7. Phân tích máy đo VOM qua các chú thích trong hình:
* Kính đọc kim: Bên dưới kim là mặt kính phản chiếu dùng để đọc kết
quả chính xác. Khi đọc kết quả, vị trí nhìn kim của Bạn phải sao cho chỉ
thấy một kim, nếu nhìn vào Bạn thấy 2 kim, một là kim thật hai là kim
trên mặt kính, như vậy góc nhìn của Bạn đã bị lệch, kết quả sẽ không
chính xác.
* Vị trí khóa kim: Khi Bạn bỏ máy đo VOM trong túi và di chuyển, trước
đó Bạn nhớ đặt nút xoay ở ví trí OFF. Ở vị trí này, hai chân của điện kế
khung quay đã cho ngắn mạch, điều này sẽ tạo ra dòng điện nghịch
mỗi khi máy đo bị lắc, dòng điện ứng này sẽ chống lại sự rung động
của kim và giữ an toàn cho điện kế khung quay.
* Đo Ohm:
Khi đo Ohm, Bạn dùng nguồn điện năng của pin có trong máy đo, cho
bơm dòng qua vật đo, dòng điện tử chảy ra trên dây màu đỏ và chảy
vào trên dây màu đen, dòng điện này chảy qua vật đo, như: điện trở,
cuộn dây... và chảy qua điện kế khung quay làm lệch kim. Bạn đọc kết
quả trên vạch chia Ohm. Đo Ohm là kiểm tra trị của các điện trở, kiểm
tra trị của các cuộn dây.... Khi đo, Bạn chọn thang đo cho phù hợp,
chập cây đo chỉnh kim về vị trí 0 Ohm và rồi tiên đoán vị trí dừng của
kim, khi đặt điện trở vào 2 dây đo, nếu kim dừng đúng vị trí chờ đợi là
điện trở tốt, nếu kim không lên thì điện trở đã bị đứt. Với điện trở khi
hư nó thường tăng Ohm hay đứt.
8. Cấu tạo của Loa gồm có một cuộn dây, quen gọi là cuộn coil, gắn dính
trên màn Loa và người ta cho đặt cuộn dây nằm trong khe của một
nam châm, do vậy khi Bạn cấp dòng điện cho cuộn dây nó sẽ có từ tính
và tương tác với nam châm vĩnh cửu tạo ra lực hút hay lực đẩy. Khi thử
Loa Bạn dùng Ohm kế lấy thang đo Rx1 để có dòng điện chảy trên dây
đo lớn, cho dòng điện này kích thích cuộn dây, nó sẽ làm rung màn Loa
và phát ra tiếng kêu rột rẹt là Loa tốt. Kim không lên là cuộn dây hay
dây nối đã bị đứt, kim lên mà màn không rung là cuộn dây đã bị kẹt
trong khe, đo Ohm cuộn dây và thành vỏ của Loa, kim lên là cuộn dây
bị tróc lớp cách điện và đã chạm vào thành Loa.
Muốn kiểm tra các ống nói kiểu điện động có còn tốt hay không, Bạn
cũng "mượn dòng điện" của một Ohm kế cho kích thích cuộn dây nằm
trong ống nói, khi cuộn dây này rung Bạn sẽ thấy kim lên và nghe tiếng
rột rẹt. Điều cần nhớ là phải thấy thang đo Ohm lớn, như: Rx10 hay
Rx100, để có dòng điện nhỏ, lấy dòng quá lớn có thể làm hư ống nói
9. điện động. Bạn nhớ, nếu kích ống nói với dòng điện đủ nhỏ mà màn
micro vẫn rung được là loại microphone có độ nhậy tốt.
Trường hợp thử microphone điện dung, Bạn phải dùng thang đo Rx10K
để có mức áp lớn dùng phân cực cho ống nói điện dung, , đo theo
chiều thuận, nghĩa là dây đỏ ở trên vỏ và dây đen trên chân còn lại, kế
đó "thổi mạnh" vào màn micro nếu thấy kim nhúc-nhíc là tốt. Trường
hợp phân cực nghịch khi thổi vào màn micro, kim sẽ không nhúc-nhíc.
Với các diode, Bạn có thể dùng Ohm kế đo tính thuận nghịch để biết
diode có còn tốt hay không. Khi đo thuận, lấy thang đo Rx1 để có dòng
điện trên dây đo lớn. Chập kim chỉnh về 0 Ohm, và khi đo kim sẽ lên.
