SlideShare a Scribd company logo
1 of 162
Download to read offline
NGUYỄN PHAN HÁCH
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
NHÀ XUẤT BẢN DÂN TRÍ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
4 5
HÀ NỘI TÔI YÊU...
Nắng tháng Chạp rưng rưng. Nắng của thế kỷ
trước ấp ủ mái phố cổ lô nhô.
Tôi đi trong rêu phong 36 phố phường. 36 mảnh
hồn làng nghề cả nước hội tụ về đây. Ông thợ Bạc chạm
khắc thỏi vàng. Bác Phó thổi bễ đúc đồng. Cô gái gói
hương cốm đồng quê trong lá dong xanh...
Bao nhiêu nghề còn, và bao nhiêu nghề đã mất.
Không còn người che lọng vàng tán tía, nên tên
phố Hàng Lọng, Hàng Quạt chỉ còn là hoài niệm.
Không còn chợ bán Cỏ cho ngựa của vua quan,
nhưng tên Nhà ga Hàng Cỏ không quên.
Hàng Tre vẫn còn bán những chiếc sào có vết lửa
hun nắn thẳng mấu đốt. Sào tre, “di vật” của những
dặng tre ngàn đời bao quanh làng Việt, mà thoắt cái đã
thành hư ảo.
6 7
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
vang.
Gai, sợi gai là cái gì quan trọng thế mà chiếm cả
một phố lớn - Hàng Gai. Có lẽ tại là không có sợi se đan
dệt, thì mọi thứ cứ rời rông rổng...
Hồ Gươm, Hồ Tây long lanh như ánh mắt. Như
gương mặt thời gian, soi vào đây thấy bóng hình lâu đài
thành quách Lý Trần Lê vàng son...
Tôi vịn tay vào đôi Rồng Đá điện Kính Thiên, và
bay lên.Tôi nhìn thấy đất Đế Đô ngàn năm tựa lưng vào
Ngai núi Tản Viên thần thánh, mặt nhìn ra sông Hồng
long mạch trường tồn cuồn cuộn chảy...
Tôi thấy Đức Thái tổ họ Lý mang cái tên mộc mạc
của làng quê Diên Uẩn (Bắc Ninh) đang ngắm rồng
bay làm nên biểu tượng thăng hoa của một thời dựng
nước, lập đô.
Tôi thấy Đức Thái tổ họ Lê trả gươm cho rùa vàng
bên hồ Tả Vọng, biểu tượng khát vọng hòa bình muôn
thuở, sau khi binh lửa can qua.
Và tôi thấy “Rồng lửa Thăng Long” thời chống
Mỹ bay lên quật ngã Pháo đài B52, cho nó uống nước
Hồ Tây, cho nó chết chìm trong ao nhỏ làng hoa Ngọc
Hà.
*
* *
Tôi đi lang thang dọc bờ sông Hồng. Sóng thời
Phố Hàng Gà, còn tiếng gà gáy trong quá vãng.
Tiếng gà gáy suốt năm canh, như tiếng chuông điểm
nhịp thời gian, tiếng kèn giục giã cuộc sống, nhắc ta
không bao giờ đầu hàng. Còn không tiếng gà gáy xưa
trong lòng phố cổ.
Hàng Phèn. Bao nhiêu tấn phèn gạn nước đục
trong, cuộc đời này.
Hàng Buồm không còn bán những cánh buồm
và gió trên sông chở con người đến những miền xa, chỉ
còn đây trên hàng cây mái phố Hàng Buồm hôm nay,
tiếng gió căng buồm!
Hàng Mã của tuổi thơ, mẹ mua cho cây đèn ông
sao thắp sáng suốt cuộc đời con.
Hàng Bát Đàn còn nhớ ảnh hình “mâm đan bát
đàn” bữa ăn đơn sơ của người Việt cổ...
“Hòe hoa hoàng, cử tử mang” Phố Hòe Nhai
không còn dặng hòe vàng rợi che đầu sĩ tử đoạn đường
buổi sớm vào sân Thành Nội ứng thí, “Đại đình tằng
đối tam thiên tự” (Giữa sân rồng múa bút viết ba ngàn
chữ) của các ông Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.
Tôi đi trong phố cổ, bước xăm xăm vào quá khứ.
Mùi thơm phố Thuốc Bắc, Lãn Ông... Không còn
những ông Lang râu dài, bên những chiếc cân tiểu ly
nặng nhẹ thời gian...
Hàng Trống, vọng về âm âm tiếng trống hội làng,
hội phố. Con trâu một đời cần mẫn kéo cày, lúc chết
còn để lại bộ da cho cuộc đời gõ lên những tiếng kêu
8 9
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
bừng sắc hương thời mới. Đào phai, năm cánh mong
manh như hồn núi rừng đồng quê về hội tụ.
Hình cô gái cầm cành đào đứng bán trên hè phố,
đã trở thành biểu tượng của mùa xuân.
Màu hoa đào là màu má hồng con gái. Còn hoa
Cúc vàng là màu khát vọng tình yêu.
Chợ hoa đêm Hà Nội mờ trong trăng khuya,
sương sớm để hoa kịp về phòng khách ban mai mỗi
gia đình. Hồng Vàng như nàng công chúa kiêu sa.
Cẩm chướng, thược dược như cô gái si tình. Ly ly như
người yêu ca sĩ thời trang. Diên Vỹ giá mấy chục triệu
đô trong tranh Van Gốc, hiện hình về đây thành sắc
hương có thật. Loài Cúc trắng Họa Mi đơn sơ, bình dị
là sứ giả báo mùa đông đến. Còn Sen Hồ Tây là sứ giả
mùa hè. Sen đến nồng nàn, nhưng phải ngậm ngùi ra đi
khi gió heo may, như những cuộc chia ly bắt buộc của
cuộc đời này.
Có một loài hoa gợi tiếng kèn thời gian âm vang
khi nắng mới bừng lên sau giá rét mùa đông. Hoa Loa
Kèn trắng muốt trên tay cô gái có đôi môi khát thèm
đang cắn trái mơ chua, chín cùng một ngày với kỳ hoa
nở.
Mơ chua tháng ba thoáng qua môi người thiếu
nữ Hà Nội. Môi đắm say hương vị cuộc đời nhẻ nhót
trái mận đào, vải thiều. Na mở mắt ngỡ ngàng tháng
bẩy. Và tháng tám, hồng về để thi với má người con gái
đến thì...
gian cuồn cuộn trĩu nặng phù sa bồi đắp.
Tôi thấy trong mù sương quá vãng bóng hình
chiếc tàu thời cơ khí đầu máy hơi nước ngạo mạn, nã
pháo vào thành cổ Hà Nội ngàn năm để rồi cả Gácniê
lẫn Rivie đều phải bỏ xác tại đoạn đường Cầu Giấy...
Tôi thấy những tên sĩ quan ăn cướp Pháp đầu tiên lộp
cộp lên bờ nhận phần Nhượng địa Đồn Thủy, và sĩ
quan công chính Va Ren cho xây ngôi nhà Tây hai tầng
bằng sắt, sỏi, xi măng đầu tiên... Và tôi thấy bóng hình
những tên lính phương Tây đã phải bước những bước
cuối cùng của chủ nghĩa thực dân qua cầu Long Biên.
Tỉnh Hà Nội do Minh Mạng lập ra năm 1831 gồm
bốn phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân.
Pháp đến, xây trên địa bàn Phủ Hoài Đức thành
phố Hà Nội làm thủ phủ liên bang Đông Dương, còn
ba phủ kia trả về các tỉnh lẻ.
Kiến trúc sư Pháp Ernest He’brad đến Hà Nội
năm 1921, và Luis Pineau đến năm 1932, hai ông tạo
nên diện mạo phố Tây thuộc địa với các biệt thự tháp
nhọn sau bóng dã hương.
Ngày hôm nay, Hà Nội mới, vươn vai rộng dài
như Thánh Gióng, hứa hẹn một đô thành nguy nga
tráng lệ...
Mùa xuân đã trở về. Nắng vàng như rót mật.
Dòng suối hoa từ ngoại thành tràn vào nhuộm hoa cho
phố xá. Đào tết Nhật Tân đã thành sắc màu văn hóa Hà
Nội, văn hóa Việt Nam. Đào thế gốc lịch sử xù xì, nở
10 11
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
HỒN CÂY
Gia trang cố hương chúng tôi ở một miền đồi có
khe suối và vườn hoang đầy cây cổ thụ.
Một lần vào vườn hoang tôi tha thẩn dạo chơi
đêm trăng, nghe chim đồi hót và tiếng suối chảy róc
rách.
Soi bóng bên suối có một cây Liễu yểu điệu, lá
rủ lướt thướt, bên cây Đào hoa nở rực rỡ và cây Hạnh
vươn cành mềm mại như cánh tay thiếu nữ đang cầm
những nhành hoa phớt hồng.
Đêm về khuya, ánh sương rơi bàng bạc, tôi thấy
hồn ba cây chập chờn hiện thành ba cô gái xinh đẹp.
