1. Phan tich tai
chinh doanh
nghiep Thật không
may, chẳng có gì là đơn
giản, tiền mặt cũng vậy.
Lượng tiền mặt trên bảng
cân đối kế toán của mỗi
doanh nghiệp sẽ được nhà
đầu tư hiểu với nhiều các
tác động tín hiệu khác nhau:
gồm cả tín hiệu tốt và tín
hiệu xấu. Dĩ nhiên là nếu
hiểu rõ được nguồn hình
thành các khoản tiền mặt
cho doanh nghiệp, loại hình
doanh nghiệp và các kế
hoạch mà các nhà quản trị
đang dự định thực hiện sẽ
giúp nhà đầu tư có cái nhìn
chuẩn xác hơn.
Các lý thuyết tài chính
doanh nghiệp nói rằng mỗi
doanh nghiệp nên có một
mức tiền mặt thích hợp cho
doanh nghiệp mình, một
lượng đủ để thanh toán lãi
vay, các chi phí và chi tiêu
vốn, ngoài ra còn phải dự
trữ thêm một ít nữa để
doanh nghiệp kịp xử lý trong
những tình huống khẩn cấp.
Nhà đầu tư có thể tính toán
2. chỉ số thanh toán hiện hành
và chỉ số thanh toán nhanh
của doanh nghiệp để xác
định khả năng doanh nghiệp
có thể đáp ứng các nghĩa
vụ tài chính đến hạn hay
không? Dĩ nhiên là các
nghĩa vụ này phải trả bằng
tiền mặt.
Theo lý luận, nếu doanh
nghiệp có bất cứ một lượng
tiền mặt nào cao hơn mức
cần thiết đó thì lượng tiền
mặt đó nên được phân phối
lại cho các cổ đông thông
qua cổ tức hoặc mua lại cổ
phần. Sau đó, nếu các nhà
quản trị tìm thấy các cơ hội
đầu tư mới, họ có thể ra thị
trường vốn phát hành cổ
phần để huy động lượng
vốn cần thiết.
3. Thực tế thì việc doanh
nghiệp có nhiều tiền mặt
cũng có những điểm tốt.
Nhà đầu tư không phải là
người bên trong doanh
nghiệp nên thông thường
nếu nhìn thấy khoản mục
tiền mặt trên bảng cân đối
kế toán nhiều bao giờ cũng
yên tâm hơn so với các
doanh nghiệp có lượng tiền
mặt ít hơn. Nhất là khi qua
các quý, hoặc qua các năm,
lượng tiền mặt tăng lên đều
đặn và ổn định, nó là một tín
hiệu cho thấy doanh nghiệp
đang hoạt động rất tốt, đang
phát triển rất mạnh. Tiền
mặt tích lũy quá nhanh đến
mức các nhà quản trị không
kịp có thời gian để lên kế
4. hoạch sử dụng chúng sao
cho có hiệu quả nhất.
Microsoft là một thí dụ.
Trong ngành công nghiệp
sản xuất phần mềm, có lẽ
tên tuổi của Microsoft đã nổi
tiếng toàn thế giới. Microsoft
hoạt động quá tốt đến mức
dòng tiền mặt hằng năm
luôn nhiều hơn 40 tỷ USD.
Do doanh thu vẫn tiếp tục
tăng trưởng mạnh và tiền
mặt cứ thế tăng lên nhanh
chóng. Các doanh nghiệp
thành công khác trong các
ngành như sản xuất phần
mềm và dịch vụ, giải trí và
truyền thông thường không
bị đòi hỏi về chi tiêu vốn
nhiều như các công ty trong
các ngành thâm dụng vốn.
Vì vậy, tiền mặt của các
doanh nghiệp ấy cứ thế
tăng lên. Trong khi đó, các
doanh nghiệp phải chi tiêu
vốn nhiều như các nhà sản
xuất thép, phải thường
xuyên đầu tư rất nhiều cho
các trang thiết bị, dây
chuyền sản xuất và nguyên
vật liệu sản xuất. Các doanh
nghiệp trong các ngành
thâm dụng vốn như vậy
5. thường cần duy trì lượng
tiền mặt cần thiết trong một
thời gian dài hơn bởi vì
vòng quay tiền mặt của
chúng không thể nhanh như
các doanh nghiệp trong các
ngành khác.
Hơn thế nữa, nhà đầu tư
nên biết rằng các doanh
nghiệp trong các ngành sản
xuất, dịch vụ có tính chu kỳ
thì cần duy trì lượng tiền
mặt nhiều để vượt qua giai
đoạn đi xuống của chu kỳ
sản xuất. Ví dụ như Boeing
hay BMW, lượng cầu đối
với các mặt hàng này
thường tăng cao trong một
thời điểm nhất định của chu
kỳ kinh doanh và sau đó họ
lại phải đối mặt với giai
đoạn khác của chu kỳ khiến
cho lượng tiền mặt bị sụt
giảm nhanh chóng. Do đó,
đối với các doanh nghiệp
như vậy thì họ cần có một
lượng tiền mặt dự trữ nhiều
hơn mức cần thiết để đáp
ứng cho các nghĩa vụ ngắn
hạn của họ.
Nói như thế không có nghĩa
là bao giờ có nhiều tiền mặt
hơn mức lý thuyết đưa ra
6. cũng tốt. Một mức tiền mặt
cao thể hiện trong bảng cân
đối kế toán có thể khiến cho
nhà đầu tư đặt câu hỏi, nhất
là khi lượng tiền mặt đột
nhiên cao hơn mức bình
thường. Tại sao các nhà
quản trị lại để tiền mặt ở đó
mà không đem đi sử dụng?
Nhà đầu tư có quyền nghi
ngờ vì doanh nghiệp đã mất
các cơ hội đầu tư hoặc là
ban quản trị doanh nghiệp
quá yếu kém nên đã không
thể biết làm gì với lượng
tiền mặt đó. Việc để tiền
mặt trong doanh nghiệp quá
nhiều luôn có chi phí cơ hội.
Chi phí cơ hội của tiền mặt
trong trường hợp này được
hiểu là sự khác nhau giữa
nhau giữa lãi suất có được
khi nắm giữ tiền mặt (tiền
gửi không kỳ hạn ở ngân
hàng cũng được xem như là
tiền mặt) và cái giá phải trả
để có tiền mặt. Cái giá phải
trả để nắm giữ tiền mặt, đó
chính là chi phí sử dụng vốn
bình quân của doanh
nghiệp WACC. Nếu một
doanh nghiệp khi đầu tư
vào một dự án mới hoặc mở
rộng sản xuất có khả năng
7. tạo ra tỷ suất sinh lợi trên
vốn cổ phần là 20%, thì chi
phí cơ hội của việc nắm giữ
nhiều tiền mặt thật sự là
đắt. Bởi lãi suất cho tiền gửi
không kỳ hạn khó lòng đạt
tới 10%. Trong trường hợp
tỷ suất sinh lợi của dự án
thấp hơn mức chi phí sử
dụng vốn trung bình WACC
thì tiền mặt cũng không nên
giữ lại tại doanh nghiệp, mà
nên phân phối chúng lại cho
các cổ đông dưới hình thức
cổ tức hay mua lại cổ phần
của doanh nghiệp.
