1. I cổ phiếu
1. Khái nhiệm
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát
hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
Người nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty
phát hành.
Lịch sử ra đời Cổ phiếu gắn liền với lịch sử hình thành Công ty cổ phần - Cổ
phiếu chính là sản phẩm riêng của công ty cổ phần. Vốn điều lệ của công ty cổ
phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần
gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ
phiếu. Cổ phiếu là bằng chứng và là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông
đối với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông trong công ty cổ phần tương
ứng với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Vì vậy, cổ phiếu còn được gọi
là chứng khoán vốn.
Các dạng Cổ phiếu[sửa | sửa mã nguồn]
Khi xem xét Cổ phiếu của Công ty cổ phần, thường có sự phân biệt cổ phiếu được
phép phát hành, cổ phiếu đã phát hành, cổ phiếu quỹ, cổ phiếu đang lưu hành.
Cổ phiếu được phép phát hành: Khi công ty cổ phần được thành lập, thì được
phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Nhưng luật pháp các nước quy định
công ty phải đăng ký tổng số cổ phiếu của công ty và phải ghi trong điều lệ
công ty và được gọi là cổ phiếu được phép phát hành' hay cổ phiếu đăng ký. Cổ
phiếu được phép phát hành là số lượng cổ phiếu tối đa của một công ty có thể
phát hành từ lúc bắt đầu thành lập cũng như trong suốt quá trình hoạt động. Khi
cần có sự thay đổi số lượng cổ phiếu được phép phát hành thì p hải được đa số
cổ đông bỏ phiếu tán thành và phải sửa đổi điều lệ công ty.
Cổ phiếu đã phát hành: là cổ phiếu mà công ty được bán ra cho các nhà đầu tư
trên thị trường và công ty đã thu về được toàn bộ tiền bán số cổ phiếu đó, nó
nhỏ hơn hoặc tối đa là bằng với số cổ phiếu được phép phát hành.
Cổ phiếu quỹ: là cổ phiếu đã được giao dịch trên thị trường và được chính tổ
chức phát hành mua lại bằng nguồn vốn của mình. Số cổ phiếu này có thể được
công ty lưu giữ một thời gian sau đó lại được bán ra; luật pháp một số nước quy
định số cổ phiếu này không được bán ra mà phải hủy bỏ. Cổ phiếu quỹ không
2. phải là cổ phiếu đang lưu hành, không có vốn đằng sau nó; do đó không được
tham gia vào việc chia lợi tức cổ phần và không có quyền tham gia bỏ phiếu.
Cổ phiếu đang lưu hành: là cổ phiếu đã phát hành, hiện đang lưu hành trên thị
trường và do các cổ đông đang nắm giữ. Số cổ phiếu đang lưu hành được xác
định như sau:
Số cổ phiếu đang lưu hành = Số cổ phiếu đã phát hành - Số cổ phiếu quỹ
Trong trường hợp công ty có cả hai loại cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi, người
ta sẽ xác định cụ thể cho từng loại một. Số cổ phiếu thường đang lưu hành là căn
cứ quan trọng để phân chia lợi tức cổ phần trong công ty.
Dựa vào hình thức cổ phiếu, có thể phân biệt cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô
danh.
Cổ phiếu ghi danh: là cổ phiếu có ghi tên người sở hữu trên tờ cổ phiếu. Cổ
phiếu này có nhược điểm là việc chuyển nhượng phức tạp, phải đăng ký tại cơ
quan phát hành và phải được Hội đồng Quản trị của công ty cho phép.
Cổ phiếu vô danh: là cổ phiếu không ghi tên người sở hữu. Cổ phiếu này được
tự do chuyển nhượng mà không cần thủ tục pháp lý.
Dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu đưa lại cho người nắm giữ, có thể phân biệt cổ
phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi - Đây là cách phân loại phổ
biến nhất. Khi nói đến cổ phiếu của một công ty, người ta thường nói đến cổ phiếu
phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi.[1]
Là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty.
Người sở hữu cổ phiếu phổ thông được tham gia họp Đại hội đồng cổ đông và
được bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty, được
quyền bầu cử và ứng cử vào Hội đồng Quản trị của công ty.
Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải là khoản
nợ đối với công ty.
Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty sau khi công
ty đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra khỏi công ty,
nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức bán lại cổ
phiếu hay dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế. Chính điều này
đã tạo ra tính thanh khoản cho cổ phiếu công ty, đồng thời cũng hấp dẫn nhà
đầu tư.
Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu mới để tăng
vốn.
3. Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật định.
Cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp phải, tương
ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi số lượng
vốn góp vào công ty.[2]
Các hình thức giá trị của Cổ phiếu thường[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá của cổ phiếu thường: Mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh nghĩa là
giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên cổ phiếu.