Liễu có mái tóc lướt thướt. Đào có gương mặt
tươi hồng, và Hạnh có màu da trắng như tuyết.
Ba cô nói thì thầm gì với nhau, tôi nghe không
rõ. Một cơn gió mạnh ào qua, hình ba cô lại tan nhòa,
Tôi đi trong bốn mùa hoa, mùa quả Hà Nội. Hoa
Sữa mùa thu tình đầu của tôi. Hoa Xưa tháng hai là
tuyết trắng trong tinh khiết của tình tôi. Tôi đắm chìm
trong sắc hương Hà Nội, sắc hương của chính lòng tôi...
5/1/2014
12 13
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
đã nhạt thếch, hình hài đã xác khô...
Tôi có việc lại phải xa cố hương. Một ngày kia, trở
về, tôi lại vào vườn hoang tìm gặp hồn cây Đào, Liễu,
Hạnh dù biết họ đã già.
Tôi đến bên bờ suối. Bờ suối trơ trụi. Ba cây Đào,
Liễu, Hạnh giờ chỉ còn là ba gốc khô nham nhở vết
rìu chặt. Tôi đợi mãi, đợi mãi, không có bóng hình ai,
ngoài bóng hình tôi với con suối chẩy rì rào...
23/10/2014
chìm vào ba cây Đào, Liễu, Hạnh bên suối.
Sáng hôm sau, dưới ánh sáng mặt trời chói chang,
tôi lại vào vườn hoang. Ngắt nhành liễu, vò nhàu lá
thấy mùi hương mái tóc con gái. Ngắt bông hoa Đào,
hoa Hạnh thấy mùi phấn thơm trên má thiếu nữ...
Cuộc đời tao loạn, xô đẩy tôi phải đi xa biệt khỏi
cố hương. Thời gian trôi, đến khi tóc bạc, tôi mới có
dịp trở lại ngôi nhà rêu mốc, nấm mọc ngoài thềm.
Khu vườn hoang xơ xác đi nhiều, nhưng ba cây Đào,
Liễu, Hạnh vẫn còn, dù lá sắt lại, hoa cỗi cằn.
Tôi thức với đêm vườn, và nửa đêm, trong ánh
sương rơi bàng bạc, tôi lại thấy hồn cây xuất hiện.
Nhưng lần này là ba bà già tóc bạc, da nhăn.
Tôi buồn bã lại gần nói:
- Có lẽ nào cuộc đời ba cô gái trẻ đã phai tàn quẩn
quanh trong khu vườn hoang này.
Ba bà già nói:
- Biết làm sao được. Chân chúng tôi là những rễ
cây Đào, Liễu, Hạnh cắm chặt trong lòng đất.
Tôi nói với bà già cây Hạnh:
- Bà có biết ngày xưa nàng Dương Quý Phi đã bị
ép thắt cổ chết trên cành cây Hạnh ở Mã Ngôi. Và hồn
nàng đã nở nên những bông hoa Hạnh rớm máu.
- Không. Tôi không biết. Đó là cây Hạnh ở xứ
nào. Còn tôi, chỉ là cây Hạnh trong vườn hoang hẻo
lánh này thôi...
Tôi chia tay ba bà già Đào, Liễu, Hạnh, mà mùi lá
14 15
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
thì bị nhốt chặt trong lồng.
Mắt nâu chim Ngói nhìn tôi oán trách, uất hận,
dỗi hờn.
Bác hàng xóm huấn luyện cho tôi cách bắt chim
Ngói. Tôi nấp trong lúa, tay cầm dây dòng. Một đàn
chim Ngói khác đang bay ngạo nghễ giữa trời xanh, lại
xà xuống.
- Giật đi - Bác hàng xóm hạ lệnh.
Tay tôi run bắn, mắt hoa lên. Những con chim
Ngói đang vui thích nhằn sữa cốm đầu mùa.
Chúng nói gì với nhau ríu rít. Tôi nghe được lời
chúng nói. Tiếng chúng gù bao giờ cũng làm lòng tôi
xao xuyến.
Đàn chim Ngói vẫn đang nhẩy giăng giăng trên
lúa. Nhưng tôi không giật dây dòng, tôi lấy tay huơ lên
báo động, cho đàn chim Ngói bay đi...
28/10/2014
CHIM NGÓI BAY ĐI
Gió heo may nhuộm cánh đồng xanh ngả màu
hoa hiên. Những bông lúa sữa thơm nức rủ từng đàn
Chim Ngói bay về.
Mẹ tôi tuốt lúa nếp non về giã cốm, cốm xanh
như ngọc bọc trong lá sen cuối mùa.
Bác hàng xóm rủ tôi đi bẫy chim Ngói. Lưới giăng
trên lúa với con chim Mồi, cất lên tiếng gù buồn bã.
Đàn chim Ngói trên trời không nghe kỹ điệu
buồn của chim Mồi, nên xà xuống. Bác hàng xóm giật
dây dòng. Lưới úp chụp lên đàn chim Ngói.
Những con chim Ngói mới nhằn được một hạt
lúa non, vị ngọt chưa kịp tan trong lưỡi, đã bị mắt lưới
xiết ghì trên cánh, đau đớn giẫy giụa. Vòng cườm biếc
trên cổ chim đứt tung, hạt cườm rơi lả tả. Một chiếc
lông cánh rụng ra, gió cuốn bay đi, còn con chim Ngói
16 17
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Sao xanh biếc ở trên trời. Một hôm Vì Sao đậu xuống
hiên nhà, hiện hình thành một chàng trai đẹp. Mẹ có
mang tôi trong một đêm sao băng đầy trời, núi đồi tràn
ngập ánh sáng.
Cha tôi không thể ở lại ngôi nhà cột buộc bằng
dây rừng,mái lợp cỏ, của mẹ tôi được. Người còn phải
đi chiến đấu. Đoàn quân Sao đang hành quân trên bầu
trời, đội ngũ chờ ông. Ông đi mãi, đi mãi vào mênh
mông, không bao giờ trở lại.
Tôi lớn lên nhìn lên trời sao, dõi theo bóng ông.
Muôn ngàn vì sao hành quân, trong cuộc trường chinh
muôn thuở.
Tôi nghe thấy những khẩu lệnh mà Đoàn quân
Sao nói với nhau. Thỉnh thoảng có những vì sao rơi, đó
là những người lính bị hy sinh trong chiến trận....
30-7-2014
CHA TÔI KHÔNG VỀ
Nhà tôi ở một mình trên sườn đồi. Phía trước là
con sông trong vắt, đằng sau là rừng già.
Tôi lớn lên trong tiếng gió ngàn rền rĩ, và mùi cỏ
dại héo thơm.
Mẹ tôi có mái tóc dài như suối. Ngày ngày bà rải
những nắm thóc vàng trước nhà
gọi chim rừng đến nhặt và nghe nó nói chuyện
Mẹ tôi đẹp lắm. Trong nắng ban mai, bà giơ tay
cuộn những sợi tơ trời trắng muốt đang bay lửng lơ và
đan thành áo mặc.
Chợ phiên đường xa, Mẹ gánh những vầng mây
biếc đi bán. Bao xanh, vạt áo của Người đựng đầy gió
trời. Bà mua về những giọt mưa hoa đựng trên nón
trắng.
Cha tôi đi đâu mãi chả về. Mẹ kể Cha là một Vì
18 19
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Tháng năm nắng hè, hàng Phượng bật lửa đỏ
lập lòe. Những cô nữ sinh áo trắng, tóc thề, xe đạp giỏ
đựng đầy hoa Phượng, vẫy tay từ giã tuổi thơ.
Những cây Bằng lăng rực màu hoa tím, màu
thương nhớ của những mối tình đầu mơ hồ thoáng
hiện rồi đi. Tình yêu đầu là trò chơi khờ dại cuối cùng
của tuổi học trò.
Tháng sáu phố nhỏ ngập tràn những gánh hàng
rong hoa quả, mận Bắc Hà, Vải thiều Hải Dương, Lục
Ngạn... Đào Sapa hồng như má con gái đến thì.
Không gian phố nhỏ nức thơm ngạt ngào mùi
quả chín. Tiếng ve đêm lanh lảnh, những con ve vàng
kêu đến rạc người dưới ánh trăng xanh.
Tôi đi lang thang trong đêm hè huyền thoại. Mùi
hoa Nhài các vườn nhà phả ra trong sương. Bà tôi cứ
dịp này là bày bán những giỏ hoa nhài ngoài cửa. Một
hào một giỏ... Thời gian ngưng lại. Bà chỉ biết đơn vị giá
cả từ hồi bà là cô gái mặc áo đồng lầm về đây làm dâu.
Tháng sáu, những cô hàng hoa, lấy quang gánh
đựng hoa Loa kèn xưa, chuyển sang gánh Sen Hồ Tây
rực rỡ. Sen mới nở, đọng sương mai, ngát thơm như
người thiếu nữ ngát thơm từ chiếc lông tơ...
