Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Phân hóa trách nhiệm hình sự trong các quy định của Quốc triều Hình luật – bài học lịch sử cho hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
Trách nhiệm hình sự trong quy định của Quốc triều Hình luật, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO PHƢƠNG THANH
PH¢N HãA TR¸CH NHIÖM H×NH Sù
TRONG C¸C QUY §ÞNH CñA QUèC TRIÒU H×NH LUËT -
BµI HäC LÞCH Sö CHO HOµN THIÖN C¸C QUY §ÞNH
CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM HIÖN HµNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO PHƢƠNG THANH
PH¢N HãA TR¸CH NHIÖM H×NH Sù
TRONG C¸C QUY §ÞNH CñA QUèC TRIÒU H×NH LUËT -
BµI HäC LÞCH Sö CHO HOµN THIÖN C¸C QUY §ÞNH
CñA Bé LUËT H×NH Sù VIÖT NAM HIÖN HµNH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜ I CAM ĐOAN
Đào Phƣơng Thanh
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ VÀ PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.......................... 9
1.1. Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự và phân hóa
trách nhiệm hình sự........................................................................... 9
1.2. Căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự ..........................................16
1.3. Những yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình
sự trong việc quy định tội phạm và hình phạt..............................20
1.3.1. Yêu cầu của phân hóa trách nhiệm hình sự đối với các quy định
về phân loại tội phạm ........................................................................20
1.3.2. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với quy
định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm
hình sự................................................................................................21
1.3.3. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về hệ thống hình phạt .........................................................23
1.3.4. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về quyết định hình phạt......................................................25
1.3.5. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về cấu thành tội phạm.........................................................29
1.3.6. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về chế tài đối với tội phạm cụ thể ......................................31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................33
5. Chƣơng 2: CƠ SỞ VÀ BIỂU HIỆN PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT........................34
2.1. Cơ sở phân hóa trách nhiệm hình sự trong Quốc triều
Hình luật..........................................................................................34
2.1.1. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.......34
2.1.2. Nhân thân ngƣời phạm tội.................................................................41
2.2. Biểu hiện của phân hóa trách nhiệm hình sự trong Quốc
triều Hình luật..................................................................................45
2.2.1. Phân hóa trách nhiệm hình sự qua phân loại tội phạm .....................45
2.2.2. Phân hóa trách nhiệm hình sự trong các biện pháp tha miễn............51
2.2.3. Phân hóa trách nhiệm hình sự qua phân loại hình phạt.....................55
2.2.4. Phân hóa trách nhiệm hình sự qua các quy định về quyết định
hình phạt ............................................................................................64
2.2.5. Phân hóa trách nhiệm hình sự trong việc xây dựng cấu thành tội
phạm và quy định chế tài đối với các tội phạm cụ thể......................79
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................85
Chƣơng 3: BÀI HỌC LỊCH SỬ TỪ PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT........................88
3.1. Bài học thứ nhất, về các loại hình phạt .........................................88
3.2. Bài học thứ hai, về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.......89
3.3. Bài học thứ ba, về kĩ thuật xây dựng cấu thành tội phạm ..........91
3.4. Bài học thứ tƣ, về quy định chế tài cụ thể trong từng cấu
thành tội phạm .................................................................................91
3.5. Bài học thứ năm, về phân hóa trách nhiệm hình sự trong
Đồng phạm.......................................................................................92
3.6. Bài học thứ sáu, về việc sử dụng hình phạt thay thế....................95
3.7. Bài học thứ bẩy, về việc mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
tiền đối với các tội phạm về chức vụ..............................................96
6. 3.8. Bài học thứ tám, về tăng mức phạt tiền đối với các tội phạm
về chức vụ.........................................................................................97
3.9. Bài học thứ chín, về quy định bồi thƣờng thiệt hại......................98
3.10. Bài học thứ mƣời, về trách nhiệm hình sự của pháp nhân .........98
KẾT LUẬN..................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................102
7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải
BLHS Bộ luật hình sự
LHS Luật hình sự
NXB Nhà xuất bản
QTHL Quốc triều Hình luật
TAND Tòa án nhân dân
Tạp chí NN và PL Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật
TNHS Trách nhiệm hình sự
Viện NN và PL Viện Nhà nƣớc và pháp luật
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
“Quốc triều Hình luật” ra đời trong triều đại Hậu Lê – thời kì phát triển
cực thịnh của nhà nƣớc phong kiến ở Việt Nam. Do nhu cầu phát triển của
chế độ Trung ƣơng tập quyền, các vua triều Lê sớm đã ban hành những quy
định và luật lệ để quản lí đất nƣớc.
Ngay từ lúc mới lên ngôi, vua Lê Lợi đã giao cho một số đại thần soạn
luật lệ về kiện tụng, về phân chia ruộng đất, về hình phạt, ân xá,… Đến thời
Lê Thái Tông đã xây dựng những nguyên tắc xử các vụ án kiện cáo, hối lộ
và về những giao dịch với ngƣời nƣớc ngoài. Đời vua Lê Nhân Tông đã ban
hành 14 điều luật về quyền tƣ hữu ruộng đất [22, tr. 28]. Và đỉnh cao của
quá trình xây dựng hệ thống luật pháp của nhà Lê chính là việc ban hành
“Quốc triều Hình luật” (còn gọi là “Bộ luật Hồng Đức” hoặc “Lê triều Hình
luật”) dƣới triều vua Lê Thánh Tông năm 1483. Điều đáng nói là Quốc triều
Hình luật cũng chính là bộ luật cổ xƣa nhất còn lƣu giữ đƣợc đầy đủ cho tới
nay. Văn bản gốc của Bộ luật này hiện nay không còn. Bản “Quốc triều
Hình luật” đƣợc giữ lại cho đến ngày nay đã đƣợc các vua thời Lê mạt bổ
sung ít nhiều, ban hành năm 1777 (Cảnh Hƣng thứ 38). Bộ Quốc triều Hình
luật bao gồm 6 quyển, 722 điều.
Quốc triều Hình luật là một trong những bộ luật quan trọng và giá trị
nhất trong thời kì phong kiến. Nói đến Quốc triều Hình luật ngƣời ta nghĩ
ngay đến một bộ cổ luật có kĩ thuật lập pháp cao, nội dung phong phú, toàn
diện với nhiều giá trị nổi bật trong lịch sử pháp luật Việt Nam nói chung và
pháp luật về hình sự nói riêng. Quốc triều Hình luật không những đƣợc đánh
giá cao hơn hẳn so với những thành tựu pháp luật của các triều đại trƣớc đó
mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa quan trọng đối với việc biên soạn những bộ
9. 2
luật khác của các triều đại phong kiến sau này cũng nhƣ đối với pháp luật
hình sự Việt Nam thời hiện đại. Một trong những giá trị nổi bật của Quốc
triều Hình luật đó là phân hóa trách nhiệm hình sự đƣợc thể hiện nhƣ một
nguyên tắc quan trọng.
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguyên tắc phân hóa
TNHS, về Quốc triều Hình luật. Ở các công trình này, những vấn đề lí luận cơ
bản, hay chuyên sâu về nguyên tắc phân hóa TNHS; nội dung cơ bản, vị trí và
vai trò của Quốc triều hình luật; pháp luật hình sự Việt Nam dƣới góc độ so
sánh các thời kì… đều đã đƣợc đề cập tới. Tuy nhiên, chƣa có một công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu ở cấp độ một luận văn thạc sĩ về nguyên tắc phân
hóa trách nhiệm hình sự đƣợc thể hiện trong Quốc triều Hình luật cũng nhƣ
những giá trị của nó trong việc nghiên cứu hoàn thiện Luật hình sự Việt Nam
Ở Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc trên thế giới hiện nay, nguyên tắc phân
hóa trách nhiệm hình sự có vai trò hết sức quan trọng trong chỉ đạo, định
hƣớng xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự. Trong Bộ luật hình sự 1999,
nguyên tắc này cũng đã đƣợc thể hiện rõ ràng. Tuy nhiên qua nhiều năm thi
hành, những quy định cụ thể của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế cần đƣợc sửa đổi.
Hiện nay, khi mà tình hình kinh tế xã hội trong nƣớc và trên thế giới đã
có nhiều thay đổi so với thời điểm BLHS 1999 ra đời, nƣớc ta đã và đang hội
nhập mạnh mẽ, thì những yêu cầu về việc hoàn thiện pháp luật hình sự cũng
có những sự thay đổi nhất định. Những yêu cầu đó, ngoài việc phải đáp ứng
đƣợc nhu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, phù hợp với các Điều ƣớc
quốc tế mà Việt Nam đã kí kết hoặc gia nhập, còn là giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc theo quan điểm của Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về chiến lƣợc
cải cách tƣ pháp đến năm 2020 “cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống
pháp lí của dân tộc”.