Mặc dù, khi các nhà quản trị
muốn gia tăng mức tiền mặt
trong doanh nghiệp luôn
đưa ra những lời giải thích
có vẻ như rất hợp lý : tiền
mặt nhiều có thể giúp doanh
nghiệp linh hoạt hơn và
thực hiện các phi vụ thâu
tóm một cách nhanh chóng
hơn. Thế nhưng bạn đừng
quên rằng với các doanh
nghiệp có lượng tiền mặt
nhiều hơn mức cần thiết mà
các lý thuyết đề nghị thì bạn
phải chú ý nhiều hơn đến
vấn đề đại diện.
8. Chi phí đại diện rất dễ xảy
ra trong tình huống này, các
nhà quản trị dễ dàng bị
“quyến rũ” bởi sức hút của
những toà biệt thự sang
trọng. Do vậy, các quản trị
cấp cao có thể sẽ thực hiện
những vụ thâu tóm lãng phí
và đầu tư vào các dự án
kém hiệu quả nhằm tranh
thủ tìm kiếm lợi ích cá nhân.
Do đó, nếu bạn là nhà đầu
tư, bạn hãy chú trọng nhiều
hơn đến các doanh nghiệp
xem việc dự trữ tìên mặt
như một chiến lược cho các
kế hoạch tái cấu trúc doanh
nghiệp.
Vì rất có thể rằng động cơ
bên trong đó chính là việc
tư lợi của các nhà quản trị.
Thậm chí trong tình huống
tệ hơn, các doanh nghiệp
có lượng tiền mặt quá dồi
dào giúp cho các nhà quản
trị giảm áp lực
money.jpgcho quá trình vận
hành doanh nghiệp. Họ
không bị sức ép phải tính
toán điều hành hợp lý nhất
để đáp ứng được các nghĩa
vụ ngắn hạn như các doanh
nghiệp chỉ có lượng tiền
9. mặt vừa phải theo mức cần
thiết.
Nên nhớ rằng, ngoài mức
tiền mặt cần thiết, bạn phải
cảnh giác với bất cứ một lý
giải nào cho việc tăng tiền
mặt trong doanh nghiệp. Thị
trường vốn luôn hiện hữu,
nếu cần huy động vốn cho
các dự án đầu tư tiềm năng
thì thị trường vốn luôn sẵn
sàng. Thị trường vốn với
những yêu cầu khắt khe, vì
thế doanh nghiệp sẽ thận
trong hơn trước các quyết
định đầu tư, và do đó sẽ
giảm được chi phí đại diện.
Thay lời kết
Để bảo vệ cho danh mục
đầu tư của bạn được an
toàn, nhà đầu tư nên xem
xét vị thế tiền mặt của
doanh nghiệp qua các lý
thuyết tài chính để tìm thấy
một mức tiền mặt hợp lý
trong doanh nghiệp. Đừng
quên xem xét yếu tố dòng
tiền tương lai, chu kỳ kinh
doanh, các kế hoạch chi
tiêu vốn, các nghĩa vụ phải
trả khẩn cấp và các nhu cầu
10. cần tiền mặt để chi trả khác
khi tính toán doanh nghiệp
thật sự cần lượng tiền mặt
là bao nhiêu?
Theo Saga.vn
III. Phân tích công
ty
1. Nội dung phân tích
a. Lĩnh vực kinh
doanh
Doanh nghiệp (DN) đó
đang sản xuất - kinh
doanh sản phẩm nào là
chủ yếu, thể hiện qua
tỷ trọng doanh thu và
lợi nhuận của sản phẩm
đó trên doanh thu và
lợi nhuận của DN. Biết
được lĩnh vực kinh
doanh chính của công
ty giúp NĐT có cái
nhìn rõ nét hơn về
những ảnh hưởng có
thể tác động tới DN
như môi trường kinh tế
vĩ mô, luật pháp, thiên
tai, đối thủ cạnh tranh...
b. Vốn và cơ cấu vốn
- Cơ cấu sở hữu vốn:
Nhà nước nắm bao
nhiêu phần trăm; cổ
đông chiến lược, cổ
đông tổ chức, cá nhân
nắm số lượng lớn; cổ
phiếu lưu hành, số cổ
phiếu bị hạn chế
chuyển nhượng. Thông
thường, một cổ phiếu
có nhiều cổ đông chiến
lược thì tốt trong dài
hạn và kỳ vọng của
11. NĐT tăng cao. Ngoài
ra, khi DN có tỷ lệ sở
hữu của Nhà nước và
cổ đông chiến lược lớn
thì số cổ phiếu đang
giao dịch trên thị
trường ít hơn nhiều so
với tổng số cổ phiếu,
điều này thường có lợi
cho giá cổ phiếu vì
lượng cung bị hạn chế.
- Vốn chủ sở hữu,
thặng dư vốn, lợi
nhuận: nếu một DN có
lợi nhuận lớn và tỷ lệ
vay nợ hiện tại cao thì
nhiều khả năng DN sẽ
tăng vốn để giảm bớt
chi phí vay. Hơn nữa,
nếu DN có vốn chủ sở
hữu lớn hơn nhiều so
với vốn điều lệ thì điều
đó dễ dàng làm cho
EPS của cổ phiếu đó
tăng cao.
- Quá trình tăng vốn
của DN: cần tìm hiểu
vốn hiện tại cũng như
nhu cầu tăng vốn trong
thời gian tới vì ở Việt
Nam, có một thực tế là
cả trước và sau khi DN
tăng vốn thì giá cổ
phiếu thường biến
động khá mạnh.
c. HĐQT, Ban giám
đốc, Ban kiểm soát
- HĐQT bao gồm
những ai, tỷ lệ vốn góp
của họ; chiến lược đề
ra có vì quyền lợi của
cổ đông, liệu có sự
phân biệt đối xử giữa
cổ đông tổ chức và cổ
đông nhỏ lẻ.