Mây trắng trên đầu phố nhỏ trôi dàn dạt, tựa trò
chơi đuổi bắt của thời gian. Những cô hàng hoa quả
gánh Na, Hồng từ xứ Lạng về. Na sườn núi mở mắt
ngơ ngác nhìn phồn hoa phố hội. Hồng như những cục
than đỏ, xếp trong thúng mẹt đợi gió heo may.
PHỐ NHỎ
Phố cổ, những lớp rêu mấy thế kỷ trên mái ngói
lợp dĩ vãng. Nắng vàng hiện tại, tương lai nhuộm màu
cho những bức tường quá khứ.
Phố vắng, hè rộng, cổ thụ râm mát. Những ngôi
nhà mặt tiền đắp nổi hoa văn bằng giấy bản trộn vôi,
bên trong có vườn cây cảnh, có giếng khơi, mạch nước
quý uống trà thơm mát.
Nhịp thời gian bốn mùa đi qua phố nhỏ, đi qua
trên vai tôi, thằng bé lang thang bắt ve bên gốc cổ thụ.
Tháng ba, nắng mới reo lên. Nắng lặn vào thịt da
các cô gái sáng hồng, các cô để chân tay trần dạo chơi
hè phố nhỏ.
Chị hàng hoa bán những bông loa kèn trắng muốt
cho các cô, cánh hoa gợi tiếng kèn cuộc sống náo nức
âm vang...
20 21
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
đẹp. Những gốc đào thế cổ thụ xù xì nẩy chồi hoa non
tơ bao hàm triết lý cuộc đời.
Những em gái sinh viên đến vườn đào, mua một
cành, rồi đi bộ đến phố nhỏ đứng bán, lấy tiền lãi đóng
học phí học kỳ...
Giao thừa, những cành hoa ế vứt bên đường.
Cành hoa cũng có số phận, có cành cao giá, có cành lỡ
cuộc, hẩm hiu...
Tháng hai mưa bụi phấn ướt nhòa phố nhỏ.
Những cây Sưa đợi cho thác lũ phù hoa sặc sỡ đi qua,
giờ mới nở bừng sắc màu trinh trắng của mình. Cả cây
Sưa như cơn mưa tuyết. Cây Sưa tượng trưng cho sự
trắng trong ở đời. Có đấy, quý lắm, nhưng ít và ngắn
ngủi. Cây Sưa chỉ trổ hoa trong một, hai tuần...
Phố nhỏ, nhịp thời gian, bốn mùa lá hoa đến rồi
đi, chỉ có hàng Sấu già từ thế kỷ trước, cao ngất, cũ kỹ,
bị lãng quên, là quanh năm che chở nắng mưa, gió bão
phũ phàng cho phố nhỏ.
Sấu tốt quanh năm, lá trên cao xào xạc, tháng ba
hoa trắng li ti trải thảm hè đường. Người vô tình đi trên
hoa, rồi còn vô tình hơn, gót giày giẫm nát những trái
sấu chín rụng thơm nức.
Những bước chân cứ đi, đi, vội vã, đi đâu chả biết,
nhưng nếu có một lần giữa trưa hè cháy nắng, sững lại,
tự hỏi: nếu không có hàng Sấu râm mát này thì phố nhỏ
sẽ sống ra sao?
26-6-2014
Nắng thu tựa mạng nhện chăng trên má các cô
gái. Các cô rủ nhau dung dăng dung dẻ đêm thu dạo
chơi tìm hương Hoa Sữa... Tình yêu đầu mang hương
sắc mùa thu/Mùi hoa sữa trong áo em và mái tóc... Các
cô đọc câu thơ của một thằng con trai phố này đã viết.
Tình đầu thường gắn với ly biệt. Như Hoa Cúc
với Hoa Sen. Khi Cúc đến thì Sen phải đi.
Quang gánh đọng mùi Sen, giờ chất đầy hoa Cúc.
Phố Hoa Sen đã chuyển thành phố Hoa Cúc. Nắng thu
vàng bao nhiêu thì Cúc vàng bấy nhiêu.
Những cô hàng hoa tong tả gánh mùa Hoa Cúc
trên vai. Khi có gánh Cúc Họa mi mỏng manh trắng
nhạt xuất hiện giữa phố thì cũng là lúc mùa đông đã về
đến đầu phố. Cây sếu trút lá vàng rào rào. Những chiếc
lá tròn xoe như đồng tiền vàng, gót giày giẵm tiền vàng
bật tóe dưới chân.
Cây Sếu hết lá, chỉ còn cành trơ trụi trong gió
lạnh, như người không còn áo mặc. Phải đến sang
Giêng nó mới có áo mới, biếc non.
Nắng tháng Chạp như mật ong. Thời gian ngân
lại. Khi nó nhích đi được một chút thì suối lũ Hoa Đào
ngày tết ùa về phố nhỏ. Hè đường, lòng đường, một
dòng sông hoa. Tưởng như cái phố này, người ta không
ăn bằng cơm gạo mà ăn bằng hoa. Đào phai Tây Bắc
cành mốc meo trơ trụi mà hứa hẹn sắc hương núi rừng
hoang dại cho các phòng khách đô hội. Đào Nhật Tân
hoa đỏ rực, dày xít, như sự viên mãn tột cùng của cái
22 23
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
hè,
thấy buồn buồn . Thấy mặt đất này cô đơn
Bàn chân ai đã đi mòn lối gạch quê hương . Rồi
một ngày , bàn chân ấy lạc bước đến những chân trời
xa lạ .Đường ở xứ ấy mênh mang choáng ngợp , xe đi
mắc cửi , bàn chân chả mấy khi chạm đất , mà chỉ có
bốn bánh xe quay trôi tuột .
Con đường rực rỡ mà vô cảm . Mình chỉ là hạt
bụi trên đường , không ai thèm để ý
Rồi một hôm Hạt Bụi bay đã mỏi , bàn chân trở
lại quê hương . Con đường xưa quanh quanh , đón bàn
chân thời thơ ấu .
Bàn chân áp lên con đường , cảm nhận tình quê,
ngày mẹ dắt lon ton dạo bước . Con đường thổn thức
hơi ấm bàn chân người yêu thuở trước .
Một ngọn cỏ xanh trên kẽ ngạch . Đoạn đường
này là những viên gạch thách cưới của Cụ Nội mình .
Cụ ngày ấy là cô gái đẹp nhất làng , thách cưới đến mấy
xải đường
Bàn chân như nghe thấy thời gian cuộn chẩy dưới
gót.Như thấy Hồn quê ngàn đời, từ thuở những người
áo gai nón mê đến đây lập làng ,làm nhà , mở mang
ngõ lối.
Con đường vẫn còn nguyên đấy , mà bao lớp
người từng đi trên đó , giờ thành hư vô cát bụi
Chỉ có hồn họ còn đây , nhập vào từng hạt đất ,
ngọn cỏ .
ĐƯỜNG LÀNG
Đường quanh co dưới bóng tre xanh …
Những nhà có con gái đi lấy chồng thường thách
cưới nhà trai lát cho làng một đoạn đường gạch . Trai
đinh dẫy cỏ san nền , gạch Bát tràng xếp nghiêng dày
xít bên nhau . Ngắn dài tùy sự sang trọng của đám cưới
Những đoạn đường làng lưu giữ những mối tình
.Dấu tích của tình yêu.
Năm tháng đi qua , người ta già chết đi , nhưng
chứng tích của mối tình vẫn còn . Các thế hệ sau đi trên
kỷ niệm của những lứa đôi
Những mối tình nối tiếp , và con đường làng lát
gạch dài mãi như dòng tình yêu
Con đường làng như có tâm hồn . Nó gợi tả một
cái gì đó về cuộc đời . Gợi tả cụ thể gì , không biết .Chỉ
biết nhìn nó vắng hoe , chạy lang thang trong nắng trưa
24 25
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
KHĂN QUÀNG TƠ SEN
Mùa hè, anh chèo thuyền đi khắp vùng Sen chọn
những cọng Sen xanh.
Cây Sen bẻ đôi, tơ trắng vương lướt thướt. Anh
bện những sợi tơ lại. Mỗi cọng Sen chỉ được một đoạn
ngắn.
Anh rút tơ Sen từ ngàn ngàn cây Sen, nối lại, được
một cuộn tơ. Rồi anh đan dệt nó thành chiếc khăn
quàng. Chiếc khăn trắng muốt, nhẹ tênh, như mạng
nhện, thơm nức hồn quê.
Anh ra Bưu điện Hàng không gửi chiếc khăn cho
cô gái - người yêu của anh đang ở Matxcơva.
Ngày trước, anh và cô, đêm chia tay ngồi bên đầm
Sen, cô nói:
- Anh đan cho em chiếc khăn choàng bằng tơ Sen
gửi sang cho em nhé! Quàng nó, em có cả hương đồng
Con đường là dòng lịch sử của quê hương .Đẹp
lắm , phải giữ lấy , bảo tàng …
Nhưng chả ai dại gì sống với các đồ vật bảo tàng .