10. 3
Vì những lí do trên, học viên lựa chọn đề tài “Phân hóa trách nhiệm
hình sự trong các quy định của Quốc triều Hình luật – bài học lịch sử cho hoàn
thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành” làm đề tài luận
văn thạc sĩ. Nội dung của luận văn sẽ nhằm giải đáp các câu hỏi: Phân hóa
trách nhiệm hình sự là gì; phân hóa trách nhiệm hình sự đã đƣợc thể hiện nhƣ
thế nào trong các quy định của Quốc triều hình luật; và Luật hình sự Việt Nam
hiện đại sẽ học hỏi đƣợc gì từ Quốc triều hình luật trong phân hóa TNHS.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở trong và ngoài nƣớc đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên tắc
phân hóa TNHS, về luật hình sự Việt Nam thời phong kiến và luật hình sự
Việt Nam hiện đại. Cụ thể:
Nhóm các công trình nghiên cứu về nguyên tắc phân hóa TNHS và
những biểu hiện của nguyên tắc này mà tiêu biểu là: Phạm Văn Báu (2000),
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ luật học, trƣờng đại học Luật Hà Nội; Lê Cảm (2005), Chế định miễn hình
phạt và các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, tạp
chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số 4; Lê Cảm (2005), Chế định án treo và mô hình
lí luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, tạp chí Tòa án nhân dân, số 2; Lê
Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung),
sách chuyên khảo sau đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; Trần Văn Độ
(1995), Các hình phạt không phải phạt tù, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội;
Trần Văn Độ (1999), Vấn đề phân loại tội phạm, tạp chí Nhà nƣớc và Pháp
luật, số 4; Phạm Hồng Hải (2004), Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự và vấn đề áp dụng chế định này trong thực tiễn, sách Trách nhiệm
hình sự - cơ sở lí luận và thực tiễn, trƣờng đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Ngọc
Hòa (1991), Tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân;
Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (1997), Luật Hình sự Việt Nam – những vấn đề lí
11. 4
luận và thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân; Nguyễn Ngọc Hòa (2000), Nguyên
tắc phân hóa Trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự 1999, tạp chí Luật
học, số 2; Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (2001), Trách nhiệm hình sự và hình
phạt, Nxb. Công an nhân dân; Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội
phạm, lí luận và thực tiễn, sách chuyên khảo, Nxb. Tƣ pháp; Nguyễn Ngọc
Hòa (2006), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. CAND; Uông Chu Lƣu
(1995), Một số vấn đề lí luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt bổ
sung, sách Hình phạt trong LHS Việt Nam, Nxb. CTQG; Trƣơng Minh Mạnh
(2003), Phân loại tội phạm theo LHS Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học, Viện
Nhà nƣớc và pháp luật; Dƣơng Tuyết Miên (2004), Định tội danh và quyết
định hình phạt, Nxb. CAND. Nxb. Khoa học (1963); Cao Thị Oanh (2006),
Sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong việc xây dựng các cấu
thành tội phạm cụ thể, tạp chí NN và PL, số 2. Cao Thị Oanh (2006), Biểu
hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong các quy định về chế tài hình sự
thuộc phần các tội phạm, tạp chí NN và PL, số 7; Cao Thị Oanh (2008),
Nguyên tắc phân hóa TNHS trong luật hình sự Việt Nam, luận án tiến sĩ luật
học, trƣờng Đại học Luật Hà Nội; Đỗ Thị Minh Phƣợng (2002), Nguyên tắc
phân hóa TNHS và sự thể hiện của nó trong BLHS năm 1999, luận văn thạc sĩ
luật học, Viện NN và PL; Nguyễn Sơn (2002), Các hình phạt chính trong
LHS Việt Nam, luận án tiến sĩ luật học, Viện NN và PL; Lê Thị Sơn chủ biên
(2004), Quốc triều Hình luật, nội dung và giá trị, Nxb. Khoa học - xã hội, Hà
Nội; Kiều Đình Thụ (1996), Tìm hiểu LHS Việt Nam, Nxb. Tp HCM. Chính
trị quốc gia; Đào Trí Úc (1995), Chính sách hình sự và hình phạt, sách hình
phạt trong LHS Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia; Đào Trí Úc (1999), Bản
chất và vai trò của các nguyên tắc LHS Việt Nam, tạp chí NN và PL, số 1;
Phạm Hùng Việt (1998), Nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa TNHS trong
LHS Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, viện NN và PL; Trịnh Tiến Việt
12. 5
(2013), Tội phạm và TNHS, Nxb. Chính trị quốc gia; Võ Khánh Vinh (1990),
Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình phạt, tạp chí TAND, số 8… Nhìn
chung, các công trình này đã nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự cũng nhƣ những biểu hiện của
nguyên tắc này trong Bộ luật hình sự Việt Nam 1999. Trong các công trình
nghiên cứu đã liệt kê, luận án tiến sĩ luật học “Nguyên tắc phân hóa TNHS
trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Cao Thị Oanh là một công trình
khoa học có giá trị tham khảo lớn, luận án đã làm rõ các nội dung cơ bản của
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự: lịch sử, cơ sở phân hóa, nội dung,
yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với các quy định
trong Bộ luật hình sự, đồng thời, luận văn cũng làm rõ mỗi quan hệ giữa
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và một số nguyên tắc cơ bản khác
của luật hình sự.
Nhóm các công trình nghiên cứu về Luật hình sự Việt Nam thời phong
kiến mà chủ yếu là thông qua 2 bộ cổ luật Quốc triều Hình luật (còn gọi là Bộ
luật Hồng Đức, Lê triều Hình luật) và Hoàng Việt luật lệ, về lịch sử pháp luật
hình sự Việt Nam qua các thời kì nhƣ: Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Vấn đề tội
phạm trong Quốc triều Hình luật, sách Quốc triều Hình luật – lịch sử hình
thành, nội dung và giá trị, chủ biên TS. Lê Thị Sơn, Nxb. Khoa học – Xã hội;
Cao Thị Oanh (2007), Sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong các
tội xâm phạm tính mạng con người trong Hoàng Việt luật lệ, tạp chí NN và
PL, số 3; Lê Thị Sơn (2004), Quốc triều hình luật – lịch sử hình thành, nội
dung và giá trị, Nxb. Khoa học – xã hội, Hà Nội; Lê Thị Sơn (2010), Quốc
triều hình luật và các nguyên tắc của Luật hình sự hiện đại, tạp chí NN và
PL; Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử luật hình sự Việt Nam, Nxb. Trong đó,
sách Quốc triều hình luật – lịch sử hình thành, nội dung và giá trị của tác giả
Lê Thị Sơn (2010) là một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về
13. 6
Quốc triều Hình luật dƣới nhiều góc độ, trong đó có một số nội dung về phân
hóa trách nhiệm hình sự trong Quốc triều Hình luật.
Một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nƣớc ngoài về
phân hóa TNHS nhƣ: Về khái niệm phân hóa và cá thể hóa TNHS của G.N.
Magomedov, Phân hóa TNHS của T.A. Lesvievski và Kostare… về Quốc
triều Hình luật nhƣ Luật và xã hội Việt Nam thế kỉ 17 – 18 của tác giả
Insun Yu (1994)...
Có thể thấy, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguyên tắc
phân hóa TNHS, về Quốc triều hình luật. Ở các công trình này những vấn đề
lí luận cơ bản, hay chuyên sâu về nguyên tắc phân hóa TNHS; nội dung, vị trí
và vai trò của Quốc triều hình luật; pháp luật hình sự Việt Nam dƣới góc độ
so sánh các thời kì… đều đã đƣợc đề cập tới. Tuy nhiên, chƣa có một công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu ở cấp độ một luận văn thạc sĩ về nguyên tắc
phân hóa trách nhiệm hình sự đƣợc thể hiện trong Quốc triều Hình luật cũng
nhƣ những giá trị tri thức của nó trong việc hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm chứng minh phân hóa trách nhiệm đã đƣợc thể
hiện nhƣ một nguyên tắc trong Quốc triều Hình luật, qua đó rút ra những bài
học lịch sử cho việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
hiện hành.
Để đạt đƣợc mục đích nói trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lí luận của nguyên tắc phân hóa TNHS;
Thứ hai, vận dụng các vấn đề lí luận đó vào việc nghiên cứu các quy
định của Quốc triều Hình luật;
Thứ ba, trên cơ sở những kết quả thu đƣợc từ nghiên cứu Quốc triều
Hình luật, nghiên cứu trong mối quan hệ so sánh, đối chiếu với các quy định
14. 7
của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện đại. Từ đó, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
hình sự dựa trên việc kế thừa và phát huy thành tựu phân hóa TNHS của Quốc
triều Hình luật.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm khoa học về
nguyên tắc phân hóa TNHS, các quy định của Quốc triều Hình luật, các quy
định của Bộ luật hình sự 1999 và của luật hình sự một số nƣớc trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu: hiện nay có rất nhiều vấn đề liên quan đến Quốc
triều Hình luật đang đƣợc quan tâm, tuy nhiên, tác giả chỉ thực hiện luận văn
trong phạm vi những vấn đề đƣợc nhìn nhận từ góc độ luật hình sự.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận: Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng
và Nhà nƣớc ta về phòng ngừa và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
Phƣơng pháp nghiên cứu: phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp lịch
sử cụ thể, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp
thống kê…
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đây là luận văn thạc sĩ luật học đầu tiên trong khoa học luật hình sự
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về phân hóa trách nhiệm hình sự trong
Quốc triều Hình luật. Luận văn có một số đóng góp mới sau:
Thứ nhất, chứng minh Phân hóa TNHS đƣợc thể hiện nhƣ một nguyên
tắc trong Quốc triều hình luật;
Thứ hai, phân tích, so sánh và chỉ ra những điểm mang tính kế thừa từ
Quốc triều hình luật trong phân hóa TNHS của Luật hình sự Việt Nam hiện đại;
Thứ ba, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS Việt Nam 1999 trên cơ sở
thực tiễn cũng nhƣ truyền thống pháp lí của đất nƣớc.
15. 8
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chƣơng.
Chương 1: Những vấn đề chung về phân hóa trách nhiệm hình sự và
phân hóa trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Cơ sở, biểu hiện và bài học lịch sử của việc phân hóa trách
nhiệm hình sự trong Quốc triều Hình luật.
16. 9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ
PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Một số vấn đề chung về trách nhiệm hình sự và phân hóa trách
nhiệm hình sự
Trong các loại trách nhiệm pháp lí, trách nhiệm hình sự là dạng trách
nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất. Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau trong khoa học luật hình sự về khái niệm “trách nhiệm hình sự” nhƣ:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, là trách
nhiệm của ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc
quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án
áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
mà ngƣời đó đã thực hiện [36, tr.14]; Trách nhiệm hình sự là hậu quả
pháp lí của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ ngƣời đã gây ra tội phải
chịu trách nhiệm về hành vi của mình trƣớc Nhà nƣớc [47, tr.41];
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lí, bao gồm:
nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình
sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cƣỡng chế của trách nhiệm hình sự
(hình phạt, biện pháp tƣ pháp) và chịu mang án tích [44, tr.21]; …
Các quan điểm đó tuy có sự khác nhau về một số nội dung nhƣ thời
điểm bắt đầu trách nhiệm hình sự, các yếu tố của trách nhiệm hình sự…
nhƣng tựu chung lại, đa số các quan điểm đều phản ánh thống nhất một số
đặc điểm của trách nhiệm hình sự nhƣ sau: 1) Trách nhiệm hình sự là hậu
quả pháp lí của việc thực hiện hành vi phạm tội; 2) Trách nhiệm hình sự chỉ
có thể đƣợc xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật mà
các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện; 3) Trách nhiệm
17. 10
hình sự đƣợc biểu hiện tập trung nhất ở việc ngƣời phạm tội phải chịu biện
pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc là hình phạt; 4) Trách
nhiệm hình sự mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm trƣớc nhà
nƣớc; 5) Trách nhiệm hình sự phải đƣợc phản ánh trong bản án hay quyết
định có hiệu lực pháp luật.
Nhƣ vậy, hình phạt là yếu tố thể hiện tập trung nhất trách nhiệm hình
sự của ngƣời phạm tội. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất
của nhà nƣớc đối với một ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật. Việc áp dụng
hình phạt đối với ngƣời phạm tội là:
Không chỉ nhằm trừng trị ngƣời phạm tội mà còn giáo dục họ
trở thành ngƣời có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và
các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội
mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục ngƣời khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm [37, Điều 27].
