Download luận án tiến sĩ ngành nhãn khoa với đề tài: Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật giảm áp hốc mắt điều trị bệnh mắt Basedow mức độ nặng, cho các bạn làm luận án tham khảo
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Đề tài: Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật giảm áp hốc mắt điều trị bệnh mắt Basedow mức độ nặng
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Nguyễn Chiến Thắng
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHẪU THUẬT GIẢM ÁP HỐC MẮT
ĐIỀU TRỊ BỆNH MẮT BASEDOW MỨC ĐỘ NẶNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI 2014
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Nguyễn Chiến Thắng
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHẪU THUẬT GIẢM ÁP HỐC MẮT
ĐIỀU TRỊ BỆNH MẮT BASEDOW MỨC ĐỘ NẶNG
Chuyên ngành : Nhãn khoa
Mã số : 62720157
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS Nguyễn Văn Đàm
2. PGS.TS. Phạm Trọng Văn
HÀ NỘI 2014
3. ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là hoàn toàn
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả
4. iii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, tôi đã nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ quí báu của các cơ quan, đơn vị và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Trường Đại
học Y Hà Nội, phòng Sau Đại học và các Phòng, Ban của nhà trường đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tôi được học tập và nghiên cứu tại Trường.
Tôi xin gửi tới các Thầy, Cô, các Anh, Chị công tác tại Bộ môn Mắt,
trường Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Mắt Trung ương lời cám ơn chân
thành và sâu sắc. Trong suốt thời gian qua, Bộ môn và Bệnh viện đã hết lòng
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi học tập, cũng như đã dành cho tôi những tình
cảm thân thiết nhất, tạo động lực và sự hứng khởi cho tôi học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin gửi lời cám ơn tới Bệnh viện 103 và Khoa Mắt đã giúp tôi có
được các số liệu khoa học phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Để được tham gia khoá học nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Y Hà
Nội, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và cho phép của Đảng uỷ, Ban Giám đốc và
các cơ quan chức năng của Học viện Quân y, của Bệnh viện 103. Tôi cũng
nhận được sự giúp đỡ đặc biệt của tập thể cán bộ, nhân viên Bộ môn - Khoa
Mắt bệnh Bệnh viện 103, nơi tôi công tác, đã động viên, khuyến khích và ủng
hộ tôi trong suốt quá trình học tập và công tác.
Để đạt được kết quả hôm nay, công lao trước hết thuộc về hai Thầy
hướng dẫn tôi là PGS.TS. Nguyễn Văn Đàm và PGS.TS. Phạm Trọng Văn.
Các Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
nghiên cứu. Tôi đã học tập ở các Thầy không chỉ kiến thức mà còn học cả
phương pháp nghiên cứu cũng như những phẩm chất cần có của một người
làm khoa học.
Trong những năm qua, tôi cũng luôn nhận được sự động viên, hỗ trợ
kịp thời về mọi mặt của gia đình, người thân, bạn bè và đồng đội, đã thường
xuyên ở bên cạnh, giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn để có được thành công
hôm nay.
10. ix
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
ĐNT : Đếm ngón tay
NKQ : Nội khí quản
BN : Bệnh nhân
11. x
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
CAS Clinical activity score
(điểm mức độ viêm)
CD Cluster of differentiation
(cụm biệt hóa)
CT Computed Tomography
(chụp cắt lớp điện toán)
CON Compressive Optic Neuropathy
(chèn ép thị thần kinh)
DON Dysthyroid Optic Neuropathy
(bệnh lý thị thần kinh bị chèn ép)
EUGOGO European Group on Graves' orbitopathy
(Hội bệnh mắt liên quan tới tuyến giáp châu Âu)
GCs Glucocorticoids
IL Interleukin
Ig Immunoglobulin
IGF-1R Insuline-like growth factor 1 receptor
(thụ thể dành cho yếu tố phát triển giống insulin)
LogMAR Logarithm of the Minimum Angle of Resolution
(góc phân giải tối thiểu tính theo đơn vị logarit)
MRI Magnetic Resonance Imaging
(chụp cộng hưởng từ)
MRD Marginal Reflex Distance
(khoảng cách từ bờ mi dưới đến điểm phản quang trên giác
mạc ở tư thế nguyên phát)
12. xi
mRNA Messenger RNA
(RNA thông tin)
NOSPECS No, Only, Soft, Protrustion, Extraocular, Cornea, Sight
(không có tổn thương, chỉ có rối loạn chức năng, lồi mắt,
tổn thương phần mềm, lồi mắt, tổn thương cơ vận nhãn,
tổn thương giác mạc, giảm tới mất thị lực)
PPAR Peroxisome poliferator-activated receptor
(thụ thể hoạt hóa tăng sinh của peroxisome)
TSHR Thyrotropin receptor
(thụ thể hormon tuyến giáp)
TSH Thyroid Stimulating Hormone
( hormon tuyến giáp)
TNF-α Tumor necrosis factor α
(yếu tố hoại tử khối u α)
RAPD Relative Afferent Pupillary Defect
(tổn hại phản xạ đồng tử liên ứng)
13. xii
THUẬT NGỮ SỬ DỤNG VÀ TIẾNG ANH TƯƠNG ỨNG
Bệnh mắt Basedow mức độ đe Sight-threatening Graves'
dọa thị lực orbitopathy
Bệnh mắt Basedow mức độ nặng Severe Graves' orbitopathy
Bệnh mắt Basedow mức độ nhẹ Mild Graves' orbitopathy
Đường mổ lật toàn bộ mi dưới Swinging eyelid approach
Giảm áp bằng cách lấy mỡ hốc mắt Orbital fat decompression
Giảm áp bằng cách cắt thành xương Bony decompression
Hội bệnh mắt liên quan tuyến giáp
châu Âu EUGOGO
Hội tuyến giáp Mỹ American Thyroid Association
Phẫu thuật phục hồi chức năng Rehabilitative surgery
Phẫu thuật thẩm mỹ Cosmetic surgery
14. xiii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Các thành xương hốc mắt.
Hình 2.1. Đường mổ vào hốc mắt qua kết mạc cùng đồ dưới.
Hình 2.2. Bờ xương hốc mắt dưới.
Hình 2.3. Lấy mỡ hốc mắt.
Hình 2.4. Bộc lộ thành dưới và thành trong hốc mắt
Hình 2.5. Thành dưới sau khi được cắt bỏ.
Hình 2.6. Phá bỏ thành trong bằng cái róc màng xương.
Hình 2.7. Mi dưới được khâu kéo lên sau mổ.
Hình 2.8. Cách tính lượng mỡ lấy sau mổ giảm áp.
Hình 2.9. Đo chỉ số Barett trên phim CT.
Hình 2.10. Bệnh mắt giai đoạn viêm và giai đoạn không viêm.
Hình 2.11. Ảnh trước và sau mổ được so sánh và đánh giá theo các mức:
không lệch mi dưới (bình thường), lệch mi dưới phía ngoài mức
độ nhẹ và lệch mi dưới phía ngoài mức độ nặng (quan sát thấy rõ)
Hình 3.1. Bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow một bên mắt trước và sau mổ
Hình 3.2. Ảnh trước và sau mổ của bệnh nhân được phẫu thuật do lồi mắt và
sau đó là phẫu thuật điều trị co rút mi trên.
Hình 3.3. Ảnh trước và sau mổ của bệnh nhân được phẫu thuật do lồi mắt đã
được tuyến trước khâu cò mi.
Hình 3.4. Ảnh của bệnh nhân được phẫu thuật giảm áp do chèn ép thị thần
kinh và sau đó là phẫu thuật chỉnh lác.
Hình 3.5. Ảnh của bệnh nhân được phẫu thuật giảm áp do chèn ép thị thần
kinh và sau đó là phẫu thuật chỉnh lác.
Hình 4.1. Phim chụp CT của BN số 24.
Hình 4.2. Phim chụp CT của BN số 62.
Hình 4.3. BN số 7 bị bệnh mắt Basedow và có biểu hiện giảm thị lực nhiều.
15. xiv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Đánh giá mức độ nặng theo NOSPECS
Bảng 1.2. Đánh giá giai đoạn viêm của Bệnh mắt Basedow.
Bảng 1.3. Phân loại mức độ nặng của bệnh mắt Basedow theo L.Bartalena.
Bảng 1.4. Phân loại mức độ nặng của bệnh mắt Basedow theo EUGOGO
Bảng 2.1: Bảng theo dõi bệnh nhân nhìn đôi trước và sau phẫu thuật giảm áp.
Bảng 2.2: Công thức tính các loại nhìn đôi.
Bảng 3.1: Đặc điểm dịch tễ của các bệnh nhân trong nghiên cứu.
Bảng 3.2: Đặc điểm về tuyến giáp của bệnh nhân.
Bảng 3.3: Các triệu chứng chính dẫn tới chỉ định phẫu thuật.
Bảng 3.4: Đặc điểm lâm sàng của bệnh mắt một bên và bệnh mắt hai bên trên
44 bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow.
Bảng 3.5: Tỉ lệ của những khám nghiệm nhằm phát hiện sớm chèn ép thị thần
kinh trên 43 mắt được chỉ định mổ do chèn ép thị thần kinh.
Bảng 3.6: Tỉ lệ giữa mắt bệnh nhân có bệnh thị thần kinh do chèn ép và
không có bệnh thị thần kinh do chèn ép theo tỉ số Barrett.
Bảng 3.7: Độ nhậy, độ đặc hiệu và tỉ lệ chênh lệch của những mắt được chẩn
đoán có bệnh thị thần kinh và những mắt không có bệnh thị thần kinh.
Bảng 3.8: Điểm nhìn đôi trước mổ và sau mổ 3 tháng của những bệnh nhân
chỉ định phẫu thuật do lồi mắt.
Bảng 3.9: Điểm nhìn đôi trước và sau mổ 3 tháng của những bệnh nhân được
chỉ định phẫu thuật do chèn ép thị thần kinh.