Ai cũng phải bước từ quá khứ ra hiện tại.
Những con đường làng xưa không biết đến vòng
tròn của chiếc bánh xe . Tất cả gánh nặng cuộc đời chất
trên quang gánh đôi vai . Người thiếu nữ mảnh mai mà
phải gánh Thế gian trên đôi vai nhỏ bé
Cuộc đời oái oăm , thơ mộng có khi đi kèm với
không thơ mộng…
128-2014
26 27
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
ĐÀN BƯỚM BAY
Cơn gió thu đầu mùa xào xạc rừng Phong. Lá
Phong vẫn xanh nhưng rồi gió thu sẽ nhuộm đỏ rực
như lửa để chịu cái rét tái tê của tuyết mùa đông.
Những con bướm Công Chúa màu da cam cảm
nhận được gợn gió thu đầu. Chúng lưỡng lự, rập rờn.
Mùa di cư về miền nắng ấm phương Nam đã đến. Sắp
phải tạm biệt nơi này.
Những đàn bướm Công Chúa cả triệu triệu con
như một tấm voan hồng phủ kín rừng Phong. Khăn
bắt đầu cởi khỏi vai nàng tiên nữ. Những đàn bướm
bay lên nhuộm đỏ cả mây trời trên hành trình từ Bắc
vào Nam.
Trời thu biếc xanh. Những con bướm mỏng
manh bé xíu mà dám đọ với tầm vóc bao la của vũ trụ.
Chỉ một giọt mưa cũng đủ rửa trôi phấn bướm. Chỉ
gió nội trên vai. Bên ấy, tuyết rơi lạnh lắm, khăn Sen
làm ấm áp trái tim em.
- Còn em, hãy xâu những hạt Tuyết Đầu Mùa
thành chiếc vòng long lanh. Ngày về, đem về cho anh
nhé. Chiếc vòng là biểu tượng của sự trinh trắng,
nguyên vẹn tinh khôi. - Anh nói:
Hai người cười khúc khích làm những bông hoa
Sen thức giấc.
Cô lên máy bay, bay về xứ Phong vàng Tuyết
trắng. Người ta cho cô làm thợ dệt. Ngày ngày cuộn
nắng trên mười đầu ngón tay, dệt nên những tấm lụa
vàng. Cô bảo cô sẽ dệt một chiếc thảm lụa trải dài từ xứ
Phong vàng Tuyết trắng đến xứ Hoa Sen cánh trắng nhị
vàng, để bắc cầu cho anh sang...
Ở quê nhà, anh đợi. Ba mùa Sen anh mới đan
dệt được chiếc khăn. Cô đi trên đường phố, chiếc
khăn quàng trắng muốt thơm nức hương Sen, làm cả
Matxcơva phải ngắm.
Nhưng cô không xâu được những hạt Tuyết Đầu
Mùa của Matxcơva thành chiếc vòng để tặng anh. Và vì
vậy cô không thể về.
Bao giờ xâu được chiếc vòng ấy thì cô mới về...
25-8-2014
28 29
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
đã lập trình từ trong bào thai.
Gió lạnh phương Bắc từ từ đuổi theo sát nút đàn
bướm. Nắng ấm phương Nam vẫy gọi hẹn hò. Đàn
bướm bay về nơi hò hẹn.
Năm ngàn cây số di cư, là chu trình của năm vòng
đời Bướm. Mỗi đời Bướm chỉ bay được một ngàn cây,
vừa bay, vừa đẻ, vừa chết. Đến hậu duệ đời thứ năm,
đàn bướm mới đậu chân được xuống miền đất ấm. Tại
đây chúng bay lượn nhởn nhơ, nhưng mắt vẫn ngước
về quê hương phương Bắc. Để rồi một ngày kia, khi lá
Phong đỏ phương Bắc đã rụng, mầm xanh mới nhú
lên, những đàn bướm lại rùng rùng cất cánh bay lên
trời, trở về quê hương đã hết giá lạnh. Đàn bướm bay
ngược với năm đời cụ kỵ chúng bay xuôi. Chúng phải
về quê, và cũng lại phải năm đời sau mới tới quê nhà.
Loài Bướm mang tên Công Chúa, cứ thế mỗi năm
một mùa bay di cư suốt nửa chiều dọc trái đất, chỉ bằng
đôi cánh mỏng manh. Chúng chả có giấy tờ hộ chiếu.
Chúng chả sợ các biên cương. Không có biên giới chế
độ nào kìm hãm được chúng. Chúng là Tự Do, trời của
ta, đất của ta, cánh bay của ta, chúng là biểu tượng khát
vọng truyền đời từ trong lòng Mẹ, khát vọng tự do đi
tìm đất sống của mỗi kiếp người.
19/4/2013
một ngụm gió cũng đủ bẻ quặt gẫy tan cánh bướm như
gió khơi bẻ gẫy cánh buồm.
Những đàn bướm không sợ, mặc cho bão táp
mưa sa có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Đường di cư của bướm Công Chúa phương Bắc
thường là năm ngàn cây số. Cánh sắt máy bay phản lực
cũng phải e dè cự ly này. Vậy mà đàn bướm coi thường.
Cái gì thôi thúc chúng bay. Sứ mệnh chúng là bay.
Vượt qua chiều dọc lục địa, đàn bướm nghỉ chân
từng chặng trong những cánh rừng Linh Sam. Rừng là
lữ quán. Mỗi chiếc lá là một căn phòng. Lữ quán mênh
mông, một triệu căn phòng đủ chỗ cho một triệu lữ
khách ngủ qua đêm. Nhưng kìa, ở lữ quán thứ nhất,
sáng ra, Reception kinh hoàng thấy chỉ có năm trăm
ngàn khách “trả phòng”. Còn lại, một nửa lữ khách chết
hết trong đêm, sau khi đẻ hàng tỷ trứng trên “giường
trọ”. Vòng đời ngắn ngủi của bướm chỉ đủ bay chừng
một chặng đường. Những con bướm trẻ trung còn
sống, bay đi, nhưng cũng sẽ chết ở lữ quán thứ hai, sau
khi sứ mệnh đẻ trứng hoàn thành.
Những quả trứng xinh xinh trên nhành cây Linh
Sam rất nhanh cựa quậy. Com bướm đẹp mê hồn chui
ra như trong huyền thoại, rung rinh đôi cánh thiên
thần.
Những con bướm non mở mắt chào đời, và thật
kỳ lạ, ngay ngày đầu tiên nó đã cất cánh bay vút lên trời,
nhằm hướng phương Nam, nối tiếp lịch bay của mẹ nó
30 31
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Một con sư tử đực to lớn, bờm xòe như tai voi,
suốt cả mùa khô đói khát, tuyệt vọng, từ trong nơi ẩn
nấp, chạy vụt ra đồng cỏ hứng mưa. Nó đứng trên mỏm
cao in hình trên màn nước trắng xóa. Vừa mới dặt dẹo
suýt chết đói, vậy mà bây giờ con sư tử đã phóng tầm
mắt xác định biên giới, lãnh địa độc quyền của mình,
nơi nó làm chúa tể, không kẻ nào được mon men đến.
Hình như có một con sư tử khác màu vàng đậm,
đang đi tìm miền đất mới. Thân hình nó săn chắc, trẻ
trung, dáng điệu tự tin, thong dong bước.
Con sư tử già bờm xòe dữ tợn xông lại, chặn từ
biên giới. Hai chúa sơn lâm, một già, một trẻ cùng gầm
lên lao lại quấn vào nhau. Móng vuốt đọ móng vuốt,
răng nanh đọ răng nanh, những cú vồ xé nẩy lửa, tiếng
rống vang rền trên đồng cỏ.
Con sư tử vàng đậm, trẻ trung áp đảo được con
sư tử già gân cốt đã trùng. Chú bờm xòe, niềm khiếp
hãi của cả thảo nguyên bao năm, giờ thua trận, đành để
mất “giang sơn”, cúp đuôi lủi thủi ra đi...
Cuộc đấu tranh sinh tồn trên đồng cỏ xích đạo
không khoan nhượng.
...Mùa mưa, sông suối đã đầy tràn. Đàn Linh
dương Đầu Bò di cư, cả ngàn con, vượt sông tìm những
bãi cỏ non. Tốc độ của chúng khủng khiếp như một trận
cuồng phong. Tưởng như tất cả sẽ bị nghiền nát dưới
vó Linh dương. Không một vật nào dám mon men đến
đường đi của chúng. Con Hươu sao cao cổ, cao nhất
TRÊN ĐỒNG CỎ XÍCH ĐẠO
Bầu trời xích đạo xanh trong chói chang đến rợn
người. Đồng cỏ nằm thiêm thiếp chết cả mùa khô, cây
cành xác xơ không đủ sức động đậy. Tất cả chỉ một màu
nâu nhạt của sắc diệp lục đã phai tàn.