Vì vậy, hình phạt vừa có tác động tới chính bản thân ngƣời bị áp dụng,
vừa có ảnh hƣởng răn đe đối với xã hội, qua đó có ý nghĩa trong công cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đối với một ngƣời phạm tội, trong một
trƣờng hợp phạm tội cụ thể, nếu hình phạt đƣợc áp dụng quá nhẹ, không
tƣơng xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng
nhƣ những yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội thì không đạt đƣợc mục đích
trừng trị ngƣời phạm tội, không có tác dụng trong việc phòng ngừa chung.
“Khi đó, các chế tài hình sự không phát huy được hết khả năng răn đe, giáo
dục, lòng tin vào sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật bị xói mòn, thậm
chí có thể phát sinh tư tưởng bất mãn, khinh nhờn pháp luật” [34, tr.12].
Ngƣợc lại, nếu hình phạt đƣợc áp dụng quá nghiêm khắc cũng gây ra những
tác động tiêu cực tƣơng tự:
18. 11
Bất kì một sự nghiêm khắc thái quá nào đều có thể tạo ra sự
phẫn uất, bi quan, mất lòng tin và động cơ tự cải tạo, giáo dục của
ngƣời phạm tội; tạo ra sự thƣơng xót không đáng có của ngƣời khác
đối với ngƣời phạm tội [10, tr.101], sự khắc nghiệt… làm cho hình
phạt trở nên không có kết quả [2, tr.123].
Tuy nhiên, trong thực tế các trƣờng hợp phạm tội rất đa dạng, khác
nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cũng nhƣ các yếu tố nhân thân của
chủ thể. Vì vậy:
Việc tạo ra cơ sở pháp lí trong luật hình sự để có thể quyết
định trách nhiệm hình sự ở mức phù hợp với mỗi trƣờng hợp
phạm tội cụ thể cũng nhƣ việc xây dựng và áp dụng luật tuân thủ
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự là một yêu cầu mang
tính khách quan [34, tr.6].
Trong đời sống xã hội, thuật ngữ “phân hóa” nói chung đƣợc hiểu là
“tính khác biệt, sự khác nhau, sự phân chia, sự chia tách cái tổng thể ra từng
bộ phận, các hình thức và các mức độ khác nhau”, hoặc “chia ra thành nhiều
bộ phận khác hẳn nhau” [34, tr.6]. Nhƣ vậy, phân hóa nói chung đƣợc hiểu là
sự phân loại một sự vật thành các bộ phận khác nhau dựa trên những tiêu chí
nhất định. Từ khái niệm phân hóa đó, phân hóa trách nhiệm hình sự có thể
đƣợc hiểu là “sự phân chia các trường hợp phạm tội thành những nhóm khác
nhau dựa vào tính nguy hiểm cho xã hội của chúng và các đặc điểm nhân
thân loại người phạm tội, đồng thời, quy định và áp dụng với chúng “liều
lượng” trách nhiệm hình sự phù hợp” [34, tr.6 – 7].
Về vấn đề có coi phân hóa trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc của
luật hình sự hay không, tuy còn có những quan điểm khác nhau về tên gọi của
nguyên tắc, về việc xác định nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự là
nguyên tắc đặc trƣng của luật hình sự hay là nguyên tắc liên ngành… nhƣng
19. 12
nhìn chung, các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng phân hóa trách nhiệm
hình sự là một nguyên tắc của luật hình sự. Có thể kể đến một số nhà khoa
học nhƣ: các tác giả G.A.Zlôbin, S.G.Kelina, A.M.Jakovlev khẳng định
“Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự là một trong những nguyên tắc
của chính sách hình sự” [34, tr.9]; GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng luật hình sự
Việt Nam bao gồm bảy nguyên tắc, trong đó có “Nguyên tắc công minh, hay
còn gọi là nguyên tắc công bằng hoặc nguyên tắc phân hóa và cá thể hóa
trách nhiệm hình sự” [5, tr.203]; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng “vấn đề
phân hóa và cá thể hóa trách nhiệm hình sự được đặt ra và được coi là một
nguyên tắc của luật hình sự” [18, tr.28]; TS. Đỗ Thị Minh Phƣợng cho rằng
“Phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt là hai nguyên tắc có
quan hệ biện chứng với nhau” [35, tr.21]… Nhƣ vậy, đa số các tác giả đều
thống nhất trong việc thừa nhận phân hóa trách nhiệm hình sự là một
nguyên tắc của luật hình sự. Phân hóa trách nhiệm hình sự đƣợc thừa nhận
là một nguyên tắc của luật hình sự vì các lí do sau:
Thứ nhất: phân hóa trách nhiệm hình sự có cơ sở là sự đa dạng về mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân ngƣời phạm tội trong
thực tiễn, gắn với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Tội phạm đƣợc thực hiện trong thực tiễn rất đa dạng và khác nhau về
tính nguy hiểm cho xã hội. Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, những hành vi
phạm tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân và điều kiện
phát sinh, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại mà còn có sự khác
nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội
gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng nhƣ ở nhiều tình tiết khác quan và chủ quan
khác. Nguyên nhân của sự khác biệt có thể là sự khác biệt về tầm quan trọng
của quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, về hậu
quả của tội phạm, về tính chất và mức độ lỗi (lỗi cố ý hay lỗi vô ý, cố ý trực
20. 13
tiếp hay cố ý gián tiếp, vô ý vì cẩu thả hay vô ý vì quá tự tin), về hoàn cảnh
thực hiện tội phạm, về chủ thể thực hiện tội phạm (các yếu tố nhân thân khác
nhau nhƣ độ tuổi, giới tính, tái phạm…), về hình thức thực hiện tội phạm (tội
phạm đơn lẻ hay đồng phạm, phạm tội có tổ chức), về các giai đoạn thực hiện
tội phạm (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt hay tội phạm hoàn thành)…
Những khác biệt về các yếu tố cụ thể của tội phạm dẫn đến sự khác biệt về tính
nguy hiểm cho xã hội của các trƣờng hợp phạm tội khác nhau. “Cơ sở này giữ
vai trò quyết định trong việc đặt ra yêu cầu xử lí theo hướng phân hóa các
hành vi phạm tội bởi vì việc xử lí tội phạm chỉ thực sự có hiệu quả khi chế tài
tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm” [34, tr.11].
Nhân thân ngƣời phạm tội cũng có thể tạo ra sự khác biệt giữa các
trƣờng hợp phạm tội. Có những yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội ảnh hƣởng
đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nhƣ trình độ học vấn, ý thức chính
trị, ý thức pháp luật của ngƣời phạm tội,…. Đồng thời, một số đặc điểm nhân
thân có thể phản ánh khả năng giáo dục khác nhau hoặc phản ánh hoàn cảnh
đặc biệt của ngƣời phạm tội nhƣ tuổi của ngƣời phạm tội, ngƣời phạm tội là
phụ nữ có thai, ngƣời phạm tội là ngƣời chƣa thành niên,… Những đặc điểm
khác biệt này cũng cần đƣợc xem xét khi áp dụng trách nhiệm hình sự, vì hiệu
quả của biện pháp xử lí hình sự đƣợc áp dụng phần nào phụ thuộc vào mức độ
phù hợp của biện pháp đó với các đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội.
Nhƣ vậy, sự đa dạng về tính nguy hiểm cho xã hội tội phạm
và nhân thân ngƣời phạm tội đặt ra yêu cầu xử lí tội phạm theo
hƣớng phân hóa để đảm bảo biện pháp xử lí đối với mỗi trƣờng hợp
phạm tội tƣơng xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và
phù hợp với nhân thân ngƣời phạm tội. Đó chính là điều kiện để
những ngƣời bị xử lí tự giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật
cũng nhƣ để mọi ngƣời tin tƣởng vào sự nghiêm minh của pháp luật
21. 14
và nhờ đó lợi ích của nhà nƣớc, của xã hội, của cá nhân đƣợc đảm
bảo ở mức độ tốt nhất. Ngƣợc lại, nếu phân hóa trách nhiệm hình sự
không trở thành một nguyên tắc của luật hình sự thì việc quy định
và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội có thể
không tƣơng xứng với tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
hoặc không phù hợp với các đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội.
Khi đó, các chế tài hình sự không phát huy đƣợc hết khả năng răn
đe, giáo dục, lòng tin vào sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật
bị xói mòn, thậm chí có thể phát sinh tƣ tƣởng bất mãn, khinh nhờn
pháp luật. Tất cả các hiện tƣợng đó đều ảnh hƣởng tiêu cực đối với
trật tự pháp luật. Nói cách khác, phân hóa trách nhiệm hình sự cần
phải trở thành tƣ tƣởng chỉ đạo, định hƣớng đối với toàn bộ quá
trình quy định tội phạm và trách nhiệm hình sự và việc phân hóa
trách nhiệm hình sự trở thành một nguyên tắc của luật hình sự là
một yêu cầu khách quan [34, tr.11 – 12].
Thứ hai: phân hóa trách nhiệm hình sự đƣợc thể hiện trên ba phƣơng
diện là phƣơng diện nhận thức, phƣơng diện lập pháp hình sự và phƣơng diện
áp dụng pháp luật hình sự.
Ở phƣơng diện nhận thức, phân hóa trách nhiệm hình sự thể hiện qua
sự nhận thức của Nhà nƣớc, của các nhà làm luật về sự cần thiết của việc xử lí
theo hƣớng phân hóa với các trƣờng hợp phạm tội khác nhau và đƣợc biểu
hiện qua các chính sách hình sự của Nhà nƣớc. Sự thể hiện của nguyên tắc
phân hóa trách nhiệm hình sự ở phƣơng diện này tác động trực tiếp đến sự thể
hiện nguyên tắc này ở hai phƣơng diện còn lại. Chính sách phân hóa trách
nhiệm hình sự giữ vai trò định hƣớng, chỉ đạo trong hoạt động xây dựng và
hoạt động áp dụng luật hình sự.
Ở phƣơng diện lập pháp hình sự, các nhà làm luật trong quá trình xây
22. 15
dựng luật hình sự sẽ thể chế hóa chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự.
Nhƣ vậy, việc phân hóa trách nhiệm hình sự luôn luôn phụ thuộc vào chính
sách hình sự của nhà nƣớc, vào quan điểm của nhà nƣớc về tội phạm và yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là nguyên nhân của sự khác biệt về
nội dung và mức độ phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự của các
Nhà nƣớc khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau.