16. xv
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Điểm mức độ viêm trước mổ của 22 mắt được chỉ định mổ do
lồi mắt.
Biểu đồ 3.2: Điểm mức độ viêm của 43 mắt được chỉ định mổ do thị thần kinh
bị chèn ép.
Biểu đồ 3.3: Thị lực trước mổ của 18 mắt được chỉ định phẫu thuật giảm áp
do lồi mắt.
Biểu đồ 3.4: Thị lực trước mổ trên nhóm chỉ định phẫu thuật do chèn ép thị
thần kinh.
Biểu đồ 3.5: Điểm nhìn đôi của số bệnh nhân bị bệnh thị thần kinh do chèn
ép trước mổ.
Biểu đồ 3.6: Thị lực sau mổ giảm áp trên nhóm 18 mắt có chỉ định phẫu thuật
do lồi mắt.
Biểu đồ 3.7: Thị lực logMAR trước và sau mổ trên nhóm 18 mắt có chỉ định
phẫu thuật do lồi mắt.
Biểu đồ 3.8: Thị lực sau mổ giảm áp trên nhóm chỉ định phẫu thuật do chèn
ép thị thần kinh.
Biểu đồ 3.9: Thị lực logMAR trước và sau mổ trên nhóm mắt có chỉ định
phẫu thuật do chèn ép thị thần kinh.
Biểu đồ 3.10: Độ lồi trước và sau mổ của những mắt được chỉ định do lồi mắt
Biểu đồ 3.11: Độ lồi trước và sau mổ của những mắt được chỉ định phẫu
thuật do chèn ép thị thần kinh.
Biểu đồ 3.12: Lượng mỡ trung bình lấy được của hai nhóm.
17. xvi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Các bước chẩn đoán Bệnh mắt Basedow.
Sơ đồ 1.2: Tóm tắt cách điều trị bệnh mắt Basedow.
Sơ đồ 2.1: Qui trình nghiên cứu.
Sơ đồ 2.2: Qui trình khám chẩn đoán chèn ép thị thần kinh trong bệnh mắt
Basedow.
18. 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh mắt Basedow (cũng được gọi là bệnh mắt liên quan tuyến giáp,
bệnh mắt Grave) cho tới nay vẫn còn là một thách thức về mặt chẩn đoán và
điều trị [11]. Đây là một bệnh do rối loạn miễn dịch và cũng là biểu hiện
thường gặp nhất của cường chức năng tuyến giáp trong bệnh Basedow. Mặt
khác, bệnh mắt Basedow cũng có thể gặp trên bệnh nhân bình giáp hoặc
nhược giáp (bệnh Hashimoto) gây khó khăn trong việc chẩn đoán. Mặc dù
sinh bệnh lý của bệnh mắt Basedow vẫn còn chưa hoàn toàn rõ ràng nhưng
việc điều trị bệnh mắt Basedow cần phải kết hợp điều trị rối loạn hormone
giáp và những bệnh lý tại hốc mắt [11].
Trong số những bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow thì có khoảng 3-5%
bệnh nhân có bệnh mắt mức độ nặng đe dọa thị lực (thị thần kinh bị chèn
ép tại đỉnh hốc mắt do cơ vận nhãn phì đại gây giảm thị lực hoặc lồi mắt
nặng gây hở mi và loét giác mạc) [132]. Đối với những bệnh nhân này thì
phẫu thuật giảm áp hốc mắt là biện pháp điều trị duy nhất có hiệu quả [11].
Mục đích của phẫu thuật giảm áp hốc mắt là làm giảm áp lực trong hốc mắt
để giải phóng chèn ép bằng cách cắt thành xương hốc mắt và/hoặc lấy bớt
tổ chức mỡ hốc mắt phì đại nhằm làm tăng thể tích hốc mắt. Trên thế giới,
phẫu thuật giảm áp hốc mắt đã được áp dụng để điều trị bệnh mắt Basedow
từ lâu như Dollinger (1911) cắt bỏ thành ngoài xương hốc mắt, Hirsch
(1930) cắt bỏ thành dưới, Naffziger (1931) cắt bỏ thành trên, Anderson RL
(1981) cắt bỏ thành dưới và thành trong xương hốc mắt. Đến nay có tới 18
phương pháp phẫu thuật giảm áp hốc mắt khác nhau đã và đang được áp
dụng [11].
Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về bệnh mắt Bassedow [1] [2],
[3], [4], [5] nhưng chưa có nghiên cứu nào về phẫu thuật giảm áp hốc mắt.
19. 2
Bệnh viện 103 là nơi có khá nhiều bệnh nhân được điều trị bệnh Basedow do
đó nhu cầu điều trị bệnh mắt Basedow cũng ngày càng tăng cao. Một số
bệnh nhân bệnh mắt Basedow mức độ nặng có những biểu hiện như co rút
mi và lồi mắt nặng gây hở mi dẫn tới loét giác mạc, phì đại cơ vận nhãn gây
song thị và chèn ép thị thần kinh dẫn tới giảm thị lực nghiêm trọng.
Xuất phát từ các vấn đề trên chúng tôi thực hiện đề tài "Nghiên cứu
ứng dụng phẫu thuật giảm áp hốc mắt điều trị bệnh mắt Basedow mức độ
nặng" với hai mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả phẫu thuật giảm áp hốc mắt.
2. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả phẫu thuật.
20. 3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sinh bệnh học của bệnh mắt Basedow:
Đặc điểm lâm sàng của bệnh mắt Basesdow có thể được gịải thích qua
cơ chế là do sự tăng lên về thể tích của tổ chức hậu nhãn cầu bị viêm trong
hốc mắt với một thể tích không đổi giới hạn bởi xương hốc mắt. Tổ chức
viêm đẩy nhãn cầu ra phía trước và chèn ép vào các tĩnh mạch dẫn máu ra
khỏi hốc mắt. Những thay đổi này cùng với các cytokine và các chất trung
gian hóa học khác của viêm làm cho bệnh nhân thấy đau mắt, lồi mắt, phù nề
quanh hốc mắt, cương tụ và phù nề kết mạc.
Trên phim chụp CT cho thấy hầu hết bệnh nhân có phì đại tổ chức mỡ
của hốc mắt và phì đại các cơ vận nhãn, một số khác chỉ có phì đại tổ chức
mỡ hoặc của cơ vận nhãn mà thôi. Các cơ vận nhãn không bị tổn thương
trong giai đoạn đầu của viêm chứng tỏ rằng bản thân các cơ này không phải là
đích tấn công của phản ứng tự miễn. Ngoài ra sự phì đại của thân cơ vận nhãn
là do các glycosaminoglycan ưa nước, đặc biệt là acid hyaluronic tập trung tại
các tổ chức liên kết quanh cơ vận nhãn gây phù [44]. Trong giai đoạn cuối
của bệnh, quá trình viêm tại cơ giảm đi, cơ vận nhãn bị xơ hóa dẫn tới lác.
Mức độ trầm trọng của lồi mắt dường như là do phì đại tổ chức mỡ và tổ
chức liên kết của hốc mắt hơn là do sự phì đại của cơ vận nhãn [44]. Sự phì
đại của tổ chức mỡ hốc mắt này là do axit hyaluronic gây phù và do sự xuất
hiện của quần thể tế bào mỡ mới được biệt hóa tại hốc mắt [44].
1.1.1. Vai trò của nguyên bào sợi:
Trong bệnh mắt Basedow, những biến đổi mô học đặc trưng tại hốc mắt
đã đề cập ở trên cho thấy nguyên bào sợi của hốc mắt chính là tế bào đích.
Thay vì là một quần thể tế bào thuần nhất, các nguyên bào sợi có tính không
21. 4
thuần nhất rất rõ về mặt hình thái. Một tiểu quần thể của những tế bào này có
thể sản sinh ra acid hyaluronic và các prostanoid viêm được thấy ở tổ chức
liên kết bao quanh cơ vận nhãn. Một tiểu quần thể khác gọi là “nguyên bào
sợi tiền tế bào mỡ” hoặc “tiền tế bào mỡ” có thể biệt hóa thành tế bào mỡ
trưởng thành được thấy chủ yếu tại tổ chức mỡ hốc mắt. Sự khác nhau giữa
các tiểu quần thể này giúp giải thích tại sao một số bệnh nhân tổn thương cơ
vận nhãn là chủ yếu và những bệnh nhân khác thì phì đại tổ chức mỡ hốc mắt
là chủ yếu [123].
Nguyên bào sợi cũng có nhiều kiểu hình thái đặc hiệu mô khác nhau,
hình thái đặc hiệu này có ảnh hưởng chọn lọc đến da mặt trước xương chày,
phù mặt trước xương chày được gọi là “bệnh lý da tuyến giáp”. Phù trước
xương chày gặp trong khoảng 15% bệnh nhân Basedow có bệnh mắt Basedow
mức độ nặng và ít hơn rất nhiều trên bệnh nhân cường giáp nói chung. Trong
thực tế, phù trước xương chày là dấu hiệu lâm sàng cho thấy bệnh mắt đang ở
mức độ nặng [47]. Những biến đổi về mô bệnh học trong tổ chức liên kết đưới
da trước xương chày của bệnh nhân giống như những biến đổi tại hốc mắt
nhưng không có phì đại tổ chức mỡ.
Nhiều nghiên cứu lúc đầu về nguyên bào sợi tập trung vào các cytokine,
những tác động của cytokine lên nguyên bào sợi và sự khác nhau về mặt sinh
học và mặt hình thái giữa nguyên bào sợi tại hốc mắt và tại da [31]. Thí dụ,
khi nguyên bào sợi tại hốc mắt được xử lý với interferon-γ hoặc leukoregulin
sẽ sinh tổng hợp nhiều acid hyaluronic, nhưng xử lý tương tự với nguyên bào
sợi ở tổ chức dưới da thì thu được rất ít acid này [124]. Nhiều nghiên cứu gần
đây tập trung vào tính nhạy cảm đặc biệt của các nguyên bào sợi tại hốc mắt
dưới kích thích của CD40 với interferon-.ץ Thụ thể này là một phân tử hoạt
hóa tế bào lympho B quan trọng được gắn bởi CD154 là một thụ thể được bộc
lộ ở mức cao bởi lympho T. CD40/CD154 gắn vào nhau làm cho nguyên bào
22. 5
sợi sản xuất ra một vài loại mediator viêm bao gồm interleukin (IL)-1, IL-6,
IL-8 và nhiều acid hyaluronic [125].