Mệnh giá cổ phiếu thường được sử dụng để ghi sổ sách kế toán của công
ty. Mệnh giá cổ phiếu không có giá trị thực tế đối với nhà đầu tư khi đã đầu
tư, nên nó không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Mệnh giá cổ
phiếu chỉ có ý nghĩa quan trọng vào thời điểm công ty phát hành cổ phiếu
thường lần đầu huy động vốn thành lập công ty. Mệnh giá thể hiện số tiền
tối thiểu Công ty phải nhận được trên mỗi cổ phiếu mà Công ty phát hành ra.
Một số nước luật pháp cho phép Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu
thường không có mệnh giá.
Giá trị sổ sách: của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác
định dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kế toán của công ty.
Trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của
một cổ phiếu thường được xác định bằng cách lấy vốn chủ sở hữu hoặc tổng
giá trị tài sản thuần (phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản với tổng
số nợ) của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành.
Trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi, thì phải lấy tổng giá trị
tài sản thuần trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ
phiếu thường đang lưu hành.
Phần giá trị của cổ phiếu ưu đãi được tính theo mệnh giá hoặc giá mua lại
tùy thuộc loại cổ phiếu ưu đãi công ty phát hành và cộng với phần cổ tức
công ty còn khất lại chưa trả cho cổ đông ưu đãi trong các kỳ trước đó (nếu
có).
Việc xem xét giá trị sổ sách, cho phép Cổ đông thấy được số giá trị tăng
thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn
góp ban đầu.
Giá trị thị trường: là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được
thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá trị thị trường hay
còn được gọi là giá thị trường. Thực tế, giá thị trường của cổ phiếu không
phải do công ty ấn định và cũng không do người nào khác quyết định,
4. mà giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi giá thống nhất mà người
bán sẵn sàng bán nó và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng trả để mua nó.
Tóm lại, Giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi quan hệ cung -
cầu trên thị trường. Giá trị thị trường cổ phiếu của một công ty phụ thuộc rất
nhiều yếu tố, do vậy nóthường xuyên biến động.
Cổ phiếu ưu đãi[sửa | sửa mã nguồn]
Khái niệm và Quyền lợi[sửa | sửa mã nguồn]
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty,
đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền
lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được
gọi là cổ đông ưu đãi của công ty.
Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có các quyền lợi sau:
Quyền được nhận cổ tức trước các cổ đông thường, mặc dù người có cổ
phiếu ưu đãi chỉ được quyền hưởng lợi tức cổ phần giới hạn nhưng họ được trả cổ
tức trước khi chia lợi tức cho cổ đông thường. Khác với cổ tức của cổ phiếu phổ
thông, cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được xác định trước và thường được xác định
bằng tỷ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá của cổ phiếu hoặc bằng số tiền nhất
định in trên mỗi cổ phiếu.
Quyền ưu tiên được thanh toán trước, khi giải thể hay thanh lý công ty,
nhưng sau người có trái phiếu.
Tương tự như cổ phiếu phổ thông, nhưng cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu
đãi không được tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng Quản trị và quyết định
những vấn đề quan trọng của công ty.
Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và mệnh giá
của nó cũng không ảnh hưởng tới giá thị trường của cổ phiếu ưu đãi. Mệnh giá của
cổ phiếu ưu đãi có ý nghĩa hơn đối với mệnh giá của cổ phiếu phổ thông, vì nó là
căn cứ để trả cổ tức và là căn cứ để hoàn vốn khi thanh lý hay giải thể công ty.
Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định,và cổ đông ưu đãi cũng vẫn được nhận
cổ tức khi công ty làm ăn không có lợi nhuận (thua lỗ).[3]
"Lịch sự kiện được chia thành các loại như sau":
Sự kiện nhận cổ tức, chia tách, cổ phiếu thưởng, mua cổ phiếu ưu đãi đều được
thực hiện tại "NGÀY GIAO DỊCH KHÔNG HƯỞNG QUYỀN". NGÀY GIAO
DỊCH KHÔNG HƯỞNG QUYỀN là ngày thực hiện quyền của 1 cổ phiếu đã được
công ty thông báo trước đó. Nếu như cổ đông nắm giữ cổ phiếu trước ngày giao
5. dịch không hưởng quyền cổ đông đó sẽ nhận được cổ tức hoặc quyền mua cổ phiếu
đó.
Quyền được chia làm 3 loại: Quyền nhận cổ tức bằng tiền: cổ tức sẽ được trả
bằng tiền trên mỗi cổ phiếu. Tỉ lệ cổ tức sẽ được quy ra trên mệnh giá, mỗi cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam đều có mệnh giá là 10,000.