Ở phƣơng diện áp dụng luật hình sự, phân hóa trách nhiệm hình sự tạo
ra cơ sở định hƣớng để chủ thể áp dụng luật hình sự thực hiện tốt yêu cầu cá
thể hóa trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở nhận thức về phân hóa trách nhiệm
hình sự và cụ thể hóa nhận thức đó trong việc xây dựng luật hình sự bằng các
biểu hiện nhƣ: phân hóa tội phạm thành các loại khác nhau, quy định hệ thống
hình phạt thành nhiều loại hình phạt có tính nghiêm khắc khác nhau, quy định
chế tài khác nhau đối với các tội phạm khác nhau về tính nguy hiểm cho xã
hội… Đây chính là cơ sở để cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong những
trƣờng hợp phạm tội cụ thể. Khi tiến hành xác định trách nhiệm hình sự cho
từng trƣờng hợp phạm tội, các cơ quan áp dụng luật vận dụng đƣờng lối phân
hóa trách nhiệm hình sự vào từng trƣờng hợp cụ thể để giải quyết vấn đề trách
nhiệm hình sự cho từng ngƣời phạm tội cụ thể.
Nhƣ vậy, phân hóa trách nhiệm hình sự vừa xuất phát từ cơ sở thực tiễn
là sự đa dạng về tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, vừa luôn thể hiện
vai trò định hƣớng, chỉ đạo quá trình xây dựng và áp dụng luật hình sự. Phân
hóa trách nhiệm hình sự là “tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được
thể hiện trong pháp luật hình sự, cũng như trong giải thích và trong áp dụng
pháp luật hình sự” [5, tr.201]. Do đó, nó hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu đối với
một nguyên tắc của luật hình sự - nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự,
với nội dung là: trách nhiệm hình sự đƣợc quy định và áp dụng phải mang
tính phân hóa để đảm bảo tƣơng xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và phù hợp với nhân thân ngƣời phạm tội.
23. 16
1.2. Căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự
Căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự chính là tiêu chí đƣợc nhà làm
luật sử dụng để phân tội phạm thành những nhóm khác nhau. Những tiêu chí
này phải đáp ứng đƣợc yêu cầu là khi đƣợc sử dụng để phân chia các trƣờng
hợp phạm tội thì có thể tạo ra những nhóm trƣờng hợp phạm tội cần đƣơc xử
lí một cách khác biệt. Thực tiễn lập pháp hình sự cho thấy, luật hình sự sử
dụng hai căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự là tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm và nhân thân ngƣời phạm tội.
Căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự thứ nhất: tính nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, về khách quan, là “gây ra hoặc
đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ” [20, tr.52]. Tính nguy hiểm cho xã hội là đặc tính thể hiện bản chất
của tội phạm, mà trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với một ngƣời khi ngƣời đó
phạm tội. Vì vậy, gắn liền với vấn đề trách nhiệm hình sự, nhà làm luật bao giờ
cũng phải quan tâm đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Tuy nhiên, tội phạm đƣợc thực hiện trong thực tiễn rất khác nhau về tính
nguy hiểm cho xã hội. Sự khác biệt đó không chỉ tồn tại giữa những trƣờng hợp
thực hiện tội phạm khác nhau mà còn tồn tại ngay cả trong trƣờng hợp thực
hiện cùng một loại tội phạm. Những hành vi phạm tội cụ thể không những có
sự khác nhau về nguyên nhân và điều kiện phát sinh, về tính chất của các quan
hệ xã hội bị xâm hại mà còn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy
hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng nhƣ ở
nhiều tình tiết khác quan và chủ quan khác. Sự khác biệt có thể xuất phát từ sự
khác biệt về tầm quan trọng của quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ và bị
tội phạm xâm hại, về hậu quả của tội phạm, về tính chất và mức độ lỗi, về hoàn
cảnh thực hiện tội phạm, về chủ thể thực hiện tội phạm, về hình thức thực hiện
24. 17
tội phạm, về các giai đoạn thực hiện tội phạm… Những khác biệt về các yếu tố
cụ thể của tội phạm dẫn đến sự khác biệt về tính nguy hiểm cho xã hội của các
trƣờng hợp phạm tội khác nhau. Về vấn đề này, C. Mác cho rằng việc trừng trị
tội phạm phải là sự trừng trị chính hành vi của ngƣời đó, nhƣng sự trừng trị
cũng phải có giới hạn, có “mức độ” nhất định. Giới hạn của sự trừng phạt
ngƣời phạm tội phải là giới hạn hành vi của họ:
Nếu nhƣ khái niệm tội phạm giả định phải có sự trừng phạt,
thì tội phạm thực tế lại giả định phải có một mức độ trừng phạt nhất
định. Tội phạm thực tế là có giới hạn, dầu chỉ là để cho nó có tính
chất thực tế, nó phải đƣợc hạn chế bởi nguyên tắc của pháp luật để
trở thành hợp pháp. Vấn đề là ở chỗ làm cho sự trừng phạt trở thành
hậu quả thực tế của việc phạm tội. Dƣới con mắt của kẻ phạm tội,
sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi của chính ngƣời đó
– do đó phải là hành vi của chính ngƣời đó. Giới hạn của hành vi
của y phải là giới hạn của sự trừng phạt [2, tr.169].
Nhƣ vậy, tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đƣợc sử dụng là căn
cứ phân tội phạm thành những nhóm khác nhau là yêu cầu khách quan, bởi: 1)
Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu thể hiện bản chất của tội phạm; 2) Tội
phạm trên thực tế rất khác nhau về tính nguy hiểm cho xã hội.
Với vai trò quan trọng đặc biệt, căn cứ tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm phải đƣợc sử dụng trong mọi trƣờng hợp cần tiến hành phân hóa
trách nhiệm hình sự. “Ngay cả trong những trường hợp đặc điểm nhân thân
người phạm tội ảnh hưởng đáng kể đến mức độ trách nhiệm hình sự được quy
định và áp dụng thì căn cứ nhân thân người phạm tội không thể thay thế được
vai trò của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm” [34, tr.23].
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đƣợc phản ánh qua những yếu
tố khác nhau nhƣ: tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất của hành
25. 18
vi phạm tội, hình thức của tội phạm, hoàn cảnh, thời gian, địa điểm phạm tội,
mức độ hậu quả của tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra, tính chất và mức độ
lỗi… Do đó, để xác định đúng mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm cần phải đánh giá một cách tổng hợp tất cả các yếu tố có liên quan.
Trong việc phân hóa trách nhiệm hình sự dựa trên cơ sở tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, nhà làm luật cần lựa chọn những trƣờng hợp phạm tội
có tính nguy hiểm tƣơng đƣơng nhau để xếp chúng vào cùng một nhóm và
tách những trƣờng hợp có sự khác biệt đáng kể về tính nguy hiểm cho xã hội
thành các nhóm khác nhau. Tuy nhiên, nhà làm luật không nên chia tách các
hành vi có tình nguy hiểm cho xã hội tƣơng đƣơng nhau thành các nhóm khác
nhau vì sẽ gây nên tình trạng quy phạm pháp luật trở nên vụn vặt, sự phân hóa
trách nhiệm hình sự trở thành quá chi tiết. Tƣơng tự, nhà làm luật cũng không
nên nhập những tƣờng hợp phạm tội có sự khác biệt rõ rệt về tính nguy hiểm
cho xã hội vào cùng một nhóm vì sự phân hóa nhƣ vậy sẽ là quá khái quát,
gây khó khăn trong cá thể hóa trách nhiệm hình sự khi áp dụng pháp luật. Với
mỗi nhóm trƣờng hợp phạm tội đã đƣợc phân hóa, nhà làm luật cần quy định
loại và mức độ trách nhiệm hình sự phù hợp; xác định rõ nhóm đƣợc miễn
hoặc có thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự, nhóm cần áp dụng hình phạt và
nhóm có thể đƣợc miễn hình phạt… sao cho đảm bảo tƣơng xứng giữa trách
nhiệm hình sự và tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ thể đã thực hiện.
Trong việc phân hóa biện pháp xử lí nêu trên, nhà làm luật không nên quy
định trong luật một khung chế tài có biên độ dao động lớn vì điều đó sẽ tạo ra
những quy phạm pháp luật có tính phân hóa không cao, dễ dẫn đến việc áp
dụng pháp luật tùy tiện hoặc không thống nhất.
Căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự thứ hai: nhân thân người phạm tội
Nhân thân ngƣời phạm tội trong luật hình sự đƣợc hiểu là “tổng hợp
những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải
26. 19
quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ” [20, tr.131], nhƣ: tuổi,
nghề nghiệp, ý thức chấp hành pháp luật, trình độ học vấn, tiền án… Nhân
thân của ngƣời phạm tội vừa có thể ảnh hƣởng đến tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, vừa phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục ngƣời phạm
tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cần phải xác định:
Loại và mức hình phạt cụ thể không chỉ tƣơng xứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà còn phù hợp
với những đặc điểm về nhân thân của ngƣời phạm tội để đảm bảo
hình phạt đã tuyên đạt đƣợc mục đích trừng trị và cải tạo, giáo dục
ngƣời phạm tội [20, tr.198].
Nhƣ vậy, nhân thân ngƣời phạm tội có vai trò quan trọng trong việc xác
định trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội.
Tóm lại, nhân thân ngƣời phạm tội đƣợc sử dụng là căn cứ phân hóa
trách nhiệm hình sự vì: 1) Nhân thân ngƣời phạm tội là một trong những yếu
tố phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, mà tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là một căn cứ phân hóa trách
nhiệm hình sự; 2) Mục đích của trách nhiệm hình sự, ngoài việc trừng trị
ngƣời phạm tội, còn nhằm “thay đổi bản chất xã hội trong nhân thân người
đó, ngăn ngừa họ phạm tội mới” [34, tr.28], để đạt đƣợc mục đích này, trong
quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, còn cần cân nhắc đến các yếu tố nhân thân phản
ánh hoàn cảnh của ngƣời phạm tội và khả năng cải tạo giáo dục họ.
Để đảm bảo giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự trong thực
tế, phân hóa trách nhiệm hình sự dựa trên cơ sở nhân thân ngƣời phạm tội cần
thực hiện theo nguyên tắc:
Khả năng giáo dục đối với nhóm ngƣời phạm tội càng thấp
thì mức độ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với họ càng phải
27. 20
nghiêm khắc. Trong những trƣờng hợp tội phạm đƣợc thực hiện có
tính nguy hiểm cho xã hội tƣơng đƣơng nhau, trƣờng hợp nào
ngƣời phạm tội thể hiện khả năng giáo dục cao hơn thì trƣờng hợp
đó phải đƣợc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự ít nghiêm
khắc hơn. Ngƣợc lại, trƣờng hợp nào ngƣời phạm tội thể hiện khả
năng giáo dục thấp hơn thì trƣờng hợp đó phải đƣợc quy định và áp
dụng trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn. Ngoài ra, hoàn cảnh
đặc biệt của ngƣời phạm tội cũng là yếu tố cần đƣợc cân nhắc khi
xác định trách nhiệm hình sự của họ [34, tr.27 – 28].