Các nguyên bào sợi tiền tế bào mỡ ở vị trí khác nhau có sự khác nhau
trong mức độ biểu hiện gen đặc hiệu tế bào mỡ và trong tiềm năng sinh
mỡ; chất đồng vận thụ thể hoạt hóa tăng sinh ץ (PPAR-) của peroxisome
thúc đẩy biệt hóa các nguyên bào sợi tiền tế bào mỡ ở tổ chức dưới da,
nhưng những nguyên bào sợi từ màng nối không chịu ảnh hưởng của tác
nhân này [10]. Nghiên cứu những khác biệt về kiểu hình của nguyên bào sợi
tại vị trí đặc biệt giúp giải thích tại sao bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow
có phì đại tổ chức mỡ hốc mắt mà tổ chức mỡ tại những nơi khác không
phì đại và tại sao da trước xương chày hay bị ảnh hưởng hơn da những
nơi khác.
Ngoài những khác biệt về kiểu hình giữa các nguyên bào sợi, đặc điểm
giải phẫu riêng của hốc mắt và xương chày cũng đóng một vai trò quan trọng
trong bệnh mắt Basedow [118]. Xương hốc mắt có thể chèn ép cản trở các
tĩnh mạch dẫn máu ra khỏi hốc mắt gây tăng áp lực sau nhãn cầu và phù tổ
chức quanh nhãn cầu. Cũng tương tự, khi ta đứng lâu, các mạch máu chi dưới
bị chèn ép gây phù chi dưới giống như phù trước xương chày trong bệnh mắt
Basedow. Ngoài ra, đặc điểm giải phẫu của riêng từng cá nhân như là hình
dạng của hốc mắt, phân bố của tĩnh mạch và bạch mạch cũng đóng một vai
trò quan trọng trong việc xuất hiện bệnh mắt Basedow mức độ nặng và phù
trước xương chày.
1.1.2. Vai trò của thụ thể hóc môn tuyến giáp:
Mối liên quan chặt chẽ giữa cường chức năng tuyến giáp trong bệnh
Basedow với bệnh mắt Basedow [18] và nồng độ tự kháng thể kích thích
giáp với biểu hiện viêm của bệnh mắt Basedow trên lâm sàng [54] cho thấy
rằng hoạt động miễn dịch chống lại thụ thể hormone tuyến giáp (TSHR) có
23. 6
thể có vai trò trong cả hai mối liên quan này. Việc cho rằng tổ chức mỡ hốc
mắt có bộc lộ thụ thể hormone giáp có thể là đích trong bệnh mắt Basedow
được rút ra từ những nghiên cứu trước đây. Những nghiên cứu này cho thấy
hormone giáp gắn với tế bào mỡ và tổ chức hậu nhãn cầu của chuột lang
hoặc gắn với các màng của tổ chức liên kết trong nhãn cầu của lợn. Thụ thể
hormone giáp có mặt trong tổ chức mỡ hốc mắt của người cũng được đề cập
đến [91].
Một điều kiện tiên quyết để cho thụ thể hormone giáp được coi như một
tự kháng nguyên trong bệnh mắt Basedow đó là protein này được bộc lộ trong
tổ chức hốc mắt bị bệnh. Các nghiên cứu cho thấy tế bào mỡ hốc mắt có
TSHR mRNA trong mẫu sinh thiết [126]. Những nghiên cứu tiếp theo cho
thấy nồng độ của thụ thể hormone giáp trong tổ chức mỡ hốc mắt của bệnh
nhân bị bệnh mắt Basedow cao hơn những bệnh nhân không bị bệnh mắt, điều
đó chứng tỏ sự tăng bộc lộ thụ thể hormone giáp trong hốc mắt có thể liên
quan tới sự phát triển của bệnh [32]. Giả thiết này cũng được củng cố bởi sự
liên quan tỉ lệ thuận giữa nồng độ của tế bào mỡ hốc mắt có TSHR mRNA
trong tổ chức mỡ hốc mắt của bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow được cắt lọc
trong phẫu thuật giảm áp và điểm số dùng để đánh giá mức độ viêm của bệnh
mắt Basedow [147]. Cũng giống như vậy, thụ thể hormone giáp có mặt nhiều
hơn ở trước xương chày của bệnh nhân bị phù trước xương chày so với da
trước xương chày bình thường [118].
Dường như có mối liên quan giữa sinh tạo mỡ và mức bộc lộ thụ thể
hormone giáp ở các nguyên bào sợi tiền tế bào mỡ hốc mắt được nuôi cấy in
vitro. Nồng độ của TSHR mRNA cũng như leptin và adiponectin mRNA
(gen mã hóa đặc trưng của tế bào mỡ trưởng thành, được dùng ở đây như
những marker biệt hóa) trong tế bào mỡ trưởng thành nuôi cấy cao gấp mười
lần những tế bào chưa biệt hóa nuôi cấy [137]. Tương tự như vậy, những
24. 7
gen này bộc lộ nhiều hơn trong mẫu mô mỡ hốc mắt của bệnh nhân bệnh
mắt Basedow so với mẫu mô mỡ hốc mắt người bình thường và có sự liên
quan tỉ lệ thuận rõ giữa nồng độ mRNA tương ứng thụ thể hormone giáp và
các gen mã hóa leptin và adiponectin [68]. Tóm lại, những nghiên cứu trên
cho thấy sinh tạo mỡ được tăng cường trong hốc mắt bệnh nhân bệnh mắt
Basedow và quá trình này làm cho thụ thể của hormone giáp được tăng
cường bộc lộ.
1.1.3. Vai trò của thụ thể dành cho yếu tố phát triển giống insulin:
Pritchard và cộng sự trong những nghiên cứu gần đây nhận thấy nguyên
bào sợi của những bệnh nhân Basedow được hoạt hóa bởi IgG từ cùng người
cho sẽ sinh ra những phân tử có tác dụng thúc đẩy tế bào T hoạt hóa tới khu
vưc viêm. Quá trình này được thực hiện qua trung gian là thụ thể dành cho
yếu tố phát triển giống insulin (IGF-1R) cho thấy bệnh nhân bị bệnh mắt
Basedow có lưu hành tự kháng thể trực tiếp chống lại thụ thể này [108]. Việc
hoạt hóa thụ thể dành cho yếu tố phát triển giống insulin bởi IgG dường như
không chỉ giới hạn trong các nguyên bào sợi ở hốc mắt và ở da mặt trước
xương chày mà nguyên bào sợi ở những vị trí khác của bệnh nhân Basedow
cũng có đáp ứng tương tự. Những phát hiện này cho thấy thụ thể dành cho
yếu tố phát triển giống insulin có thể đóng vai trò như một tự kháng nguyên
thứ hai trong bệnh Basedow và có vai trò quan trọng trong lưu hành của các tế
bào lympho. Biểu hiện tại mắt và da mặt trước xương chày của bệnh nhân
Basedow có thể được giải thích một phần do tính nhậy cảm đặc biệt của các
nguyên bào sợi tại những vị trí này với kích thích của các cytokine và các yếu
tố miễn dịch khác.
1.2. Giải phẫu hốc mắt:
Hốc mắt là một cấu trúc đóng vai trò quan trọng tại một phần ba giữa của
mặt. Có bảy xương tạo nên hốc mắt: xương hàm trên, xương gò má, xương
25. 8
sàng, xương bướm, xương khẩu cái, xương trán và xương lệ. Hốc mắt có hình
chóp nón và có thể tích khoảng 30cm3
(trong đó nhãn cầu chiếm 7cm3
) và
chứa đựng các tổ chức phần mềm như (nhãn cầu, thần kinh thị giác, cơ vận
nhãn, mạch máu, thần kinh, bộ máy lệ và tổ chức mỡ). Có hai hốc mắt, mỗi
hốc mắt có hình tháp với nền là lỗ vào hốc mắt và trục của nó hướng ra sau và
vào trong với 4 thành trên, trong, dưới và ngoài.
1.2.1. Hốc mắt xương:
Thành trên hay trần của hốc mắt, cấu tạo bởi mảnh ổ mắt của xương trán
ở trước và cánh nhỏ xương bướm ở sau, ngăn cách các cấu trúc chứa trong ổ
mắt và não ở hố sọ trước. Phần trước trong của mảnh ổ mắt của xương trán bị
làm mỏng đi bởi xoang trán, tại đây có hố ròng rọc, nơi có ròng rọc cho cơ
chéo trên luồn qua. Phía trước ngoài của trần ổ mắt có một hố sâu cho phần ổ
mắt của tuyến lệ nằm và được gọi là hố tuyến lệ. Về phía sau, chỗ gặp nhau
giữa trần và thành trong (gốc của cánh nhỏ xương bướm) có lỗ của ống thị
giác nối thông hốc mắt với hố sọ giữa, nơi chui qua của thần kinh thị giác và
động mạch mắt. Đây chính là đỉnh hốc mắt.
Thành trong là một mảnh xương mỏng, chủ yếu là thành ngoài của các
xoang sàng (mặt ngoài của khối bên xương sàng). Phía trước của xương
sàng có sự tham gia của xương lệ và mỏm trán của xương hàm trên. Hai
xương này tạo nên rãnh lệ (chứa túi lệ) để cho ống lệ mũi mở thông xuống
ổ mũi. Giới hạn trước của rãnh này là mào lệ trước của mỏm trán của
xương hàm trên. Mào lệ sau của xương lệ là giới hạn sau của rãnh lệ. Các
mào lệ là nơi bám của mạc lệ và cơ vòng mi mắt. Ở chỗ tiếp nối giữa trần
và thành trong, ngang mức dưới khớp trán-sàng có các lỗ sàng trước và
sau. Các mạch và các thần kinh sàng trước và sau rời khỏi hốc mắt qua
những lỗ này. Sau xương sàng, thành trong có sự tham gia của một phần
nhỏ xương bướm.