Ví dụ công ty chia cổ tức bằng tiền 10% bạn sẽ được nhận 1,000 đồng trên mỗi cổ
phiếu. Cổ phiếu thưởng, cổ phiếu chia tách: cổ phiếu sẽ được chia nhỏ theo tỉ lệ
công ty đã công bố. Ví dụ công ty công bố tỉ lệ thưởng hoặc chia tách là 10:2 =>
nghĩa là 10 cổ phiếu sẽ thành 12 cổ phiếu, nếu bạn đang có 10 cổ phiếu bạn sẽ
được nhận thêm 2 cổ phiếu.
Các loại Cổ phiếu ưu đãi[sửa | sửa mã nguồn]
Cổ phiếu ưu đãi tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi có tính chất đảm bảo thanh
toán cổ tức. Khi công ty gặp khó khăn, không thanh toán được hoặc chỉ thanh toán
một phần cổ tức, thì số chưa thanh toán đó được tích lũy hay cộng dồn và công ty
phải trả số cổ tức này trước khi công bố trả cổ tức cho cổ đông thường. Hầu hết cổ
phiếu ưu đãi của các công ty là loại cổ phiếu ưu đãi tích lũy và không tham dự.
Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi mà khi công ty gặp
khó khăn không trả được cổ tức trong năm tài chính, thì cổ đông ưu đãi đó cũng
mất quyền nhận số cổ tức trong năm đó.
Cổ phiếu ưu đãi tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ chúng,
ngoài việc hưởng cổ tức ưu đãi theo quy định còn được hưởng thêm phần lợi tức
phụ trội theo quy định khi công ty kinh doanh có lợi nhuận cao.
Cổ phiếu ưu đãi không tham dự: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông nắm giữ
chúng chỉ được hưởng cổ tức ưu đãi cố định theo quy định, ngoài ra không được
hưởng thêm bất cứ phần lợi nhuận nào.
Cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại: là loại cổ phiếu ưu đãi mà công ty có quyền
thu hồi lại. Công ty phát hành có quyền yêu cầu mua lại cổ phiếu này vào bất cứ
lúc nào, khi công ty có khả năng tài chính. Giá mua lại được xác định từ thời điểm
phát hành, giá này thường tính bằng mệnh giá của cổ phiếu ưu đãi cộng thêm phần
có tính chất đền bù cho các nhà đầu tư khi công ty mua lại loại cổ phiếu ưu đãi này.
Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi: là loại cổ phiếu ưu đãi cho phép người
mua có quyền chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi này sang các loại chứng khoán khác.
Cổ phiếu chưa phát hành[sửa | sửa mã nguồn]
Là loại cổ phiếu mà công ty chưa bao giờ bán ra cho các nhà đầu tư trên thị
trường. Là loại cổ phiếu mà Công ty có dự định phát hành trên thị trường, bán ra
khi có nhu cầu của nhà đầu tư.
6. Đặc điểm của Cổ phiếu[sửa | sửa mã nguồn]
Không có kỳ hạn và không hoàn vốn[sửa | sửa mã nguồn]
Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần. Chỉ có
chiều góp vào, không thể hiện thời hạn hoàn vốn; không có kỳ hạn. (Khi công ty
phá sản hoặc giải thể, thì sẽ không còn tồn tại cổ phiếu).
Cổ tức không ổn định và phụ thuộc vào kết quả SXKD của doanh
nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Cổ tức cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, và
vì kết quả kinh doanh không ổn định nên cổ tức cũng không thể cố định. Khi doanh
nghiệp làm ăn phát đạt thì cổ đông được hưởng lợi nhuận nhiều hơn so với các loại
chứng khoán khác có lãi suất cố định. Ngược lại, khi làm ăn khó khăn hoặc thua lỗ,
cổ tức có thể rất thấp hoặc không có cổ tức.
Khi phá sản, cổ đông là người cuối cùng nhận được giá trị còn lại của tài
sản thanh lý[sửa | sửa mã nguồn]
Giá cổ phiếu biến động rất mạnh[sửa | sửa mã nguồn]
Giá biến động nhiều nhất là trên thị trường thứ cấp, do giá chịu sự tác động của
nhiều nhân tố, và nhân tố quan trọng đó là kết quả kinh doanh của công ty.
"Bên cạnh đó, theo quan điểm của những nhà đầu tư, Cổ phiếu có các đặc điểm
sau:"
Tính thanh khoản cao
Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh
khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu
niêm yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao,
cổ phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực sự dễ mua bán trên thị
trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc cổ tức
thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán.
Thứ hai, là mối quan hệ cung - cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường
cổ phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung
cầu. Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà
còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt
nhưng thị trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng
khó tăng giá. Ngược lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ
phiếu chất lượng kém hơn cũng có thể bán dễ dàng. Tuy nhiên cũng cần chú ý đến
7. sự đầu cơ trong thị trưòng, một số nhà đầu tư sở hữu một phần lớn lượng cổ phiếu
trong thị trường, đẩy giá lên xuống theo ý mình để trục lợi.