Thỉnh thoảng một cơn cháy bùng bùng, muông
thú chết đen thui. Chim đang bay giữa trời cánh bắt
lửa, hót lên mấy tiếng đau đớn tuyệt vọng, và rơi xuống
như hòn đất ném.
Trong những vũng nước cạn sền sệt bùn, những
con cá cuối cùng quẫy lộn, bùn thấm qua mang, chờ chết.
Từ phía Đông, những cơn mây giông như sứ giả
báo tin sự sống đến. Một tiếng sấm vang mở cửa bầu
trời, những ánh chớp nhằng nhịt như bản hòa tấu giao
hưởng ánh sáng, những giọt mưa như bạc, vàng thể
lỏng rào rào rơi xuống trần gian.
32 33
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
xương bay tít lên cao, rồi thả xuống tảng đá cho khúc
xương dập vỡ ứa tủy và kề mỏ nhọn hút lấy...
Cuộc mưu sinh trên đồng cỏ với những con Chim
Ưng - loài chim đầy uy dũng, dọc ngang bầu trời, hóa
ra có lúc cũng chẳng dễ dàng gì...
19/4/2013
trong muôn loài, lênh khênh như thang bắc lên giời,
đứng từ xa, nhìn toàn cảnh đàn Linh dương Đầu Bò di
cư, và nó cho là một cảnh đẹp. Linh dương ăn cỏ thấp,
Hươu cao cổ vặt lá trên ngọn cây, không tranh giành gì
của nhau, nên chẳng bao giờ hiềm khích.
Đàn Linh dương Đầu Bò đổ bộ cơn bão qua sông,
làm nước bắn tung tóe. Con nọ chen con kia, không ai
được lùi một bước. Con Cá Sấu già to lớn xù xì khủng
khiếp đã phải dán mình trong bùn chịu đói suốt mùa
khô, giờ nổi lên chờ đợi. Nó ngắm một con Linh dương
non tơ, yếu ớt, rồi lao tới, mõm nhọn hoắt đầy răng tua
tủa, ngoạm cổ con mồi.
Linh dương the thé kêu. Cá Sấu mồm không đủ
rộng để nuốt chửng con mồi, phải kéo ra xa, xé từng
phần để ăn.
Trên bờ bên kia sông, có một con Sư tử đói cũng
đang chờ Linh dương. Khác với Hươu cao cổ, nó chỉ
thấy hình ảnh đàn Linh dương qua sông là đẹp, nếu nó
vồ được một con mồi.
Tha con Linh dương về, ăn uống phí phạm, không
biết cất đi để dành ngày mai, con sư tử lười nhác tìm
bóng dâm lim dim ngủ. Giờ đến lượt đàn Linh cẩu đông
con đến thụ hưởng. Chúng nhâu nhâu xâu xé, mỗi con
được một miếng. Những con Chim Ưng từ trên trời
cao, đến chậm, móng vuốt nguềnh ngoàng nhọn hoắt,
tranh nhau với Linh cẩu. Thịt hết rồi, chỉ còn những
khúc xương. Những con Chim Ưng tha những khúc
34 35
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
trên đường đời, nên bà thấy cuộc đời thật đáng chán,
về già quyết định xa lánh tất cả, một mình về đây, sống
với chim muông cỏ cây hoa lá...
Mỗi sáng bà lão Dan thường chơi với chim chóc
ngoài thềm một lúc rồi ra sân. Ở đấy có một cây Anh
Đào đã già, gốc to lớn xù xì, lá còi cọc úa vàng, nhiều
năm nay chẳng bao giờ ra hoa được nữa. Nó cũng giống
như bà...
Tháng ba năm ấy nắng trong vắt chan chứa khác
thường, bà lão Dan đang ngồi dưới gốc Anh Đào, có
một cánh hoa rơi xuống vạt áo, hồng tươi, thơm nức,
mong manh. Bà kinh ngạc nhìn lên thì thấy những
cành già xù xì rêu mốc mọi hôm, giờ thành tươi xanh
lấm tấm trổ hoa. Thời gian đã quay ngược và cây Anh
Đào đã non tơ trở lại ư? Bà lão đi quanh gốc cây, giật
mình hơn khi thấy bóng hình mình dưới vũng nước,
những sợi tơ đan da mặt biến đi đâu mất cả. Hiện hình
dưới kia là một gương mặt mịn màng với làn tóc đen,
và đôi mắt không còn mờ đục...
Đúng là thời gian đã bắt đầu quay ngược từ bao
giờ mà bà không biết. Bà lão vứt cái gậy, vì không cần
dùng đến nữa... Cho đến một ngày kia, thời gian quay
ngược đã đủ vòng của nó, bà lão ra suối tắm, cởi bỏ bộ
áo quần nhàu nhĩ, hiện lên một thân hình như tượng
đá trắng, cánh tay đôi vú bờ vai cặp đùi nuột nà vằng
vặc trăng rằm...
Cô gái Dan bơi ngược chiều suối chẩy. Sóng ào ào
HOAANH ĐÀO LẠI NỞ
Bà lão Dan sống một mình trong rừng với túp lều
bằng cành lá rễ cây đan xen tầng tầng lớp lớp như cái
tổ chim. Mái và tường mùa thu xây bằng lá vàng, mùa
xuân xây bằng hoa hồng gai và cánh bướm ken dầy.
Những con chim rừng về đây, đậu đầy bậc thềm, và bay
nhởn nhơ, tiếng hót đan quện.
Bà lão đã quá già, da nhăn nheo như tấm lưới.
Thỉnh thoảng bà vẫn xuống thị trấn gần đấy mua bán
vài thứ, nhưng chủ yếu là sống ở đây. Hoa quả rừng chả
thiếu gì. Củ rừng dưới đất, chỉ việc đào lên. Mật ong
chẩy ròng ròng trên cây, cá dưới suối bơi lội...
Bà sống mùa nào thức nấy, cùng với một con chó
rừng tự nguyện về đây canh giữ lũ cáo cầy sục sạo.
Xưa kia, bà lão là một cô gái xinh đẹp dưới thị
trấn. Những người đàn ông đã lừa dối bà, xô đẩy bà
36 37
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
CHIM NHẠN BIỂN
Tạp văn Nguyễn Phan Hách
Con nhạn biển mổ vỏ trứng mỏng manh chui ra,
cánh ướt rượt, chân lẩy bẩy, chúi vào bụi cỏ. Gió biển
thổi ào ào xô nó ngã nghiêng. Không có búi cỏ nó ngã
thật. Cỏ mong manh nhưng rằng rịt như cái võng cái
nôi làm chỗ tựa.
Nhạn biển há mỏ nhận con tép đầu tiên trong
đời mà mẹ mớm cho. Tép mang vị mặn, mang sức biển
truyền cho nó, con nhạn lớn nhanh như thổi. Một ngày
kia nó đã một mình đứng bên bờ biển ào ạt sóng gió
nhìn trời xa xăm. Trời biển mênh mông không bờ, đôi
cánh nó rậm rật đầy sức sống. Và đôi cánh lần đầu tiên
trong đời xòe ra, đón ngọn gió đầu tiên, lao vút lên
trắng xóa, nhưng không cuốn trôi được sức trẻ. Cô vẫn
lao lên, tay bíu vào các ngọn nước, vượt được cả thác.
Thác lũ thời gian chả cuốn được cô...
Cây Anh Đào trước cửa lều bà lão Dan bây giờ đã
nở bung một rừng hoa, che rợp khoảng trời...
Đại Yên 10/6/2013
38 39
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
cũng là bến cảng. Giống như các chàng thủy thủ, nó
thích lang thang lên các bến cảng để dạo chơi. Một
mình giữa đất trời xa lạ và chẳng đậu chân lâu nơi nào.
Nó thích xê dịch. Từ châu Úc vượt qua xích đạo lên
châu Á. Trandít qua châu Á nó đến châu Âu. Ham chơi,
tạt qua châu Mỹ. Con nhạn biển cứ nhởn nhơ như thế,
nhưng thỉnh thoảng lại nhớ quê hương, nhớ những nơi
nó đã đi qua, và thường bay về thăm lại.
Đời nhạn biển sống được 20 năm. Người ta nhẩm
tính tổng số quãng đường nó bay suốt cuộc đời dài bằng
đường từ trái đất lên mặt trăng và chặng khứ hồi…
Cả thế giới chỉ là ngôi nhà có vườn, có ao của nó.
5-7-2013
không trung.
Con nhạn biển đi đâu, không biết. Chỉ biết là đôi
cánh đủ lông như cấu tạo bằng gió, tự nhiên bay lửng
lơ lên trời. Con người giữa trời biển mênh mông thì cô
đơn, sợ chết khiếp. Nhưng với nó thì trời biển giống
như ngôi nhà của con người. Bầu trời là mái nhà, biển
là nền nhà, bốn phương là tường nhà.
Con nhạn biển đang ở Thái Bình Dương, nó quyết
định bay sang Đại Tây Dương một cái xem sao. Quyết
định dễ như con người đang bơi ở ao sau nhà chuyển
ra bơi ao trước nhà. Nó chỉ vỗ một cái mà gió đưa đi xa
từ đầu vầng mây đến cuối vầng mây. Tạo hóa cho đôi
cánh kỳ diệu, chỉ loài nhạn biển mới có.