Trong hai căn cứ phân hóa trách nhiệm hình sự, tính nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm phải đƣợc xem là căn cứ chủ đạo quy định sự khác biệt về
trách nhiệm hình sự. Căn cứ phân hóa thứ hai - nhân thân ngƣời phạm tội - là
căn cứ đƣợc sử dụng mang tính bổ sung cho căn cứ tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm.
1.3. Những yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
trong việc quy định tội phạm và hình phạt
1.3.1. Yêu cầu của phân hóa trách nhiệm hình sự đối với các quy
định về phân loại tội phạm
Biểu hiện đầu tiên của sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong
luật là sự phân loại tội phạm theo mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội. Sự phân loại này không chỉ là biểu hiện cơ bản của sự phân
hóa trách nhiệm hình sự trong luật mà còn là cơ sở pháp lí thống
nhất cho sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong các chế định của
phần chung cũng nhƣ ở các tội phạm cụ thể… [15, tr.40].
Yêu cầu này xuất phát từ thực tế khách quan là những hành vi phạm
tội đƣợc thực hiện rất đa dạng, rất khác nhau về tính nguy hiểm cho xã hội.
Thực tế đó đòi hỏi trong luật hình sự phải có sự phân loại các hành vi có mức
28. 21
độ nguy hiểm cho xã hội tƣơng đƣơng nhau vào thành một nhóm và quy định
với chúng các hình thức xử lí khác nhau. Việc làm này chính là phân loại tội
phạm dựa trên mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong luật
hình sự, việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất lớn:
Đối với việc xây dựng một loạt chế định ở phần chung nhƣ:
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt, che giấu tội phạm, không tố
giác tội phạm, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự, xóa án và xây dựng các cấu thành tội phạm cụ
thể ở phần các tội phạm của Bộ luật hình sự [51, tr.50].
Để thực hiện việc phân loại tội phạm, các nhà làm luật cần đánh giá
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thông qua việc đánh giá từng yếu tố
có ảnh hƣởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội nhƣ: quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại,
tính chất của hành vi khách quan, công cụ, phƣơng tiện, thời gian, thủ đoạn
thực hiện hành vi, tính chất và mức độ lỗi, động cơ và mục đích phạm tội, các
yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội…
Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với việc
phân loại tội phạm là:
Nhà làm luật cần phân hóa tội phạm thành các nhóm sao cho
các trƣờng hợp phạm tội thuộc các nhóm khác nhau đáng kể về mức
độ của tính nguy hiểm cho xã hội và kết quả phân loại này có thể
đƣợc sử dụng để xây dựng đƣờng lối xử lí thống nhất mang tính
phân hóa cao trong các quy định của luật hình sự [34, tr.63].
1.3.2. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với quy
định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do luật định mà khi
hết thời hạn đó thì ngƣời phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
29. 22
hành vi phạm tội đã thực hiện. Việc quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự trong luật nhƣ thế nào sẽ có ảnh hƣởng trực tiếp đến hoạt động truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Trên thực tế, các hành vi
phạm tội rất khác nhau về tính nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy đặt ra yêu cầu
quy định thời hạn khác nhau tƣơng ứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong luật hình sự. Nói
cách khác, cần có sự phân hóa trong việc quy định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự. Sự phân hóa này cần đáp ứng yêu cầu:
Phân hóa tội phạm theo tính nguy hiểm cho xã hội để quy
định đối với chúng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự khác
nhau một cách phù hợp theo hƣớng: tội phạm càng nguy hiểm thì
thời hạn để không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời phạm tội
càng dài. Đặc biệt, chỉ nên quy định không áp dụng thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với những tội có tính nguy hiểm cho xã
hội rất cao [34, tr.67].
Miễn trách nhiệm hình sự, cùng với quy định về thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, là các chế định thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự. Miễn
trách nhiệm hình sự là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi phạm tội của mình khi họ thỏa mãn những điều kiện luật định.
Quy định về miễn trách nhiệm hình sự sẽ có ảnh hƣởng trực tiếp đến vấn đề
trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội. Trong chế định miễn trách nhiệm hình
sự, bên cạnh yếu tố tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội có vai trò rất quan trọng.
Khác với quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, khi
quy định về miễn trách nhiệm hình sự, thực tiễn lập pháp hình sự ở
nƣớc ta cho thấy căn cứ nhân thân ngƣời phạm tội lại trở thành căn cứ
quan trọng [34, tr.68]. Do vậy, đối với các trƣờng hợp đƣợc miễn trách
30. 23
nhiệm hình sự, nhà làm luật cần quy định điều kiện thể hiện tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm rất thấp trong khi các đặc điểm nhân thân
ngƣời phạm tội lại rất đáng đƣợc khoan hồng [34, tr.69].
1.3.3. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về hệ thống hình phạt
Hình phạt là dạng thực hiện trách nhiệm hình sự chủ yếu nhất, đƣợc
xem là nội dung quan trọng nhất của trách nhiệm hình sự. Mối quan hệ giữa
tội phạm và hình phạt là mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Hình phạt
là hậu quả pháp lí của việc một ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Sự khác
nhau thực tế về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng nhƣ
các đặc điểm nhân thân ngƣời phạm tội phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo
đối với họ là yêu cầu khách quan, đòi hỏi trong luật hình sự phải có các hình
phạt khác nhau để khi áp dụng đảm bảo tính phù hợp, thực hiện mục đích
phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. PGS.TS. Cao Thị
Oanh cho rằng:
Việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với những ngƣời
thực hiện các hành vi phạm tội khác nhau có thực hiện đƣợc hay
không phụ thuộc một cách cơ bản vào việc nhà làm luật có tạo ra cơ
sở pháp lí để ngƣời áp dụng pháp luật xử lí khác nhau đối với
những trƣờng hợp mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm hoặc nhân thân ngƣời phạm tội có sự khác biệt rõ rệt hay
không. Điều đó thể hiện rằng, nhà làm luật cần quy định một hệ
thống hình phạt đủ đa dạng đến mức ngƣời áp dụng pháp luật có thể
thực hiện tốt sự lựa chọn đó… Đồng thời, hệ thống hình phạt đƣợc
xây dựng phải chứa đựng khả năng phù hợp với việc áp dụng trong
thực tiễn đối với mọi trƣờng hợp phạm tội có thể xảy ra [34, tr.70].
31. 24
GS.TS. Lê Cảm cũng cho rằng một hệ thống hình phạt trong luật hình
sự phải đáp ứng đƣợc bốn yêu cầu sau:
Hệ thống hình phạt trong phần chung phải đƣợc xây dựng
một cách khoa học, cân đối và hợp lí để làm cơ sở cho việc quy
định một cách chính xác các chế tài cụ thể đối với các tội phạm
tƣơng ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự;
Việc quy định trình tự áp dụng của các loại hình phạt phải
tƣơng ứng với sự phân chia các tội phạm thành các loại nhất định
trong Phần chung Bộ luật Hình sự;
Trong hệ thống hình phạt phải thể hiện rõ đƣợc tính chất và
mức độ nghiêm khắc khác nhau của các loại hình phạt tƣơng ứng
với mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của các loại tội phạm
đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự;
Trong hệ thống hình phạt phải quy định một cách cụ thể, rõ
ràng và chính xác trình tự, các căn cứ và những điều kiện áp dụng
của từng loại hình phạt nói chung, cũng nhƣ giới hạn tối thiểu và tối
đa của các loại hình phạt có thời hạn nói riêng [5, tr.690].
Nhƣ vậy, hệ thống hình phạt trong luật hình sự đáp ứng yêu cầu phân
hóa trách nhiệm hình sự là hệ thống hình phạt bao gồm đa dạng hình phạt với
các mức độ nghiêm khắc khác nhau để đảm bảo khả năng áp dụng với các
trƣờng hợp phạm tội đa dạng về mức độ nguy hiểm cho xã hội và nhân thân
ngƣời phạm tội trên thực tế. Hệ thống hình phạt nên bao gồm hình phạt chính
và hình phạt bổ sung đƣợc áp dụng kèm theo hình phạt chính có tác dụng hỗ
trợ hình phạt chính, đúng nhƣ PGS.TS. Trịnh Quốc Toản khẳng định:
Nhà làm luật phải quy định đƣợc một hệ thống hình phạt đa
dạng và phong phú, gồm nhiều loại hình phạt khác nhau, bao gồm
không chỉ các hình phạt chính mà cả các hình phạt bổ sung, trong
32. 25
đó đối với mỗi loại hình phạt có quy định đầy đủ nội dung, điều
kiện, phạm vi, thời hạn áp dụng cụ thể, có công dụng xã hội khác
nhau, có chế độ chấp hành khác nhau… [43, tr.69].
1.3.4. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là việc tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình
phạt cụ thể để áp dụng đối với từng trƣờng hợp phạm tội. Đây chính là hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách
nhiệm hình sự đối với quy định về quyết định hình phạt đƣợc thể hiện trên các
khía cạnh sau:
Thứ nhất: yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối
với quy định về căn cứ quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt là những yếu tố đƣợc sử dụng để quyết
định loại và mức hình phạt đối với ngƣời phạm tội. Có thể thấy, căn cứ quyết
định hình phạt có ảnh hƣởng trực tiếp đến trách nhiệm hình sự của ngƣời
phạm tội, do vậy, các căn cứ quyết định hình phạt cần phải đƣợc quy định
trong luật. Với ý nghĩa chuyển tải đƣờng lối xử lí về hình sự trong luật vào
thực tiễn áp dụng, các quy định của luật hình sự về căn cứ quyết định hình
phạt phải cho thấy sự phân hóa để đảm bảo loại và mức hình phạt áp dụng với
ngƣời phạm tội là hoàn toàn phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội cũng nhƣ phù hợp với các yếu tố nhân thân của họ.
“Để có thể đạt được ở mức độ tối đa các mục đích của việc áp dụng hình
phạt, các yếu tố được cân nhắc khi quyết định loại và mức hình phạt phải
phản ánh đúng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người
phạm tội” [34, tr.76].