Có tính Lưu thông[sửa | sửa mã nguồn]
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như
tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi
cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt
động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.
Tính Tư bản giả[sửa | sửa mã nguồn]
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ
phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá
của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu.
Tính Rủi ro cao[sửa | sửa mã nguồn]
Tính Rủi ro phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển, chính trị. Giá trị cổ
phiếu luôn biến động theo các yếu tố này.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu
Giá của cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố vĩ mô và vi
mô. Do đó, khi đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư cần quan tâm tìm hiểu và phân tích tác
động của các yếu tố tới cổ phiếu mình đang đầu tư, để đưa ra các quyết định đầu tư
thích hợp. Sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu mà nhà đầu tư cần
biết.
* Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới:
Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển (và có xu
hướng giảm khi nền kinh tế yếu đi). Bởi khi đó, khả năng về kinh doanh có triển
vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với
nhu cầu tích luỹ và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư vào cổ phiếu.
* Lạm phát: Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền
kinh tế sẽ không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị
hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ
phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.
* Tình hình biến động của lãi suất: Lãi suất tăng làm tăng chi phí vay đối với DN.
Chi phí này được chuyển cho các cổ đông vì nó sẽ hạ thấp lợi nhuận mà DN dùng
để thanh toán cổ tức. Cùng lúc đó, cổ tức hiện có từ cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không
8. mấy cạnh tranh đối với nhà đầu tư tìm lợi tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm
nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi nào có lãi suất cao. Hơn nữa, lãi suất tăng còn
gây tổn hại cho triển vọng phát triển của DN vì nó khuyến khích DN giữ lại tiền
nhàn rỗi, hơn là liều lĩnh dùng số tiền đó mở rộng sản xuất, kinh doanh. Chính vì
vậy, lãi suất tăng sẽ dẫn đến giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm có tác
động tốt cho DN vì chi phí vay giảm và giá cổ phiếu thường tăng lên.
Tuy nhiên, sự dao động của lãi suất không phải luôn được tiếp theo bởi sự phản
ứng tương đương và trái ngược của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi suất phản ánh xu
hướng chủ đạo trong lạm phát, nó mới trở thành thước đo hiệu quả sự dao động
của TTCK. Lãi suất có xu hướng giảm khi lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến
giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng với lãi suất, giá cổ phiếu
sẽ giảm. Nhưng nếu lạm phát không phải là một vấn đề nghiêm trọng và lãi suất
tăng, đầu tư vào TTCK thường mang lại nhiều lãi. Bởi vì trong trường hợp này, lãi
suất tăng là do nền kinh tế tăng trưởng.
* Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: Nếu khoản thuế
đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số người đầu tư
giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm.
* Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu tố phi kinh tế
nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu những yếu
tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của DN thì giá cổ
phiếu của DN sẽ tăng lên.
* Những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành biến động: yếu tố về kỹ thuật sản
xuất: trang thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển...; yếu tố
về thị trường tiêu thụ: khả năng về cạnh tranh và mở rộng thị trường...; yếu tố về
con người: chất lượng ban lãnh đạo, trình độ nghề nghiệp của công nhân; tình trạng
tài chính của DN...
* Tâm lý nhà đầu tư: Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn bản trong
biến động của giá cổ phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với
tương lai của giá cổ phiếu, của lợi nhuận DN và của lợi tức cổ phần. Vào bất cứ
thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người lạc quan
và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị
trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ
hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về
thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền
kinh tế nói chung và TTCK nói riêng.
9. Chính vì thế, cùng một loại chứng khoán, có người cho rằng, xấu quá cần phải bán
đi, nhưng ngược lại có người cho rằng, tương lai của nó rất sáng lạn cần phải mua
vào. Điều này cũng lý giải tại sao trên TTCK lúc nào cũng có người mua, người
bán.
Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của
nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà phân tích... cũng có thể khiến thị giá
cổ phiếu biến động.
EPS và những điều cần làm rõ
Trần Xuân Nam, Maastricht MBA
EPS là một trong những chỉ tiêu được sử dụng thường xuyên nhất đối với các nhà
đầu tư, và cũng ảnh hưởng lớn đối với giá cổ phiếu công ty. Tuy nhiên chuẩn mực
kế toán Việt Nam và các hướng dẫn về nó vẫn còn chưa đầy đủ cũng như việc triển
khai thực hiện nó còn có nhiều vấn đề, mà kết quả là các nhà đầu tư nhận được các
báo cáo tài chính mà EPS không chính xác và không đầy đủ. Tác giả Trần Xuân
Nam đã giành cho ĐTCK bài viết này nhằm phân tích những bất cập đó, giúp bạn
đọc, các nhà làm chuẩn mực kế toán Việt Nam có cái nhìn chính xác và đầy đủ hơn
về EPS.