Lúc này Bạn đọc kết quả trên vạch chia LI và LV để biết mức áp ghim
trên diode. Nếu mức áp ghim là 0.6V là loại diode Si bình thường, nếu
mức áp ghim là 0.2V đó là diode Schottky dùng ở các mạch điện có volt
thấp. Khi đo nghịch, Bạn nên dùng thang Rx10K để có mức volt trên
dây đo cao, đo nghịch kim phải không lên. Khi thử nhanh, Bạn chỉ cần
10. chú ý: Đo thuận kim lên, đo nghịch kim không lên. 2 lần đo kim đều lên
là diode chạm và 2 lần đo kim đều không lên là diode đứt.
Kiểm tra các Led. Vì Led cũng là diode, nên khi kiểm tra các Led cũng
đo như các diode. Khi đo thuận, kim lên và Led sáng và khi đo nghịch
kim không lên và Led không sáng. Bạn nhớ: Khi đo theo chiều thuận, ở
thang đo Rx1 có dòng trên dây đo lớn, Bạn hãy xem kết quả trên vạch
chia LV sẽ biết được mức ghim áp trên Led. Các Led thường có mức
ghim áp trên dưới 2V, với các Led siêu sáng có mức ghim áp khoảng 3V.
Khi đo thuận, Led không sáng là Led hư.
11. Transistor bipolar (2 mối nối) có 2 dạng: dạng pnp và dạng npn. Do mối
nối pn là cấu tạo của một diode, nên transistor bipolar có thể xem như
có 2 diode, diode ở chân BE và diode ở chân CB. Vậy muốn biết một
transistor có tốt hay không, Bạn kiểm tra nhanh 2 diode này. Đo thuận
nghịch diode BE và diode CB, nếu cả 2 diode này đều tốt là transistor
tốt. Bạn nhớ: diode CB có mức áp đánh thủng thường rất cao, nên ở
thang đo Rx10K, tuy mức áp trên máy đo Ohm là 12V kim cũng không
lên, nhưng diode BE có mức áp đánh thủng thường thấp khoảng 10V,
nên khi đo nghịch trên diode này, kim sẽ vẫn lên, lên ít vì dòng nhỏ.
Chúng ta dùng đặc tính này của transistor để tìm ra chân E và chân C
sau khi đã tìm ra chân B.
* Đo volt DC và AC:
12. Trên các đường mạch trong các mạch điện, luôn có 2 thành phần điện
áp, đó là mức áp DC dùng để phân cực trạng thái tĩnh và mức áp tín
hiệu ở dạng AC. Vậy để kiểm tra các mức áp phân cực DC, bạn dùng
phép đo volt DC. Khi đo volt DC, dây đen cho chạm masse cũng là cực
âm của pin, dây đỏ dùng đo mức volt trên các đường mạch. Tùy theo
nguồn pin nuôi của mạch mà chúng ta chọn thang đo cho thích hợp.
Với các mạch điện bán dẫn chạy mức áp thấp, chúng at thường dùng
thang đo 10V là được. Chúng ta biết nội trở của máy đo Volt DC thay
đổi theo thang đo, nên nếu lấy thang đo Volt DC thấp, máy đo có nội
trở nhỏ sẽ làm sai nhiều kết quả đo. Khi mua máy đo Volt nên chọn loại
máy đo có nội trở càng lớn càng tốt, hiện nay các máy đo thông dụng
có nội trở là 20K/V, vậy nếu lấy thang đo 10V, nội trở của máy đo sẽ là
200K, với điện trở này Bạn không thể đo kiểm tra các mạch điện làm
việc với dòng điện quá nhỏ, trong trường hợp này chúng ta phải dùng
máy đo volt VTVM, với nội trở trên 11MegaOhm mới có kết quả chính
xác.
13. Chúng ta biết, nguồn điện nhà đèn là điện xoay chiều, dạng Sin có tần
số 50Hz. Để đo mức áp này, chúng ta cắm dây đo trên lỗ đen và đỏ, lấy
thang đo AC, với mức áp chưa biết trước nên khởi đầu từ thang đo volt
AC cao. Khi đo đọc kết quả trên các vạch chia Volt AC 0-10V cho thang
1000V, 0-50V cho thang 50V, 0-250V cho thang đo 250V và 0-10V cho
thang đo 10V, ở thanh đo này nhất là với mức áp AC thấp, Bạn nên đọc
kết quả trên vạch chia màu đỏ.