Nhƣ vậy, yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
33. 26
các quy định về căn cứ quyết định hình phạt là: các quy định này phải thể
hiện đƣợc yêu cầu xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội cụ thể và các yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội đó.
Thứ hai, yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt
Thực tế tồn tại những trƣờng hợp một hành vi nguy hiểm đã đủ yếu tố
cấu thành tội phạm hoặc rơi vào khung hình phạt tăng nặng của một điều luật,
tuy nhiên, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng nhƣ các yếu tố
nhân thân ngƣời phạm tội cho thấy, ngay cả việc áp dụng mức hình phạt tối
thiểu đối với ngƣời phạm tội cũng là quá nghiêm khắc với ngƣời phạm tội.
Giải quyết vấn đề này, luật hình sự của nhiều nƣớc cho phép Tòa án quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của điều luật. Ví dụ, Điều 47 BLHS Việt
Nam quy định:
Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt
dƣới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định
nhƣng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật;
trong trƣờng hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung
hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án
có thể quyết định một hình phạt dƣới mức thấp nhất của khung hoặc
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lí do của việc
giảm nhẹ phải đƣợc ghi rõ trong bản án [37, Điều 47].
Bộ luật hình sự Nga cũng có quy định tƣơng tự tại Điều 65 [37; Điều
65]. Từ những căn cứ trên, chúng tôi cho rằng yêu cầu phân hóa trách nhiệm
hình sự trong trƣờng hợp mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng nhƣ
các yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội cho thấy, ngay cả việc áp dụng mức hình
phạt tối thiểu đối với ngƣời phạm tội cũng là quá nghiêm khắc với ngƣời
34. 27
phạm tội là: 1) Luật hình sự cần có quy định cho phép quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của luật; 2) Cần quy định các căn cứ cho thấy mức độ nguy
hiểm thấp cũng nhƣ những yếu tố nhân thân giảm nhẹ đặc biệt của ngƣời
phạm tội làm điều kiện cho phép quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
điều luật; 3) Cần quy định giới hạn hình của phạt nhẹ hơn đó.
Trƣờng hợp tội phạm chƣa hoàn thành: trong thực tế, các hành vi
phạm tội cố ý có thể dừng lại ở các giai đoạn khác nhau: tội phạm chƣa hoàn
thành và tội phạm đã hoàn thành. Tội phạm chƣa hoàn thành lại có các mức
độ khác nhau: chƣa bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội nhƣng đã có hành vi
tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, đã thực hiện tội phạm
nhƣng chƣa thực hiện hết các hành vi khách quan đƣợc mô tả trong cấu
thành tội phạm, đã thực hiện hết các hành vi khách quan trong cấu thành tội
phạm nhƣng hậu quả của tội phạm chƣa xảy ra. Ở mỗi giai đoạn đó, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ khác nhau. Tội phạm đã hoàn thành thì
đƣơng nhiên mức độ nguy hiểm cho xã hội sẽ cao hơn các trƣờng hợp tội
phạm chƣa hoàn thành. Tội phạm chƣa hoàn thành nhƣng ngƣời phạm tội đã
thực hiện hết hành vi khách quan đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm thì
mức độ nguy hiểm cao hơn trƣờng hợp ngƣời phạm tội chƣa thực hiện hết
các hành vi khách quan đƣợc mô tả… Điều đó dẫn đến yêu cầu khách quan
về việc phân hóa trách nhiệm hình sự dựa trên các mức độ, hay các giai đoạn
thực hiện tội phạm. Đồng thời đòi hỏi trách nhiệm hình sự trong trƣờng hợp
tội phạm chƣa hoàn thành phải ở mức nhẹ hơn so với trƣờng hợp tội phạm
đã hoàn thành đối với cùng một tội.
Trƣờng hợp đồng phạm: tội phạm diễn ra trên thực tế có thể khác nhau
về loại chủ thể thực hiện, về phƣơng thức, thủ đoạn, động cơ… và về số
lƣợng ngƣời tham gia thực hiện tội phạm. Trƣờng hợp có nhiều ngƣời cố ý
cùng thực hiện tội phạm là trƣờng hợp phạm tội dƣới hình thức đồng phạm.
35. 28
So với các trƣờng hợp phạm tội thông thƣờng khác, trong vụ đồng phạm,
những ngƣời phạm tội có thể gây ra thiệt hại lớn hơn, những ngƣời phạm tội
có thể dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội của mình cũng nhƣ dễ dàng xóa các
dấu vết của tội phạm hơn… Điều đó cho thấy, phạm tội dƣới hình thức đồng
phạm, trong những điều kiện tƣơng tự nhau thì nguy hiểm hơn phạm tội đơn
lẻ, vì vậy, cần quy định trách nhiệm hình sự trong trƣờng hợp đồng phạm
nặng hơn so với các trƣờng hợp phạm tội thông thƣờng. Bên cạnh đó, “trong
vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng tội nhưng tính chất và
mức độ tham gia của mỗi người có khác nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi của mỗi người cũng khác nhau” [20, tr.195], vì vậy, trách nhiệm
hình sự của mỗi ngƣời đồng phạm phải đƣợc xác định khác nhau. Sự phân
chia này có thể không giống nhau ở luật hình sự mỗi nƣớc nhƣng cần đảm
bảo có sự phân hóa trách nhiệm hình sự đối với những ngƣời đồng phạm dựa
trên dạng hành vi và mức độ tham gia của họ vào vụ đồng phạm. Nhƣ vậy,
yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với trƣờng hợp
đồng phạm là: 1) Quy định trách nhiệm hình sự khác nhau cho các trƣờng hợp
đồng phạm và phạm tội có tổ chức theo hƣớng trách nhiệm hình sự trong
trƣờng hợp đồng phạm nặng hơn trƣờng hợp phạm tội đơn lẻ, trách nhiệm
hình sự trong trƣờng hợp phạm tội có tổ chức nặng hơn trách nhiệm hình sự
trong trƣờng hợp đồng phạm giản đơn; 1) Phân loại ngƣời đồng phạm dựa
trên dạng hành vi của họ khi tham gia vào vụ đồng phạm và quy định trách
nhiệm hình sự theo hƣớng ngƣời có hành vi của ngƣời đóng vai trò chính
trong vụ đồng phạm thì trách nhiệm hình sự nặng hơn.
Trong trƣờng hợp chủ thể thực hiện tội phạm là ngƣời chƣa thành niên:
ngƣời chƣa thành niên có thể trở thành chủ thể của tội phạm trong trƣờng hợp
luật hình sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là dƣới 18 tuổi. Tuy
nhiên, ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa hoàn thiện về tâm sinh lí, chƣa có
36. 29
nhiều kiến thức xã hội và kinh nghiệm sống, kinh nghiệm ứng xử, dễ bị kích
động, lôi kéo, dụ dỗ phạm tội. Đồng thời, khả năng tiếp thu sự giáo dục của
nhóm đối tƣợng này lại cao hơn so với ngƣời đã thành niên, vì vậy cần có sự
phân hóa trách nhiệm hình sự giữa trƣờng hợp ngƣời chƣa thành niên phạm
tội và ngƣời đã thành niên phạm tội. Bên cạnh đó, ngƣời chƣa thành niên bao
gồm các độ tuổi khác nhau, ở các độ tuổi này các dấu hiệu về tâm sinh lí, về
kinh nghiệm sống, khả năng tiếp thu sự giáo dục… cũng sẽ khác nhau. Chính
vì vậy cần có sự phân hóa trong xử lí đối với ngƣời chƣa thành niên ở các
mức tuổi khác nhau. Tóm lại, yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự trong
trƣờng hợp ngƣời phạm tội là ngƣời chƣa thành niên là: 1) Phân hóa trách
nhiệm hình sự giữa ngƣời chƣa thành niên và ngƣời đã thành niên theo hƣớng
trách nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành niên nhẹ hơn; 2) Phân hóa trách
nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành niên theo các mức tuổi khác nhau theo
hƣớng độ tuổi nhỏ hơn thì trách nhiệm hình sự nhẹ hơn.
1.3.5. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về cấu thành tội phạm
“Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc
trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự” [20, tr.74].
Cấu thành tội phạm có ý nghĩa là cơ sở của trách nhiệm hình sự. Trong đó,
dấu hiệu đặc trƣng bắt buộc phải mô tả ở tất cả các cấu thành tội phạm là
hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hành vi phạm tội rất đa dạng, có thể xâm phạm
các khách thể khác nhau, hành vi xâm phạm cùng loại khách thể nhƣng khách
thể trực tiếp có thể khác nhau, hành vi do loại chủ thể khác nhau thực hiện …
Những lí do trên dẫn tới yêu cầu khách quan phải xây dựng cấu thành tội
phạm đáp ứng yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự.
Xuất phát từ sự đa dạng của hành vi phạm tội mà “cấu thành tội phạm,
trong sự kết hợp các dấu hiệu của nó, có tính chất đặc trưng điển hình cho
37. 30
một loại tội phạm cụ thể” [24, tr.74]. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phân hóa
trách nhiệm hình sự, đòi hỏi các tội danh khác nhau phải đƣợc xây dựng độc
lập trong các điều luật khác nhau. Điều này đƣợc thực hiện tốt vừa thể hiện
trình độ kĩ thuật lập pháp cao, đồng thời tạo ra tiền đề cho việc áp dụng pháp
luật hình sự đạt hiệu quả, tránh bỏ lọt tội phạm. Ví dụ, cùng là hành vi giết
ngƣời nhƣng có trƣờng hợp giết ngƣời do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng, giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân… Những trƣờng hợp này nếu đƣợc gộp
chung vào một điều luật với tội danh “giết ngƣời” thì không phản ánh đƣợc
mức độ nguy hiểm giảm nhẹ đáng kể của trƣờng hợp giết ngƣời do vƣợt quá
giới hạn của phòng vệ chính đáng, giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh so với các trƣờng hợp giết ngƣời thông thƣờng khác.
Ngoài ra, với cùng một tội phạm cũng tồn tại những trƣờng hợp có sự
khác biệt đáng kể về tính nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ, cùng là hành vi giết
ngƣời thông thƣờng, nhƣng có trƣờng hợp ngƣời phạm tội giết nhiều ngƣời,
giết phụ nữ có thai, giết ngƣời bằng các phƣơng pháp có khả năng làm chết
nhiều ngƣời nhƣ bom, mìn…, thực hiện hành vi giết ngƣời một cách man
rợ… Vì vậy, trong mỗi tội danh cần có sự phân hóa thành các trƣờng hợp tăng
nặng hoặc giảm nhẹ, đồng thời quy định trách nhiệm hình sự khác biệt đối với
các trƣờng hợp để đảm bảo xử lí chính xác trách nhiệm hình sự đối với ngƣời
phạm tội trong các trƣờng hợp đó. Để làm tốt điều này đòi hỏi các nhà làm
luật phải có sự giả định về các khả năng có thể xảy ra của tội phạm, kết hợp
với sự nghiên cứu các điều kiện kinh tế xã hội, chính sách hình sự của Nhà
nƣớc trong từng giai đoạn… nhằm phân biệt các trƣờng hợp tăng nặng hay
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách hợp lí.