Nó giống như là gió. Gió thì làm gì biết mỏi. Ở
đâu mà gió chả đến được. Con nhạn biển mang hồn của
gió, là biểu tượng hiện hình của gió. Chặng nghỉ chân
là những cú lượn xà xuống mặt nước mổ vài con tép,
cụp cánh lại, nổi phềnh trên sóng để sóng đu đưa ru bài
hát mênh mang êm đềm của biển. Thư giãn một chút
nó lại bay lên. Năng lượng biển vừa nạp. Và sứ mệnh
nó là bay. Đêm khuya, trời biển tối om, một mình nó
mải miết bay, cánh vỗ rào rạt. Ban ngày nó bay cùng
tia nắng. Tia nắng nghỉ bay vào lúc hoàng hôn. Còn nó
không nghỉ. Đêm nay nó ở ao nhà Thái Bình Dương, và
đêm nào sang ao Đại Tây Dương.
Con nhạn biển mom men quanh các bờ lục địa.
Từ Nam bán cầu lên Bắc bán cầu, bất cứ bờ bãi nào
40 41
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
vì sao với con thuyền mỏng manh, như vỏ hạt dẻ kia mà
người ta dám bơi ra biển. Sóng bờ cũng to lắm chứ.
Thế là tôi phải thuê cho bà Mêri một con thuyền
thúng. Chủ thuyền là bà Dặm, ngoài 50 tuổi, nhưng
đàn bà miền biển săn chắc mạnh mẽ, lái thuyền đi băng
băng, đầy tự tin.
Bà Mêri mặc áo phao, hào hứng bước lên thuyền.
Chai Uýtki nhỏ và ly cầm tay. Vừa trải nghiệm thuyền
thúng lướt trên các ngọn sóng, vừa nhấp ly rượu cũng
thú vị chứ.
Tôi thuê tiếp chiếc thuyền thứ hai với các dụng cụ
cứu nạn đầy đủ, áp sát để bảo hiểm và quay phim bà.
Bà Mêri ngông nghênh “tạo dáng” bước lên
thuyền. Sáng nay sóng khá to. Những lớp “đăng ten”
trắng dào dạt lớp lớp cuộn vào bờ.
Bà Dặm khéo léo đưa thuyền nhẩy tưng tưng như
ném thia lia trên các ngọn sóng. Tôi thật lạ là làm sao
đôi bàn tay người đàn bà kia lại có thể làm được như
thế. Trông đáng sợ lắm. Từng lớp sóng cuộn lên cao, rồi
lại ném xuống, trập trùng, mênh mông, mà con thuyền
thì đúng chỉ bé bằng vỏ hạt dẻ, tưởng như sóng đập nó
vỡ ra đến nơi. Mà chả cần song, chỉ cần một đám bọt
nước xối mạnh, cũng làm vụn ra. Nó bằng nan tre đan
trít sơn thôi mà. Thế mà với hai mái chèo, bà Dặm điều
khiển được nó đi trên các ngọn sóng, làm như nó chả
có “liên quan” gì đến sóng cả.
BƠI THUYỀN THÚNG
Tôi nhận trách nhiệm của Công ty Du lịch đưa bà
Mêri đi chơi biển. Đây là một khách quen, và tôi biết rất
rõ về bà, một người sống độc thân, uống rượu mạnh, và
thích “ăn chơi”. Trắng trẻo, quý phái, lịch sự, lãng mạn,
bà đi đâu, ai cũng có cảm tình.
Tôi đưa bà về bãi biển Mê Khê. Bãi nhỏ, mới khai
thác, nước xanh biếc, cát sạch tinh, và người thưa vắng,
tránh được cảnh ồn ào náo nhiệt của các bãi tắm quá tải.
Bà Mêri thích lắm. Thuê một phòng nhỏ trong
khách sạn sát mí biển, mở cửa sổ có thể thấy sóng lớp
lớp xô bờ.
Bãi Mê Khê có một “dịch vụ nghiệp dư” tự phát
của ngư dân ở đây: cho khách bơi thuyền thúng. Chiếc
thuyền thúng bé tẹo, đan bằng tre trát sơn đen, tròn lung
lủng, dân vẫn dùng đi câu tôm đêm ven bờ. Không hiểu
42 43
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
lúc lướt thuyền, bà ấy như con chim, còn tôi là “con
sứa” sắp tan ra thành nước.
Bà bắt tôi đưa đến “thăm viếng xã giao” bà Dặm.
Nhà bà Dặm gần mí biển, tanh nồng mùi cá, gió thổi
lồng lộng, vèo bay những bông hoa Muồng tím nhạt
trước hè.
Bà Dặm tiếp nhiệt tình. Chồng bà, một ngư dân
chất phát, hiền hậu, đi hấp “tôm hùm” mời chúng tôi
ăn. Những con tôm bà Dặm mới bơi thuyền thúng câu
được đêm qua, tươi rói, ngọt thơm. Mêri nói ở Pháp chỉ
tết Nôen, bà mới dám mua loại tôm này về ăn.
Hai đứa con bà Dặm, một trai một gái, học đại
học ngành thủy sản, giờ đang làm cán bộ trên tỉnh liên
quan đến nghề đánh cá nhưng lương lậu cũng chỉ đủ
ăn. Vợ chồng bà vẫn phải “bám biển” để sống, và trợ
cấp thêm thắt cho con. Chồng bà là dân đi đánh bắt
xa bờ, mỗi đợt cả tháng mới về, vật lộn với Thái Bình
Dương, có lần bão đánh vỡ tan thuyền, bám mảnh ván
bơi trên biển mấy ngày mới được cứu hộ.
Còn bà, với chiếc thuyền thúng mỏng manh, câu
tôm đêm, năm này qua năm khác, từ lúc 16 tuổi đến
giờ đã được 38 năm. Chiếc thuyền này mục hỏng, bà
thay chiếc thuyền khác. Đã cả trăm chiếc thuyền thúng
qua tay bà.
Bà Dặm ngồi mắt đăm đăm nhìn ra biển, và cười
cười “miêu tả” lại cảnh câu tôm đêm như thế nào theo
yêu cầu của khách du lịch.
Tôi ngồi thuyền sau quay phim. Bóng bà Dặm
hằn lên nền trời, nền biển bao la. Đôi vai áo nâu tròn
trặn, và đôi tay dẻo như có cánh.
Bà Mêri chưa kịp nhấp ly rượu nào, chưa kịp trải
nghiệm khoảnh khắc “du lịch mạo hiểm” nào, đã bò
rạp xuống thuyền, một đống váy áo da thịt trắng ngần
cuộn tròn lại. Chỉ phút chốc mặt bà tái nhợt, vàng ệch,
và mồm nôn ồng ộc. Tôi tuyệt đối chưa ghi được một
khuôn hình “trài nghiệm du lịch mạo hiểm” nào của
bà, lòng rất băn khoăn. Thuyền vẫn lướt đi, mà lướt
theo hướng ra xa. Hợp đồng chương trình là như thế.
30 phút trải nghiệm, giá 1 triệu đồng. Ra xa rồi mới
quay về.
Bà Mêri đến lúc cuộn tròn trong lòng thuyền
cũng không yên nữa, phải vứt cả rượu cả ly, ôm chặt lấy
hai chân bà Dặm. Vì sóng thì vẫn cứ trập trùng, mênh
mang như lúc trời đất còn hỗn mang.
- Quay về, quay về - Bà Mêri hét gọi tôi.
Đoạn về cũng không phải đùa. Thuyền phải “ném
thia lia” thế nào cho đúng luồng, mới cập được bờ. Khi
thuyền chạm cát, bà Mêri như rải khoai, tôi và bà Dặm
phải xốc nách hai bên về lều.
Mệt vì say sóng, vì sợ, hôm sau bà Mêri mới “đàm
đạo” cùng tôi:
- Bà Dặm có trọng lượng bằng nửa người tôi, mà
sao lại “tài giỏi” thế. Cùng là “đàn bà” cấu tạo như nhau,
mà sao khác nhau một trời một vực. Tôi có cảm giác,
44 45
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Cả đời bà phải giữ cân bằng cho thuyền không
bị sóng lật úp. Thái Bình Dương thì đêm nào cũng chỉ
nhăm nhăm lật úp thuyền bà như cuộc đời chỉ nhăm
nhăm xô đẩy dập vùi số phận con người.
Bà phải thắng được nó, thì mới sống. Thái Bình
Dương rộng mênh mông, mà đêm đêm chả có ai cạnh
bà. Mình bà. Một mình bà. May mắn, thì trên trời có
những ngôi sao. Ừ, phải rồi, nói bà cô đơn trong đêm
thì cũng “hơi oan”, vì trên trời còn có những ngôi sao.