12. - Số lượng cổ phiếu
nắm giữ của thành viên
HĐQT, Ban giám đốc,
Ban kiểm soát và
những người liên quan:
nếu số lượng nắm giữ
cổ phiếu càng lớn thì rõ
ràng là họ đều đặt niềm
tin vào khả năng tăng
trưởng của cổ phiếu và
đó là tín hiệu tốt. Còn
khi họ bán ra với số
lượng lớn thì thường
đó là tín hiệu xấu.
d. Chỉ số tài chính
Doanh thu thuần, lợi
nhuận, ROA, ROE,
EPS, P/E, cơ cấu nợ và
đòn bẩy tài chính, cổ
tức và chính sách cổ
tức... Cần so sánh các
chỉ số đó với các DN
khác cùng ngành và
mức bình quân của
ngành để thấy rõ được
ưu - nhược điểm của
DN. NĐT nên xây
dựng cho mình bảng
chỉ số tài chính cho các
nhóm ngành để từ đó
có cái nhìn sâu sắc và
toàn diện hơn, so sánh
chỉ số của các nhóm
ngành đó với mức bình
quân toàn thị trường.
e. Thương hiệu, sản
phẩm và hệ thống
phân phối - dịch vụ
Thực tế cho thấy, DN
có thương hiệu và sản
phẩm uy tín trên thị
trường cùng với hệ
thống phân phối và
dịch vụ tốt thì giá cổ
phiếu của DN thường ở
13. mức cao hơn so với
mặt bằng chung. Một
số DN tạo dựng được
uy tín trên thị trường
trong và ngoài nước, có
những đối tác chiến
lược thì giá cổ phiếu ổn
định và tăng trưởng
bền vững hơn những
DN nhỏ chưa gây dựng
được thương hiệu, uy
tín cho riêng mình.
f. Giao dịch của nhà
ĐTNN và các tổ chức
lớn
Nhà ĐTNN thường
mua vào những cổ
phiếu có tiềm năng
tăng trưởng trong dài
hạn, và các tổ chức
cũng như cá nhân trong
nước vẫn thường quan
sát các động tĩnh của
nhà ĐTNN. Việc đầu
tư ngắn hạn trên những
cổ phiếu thuộc diện
đầu tư dài hạn đem lại
cảm giác ít rủi ro hơn,
nhất là khi cổ phiếu đó
có các tổ chức nước
ngoài nắm giữ với khối
lượng lớn và đang tiếp
tục mua thêm.
2. Các chỉ số tài chính
và ý nghĩa
Thông thường phân tích
cơ bản áp dụng một số
nhóm chỉ tiêu tài chính
chủ yếu như sau:
a/ Nhóm chỉ tiêu phản
ánh khả năng thanh
toán
Tổng
14. tài sản lưu động và đầu
tư ngắn hạn
+ Hệ số thanh toán
ngắn hạn =
-------------------------------
-----------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho ta thấy khả
năng thanh toán ngắn hạn
của doanh nghiệp, cho
biết tỷ lệ các khoản nợ
ngắn hạn của doanh
nghiệp được trả bằng các
tài sản tương đương với
thời hạn được cho vay
các khoản nợ đó.
( Tổng
tài sản lưu đông - Hàng
tồn kho )
+ Hệ số thanh toán
nhanh =
---------------------
-------------------------------
----
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả
năng đáp ứng việc thanh
toán nợ ngắn hạn vì
doanh nghiệp dễ dàng
chuyển từ tài sản lưu
động thành tiền mặt.
Hệ số này nói lên việc
công ty có khả năng đáp
ứng việc thanh toán nợ
ngắn hạn vì công ty
không gặp khó khăn nào
trong việc chuyển từ tài
sản lưu động khác về tiền
mặt.
Hệ số này > 1 thì được
đánh giá là an toàn vì
15. công ty có thể trang trải
các khoản nợ ngắn hạn
mà không cần đến các
nguồn thu hay doanh số
bán.
Đây là hệ số phản ánh sự
chắc chắn nhất khả năng
của công ty đáp ứng
nghĩa vụ nợ hiện thời. Hệ
số này càng cao thì càng
được đánh giá tốt.
b/ Nhóm chỉ tiêu phản
ánh cơ cấu tài chính và
cơ cấu tài sản
Nhóm chỉ tiêu này phản
ánh tính trạng nợ hiện
thời của doanh nghiệp có
tác động đến nguồn vốn
hoạt động và luồng thu
nhập thông qua chi trả
vốn vay và lãi suất khi
đáo hạn. Tình trạng nợ
của doanh nghiệp thể
hiện qua hệ số nợ, hệ số
thu nhập trả lãi định kỳ,
hệ số trang trải chung. Cụ
thể:
Tổng số nợ
+ Hệ số nợ =
----------------------
Tổng tài sản
Hệ số này cho biết cứ sử
dụng một đồng vốn kinh
doanh thì có bao nhiêu
đồng vay nợ
Nguồn vốn
chủ sở hữu
+ Hệ số nợ tự tài trợ =
---------------------
---------------
16. Tổng nguồn
vốn
Hệ số này phản ánh mức
độ độc lập hay phụ thuộc
về tình trạng nợ của
doanh nghiệp. Tỷ suất
này càng cao càng đảm
bảo an toàn cho các món
nợ.
Tổng tài sản lưu động
và đầu tư ngắn hạn
+ Cơ cấu tài sản =
---------------------
-------------------------------
---------------
Tổng tài sản cố định và
đầu tư dài hạn
Cơ cấu tài sản cho biết tỷ
lệ tài sản cố định và tài
sản lưu động trong tổng
tài sản như thế nào. Cơ
cấu này cũng tùy thuộc
vào từng loại hình kinh
doanh của doanh nghiệp.
Mỗi một đơn vị khác
nhau hoặc ở mỗi thời
điểm khác nhau thì hệ số
này khác nhau. Thông
thường người để đánh
giá, người ta dùng cơ cấu
tài sản của ngành để làm
chuẩn mực so sánh.
c/ Nhóm chỉ tiêu phản
ánh khả năng hoạt động
Hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp luôn
gắn liều với sự tồn tại và
phát triển của một doanh
nghiệp. Do đó qua phân
tích các chỉ tiêu phản ánh
hoạt động chúng ta biết
trình độ sử dụng các
nguồn lực của doanh
nghiệp có đạt kết quả cao
17. nhất với chi phí bỏ ra là ít
nhất hay không. Cụ thể:
Giá vốn hàng bán
+Số vòng quay hàng tồn
kho =
---------------------
-------------------------
Hàng
tồn kho bình quân
trong kỳ
Vòng quay hàng tồn kho
là số lần mà hàng hóa tồn
kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Chỉ số
này càng cao càng được
đánh giá là tốt vì tiền đầu
tư cho hàng tồn kho thấp
mà vẫn đạt hiệu quả cao
tránh được tình trạng ứ
đọng vốn. Nếu chỉ số này
thấp chứng tỏ hàng tồn
kho nhiều, sản phẩm
không tiêu thụ được.
Ngoài ra, chỉ tiêu này
cũng phụ thuộc vào lĩnh
vực và ngành nghề kinh
doanh.
Doanh thu
thuần
+ Số vòng quay các
khoản phải thu =
-------------------------------
-----------------
Số dư bình quân
các khoản phải thu
Chỉ tiêu này phản ánh tốc
độ chuyển các khoản
phải thu thành tiền mặt.