Tóm lại, yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
các quy định về cấu thành tội phạm là: 1) Các cấu thành tội phạm của các tội
38. 31
danh khác nhau cần đƣợc xây dựng độc lập; 2) Trong mỗi tội danh cần phân
hóa cấu thành tội phạm thành cấu thành giảm nhẹ hoặc tăng nặng, đồng thời,
quy định hình phạt khác nhau ở mỗi cấu thành theo hƣớng loại và mức hình
phạt đối với cấu thành tội phạm tăng nặng nghiêm khắc hơn loại và mức hình
phạt trong cấu thành tội phạm cơ bản; loại và mức hình phạt đối với cấu thành
tội phạm giảm nhẹ ít nghiêm khắc hơn loại và mức hình phạt trong cấu thành
tội phạm cơ bản.
1.3.6. Yêu cầu của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với
quy định về chế tài đối với tội phạm cụ thể
“Chế tài được quy định đối với mỗi tội phạm cụ thể là nơi thể hiện tập trung
nhất đường lối xử lí của Nhà nước đối với các hành vi phạm tội” [34, tr.134]. Sự đa
dạng của hành vi phạm tội cũng nhƣ các yếu tố nhân thân ngƣời phạm tội
đòi hỏi sự quy định độc lập các tội danh và sự phân chia trong mỗi tội danh
thành cấu thành tội phạm thành cấu thành cơ bản, tăng nặng và giảm nhẹ.
Điều đó dẫn tới yêu cầu tất yếu về việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong
các quy định về chế tài đối với các tội cụ thể. Sự phân hóa này cần đáp ứng
các yêu cầu sau:
Thứ nhất, hình phạt quy định cho mỗi tội phải đảm bảo tƣơng xứng với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Ví dụ, nhà làm luật
không nên quy định hình phạt tối đa là tử hình cho một tội đƣợc thực hiện với
lỗi vô ý, bởi lỗi vô ý có mức độ nguy hiểm thấp hơn lỗi cố ý; hình phạt tử
hình chỉ nên quy định cho các tội xâm phạm các khách thể quan trọng đặc biệt
nhƣ an ninh quốc gia, tính mạng con ngƣời, các tội chống loài ngƣời..
Thứ hai, trong mỗi tội danh cần quy định nhiều hình phạt có thể áp
dụng. Trong các trƣờng hợp phạm tội cụ thể, các yếu tố nhân thân ngƣời
phạm tội có thể khác nhau, phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi và khả
39. 32
năng cải tạo giáo dục không giống nhau. Vì vậy, cần quy định nhiều hình phạt
có thể lựa chọn đối với tội phạm để chủ thể áp dụng pháp luật có thể lựa chọn
loại hình phạt phù hợp nhất, đảm bảo mức độ trừng trị phù hợp và khả năng
đạt đƣợc mục đích cải tạo, giáo dục cao nhất. Ví dụ, trong khoản 1 Điều 93
BLHS Việt Nam về tội giết ngƣời quy định ba loại hình phạt có thể áp dụng
là: phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Đây chính là quy định thể hiện
sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong chế tài với tội danh cụ thể đáp ứng yêu
cầu thứ hai này.
Thứ ba: lập luận tƣơng tự nhƣ trên cho thấy đòi hỏi thực tế với mỗi
hình phạt có hạn mức (phạt tiền) hay có thời hạn (cải tạo không giam giữ, tù
có thời hạn), nhà làm luật cần quy định thành khung hình phạt có giới hạn
mức thấp nhất và mức cao nhất. Biên độ của giới hạn này không nên quá rộng
vì điều đó dẫn tới sự khó khăn, tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Ví dụ, Điều
94 BLHS Việt Nam quy định hai loại hình phạt là cải tạo không giam giữ với
khung hình phạt là từ 6 tháng đến 3 năm, hình phạt tù với khung hình phạt là
từ 3 tháng đến 2 năm. Đây chính là quy định thể hiện sự phân hóa trách nhiệm
hình sự trong chế tài với tội danh cụ thể đáp ứng yêu cầu này.
40. 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm trách nhiệm
hình sự. Nhƣng các quan điểm đó đều thống nhất trách nhiệm hình sự gồm các
đặc điểm: 1) Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện hành vi
phạm tội; 2) Trách nhiệm hình sự chỉ có thể đƣợc xác định bằng trình tự đặc
biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ
phải thực hiện; 3) Trách nhiệm hình sự đƣợc biểu hiện tập trung nhất ở việc
ngƣời phạm tội phải chịu biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc
là hình phạt; 4) Trách nhiệm hình sự mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu là trách
nhiệm trƣớc nhà nƣớc; 5) Trách nhiệm hình sự phải đƣợc phản ánh trong bản
án hay quyết định có hiệu lực pháp luật. Nhƣ vậy, hình phạt là yếu tố thể hiện
tập trung nhất trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, hành vi
phạm tội trên thực tế lại rất đa dạng về tính nguy hiểm cho xã hội và nhân thân
của ngƣời phạm tội. Điều đó đòi hỏi cần có sự phân hóa trách nhiệm hình sự để
việc quyết định hình phạt đƣợc chính xác, phù hợp nhất với từng trƣờng hợp
phạm tội cụ thể. Các phân tích trên cho thấy, phân hóa trách nhiệm hình sự là
một đòi hỏi mang tính khách quan của thực tiễn áp dụng luật hình sự.
2. Phân hóa trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc của luật hình sự vì
nó vừa xuất phát từ cơ sở thực tiễn là sự đa dạng về tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm và nhân thân ngƣời phạm tội, vừa luôn thể hiện vai trò định
hƣớng, chỉ đạo quá trình xây dựng và áp dụng luật hình sự. Nguyên tắc phân
hóa trách nhiệm hình sự có nội dung là: trách nhiệm hình sự đƣợc quy định và
áp dụng phải mang tính phân hóa để đảm bảo tƣơng xứng với tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm và phù hợp với nhân thân ngƣời phạm tội.
3. Trong luật hình sự, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đặt
ra các yêu cầu trong việc phân loại tội phạm, thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, các biện pháp tha miễn, quy định các loại hình phạt, các
quy định về quyết định hình phạt, về việc xây dựng cấu thành tội phạm và
về việc quy định chế tài đối với các tội phạm cụ thể.
41. 34
Chương 2
CƠ SỞ VÀ BIỂU HIỆN PHÂN HÓA
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT
2.1. Cơ sở phân hóa trách nhiệm hình sự trong Quốc triều Hình luật
Trách nhiệm hình sự trong Quốc triều Hình luật đƣợc xây dựng chủ yếu
trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và
nhân thân ngƣời phạm tội.
2.1.1. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là dấu hiệu thể hiện bản chất
của tội phạm. Hành vi nào đó đƣợc quy định là tội phạm bởi vì nó có tính
nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội không những là căn cứ để
phân biệt hành vi phạm tội với những hành vi vi phạm khác mà còn là cơ sở
để đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và qua đó giúp các
nhà làm luật quy định việc xử lí khác nhau đối với từng trƣờng hợp phạm tội
có tính nguy hiểm khác nhau. Việc phân hóa trách nhiệm hình sự đáp ứng
đƣợc yêu cầu của việc xử lý tội phạm là công bằng, đúng ngƣời, đúng tội qua
đó thể hiện nguyên tắc quan trọng của luật hình sự là tội phạm càng nguy
hiểm thì hình phạt càng nghiêm khắc và ngƣợc lại.
Trong Quốc triều Hình luật, tuy không có một điều luật nào định nghĩa
về tội phạm cũng nhƣ khẳng định về tính chất của tội phạm, nhƣng từ các quy
định về các tội cụ thể trong Bộ luật này đã thể hiện đƣợc nội dung tội phạm là
hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội. Theo các quy định trong Quốc triều
Hình luật thì tội phạm xâm phạm đến các quan hệ xã hội đƣợc Nhà nƣớc bảo
vệ, gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó. Các
quan hệ xã hội đƣợc bảo vệ là sự an toàn và bất khả xâm phạm của nhà nƣớc
mà biểu hiện cụ thể của nó là sự an toàn của nhà vua, hoàng cung và hoàng
42. 35
tộc; những mối quan hệ đƣợc coi là nền tảng của xã hội nhƣ quan hệ vua tôi,
cha con, vợ chồng…; trật tự an toàn xã hội; các quan hệ nhân thân của con
ngƣời nhƣ quyền đƣợc bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, tài sản….
Bất kể hành vi nào xâm phạm đến các quan hệ xã hội nêu trên đều bị coi là tội
phạm. Trong Quốc triều Hình luật không có sự phân biệt sự “nguy hiểm đáng
kể” và không đáng kể cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ nhƣ
trong luật hình sự hiện đại.
Quốc triều Hình luật không phân biệt mức độ của tính nguy
hiểm của những hành vi mà theo luật hiện đại chỉ là vi phạm đạo
đức hoặc vi phạm hành chính, kỉ luật... [17, tr.203]. Nói nhƣ GS.
Vũ Văn Mẫu: Trong nền pháp luật nhà Lê, không những thiếu một
sự phân biệt giữa phạm vi luân lí và phạm vi luật pháp, lại còn có cả
một sự hàm hỗn giữa hình luật với các điều luật về dân luật nhƣ bổn
phận vợ chồng, con cái trong gia đình [29, tr.142].