Và mỗi tháng một kỳ, có trăng. Bà làm bạn đêm với
trăng và sao Thái Bình Dương. Sao nhấp nháy, hàng tỷ
ngôi sao đang dõi theo, quan sát bà từng động tác câu
tôm. Vậy là bà cũng không đến nỗi “lẻ bóng” một mình
lắm! Còn trăng thì có lúc tròn vành vạnh, làm bạn “gần
gũi” hơn. Chỉ đến kỳ cuối tháng, trăng “đi gặp người
yêu” ở đâu, mất tăm, không gặp. Bà thấy hờn hờn, rỗi
rỗi, ghen ghen... Phút gặp lại nhau có gì vui lạ.
Sau suốt một đêm thức trắng, thường thì mặt trời
từ chân biển tít xa nhô lên, đầu tiên là một vành nhỏ
như lưỡi liềm vàng, rồi bay vút cao tròn xoe rực rỡ. Mặt
trời đã thức, biển đã thức, ánh chói lòa, bà tắt chiếc đèn
chai (bóng làm bằng chai cưa đáy, thủy tinh dày cộp để
chắn gió đêm).
Những con tôm trong thúng nhảy lách tách, bà
bơi thuyền về bờ cát, bắt đầu “hòa nhập” với “cuộc
sống”, sau một đêm tách ra khỏi “thế giới”. Bây giờ thì
bà “bận rộn” lắm, đi bán tôm, đòi giá đắt rẻ, chả để ý gì
... Mỗi buổi tối, tôi kéo thuyền từ bờ cát ra biển -
Bà nói: - Thuyền khá nặng, phải cố sức đẩy. Nó cứ trịt
trên cát, không chịu đi cho. Chớm đến nước nó mới
chịu nổi phềnh. Tôi bơi ra xa, càng xa càng nhiều tôm
hơn, xa đến mức không nhìn thấy bờ cát nữa. Ở đấy tất
cả mênh mông, đen ngòm, sóng buôn dập dềnh, tôi bắt
đầu thả câu buông lưới...
Theo lời kể của bà, tôi tưởng tượng hình ảnh con
thuyền thúng của bà lúc ấy cô đơn như thế nào giữa trời
nước bao la về đêm. Mà nào phải là thuyền gỗ, thuyền
đinh chắc chắn, nó chỉ là những nan tre đan to hơn cái
thúng, có lẽ chu vi hơn một mét là cùng. Nó so với biển
thì thật đúng là buồn cười, mong manh như vỏ trứng.
Vậy mà cô gái Dặm, một mình ngồi đấy, đêm này
qua đêm khác, thức với đại dương, từ lúc 16 tuổi đến
giờ, ngoài 50 tuổi. Biển thành “giường ngủ đêm” của
bà. Bởi câu đêm là câu từ tối đến sáng, càng về sáng
càng được nhiều tôm. “Giường ngủ đêm”, nhưng nào
có được ngủ. Chỉ biển ngủ thôi, còn bà phải thức. Biển
ngủ, nhưng biển “ngáy” hơn sấm. Tiếng biển đêm ầm
ào, sóng quện với bóng tối.
Bà ngồi chồm hổm trên Thái Bình Dương một
mình. Có lúc Thái Bình Dương để cho bà ngồi yên,
nhưng có lúc nó giở mình vì mỏi, lật úp thuyền bà. Và
bà phải nhẩy xuống sóng, lựa chiều lật nó ngửa lên, tát
nước ra. Chỉ đôi tay “mềm yếu” của con gái, mà làm
được việc ấy.
46 47
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
nghề này. Cái quan trọng nhất là bà không lấy chồng.
Đấy là một ưu thế tuyệt đối, một vũ khí lợi hại, giúp bà
tồn tại, thành công, thanh nhàn giữa đất Pari, giờ về
già, có tiền đi du lịch thoải mái.
Chẳng thằng đàn ông nào thích “lằng nhằng” với
gái có chồng. Chơi với “gái không chồng” an toàn, thú
vị, chẳng sợ rắc rối gì. Bà Mêri già vẫn đẹp, vẻ đẹp sung
mãn, từ bé đến giờ không biết bao nhiêu người yêu bà,
và tất nhiên là bà “ai cũng yêu và chẳng yêu ai”. Bà sống
như con chim tự do, lúc đậu cành này, lúc đậu cành
khác. Rét thì bà bay “di cư” xuống phương Nam ấm.
Nóng thì bà lại bay về.
Kiểm điểm lại, thực ra, cũng tại bọn đàn ông.
Không có “thằng nào” yêu bà chí thiết, đưa bà về ở
trong biệt thự sang trọng, chuyển vào tài khoản của
bà những “số dư” lớn. Chúng chỉ “say đắm” da thịt
của bà, còn tiền thì chi tiêu dè sẻn. Bà phải tự tạo nên
cơ chế điều chỉnh, lấy cái lợi thế “không chồng” của
mình để “quan hệ” và “tích lũy”. Cuối cùng thì bà cũng
thành công. Dù hát hỏng chẳng ra gì, nhưng nghe cũng
không đến nỗi nào. Khi bà bước lên sân khấu phòng
trà, khối thằng chả mê như điếu đổ bờ vai cánh tay hố
nách trắng muốt cuả bà.
Bà “đếch cần” một mái ấm gia đình, “đếch cần”
những đứa con. Và bà sống như “bà hoàng”, ăn chơi,
uống rượu mạnh, và bây giờ muốn gì được nấy, kể cả
thử một chuyến “du lịch mạo hiểm” bằng thuyền thúng
câu tôm của “thổ dân” xem thế nào...
đến mặt trời đang lòi lọi trên đầu. Chỉ đến hoàng hôn,
sắp tối, mặt trời sắp lặn, bà kéo thuyền ra biển, mới
thấy “nhơ nhớ” mặt trời,...
Bà Mêri thích thú trước những lời miêu tả cảnh
câu đêm “ấn tượng” của bà Dặm. Bà tặng chủ nhà một
vòng ngọc trai bằng nhựa có móc khóa kim loại sáng
loáng. Những hạt trai giả đẹp hơn cả hạt trai thật. Thứ
này phụ nữ đeo thì tuyệt. Bà Dặm ướm thử lên cổ mình.
Vòng ngọc trai làm sáng bừng chiếc cổ nhuộm gió và
muối biển đen sạm.
- Tôi cũng có những viên ngọc trai. Nhưng làm
thế nào mà đục lỗ xâu dây lại thành vòng được như thế
này - Bà Dặm nói: - Khi đi câu tôm thỉnh thoảng gặp
khu biển thích hợp, tôi cũng câu được cả những con
trai to bằng cái bát. Thịt trai nấu thơm ngon lắm. Và
trong lòng nó có những hạt trai óng ánh. Tôi tích lại
được một vốc, để dành...
Bà Dặm đem ra chiếc túi vải rách, đựng những
hạt trai thật, to nhỏ khác nhau, chưa được đánh bóng,
nên trông rất xấu. Chả làm sao đẹp được bằng chuỗi
hạt trai nhựa tinh xảo chế tạo ở Pari của bà Mêri.
Đầy phấn khích vì được “trải nghiệm” chuyến du
lịch đặc biệt, để “hòa đồng” với “thổ dân”, bà Mêri xin
hát tặng chủ nhà một bài dân ca Pháp. Hát là nghề của
bà. Nghề sống hẳn hoi. Bà vốn là ca sĩ, vũ nữ trong các
quán trà loại ba ở Pari. Giọng hát loàng xoàng, nhưng
xinh đẹp, múa đẹp, “chịu chơi”, nên sống được bằng
48 49
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Hò ơi... Dô tá dô tà...
Thuyền từ biển lớn, sóng xa thuyền về...
Giọng bà Dặm âm âm, ngân lên, xao động. Rõ
ràng là người “có giọng”. Có cái gì vời vợi mênh mang
của biển trong câu hò của bà. Những lớp sóng xa xa rồi
xô đến bồn chồn. Giọng hát từ sâu thẳm của tâm hồn
biển ngân vang, chứ không đơn thuần là phát ra từ đầu
môi chót lưỡi.
Bài hò khá dài... “Ca sĩ phòng trà chuyên nghiệp
của trung tâm ăn chơi bậc nhất thế giới Pari” Mêri cũng
phải im phắc lắng nghe, xúc động...
Trở về khách sạn, bà Mêri cho tôi xem tập anbum
của bà. Những tấm “ảnh lụa” đen trắng có từ hồi thợ
ảnh khi chụp còn phải phủ tấm khăn lên đầu che kín
rồi nheo một mắt qua khe ngắm...
... Cô bé Mêri 16 tuổi từ thị trấn, bỏ nhà, trốn bố
mẹ lên Pari, hai cái nơ như đôi bướm ngây thơ trinh
trắng đậu trên đầu. Tay xách gói đồ, cô bỡ ngỡ trước
bến xe điện đầy những quý ông đội mũ phớt “quả dưa”,
tay cầm “ba toong” qua lại.
16 tuổi. Ừ, hình như Mêri cùng tuổi với Dặm.