Vòng quay càng lớn
chứng tỏ tốc độ thu hồi
18. các khoản phải thu nhanh
và ngược lại.
Doanh thu thuần
+Vòng quay vốn lưu
động =
---------------------
---------------
Vốn lưu động
bình quân
Chỉ tiêu này có ý nghĩa
cứ bình quân sử dụng 1
đồng vốn lưu động trong
kỳ sẽ tạo ra được bao
nhiêu đồng doanh thu
thuần. Nếu hệ số càng
lớn thì hiệu quả sử dụng
vốn lưu động càng cao và
ngược lại.
Doanh thu thuần
+ Hiệu suất sử dụng
vốn cố định =
---------------------
---------------
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này để đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn cố
định có nghĩa là khi đầu
tư trung bình một đồng
vốn cố định thì tạo ra bao
nhiêu đồng doanh thu
thuần.
Doanh thu
thuần
19. + Vòng quay toàn bộ
vốn =
-------------------------------
-------
Vốn
sản xuất bình quân
Chỉ tiêu này cho nhà đầu
tư thấy cứ 1 đồng vốn sử
dụng bình quân tạo ra
bao nhiêu đồng doanh
thu thuần hay vốn của
doanh nghiệp trong kỳ
quay được bao nhiêu
vòng.
d/ Nhóm khả năng sinh
lời
Với các nhà đầu tư thì
nhóm chỉ tiêu này có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng
vì nó gắn liền với lợi ích
kinh tế của nhà đầu tư.
Nó đánh giá kết quả hoạt
động kinh doanh của 1 kỳ
và là căn cứ để nhà đầu
tư đưa ra các quyết định
trong tương lai.
Hệ số này cho biết mức
độ hiệu quả khi sử
dụng các yếu tố đầu
vào trong quá trình
hoạt động của doanh
nghiệp.
Hệ số lợi nhuận cao có
nghĩa là quản lý chi phí
có hiệu quả hay nghĩa
là doanh thu tăng
nhanh hơn chi phí hoạt
động, điều đó rất có lợi
cho quá trình hoạt động
của doanh nghiệp.
Hệ số lợi nhuận ròng
phản ánh khoản thu
nhập ròng của một
công ty so với doanh
thu của nó.
20. Trên thực tế mức lợi
nhuận ròng giữa các
ngành là khác nhau,
còn trong bản thân 1
ngành thì công ty nào
quản lý và sử dụng yếu
tố đầu vào tốt hơn thì
sẽ có hệ số lợi nhuận
cao hơn.
Hiện nay, trong phân tích
cơ bản một cổ phiếu,
nhóm chỉ số này hầu như
không thể thiếu. Cụ thể:
Lợi nhuận
sau thuế
+ Hệ số lợi nhuận ròng
=
---------------------
---------------
Doanh thu
thuần
Hệ số này phản ánh
khoản thu nhập sau thuế
của một doanh nghiệp so
với doanh thu của nó. Hệ
số này càng cao thì càng
tốt vì nó phản ánh hiệu
quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Lợi
nhuận sau thuế
+ Tỷ suất lợi nhuận
trên tổng tài sản
( ROA )=
---------------------
-------------------
Tổng
tài sản
Tỷ suất lợi nhuận trên
tổng tài sản là hệ số tổng
21. hợp được dùng để đánh
giá khả năng sinh lời của
một đồng vốn đầu tư. Chỉ
số này cho biết cứ một
đồng tài sản thì doanh
nghiệp sẽ tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận và
đồng thời chỉ số này cũng
đánh giá hiệu suất sử
dụng tài sản của doanh
nghiệp.Hệ số này càng
cao thì cổ phiếu càng có
sức hấp dẫn hơn vì hệ số
này cho biết khả năng
sinh lời từ chính nguồn
tài sản hoạt động của
doanh nghiệp.
Lợi
nhuận sau thuế
+ Tỷ suất lợi nhuận
trên vốn tự có ( ROE )
=
---------------------
------------------
Vốn
chủ sở hữu
Hệ số này cho biết một
đồng vốn tự có tạo ra
được bao nhiêu đồng lợi
nhuận. ROE càng cao thì
khả năng cạnh tranh của
một doanh nghiệp càng
mạnh và cổ phiếu của
doanh nghiệp càng hấp
dẫn.
e/ Các chỉ sổ về cổ phiếu
Đây là nhóm chỉ số tính
cụ thể cho cổ phiếu của
doanh nghiệp, cũng là
nhóm chỉ số được các
nhà đầu tư đặc biệt quan
tâm.
22. Lợi nhuận ròng - Cổ
tức ưu đãi
+ Thu nhập trên mỗi cổ
phiếu ( EPS) =
----------------
------------------------------
Số lượng cổ phiếu phổ
thông
Chỉ số này cho biết nhà
đầu tư sẽ được hưởng lợi
nhuận trên mỗi cổ phần
mà họ đang nắm giữ là
bao nhiêu. Chỉ số này
càng cao thì càng được
đánh giá tốt vì đấy chính
là khoản thu nhập nhà
đầu tư có được khi đầu tư
vào mỗi cổ phiếu.
Giá thị
trường
+ Giá trên thu nhập của
cổ phiếu (P/E) =
-------------------------------
--------------
Thu nhập của
mỗi cố phiếu
Hệ số P/E đo lường
mối quan hệ giữa giá
thị trường và thu nhập
trên mỗi cổ phiếu. P/E
cho thấy giá cổ phiếu
hiện tại cao hơn thu
nhập từ cổ phiếu đó
bao nhiêu lần, hay nhà
đầu tư phải trả bao
nhiêu đồng cho một
đồng thu nhập. Hệ số
P/E rất có ích cho việc
định giá cổ phiếu. P/E
23. cao có nghĩa là người
đầu tư dự kiến công ty
sẽ tăng trưởng nhanh
và cổ tức sẽ tăng cao
trong tương lai. Hệ số
này đo lường tỷ lệ phần
trăm lợi nhuận ròng trả
cho cổ đông phổ thông
dưới dạng cổ tức. hệ số
này càng cao thì cổ
phiếu đó càng nhận
được sự quan tâm của
các nhà đầu tư, bởi lẽ
họ sẽ được trả mức cổ
tức cao cho mỗi cổ
phiếu nắm giữ. Hệ số
này thể hiện tỷ lệ giữa
mức cổ tức chi trả so
với giá trị thị trường
hiện thời của cổ phiếu,
nó phản ánh lợi tức
mong đợi của nhà đầu
tư khi mua một loại cổ
phiếu tại thời điểm
hiện tại. Nếu tỷ lệ này
càng cao thì càng được
các nhà đầu tư quan
tâm.