1. Tầm quan trọng của EPS:
EPS là một trong những chỉ tiêu được trích dẫn thường xuyên nhất trong phân tích
tài chính vì chỉ số Giá Trên Thu nhập (Price/Earning-P/E) được sử dụng rộng rãi
như một tiêu chuẩn so sánh cho các quyết định đầu tư. Do vậy việc tính toán và
trình bày EPS có thể có ảnh hưởng quan trọng đến giá cổ phiếu của công ty và do
vậy thị trường cổ phiếu rất nhạy cảm với EPS. Giá thị trường có thể giảm khi EPS
có xu hướng giảm và ngược lại. EPS còn được dùng như một công cụ để đánh giá
việc thực hiện (performance) của ban điều hành công ty. Tiền thưởng của HĐQT,
ban điều hành có thể trên cơ sở sự tăng trưởng EPS. Bởi vậy nó tạo một sức ép rất
10. lớn đối với ban điều hành công ty trong việc tăng trưởng EPS. Ban điều hành cũng
có thể cố tình tạo nên một kết quả EPS có lợi hơn cho mình và công ty. Khi nghiên
cứu về EPS, chúng ta cần lưu ý mục tiêu chính của EPS là để đánh giá kết quả thực
hiện của một công ty và nó đặc biệt quan trọng để 1) so sánh kết quả của một công
ty qua các kỳ khác nhau và 2) so sánh việc thực hiện của vốn chủ sở hữu của một
công ty với nó của một công ty khác.
2. Cách tính EPS cơ bản:
2.1. Công thức tính EPS cơ bản: Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 30 và
chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 33, EPS cơ bản được tính theo công thức sau:
EPS cơ bản = [Tổng lãi/(lỗ) thuần thuộc các cổ đông phổ thông] / [Số bình quân
gia quyền cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ]
a) Tử số: Theo thông tư số 21/2006/TT-BTC hướng dẫn chuẩn mực VAS 30, tổng
số lãi thuần phân bổ cho các cổ đông phổ thông là lãi (lỗ) thuần sau thuế thu nhập
doanh nghiệp trừ đi các số điều chỉnh giảm là cổ tức của cổ phiếu ưu đãi và cộng
thêm các khỏan điều chỉnh tăng liên quan đến khoản chênh lệch mua cổ phiếu ưu
đãi.
- Quỹ không thuộc cổ đông: Thông tư không đề cập đến việc phải điều chỉnh giảm
các khoản lãi nhưng không dành cho cổ đông phổ thông như quỹ khen thưởng
khách hàng, quỹ thưởng cho Hội Đồng Quản Trị, và đặc biệt là Quỹ Khen Thưởng
Phúc Lợi dành cho nhân viên. Những khoản này theo chuẩn mực kế toán quốc tế
nó được ghi nhận là các khoản chi phí để trừ ra khỏi lãi dành cho cổ đông. Các
khoản này có lẽ ai cũng biết (trừ những người làm chế độ?) là nó không thuộc về
cổ đông. Thông thường sau một năm hoạt động có lãi, các công ty thường dành
khoảng 5-15% thậm chí 20% tổng số lãi thuần sau thuế để chi cho nhân viên dưới
hình thức chia cho Quỹ khen thưởng, phúc lợi. Ví dụ công ty chứng khoán SSI có
lãi thuần sau thuế năm 2007 là 860 tỷđồng, theo quyết định của đại hội đồng cổ
đông, công ty trích 20% tổng lãi thuần sau thuế (=172 tỷ) dành cho quỹ khen
thưởng, phúc lợi cho nhân viên. Điều này đồng nghĩa với việc lãi dành cho cổ đông
để tính EPS thực chất chỉ còn lại là 688 tỷ (=860 -172) thay vì 860 tỷ.
- Quỹ Dự Phòng Tài Chính: Luật công ty trước đây bắt buộc công ty phải trích lập
dự phòng tài chính, tuy vậy luật công ty mới không còn bắt buộc nữa. Quỹ dự
11. phòng tài chính nếu có là một quỹ thuộc sở hữu của cổ đông phổ thông. Quỹ này
được lập ra nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và những người có quan hệ làm
ăn với công ty. Nó ngăn chặn việc chia cổ tức quá mức. Khi công ty khó khăn tài
chính, việc chia hết toàn bộ số lãi chưa phân phối (lưu giữ) lũy kế có được, có thể
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho các chủ nợ. Sẽ là một sai lầm cơ bản nếu ai đó
cho rằng quỹ này không thuộc các cổ đông và đề nghị điều chỉnh giảm quỹ này ra
khỏi lãi khi tính EPS (như trong 2 bài liên tiếp trên báo Đầu tư Chứng Khoán số 73,
74 ngày 18 và 20/6 của hai tác giả Khoa Tài Chính Doanh Nghiệp, Trường Đại
Học Kinh Tế TP. HCM.)