26. 9
Hình 1.1 Các thành xương hốc mắt
Atlas giải phẫu người, NXB Y học, 2000
Thành dưới hay sàn là mảnh xương mỏng ngăn cách với xoang hàm
trên, chủ yếu do mặt ổ mắt xương hàm trên tạo nên cùng với sự đóng góp
nhỏ từ xương gò má và khẩu cái. Phía sau thành này bị ngăn cách với cánh
lớn xương bướm bởi khe dưới ổ mắt, một khe thông xuống dưới với hố
chân bướm khẩu cái và hố thái dương dưới. Thần kinh hàm trên lướt qua
khe này chạy tới rãnh dưới ổ mắt rồi cuối cùng chui vào ống dưới ổ mắt và
thoát ra ở lỗ dưới ổ mắt nằm ở mặt trước của thân xương hàm trên. Tính từ
khi nằm trong rãnh dưới ổ mắt, thần kinh hàm trên được gọi là thần kinh
dưới ổ mắt.
Thành ngoài là thành xương dày nhất, ngăn cách hốc mắt với hố thái
dương. Hố thái dương chứa cơ thái dương và da đầu vùng thái dương, nơi
phải đi qua để tiếp cận thành ngoài hốc mắt. Nó được tạo bởi chủ yếu là
xương gò má và cánh lớn xương bướm. Cùng hướng về phía trước nhưng
thành ngoài bị chia cắt với trần của hốc mắt bởi khe hốc mắt trên (giữa cánh
27. 10
lớn và cánh nhỏ của xương bướm), khe này rộng về phía trong. Khe hốc mắt
trên là nơi đi qua của thần kinh III, thần kinh IV, nhánh mắt thần kinh V và
thần kinh VI.
Nền hốc mắt thường có hình tứ giác. Bờ trên hoàn toàn được tạo bởi
xương trán. Bờ trên hốc mắt bị gián đoạn ở chỗ nối giữa phần ba trong và hai
phần ba ngoài bởi khuyết trên hốc mắt (đôi khi là lỗ trên hốc mắt), đây là nơi
chạy qua của bó mạch thần kinh trên hốc mắt. Bờ ngoài của nền hốc mắt do
mỏm trán của xương gò má và mỏm gò má của xương trán tạo thành. Bờ dưới
hốc mắt gồm có xương gò má ở bên ngoài và xương hàm trên ở bên trong. Bờ
trong của nền hốc mắt do xương trán ở trên và mào lệ trước của mỏm trán
xương hàm trên ở bên dưới tạo thành.
1.2.2. Các mô mềm:
Mi mắt: các mi mắt là những nếp da bám vào các bờ của nền hốc mắt.
Các lớp của mi mắt từ trước ra sau là:
Da và mô dưới da: mô dưới da mỏng và thưa
Cơ vòng mắt: gồm phần ổ mắt bao quanh ổ mắt và phần mi nằm
trong mi. Phần mi bám ở trong vào dây chằng mi trong (dây chằng
bám vào mào lệ trước) và ở phía ngoài hòa trộn với sợi cơ của mi
đối diện vào dây chằng mi ngoài.
Vách hốc mắt: là phần mở rộng của ngoại cốt mạc từ bờ ổ mắt vào
các mi, nằm dưới phần mi cơ vòng mắt. Vách ổ mắt gắn với gân
của cơ nâng mi trên ở mi trên và với sụn mi ở mi dưới.
Các sụn mi: cũng nằm dưới phần mi cơ vòng mắt, cùng lớp với
vách ổ mắt. Các sụn bám ở trong vào mào lệ trước bằng dây chằng
mi trong và ở ngoài vào củ ổ mắt xương gò má bằng dây chằng mi
ngoài. Kết hợp với sụn mi trên là cơ nâng mi trên và một tập hợp
sợi cơ trơn từ mặt dưới cơ nâng mi trên tới bờ trên sụn mi trên (cơ
sụn trên).
28. 11
Kết mạc: phủ toàn bộ mặt sau mi mắt trước khi lật lên mặt ngoài
củng mạc và bám vào nhãn cầu ở chỗ nối củng mạc-giác mạc. Chỗ
lật giữa hai phần kết mạc là vòm kết mạc.
Ngoại cốt mạc ổ mắt: lá ngoại cốt mạc lót các xương tạo nên ổ mắt. Nó
liên tiếp tại bờ hốc mắt với ngoại cốt mạc ở mặt ngoài các xương sọ và
mở rộng vào các mi tạo thành các vách ổ mắt. Tại các lỗ thông hốc mắt
với hộp sọ, ngoại cốt mạc liên tiếp với lớp ngoại cốt mạc của màng não
cứng. Ở phần sau ổ mắt nó dầy lên ở quanh ống thị giác và phần trung
tâm khe ổ mắt trên thành vòng gân chung cho bốn cơ thẳng.
Bao Tenon là lớp mạc bao quanh phần lớn nhãn cầu. Về phía sau nó bám
chặt vào củng mạc ở quanh điểm mà thần kinh thị đi vào nhãn cầu. Về
phía trước, nó bám chặt vào củng mạc ở gần rìa giác mạc. Khi các cơ đi
tới nhãn cầu, mạc bọc quanh mỗi cơ hòa lẫn với bao mạc khi cơ đi qua
bao mạc để tới chỗ bám vào củng mạc. Phần dưới của bao Tenon cùng
với các cơ thẳng trong, ngoài, dưới và cơ chéo dưới tạo nên dây chằng
treo nhãn cầu.
Các dây chằng hãm là phần mở rộng của mạc bọc các cơ thẳng ngoài và
trong tới bám vào thành ngoài và trong của ổ mắt. Dây chằng hãm trong
từ mạc cơ thẳng trong tới bám vào sau mào lệ sau. Dây chằng ngoài từ
mạc cơ thẳng ngoài tới bám vào củ ổ mắt xương gò má.
1.3. Chẩn đoán bệnh mắt Basedow:
Nghĩ tới bệnh mắt Basedow nếu có co rút mi (vị trí mi trên phía trên
vùng rìa) xảy ra cùng triệu chứng của rối loạn hormone giáp, hoặc lồi mắt
(độ lồi 18 mm), hoặc có giảm thị lực do chèn ép thị thần kinh, hoặc biểu
hiện ở cơ ngoại nhãn (hạn chế vận động, hoặc cơ to lên xác định bằng chụp
CT/MRI hoặc bằng siêu âm). Hình ảnh lâm sàng có thể xuất hiện chỉ ở một
29. 12
mắt hoặc cả hai mắt bệnh nhân [132]. Chẩn đoán có thể tóm tắt vào theo sơ
đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1. Các bước chẩn đoán bệnh mắt Basedow
1.4. Phân loại bệnh mắt Basedow:
Mặc dù sinh lý bệnh của bệnh mắt Basedow còn chưa hoàn toàn được
biết rõ nhưng những thay đổi của hốc mắt như sự phát triển của tổ chức xơ và
mỡ hậu nhãn cầu, sự phì đại của các cơ trực và rối loạn chức năng của nó
cũng có thể giải thích được cho các biểu hiện lâm sàng của bệnh.
Lồi mắt (được coi như cách giảm áp tự nhiên của hố mắt) cùng với co rút
mi, lộ giác mạc gây ra cảm giác dị vật, đau, chảy nước mắt và sợ ánh sáng.
Rối loạn chức năng cơ vận nhãn gây ra hạn chế vận động, song thị và nhìn
mờ. Tăng về thể tích của các tổ chức trong hốc mắt dẫn tới chèn ép thị thần
Hoặc
Rối
loạn
hóc
môn
giáp
Lồi mắt
Bệnh thị thần
kinh
Biểu hiện rối loạn
của cơ ngoại nhãn
Co
rút
mi
Rối loạn hóc
môn giáp
Lồi mắt
Bệnh thị
thần kinh
Biểu hiện rối loạn
của cơ ngoại
nhãn
30. 13
kinh làm giảm thị lực. Phản ứng viêm làm cho các tĩnh mạch dãn rộng và
sưng nề tổ chức quanh nhãn cầu. Nếu đúng theo cơ chế trên, biện pháp điều
trị là nhằm mục đích làm giảm thể tích các tổ chức trong hốc mắt, làm giảm
áp lực hốc mắt (dùng cocticoid hoặc tia xạ) hoặc mở rộng thể tích hốc mắt
(phẫu thuật giảm áp). Việc lựa chọn biện pháp điều trị nào phải căn cứ vào
mức độ nặng và sự tiến triển của bệnh. Đa số bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow
ở mức độ nhẹ và bệnh không tiến triển nên không cần biện pháp điều trị đặc
biệt, thêm nữa nếu không phải ở mức độ nặng bệnh thường dần giảm đi [105].
Do đó hai câu hỏi được đặt ra khi khám một bệnh nhân là: nếu bị bệnh mắt
Basedow thì đang ở mức độ nào, có cần điều trị không và nếu cần thì nên
chọn phương pháp nào.
Trong nhiều nghiên cứu trước đây, đánh giá mức độ bệnh chủ yếu dựa
trên sự thay đổi độ lồi còn các dấu hiệu khác bị bỏ qua. Một tiến bộ đáng kể
trong đánh giá là dùng phân loại NOSPECS của hiệp hội tuyến giáp Mỹ
(American Thyroid Association 1969) [13].
Bảng 1.1. Đánh giá mức độ năng theo NOSPECS
- No: không tổn thương.
- Độ I = Only: chỉ có rối loạn chức năng - co cơ mi trên, mất đồng vận mi
mắt nhãn cầu, ít nháy mắt.