Hệ số P/E đo lường
mối quan hệ giữa giá
thị trường và thu nhập
trên mỗi cổ phiếu. P/E
cho thấy giá cổ phiếu
hiện tại cao hơn thu
nhập từ cổ phiếu đó
bao nhiêu lần, hay nhà
đầu tư phải trả bao
nhiêu đồng cho một
đồng thu nhập. Hệ số
P/E rất có ích cho việc
định giá cổ phiếu. P/E
cao có nghĩa là người
đầu tư dự kiến công ty
sẽ tăng trưởng nhanh
và cổ tức sẽ tăng cao
trong tương lai. Hệ số
24. này đo lường tỷ lệ phần
trăm lợi nhuận ròng trả
cho cổ đông phổ thông
dưới dạng cổ tức. hệ số
này càng cao thì cổ
phiếu đó càng nhận
được sự quan tâm của
các nhà đầu tư, bởi lẽ
họ sẽ được trả mức cổ
tức cao cho mỗi cổ
phiếu nắm giữ. Hệ số
này thể hiện tỷ lệ giữa
mức cổ tức chi trả so
với giá trị thị trường
hiện thời của cổ phiếu,
nó phản ánh lợi tức
mong đợi của nhà đầu
tư khi mua một loại cổ
phiếu tại thời điểm
hiện tại. Nếu tỷ lệ này
càng cao thì càng được
các nhà đầu tư quan
tâm. Tuy nhiên cũng cần
so sánh với P/E của các
cổ phiếu cùng ngành để
xác định mức kỳ vọng đó
có hợp lý không.
Tổng tài sản - Tổng số nợ -
Cổ phiếu ưu đãi
+ Giá trị sổ sách của cổ
phiếu phổ thông=
-------------------------------
------------------------
Số cổ phiếu
phổ thông
Chỉ tiêu này dùng để xác
định giá trị của một cổ
phiếu theo số liệu trên sổ
sách để so sánh với giá trị
thị trường của cổ phiếu.
25. Tìm hiểu TT
cà phê –
Phần 4:
Những tác
động xấu
khi giá
tăng
Ngày: 01/11/2010, 18:00
Chữ lớn Chữ nhỏ Phản hồi
(18)
•
•
•
Có lẽ mới đọc tiêu đề các
bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên
khi nghe nói tác động xấu
khi giá tăng, bởi chúng ta
ai cũng mong giá tăng
cho bà con nông dân nhờ
chứ ít khi nghe nói ngược
lại. Tuy nhiên, sẽ không
tốt tý nào nếu giá tăng
mạnh khi mà những nhà
kinh doanh trước đó đã
bán khống.
26. Bây giờ mời các bạn cùng
nghiên cứu một kịch bản ví
dụ với những chi tiết sau
đây:
• Trong thời điểm
khoảng tháng 8
hay 9/2010, có
một số doanh
nghiệp bán kỳ hạn
giao hàng tháng
11/2010 với giá trừ
lùi 120USD/tấn,
giao FOB Hồ Chí
Minh, vì họ nhận
định rằng đến
tháng 11 này là bắt
đầu vào thu hoạch
cho nên giá có khả
năng giảm.
• Bắt nguồn từ suy
nghĩ giá sẽ giảm
trong tháng 11 cho
27. nên đã có một số
doanh nghiệp chốt
giá (fix) trong
những thời điểm
trước đó, ví dụ họ
đã chốt giá $1.600
– 120 = $1.480/tấn.
Trong thời gian qua chúng
ta đã chứng kiến giá khi
tăng khi giảm, nhưng giảm
thì một bước mà tăng thì hai
ba bước. Và đến hôm nay
những doanh nghiệp đó bắt
đầu đến thời hạn giao cho
nên phải mua hàng vào.
Chúng ta cũng đã dễ dàng
thấy giá hiện nay là
33.800đ+tiền bao+tiền vận
chuyển đến cảng+chế
biến… thì sẽ tầm vào
khoảng 34.350đồng/kg. Số
tiền này tương đương với
$1.760/tấn, có nghĩa là
đang lỗ khoảng $280/tấn
hay khoảng 5,4 triệu
đồng/tấn.
Không những thế, họ còn
gặp một khó khăn thứ hai là
sẽ khó mua được hàng từ
nông dân vào thời điểm
này, vì người dân có xu
hướng giữ hàng lại khi thấy
giá tăng. Ở trong hoàn cảnh
này thì họ cũng giống như
đang trong tình trạng xin
được chết mà không chết
được vậy.
Để thoát ra khỏi tình trạng
bán sống bán chết này trên
thị trường cà phê (và cũng
chung cho các thị trường
dạng chứng khoán) có một
cách xin được chết với thuật
ngữ là wash-out, tôi xin tạm
dịch sang tiếng Việt là rũ
bỏ.
Trong trường hợp trên,
công việc wash-out sẽ là
thông qua những nhà môi
giới hay người mua hàng
của mình, người bán sẽ ra
lệnh mua hàng theo kiểu
bám đuổi diễn tiến thị
trường để mua lại cho đủ số
mà trước đây mình đã ký
28. bán, để mà lấy số hàng đó
giao cho người mua của
mình, nếu không muốn bị
mang tiếng phá ngang hợp
đồng hay nôm na gọi là xù
hợp đồng (default). Ôi đau
khổ cho cái nghề kinh
doanh cà phê của chúng ta,
nhiều khi bệnh sĩ chết trước
bệnh tim.
Khi mà một nước đứng
hàng thứ hai trên thế giới về
xuất khẩu cà phê có nhiều
nhà kinh doanh cùng rơi
vào cái thế rượt theo cái giá
mua trên thị trường thế giới
(bây giờ chạy sang đi mua
lại chứ không còn là bán
nữa đâu nhé) để mà có
hàng giao thì giá thị trường
sẽ tăng lên ảo, ai là người
muốn tăng giá lúc này? Xin
thưa, không loại trừ đó là
những người trước đây đã
đi mua hàng của chúng ta
đấy.
Tôi viết bài này không chỉ nhằm mục đích để
chúng ta cùng tìm hiểu khơi khơi về thị trường cà
phê để mà hí luận với nhau cho vui, mà còn với
mong ước đưa ra một vấn đề để bà con nông
dân cùng thông cảm với các doanh nghiệp kinh
doanh cà phê của chúng ta. Thật là cũng không
dễ dàng gì để lèo lái con thuyền doanh nghiệp
khi mà chúng ta sẽ thấy họ giá lên cũng chết mà
giá xuống cũng chết, thuyền càng to thì sóng
càng lớn. Thử hỏi không có những nhà doanh
nghiệp thì ai sẽ đưa cà phê ra thị trường thế
giới?
Qua điểm này tôi cũng
mong những nhà hoạch
định kinh tế, những nhà
nghiên cứu vĩ mô với sở
học của mình có thể nghiên
cứu giải pháp định hướng
chiến lược cho ngành cà
phê nước ta.