b) Mẫu số: Số bình quân gia quyền của các cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ,
lưu ý:
2.2. Trường hợp gộp, chia tách và thưởng cổ phiếu: Thông tư 21 hướng dẫn
chuẩn mực kế toán VAS 30 của Việt Nam đã đề cập khá rõ ràng là trong những
trường hợp như vậy không có bất cứ một sự tăng, giảm về dòng tiền, hay tài sản và
nguồn vốn đối với công ty. Bởi vậy trong những sự kiện đó thì cổ phiếu gộp, chia
tách, thưởng mặc dù phát sinh bất cứ thời điểm nào trong kỳ cũng phải được tính
vào ngày đầu tiên của năm báo cáo. Và cũng sẽ điều chỉnh tương ứng cho số cổ
phiếu của những năm trước để có tính so sánh giữa các năm. Mặc dù thông tư 21
không đề cập đến việc chia cổ tức bằng cổ phiếu (stock dividend), nhưng bản chất
của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu cũng giống như thưởng cổ phiếu (bonus issue),
điều này được ghi rất rõ trong chuẩn mực kế toán quốc tế. Đề nghị hướng dẫn kế
toán Việt Nam nên bổ sung việc chia cổ tức bằng cổ phiếu để việc thực hiện tại các
công ty dễ dàng hơn.
Ví dụ: công ty A có 10 triệu cổ phiếu, ngày 30.6.08 công ty quyết định chia cổ tức
bằng cổ phiếu với tỷ lệ 20%, tức 100 cổ phiếu hiện hữu được chia 20 cổ phiếu mới.
Tính EPS năm 2008 và EPS tương ứng năm 2007 nếu tổng số lãi của A năm 2008
và 2007 tương ứng là 40 tỷ và 34 tỷ đồng. Kỳ kế toán là 1.1 đến 31.12 hàng năm.
Giải: Năm 2008 Năm 2007
1. Lãi thuần sau thuế (triệu đ) 40.000 34.000
2. Số cổ phiếu đầu kỳ (ngày 1.1), (triệu) 10 10
3. Cổ phiếu thưởng phát hành (triệu) 2* 2 **
4. Tổng số cổ phiếu lưu hành bq (triệu) 12 12
12. 5. EPS cơ bản (=(1)/(4)) 3.333 đ/CP 2.833 đ/CP
* Mặc dù thưởng hay chia cổ tức bằng cổ phiếu được thực hiện ngày 30.6.2008
nhưng khi lập báo cáo tài chính năm 2008, công ty sẽ phải tính số cổ phiếu tăng
thêm ngay từ ngày đầu năm 1.1.2008. Nếu lập cho báo cáo quý 2 năm 2008, tính
EPS của 4 quý gần nhất cho đến ngày 30.6.2008 thì số cổ phiếu tăng thêm này
được tính từ ngày 1.7.2007 nghĩa là ngày đầu tiên của năm cho 4 quý gần nhất.
* * Trong báo cáo tài chính năm 2008, để thấy được xu hướng EPS qua các năm,
chúng ta phải điều chỉnh lại EPS năm 2007 và các năm trước đó bằng cách tăng số
cổ phiếu thưởng của năm 2008 vào cả năm 2007 và các năm trước đó. Nếu không
điều chỉnh số 2 triệu cổ phiếu thưởng cho năm 2007, thì EPS gốc 2007 là 3.400
đ/CP (=34tỷ/10 triệu CP) cao hơn so với năm 2008, nó không phản ánh đúng xu
hướng EPS.
2.3. Phát hành quyền mua (Rights Issue): Đó là phát hành quyền mua cổ phiếu
mới cho các cổ đông hiện hữu với giá thấp hơn giá thị trường hiện tại. Do vậy ở
đây đã bao gồm một yếu tố thưởng. Để tính được EPS khi có phát hành quyền mua,
đầu tiên chúng ta cần tính giá quyền mua lý thuyết (Theoretical ex-rights price).
Ví dụ: Công ty HAP có 3.850.250 cổ phiếu đang lưu hành từ đầu năm 2006. Ngày
16/6/2006 HAP phát hành thêm 1.925.125 cổ phiếu (cứ hai cổ phiếu hiện hữu được
quyền mua 1 cổ phiếu mới) với giá 25.000 đ/cp. Giá cổ phiếu ngày cuối cùng chốt
danh sách phát hành ngày 15/6/2006 là 55.000đ/cp.Yêu cầu tính:
1. Giá lý thuyết quyền mua 1 cổ phiếu?
2. EPS năm 2006? Biết rằng lãi thuần sau thuế năm 2006 là 16 tỷ đồng.
3. Tính EPS điều chỉnh cho năm 2005 và 2004? Biết rằng lãi thuần năm 2005 là
14,58 tỷ và EPS gốc năm 2004 là 4,492 đ/cp.