Chú ý: Một sơ sót mà giới thợ thường bị là khi đang dùng VOM ở thang
đo Ohm để kiểm tra các linh kiện trong các thiết bị điện gia dụng, sau
đó chuyển qua kiểm tra Volt nguồn AC mà không nhớ thay đổi nút xoay
qua thang đo Volt AC, sơ ý này sẽ làm cháy các điện trở ở thang đo
Ohm.
Bạn nhớ: chỉ dùng phép đo volt AC này trên các mạch đo không có
thành phần điện áp DC. Khi kiểm tra mức volt AC trên các điểm đo có
chứa thành phần điện áp phân cực DC, Bạn phải cắm dây đỏ trên lỗ
OUTPUT, vì ở lỗ đo này bên trong máy đo có dùng tụ cách ly, dùng để
cắt dòng DC, nhờ vậy kết quả đo mớ chính xác.
14. * Đo volt AC mức thấp:
Chúng ta biết, trên các chân C, chân B của các transistor thường vừa có
tín hiệu AC và vừa có điện áp phân cực DC, hơn nữa biên độ tín hiệu AC
trên các chân này thường rất nhỏ, do đó, khi muốn đo kiểm tra tín hiệu
trên các điểm này, chúng ta thường dùng thang đo AC, lấy thang đo
nhỏ, thường là thang đo 0-10V. Tuy nhiên khi đo, để tránh ảnh hưởng
của mức volt DC dùng để phân cực, chúng ta cho dây đỏ cắm ở lỗ
OUTPUT.
Nhắc Bạn: Thành phần tín hiệu AC đo trên các chân C, chân B của
các transistor hay đo trên biến áp âm tần hay đo trên loa...đều là tín
hiệu gần giống Sin và thường có tần số khá cao, do vậy khi dùng VOM
kế với chức năng đo Volt AC đo các tín hiệu này, kết quả đọc trên các
vạch chia không "có ý nghĩa định lượng", nó chỉ nói lên là có tín hiệu
15. hay không mà thôi, nó cho bviết tín hiệu lớn hay nhỏ, hoàn toàn mang
ý nghĩa định tính. Vì sao? Vì các vạch chia dùng cho Volt AC là lấy theo
trị hiệu dụng của một tín hiệu Sin, có tần số 50Hz.
Hình vẽ này cho thấy cách dùng máy đo Volt AC, thang đo thấp, với dây
đỏ cắm ở lỗ OUTPUT để kiểm tra tín hiệu xuất hiện trong một mạch
khuếch đại. Chúng ta biết, trong một mạch điện, tín hiệu là sự nhấp
nhô lên xuống của mức volt trên mức Volt phân cực DC. Tín hiệu AC
trong mạch luôn có điểm khởi phát và làn dần đến tải. Nếu đã nắm
được đường đi của tín hiệu trong một mạch điện, chúng ta dễ dàng
dùng Volt kế AC để "xác nhận sự có mặt của tín hiệu trên các điểm
này". Nếu đo tại điểm 4, kim lên là có tín hiệu và chuyển qua đo tại
điểm 5, kim không lên là không có tín hiệu, vậy tụ liên lạc C2 hư hay có
hở mạch. Nói cho cùng sửa máy là làm công việc tìm xem tín hiệu bị
mất ở điểm nào, mất do lý do vì, nếu do linh kiện hư thay cái mới vào là
16. xong, nếu do đứt mạch, hàn lại là được...Do vậy nếu biết dùng phép đo
này, việc tìm chổ hỏng trong các thiết bị điện tử cũng không phải là
công việc quá khó.