- Độ II = Soft: tổn thương phần mềm - tổn thương kết mạc và phù mi, phù kết
mạc, chảy nước mắt, cảm giác có dị vật ở mắt, sợ ánh sáng.
- Độ III = Protrusion: lồi mắt quá 3mm so với giá trị bình thường - đo bằng
thước Hertel.
- Độ IV = Extraocular: vận nhãn bị hạn chế, thị lực bị rối loạn hoặc song thị.
- Độ V = Cornea: tổn thương giác mạc - đục giác mạc, loét giác mạc vì
không nhắm kín được mắt.
- Độ VI = Sight: giảm thị lực đến mất thị lực - tổn thương dây thần kinh
thị giác.
31. 14
Mặc dù rõ ràng là một tiến bộ quan trọng trong tiêu chuẩn đánh giá,
NOSPECS sau đó cũng bị phê phán do những hạn chế [13]. Đó là: rất khó
xếp loại khi bệnh nhân có nhiều triệu chứng nằm trong các nhóm khác nhau
và trong thực tế, bệnh mắt không tiến triển lần lượt qua các mức độ. Do đó
cách phân loại NOSPECS cần được đánh giá lại [13].
Theo Bartalena, việc phân loại nên dựa trên sự đánh giá hai yếu tố là giai
đoạn viêm và mức độ nặng của bệnh [15].
1.4.1. Đánh giá giai đoạn viêm của bệnh mắt Basedow:
Sự phát triển tự nhiên của bệnh mắt Basedow chưa hoàn toàn rõ nhưng
dường như lúc đầu là giai đoạn viêm, tiếp theo là giảm dần và ổn định. Sau
giai đoạn cấp tính, có thể còn lại lồi mắt, song thị, co rút mi do hình thành sẹo
trong các cơ ngoại nhãn và mô mềm hốc mắt [133]. Nếu mô hình này đúng,
thì rõ ràng là giai đoạn viêm của bệnh không đồng nghĩa và không trùng với
mức độ nặng của bệnh. Nói cách khác, một bệnh nhân có biểu hiện bệnh mắt
giai đoạn viêm có thể tự giảm dần và đi đến ổn định .
Để đánh giá giai đoạn viêm của bệnh, Mourits [92] đưa ra bảng điểm
đánh giá giai đoạn viêm dựa theo dấu hiệu lâm sàng gồm 10 dấu hiệu khác
nhau (bảng 1.2). Cách tính là: cho một điểm với mỗi dấu hiệu, tổng số điểm
thu được từ 0 (không viêm) tới 10 (viêm mạnh). Mourits và một số tác giả
như Prummel, Wiersinga, Koornneef dùng bảng này đánh giá kết quả điều trị
bằng chiếu xạ và bằng prednisone trên bệnh nhân mức độ nặng trung bình.
Các tác giả nhận thấy bệnh nhân có điểm viêm > 4 thì 80% đáp ứng rất tốt với
điều trị và những bệnh nhân có điểm viêm < 4 cũng có thể đáp ứng với điều
trị [93]. Hội bệnh mắt liên quan tuyến giáp châu Âu sau đó cũng đưa ra một
bảng đánh giá mới giống như của Mourits nhưng bớt đi một số dấu hiệu (bảng
32. 15
1.2). Theo Hội bệnh mắt liên quan tới tuyến giáp châu Âu thì cách tính điểm
viêm > 3 điểm thì mắt được coi là đang viêm [44].
Bảng 1.2. Đánh giá giai đoạn viêm của bệnh mắt Basedow
Bảng điểm theo Mourits Bảng điểm theo EUGOGO
Cảm giác chèn ép, khó chịu ở cạnh và
sau nhãn cầu
Đau phía sau nhãn cầu tự phát
Đau khi liếc mắt lên trên sang ngang
và xuống dưới
Đau khi vận động mắt
Đỏ mi mắt Ban đỏ ở mi mắt
Đỏ toả lan của kết mạc Xung huyết kết mạc
Phù nề kết mạc Phù nề kết mạc
Sưng cục lệ Sưng cục lệ
Phù mi mắt Mi mắt phù nề hoặc dầy lên
Tăng 2 mm độ lồi trong 1 - 3 tháng qua
Giảm thị lực trong 1 - 3 tháng qua
Giảm vận động mắt 5 độ trong 1 - 3
tháng qua
1.4.2. Đánh giá mức độ nặng của bệnh mắt Basedow
1.4.2.1. Phân loại mức độ nặng theo Bartalena:
Đánh giá mức độ nặng của bệnh mắt có thể dựa vào: có bệnh lý thị thần
kinh không, mặc dù bệnh lý thị thần kinh ít có biểu hiện lâm sàng và chỉ
được báo trước bởi giảm thị lực. Lồi mắt có nặng không, vì lồi mắt có thể
gây hở giác mạc dẫn tới loét giác mạc hoặc viêm giác mạc chấm. Do đó
giảm thị lực do bệnh thị thần kinh hoặc do lồi mắt nặng đủ để chẩn đoán
mức độ nặng của bệnh mắt Basedow. Trong đánh giá này, có thể liên quan
tới mức độ lồi mắt khác nhau biểu hiện sự tiến triển của bệnh. Rối loạn chức
năng cơ ngoại nhãn không gây nguy hại cho thị lực nhưng gây song thị ảnh
hưởng rõ tới sinh hoạt hàng ngày và gây khó chịu cho bệnh nhân khi nó xuất
33. 16
hiện thường xuyên (ở tất cả các hướng nhìn). Do đó, sự rối loạn của cơ
ngoại nhãn, khi có song thị trong tư thế nhìn thẳng và đọc sách nên được coi
là một dấu hiệu của mức độ nặng. Năm 1997, tác giả Bartalena phân loại
mức độ nặng bệnh mắt Basedow như sau [13].
Bảng 1.3. Phân loại mức độ nặng của bệnh mắt Basedow theo Bartalena
Các dấu
hiệu
Mức độ
Lồi mắt Song thị Thị thần kinh
Nhẹ 19 – 20 mm Xuất hiện khi mỏi mệt, khi
ốm.
Thị lực bình thường,
hoặc bằng 9/10
Vừa 21 – 23 mm Xuất hiện khi liếc các hướng Thị lực 8/10 - 5/10
Nặng* > 23 mm Xuất hiện khi nhìn thẳng và
khi đọc sách
Thị lực < 5/10
* Bệnh nhân được coi là nặng khi: Có một dấu hiệu của nặng, hoặc hai dấu
hiệu trung bình, hoặc một dấu hiệu trung bình và hai dấu hiệu nhẹ
Độ lồi được đo bằng thước đo độ lồi hoặc qua chụp CT/MRI. Độ lồi trung bình
của người Italy là 15mm. Độ lồi trung bình khác nhau tùy chủng tộc; Theo
L.Bartalena độ lồi tăng thêm trên 4mm là bất thường [13].
* Wiersinga W.M, độ lồi mắt của người châu Á da vàng là ≥ 18 mm, người châu Âu
da trắng là ≥ 20mm, người da đen là ≥ 21mm và độ lồi giữa hai mắt chênh lêch từ
3 mm trở lên thì được chẩn đoán là lồi mắt do bệnh mắt Basedow [142].
1.4.2.2. Chẩn đoán thị thần kinh bị chèn ép trong bệnh mắt Basedow:
- Các khám nghiệm lâm sàng:
Chèn ép thị thần kinh thường có thể chẩn đoán trên lâm sàng dựa trên
các triệu chứng như: giảm thị lực, tổn thương thị trường, giảm thị lực màu,
tổn hại phản xạ đồng tử, phù hoặc teo gai thị. Khi phần lớn những triêu chứng
và dấu hiệu này có mặt thì chẩn đoán chèn ép thị thần kinh không khó khăn.
Chẩn đoán không chắc chắn chủ yếu đối với những bệnh nhân không hợp tác
tốt hoặc những bệnh nhân gặp khó khăn khi thực hiện các khám nghiệm đánh
giá chức năng thị thần kinh như: thị lực, thị lực màu và thị trường, đặc biệt
34. 17
khi thử với thị trường kế tự động thì cần sự hợp tác đầy đủ của bệnh nhân.
Đây là những bệnh nhân quá lo lắng do lồi mắt, co rút mi, chảy nước mắt. Do
đó những khám nghiệm cận lâm sàng như chụp CT hốc mắt rất có giá trị,
nhất là trong những trường hợp này.
- Khám nghiệm cận lâm sàng:
Trong thực tế một số tác giả đã nghiên cứu mối liên quan giữa chèn ép
thị thần kinh và kích thước của cơ vận nhãn trên phim chụp CT [29]. Những
hình ảnh khác phản ánh tình trạng tăng thể tích các thành phần chứa trong hốc
mắt như mức độ lồi mắt và chèn ép tại đỉnh hốc mắt cũng thường gặp hơn
trên bệnh nhân mắt Basedow có chèn ép thị thần kinh [139]. Birchall và cộng
sự cho rằng hình ảnh của tổ chức mỡ hốc mắt chèn vào phần hở phía đỉnh hốc
mắt trên phim CT là dấu hiệu có giá trị [29]. Tuy nhiên, với những nghiên cứu
gần đây của Mckeag và cộng sự trên 94 mắt được chẩn đoán bị chèn ép thị
thần kinh thì chỉ có 40 mắt có phim CT như tác giả Birchall mô tả, nó cho
thấy tiêu chuẩn này có độ nhạy thấp [79]. Mức độ chèn ép tại đỉnh hốc mắt
theo Nugent và cộng sự nếu lớn hơn 50% là có giá trị chẩn đoán chèn ép thị
thần kinh với độ nhậy là 66% và độ đặc hiệu là 87% [99]. Tác giả Mckeag
nhận thấy khi hình ảnh chèn ép tại đỉnh hốc mắt trên phim chup CT lớn hơn
50% thì 78 mắt trên 98 mắt bị chèn ép thị thần kinh được chẩn đoán lâm sàng
trong nghiên cứu có hình ảnh này [79]. Dù sao thì đánh giá mức độ chèn ép
tại đỉnh hốc mắt cũng khá khó khăn do khó xác định ranh giới của bờ cơ vận
nhãn tại đỉnh hốc mắt trên phim CT. Thậm chí cả khi chụp CT với độ phân
giải cao thì cơ vận nhãn vẫn dễ lẫn với tĩnh mạch hốc mắt trên và thị thần
kinh tại đỉnh hốc mắt.