Lời giải:
1. Giá lý thuyết quyền mua 1 cổ phiếu được tính:
- Trước khi phát hành: 2 CP x giá 55.000 đ/CP = 110.000 đ
- Phát hành quyền mua: 1 CP x giá 25.000 đ/CP = 25.000 đ
- Giá trị lý thuyết của 3 CP (=110.000 + 25.000) = 135.000 đ
- Giá quyền mua lý thuyết mỗi CP bình quân =135.000 đ/3 = 45.000 đ/CP.
13. 2. Tính EPS cho năm 2006:
- Số cổ phiếu trước ngày phát hành quyền mua là 3.850.250 CP sẽ được nhân với
tỷ lệ giữa giá thị trường ngày cuối cùng trước khi phát hành (55.000đ/CP) và giá lý
thuyết quyền mua (45.000đ/CP)
- Số cổ phiếu bình quân của cả năm được tính theo 2 giai đoạn là:
Giai đoạn trước khi phát hành cổ phiếu giá thấp. Vì nó có yếu tố thưởng do vậy
giống như việc tính EPS điều chỉnh cho việc thưởng cổ phiếu nêu ở trên, chúng ta
phải nhân số cổ phiếu với hệ số thưởng này. Hệ số thưởng bằng:
Giá thị trường ngày cuối trước khi chốt sổ phát hành/Giá quyền mua lý thuyết =
55/45
Như vậy số cổ phiếu bình quân của cả năm sẽ được tính như sau:
+ Giai đoạn 1: từ 1/1-15/6/2006, tức 5,5 tháng:
3.850.250 cp x 5,5 tháng/12 tháng x 55/45 = 2.156.853 cp
+ Giai đoạn 2: từ 15/6-31/12/2006 tức 6,5 tháng:
(3.850.250 + 1.925.125) x 6,5 tháng/12 tháng = 3.128.328 cp
Tổng số cổ phiếu lưu hành bình quân trong năm = 5.285.181 cp
- EPS năm 2006 = 16 tỷ/ 5.285.181 cp = 3.027 đ/cp
Lưu ý: Nếu tính theo quy đinh hiện hành, số cổ phiếu giai đoạn 1 không điều chỉnh
nhân với hệ số thưởng 55/45 do vậy số cổ phiếu chỉ là 3.850.250 cp x 5,5
tháng/12tháng = 1.764.698 CP nên tổng số cổ phiếu bình quân năm 2006 sẽ là
4.893.026 cp (=1.764.698+3.128.328). Do vậy EPS 2006 tính theo cách không
điều chỉnh hệ số thưởng sẽ là: 6 tỷ/4.893.026 = 3.270 đ/CP
3. Tính EPS điều chỉnh cho năm 2005 và năm 2004 (Khi lập báo cáo năm 2006 để
so sánh với năm 2005, 2004):
- EPS điều chỉnh = EPS gốc x [Giá quyền mua lý thuyết/Giá thị trường ngày cuối
trước khi phát hành mới]
Lưu ý: Hệ số điều chỉnh này là đảo ngược của hệ số điều chỉnh số cổ phiếu ở phần
2.
- EPS gốc năm 2005 = 14,58 tỷ đ/ 3.850.250 cp = 3.787 đ/cp
- EPS điều chỉnh năm 2005 = 3.787đ/cp x 45/55 = 3.098 đ/cp
- EPS điều chỉnh năm 2004 = 4.492 đ/cp x 45/55 = 3.675 đ/cp
Khi phân tích tăng trưởng EPS các năm, nhà đầu tư cần phải so sánh các EPS đã
14. điều chỉnh chứ không phải so sánh EPS gốc.
3. EPS pha loãng (Diluted EPS):
Tại sao phải cần EPS pha loãng? Cuối kỳ kế toán, một công ty có thể có một số
chứng khoán mà nó ở thời điểm hiện tại chưa có quyền được đòi chia lãi như cổ
phiếu phổ thông, nhưng nó sẽ chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông trong tương lai.
Những chứng khoán này bao gồm: 1) các trái phiếu chuyển đổi hoặc các cổ phiếu
ưu đãi chuyển đổi mà chúng cho phép chủ sở hữu nó có quyền, ở một ngày tương
lai, được chuyển đổi những chứng khoán này thành các cổ phiếu phổ thông, với
một tỷ lệ chuyển đổi đã định sẵn. 2) các hợp đồng lựa chọn (options hoặc
Warrants). Trong những trường hợp này, số cổ phiếu phổ thông có thể được tăng
lên, dẫn đến việc giảm
EPS hay EPS bị pha loãng. EPS pha loãng sẽ chỉ cho các nhà đầu tư những ảnh
hưởng có thể có của việc pha loãng EPS trong tương lai, rất cần thiết cho quyết
định đầu tư.
