăngghen đã giải phẫu cái xấu xa cái
bất công trong lòng chủ nghĩa tư bản đó là: những người công nhân, những
người lao động làm thuê cho nhà tư bản lao động cực lực, họ bị vắt cạn kiệt sức
lao động bằng việc tăng ca, tăng kíp, bằng việc khai thác hết công suất của máy
móc, hoặc đầu tư cải tiến công nghệ, rốt cuộc cũng chỉ mang lại lợi ích cho nhà
tư bản. Một nghịch lý hiển nhiên tồn tại trong lòng xã hội tư bản đó là sự bất
công trong phân phối, Nhà tư bản ngồi mát ăn bát vàng còn công nhân chỉ nhận
được những đồng lương tối thiểu đủ đề duy trì sự sống của họ ở mức tối
thiểu.Cái mức sống tối thiểu đó được gọi là tiền lương (v). Còn cái giá trị cộng
thêm ngoài tiền lương bị nhà tư bản tước đoạt của họ chính là giá trị thặng dự
(m). Mác- Ăng Ghen phân tích: “nhưng thử hỏi lao động làm thuê, lao động của
người vô sản, có tạo ra sở hữu cho người vô sản không? Tuyệt đối không. Nó
tạo ra tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể
tăng thêm với điều kiện là phải cứ sản xuất mãi mãi ra lao động làm thuê để lại
bóc lột lao động làm thuê đó. Trong tình hình hiện tại của nó, sở hữu vận động
giữa hai cực đối lập: tư bản và lao động. Chúng ta hãy xét hai cực của sự đối lập
ấy.
Giá cả trung bình của lao động làm thuê là số tiền công tối thiểu, nghĩa là
tổng số những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân sống với tính cách là
công nhân. Cho nên cái mà người công nhân chiếm hữu được bằng lao lực của
mình cũng chỉ vừa đủ để tái sản xuất ra đời sống đã bị hạ xuống đến mức thấp
nhất mà thôi. Chúng tôi tuyệt không muốn xóa bỏ sự chiếm hữu cá nhân ấy về
2 Tuyển tập Mác-Ănggen. Nhà xb Sự thật Hà Nội 1980 tập I, Tr 188-149
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 15
những sản phẩm của lao động, cần thiết để tái sản xuất ra đời sống ngày mai, vì
sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một quyền lực
chi phối lao động của người khác. Điều chúng tôi muốn là xóa bỏ tính chất bi
thảm của cái phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để
làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chứng mực mà những lợi ích của giai
cấp thống trị đòi hỏi.
Trong xã hội tư sản, lao động sống chỉ là một phương tiện để tăng thêm lao
động tích lũy. Trong xã hội cộng sản, lao động tích lũy chỉ là một phương tiện
để mở rộng, làm phong phú và làm đẹp thêm đời sống của những người lao
động.”3
Như vậy nguồn gốc của bóc lột được sản sinh ra từ đâu? Máy móc, nguyên
liệu ? đều sẽ không đúng. Mác cũng đã khẳng định: “Chế độ sở hữu đã trải qua
những thay đổi liên tiếp, những cải biến liên tiếp trong lịch sử. Cách mạng Pháp
chẳng hạn, đã xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến, để thay đổi bằng chế độ sở hữu
tư sản. Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu
nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư hữu hiện thời,
chế độ sở hữu tư sản lại là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức
sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở
những người này bóc lột những người kia”4
2.2.1.3. Vềsứ mệnhlịch sử của giai cấp công nhân.
C. Mác và Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để diễn đạt khái
niệm giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp
công nhân hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại công nghiệp…Ăngghen đã đã
đưa ra định nghĩa “giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm
sống bằng việc bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận
của bất cứ số tư bản nào” và các ông cũng khẳng định “giai cấp vô sản trải qua
nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau cuộc đấu tranh của họ chống lại giai cấp tư
sản bắt đầu từ khi mới ra đời”. Tính chất đặc thù của giai cấp vô sản trong tập
hợp số đông, tập hợp đựơc sự đoàn kết nhất trí cao, nhờ sức tập trung của nền
sản xuất đại công nghiệp “Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng là một
cuộc đấu tranh chính trị, và sự đoàn kết mà những thị dân thời trung cổ đã phải
mất hàng thế kỷ mới xây dựng đựoc bằng những con đường làng nhỏ hẹp của
họ, thì những ngừơi vô sản hiện đại chỉ xây dựng trong một vài năm nhờ có
đường sắt”5.
Và các ông cũng đã nhìn thấy được vị trí của giai cấp vô sản, thấy được sức
sống mãnh liệt, khát khao cháy bỏng và ham muốn tự do của giai cấp vô sản
Mác viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ
có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn
3
(SĐD Tr559-560)
4
Bản tiếng Anh năm 1888 dịch là: “Thiểu số phục tùng đa số”
5 Tuyển tậpMác-Ănggen. Nhà xbSự thật Hà Nội 1980tậpI, Tr 552-553
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 16
và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản trái lại
là sản phẩm của nền đại công nghiệp”4… “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung không phải là một cuộc đấu tranh
dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc. Đương nhiên là truớc hết giai
cấp vô sản ở mỗi nứơc phải thanh toán xong giai cấp tư sản ở nước mình đã.”6
Mục đích cuối cùng của giai cấp vô sản là: xóa bổ tư hữu, áp bức, bất công.
Tuy nhiên trong thành phần của giai cấp công nhân phải có những cá nhân ưu tú,
có trình độ, năng lực để lãnh đạo giai cấp mình, có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, có
lý luận cách mạng tiên phong để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình “vậy là về
mặt thực tiễn những người cộng ản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng
công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; về mặt
lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chổ la họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Mục đích trước mắt
của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô
sản khác; tổ chức những người vô sản thành giai cấo, lật đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản. Giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”7
Và quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản sẽ được tiến hành đến ngày
thắng lợi Mác viết: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để
từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất
cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã
đựơc tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực
lượng sản xuất lên. Cố nhiên điều đó lúc đầu chỉ có thể thực hiện được bằng
cách xâm phạm một cách chuyên chế vào quyền sở hữu và chế độ sản xuất tư
sản, nghĩa là bằng những biện pháp, về mặt kinh tế thì hình như không được đầy
đủ và không có hiệu lực, nhưng trong tiến trình cuộc vận động những biện pháp
ấy sẽ vượt quá bản thân chúng và là thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ
phương thức sản xuất.
Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau
rất nhiều. Nhưng đối với những nước tiên tiến nhất thì những bước sau đây có
thể sẽ đựơc áp dụng khá phổ biến:
- Tước bỏ ruộng đất và bỏ địa tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước.
- Đánh thuế theo mức lũy tiến thật cao
- Xóa bỏ quyền thừa kế.
- Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và tất cả những kẻ phiến
loạn.
- Tập trung tín dụng vào tay nhà nước bằng một ngân hàng quốc gia mà
vốn liếng sẽ thuộc về nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.
6 Tuyển tậpMác-Ănggen. Nhà xbSự thật Hà Nội 1980tậpI, Tr 554-555
7 Tuyển tậpMác-Ănggen. Nhà xbSự thật Hà Nội 1980tậpI, Tr 558.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 17
- Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào tay nhà nước.
- Tăng thêm công xưởng quốc doanh và công cụ sản xuất; vỡ đất hoang và
cải tạo đất trồng trọt theo một kế hoạch chung.
- Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người; tổ chức các đạo
quân công nghiệp, đặc biệt là cho nông nghiệp.
- Kết hợp lao động nông nghiệp với lao động công nghiệp; thi hành những
biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn.
- Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xóa bỏ việc
dùng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản
xuất vật chất”1
2.2.2. Công táctuyên truyền trong tuyên truyền của Đảng Cộng sản
2.2.2.1. Khái niệm vềcông tác tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công tác
tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược sách lược trong
quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ
thể hệ tư tưởng, hình thức và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng
hành động theo thế giới quan của niềm tin đó.
2.2.2.2. Công tác tuyên truyền được thể hiện trong các quan điểm của tác
phẩm.
Mác đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy được bản chất bóc lột của giai cấp tư
sản. Thông qua các lập luận khoa học của mình Mác đã chỉ cho giai cấp vô sản
rằng: Chính giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản.
Mác cũng đã chỉ ra cho giai cấp công nhân cái được và cái mất trong cuộc
đấu tranh này, đó là họ chỉ mất xiềng xích nô lệ còn được là được cả thế
giới.Câu kết của bản tuyên ngôn Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại như một lời
hiệu triệu đối với giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Trở lại lời tựa cho các lần
xuất bản Mác – Ăng Ghen cũng đã khẳng định các ông không có quyền sửa
chữa bản tuyên ngôn, song ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, có những vấn đề
cần nhận thức lại cho đúng cho phù hợp thực tiễn. Khi tuyên ngôn ra đời trên thế
giới chưa nổ ra cuộc cách mạng vô sản nào, nhưng càng ngày càng có nhiều các
cuộc cách mạng vô sản giành được thắng lợi vì vậy trong lời tựa các ông đã kịp
thời bổ sung vào để tuyên truyền cho thắng lợi hoặc định hướng cho hành động
của giai cấp vô sản “Không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu
ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải
viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong 25 năm
qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự
tổ chức thành chính đảng, do đó có những kinh nghiệm thực tiễn, trước hết là
cuộc Cách mạng tháng hai, sau nữa và nhất là của Công xã Pari lần đầu tiên đã
đem chính quyền lại cho gai cấp vô sản trong hai tháng, cho nên hiện nay, cương
lĩnh này có một số diểm đã cũ nhất là Công xã đã chứng minh rằng “giai cấp
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 18
công nhân không thể chỉ nắm lấy bộ máy nhà nước sẳn có và bắt nó hoạt động
phục vụ mình” (xem nội chiến pháp)”
Để nguỵ biện cho sự tồn tại của giai cấp tiểu tư sản, một số nhà tiểu tư sản
nhào nặn ra một kiểu xã hội tiểu tư sản nhưng giai cấp này vẫn là giai cấp đang
“tiếp tục sống lay lắt bên cạnh giai cấp tư sản thịnh vượng”
Với chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản thì Mác cho rằng:
“Chủ nghĩa xã hội tư sản chỉ đạt được biểu hiện thích đáng của nó, khi nó trở
thành một lối nói từ chương đơn thuần.
Mậu dịch tự do, vì lợi íchcủa giai cấp công nhân!
Thuế quan bảo hộ, vì lợi íchcủa giai cấp công nhân!”
Nhà tù xà lim vì lợi ích của giai cấp công nhân! Đó là cái đích tột cùng của
chủ nghĩa xã hội tư sản, điều duy nhất mà nó nói ra một cách nghiêm túc”
Đối với những trào lưu chủ nghĩa xã hội không tưởng, Mác đã cảm thông
cho những nhận thức duy ý chí về chủ nghĩa xã hội của họ. Và chỉ ra cho giai
cấp vô sản cách mạng con đường đấu tranh của mình “Vì vậy họ cự tuyệt mọi
hành động chính trị và nhất là mọi hành động cách mạng; họ tìm cách đạt mục
đích của họ bằng phương pháp hoà bình, và thử mở một con đường đi tới một
phúc âm xã hội mới bằng hiệu lực của gương mẫu, bằng những thí nghiệm nhỏ,
có nhiên những thí nghiệm này luôn luôn thất bại”
2.2.3. Công táccổ động trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Có thể nói đầu đề của bản tuyên ngôn hàm chứa một sự khẳng định, sự
tuyên bố của Đảng cộng sản rằng.
-Xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
-Giai cấp vô sản sẽ bước lên vũ đài chính trị để thực hiện sứ mệnh lịch sử
của mình.
Và Mác cũng khẳng định chắc chắn rằng:
Những người cộng sản chiến đấu cho những lợi ích và những mục đích
trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ
cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào. Ở Pháp, những người
cộng sản liên hợp với Đảng dân chủ - xã hội chủ nghĩa chống giai cấp tư sản bảo
thủ và cấp tiến, đồng thời vẫn dành cho mình cái quyền phê phán những lời nói
suông và những ảo tưởng do truyền thống cách mạng để lại.
Ở Thụy sĩ, họ ủng hộ phái cấp tiến, nhưng không phải không biết rằng đảng
này gồm những phần tử mâu thuẫn nhau, một nữa là những người dân chủ - xã
hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp, và một nữa là những người tư sản cấp tiến.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 19
Ở Ba Lan, những người cộng sản ủng hộ chính đảng đã coi cách mạng
ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc nghĩa là chính đảng đã làm cuộc
khởi nghĩa Krakow năm 18468
Ở Đức, Đảng cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản mỗi khi giai cấp
này hành động cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chống chế độ sở
hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu tư sản phản động.
Nhưng không giờ phút nào, Đảng cộng sản lại quên gây cho công nhân một
ý thức sáng suốt và rõ rệt về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản, để khi có thời cơ thì có bao nhiêu điều kiện chính trị và xã hội do
chế độ tư sản tạo ra, công nhân Đức biết đổi thành bấy nhiêu vũ khí chống lại
giai cấp tư sản, để ngay sau khi tiêu diệt xong những giai cấp phản động ở Đức,
là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính ngay giai cấp tư sản.”
Một câu cổ động, một khẩu hiệu vang dội nhất, một lời hiệu triệu được
Mác đưa ra cô đọng nhất và cũng là một hình thức cổ động sâu sắc và hiệu quả
nhất đó là: VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI! và tuyên ngôn sẽ
tràn đầy sức sống như Ăngghen viết trong viết trong lời tựa viết bằng bản tiếng
Anh năm 1888. Như vậy là lịch sử của “Tuyên ngôn” phản ánh khá rõ lịch sử
của phong trào công nhân đương thời; hiện nay, hiển nhiên đó là tác phẩm phổ
biến hơn cả, có tính chất quốc tế hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ
nghĩa, đó là cương lĩnh chung của hàng triệu công nhân từ Xi-bia đến California.
8 C.Mác và Ph.Ăngghen: toàntập, t.4,tr.459-493
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 20
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY.
3.1. Trên lĩnh vực lý luận.
3.1.1. Đảngta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng
Như đã nêu ở phần trên 3 bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Mác - Lênin
được hình thành và phát triển từ những quan điểm được Mác đưa ra trong tuyên
ngôn. Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập đã xác định lấy Chủ nghĩa
Mác - Lênin làm hệ tư tưởng của giai cấp mình. Suốt hơn 80 năm qua dưới
ngọn cờ vẻ vang của Đảng. Đảng ta luôn trung thành tuyệt đối với học thuyết
Mác - Lênin.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó có nghĩa
rằng lý luận Mác - Lênin là tiền đề lý luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt
Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất coi trọng lý luận và công
tác lý luận, luôn xác định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII
(tháng 6-1991), Đảng ta khẳng định: “ lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”9. Nhờ giữ
vững ngọn cờ lý luận Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo lý luận đó vào thực tiễn
Việt Nam thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa cách mạng Việt
Nam vượt qua mọi chông gai, giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử.
Việc chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu vừa qua
chỉ chứng minh một chân lý: xa rời lý luận cách mạng của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, để chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại thao túng thì không tránh khỏi kết
quả bi thảm cho các phong trào xã hội chủ nghĩa.
3.1.2.Tiếp tục phát triển lý luận của Mác - Ăngghen. Vận dụng vào điều
kiện cụ thể nước ta.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin không có nghĩa là rập khuôn máy
móc, mà phải vận dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Đọc lại lời tựa
cho các lần xuất bản kể cả khi Mác còn sống và khi Ăngghen thay Mác viết lời
tựa thì tư tưởng biện chứng và phát triển được các ông đề cập đến. Trong lời tựa
viết cho lần xuất bản tiếng Đức năm 1882 Mác và Ăngghen đã viết:
Không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối
chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác
đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong hai mươi lăm
năm qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong
việc tự tổ chức thành chính đảng, do có những kinh nghiệm thực tiễn, trước hết
là của cách mạng tháng hai, sau nữa và nhất là của Công xã Pa-ri lần đầu tiên đã