Nhìn vào bảng cân đối tài
sản doanh nghiệp thì bên
tay trái là tài sản có, bên
tay phải là nguồn gốc tạo
ra tài sản có: gồm nợ (các
loại) và vốn chủ sỡ hữu
cùng với lợi nhuận được
giữ lại của chủ sỡ hữu. Tỷ
29. lệ giữa nợ và vốn chủ sỡ
hữu gọi là cấu trúc vốn.
Phần đông doanh nghiệp
chúng ta, nhất là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nhìn
nhận về tỷ lệ này khá đơn
giản. Thường thì chúng ta
tự nhẩm tính khi nào thì
nên mượn nợ, khi nào thì
kêu gọi thêm vốn chủ sỡ
hữu. Dĩ nhiên những tính
tóan đó phần nào cũng có
“lý” của người quyết định.
Tuy vậy, nếu chúng ta
biết rằng, việc xác định
một cấu trúc vốn để đạt
hiệu quả cao nhất cho
một doanh nghiệp là một
vấn đề lớn, rất quan trọng
trong tài chánh doanh
nghiệp, làm tốn không
biết bao nhiêu bút mực
của giới học thuật lẫn các
nhà quản lý tài chánh kinh
nghiệm, thì có lẽ chúng ta
sẽ bỏ nhiều thời gian
nghiên cứu và sẽ thận
trọng hơn trong quyết
định của mình.
Nợ: Ưu và khuyết điểm
Một trong những ưu điểm
lớn nhất của việc dùng nợ
thay cho vốn chủ sỡ hữu
đó là lãi suất mà doanh
nghiệp phải trả trên nợ
được miễn thuế. Tong khi
đó thì cổ tức hay các hình
thức thưởng khác cho chủ
sỡ hữu phải bị đánh thuế.
Trên nguyên tắc mà nói,
nếu chúng ta thay vốn
chủ sở hữu bằng nợ thì sẽ
giảm được thuế doanh
nghiệp phải trả, và vì thế
tăng giá trị của doanh
nghiệp lên. Một điều cần
lưu ý, với những nước mà
nhà đầu tư phải trả thuế
thu nhập cá nhân với mức
cao thì ưu điểm này của
nợ sẽ bị giảm hay trở
thành yếu điểm.
Ưu điểm thứ hai của nợ,
đó là thông thường nợ rẻ
hơn vốn chủ sỡ hữu. —
nói đơn giản là lãi suất
ngân hàng, hay lãi suất
trái phiếu thấp hơn nhiều
30. soi với lãi suất kỳ vọng
của nhà đầu tư. Do đó khi
tăng nợ tức là giảm chi
phí chi ra trên một đồng
tiền mặt và vì thế tăng
cao lợi nhuận, cũng như
gía trị của công ty. Vì tính
chất này mà tỷ số nợ trên
vốn chủ sỡ hữu còn được
gọi là tỷ số đòn bẩy.
Tuy vậy doanh nghiệp
không thể tăng nợ lên
mức quá cao so với chủ sỡ
hữu. Khi đó công ty sẽ rơi
vào tình trạng tài chánh
không lành mạnh, và dẫn
đến những rủi ro khác mà
chúng ta sẽ bàn trong
những phần sau.
Vốn: Ưu và khuyết điểm
Một trong những điểm
không thuận lợi của vốn
chủ sỡ hữu đó là giá
thành (hay chi phí) của nó
cao hơn chi phí của nợ. Dĩ
nhiên rồi, vì không người
đầu tư nào bỏ tiền đầu tư
vào công ty gánh chịu
những rủi ro về họat động
và kết quả kinh doanh của
công ty mà lại chịu nhận
tiền lãi bằng lãi suất cho
vay nợ. Việc này cùng với
tính chất không được
miễn trừ thuế làm cho chi
phí vốn càng cao hơn.
Việc này này dẫn tới một
điểm không thuận lợi
khác, là khi vốn chủ sỡ
hữu càng cao, số lượng
người chủ sỡ hữu càng
nhiều, thì áp lực về kỳ
vọng của nhà đầu tư cũng
như sự quản lý, giám sát
của họ lên các nhà điều
hành công ty càng lớn.
Tuy vậy vốn chủ sỡ hữu
sẽ vẫn phải tăng khi công
ty cần tiền. Tăng để cân
bằng với nợ và giữ cho
công ty ở trong tình trạnh
tài chánh lành mạnh. Một
lý do để các nhà đầu tư
tăng vốn nữa là khi thị
trường định giá cổ phiếu
của nó cao hơn giá trị nội
tại (overprice). Phát hành
31. vốn trong trường hợp đó
sẽ tạo ra lợi nhuận tài
chánh cho công ty, và
thực chất là tăng phần lãi
nhuận cho những nhà đầu
tư hiện hữu.
Nợ giúp cho các nhà điều
hành thận trọng hơn khi
đầu tư:
Thực tế từ các thị trường
cho thấy, đối với các công
ty dồi dào tiền mặt, và
không có khả năng tăng
trưởng nhanh, các nhà
quản lý hay có khuynh
hướng đầu tư tiền vào
những dự án “ồn ào”
nhưng không hiệu quả,
hoặc dùng tiền, tăng chi
phí để tạo ra tăng trưởng.
Dĩ nhiên những đồ án này
không tạo ra giá trị cao
cho công ty. Thuật ngữ tài
chánh gọi việc này là
overinvestment — đầu tư
thái quá. Nếu công ty
không có hội đồng quản
trị giám sát chặt chẽ thì
hiệu ứng đầu tư thái quá
này này sẽ xảy ra nhiều.
Nhưng nếu công ty mượn
nợ để tài chánh cho
những khoản đầu tư, thì
việc phải trả lãi định kỳ,
cũng như trả vốn theo
định kỳ sẽ ngăn, hoặc
giảm việc đầu tư thái quá
này.
Nợ tạo ra chi phí “hao
mòn’ doanh nghiệp và
phá sản
Tỷ lệ nợ cao sẽ dẫn đến
nguy cơ phá sản. Một
công trình nghiên cứu tại
Mỹ cho thấy chi phí phá
sản chiếm khỏan 3% thị
giá của tất cả các công ty
niêm yết. Nghiên cứu còn
cho thấy chi phí “hao
mòn” doanh nghiệp (cost
of business erosion) còn
cao và nghiêm trọng hơn
nhiều. Những công ty có
tỷ lệ nợ cao, sẽ "nhát tay”
trong việc nắm bắt những
cơ hội đầu tư. Chúng cũng
có khuynh hướng giảm
bớt những chi phí tạo ra
32. hiệu quả trong tương lai
như chi phí nghiên cứu và
phát triển, huấn luyện,
xây dựng thương hiệu.