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đƣợc sử dụng làm căn cứ
phân hóa trách nhiệm hình sự bởi “đây là tiêu chí thể hiện bản chất của tội
phạm” [34, tr.22]. Trong Quốc triều hình luật, tính nguy hiểm cho xã hội cũng
đƣợc sử dụng làm cơ sở phân hóa trách nhiệm hình sự. Tính nguy hiểm cho
xã hội là thuộc tính đƣợc phản ánh qua các yếu tố khác nhau nhƣ tính chất của
quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, mức độ hậu quả, tính chất của lỗi, tính
chất của công cụ, phƣơng tiện phạm tội... Vì vậy, để xác định tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm cần phải thông qua sự đánh giá tổng hợp các yếu tố
đó. Trong Quốc triều Hình luật, các yếu tố ảnh hƣởng đến tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội là:
Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại: nghiên cứu các quy định của
Quốc triều hình luật cho thấy các quan hệ xã hội quan trọng nhất đƣợc luật
bảo vệ lần lƣợt là sự an toàn của nhà vua, hoàng cung và hoàng tộc, an ninh
43. 36
quốc gia, tính mạng sức khỏe con ngƣời… biểu hiện qua việc trong các điều
luật quy định các hành vi phạm tội nhƣ tự ý xông vào hoàng cung, tự ý xông
vào điện của nhà vua, tự ý lại gần xa giá, các hành vi vi phạm nguyên tắc
quân đội, hành vi giết ngƣời, hành vi đánh ngƣời gây thƣơng tích... thƣờng có
hình phạt tử hình. Nhiều trƣờng hợp cùng một hành vi phạm tội, khi đối
tƣợng tác động thay đổi thì tính chất của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại
cũng thay đổi và trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội sẽ thay đổi. Ví
dụ, hành vi trộm cắp tài sản, nếu là tài sản bình thƣờng, tội phạm xâm phạm
đến quan hệ sở hữu, thì ngƣời phạm tội phải chịu hình phạt “lưu đi châu xa”
(Điều 429 QTHL); nếu tài sản là “ấn của vua và những đồ ngự dụng (đồ dùng
của nhà vua), xe kiệu của Vua”, tội phạm đồng thời xâm phạm đến quan hệ sở
hữu và sự bất khả xâm phạm của nhà vua, thì ngƣời hình phạt phải bị xử
chém, đồng thời điền sản bị tịch thu sung công (Điều 430 QTHL)... Nhƣ vậy,
trong Quốc triều Hình luật, tội phạm xâm hại đến quan hệ xã hội càng quan
trọng thì hình phạt đối với tội ấy càng nghiêm khắc.
Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao gồm phƣơng pháp, thủ
đoạn, công cụ và phƣơng tiện phạm tội. Trong nhiều trƣờng hợp phạm tội,
công cụ, phƣơng tiện thực hiện hành vi là một yếu tố để xác định tính nguy
hiểm của hành vi phạm tội. Ví dụ, trƣờng hợp đánh ngƣời mà không sử dụng
vũ khí hay các công cụ khác thì ít nguy hiểm hơn trƣờng hợp đánh ngƣời có
sử dụng vũ khí, công cụ nhƣ gƣơm giáo, nƣớc sôi, lửa (Điều 465; 466
QTHL). “Đánh người bằng chân tay không thì xử phạt 60 trượng, bằng một
vật gì thì xử phạt 80 trượng” (Điều 465 QTHL); “Đánh nhau mà chết người
thì phải tội giảo... dù vì đánh nhau mà dùng gươm giáo đánh chết người, thì
cũng phải tội cố sát” (Điều 467 QTHL)… Cách thức thực hiện hành vi phạm
tội cũng là một yếu tố để xác định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Ví
dụ, Điều 422 có quy định:
44. 37
Trói ngƣời bỏ vào chỗ hiểm, bóp cổ, bịt miệng mũi ngƣời
cũng là chẹn cửa đốt nhà để cho ngƣời ta chết, đều xử tội giết
ngƣời... Không cho ngƣời ta quần áo, ăn uống để cố ý làm cho
ngƣời ta chết hay bị hại thì phải tội nhƣ tội đánh giết hay làm bị
thƣơng ngƣời. Nếu dọa nạt bức bách làm cho ngƣời ta sợ hãi đến
chết hay bị thƣơng thì tùy theo từng việc mà ghép vào tội cố ý hay
đùa cợt mà làm ngƣời chết hay bị thƣơng....
Nhƣ vậy, cùng với một loại hậu quả là gây thƣơng tích hoặc làm chết
ngƣời, tùy theo việc hành vi phạm tội đƣợc thực hiện nhƣ thế nào mà ngƣời
phạm tội sẽ bị kết tội khác nhau và chịu những hình phạt khác nhau.
Đối tượng tác động của tội phạm: đối tƣợng tác động của tội phạm theo
khoa học luật hình sự hiện đại là “bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ” [20, tr.94]. Trong Quốc triều
Hình luật, khi xâm phạm đến cùng một khách thể, hành vi phạm tội nếu tác
động đến các đối tƣợng khác nhau thì tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
có thể sẽ thay đổi và do vậy trách nhiệm hình sự có thể sẽ khác nhau. “Quốc
triều Hình luật đã coi tầm quan trọng của đối tượng cần bảo vệ là một yếu tố
ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của tội phạm” [17, tr.207]. Ví dụ, cùng
là hành vi “giết ngƣời” – là hành vi xâm phạm đến quyền sống của con ngƣời
- nếu ngƣời bị giết (đối tƣợng tác động) là “ông bà, cha mẹ, bác, chú, thím, cô
anh, chị, em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng” (Điều 2 QTHL), thì khép
vào tội ác nghịch (trong nhóm thập ác), trách nhiệm hình sự đối với họ
nghiêm khắc hơn, biểu hiện ở việc hình phạt cho ngƣời phạm tội sẽ cao hơn
những trƣờng hợp giết ngƣời khác. Đối với những ngƣời phạm tội này, chỉ
cần có “mƣu giết ngƣời” thôi đã bị xử tội chém (Điều 416 QTHL), trong khi
mƣu giết những ngƣời thƣờng thì xử lƣu, nếu nạn nhân chết thì mới xử tội
45. 38
chém (Điều 415 QTHL). Những ngƣời giết ông bà, cha mẹ... nếu có thuộc
trƣờng hợp “bát nghị” thì cũng không đƣợc xét giảm (Điều 4 QTHL). Bởi, khi
ngƣời phạm tội xâm phạm đến những đối tƣợng này, hành vi của họ không
chỉ xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà còn xâm phạm đến quan hệ cha, mẹ
- con, anh, chị - em... trong gia đình, là những quan hệ xã hội đƣợc coi là nền
tảng của xã hội phong kiến. Một ví dụ khác, cùng là hành vi trộm cắp tài sản,
nếu ngƣời phạm tội lấy những tài sản thông thƣờng và phạm tội lần đầu thì bị
xử lƣu đi châu xa (Điều 429 QTHL), nhƣng nếu ngƣời phạm tội trộm cắp tài
sản là “ấn của vua và những đồ ngự dụng (đồ dùng của vua), xe kiệu của nhà
vua” thì hành vi đó phạm vào nhóm tội thập ác, bởi nó không chỉ xâm phạm
đến quyền sở hữu tài sản mà còn xâm phạm đến sự bất khả xâm phạm của nhà
vua, do vậy, dù có phạm tội lần đầu cũng bị xử chém (Điều 430 QTHL).
Mức độ thực hiện tội phạm: đƣợc thể hiện trong các quy định về tội
phạm cụ thể. Nhiều điều luật trong Quốc triều Hình luật cho thấy, mức độ
thực hiện tội phạm khác nhau thì tính nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ khác
nhau, do đó trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội cũng sẽ thay đổi. Ví dụ,
cùng là hành vi đột nhập thái miếu (nơi thờ cúng các vua đời trƣớc) (Điều 50
QTHL) nhƣng mức độ nguy hiểm của hành vi khác nhau dựa vào việc ngƣời
phạm tội đã đột nhập đƣợc đến đâu: vào xung quanh thái miếu thì nguy hiểm
ít hơn là đã vƣợt qua tƣờng, và trƣờng hợp đã vào đƣợc bên trong thái miếu là
nguy hiểm nhất (hình phạt tƣơng ứng với ba mức độ thực hiện hành vi “đột
nhập” nêu trên lần lƣợt là “đồ làm khao đinh”, “đồ làm tượng phường binh”
và “đồ làm chủng điền binh”). Tƣơng tự, đối với các trƣờng hợp ngƣời phạm
tội “tự ý vào hoàng thành” (Điều 51 QTHL), “bắn cung nỏ vào trong cung
điện” (Điều 64 QTHL) …Tội phạm ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ
nguy hiểm cũng sẽ khác nhau, ở giai đoạn mƣu phạm tội sẽ ít nguy hiểm hơn
phạm tội chƣa đạt và tội phạm hoàn thành.
46. 39
Hậu quả của tội phạm: theo khoa học luật hình sự hiện đại, tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, về khách quan, là “gây ra hoặc đe dọa gây
ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ” [20, tr.52]. Những thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo
vệ do hành vi phạm tội gây ra chính là hậu quả của tội phạm [20, tr.110]. Do
vậy, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đƣợc phản ánh
thông qua mức hậu quả của tội phạm. Tƣơng tự nhƣ vậy, trong Quốc triều
Hình luật, trƣờng hợp phạm tội nào gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn là nguy
hiểm hơn và phải chịu mức độ trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn. Ví dụ,
“mưu giết người” mà đã gây ra hậu quả chết ngƣời thì nguy hiểm hơn trƣờng
hợp làm ngƣời khác bị thƣơng nhƣ ở các Điều 415; 416; 417... Trong trƣờng hợp
cố ý gây thƣơng tích ở Điều 466, mức độ nguy hiểm của hành vi tăng dần theo
thƣơng tích của ngƣời bị đánh, lần lƣợt là “Đánh người gẫy răng, sứt tai, mũi,
chột một mắt, gãy ngón chân ngón tay, giập xương” thì ít nguy hiểm hơn trƣờng
hợp đánh ngƣời “gãy 2 răng, 2 ngón tay trở lên”, hay “chém bị thương, làm đứt
gân, chột 2 mắt, đọa thai”, hoặc “đánh gãy chân tay, mù một mắt”, “đánh bị
thương hai thứ trở lên và nhân bị thương mà thành cố tật, hay đứt lưỡi”…
Tính chất của lỗi: theo khoa học luật hình sự hiện đại, tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm, về chủ quan, có nghĩa là ngƣời phạm tội có lỗi.
Trong Quốc triều Hình luật, yếu tố lỗi của ngƣời phạm tội cũng đã đƣợc xem
xét đến. Tuy nhiên, vấn đề này đƣợc đặt ra và giải quyết không cụ thể, chi tiết
nhƣ luật hình sự hiện đại.
Quốc triều Hình luật không đặt vấn đề phân biệt giữa
trƣờng hợp có lỗi và phải chịu trách nhiệm hình sự với trƣờng
hợp không có lỗi và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Quốc
triều Hình luật chỉ đặt vấn đề phân biệt giữa trƣờng hợp lỗi cố ý
và trƣờng hợp lầm lỡ để xác định mức độ trách nhiệm hình sự