đem chính quyền lại cho giai cấp vô sản trong hai tháng, cho nên hiện nay,
9 Đảngcộngsản Việt Nam:Văn kiện ĐH đại biểutoàn quốc lần thứ VII,Nxb.Sự thật, Hà Nội,1991, tr.127
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 21
cương lĩnh này có một số điểm đã cũ. Nhất là Công xã đã chứng minh rằng “giai
cấp công nhân không thể chỉ chỉ nắm lấy bộ máy nhà nước sẳn có và bắt nó hoạt
động phục vụ mình”.
Và cũng hiển nhiên là những nhận định về thái độ của người cộng sản đối
với các đảng đối lập (chương IV), nếu cho đến nay vẫn còn đúng trên những nét
cơ bản thì trong chi tiết, những nhận định ấy đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã
hoàn toàn thay đổi và sự tiến triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng
được kể ra trong đó.
Tuy nhiên, “Tuyên ngôn” là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có
quyền sửa lại. Có lẽ là trong một lần xuất bản, sẽ có một lời tựa để bổ sung vào
khoảng trống từ 1847 đến nay; lần tái bản này đột ngột quá không cho phép
chúng tôi có đủ thì giờ để viết lời tựa ấy!
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Đảng ta xác định lấy Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho
hành động cách mạng của Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng
Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh sao cho đúng hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn, đồng thời
phải nắm được thực tiễn đất nước đầy đủ hơn để vận dụng lý luận Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng nên hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong thời đại mới. Để làm
được điều đó, một mặt phải chống giáo điều, xơ cứng dẫn đến trì tuệ, bảo thủ;
mặc khác đề phòng khuynh hướng lệch lạc, nhân danh “sáng tạo” để đưa các
quan điểm cơ hội, xét lại hữu khuynh vào sự nghiệp đổi mới, làm cho cách
mạng đi chệch conđường đã chọn.
3.2.Trênlĩnh vực tuyên truyền.
3.2.1.Tuyên truyền giáodụcChủ nghĩa Mác - Lênin
Khi tìm được chân lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã đi
đến quyết định “muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Công tác cách mạng đầu tiên mà Bác Hồ
tiến hành sau khi tìm thấy hệ tư tưởng cách mạng của thời đại chính là công tác
tuyên truyền. Năm 1925 khi về đến Quảng Châu (Trung Quốc) người đã mở
những lớp huấn luyện đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. Nội dung chủ yếu của
chương trình huấn luyện đào tạo cán bộ lúc bấy giờ là truyền bá những vấn đề
cơ bản về Chủ nghĩa Mác - Lênin, về lý luận và phương pháp cách mạng,về đạo
đức cách mạng.
Từ đó đến nay công tác giáo dục lý luận, nghiên cứu lý luận luôn được
Đảng ta quan tâm. Cả nước có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về lý luận Chủ
nghĩa Mác - Lênin nhằm nghiên cứu hoạch định đường lối chính sách cho Đảng
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 22
để lãnh đạo đất nước tiến lên. Hệ thống trường Đảng được tổ chức rộng rãi từ
các trung tâm chính trị cấp huyện, Trường chính trị Tỉnh và các học viện ở
Trung ương.
Về nội dung giáo dục lý luận cũng không ngừng được đổi mới nhất là sau
Đại hội VII Đảng đến nay. Nhiều Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã xác định
rõ yêu cầu cấp bách phải đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, tiến hành
biên soạn bộ giáo trình mới về các bộ môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh tháng 5 -1992 Ban bí thư đã có chủ trương về vấn đề này vào ngày
13-7-1992 Chủ tịch hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định thành lập hội đồng
Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đến nay công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
không ngừng đổi mới cả nội dung, phương pháp và hình thức nhằm đáp ứng
nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
3.2.2.Nhận thức đúng đắn tính khoa học và cách mạng của tuyên ngôn.
Đấu tranh bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Công tác tuyên truyền góp phần đắc lực vào cuộc đấu tranh tư tưởng chính
trị của Đảng, đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ, giữ vững ổng định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác - Ăngghen đã bày tỏ quan
điểm phát triển và biện chứng của nhận thức trong các lời tựa viết cho các lần
xuất bản, hai ông luôn nhắc nhở rằng khi nghiên cứu tuyên ngôn phải xem xét
điều kiện cụ thể khách quan.
3.3.Trênlĩnh vực cổ động.
3.3.1.ĐưaChủ nghĩa Mác - Lênin đến với quần chúng nhân dân.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời việc truyền bá Chủ nghĩa Mác -
Lênin được Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm và tạo nên sự thu hút mạnh mẽ
trong phong trào cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin đến với Việt
Nam được đông đảo quần chúng hưởng ứng như người đang đói mà có cơm ăn,
đang khát mà có nước uống.
Ngày nay tư tưởng của tuyên ngôn “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”
cũng được Đảng ta vận dụng thành công trong xu thế hội nhập toàn cầu, một
mặt chúng ta mở rộng quan hệ quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa. Với quan
điểm “Việt Nam sẳn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trên thế giới”.
Mặt khác chúng ta luôn ủng hộ và giúp đỡ các Đảng cộng sản, các Đảng cánh tả
nhằm tạo nên khối đoàn kết quốc tế mạnh mẽ, tạo thời cơ, thuận lợi cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng ta.
3.3.2.Sựvận dụngkhoa học trong quá trình cách mạngcủa Đảng ta.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 23
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó.
Trong Cách mạng Tháng Tám cũng như trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, trung thành với những tư tưởng của Tuyên ngôn, xuất phát từ thực tiễn và
hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng những nguyên lý cơ bản của
Tuyên ngôn đề ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp nên đã huy động được
sức mạnh đoàn kết to lớn của toàn dân tộc giành chính quyền về tay nhân dân và
sử dụng chính quyền ấy đưa dân tộc bước vào cuộc trường chinh chống thực dân
Pháp thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, đưa đến việc
ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hoà bình ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên
Chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lươc, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau hơn 30 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, dân tộc ta đã làm nên Đại thắng Mùa Xuân 1975,
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thu non sông gấm vóc về một mối,
đất nước sạch bóng quân thù, đế quốc Mỹ phải cút khỏi nước ta, nguỵ quân,
nguỵ quyền sụp đổ, đất nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó
không chỉ là thắng lợi to lớn có ý nghĩa thời đại của nhân dân Việt Nam, mà còn
là thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, là thắng lợi của tình hữu nghị và đoàn kết giữa các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới.
Sau thắng lợi năm 1975, dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dù còn muôn vàn khó khăn của
thời hậu chiến, nhưng với lòng phấn khởi và niềm tự hào to lớn, nhân dân cả
nước lại bắt tay vào khôi phục vết thương chiến tranh, khắc phục những hậu quả
nặng nề do chiến tranh để lại, tập trung phát triển lực lượng sản xuất và không
ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Cuộc sống vật chất,
tinh thần của mọi người dân được cải thiện đáng kể, các công trường nhà máy
được mọc lên từ Bắc chí Nam, nhân dân hân hoan chào mừng cuộc sống mới với
niềm tin vô hạn vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên của đất nước.
Nhưng do chủ quan, nóng vội và có phần duy ý chí, chúng ta đã phạm một số sai
lầm nghiêm trọng. Với mong muôn đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; Chúng ta nhận thức chưa đầy đủ những lời dạy
của Mác, Ăngghen: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình theo
một luận điểm duy nhất là: xoá bỏ chế độ tư hữu”. Chúng ta không xem xét câu
nói đó trong một chỉnh thể của toàn bộ hệ thống văn bản nên đã phạm sai lầm là
đồng nhất “xoá bỏ chế độ tư hữu” với “xoá bỏ “hình thức sở hữu cá nhân”, với
“xoa bỏ chế độ tư hữu tư sản”, trong khi Tuyên ngôn đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa cộng
sản không tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ
nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của
người khác”. Như vậy là trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, luận điểm về
vấn đề sở hữu được nêu ra là nhằm xoá bỏ chế độ tư hữu tư sản - một chế độ mà
từ đó đẻ ra nạn “người bóc lột người”, một chế độ “dùng sự chiếm hữu đó để nô
dịch lao động của người khác”, chứ tuyệt nhiên không phải là xoá bỏ hình thức
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 24
sở hữu tư nhân. Chính vì nhận thức chưa đúng như vậy, mà chúng ta đã vội vàng
xoá bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản
là “sở hữu nhà nước” và “sở hữu tập thể”. Hơn nữa với suy nghĩ giản đơn là đã
thắng đế quốc Mỹ thì không có gì là chúng ta lại không làm được. Chúng ta đã
đề ra nhiều chủ trương cải tạo công thương nghiệp, cải tạo tư bản tư nhân ồ ạt đã
làm thui chột năng lực sáng tạo, triệt tiêu động lực sản xuất ở nhiều người. Bên
cạnh đó chúng ta thành lập các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất, xây dựng các
HTX với quy mô lớn, trong khi lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, trình độ quản lý
của cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập… nên đã kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Chúng ta đã không tuân theo quy luật kinh tế khách quan là lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản xuất phát triển thì
quan hệ sản xuất phải luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Trong khi đó chúng ta lại quan niệm là muốn đưa sản xuất
lên nền sản xuất lớn XHCN thì quan hệ sản xuất phải đi trước một bước, quan
hệ sản xuất phải mở đường cho lực lượng sản xuất…Với lối tư duy cứng nhắc
và mang tính kinh viện đó đã gây ra hậu quả lớn cho nền sản xuất của nước ta,
sản xuất bị đình đốn, năng suất lao đông thấp, tư tưởng trong chờ ỷ lại phát
triển, cùng với sự phát triển của nhiều tiêu cực khác trong xã hội, làm cho niềm
tin vào Đảng, vào chế độ mới bị lung lay. Trước tình hình đó, Đảng ta đã dũng
cảm nhìn thẳng vào sự thật, phân tích thực trạng và nguyên nhân của sự yếu
kém, để từ đó tìm giải pháp khả thi đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
Bởi vì, chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Sinh thời, Mác và Ăng ghen
không bao giờ coi những chiến lược, sách lược có tính chất nguyên lý trình bày
trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản cũng như trong học thuyết của mình là
“nhất thành bất biến” mà “trong những nước khác nhau những biện pháp ấy dĩ
nhiên cũng khác nhau rất nhiều”. Chúng ta phải luôn ghi nhớ điều đó.
Đại hội VI của Đảng (12/1986) đánh dấu sự đổi mới của cách mạng Việt
Nam, còn được gọi là Đại hội của sự Đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đặc
biệt là tư duy kinh tế. Đại hội đã thổi một luồng gió mới, tiếp thêm sinh khí,
khơi dậy năng lực sáng tạo ở tất cả mọi người, động viên khuyến khích mọi cách
làm mới nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ, năng lực sản xuất sẵn có. Với tinh
thần “bung ra”, “tháo gỡ”, “cởi trói cho sản xuất”, mọi chủ trương chính sách
đều phải nhằm vào mục đích đó, và thế là chỉ trong một thời gian ngắn, với
những chủ trương chính sách đúng đắn, hợp quy luật, nhất là giải quyết tốt về
vấn đề sở hữu, cho phép nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, xoá bỏ bao cấp,
thực hiện hạch toán kinh doanh XHCN.v.v.. từ phân phối bình quân, cào bằng
sang phân phối theo kết quả sản xuất, lấy năng suất và hiệu quả lao động làm
thước đo và cơ sở để phân phối sản phẩm. Chủ trương khoán sản phẩm trong
nông nghiệp, trao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế trong công nghiệp, xây
dựng, vận tải…coi trọng quan hệ cung cầu và quy luật giá trị trong SXKD.
Với những chủ trương đúng đắn đó, chỉ sau một thời gian ngắn nền kinh tế
nước ta đã có nhiều chuyển biến đáng kể, hàng hoá được sản xuất ra ngày một
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 25
nhiều, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Nước ta từ một nước quanh
năm thiếu đói phải nhập khẩu lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo
lớn của thế giới. Cùng với kinh tế tăng trưởng, nền chính trị càng ổn định, an
ninh quốc phòng được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế càng
được nâng cao, niềm tin của dân chúng được củng cố. Từ đổi mới kinh tế chúng
ta đã có cơ sở và niềm tin để từng bước đổi mới hệ thống chính trị, luật pháp và
từng bước hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, nhưng
với bản lĩnh kiên cường của một đảng mác xít dày dạn kinh nghiệm và đã được
tôi luyện trong đấu tranh cách mạng, trung thành với những nguyên lý cơ bản
của Tuyên ngôn, nắm chắc tình hình thực tiễn của đất nước, đảng ta đã vận dụng
sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác lê nin đề ra những quyết sách
đúng đắn, tiến hành công nghiệp nhoá, hiện đại hoá, vững vàng tay chèo lái đưa
con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua mọi thử thách và tiến lên giành những
thắng lợi to lớn. Chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đời sống được cải thiện, uy
tín trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, bạn bè nể trọng. Đặc biệt từ
năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới (WTO), uỷ viên không thường trực của Hội đồng bảo an
LHQ…Chúng ta cũng đã đăng cai và tổ chức thành công nhiều hội nghị quan
trọng tầm thế giới và khu vực như APEC, các diến đàn ASEAN, các đại hội thể
thao khu vực…được dư luận thế giới khen ngợi. Tất cả đó đã minh chứng cho
đường lối đúng đắn và sự trung thành với học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
của những tư tưởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, và những tư tưởng
cách mạng đó vẫn có ý nghĩa to lớn và là kim chỉ nam cho mọi hành động, mãi
mãi soisáng con đường cách mạng Việt Nam.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 26
KẾT LUẬN
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, với sự luận giải một cách khoa học và
đầy thuyết phục, Mác và Ăng ghen khẳng định sự diệt vong của chủ nghĩa tư
bản, đồng thời khẳng định sự thành công của chủ nghĩa xã hội là “tất yếu như
nhau” đó là quy luật phát triển của xã hội loài người. Khẳng định trong xã hội
hiện đại, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất, kiên quyết và triệt để
nhất, có khả năng lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa
và sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của giai cấp công
nhân. Đồng thời, Tuyên ngôn cũng nêu lên rằng trong cuộc đấu tranh để tự giải
phóng, giai cấp công nhân tất nhiên phải lập ra chính đảng của mình để lãnh đạo
phong trào cách mạng. Tuyên ngôn không những đã chỉ ra mục tiêu, phương
pháp cách mạng mà còn chỉ rõ lực lượng của cách mạng; khẳng định sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng đó. Điều này đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo và thể hiện rõ trong
Điều lệ tóm tắt (công bố trong Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930): “Đảng
Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp
tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa làm cho thực hiện xã hội cộng
sản”. Về mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, Chánh cương vắn tắt
nêu rõ: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Về con đường giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con
đường cách mạng vô sản”. Như vậy, từ những nguyên lý cơ bản về mục tiêu và
con đường mà Tuyên ngôn đã vạch ra, Đảng ta đã cụ thể hoá và vận dụng linh
hoạt, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam với các mục tiêu chính trị là giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Những mục tiêu
đó đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân tộc, phát huy được sức mạnh tổng
hợp, đem lại những thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người trong gần 80 năm qua.
Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiên Đại hội VI,VII,VIII,IX,X, XI.
- Tạp chí Cộng sản Số tháng 3,4,5 năm 2007,2008,2009,2010,2011.
- Tài liệu bài giảng Nguyên lý công tác tư tưởng - học viên Báo chí &
tuyên truyền .
- Tuyển tập Mác Ăng Ghen tập I NXB sự thật Hà nội năm 1980.
- Bản tiếng Anh năm 1888 dịch là: “Thiểu số phục tùng đa số”
Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ
VII,Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1991