Kết quả là những doanh
nghiệp này đã bỏ qua
những cơ hội để tăng giá
trị của doanh nghiệp. Mức
nợ cao còn dẫn đến những
nguy cơ mất khách hàng,
nhân viên và nhà cung
cấp. Nguy cơ càng cao
hơn khi sản phẩm của
công ty có vòng đời phục
vụ và bảo hành lâu dài.
Một ví dụ rõ nhất là công
ty xe hơi Chrysler đã bị
giảm 40% doanh số khi
phải đối diện nguy cơ phá
sản vì nợ nần vào năm
1979.
Ngoài ra công ty có mức
nợ cao còn tạo ra sự mâu
thuẫn giữa các chủ nợ và
nhà đầu tư khi công ty
sắp phải ngừng họat động
để trả nợ. Khi có nguy cơ
đó xảy ra, các nhà đầu tư
“khôn ngoan” sẽ tìm cách
đầu tư dưới mức —
underinvestment. Tức là
họ sẽ tập trung đầu tư
vào nhhững dự án, rủi ro
cao, tạo ra giá trị thấp
trong tương lai, nhưng có
thể đem lại tiền mặt để có
thể chia dưới dạng cổ tức
ngay lúc này. Trong khi
đó những chủ nợ lại muốn
công ty đầu tư vào những
dự án ít rủi ro và tạo được
giá trị cao trong tương lai.
Và mâu thuẫn vì thế phát
sinh.
Theo Nhịp cầu đầu tư
truyen
10-11-07, 04:12 PM
Gửi Dat2007,
Đọc bài giảng phân tích tài chính DN cua bạn, tôi thấy rất hay. Tuy nhiên tôi cũng có một vài góp ý:
- Phần phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho HDSXKD: Bạn nên đưa thêm ví dụ vào,
- Phần phân tích lưu chuyển tiền tệ: Tôi thấy bạn phân tích mới chỉ dựa trên bảng lưu chuyển tiền tệ theo
PP trực tiếp, bạn nên nghiên cứu phân tích dựa trên cả bảng lưu chuyển theo PP gián tiếp.
Chúc bạn hoàn thiện bài giảng của minh và cảm ơn bạn đã gửi để tôi có cơ hội được đọc bài giảng của
bạn. Mong nhận được phần tiếp theo của bạn.
Truyền
hieunguyena
33. 05-08-08, 10:51 AM
Bài viết của Bạn hay
nhưng còn 1 số điều mình
muốn góp ý :
1/Về lí thuyết :
+ưu điểm : bạn nói rõ
hơn ưu điểm dành cho
nhà đầu tư, ngân hàng,
chủ nợ …
+hạn chế của phân tích
tài chính DN, xét theo
nghĩa hẹp là phân tích
BCTC có hạn chế gì, nhất
là trong thời kỳ kinh
doanh cổ phiếu người ta
chỉ được biết công ty qua
các số liệu phân tích? có
thể do số liệu trong BCTC
bị bóp mép theo ý chủ
quan của Ban Giám Đốc
hay trình độ hạn chế của
kiểm toán viên, hay do họ
lách đúng luật,đúng chuẩn
mực kế toán…(VD :Công
ty CP Bông Bạch Tuyết lỗ
2 năm liền nhưng kiểm
toán trước đó vẫn kiểm
toán lãi, hoạt động có
hiệu quả…trong khi đó
công ty kinh doanh kém
hiệu quả,nợ quá hạn
nhiều và có nguy cơ bị
phát mãi tài sản thế chấp
tại ngân hàng? gần đây
các nhà đầu tư chới với
khi biết tin )…
2/Về phần phân tích :
a/Phân tích tình hình lưu
chuyển tiền tệ của DN bạn
nên đưa các chỉ tiêu phân
tích
hệ số khả năng trả ngắn
hạn và hệ số trả lãi vào
phần phân tích tình hình
thanh toán(2.7), vì khi
ngân lưu từ HĐKD/ nợ
ngắn hạn >0 :tốt, DN đủ
khả năng trả nợ từ ngân
lưu từ HĐKD;còn hệ số
này <0: xấu, cực xấu
b/nếu bạn muốn phân tích
tình hình lưu chuyển tiền
tệ của DN thì nên phân
tích ngân lưu từ hoạt động
kinh doanh,hoạt động đầu
tư,hoạt động tài
chính,tổng ngân lưu ròng
xem xét từng giai đoạn
thứ tự --+,+-+,++-,++-
Qua đó thấy được DN
đang phát triển, mở rộng,
hay đã phát triển đỉnh
34. cao,hay bắt đầu đi
xuống…
Bạn viết thêm phần
hướng dẫn lập lưu chuyển
tiền tệ theo phương pháp
trực tiếp
theo thực thu thực chi,hay
gián tiếp, theo quan điểm
tổng đầu tư, chủ sở hữu…
c/hệ số thanh toán ngắn
hạn thường >1
trừ siêu thị <1 : vay ngắn
hạn đầu tư dài hạn
d/Bạn viết bổ sung thêm
công thức tổng quát
Dupont để thấy được hệ
số vòng quay tài sản, hệ
số đòn bẩy tài chính…
thêm chỉ tiêu
EPS,P/E,P/B…
c/Bạn hướng dẫn sinh
viên tự phân tích các
BCTC các công ty cổ phần
qua web để tập quen dần
với thực tế, vì giữa lí
thuyết và thực tế có
khoảng cách xa
www.hastc.org.vn;www.a
cbs.com.vn
(http://www.hastc.org.vn;
www.acbs.com.vn...)...
http://i214.photob
ucket.com/albums
/cc319/dat2007gp
e/Cs1.jpg
http://i214.photob
ucket.com/albums
/cc319/dat2007gp
e/Cs2.jpg
http://i214.photob
ucket.com/albums
/cc319/dat2007gp
e/Cs3.jpg
Quản lý chi phí trong doanh nghiệp
Gửi email Bản in
Trấn Trung 02:16' PM - Thứ hai, 02/06/2008
Quản lý chi phí là
một phần của các
35. chiến lược tăng
trưởng kinh doanh
nhằm không những
cắt giảm chi phí
mà còn tạo ra các
ưu thế cạnh tranh
rõ rệt trên thị
trường.
Nếu không có kiến
thức cơ bản về
quản lý chi phí, thì
bạn không thể nào
nhận biết được tình
hình thực tế của
những dự án đầu
tư, các kế hoạch
kinh doanh cũng
như thực trạng hoạt
động của công ty.
Việc tìm giải pháp
tài chính tối ưu cho
chiến lược phát
triển bền vững
trong thời kỳ hậu
hội nhập luôn là
vấn đề nan giải
nhất đối với các
DN nhỏ và vừa
hiện nay. Vì vậy,
theo các chuyên
gia, một trong
những “nước cờ”
mà DN nào cũng
phải tính đến là
việc quản lý và tiết
kiệm chi phí ngày
một hiệu quả hơn
để sản phẩm, dịch
vụ của mình ngày
càng có chất lượng,
giá cả phù hợp hơn
với khách hàng.