Tác giả Barrett và cộng sự đã đưa ra một phương pháp dễ áp dụng để
đánh giá mối liên quan giứa mức độ phì đại cơ vận nhãn và chèn ép thị thần
kinh [26]. Chỉ số Barrett theo chiều đứng bằng tổng độ dày của cơ theo chiều
35. 18
đứng chia cho độ dài hốc mắt theo chiều đứng của hốc mắt. Chỉ số Barett theo
chiều ngang bằng tổng độ dày của cơ theo chiều ngang chia cho độ dài hốc
mắt theo chiều ngang của hốc mắt. Vị trí lát cắt của phim theo mặt phẳng
đứng đi qua điểm giữa mặt sau nhãn cầu và đỉnh hốc mắt. Lấy vào tính toán
chỉ số Barett chiều nào có giá trị cao hơn. Chỉ số cơ là 67% hoặc lớn hơn là
được chẩn đoán chèn ép thị thần kinh [26].
1.4.2.3. Phân loại mức độ nặng theo Hội bệnh mắt liên quan tuyến giáp
châu Âu năm 2007:
Hội bệnh mắt liên quan tuyến giáp châu Âu ( EUGOGO) phân loại mức
độ nặng của bệnh mắt Basedow thành ba mức độ để thuận tiện cho việc chỉ
định điều trị [11]:
Bảng 1.4. Phân loại mức độ nặng của bệnh mắt Basedow theo EUGOGO
1. Mức độ đe dọa thị lực: Bệnh nhân có bệnh lý thị thần kinh* do rối
loạn hormone giáp (dysthyroid optic neuropathy-DON) và/hoặc tổn
thương giác mạc. Bệnh nhân mức độ này cần được can thiệp ngay.
2. Mức độ nặng: Bệnh nhân không có bệnh lý thị thần kinh đe dọa thị lực
nhưng bệnh mắt ảnh hưởng tới cuộc sống hàng ngày và cần phải được
điều trị nội khoa (nếu ở giai đoạn viêm) hoặc ngoại khoa (nếu ở giai
đoạn mạn tính). Những bệnh nhân ở mức độ nặng có một hoặc nhiều
triệu chứng sau: mi co rút ≥ 2mm, sưng nề tổ chức phần mềm từ mức
độ trung bình tới nặng, độ lồi ≥ 3mm so với người bình thường cùng
chủng tộc và cùng giới, song thị khi cố gắng liếc mắt (2 điểm) hoặc
song thị khi mắt nhìn thẳng (3 điểm).
3. Mức độ nhẹ: những bệnh nhân mà bệnh mắt Basedow chỉ ảnh hưởng rất
ít tới cuộc sống hàng ngày do đó không cần phải điều trị nội khoa hoặc
36. 19
ngoại khoa. Những bệnh nhân này thường chỉ có một hoặc nhiều triệu
chứng sau: co rút mi nhẹ < 2mm, sưng nề tổ chức phần mềm không đáng
kể, độ lồi < 3mm so với người bình thường cùng chủng tộc và cùng giới,
không có song thị (0 điểm) hoặc có song thị khi mệt mỏi hoặc khi mới
ngủ dậy (1 điểm), giác mạc hở đáp ứng tốt với thuốc nhỏ mắt.
Bệnh lý thị thần kinh do rối loạn hóc môn giáp còn được gọi là bệnh lý thị thần
kinh bị chèn ép (compressive optic neuropathy - CON).
W.M.Wiersinga, độ lồi mắt của người châu Á da vàng là ≥ 18 mm và độ lồi giữa hai
mắt chênh lệch từ 3 mm trở lên thì được chẩn đoán là lồi mắt do bệnh mắt Basedow[142].
Trong nghiên cứu chúng tôi chọn lồi mắt ≥ 21 mm là mức độ nặng.
1.5. Điều trị bệnh mắt Basedow
1.5.1. Điều trị cường giáp trên bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow:
Vai trò của điều chỉnh rối loạn hormone giáp với bệnh mắt Basedow:
- Bệnh nhân có rối loạn hormone giáp (cả cường giáp và nhược
giáp) nhiều khả năng bị bệnh mắt Basedow nặng hơn là bệnh
nhân bình giáp [110].
Mối liên quan giữa cách điều trị cường chức năng tuyến giáp và sự
phát triển của bệnh mắt Basedow:
- Thuốc kháng giáp tổng hợp [76] và phẫu thuật tuyến giáp
không ảnh hưởng tới sự phát triển của bệnh mắt Basedow [94].
- Khi điều trị cường giáp bằng Iốt phóng xạ có khoảng 15% bệnh
nhân xuất hiện bệnh mắt Basedow mới hoặc bệnh mắt Basedow
nặng lên trong vòng 6 tháng [16]. Trong số đó có khoảng 5%
bệnh nhân bệnh mắt Basedow kéo dài tới 1 năm và yêu cầu phải
có biện pháp điều trị kết hợp [16]. Để tránh biến chứng này cho
bệnh nhân dùng liệu pháp glucocorticoids đường uống trong
37. 20
khoảng 3 tháng sau điều trị xạ trị và tránh điều trị quá liều
phóng xạ dẫn tới nhược giáp [16].
Bệnh nhân có bệnh mắt Basedow giai đoạn mạn tính và không có
các yếu tố làm nặng bệnh mắt Basedow như: không hút thuốc,
mức TRAb thấp (<7,5UI/L) thì không cần dùng steroid sau khi
dùng Iốt phóng xạ điều trị cường giáp.
1.5.2. Điều trị bệnh mắt Basedow trên bệnh nhân có bệnh toàn thân
kết hợp:
Bệnh nhân bị bệnh đái tháo đường hoặc cao huyết áp có bệnh mắt
Basedow mức độ trung bình tới nặng hoặc đe dọa thị lực nên được điều trị
như thế nào?
Glucocorticoids đường tĩnh mạch có thể làm nặng thêm đái tháo
đường và/hoặc tăng huyết áp. Dù sao, sử dụng steroid trên những
bệnh nhân đái tháo đường và/hoặc tăng huyết áp cũng không
khác đối với những bệnh nhân thông thường.Tuy nhiên, cần phải
theo dõi sát đường máu, huyết áp và điện giải của những bệnh
nhân này. Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng cho bệnh
nhân phẫu thuật.
Tia xạ có thể làm tăng nguy cơ bệnh lý võng mạc trên những
bệnh nhân đái tháo đường và tăng huyết áp.
Đái tháo đường và/hoặc cao huyết áp không phải là chống chỉ
định cho phẫu thuật giảm áp cũng như các phẫu thuật khác điều
trị bệnh mắt Basedow.
1.5.3. Điều trị bệnh mắt Basedow mức độ đe dọa thị lực:
Cần xác định những bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow đe dọa thị lực.
Thị lực bị đe dọa khi thị thần kinh bị chèn ép tại đỉnh hốc mắt.
38. 21
Thị lực cũng bị đe dọa ở những bệnh nhân bệnh mắt Basedow
trong các trường hợp sau: lồi mắt, nhãn cầu bất động kèm hở
mi khi nhắm mắt liên quan tới dấu hiệu Bell giảm.
Tất cả các triệu chứng lâm sàng kể trên cần được nhanh chóng
khám xét kỹ lại để phân loại bệnh nhân có đe dọa thị lực.
1.5.3.1. Lựa chọn điều trị cho bệnh nhân bị chèn ép thị thần kinh:
Trong giai đoạn viêm:
- Chèn ép thị thần kinh có thể được điều trị bằng Glucocorticoids
toàn thân.
- Chiếu xạ hốc mắt không được khuyến cáo trong trường hợp
chèn ép thị thần kinh.
- Glucocorticoids liều cao theo chế độ pulses có hiệu quả tốt và
ít tác dụng phụ hơn đường uống và tiêm cạnh nhãn cầu [70].
- Chức năng thị thần kinh được cải thiện sau khi dùng
Glucocorticoids liều cao theo chế độ pulses trong 1-2 tuần [58].
- Chèn ép thị thần kinh tái phát lại rất nhanh sau khi dừng liệu
pháp Glucocorticoids [12].
Trong giai đoạn mạn tính:
- Phẫu thuật hạ áp hốc mắt có thể mang lại kết quả điều trị chèn
ép thị thần kinh tốt và nhanh chóng với ít biến chứng có thể
chấp nhận được. Dù sao, sau phẫu thuật cũng cần dùng thêm
liệu pháp Glucocorticoids và phẫu thuật lác. Trong một số
trường hợp phải làm thêm phẫu thuật giảm áp lần nữa nếu
phẫu thuật lần đầu chưa đạt yêu cầu [120].
- Nếu bệnh nhân không đáp ứng với Glucocorticoids đường tĩnh
mạch hoặc đáp ứng kém sau 1-2 tuần điều trị, hoặc những tác
dụng không mong muốn của thuốc không cho phép bệnh nhân
39. 22
dùng đủ liều và đủ thời gian thì phẫu thuật giảm áp nên được
tiến hành ngay.
- Cả hai biện pháp điều trị Glucocorticoids và phẫu thuật giảm
áp hốc mắt chỉ nên được thực hiện tại cơ sở chuyên khoa về
bệnh mắt Basedow.
1.5.3.2. Lựa chọn điều trị cho bệnh nhân có tổn hại giác mạc:
Tổn thương giác mạc đe dọa thị lực nên được điều trị cấp cứu.
Điều trị tổn thương giác mạc đe dọa thị lực bao gồm:
- Nhỏ thuốc tra mắt liên tục (thuốc không có chất bảo quản đối
với bệnh nhân dị ứng), dán kín mi, khâu cò mi và các biện
pháp tạm thời khác cho tới khi tổn thương giác mạc liền.