More Related Content

What's hot

Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaChương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóale hue
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộcTư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộcanhpb635
 
Tthcm chương 5
Tthcm chương 5Tthcm chương 5
Tthcm chương 5thuyettrinh
 
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI nataliej4
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘITƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘIBee Bee
 
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tếtư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tếthapxu
 
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí MinhĐề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí MinhSương Tuyết
 
TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAMTIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAMnataliej4
 
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaTư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaQuyên Nguyễn Tố
 
sách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .doc
sách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .docsách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .doc
sách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .doclethianhmai230205
 
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...nataliej4
 
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoiTu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoitrinhtien27a1
 
chống đi đôi với xây
chống đi đôi với xâychống đi đôi với xây
chống đi đôi với xâyhuynhchauthi
 
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.Mark Pham
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngDzaigia1988
 
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan lyNhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan lynguoitinhmenyeu
 
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhCau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhBinh Boong
 

What's hot (20)

Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaChương VII  tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Chương VII tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
 
Liên minh công - nông - trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ...
Liên minh công - nông - trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ...Liên minh công - nông - trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ...
Liên minh công - nông - trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộcTư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
 
Tthcm chương 5
Tthcm chương 5Tthcm chương 5
Tthcm chương 5
 
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘITƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
 
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tếtư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
 
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí MinhĐề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề cương ôn tập Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAMTIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM
TIỂU LUẬN ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM
 
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóaTư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
 
sách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .doc
sách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .docsách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .doc
sách GIÁO TRÌNH về LỊCH SỬ ĐẢNG Cộng Sản Việt Nam .doc
 
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
TIỂU LUẬN ĐƯỜNG LỐI Đề tài: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA ĐẢN...
 
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoiTu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
Tu tuong hcm ve van hoa dao duc xay dung xay dung con nguoi
 
TIỂU LUẬN Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...
TIỂU LUẬN  Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...TIỂU LUẬN  Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...
TIỂU LUẬN Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...
 
chống đi đôi với xây
chống đi đôi với xâychống đi đôi với xây
chống đi đôi với xây
 
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
 
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan lyNhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
Nhan cach va uy tin nguoi lanh dao, quan ly
 
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhCau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
 
Bài mẫu Tiểu luận về chính sách dân tộc, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính sách dân tộc, HAYBài mẫu Tiểu luận về chính sách dân tộc, HAY
Bài mẫu Tiểu luận về chính sách dân tộc, HAY
 

Similar to Tieu luan tuyen ngon cua dang cong san hct

Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...sividocz
 
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...
Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...
Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docsividocz
 
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnhoQucVnhA0887
 
Tai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvn
Tai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvnTai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvn
Tai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvndinhhuongthao
 
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...dịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 

Similar to Tieu luan tuyen ngon cua dang cong san hct (20)

Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO: 093 457 3149)
Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO: 093 457 3149)Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO: 093 457 3149)
Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO: 093 457 3149)
 
Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO 0934 573 149)
Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO 0934 573 149)Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO 0934 573 149)
Đảng Cộng Sản của giai cấp công nhân (TẢI FREE ZALO 0934 573 149)
 
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOTLuận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
Luận văn: Vai trò đội ngũ trí thức Thành phố Hồ Chí Minh, HOT
 
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nayLuận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
Luận án: Vai trò đội ngũ trí thức TPHCM trong giai đoạn hiện nay
 
Luận án: Tính phổ biến và đặc thù của nhận thức mới về CNXH
Luận án: Tính phổ biến và đặc thù của nhận thức mới về CNXHLuận án: Tính phổ biến và đặc thù của nhận thức mới về CNXH
Luận án: Tính phổ biến và đặc thù của nhận thức mới về CNXH
 
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAYLuận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, HAY, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, HAY, 9đ
 
Luận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAY
Luận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAYLuận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAY
Luận án: Quan niệm về con người trong triết học của C.Mác, HAY
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
 
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
Vận Dụng Quan Điểm Duy Vật Biện Chứng Về Mâu Thuẫn Trong Nghiên Cứu Và Giải Q...
 
Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...
Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...
Quan điểm của V.I.LêNin về dân chủ với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện...
 
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.docLuận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
Luận Văn Vấn đề đạo đức trong triết học của I. Kant và ý nghĩa thời đại.doc
 
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAYLuận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
Luận án: Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa, HAY
 
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
861301 861301 068-3121430232_đào quốc vĩnh
 
Luận án: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
Luận án: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hộiLuận án: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
Luận án: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
 
Tai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvn
Tai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvnTai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvn
Tai lieu huongdandttx_mon_duongloi_cm_cua_dcsvn
 
8160
81608160
8160
 
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
Vận dụng tư tưởng dân là gốc của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở thành phố...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí, 9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí, 9đLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí, 9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Báo Chí, 9đ
 
Luận án: Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
Luận án: Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dânLuận án: Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
Luận án: Thực hiện nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân
 

Tieu luan tuyen ngon cua dang cong san hct

  • 1. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 0 HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA XÂY DỰNG ĐẢNG TIỂU LUẬN HỌC PHẦN MÔN: TÁC PHẨM KINH ĐIỂN MÁC-LÊ NIN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TÊN ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”. LIÊN HỆ VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY Ngườithực hiện: HUỲNH CÁC TIÊN Lớp Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước K37b Đồng Nai. Đồng Nai tháng 12/2018
  • 2. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 1 Mục lục MỞ ĐẦU.......................................................................................................2 1.Tính cấp thiết của đề tài. ........................................................................... 2 2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................................. 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ...................................................... 3 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: ............................................................... 3 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài. ................................ 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:..................................................... 4 7. Kết cấu của đề tài: Ngoài mở đầu, kết luận, phục vụ và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương và 8 tiết...................................................... 4 Chương 1: GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ..................................................................................................5 1.1. Cuộc đời, sự nghiệp C.Mác, Ph.Ăngghen :............................................. 5 1.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” .......... 8 1.3. Nội dung chủ yếu của tác phẩm........................................................... 10 Chương 2. GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG.......................................................................................12 2.1. Giá trị khoa học của tác phẩm.............................................................. 12 2.2. Giá trị trong lĩnh vực tư tưởng............................................................. 12 Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY. ........................20 3.1. Trên lĩnh vực lý luận........................................................................... 20 3.2.Trên lĩnh vực tuyên truyền. .................................................................. 21 KẾT LUẬN.................................................................................................26 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................27
  • 3. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 2 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài. - Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm vĩ đại của Mác và nó mở đầu cho một thời kỳ cách mạng của giai cấp công nhân. Hơn 160 năm kể từ khi ra đời đến may giá trị của tuyên ngôn vẫn là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định những giá trị đích thực của nó trong thế giới đương đại ngày nay. - Trong những năm cuối của thế kỷ XX chủ nghĩa xã hội lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và sâu sắc nhất trong lịch sử. Lợi dụng sự tan rã của Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin ra sức công kích, chống phá và bôi nhọ chủ nghĩa Mác, chúng cho rằng “bóng ma” của chủ nghĩa xã hội vẫn chỉ là bóng ma, và rằng chủ nghĩa xã hội chỉ còn sót lại bốn đứa con côi cút (Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba và Triều Tiên). Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa chỉ còn tính bằng ngày. Một mặt chúng ra sức công kích chủ nghĩa Mác. Mặt khác chúng lại vận dụng chủ nghĩa Mác để tự phù hợp nhằm kéo dài sự sống của mình. Song một điều hiển nhiên đến nay đã rõ đó là chủ nghĩa xã hội không thể diệt vong, hơn thế chủ nghĩa xã hội không chỉ tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa mà nó còn có sức sống ở các trường Đại học Mỹ và ở trong lòng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung những giá trị tư tưởng trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng, gần đây nhất là năm 2008 nhân kỷ niệm 160 năm ra đời của bản Tuyên ngôn đã có rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong nước và quốc tế đã có nhiều bài viết khẳng định tính khoa học và cáchmạng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Dưới góc độ nghiên cứu của công tác tư tưởng chúng ta cũng cần làm rõ giá trị của tác phẩm đối với các lĩnh vực của công tác tư tưởng - liên hệ sự vận dụng những luận điểm của Tuyên ngôn của Đảng ta trên lĩnh vực chính trị tư tưởng. Từ đó tìm ra giải pháp để bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng ta và cũng là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với Việt Nam chúng ta hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu nhưng nó đòi hỏi chúng ta phải có lý luận cách mạng dẫn đường nhằm đảm bảo cho sự phát triển ấy không đi chệch hướng con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Để đấu tranh với những tư tưởng sai lệch về giá trị quan trọng của lý luận về đảng cộng sản của Tuyên ngôn, giúp Đảng ta vững vàng lập trường tư tưởng của chính Đảng lãnh đạo, trong phạm vi nhỏ hẹp của một tiểu luận, tác giả chỉ đi vào tìm hiểu những tư tưởng về Đảng cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen qua đề tài: “Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”. Liên hệ với công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay” 2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Lý luận lẫn thực tiễn để khẳng định rằng, lịch sử nhân loại, phong trào cách mạng thế giới đang phải trải qua những bước quanh co, song cuối cùng, nhân loại nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa của
  • 4. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 3 lịch sử. Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, từ những bài học thành công và thất bại trong các chặng đường lịch sử tồn tại và phát triển của nó, cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của nhân dân các dân tộc yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, tất có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Trên cơ sở nộidung của 4 chương trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của C.Mác và Ph. Ăng ghen, tiểu luận tập trung nghiên cứu những quan điểm về xây dụng Đảng, qua đó nhằm nâng cao nhận thức và lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích: Làm rõ tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng nghen về xây dựng Đảng trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, từ đó vận dụng sáng tạo những tư tưởng đó vào công tác xây dựng Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: + Tập trung làm rõ một số vấn đề các quan điểm của Mác - Ăngghen về công tác tư tưởng được nêu trong tác phẩm quá trình tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin do Nguyễn Ái Quốc dẫn đường và sự hình thành hệ tư tưởng Mác xít trong cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. + Trình bày quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. + Trình bày sự vận dụng các nội dung tư tưởng của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác tư tưởng của Đảng ta qua các giai đoạn cách mạng. + Quá trình khẳng định tính đúng đắn của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Từ đó đấu tranh không khoan nhượng với các thế lực thù địch nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam. + Liên hệ với công tác xây dựng đảng cộng sản Việt Nam hiện nay 4. Đốitượng, phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng đảng trong tác phẩm “tuyên ngôn của đảng cộng sản” Lý luận của C. Mác và Ph. Ăng ghen về chuyên chính vô sản trong tác phẩm “Tuyên ngôncủaĐảng cộngsản” và ý nghĩacủa nó đối vớicách mạng Việt Nam hiện nay. Nộidungcốt lõicủa tác phẩm “Tuyên ngôncủaĐảng cộngsản” của C.Mác – Ph. Ăngghen về xây dựng Đảng ở nước ta hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng ghen về xây dựng Đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của C. Mác và Ph. Ăng ghen. Sự vận dụng thực tiễn cách mạng Việt Nam 4.3. Phương pháp luận:Dựa vào những nguyên tắc phương pháp luận của C.Mác, Ph.Ăngghen 4.4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nhận thức, phân tích, logic lịch sử, nghiên cứu tư liệu, chọn lọc tổng hợp các tư liệu, hệ thống hóa các tri thức.
  • 5. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 4 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài. 5.1. Cơ sở lý luận của đề tài :Chủnghĩa Mác-Ph. Ăng nghen, V.I. Lê nin, tư tưởng Hồ ChíMinh và côngtác xâydựng Đảngở Việt Nam 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Quá trình làm tiểu luận đã sử dụng một số phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: 6.1. Ý nghĩa lý luận Tiểu luận phân tích làm rõ quan điểm của C.Mác-Ph. Ăngghen về xây dựng Đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Liên hệ về xây dựng Đảng hiện nay ở nước ta 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Nắm chắc quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong tác phẩm giúp cho công tác xây dựng Đảng có thêm nhiều thực tiễn, từ đó rút ra được kinh nghiệm và lý luận cơ bản về công tác xây dựng Đảng nước ta. 7. Kết cấu của đề tài: Ngoài mở đầu, kết luận, phục vụ và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 1. Cuộc đời và sự nghiệp 1.1. Vài nét về tác giả C.Mác, Ph.Ăngghen 1.1.1. Cuộc đờivà sự nghiệp của C.Mác 1.1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của Ph.Ăngghen 1.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. 1.2.1. Tiền đề về kinh tế. 1.2.2. Tiền đề chính trị - xã hội. 1.2.3. Tiền đề khoa học lý luận 1.3. Nộidung chủ yếu của tác phẩm. 1.3.1. Chủ đề 1.3.2. Nộidung của tác phẩm. CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG. 2.1. Giá trị khoa học 2.2. Giá trị trong lĩnh vực công tác tư tưởng. CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY. 3.1. Trên lĩnh vực lý luận. 3.2 trên lĩnh vực tuyên truyền 3.3 trên lĩnh vực cổ động KẾT LUẬN
  • 6. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 5 Tên đề tài: “Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về xây dựng đảng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”. Liên hệ với công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay”. Chương 1: GIỚI THIỆU TÁC PHẨM CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN 1.1. Cuộc đời, sự nghiệp C.Mác, Ph.Ăngghen: 1.1.1.Cuộc đời, sự nghiệp của C.Mác 1.1.1.1. Cuộc đời(Karl Marx, sinh năm: 1818, mấtnăm 1883) C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác vào học trường trung học ở Tơriơ. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học. Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu, tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C. Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường Iêna. Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và ông đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny vôn Vestphalen. 1.1.1.2. Sựnghiệp: Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khi Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C. Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai
  • 7. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 6 1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph. Ăng-ghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng tư 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối đời (1883). C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba 1883 ở Luân-đôn 1.1.2.Vàinétvề tác giả Ph. Ăngghen 1.1.2.1. Cuộc đời: Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Barmen, tỉnh Ranh, Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt. Từ nhỏ Ph. Ăng- ghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha và những sự đe doạ trừng phạt không thể làm cho ông đi đến chỗ phải phục tùng mù quáng. Cho đến năm 14 tuổi, Ph. Ăng- ghen học ở trường tại thành phố Barmen. Ph. Ăng- ghen sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng Mười 1834, Ph. Ăng- ghen chuyển sang học ở trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Năm 1837, theo yêu cầu của bố, Ph. Ăng- ghen buộc phải rời bỏ trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phòng của bố ông. Trong thời gian này ông tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6 năm 1838, Ph. Ăng- ghen đến làm việc tại văn phòng thương mại ở thành phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 Ph. Ăng- ghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê- ghen. Tháng 9- 1841, Ph. Ăng- ghen đến Berlin và gia nhập binh đoàn pháo binh ở đây ông được huấn luyện quân sự mà trong những năm sau, ông rất cần đến nó, nhưng ông vẫn lui tới trường Đại học tổng hợp Berlin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo. 1.1.2.2. Sựnghiệp: Mùa xuân 1842, Ph. Ăng- ghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo Ph. Ăng- ghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8 tháng 10 năm 1842, Ph. Ăng- ghen mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen, một tháng sau, Ph. Ăng- ghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ph. Ăng- ghen
  • 8. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 7 đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã gặp C. Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh hai năm. Bài báo Tình cảnh của giai cấp công nhân ở Anh (1842) cùng với những bài báo khác của Ph. Ăng- ghen viết ra năm đó đã phân tích rõ sự phân chia xã hội thành ba giai cấp cơ bản: giai cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai cấp vô sản. Ph. Ăng- ghen tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 21844). Các bài báo này đề cập đến việc áp dụng phương pháp biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản. Tác phẩm Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học của Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là cơ sở của toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần của xã hội tư sản. Tháng 2-1845, cuốn sách Gia đình và Thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng-ghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết công trình nổi tiếng Hệ tư tưởng Đức (1845-1846), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hê- ghen và phái Hê- ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Ludvich Phoiơbach nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp đó năm 1848, Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph. Ăng- ghen cùng viết Tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph. Ăng-ghen quan tâm nhiều đến hoạt động của BCH Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân Đức (Tháng3-1848) do BCH Trung ương LĐNNCS lập ra. Tháng 3- 1848, cùng với C. Mác , Ph. Ăng-ghen thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được BCH Trung ương LĐNNCS thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức. Tháng 4- 1848 ông cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng Đức. Ngày 20 tháng 5/1848 Ph. Ăng-ghen đến cùng với C. Mác chuẩn bị xuất bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Ph. Ăng-ghen tham gia viết các bài xã luận, bài điểm tình hình chính trị. Tháng 10/1848 ông đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng ông không được phép cư trú chính trị. Ph. Ăng- ghen lại đến Paris sau đó sang Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức, ông được bầu vào Uỷ ban trung ương của tổ chức này. Tháng giêng năm 1849 ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849) Ph. Ăng-ghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph. Ăng- ghen đến Elberfeld và được sung vào Ban quân sự. Ăng-ghen đưa ra một kế hoạch để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức. Trong thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp bốn trận đánh lớn, trong đó có trận Rastatt. Sau này Ph. Ăng- ghen đã viết trước tác Luận văn quân sự nổi tiếng. Tháng 11/1849, Ph. Ăng- ghen đến Luân đôn và được bổ sung vào BCH Trung ương Liên đoàn Những người cộng sản mà C. Mác đã cải tổ sau khi đến
  • 9. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 8 đây. Ph. Ăng-ghen sống ở Luân- đôn một năm, trong thời gian đó ông đã viết các tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức. Tháng 11-1850, Ph. Ăng-ghen buộc phải chuyển dến Manchester vàn lại bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho Ăng-ghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động cách mạng. Ph. Ăng-ghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, môn quân sự, chính sách quốc tế. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I. Tháng 9-1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng của quốc tế cộng sản I. Ph. Ăng- ghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội của phái Bakunin, Proudhon, Lassalle. Năm 1871, Ph. Ăng- ghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ công xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa C. Mác. Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894). 1.2. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" là bản cương lĩnh cách mạng đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, là tác phẩm lý luận tổng kết toàn bộ quá trình hình thành chủ nghĩa Mác, trình bày những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác, thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản. Tác phẩm này do Các Mác (05/5/1818 - 14/3/1883) và Phê-đê-rích Ăng-ghen (28/11/1820 - 05/8/1895) soạn thảo vào cuối năm 1847, được công bố vào tháng 02 năm 1848 và xuất bản vào tháng 3/1848. Mục đích của tác phẩm như C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: "Hiện nay đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, ý đồ của mình và phải có một Tuyên ngôn của Đảng của mình để đập lại một câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản". Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã thống trị ở Anh, Pháp và trong một chừng mực nào đó ở Đức. Ở nhiều nước Tây Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) diễn ra khá mạnh mẽ. Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gây gắt. Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất TBCN đã trở nên không thể điều hòa được. Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của CNTB mà trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt. Do đó, ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp vô sản ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của quốc gia. Giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách mạng chuyển sang nước Đức. Giai cấp vô sản Đức tiến hành cuộc đấu tranh của mình nhưng sự giác ngộ của họ còn yếu kém. Giữa lúc đó, Mác và Ăng-ghen nhận thức sâu sắc rằng: cần phải làm
  • 10. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 9 cho giai cấp vô sản trở thành một lực lượng độc lập và làm cho họ tiến gần tới việc thực hiện những mục đích của cộng sản chủ nghĩa. Tại Luân Đôn (thủ đô nước Anh) tổ chức "Liên minh những người chính nghĩa" ra đời năm 1836 và cuối năm 1847 họp Đại hội lần thứ hai. Mác và Ăng-ghen được ủy nhiệm soạn thảo Cương lĩnh dưới hình thức một bản tuyên ngôn. Mác và Ăng-ghen đã tập trung sức lực, trí tuệ để hoàn thành "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" trong một thời gian rất ngắn và lần đầu tiên được xuất bản tại Luân Đôn. Ít lâu sau, Tuyên ngôn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở nhiều nước khác nhau và mỗi lần tái bản được dịch sang một thứ tiếng khác đều được tác giả viết lời tựa mới. Tuyên ngôn được trình bày làm 4 chương với nội dung rất phong phú và cô đọng. Chương I: Những người tư sản và những người vô sản. Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản. Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chương IV: Thái độ của những người cộng sản với các đảng đối lập. 1.2.1. Tiền đềvề kinhtế. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội ở trình độ xã hội hóa cao nhờ những cải tiến, phát minh về kỹ thuật công nghệ, dẫn đến sự ra đời của nền sản xuất đại công nghiệp cơ khí. Mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất với chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng phát triển đã trở nên gay gắt và trở thành mâu thuẩn chủ yếu của xã hội. 1.2.2. Tiền đềchính trị - xã hội. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân. Cơ cấu xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa được hình thành với đặc trưng cơ bản là tồn tại hai giai cấp đối lập nhau về lợi ích là: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ngày càng lan rộng, phát triển từ tụ phát đến tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị. Các cuộc đấu tranh ở Liong, khởi nghĩa của những người thợ dệt ở XileZi, báo hiệu sự trưởng thành về ý thức chính trị của giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi bức xúc phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học và cách mạng. Lý luận của Mác ra đời đáp ứng những đòihỏi ấy. 1.2.3. Tiền đềvề khoa học và lý luận. Về khoa học tự nhiên, vào giữa thế kỷ XIX đã xuất hiện thuyết tiến hóa giống loài của Đác-uyn học thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lomonoxop... các phương pháp nhận thức khoa học như: quy nạp, phân tích, thực nghiệm, tổng hợp...đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa học không ngừng phát triển. Về lý luận, có những thành tựu của triết học cổ điển Đức (Can ter, Hêggen...), kinh tế chính trị cổ điển Anh (Ađam Xmit, David Ricardo), chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp có (Xanh xi mông, Owen...) C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề lý luận trên để sáng tạo ra học thuyết khoa học và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong
  • 11. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 10 học thuyết của mình hai ông đã làm sáng tỏ quy luật hình thành và phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp bách của tình hình thực tiển cách mạng thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác không chỉ là sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là tình hình thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, mà là một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển hợp Logic của lịch sử tư duy nhân loại, là thành tựu trí tuệ của loài người. 1.3. Nộidung chủ yếu của tác phẩm. 1.3.1. Chủ đề. Chủ đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, giai cấp vô sản cách mạng trong cuộc đấu tranh tiến tới xóa bỏ chế độ tư sản, xây dựng xã hội cộng sản tương lai. Luận điểm chỉ đạo - linh hồn của tuyên ngôn được thể hiện ở câu: “Như vậy là sự phát triển của nền đại công nghiệp đã phá sập dưới chân của giai cấp tư sản, chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế độ sản xuất và chiếm hữu của nó. Trước hết giai cấp tư sản tạo ra người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau“. Tác phẩm cũng đã trình bày cho chúng ta thấy quan điểm lý luận và phương pháp cách mạng. Đồng thời đưa ra dự báo có căn cứ và khoa học về tổ chức, kiến thiết xã hội chủ nghĩa. 1.3.2. Nội dung của tác phẩm Phần lời tựa: Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Anh tại Luân đôn ngày 21/1/1882 Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Nga tại Luân đôn ngày 24/6/1883 Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Pháp Luân đôn ngày 28/6/1883. Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Anh tại Luân đôn ngày 30/1/1888 Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiếng Đức tại Luân đônngày 1/5/1872. Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiến Anh tại Luân đônngày 24/6/1890. Lời tựa viết cho bản xuất bản bằng tiến Ba Lan tại Luân đôn ngày 10/2/1892 Nội dung nêu lên lý do tại sao giai cấp vô sản phải có truyên ngôn tuy nhiên vàp mỗi thời kỳ lịch sử có những vấn đề mới nảy sinh vì vậy trong các lời tựa đều thể hiện quan điểm của Mác – Ăng Ghen. Chương I : TƯ SẢN VÀ VÔ SẢN Tác phẩm đã trình bày khái quát tính phát triển tất của xã hội là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Sự thay thế xã hội này bằng xã hội khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu của lịch sử.ngay từ khi xã hội có giai cấp đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