36. Xác định chi phí
trong doanh
nghiệp
Tổng chi phí trong
doanh nghiệp bao
gồm chi phí lao
động trực tiếp, chi
phí nguyên vật
liệu trực tiếp và
chi phí chung.
1. Chi phí lao
động trực
tiếp: Là tiền
lương và
các khoản
liên quan trả
cho công
nhân lao
động trực
tiếp mà
chúng có
thể được
phân bổ
toàn bộ theo
lượng thời
gian đã sử
dụng để tạo
ra một đơn
vị sản phẩm
hoặc để
cung cấp
một dịch vụ
cụ thể.
2. Chi phí
nguyên vật
liệu trực
tiếp bao
gồm:
• Giá mua
nguyên vật
liệu;
• Chi phí tồn
trữ;
37. • Chi phí đặt
hàng;
• Tổn thất do
thiếu hụt
nguyên vật
liệu tồn trữ;
3. Chi phí chung
bao gồm: chi phí
sản xuất chung, chi
phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh
nghiệp.
Chi phí có thể
được xác định là:
• Chi phí biến
đổi: là tổng
của chúng
thay đổi tỉ
lệ thuận với
mức sản
lượng;
• Chi phí cố
định: Là chi
phí không
thay đổi khi
mức sản
lượng thay
đổi.
Kiểm soát chi phí
trong doanh
nghiệp
Người quản lý
doanh nghiệp cần
phải nắm các
thông tin về chi
phí để ra quyết
định. Tính toán,
kiểm soát chi phí
giúp doanh nghiệp
38. kiểm soát ngân
quỹ và tính giá
thành sản phẩm
hoặc dịch vụ. Việc
kiểm soát chi phí
của DN không chỉ
là bài toán về giải
pháp tài chính, mà
còn là giải pháp về
cách dùng người
của nhà quản trị.
Đây chính là vấn
đề sống còn của
DN trong thời kỳ
hội nhập.
Hiện nay, giải pháp
thông thường mà
các DN áp dụng là
cắt giảm các khoản
chi phí, duyệt gắt
gao từng khoản chi
và liên tục nhắc
nhởnhân viên tiết
kiệm chi phí.. Tuy
nhiên, cuối cùng,
hiệu quả kiểm soát
chi phí vẫn không
đạt được như mong
đợi của DN và
nhân viên cho là
giám đốc “keo
kiệt”. Đặc biệt, vấn
đề DN, nhất là
những công ty quy
mô nhỏ, thường
hay gặp phải hiện
nay là sự nhầm lẫn
giữa việc kiểm soát
chi phí với cắt giảm
chi phí và sự lúng
túng trong xây
dựng ý thức tiết
kiệm ở nhân viên.
Điều này dẫn đến
39. một hệ quả không
hay là, DN thường
phải loay hoay tốn
nhiều thời gian giải
quyết phát sinh chi
phí ngoài ý muốn.
Từđó, khoảng cách
giữa lãnh đạo và
nhân viên ngày
càng xa.
Chi phí chỉ có thể
được kiểm soát khi
DN tuân thủ theo
các bước kiểm soát
chi phí sau đây.
Trước hết, DN phải
lập định mức chi
phí, cụ thể là định
mức cho các khoản
chi phí theo những
tiêu chuẩn gắn với
từng trường hợp cụ
thể trên cơ sở phân
tích hoạt động của
DN. Như vậy, DN
phải nghiên cứu
các dữ liệu trước
đây, đưa ra một sự
so sánh chuẩn cũng
như căn cứ vào
diễn biến giá cả
trên thị trường và
chiến lược phát
triển của công ty.
Bước kế tiếp là thu
thập thông tin về
chi phí thực tế.
Công việc này
không chỉ là trách
nhiệm của phòng
kế toán, mà còn
phảiđược sự tham
gia của các phòng,
ban khácđể DN chủ
40. động hơn trong
việc xử lý thông tin
chi phí. Các chi phí
phải được phân bổ
thành từng loại cụ
thể. Ngoài ra, DN
phải phân tích biến
động giá cả trên thị
trường theo định
kỳ, dựa trên những
thông tin chi phí
thực tế và so sánh
với định mức đã
thiết lậpđể dễ dàng
xác định sự khác
biệt giữa chi phí
thực tế với định
mức, đồng thời
khoanh vùng những
nơi phát sinh chi
phí biến động. Sau
khi điều tra và biết
được nguyên nhân
biến động chi phí,
DN sẽ xác định các
chi phí và kiểm
soát được của từng
bộ phận nhân viên.
Chủ DN phải
thường xuyên đánh
giá, phân tích các
báo cáo chi phí
cũng như có cách
ứng xử thích hợp
với nhân viên trong
việc kiểm soát chi
phí, đưa ra các chế
độ thưởng phạt hợp
lý.
Xây dựng ý thức
tiết kiệm chi phí
41. Làm cách nào để
đội ngũ nhân viên
ý thức về chi phí
và trở nên quan
tâm đến việc giảm
chi phí? Các cách
thức như khuyến
khích nhân viên
tham gia quản lý
chi phí hay tham
gia và trao đổi với
nhân viên nhằm
nâng cao ý thức
của nhân viên về
tầm quan trọng
của chi phí và
kiểm soát chi phí
tại doanh nghiệp.
Tham gia và trao
đổi
Bạn cần phải trao
đổi với nhân viên
về chi phí nếu bạn
muốn họ tham gia
vào việc kiểm soát
chi phí. Không nên
cung cấp thông tin
dưới dạng báo cáo
tài chính khó hiểu
cần phải cung cấp
đúng lúc đúng chỗ
bằng những từ ngữ
thích hợp dễ hiểu.
Tức là thông tin về
chi phí sẽ có hiệu
lực hơn nếu nó
được nêu ra ngay
tại nơi phát sinh chi
phí và ngay khi chi
phí sắp phát sinh.
42. Nhưng phải thường
xuyên thây đổi làm
mới các thông báo
để tránh việc quá
quen thuộc.
Khuyến khích
nhân viên tham
gia quản lý chi phí
Cung cấp thông tin
phải hồi về ý kiến
đóng góp cho việc
tiết kiệm chi phí
cho doanh nghiệp
của nhân viên để họ
thấy rằng nỗ lực
của họ được ghi
nhận và do vậy vẫn
tiếp tục nhiệt tình
quan tâm đến việc
kiểm soát chi phí.
Nếu như người chủ
doanh nghiệp
không khuyến
khích sự quan tâm
đến chi phí ngay từ
bây giờ, thậm chí
khi điều này chưa
có tác dụng trực
tiếp, thì bạn khó tạo
ra được ý thức tiết
kiệm chi phí đó của
nhân viên khi bạn
vô cùng cần đến
điều đó