- Xem xét điều trị Glucocorticoids đường toàn thân và phẫu
thuật giảm áp hốc mắt khi những biện pháp nêu trên tỏ ra
không hiệu quả.
- Trường hợp thủng giác mạc/ loét nặng cần dùng kháng sinh
thích hợp và dùng keo dán, ghép màng ối hoặc ghép giác mạc
có thể được xem xét.
- Ngay khi tổn thương giác mạc tiến triển tốt cần xem xét điều
trị để bệnh nhân có thể nhắm kín được mắt, tránh loét tái phát.
1.5.4. Điều trị bệnh mắt Basedow mức độ nặng:
Đa số bệnh nhân trong phân loại này nên được khám và điều trị, ngoại trừ
những bệnh nhân bị bệnh ở một bên mắt và bệnh nhân không muốn điều trị.
1.5.4.1. Điều trị khi mắt đang ở giai đoạn viêm:
Sử dụng Glucocorticoids: Liệu pháp Glucocorticoids để điều trị
bệnh mắt Basedow đã được dùng qua các đường uống, đường tại
chỗ (tiêm hậu nhãn cầu, tiêm dưới kết mạc), hoặc đường tĩnh
40. 23
mạch. Đường uống (liều khởi đầu, 80-100mg prednisone hoặc
1mg/kg/ngày) cần liều cao và thời gian điều trị kéo dài. Chưa có
nghiên cứu mù đôi nào về hiệu quả của liệu pháp dùng đường
uống nhưng những nghiên cứu so sánh hiệu quả của dùng
Glucocorticoids đường uống với các biện pháp điều trị khác cho
thấy có khoảng 33-63% bệnh nhân có đáp ứng tốt với điều trị,
đặc biệt là tổ chức phần mềm, tổ chức cơ vận nhãn và chèn ép
thị thần kinh [70]. Nhưng bệnh mắt Basedow tái phát rất nhanh
ngay khi giảm liều hoặc dừng sử dụng Glucocorticoids. Tác
dụng không mong muốn cũng thường thấy. Dùng Corticoid
đường uống kéo dài dẫn tới nguy cơ loãng xương và phải dùng
kèm những thuốc chống loãng xương. Dùng Glucocorticoids
tiêm hậu nhãn cầu hoặc dưới kết mạc không hiệu quả bằng dùng
đường uống [70]. Glucocorticoids dùng đường tĩnh mạch theo
chế độ pulse hiệu quả hơn rất nhiều so với đường uống (tỉ lệ đáp ứng
từ 50-80%) [70]. Mặc dù dùng Glucocorticoids đường tĩnh mạch
hiệu quả hơn nhiều so với đường uống nhưng tổn thương gan
cấp tính hoặc de dọa tổn thương gan khi dùng liều cao
Glucocorticoids đã được thông báo chiếm khoảng 0,8% bệnh
nhân được điều trị [96]. Việc dùng Glucocorticoids đường tĩnh
mạch an toàn khi tổng liều dùng cho một đợt điều trị < 8 gam
methylprednisolon [70]. Thuốc chống loãng xương
(Bisphosphonates) nên được dùng cho những bệnh nhân này.
Chiếu xạ hốc mắt. Tỉ lệ đáp ứng với biện pháp chiếu xạ hốc
mắt (Orbital radiotherapy) trong một số nghiên cứu không đối
chứng là khoảng 60%. Tổng liều xạ là 20Gy trên một mắt,
chiếu làm 10 lần trong thời gian 2 tuần là liều thường được sử
41. 24
dụng. Nhưng có thể dùng liều 1 Gy/tuần trong 20 tuần cho hiệu
quả tốt hơn và ít tác dụng không mong muốn hơn [14]. Hiệu
quả của chiếu xạ hốc mắt cũng giống như hiệu quả của dùng
prednisone đường uống [14]. Cũng có nghiên cứu khác thì tỏ ra
nghi ngờ hiệu quả của chiếu xạ hốc mắt [55]. Chiếu xạ hốc mắt
là biện pháp điều trị có triển vọng, nhưng cũng có thể gây ra
nhiều tác dụng không mong muốn và cần phải dùng kết hợp với
Glucocorticoids để hạn chế những tác dụng không mong muốn
này. Theo dõi lâu dài thấy liệu pháp tia xạ cũng an toàn, nhưng
về mặt lý thuyết thì vẫn có những quan ngại chiếu xạ sẽ làm
tăng nguy cơ ung thư ở những bệnh nhân trẻ, đặc biệt những
người dưới 35 tuổi [14]. Đục thủy tinh thể sau khi chiếu xạ có
thể được điều trị bằng phẫu thuật thay thủy tinh thể. Bất thường
vi mạch võng mạc được phát hiện ở một số ít bệnh nhân sau tia
xạ, phần lớn trong số này có bệnh võng mạc tăng huyết áp hoặc
võng mạc đái tháo đường. Những bệnh nhân có một trong hai
bệnh lý võng mạc này được chống chỉ định tuyệt đối dùng biện
pháp chiếu xạ [14]. Có khả năng bệnh nhân bị bệnh tiểu đường
mà chưa có biến chứng tại võng mạc thì có nhiều nguy cơ phát
triển bệnh lý tại võng mạc sau khi chiếu xạ nhưng những lo
ngại này chưa được chứng minh rõ ràng. Do dó, bệnh nhân có
bệnh tiểu đường mà chưa có biến chứng tại võng mạc được coi
là có chống chỉ định tương đối với biện pháp tia xạ hốc mắt.
Điều trị kết hợp tia xạ với Corticoids (dùng đường uống hoặc tại
chỗ) có hiệu quả cao hơn khi dùng từng biện pháp riêng rẽ. Nhưng
chưa có nghiên cứu chứng tỏ dùng Glucocorticoids đường tĩnh
mạch kết hợp với tia xạ hiệu quả hơn là chỉ dùng Glucocorticoids
đường tĩnh mạch.
42. 25
Hiệu quả điều trị và tác dụng không mong muốn của somatostatin
[38], azathioprine [111] chưa được đánh giá đầy đủ. Những thuốc
ức chế miễn dịch như Rituximab [128] bước đầu được sử nhưng
vẫn chưa có nghiên cứu so sánh được thực hiện.
Chưa có nghiên cứu đối chứng nào được tiến hành nhằm đánh giá
xem điều trị nội khoa có làm giảm mức độ can thiệp phẫu thuật sau
đó hay không cho nên đây vẫn là câu hỏi chưa có câu trả lời [44].
Về mặt lý thuyết thì các nguyên bào sợi ở hốc mắt sau khi được
chiếu xạ sẽ giảm hoạt động kéo theo giảm áp lực hốc mắt và do dó
giảm nhu cầu cần phẫu thuật. Nhưng giả thuyết này chưa được
chứng minh trên thực tế lâm sàng [23].
1.5.4.2. Điều trị khi mắt đang ở giai đoạn mạn tính:
Phẫu thuật trong bệnh mắt Basedow mức độ nặng.
- Tiến trình phẫu thuật gồm một hoặc nhiều bước như sau: (a)
phẫu thuật giảm áp hốc mắt; (b) phẫu thuật điều trị lác; (c)
phẫu thuật kéo dài mi; và (d) phẫu thuật tạo hình mi. Nếu
một bệnh nhân cần làm nhiều hơn một phẫu thuật thì phẫu
thuật lần lượt theo thứ tự trên.
- Phẫu thuật giảm áp hốc mắt tốt nhất nên tiến hành sau khi mắt
ở giai đoạn hết viêm được ít nhất 6 tháng. Dù sao, phẫu thuật
giảm áp hốc mắt có thể cũng được tiến hành trên bệnh nhân
mắt ở giai đoạn viêm nhưng không đáp ứng với điều trị bằng
Glucocorticoids. Những bệnh nhân này nếu chờ đợi tới giai
đoạn hết viêm thì sẽ có nguy cơ tổn hại thị lực.
- Hầu hết nghiên cứu cho thấy phẫu thuật giảm áp hốc mắt có
hiệu quả và an toàn [21], [22] nhưng cách phẫu thuật giảm áp
43. 26
nào tốt hơn trong các cách phẫu thuật đang được áp dụng hiện
nay thì các số liệu hiện có chưa đủ để kết luận [20].
Sơ đồ 1.2: Tóm tắt cách điều trị bệnh mắt Basedow
1.6. Phẫu thuật giảm áp hốc mắt:
Các phản ứng tự miễn trên bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow làm cho tổ
chức phần mềm trong hốc mắt phì đại, tổ chức phần mềm này lại bị giới hạn
bởi các thành xương hốc mắt nên gây chèn ép làm giảm lượng máu về xoang
hang và làm lượng máu này bị dồn ở tĩnh mạch vùng mặt.
BN bệnh mắt Basedow
Khôi phục bình giáp.
Dừng hút thuốc..
Chuyển tới trung tâm điều trị, trừ trường hợp nhẹ.
Khám tại chỗ.
Nặng Đe dọa thị lực
Khám và
theo dõi
Ổn định và
không viêm
Phẫu thuật
(nếu cần)
Viêm
GCs tĩnh mạch
( tia xạ)
Ổn định và
không viêm
Nhẹ
Không viêm
Phẫu thuật
GCs tĩnh mạch
Đáp ứng kém
sau 2 tuần
Phẫu thuật hạ áp ngay
Vẫn viêm
GCs tĩnh mạch
( tia xạ)
Ổn định
và hết
Phẫu thuật
Tiến triển
Các phẫu thuật bao gồm: giảm áp hốc mắt, phẫu thuật lác phẫu thuật kéo dài
mi, tạo hình mi.
44. 27
Quá trình đảo ngược tuần hoàn này dẫn tới sự tăng áp lực trong hốc mắt.