  • 12. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 11 Trong thời đại ngày nay( khi tuyên ngôn ra đời) khi giai cấp Tư sản giành được chính quyền từ giai cấp phong kiến, đã tạo ra một năng suất lao đông cao nhờ sự phát triển của máy móc nhờ sự mở mang thị trường mà khắp các châu lục, nền kinh tế đã có sự phát triển cao, có sự phân công lao động xã hội . Thực tế ấy cho thấy so với phương thức sản xuất phong kiến thì phương thức sản xuất Tư bản tiến bộ hơn. Tuy nhiên khi lực lượng sản xuất phát triển với trình độ xã hội hoá ngày càng cao thì chủ nghĩa Tư bản vẫn duy trì hình thức sở hữu tư nhân dẫn đến mâu thuẩn giữa LLSX và QHSH. Trên các lập luận khoa học đó tuyên ngôn đã khẳng định “Giai cấp Tư sản đã sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Chương II: NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN VÀ NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN Tuyên ngôn nêu lên mối quan hệ giữa những người vô sản và những người cộng sản. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đại diện cho lợi ích của giai cấp vô sản. Mục đích của những người cộng sản là xoá bỏ tư hữu xoá bỏ bóc lột áp bức bất công “ Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là : Xoá bỏ chế độ tư hữu”. Tuyên ngôn cũng đưa ra những vấn đề chiến lược và sáchlược của đảng cộng sản đó là: Chỉ cho người lao động thấy được bản chất bóc lột, bất công của giai cấp tư sản. Những mối quan hệ xã hội tồn tại trong xã hội tư bản như quan hệ hôn nhân , gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc; quan hệ và các thiết chế kiến trúc thượng tầng; quan hệ của các hình thái ý thức xã hội VV… Chương III VĂN HỌC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA. Chương này nói lên sự cáo chung của các trào lưu Chủ nghĩa xã hội phản động . Trong phần này tuyên ngôn đã vạch trần tính mị dân của các trào lưu chủ nghĩa xã hội phản động: gồm : Chủ nghĩa xã hội phong kiến Chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Chủ nghĩa xã hội Đức hay chủ nghĩa xã hội “chân chính “ Các trào lưu nay đã lỗi thời và bị quần chúng lao động bài xích họ đã dung văn học để làm phương tiên biện minh cho sự tồn tại của mình. Đáng chú ý là một số bộ phận trong giai cấp tư sản tim cách chữa các căn bệnh xã hội cốt đẻ củng cố xã hội tư sản.hộ đã dưa ra mô hình Chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội Tư sản” một số tác phẩm đại diên cho trường phái này là quyển “ Triết học về sự khốn cùng “ của Phu-đông. Chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán.
  • 13. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 12 Chương IV:THÁI ĐỘ CỦA NHƯNG NGƯỜI CỘNG SẢN ĐỐI VỚI CÁC ĐẢNG ĐỐI LẬP. Chương này tác phẩm trinh bày lập trương mục đích của mình “tóm lại ở tất cả mọi nơi những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành. Trong tất cả các phong trào ấy họ đều đưa ra vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không thể là nó đã có thể phát triển ở trình độ nào. Sau hết những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở các nước.” Kết thúc tuyên gôn Mác - Ăng Ghen đưa ra lời hiệu triệu “Vô Sản tất cả các nước đoàn kết lại!. Chương 2. GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA TÁC PHẨM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG. 2.1. Giá trị khoa học của tác phẩm. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ vị trí đặc biệt quan trọng ttrong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận cấu thành: Triết học, kinh tế chính trị học, và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Với ý nghĩa đó V.I.Lênin khẳng định “Cuốn sách mỏng ấy có giá trị bằng hàng bộ sách tinh thần của nó, đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và chiến đấu trong thế giới văn minh“. 2.2. Giá trị trong lĩnh vực tư tưởng 2.2.1. Tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khái quát hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.(công tác lý luận) Theo quan điểm của học thuyết Mác công tác tư tưởng được hiểu là: Hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng. Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Công tác lý luận chính trị được hiểu là: Một bộ phận của công tác tư tưởng hướng vào việc nghiên cứu, phát triển sáng tạo hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo cách mạng - giai cấp công nhân, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn cách mạng nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý luận và cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách, các quyết định của Đảng và Nhà nước, đấu tranh, phêphán các trào lưu tư tưởng sai trái, thù địch.
  • 14. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 13 Như vậy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác gồm ba yếu tố hợp thành đó là: Triết học, Kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội Cộng sản. Với ba phát kiến vĩ đại mà Mác để lại cho nhân loại đó là: - Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội, - Học thuyết về giá trị thặng dư, - Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Ba phát kiến này được thể hiện khá rõ nét trong tác phẩm 2.2.1.1 Lý luận triết học mà bản chất của nó là thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng và học thuyết hình thái kinhtế xã hội. Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết quá trình lịch sử Mác - Ăngghen đã nêu ra quan điểm duy vật lịch sử và hình thành học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Trong tuyên ngôn Mác viết: “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả của phường hội và thợ bạn, nói tóm lại những kẻ áp bức và những người bị áp bức luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh mà bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cách mạng cải tạo toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau.”1 Và Mác cũng chỉ ra rằng: Sự thay đổi hình thái xã hội phong kiến thành hình thái kinh tế xã hội tư bản là một bước tiến của nhân loại. Nhưng vẫn chỉ là sự thay đổi về mặt hình thức bóc lột chứ không xóa bỏ đựơc hình thức bóc lột, đồng thời Mác cũng đã chỉ ra mâu thuẫn giai cấp đối kháng hiện tại: “Xã hội tư sản hiện đại sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xóa bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem lại những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi. Tuy nhiên đặc điểm của thời đại chúng ta, của thời đại của giai cấp tư sản, là đã đơn giản hóa những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đốilập với nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”1. Tuyệt nhiên Mác cũng không phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản, Mác cho rằng: nền văn minh mà chủ nghĩa tư bản lại cho nhân loại là to lớn và cũng là tất yếu của lịch sử Mác viết: “Nhờ cải thiện, mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách kiên cường nhất cũng phải hàng phục. Nó buộc tất cả các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị diệt; nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là 1 Tuyển tập Mác-Ănggen, tập I. Nxb Sự thật Hà Nội 1980. Tr541, 542
  • 15. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 14 văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản. Nói tóm lại, nó tạo ra cho nó một thế giới theo hình ảnh của nó”1 . Từ lập luận trên ta thấy Mác đã phân tích làm rõ nguyên nhân của sự ra đời của chế độ tư bản chủ nghĩa, thay thế chế độ phong kiến chính là sự phù hợp với lực lượng sản xuất. Và cuộc cách mạng của những người vô sản tất yếu sẽ diễn ra “Giai cấp vô sản và sựu giàu có là hai cái đối lập. Với tích cách như vậy, chúng hợp thành một thể hoàn chỉnh thống nhất. Cả hai đều là sản phẩm của thế giới của chế độ tư hữu. Toàn bộ vấn đề này là ở chỗ tìm hiểu xem mỗi cái trong hai cái ấy chiếm một địa vị xác định nào trong sự đối lập ấy. Chỉ tuyên bố rằng chúng là hai mặt của một thể hoàn chỉnh thì chưa đủ…Với tư cách là giai cấp vô sản, giai cấp vô sản buộc phải thủ tiêu bản thân mình và do đó tiêu diệt cả cái mặt đối lập của nó – tức là chế độ tư hữu – đang chí phối nó và làm cho nó thành giai cấp vô sản. Đây là mặt phủ định của sự đối lập, là sự không yên ổn bên trong sự đốilập, là chế độ tư hữu đang bị tiêu diệt và đang tự tiêu diệt”2 2.2.1.2. Lý luận về kinh tế chính trị mà cốt lõi của nó là học thuyết về giá trị thặng dư. Mác đã nhận định về bản chất của nền sản xuất tư bản trên phương diện triết học theo lát cắt của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng theo phương diện kinh tế chính trị học, Mác - Ăngghen đã giải phẫu cái xấu xa cái bất công trong lòng chủ nghĩa tư bản đó là: những người công nhân, những người lao động làm thuê cho nhà tư bản lao động cực lực, họ bị vắt cạn kiệt sức lao động bằng việc tăng ca, tăng kíp, bằng việc khai thác hết công suất của máy móc, hoặc đầu tư cải tiến công nghệ, rốt cuộc cũng chỉ mang lại lợi ích cho nhà tư bản. Một nghịch lý hiển nhiên tồn tại trong lòng xã hội tư bản đó là sự bất công trong phân phối, Nhà tư bản ngồi mát ăn bát vàng còn công nhân chỉ nhận được những đồng lương tối thiểu đủ đề duy trì sự sống của họ ở mức tối thiểu.Cái mức sống tối thiểu đó được gọi là tiền lương (v). Còn cái giá trị cộng thêm ngoài tiền lương bị nhà tư bản tước đoạt của họ chính là giá trị thặng dự (m). Mác- Ăng Ghen phân tích: “nhưng thử hỏi lao động làm thuê, lao động của người vô sản, có tạo ra sở hữu cho người vô sản không? Tuyệt đối không. Nó tạo ra tư bản, tức là cái sở hữu bóc lột lao động làm thuê, cái sở hữu chỉ có thể tăng thêm với điều kiện là phải cứ sản xuất mãi mãi ra lao động làm thuê để lại bóc lột lao động làm thuê đó. Trong tình hình hiện tại của nó, sở hữu vận động giữa hai cực đối lập: tư bản và lao động. Chúng ta hãy xét hai cực của sự đối lập ấy. Giá cả trung bình của lao động làm thuê là số tiền công tối thiểu, nghĩa là tổng số những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân sống với tính cách là công nhân. Cho nên cái mà người công nhân chiếm hữu được bằng lao lực của mình cũng chỉ vừa đủ để tái sản xuất ra đời sống đã bị hạ xuống đến mức thấp nhất mà thôi. Chúng tôi tuyệt không muốn xóa bỏ sự chiếm hữu cá nhân ấy về 2 Tuyển tập Mác-Ănggen. Nhà xb Sự thật Hà Nội 1980 tập I, Tr 188-149
  • 16. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 15 những sản phẩm của lao động, cần thiết để tái sản xuất ra đời sống ngày mai, vì sự chiếm hữu ấy không đẻ ra một khoản dư nào có thể đem lại một quyền lực chi phối lao động của người khác. Điều chúng tôi muốn là xóa bỏ tính chất bi thảm của cái phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chứng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi. Trong xã hội tư sản, lao động sống chỉ là một phương tiện để tăng thêm lao động tích lũy. Trong xã hội cộng sản, lao động tích lũy chỉ là một phương tiện để mở rộng, làm phong phú và làm đẹp thêm đời sống của những người lao động.”3 Như vậy nguồn gốc của bóc lột được sản sinh ra từ đâu? Máy móc, nguyên liệu ? đều sẽ không đúng. Mác cũng đã khẳng định: “Chế độ sở hữu đã trải qua những thay đổi liên tiếp, những cải biến liên tiếp trong lịch sử. Cách mạng Pháp chẳng hạn, đã xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến, để thay đổi bằng chế độ sở hữu tư sản. Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư hữu hiện thời, chế độ sở hữu tư sản lại là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia”4 2.2.1.3. Vềsứ mệnhlịch sử của giai cấp công nhân. C. Mác và Ăngghen đã dùng một số thuật ngữ khác nhau để diễn đạt khái niệm giai cấp công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại công nghiệp…Ăngghen đã đã đưa ra định nghĩa “giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào” và các ông cũng khẳng định “giai cấp vô sản trải qua nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau cuộc đấu tranh của họ chống lại giai cấp tư sản bắt đầu từ khi mới ra đời”. Tính chất đặc thù của giai cấp vô sản trong tập hợp số đông, tập hợp đựơc sự đoàn kết nhất trí cao, nhờ sức tập trung của nền sản xuất đại công nghiệp “Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng là một cuộc đấu tranh chính trị, và sự đoàn kết mà những thị dân thời trung cổ đã phải mất hàng thế kỷ mới xây dựng đựoc bằng những con đường làng nhỏ hẹp của họ, thì những ngừơi vô sản hiện đại chỉ xây dựng trong một vài năm nhờ có đường sắt”5. Và các ông cũng đã nhìn thấy được vị trí của giai cấp vô sản, thấy được sức sống mãnh liệt, khát khao cháy bỏng và ham muốn tự do của giai cấp vô sản Mác viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn 3 (SĐD Tr559-560) 4 Bản tiếng Anh năm 1888 dịch là: “Thiểu số phục tùng đa số” 5 Tuyển tậpMác-Ănggen. Nhà xbSự thật Hà Nội 1980tậpI, Tr 552-553