Tính EPS pha loãng:
- Lãi: Lãi dùng để tính EPS cơ bản được điều chỉnh bởi các ảnh hưởng sau thuế
của các khỏan:
a) Các khoản lãi suất tiền vay trong kỳ của các trái phiếu chuyển đổi tiềm năng
b) Các khoản cổ tức của các cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi tương lai mà chúng đã
được trừ ra khỏi khi tính lãi cho EPS cơ bản.
c) Các khoản thay đổi khác trong thu nhập vàchi phí (phí, chiết khấu, tiền thưởng)
mà chúng là kết quả của việc chuyển đổi các trái phiếu chuyển đổi hay cổ phiếu ưu
đãi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông.
- Số cổ phiếu: Số bình quân gia quyền của số cổ phiếu phổ thông dùng để tính EPS
cơ bản cộng với bình quân gia quyền của các cổ phiếu phổ thông mà chúng sẽ
được phát hành từ việc chuyển đổi tất cả các trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi
chuyển đổi thành các cổ phiếu phổ thông. Chúng ta giả định các cổ phiếu tiềm
năng này sẽ được chuyển đổi thành các cổ phiếu phổ thông vào ngày đầu tiên của
kỳ báo cáo.
Ví dụ: Ngân hàng ABC năm 2007 có lãi thuần sau thuế là 1.680 tỷ đồng và có khối
lượng cổ phiếu lưu hành bình quân là 198,8 triệu CP, EPS cơ bản năm 2007 là
8.451 đ/CP. ACB đã phát hành hai đợt trái phiếu chuyển đổi với tổng số tiền là
15. 1.900 tỷ đồng, lãi suất 10%/năm và sẽ chuyển đổi thành 190 triệu cổ phiếu phổ
thông trong vòng 2-5 năm tới. Tỷ lệ thuế TNDN là 28%. Tính EPS pha loãng của
ACB.
Giải:
1. Tính số cổ phiếu phổ thông: 198,8 triệu + 190 triệu = 388,8 triệu CP.
2. Tính số lãi thuần :
Số lãi hiện tại 1.680 tỷ
Cộng lãi suất tiền vay tiết kiệm (1.900 tỷ x 10%) = + 190 tỷ
Trừ thuế TNDN trên phần lãi vay (190 tỷ x 28%) = - 53,2 tỷ
Lãi thuần sau điều chỉnh 1.816,8 tỷ
3. EPS pha loãng = 1.816,8 tỷ/ 388,8 triệu CP = 4.673 đ/cp
Như vậy EPS pha loãng thấp hơn so với EPS cơ bản là 3.778 đ/CP (=8.451 –
4.673)
4. Trình bày EPS: Ở chuẩn mực kế toán Việt Nam chỉ mới đề cập đến tên gọi EPS
pha loãng chứ chưa có hướng dẫn về cách tính và trình bày. Các công ty vì vậy
chưa báo cáo EPS pha loãng. Điều này làm cho các nhà đầu tư phải đọc các báo
cáo tài chính không đầy đủ và do vậy có thể ảnh hưởng lớn đến các quyết định đầu
tư của họ.
- Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, chúng tôi đề nghị Bộ Tài
Chính, UBCK NN, Sở GDCK TP HCM và TT GDCK Hà Nội cần có hướng dẫn rõ
ràng cách tính EPS cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Chuẩn mực kế toán quốc
tế IAS 33 yêu cầu bắt buộc báo cáo lãi lỗ của các công ty phải trình bày cả hai chỉ
tiêu EPS cơ bản và EPS pha loãng trên bề mặt của Báo Cáo Kết Quả Kinh Doanh
với mức độ nổi bật như nhau.
- Báo cáo tài chính hàng quý cũng cần phải được trình bày tương tự như đã nói ở
trên. Đặc biệt lưu ý các khỏan lãi không thuộc cổ đông như Quỹ khen thưởng, phúc
lợi cần phải được ghi giảm khỏi lãi để tính EPS ngay trong các báo cáo quý chứ
không đợi đến cuối năm. Đầu năm, Đại hội đồng cổ đông thường niên đã đưa ra kế
hoạch phân phối lãi cho năm tới (mặc dù chưa chính thức). Ví dụ công ty S đưa ra
nguyên tắc trích 10% lợi nhuận sau thuế cho Quỹ khen thưởng phúc lợi. Nếu trong
16. quý 1, công ty S có llãi sau thuế 100 tỷ, thì báo cáo kế qủa nên trình bày thêm
dòng”Lãi không dành cho cổ đông” hoặc cụ thể là: “Lãi dành cho quỹ khen thưởng
phúc lợi” 10% x 100 = 10 tỷ, Lãi dành cho cổ đông (để tính EPS) là: 100 tỷ-10tỷ=
90tỷ.