* LI cho biết dòng trên dây đo, LV cho biết áp trên dây đo:
Khi dùng Ohm kế đo, kiểm tra các linh kiện có tính phi tuyến, kết quả
đọc trên thang đo Ohm là không có ý nghĩa thực tế, vì sao? Vì ở các
thang đo Ohm khác kết quả đọc được sẽ khác nhau. Thí dụ: Khi đo một
diode, Bạn sẽ thấy số Ohm đọc được trên thang đo Rx1 sẽ khác với số
Ohm đọc được trên thang đo Rx10...Vì linh kiện phi tuyến có trị điện trở
thay đổi theo cường độ dòng điện. Với các linh kiện phi tyuến, Bạn luôn
phải lấy kết quả với một cặp số: đó là mức áp trên linh kiện ứng với
cường độ dòng điện lúc đó. Do vậy Khi đo các diode, Bạn đọc kết quả
trên vạch chia LI sẽ xác định được dòng điện chảy qua linh kiện và lấy
kết quả trên vạch chia LV sẽ biết được mức áp giảm trên 2 chân của
linh kiện. Vậy với Ohm kế có 4 thang đo, đó là Rx1, Rx10, Rx100 và
Rx1K. Bạn sẽ có thể lấy được 4 cặp số ứng với 4 dòng điện, Bạn ghi 4
17. kết quả này lên đồ thị V và I, dùng viết kẻ đường cong qua 4 điểm này,
Bạn sẽ có đường cong đặc tính của linh kiện, từ hình dạng của đường
cong này, Bạn có thể biết được, đó là diode Si hay Ge, biết được công
dụng của diode, biết được diode Schottky...
* Thử Pin:
Thử pin là kiểm tra xem nguồn Pin có còn nhiều điện năng hay đã hết.
Muốn vậy người ta dùngphép đo Volt DC có mang tải. Khi Pin yếu, lúc
đo Volt DC không tải, chúng ta vẫn thấy có đủ Volt, nhưng khi cho pin
mang tải thì sẽ thấy "mất Volt". Với Pin người ta dùng vạch chia màu
xanh ghi là Good, pin còn đủ mạnh, vạch chia màu đỏ ghi là Bad, pin đã
yếu. Như vậy khi dùng phép đo Volt DC thông thường đo trên các pin,
chúng ta không thể biết chính xác là pin còn mới hay đã dùng nhiều rồi,
phải cho pin mang tải, khi mang tải mức áp sụt ít là pin tốt, nếu mức áp
giảm mạnh là pin đã yếu.
* Đo HFE:
18. Với các transistor, quan hệ giữa dòng điện IC trên chân C trên dòng điện
IB trên chân B được hiểu là hệ số khuếch đại dòng HFE . Với các
transistor công suất nhỏ, hệ số HFE thường từ vài chục đến vài trăm. Khi
đo hệ số HFE của các transistor nhỏ, Bạn chuyển về thang đo Rx10,
chập 2 đầu kim chỉnh nút Zero Ohm, sau đó cắm transistor vào đúng
chân E-B-C và đúng loại NPN hay PNP rồi xem kết quả trên vạch chia
hFE. Hệ số HFE còn gọi là hệ số ß, đó là một tham số linh kiện, nói chung
tham số này rất phân tán, nghĩa là trên cùng một nhóm các transistor
cùng mã số, hệ số ß cũng có khác nhau.
Nhắc Bạn: Khi chọn 2 transistor dùng cho tầng khuếch đại vi sai,
Bạn phải chọn 2 transistor cùng mã số, nhưng phải đo hệ số HFE của nó,
phải bằng nhau và khi chọn 2 transistor khác loại NPN và PNP dùng cho
tầng khuếch đại kéo đẩy, Bạn cũng phải đo kiểm tra hệ số HFE của nó,
cũng phải chọn cặp có hệ số khuếch đại dòng bằng nhau.
* Vạch đo độ lợi dB:
19. Người ta còn dùng phép đo Volt AC để xác định độ lợi công suất của
các mạch khuếch đại, kết quả đọc được lấy theo vạch chia db (Deci-
Bell). Khi đo công suất của mạch khuếch đại, Bạn phải tuân thủ các qui
định sau: Tín hiệu tác động phải có dạng Sin, tần số 50Hz. Công
suất tín hiệu ứng với 1VAC đo trên trở kháng 600 Ohm được ghi là 0dB,
vậy khi đo công suất trên các ngả ra Bạn cũng phải có trở kháng là 600
Ohm, nếu kim chỉ +10dB, chúng ta nói mạch khuếch đại có độ lợi công
suất là 10dB, nếu kết quả đo là -5dB, chúng ta nói mạch làm xuy giảm
tín hiệu là -5dB. Ưu điểm của phép đo công suất lấy theo vạch chia
deci-bell là độ lợi của các tầng có thể cho cộng lại, độ xuy giảm thì cho
trừ bớt.
Cách chọn các thang đo
Để có kết quả đo chính xác, Bạn nên chọn thang đo sao cho kim lệch
nằm vào vùng giữa, tránh các vùng có góc lệch quá nhỏ khó đọc được