  • 17. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 16 và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản trái lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp”4… “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc. Đương nhiên là truớc hết giai cấp vô sản ở mỗi nứơc phải thanh toán xong giai cấp tư sản ở nước mình đã.”6 Mục đích cuối cùng của giai cấp vô sản là: xóa bổ tư hữu, áp bức, bất công. Tuy nhiên trong thành phần của giai cấp công nhân phải có những cá nhân ưu tú, có trình độ, năng lực để lãnh đạo giai cấp mình, có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, có lý luận cách mạng tiên phong để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình “vậy là về mặt thực tiễn những người cộng ản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chổ la họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác; tổ chức những người vô sản thành giai cấo, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản. Giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”7 Và quá trình đấu tranh của giai cấp vô sản sẽ được tiến hành đến ngày thắng lợi Mác viết: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã đựơc tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên. Cố nhiên điều đó lúc đầu chỉ có thể thực hiện được bằng cách xâm phạm một cách chuyên chế vào quyền sở hữu và chế độ sản xuất tư sản, nghĩa là bằng những biện pháp, về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực, nhưng trong tiến trình cuộc vận động những biện pháp ấy sẽ vượt quá bản thân chúng và là thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất. Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều. Nhưng đối với những nước tiên tiến nhất thì những bước sau đây có thể sẽ đựơc áp dụng khá phổ biến: - Tước bỏ ruộng đất và bỏ địa tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước. - Đánh thuế theo mức lũy tiến thật cao - Xóa bỏ quyền thừa kế. - Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và tất cả những kẻ phiến loạn. - Tập trung tín dụng vào tay nhà nước bằng một ngân hàng quốc gia mà vốn liếng sẽ thuộc về nhà nước và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn. 6 Tuyển tậpMác-Ănggen. Nhà xbSự thật Hà Nội 1980tậpI, Tr 554-555 7 Tuyển tậpMác-Ănggen. Nhà xbSự thật Hà Nội 1980tậpI, Tr 558.
  • 18. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 17 - Tập trung tất cả các phương tiện vận tải vào tay nhà nước. - Tăng thêm công xưởng quốc doanh và công cụ sản xuất; vỡ đất hoang và cải tạo đất trồng trọt theo một kế hoạch chung. - Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người; tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là cho nông nghiệp. - Kết hợp lao động nông nghiệp với lao động công nghiệp; thi hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn. - Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xóa bỏ việc dùng trẻ em làm trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất”1 2.2.2. Công táctuyên truyền trong tuyên truyền của Đảng Cộng sản 2.2.2.1. Khái niệm vềcông tác tuyên truyền. Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thức và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan của niềm tin đó. 2.2.2.2. Công tác tuyên truyền được thể hiện trong các quan điểm của tác phẩm. Mác đã chỉ cho giai cấp vô sản thấy được bản chất bóc lột của giai cấp tư sản. Thông qua các lập luận khoa học của mình Mác đã chỉ cho giai cấp vô sản rằng: Chính giai cấp công nhân là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản. Mác cũng đã chỉ ra cho giai cấp công nhân cái được và cái mất trong cuộc đấu tranh này, đó là họ chỉ mất xiềng xích nô lệ còn được là được cả thế giới.Câu kết của bản tuyên ngôn Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại như một lời hiệu triệu đối với giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Trở lại lời tựa cho các lần xuất bản Mác – Ăng Ghen cũng đã khẳng định các ông không có quyền sửa chữa bản tuyên ngôn, song ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, có những vấn đề cần nhận thức lại cho đúng cho phù hợp thực tiễn. Khi tuyên ngôn ra đời trên thế giới chưa nổ ra cuộc cách mạng vô sản nào, nhưng càng ngày càng có nhiều các cuộc cách mạng vô sản giành được thắng lợi vì vậy trong lời tựa các ông đã kịp thời bổ sung vào để tuyên truyền cho thắng lợi hoặc định hướng cho hành động của giai cấp vô sản “Không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong 25 năm qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức thành chính đảng, do đó có những kinh nghiệm thực tiễn, trước hết là cuộc Cách mạng tháng hai, sau nữa và nhất là của Công xã Pari lần đầu tiên đã đem chính quyền lại cho gai cấp vô sản trong hai tháng, cho nên hiện nay, cương lĩnh này có một số diểm đã cũ nhất là Công xã đã chứng minh rằng “giai cấp
  • 19. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 18 công nhân không thể chỉ nắm lấy bộ máy nhà nước sẳn có và bắt nó hoạt động phục vụ mình” (xem nội chiến pháp)” Để nguỵ biện cho sự tồn tại của giai cấp tiểu tư sản, một số nhà tiểu tư sản nhào nặn ra một kiểu xã hội tiểu tư sản nhưng giai cấp này vẫn là giai cấp đang “tiếp tục sống lay lắt bên cạnh giai cấp tư sản thịnh vượng” Với chủ nghĩa xã hội bảo thủ hay chủ nghĩa xã hội tư sản thì Mác cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội tư sản chỉ đạt được biểu hiện thích đáng của nó, khi nó trở thành một lối nói từ chương đơn thuần. Mậu dịch tự do, vì lợi íchcủa giai cấp công nhân! Thuế quan bảo hộ, vì lợi íchcủa giai cấp công nhân!” Nhà tù xà lim vì lợi ích của giai cấp công nhân! Đó là cái đích tột cùng của chủ nghĩa xã hội tư sản, điều duy nhất mà nó nói ra một cách nghiêm túc” Đối với những trào lưu chủ nghĩa xã hội không tưởng, Mác đã cảm thông cho những nhận thức duy ý chí về chủ nghĩa xã hội của họ. Và chỉ ra cho giai cấp vô sản cách mạng con đường đấu tranh của mình “Vì vậy họ cự tuyệt mọi hành động chính trị và nhất là mọi hành động cách mạng; họ tìm cách đạt mục đích của họ bằng phương pháp hoà bình, và thử mở một con đường đi tới một phúc âm xã hội mới bằng hiệu lực của gương mẫu, bằng những thí nghiệm nhỏ, có nhiên những thí nghiệm này luôn luôn thất bại” 2.2.3. Công táccổ động trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Có thể nói đầu đề của bản tuyên ngôn hàm chứa một sự khẳng định, sự tuyên bố của Đảng cộng sản rằng. -Xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản chủ nghĩa. -Giai cấp vô sản sẽ bước lên vũ đài chính trị để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Và Mác cũng khẳng định chắc chắn rằng: Những người cộng sản chiến đấu cho những lợi ích và những mục đích trước mắt của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào. Ở Pháp, những người cộng sản liên hợp với Đảng dân chủ - xã hội chủ nghĩa chống giai cấp tư sản bảo thủ và cấp tiến, đồng thời vẫn dành cho mình cái quyền phê phán những lời nói suông và những ảo tưởng do truyền thống cách mạng để lại. Ở Thụy sĩ, họ ủng hộ phái cấp tiến, nhưng không phải không biết rằng đảng này gồm những phần tử mâu thuẫn nhau, một nữa là những người dân chủ - xã hội chủ nghĩa theo kiểu Pháp, và một nữa là những người tư sản cấp tiến.
  • 20. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 19 Ở Ba Lan, những người cộng sản ủng hộ chính đảng đã coi cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc nghĩa là chính đảng đã làm cuộc khởi nghĩa Krakow năm 18468 Ở Đức, Đảng cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản mỗi khi giai cấp này hành động cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chống chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu tư sản phản động. Nhưng không giờ phút nào, Đảng cộng sản lại quên gây cho công nhân một ý thức sáng suốt và rõ rệt về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, để khi có thời cơ thì có bao nhiêu điều kiện chính trị và xã hội do chế độ tư sản tạo ra, công nhân Đức biết đổi thành bấy nhiêu vũ khí chống lại giai cấp tư sản, để ngay sau khi tiêu diệt xong những giai cấp phản động ở Đức, là có thể tiến hành đấu tranh chống lại chính ngay giai cấp tư sản.” Một câu cổ động, một khẩu hiệu vang dội nhất, một lời hiệu triệu được Mác đưa ra cô đọng nhất và cũng là một hình thức cổ động sâu sắc và hiệu quả nhất đó là: VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI! và tuyên ngôn sẽ tràn đầy sức sống như Ăngghen viết trong viết trong lời tựa viết bằng bản tiếng Anh năm 1888. Như vậy là lịch sử của “Tuyên ngôn” phản ánh khá rõ lịch sử của phong trào công nhân đương thời; hiện nay, hiển nhiên đó là tác phẩm phổ biến hơn cả, có tính chất quốc tế hơn cả trong tất cả các văn phẩm xã hội chủ nghĩa, đó là cương lĩnh chung của hàng triệu công nhân từ Xi-bia đến California. 8 C.Mác và Ph.Ăngghen: toàntập, t.4,tr.459-493
  • 21. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 20 Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY. 3.1. Trên lĩnh vực lý luận. 3.1.1. Đảngta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng Như đã nêu ở phần trên 3 bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Mác - Lênin được hình thành và phát triển từ những quan điểm được Mác đưa ra trong tuyên ngôn. Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập đã xác định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng của giai cấp mình. Suốt hơn 80 năm qua dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng. Đảng ta luôn trung thành tuyệt đối với học thuyết Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó có nghĩa rằng lý luận Mác - Lênin là tiền đề lý luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất coi trọng lý luận và công tác lý luận, luôn xác định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), Đảng ta khẳng định: “ lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”9. Nhờ giữ vững ngọn cờ lý luận Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam vượt qua mọi chông gai, giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử. Việc chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu vừa qua chỉ chứng minh một chân lý: xa rời lý luận cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, để chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại thao túng thì không tránh khỏi kết quả bi thảm cho các phong trào xã hội chủ nghĩa. 3.1.2.Tiếp tục phát triển lý luận của Mác - Ăngghen. Vận dụng vào điều kiện cụ thể nước ta. Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin không có nghĩa là rập khuôn máy móc, mà phải vận dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Đọc lại lời tựa cho các lần xuất bản kể cả khi Mác còn sống và khi Ăngghen thay Mác viết lời tựa thì tư tưởng biện chứng và phát triển được các ông đề cập đến. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản tiếng Đức năm 1882 Mác và Ăngghen đã viết: Không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong hai mươi lăm năm qua và giai cấp công nhân cũng đạt được những tiến bộ song song trong việc tự tổ chức thành chính đảng, do có những kinh nghiệm thực tiễn, trước hết là của cách mạng tháng hai, sau nữa và nhất là của Công xã Pa-ri lần đầu tiên đã đem chính quyền lại cho giai cấp vô sản trong hai tháng, cho nên hiện nay, 9 Đảngcộngsản Việt Nam:Văn kiện ĐH đại biểutoàn quốc lần thứ VII,Nxb.Sự thật, Hà Nội,1991, tr.127
  • 22. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 21 cương lĩnh này có một số điểm đã cũ. Nhất là Công xã đã chứng minh rằng “giai cấp công nhân không thể chỉ chỉ nắm lấy bộ máy nhà nước sẳn có và bắt nó hoạt động phục vụ mình”. Và cũng hiển nhiên là những nhận định về thái độ của người cộng sản đối với các đảng đối lập (chương IV), nếu cho đến nay vẫn còn đúng trên những nét cơ bản thì trong chi tiết, những nhận định ấy đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã hoàn toàn thay đổi và sự tiến triển lịch sử đã làm tiêu tan phần lớn những đảng được kể ra trong đó. Tuy nhiên, “Tuyên ngôn” là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại. Có lẽ là trong một lần xuất bản, sẽ có một lời tựa để bổ sung vào khoảng trống từ 1847 đến nay; lần tái bản này đột ngột quá không cho phép chúng tôi có đủ thì giờ để viết lời tựa ấy! Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Đảng ta xác định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sao cho đúng hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn, đồng thời phải nắm được thực tiễn đất nước đầy đủ hơn để vận dụng lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng nên hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong thời đại mới. Để làm được điều đó, một mặt phải chống giáo điều, xơ cứng dẫn đến trì tuệ, bảo thủ; mặc khác đề phòng khuynh hướng lệch lạc, nhân danh “sáng tạo” để đưa các quan điểm cơ hội, xét lại hữu khuynh vào sự nghiệp đổi mới, làm cho cách mạng đi chệch conđường đã chọn. 3.2.Trênlĩnh vực tuyên truyền. 3.2.1.Tuyên truyền giáodụcChủ nghĩa Mác - Lênin Khi tìm được chân lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã đi đến quyết định “muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Công tác cách mạng đầu tiên mà Bác Hồ tiến hành sau khi tìm thấy hệ tư tưởng cách mạng của thời đại chính là công tác tuyên truyền. Năm 1925 khi về đến Quảng Châu (Trung Quốc) người đã mở những lớp huấn luyện đầu tiên cho cách mạng Việt Nam. Nội dung chủ yếu của chương trình huấn luyện đào tạo cán bộ lúc bấy giờ là truyền bá những vấn đề cơ bản về Chủ nghĩa Mác - Lênin, về lý luận và phương pháp cách mạng,về đạo đức cách mạng. Từ đó đến nay công tác giáo dục lý luận, nghiên cứu lý luận luôn được Đảng ta quan tâm. Cả nước có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm nghiên cứu hoạch định đường lối chính sách cho Đảng