Tăng áp lực hốc mắt chính là phản ứng đầu tiên đối với sự tiến triển của bệnh
mắt Basedow và sau đó tăng áp lực hốc mắt cũng gây nên những biểu hiện và
triệu chứng điển hình của bệnh mắt Basedow [30]. Bất cứ phẫu thuật nào
nhằm làm giảm áp lực đang tăng cao trong hốc mắt và ảnh hưởng của nó bằng
cách mở rộng thành xương hốc mắt và / hoặc lấy mỡ tổ chức hốc mắt được
gọi là phẫu thuật giảm áp hốc mắt.
1.6.1. Chỉ định của phẫu thuật giảm áp hốc mắt:
Phẫu thuật giảm áp hốc mắt đã được sử dụng gần 100 năm nay để điều
trị bệnh mắt Basedow. Lúc đầu phẫu thuật chỉ được chỉ định cho những
tình trạng đe dọa thị lực như chèn ép thị thần kinh điều trị nội khoa không
đỡ hoặc hở giác mạc mà không đáp ứng với điều trị tại chỗ hoặc sau khi đã
phẫu thuật kéo dài mi. Gần đây chỉ định của phẫu thuật được mở rộng hơn
như trong những trường hợp lồi mắt nặng. Trường hợp bệnh nhân bị lồi
gây lệch nhãn cầu (có thể gây nên bệnh thị thần kinh và hở giác mạc)
[114], mất thị trường khu vực kèm theo nếp gấp hắc mạc do cơ vận nhãn
phì đại chèn ép vào nhãn cầu [113]. Thuận lợi và bất lợi của phương pháp
phẫu thuật là:
Thuận lợi:
- Giảm ngay sự chèn ép thị thần kinh tại đỉnh hốc mắt.
- Giảm thời gian sử dụng steroid.
- Giảm mức độ hở của giác mạc, nếu bệnh nhân đang bị hở giác mạc.
- Giảm chèn ép vào các tĩnh mạch trong hốc mắt do đó làm hạ nhãn áp.
Bất lợi:
- Cần phải gây mê khi phẫu thuật.
- Nguy cơ xuất huyết tại hốc mắt, mất thị lực, song thị, viêm xoang và rò
dịch não tủy sau mổ.
45. 28
1.6.1.1. Chỉ định phẫu thuật trong điều trị chèn ép thị thần kinh:
Có khoảng 3-5% bệnh nhân bị bệnh mắt Basedow có biểu hiện tổn
hại chức năng của thần kinh thị giác được gọi là bệnh thị thần kinh rối
loạn hóc môn giáp [139]. Cơ chế bệnh sinh của bệnh thị thần kinh rối
loạn hóc môn giáp có thể do nhiều yếu tố nhưng nó liên quan chủ yếu
đến một sự tăng thể tích của các tổ chức liên kết trong hốc mắt, đặc biệt
là sự phì đại của cơ vận nhãn tại đỉnh hốc mắt. Sự phì đại của cơ vận
nhãn dường như gây chèn ép trực tiếp lên thị thần kinh và ảnh hưởng tới
sự cung cấp máu cho nó gây nên bệnh, có một số ít trường hợp bệnh thị
thần kinh do dây thần kinh bị kéo căng (vì mắt bị đẩy lồi quá mức ra
trước) [139].
1.6.1.2. Chỉ định phẫu thuật do lồi mắt nặng:
Bệnh mắt Basedow là một bệnh lý suy nhược và có ảnh hưởng xấu tới
chất lượng cuộc sống của những bệnh nhân mắc bệnh. Bệnh nhân bị lồi mắt
và giảm thị với mức độ khác nhau làm cho họ mất tự tin và giảm khả năng
hoạt động [130].
Đối với bệnh mắt Basedow, điều trị phẫu thuật mà mục tiêu ban đầu
là nhắm tới những nguy cơ đe dọa thị lực như chèn ép thị thần kinh hoặc
hở giác mạc được gọi là phẫu thuật bảo tồn chức năng. Trong khi đó nếu
mục tiêu ban đầu của phẫu thuật là làm giảm độ lồi và giảm những triệu
chứng khác thì được gọi là phẫu thuật phục hồi chức năng (rehabilitative
surgery). Về mặt học thuật chúng ta có thể phân biệt được giữa phẫu
thuật bảo tồn và phẫu thuật phục hồi chức năng về mặt ngữ nghĩa như đã
nêu ở trên. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng không thể phân biệt một
cách rõ ràng giữa hai phẫu thuật được bởi vì phẫu thuật bảo tồn chức
năng cũng có ảnh hưởng tốt cho phẫu thuật phục hồi chức năng và ngược
lại [130].
46. 29
1.6.2. Các phương pháp phẫu thuật giảm áp hốc mắt:
Tăng áp lực hốc mắt và hậu quả của nó được điều trị bằng phẫu thuật
mở rộng xương hốc mắt và/hoặc lấy mỡ hốc mắt. Khoảng một thế kỷ qua,
hai phẫu thuật cắt thành xương và lấy mỡ hốc mắt phát triển độc lập với
nhau. Chỉ gần đây thì vấn đề kết hợp cả hai phẫu thuật để điều trị cho riêng
từng bệnh nhân mới trở nên rõ ràng [51], [82]. Vì bệnh mắt Basedow có sự
phát triển tự nhiên dưới nhiều hình thái khác nhau do đó có nhiều phương
pháp phẫu thuật khác nhau được đề xuất. Cho tới nay có tới 18 pháp phẫu
thuật khác nhau từ đường vào hốc mắt cho tới vị trí và số lượng thành xương
hốc mắt được cắt và có hay không lấy mỡ hốc mắt kết hợp [44]. Sự khác
nhau này do những chỉ định khác nhau đối với từng phương pháp và do kinh
nghiệm, sự quen thuộc của phẫu thuật viên với từng phương pháp được sử
dụng. Cũng cần tính đến mong muốn của bệnh nhân là giảm thiểu những ảnh
hưởng về mặt thẩm mỹ do sẹo xấu sau phẫu thuật, rút ngắn thời gian phục
hồi sau phẫu thuật và giảm thiểu nguy cơ của những biến chứng do phẫu
thuật nói chung, song thị sau phẫu thuật nói riêng.
1.6.2.1. Lựa chọn kỹ thuật trong điều trị chèn ép thị thần kinh:
Phần lớn bệnh nhân bị bệnh thị thần kinh là do chèn ép thị thần kinh tại
đỉnh hốc mắt do các cơ vận nhãn phì đại. Phẫu thuật mở rộng đỉnh hốc mắt
hay còn gọi là phẫu thuật giảm áp hốc mắt là một phương pháp điều trị có
hiệu quả, ngay lập tức làm giảm áp lực chèn ép thị thần kinh. Thông thường
chỉ cần phá bỏ thành trong hốc mắt thông với xoang sàng là đủ để giảm áp,
tuy nhiên trong một số ít trường hợp cần phải cắt bỏ cả thành trước ngoài
của xoang bướm [50]. Các loại phẫu thuật lấy mỡ hốc mắt hoặc cắt thành
xương hốc mắt về mặt lý thuyết đều làm giảm áp lực tại đỉnh hốc mắt và đều
có tác dụng tốt khi bệnh nhân có chèn ép thị thần kinh [65]. Khuynh hướng
gần đây là giảm áp trực tiếp tại đỉnh hốc mắt nhiều nhất có thể bằng cách cắt
47. 30
thành trong hốc mắt [82]. Trong những trường hợp nặng thì cắt thêm thành
ngoài và cả bờ ngoài xương hốc mắt cũng được khuyến cáo là do khi cắt
xương thành trong hốc mắt, sự co kéo tổ chức bằng panh để bộc lộ thành
trong có thể làm tăng áp lực tại đỉnh hốc mắt và có ảnh hưởng tới các sợi
thần kinh thị giác cũng như các mạch máu của nó. Phẫu thuật cắt thành
ngoài trước khi cắt thành trong hốc mắt tạo điều kiện cho phẫu thuật viên dễ
dàng vào sâu trong hốc mắt và giảm những nguy cơ biến chứng do tăng áp
lực trong hốc mắt đè ép lên thị thần kinh.
1.6.2.2. Lựa chọn kỹ thuật trong điều trị lồi mắt nặng:
- Kỹ thuật cắt thành xương hốc mắt:
Trong ba thập kỷ qua, khi số lượng của phẫu thuật giảm áp vì lý do
thẩm mỹ bắt đầu tăng thì một vấn đề quan trọng được đặt ra là cần chọn lựa
được kỹ thuật không chỉ có hiệu quả làm giảm lồi mắt mà còn đảm bảo an
toàn [86]. Đầu thập niên 80, phẫu thuật giảm áp hốc mắt bằng cách cắt thành
dưới và thành trong hốc mắt bằng đường đi qua xoang hàm theo kỹ thuật của
Walsh và Ogura (hai tác giả thuộc chuyên khoa tai mũi họng) chiếm ưu thế
[86], [87], [144]. Nhược điểm chính của phẫu thuật giảm áp đi qua xoang là
tỉ lệ song thị sau phẫu thuật cao (52%) [144]. Do đó các phương pháp phẫu
thuật khác được tìm kiếm nhằm cố gắng giảm nguy cơ song thị sau phẫu
thuật giảm áp hốc mắt. Những trường hợp bệnh nhân lồi mắt phẫu thuật
giảm áp hốc mắt bằng cách cắt thành dưới và thành trong hốc mắt qua
đường mi mắt chứng tỏ là một sự lựa chọn tốt với tỉ lệ song thị sau phẫu
thuật chỉ 4,6% [86]. Với những bệnh nhân lồi mắt nặng, phẫu thuật giảm áp
bằng cách cắt thành dưới và thành trong cùng với cắt thành ngoài hốc mắt
cũng giảm tỉ lệ song thị sau phẫu thuật xuống mức thấp [87]. Năm 1989,
Leone và cộng sự trong một nỗ lực giảm hơn nữa tỉ lệ song thị sau phẫu
thuật đã đề nghị cách giảm áp cân bằng bởi cắt thành trong và thành ngoài