  • 23. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 22 để lãnh đạo đất nước tiến lên. Hệ thống trường Đảng được tổ chức rộng rãi từ các trung tâm chính trị cấp huyện, Trường chính trị Tỉnh và các học viện ở Trung ương. Về nội dung giáo dục lý luận cũng không ngừng được đổi mới nhất là sau Đại hội VII Đảng đến nay. Nhiều Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã xác định rõ yêu cầu cấp bách phải đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, tiến hành biên soạn bộ giáo trình mới về các bộ môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tháng 5 -1992 Ban bí thư đã có chủ trương về vấn đề này vào ngày 13-7-1992 Chủ tịch hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định thành lập hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến nay công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không ngừng đổi mới cả nội dung, phương pháp và hình thức nhằm đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. 3.2.2.Nhận thức đúng đắn tính khoa học và cách mạng của tuyên ngôn. Đấu tranh bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác tuyên truyền góp phần đắc lực vào cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị của Đảng, đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững ổng định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác - Ăngghen đã bày tỏ quan điểm phát triển và biện chứng của nhận thức trong các lời tựa viết cho các lần xuất bản, hai ông luôn nhắc nhở rằng khi nghiên cứu tuyên ngôn phải xem xét điều kiện cụ thể khách quan. 3.3.Trênlĩnh vực cổ động. 3.3.1.ĐưaChủ nghĩa Mác - Lênin đến với quần chúng nhân dân. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời việc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin được Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm và tạo nên sự thu hút mạnh mẽ trong phong trào cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin đến với Việt Nam được đông đảo quần chúng hưởng ứng như người đang đói mà có cơm ăn, đang khát mà có nước uống. Ngày nay tư tưởng của tuyên ngôn “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” cũng được Đảng ta vận dụng thành công trong xu thế hội nhập toàn cầu, một mặt chúng ta mở rộng quan hệ quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa. Với quan điểm “Việt Nam sẳn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trên thế giới”. Mặt khác chúng ta luôn ủng hộ và giúp đỡ các Đảng cộng sản, các Đảng cánh tả nhằm tạo nên khối đoàn kết quốc tế mạnh mẽ, tạo thời cơ, thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. 3.3.2.Sựvận dụngkhoa học trong quá trình cách mạngcủa Đảng ta.
  • 24. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 23 Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó. Trong Cách mạng Tháng Tám cũng như trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trung thành với những tư tưởng của Tuyên ngôn, xuất phát từ thực tiễn và hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng những nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn đề ra những quyết sách đúng đắn, phù hợp nên đã huy động được sức mạnh đoàn kết to lớn của toàn dân tộc giành chính quyền về tay nhân dân và sử dụng chính quyền ấy đưa dân tộc bước vào cuộc trường chinh chống thực dân Pháp thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hoà bình ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lươc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau hơn 30 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, dân tộc ta đã làm nên Đại thắng Mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thu non sông gấm vóc về một mối, đất nước sạch bóng quân thù, đế quốc Mỹ phải cút khỏi nước ta, nguỵ quân, nguỵ quyền sụp đổ, đất nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là thắng lợi to lớn có ý nghĩa thời đại của nhân dân Việt Nam, mà còn là thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là thắng lợi của tình hữu nghị và đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Sau thắng lợi năm 1975, dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dù còn muôn vàn khó khăn của thời hậu chiến, nhưng với lòng phấn khởi và niềm tự hào to lớn, nhân dân cả nước lại bắt tay vào khôi phục vết thương chiến tranh, khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, tập trung phát triển lực lượng sản xuất và không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Cuộc sống vật chất, tinh thần của mọi người dân được cải thiện đáng kể, các công trường nhà máy được mọc lên từ Bắc chí Nam, nhân dân hân hoan chào mừng cuộc sống mới với niềm tin vô hạn vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên của đất nước. Nhưng do chủ quan, nóng vội và có phần duy ý chí, chúng ta đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng. Với mong muôn đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; Chúng ta nhận thức chưa đầy đủ những lời dạy của Mác, Ăngghen: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình theo một luận điểm duy nhất là: xoá bỏ chế độ tư hữu”. Chúng ta không xem xét câu nói đó trong một chỉnh thể của toàn bộ hệ thống văn bản nên đã phạm sai lầm là đồng nhất “xoá bỏ chế độ tư hữu” với “xoá bỏ “hình thức sở hữu cá nhân”, với “xoa bỏ chế độ tư hữu tư sản”, trong khi Tuyên ngôn đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Như vậy là trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, luận điểm về vấn đề sở hữu được nêu ra là nhằm xoá bỏ chế độ tư hữu tư sản - một chế độ mà từ đó đẻ ra nạn “người bóc lột người”, một chế độ “dùng sự chiếm hữu đó để nô dịch lao động của người khác”, chứ tuyệt nhiên không phải là xoá bỏ hình thức
  • 25. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 24 sở hữu tư nhân. Chính vì nhận thức chưa đúng như vậy, mà chúng ta đã vội vàng xoá bỏ mọi hình thức sở hữu khác và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là “sở hữu nhà nước” và “sở hữu tập thể”. Hơn nữa với suy nghĩ giản đơn là đã thắng đế quốc Mỹ thì không có gì là chúng ta lại không làm được. Chúng ta đã đề ra nhiều chủ trương cải tạo công thương nghiệp, cải tạo tư bản tư nhân ồ ạt đã làm thui chột năng lực sáng tạo, triệt tiêu động lực sản xuất ở nhiều người. Bên cạnh đó chúng ta thành lập các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất, xây dựng các HTX với quy mô lớn, trong khi lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, trình độ quản lý của cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập… nên đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta đã không tuân theo quy luật kinh tế khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, muốn cho sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong khi đó chúng ta lại quan niệm là muốn đưa sản xuất lên nền sản xuất lớn XHCN thì quan hệ sản xuất phải đi trước một bước, quan hệ sản xuất phải mở đường cho lực lượng sản xuất…Với lối tư duy cứng nhắc và mang tính kinh viện đó đã gây ra hậu quả lớn cho nền sản xuất của nước ta, sản xuất bị đình đốn, năng suất lao đông thấp, tư tưởng trong chờ ỷ lại phát triển, cùng với sự phát triển của nhiều tiêu cực khác trong xã hội, làm cho niềm tin vào Đảng, vào chế độ mới bị lung lay. Trước tình hình đó, Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, phân tích thực trạng và nguyên nhân của sự yếu kém, để từ đó tìm giải pháp khả thi đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển. Bởi vì, chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Sinh thời, Mác và Ăng ghen không bao giờ coi những chiến lược, sách lược có tính chất nguyên lý trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản cũng như trong học thuyết của mình là “nhất thành bất biến” mà “trong những nước khác nhau những biện pháp ấy dĩ nhiên cũng khác nhau rất nhiều”. Chúng ta phải luôn ghi nhớ điều đó. Đại hội VI của Đảng (12/1986) đánh dấu sự đổi mới của cách mạng Việt Nam, còn được gọi là Đại hội của sự Đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Đại hội đã thổi một luồng gió mới, tiếp thêm sinh khí, khơi dậy năng lực sáng tạo ở tất cả mọi người, động viên khuyến khích mọi cách làm mới nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ, năng lực sản xuất sẵn có. Với tinh thần “bung ra”, “tháo gỡ”, “cởi trói cho sản xuất”, mọi chủ trương chính sách đều phải nhằm vào mục đích đó, và thế là chỉ trong một thời gian ngắn, với những chủ trương chính sách đúng đắn, hợp quy luật, nhất là giải quyết tốt về vấn đề sở hữu, cho phép nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, xoá bỏ bao cấp, thực hiện hạch toán kinh doanh XHCN.v.v.. từ phân phối bình quân, cào bằng sang phân phối theo kết quả sản xuất, lấy năng suất và hiệu quả lao động làm thước đo và cơ sở để phân phối sản phẩm. Chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp, trao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế trong công nghiệp, xây dựng, vận tải…coi trọng quan hệ cung cầu và quy luật giá trị trong SXKD. Với những chủ trương đúng đắn đó, chỉ sau một thời gian ngắn nền kinh tế nước ta đã có nhiều chuyển biến đáng kể, hàng hoá được sản xuất ra ngày một
  • 26. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 25 nhiều, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Nước ta từ một nước quanh năm thiếu đói phải nhập khẩu lương thực đã trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới. Cùng với kinh tế tăng trưởng, nền chính trị càng ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế càng được nâng cao, niềm tin của dân chúng được củng cố. Từ đổi mới kinh tế chúng ta đã có cơ sở và niềm tin để từng bước đổi mới hệ thống chính trị, luật pháp và từng bước hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, nhưng với bản lĩnh kiên cường của một đảng mác xít dày dạn kinh nghiệm và đã được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng, trung thành với những nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn, nắm chắc tình hình thực tiễn của đất nước, đảng ta đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác lê nin đề ra những quyết sách đúng đắn, tiến hành công nghiệp nhoá, hiện đại hoá, vững vàng tay chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua mọi thử thách và tiến lên giành những thắng lợi to lớn. Chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đời sống được cải thiện, uy tín trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, bạn bè nể trọng. Đặc biệt từ năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO), uỷ viên không thường trực của Hội đồng bảo an LHQ…Chúng ta cũng đã đăng cai và tổ chức thành công nhiều hội nghị quan trọng tầm thế giới và khu vực như APEC, các diến đàn ASEAN, các đại hội thể thao khu vực…được dư luận thế giới khen ngợi. Tất cả đó đã minh chứng cho đường lối đúng đắn và sự trung thành với học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lê nin, của những tư tưởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, và những tư tưởng cách mạng đó vẫn có ý nghĩa to lớn và là kim chỉ nam cho mọi hành động, mãi mãi soisáng con đường cách mạng Việt Nam.
  • 27. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 26 KẾT LUẬN Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, với sự luận giải một cách khoa học và đầy thuyết phục, Mác và Ăng ghen khẳng định sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khẳng định sự thành công của chủ nghĩa xã hội là “tất yếu như nhau” đó là quy luật phát triển của xã hội loài người. Khẳng định trong xã hội hiện đại, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp cách mạng nhất, kiên quyết và triệt để nhất, có khả năng lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa và sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân. Đồng thời, Tuyên ngôn cũng nêu lên rằng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, giai cấp công nhân tất nhiên phải lập ra chính đảng của mình để lãnh đạo phong trào cách mạng. Tuyên ngôn không những đã chỉ ra mục tiêu, phương pháp cách mạng mà còn chỉ rõ lực lượng của cách mạng; khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng đó. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo và thể hiện rõ trong Điều lệ tóm tắt (công bố trong Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930): “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Về mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, Chánh cương vắn tắt nêu rõ: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Về con đường giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Như vậy, từ những nguyên lý cơ bản về mục tiêu và con đường mà Tuyên ngôn đã vạch ra, Đảng ta đã cụ thể hoá và vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam với các mục tiêu chính trị là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Những mục tiêu đó đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân tộc, phát huy được sức mạnh tổng hợp, đem lại những thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người trong gần 80 năm qua.
  • 28. Người thực hiện: Huỳnh Các Tiên Trang 27 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiên Đại hội VI,VII,VIII,IX,X, XI. - Tạp chí Cộng sản Số tháng 3,4,5 năm 2007,2008,2009,2010,2011. - Tài liệu bài giảng Nguyên lý công tác tư tưởng - học viên Báo chí & tuyên truyền . - Tuyển tập Mác Ăng Ghen tập I NXB sự thật Hà nội năm 1980. - Bản tiếng Anh năm 1888 dịch là: “Thiểu số phục tùng đa số” Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VII,Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1991