Đêm Mêri đặt bước chân đầu tiên lên sâu khấu phòng
trà loại ba ở Pari, cũng là đêm Dặm một mình bơi con
thuyền thúng như vỏ hạt rẻ ra Thái Bình Dương.
Đêm Mêri hát bài hát đồng quê đầu tiên ở đấy,
cũng là đêm Dặm ngồi một mình sợ chết khiếp vì sự
mênh mông của Thái Bình Dương, nên cô cũng hát lên.
Công bằng mà nói, bà là người tốt. Bà chẳng làm
gì hại ai. Chẳng lừa đảo ai. Bà cũng chẳng làm một
người đàn ông nào phải đau khổ mà chết vì bà. Bà cũng
chưa làm ai phải “mất chức”, mất công danh vì “phạm
pháp yêu vợ người khác”. Bà có chồng đâu. Suốt đời bà
là người tự do. Người tự do thì yêu đương thả sức...
Sau màn hát của Mêri, tôi đề nghị bà Dặm cũng
hát. Hát và hò kéo lưới. Dân biển nơi nào cũng biết
kiểu này. Khi kéo thuyền to, dọc mí biển, người ta phải
chụm sức lại, tròng dây thừng vào vai, và xướng lên
những điệu “hò dô” làm nhịp. Những hài “hò dô” phát
triển thành những giai điệu hào hứng phấn chấn giúp
người ta vượt qua những cơn nhọc nhằn quá sức. Hò
kéo thuyền trên biển, mênh mông vời vợi, là tiếng tâm
hồn của những con người xứ biển.
Dân xóm mách bà Dặm là người có giọng hay
nhất ở đây. Mỗi khi gọi nhau đi hợp sức kéo thuyền,
ai cũng thích gọi bà đứng ra “cầm càng” xướng lên để
cho tất cả hò theo. Bà hò từ lúc 16 tuổi, nên bây giờ, chả
ngần ngại gì mà không hò, rồi cả hát dân ca biển cho bà
khách vui tính và hào phóng vừa tặng bà chuỗi hạt trai
nhựa tân kỳ ở đây chưa ai có...
Bà Dặm bước ra chiếc chiếu giữa nhà, hai tay đưa
lên vai, kéo một chiếc dây thừng tưởng tượng. Tấm
thân mềm mại dẻo dai của bà xô nghiêng, chân choãi
ra, như hình tượng trong tranh cổ điển”. Những người
kéo thuyền trên sông Vonga”.
50 51
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
VƯỜN HỒNG TÀN LỤI
Nắng sớm chan chứa rọi trên vườn Hồng Nhung.
Ông Hen ri dạo quanh. Không tìm được bông nào
đẹp. Giống Hồng Nhung thuần chủng này hoa thường
to bằng vốc tay, đỏ chói. Ông Hen ri đã chăm bón hết
cách nhưng sao vườn Hồng ngày một thoái hóa, xác xơ.
Không thấy mùi thơm ngào ngạt bốc lên trong nắng
sương ban mai...
Ông Hen ri già lão, run rẩy bước lò dò bên những
luống Hồng còi cọc. Ngắt một bông, vò nhàu, nhựa
màu đỏ như máu dính vào tay.
Đứng dựa hàng rào, ông Hen ri ngắm gia trang
của mình. Đồi xanh biếc, thông già phủ bóng. Tòa biệt
thự mái đá đen có gắn hình Chim Ưng cổ trắng - biểu
trưng của gia tộc Hen ri.
Trên bậc thềm chan chứa nắng kia, như còn bóng
Sau này Mêri có mấy “bài tủ”, trong đó có một bài nói
về “Sao trời và biển đêm” được thính giả phòng trà đòi
hát đi hát lại nhiều lần, vì nó gợi tả nỗi buồn cô đơn,
nhỏ bé của kiếp người... Thì chính lúc ấy Dặm đang là
“nhân vật chính” của ca khúc kia. Đêm nào Mêri cũng
hát bài ấy và đêm nào Dặm cũng ra Thái Bình Dương
câu đêm.
Số đêm “lao động” của họ bằng nhau.
Đời Mêri trôi qua trong các vũ trường phòng trà
thì đời của Dặm trôi qua trong đêm và sóng Thái Bình
Dương.
Rồi họ cùng dần về già. Giọng hát của Mêri có
lẽ cũng không hơn gì giọng hát của Dặm. Nếu Dặm
bước lên sâu khấu phòng trà có lẽ người ta cũng chào
đón nồng nhiệt như với Mêri. Nhưng đời Dặm chỉ có
những con sóng đêm Thái Bình Dương chào đón. Và
Dặm hát cũng chỉ cho những con sóng đêm Thái Bình
Dương nghe.
- Tôi đã tìm thấy “hình ảnh biểu tượng” của cuộc
đời mình - Bà Mêri cầm tay tôi thầm thì triết lý khi tôi
xem xong tập anbum - Tôi sẽ thuê họa sĩ vẽ hình ảnh
một người đàn bà với con thuyền thúng trong đêm giữa
biển cả và trời sao. Đó chính là đời tôi đấy. Sự cô đơn và
thân phận của tôi, của kiếp người...
28/3/2014
52 53
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
đội phi công đi rải thuốc khai quang, diệt cỏ, diệt cây
lá, trên khắp miền Nam, để Việt cộng không có chỗ ẩn
nấp. Việt cộng sống dựa vào rừng. Những sư đoàn bộ
binh, xe tăng, đại bác, kho tàng quân nhu... gì gì đều ẩn
dưới bóng rừng hết. Máy bay Mỹ trên trời có mắt như
mù. Phải làm thế nào xé toang tấm áo Rừng kia, lôi Việt
cộng ra ngoài trần trụi.
Lúc nhận trọng trách, ông Uyn xơn không hề biết
tác dụng gây quái thai qua nhiều thế hệ F1, F2, F3... của
chất khai quang Điôxin màu da cam. Các công ty Hóa
chất, sản xuất theo đơn đặt hàng của các “Tác giả Cuộc
chiến” cũng mù mờ. Có thể biết, có thể không. Chỉ biết
Cuộc chiến đang yêu cầu, và lợi nhuận là trên hết.
Những chiếc máy bay dưới quyền của ông Uyn
xơn cất cánh, phun sương Đi-ô-xin trải dài như một
tấm lụa đẹp mắt. Hạt Đi-ô-xin rơi xuống, chiếc lá xanh
giật thót, quằn lại, diệp lục biến hóa, rụng ngay khi
chưa úa vàng.
Đi-ô-xin rơi xuống rừng, núi, dải đồi, cánh đồng,
làng mạc, sông suối, ngấm vào lòng đất, mạch ngầm,
chảy ra các giếng nước.
Lần ấy đơn vị của Hen ri tác chiến trong vùng
bị rải Đi-ô-xin. Cây lá trơ trụi. Việt cộng mất chỗ nấp.
Đơn vị của Hen ri không bị phục kích, đã hoàn thành
chiến dịch. Hen ri được thưởng Huân chương...
Hết hạn phục vụ quân đội, hai cha con Uyn xơn -
Hen ri xuất ngũ, trở về Mỹ sống cuộc đời bình thường.
hình ông Uyn xơn - cha của Hen ri, oai phong lẫm biệt,
cành tùng kim tuyến trên ve áo, đang nheo mắt kẻ cả
nhìn cuộc đời...
Bà Julia trong nhà bước ra. Bà cũng già nua tàn
tạ như chồng. Vết nhăn đan lưới võng trên gương mặt.
Ánh mắt vô hồn. Lưng lòng khòng, tay chống gậy.
Trên trời có tiếng quạ kêu đỗ xuống ngọn thông.
Bà Julia giơ gậy xùy xùy đuổi. Âm thanh tiếng quạ gàn
quải.
Thằng con trai tật nguyền lò dò đi theo mẹ. Thằng
bé, bốn mươi tuổi, vẫn là thằng bé, người phủ lông đen
xì, đầu to bằng nắm tay, mồm rớt rãi chảy ròng ròng.
Ông Hen ri dắt thằng bé, âu yếm, vào dạo vườn
Hồng. Ngắt cho nó những bông hoa nho nhỏ...
*
* *
Mấy mươi năm trước, Hen ri là chàng lính Thủy
quân Lục chiến ở miền Nam Việt Nam. Còn ông Uyn
xơn thì là sĩ quan Bộ chỉ huy cuộc chiến. Hai cha con
đồng ngũ, phục vụ trong quân đội viễn chinh.
Ông Uyn Xơn được giao một nhiệm vụ đặc biệt.
Miền nhiệt đới, cây lá quá rậm rạp, đối phương ẩn nấp
trong bóng lá rất an toàn. Phải vặt trụi những chiếc lá
nhiệt đới kia đi, đối phương lộ ra trống trải, mới dễ
tiêu diệt. Ông Uyn xơn giữ trọng trách Tổng chỉ huy
54 55
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Cuộc đời đã cử một Sứ giả sản phẩm của ý tưởng
chiến tranh, ý tưởng tuyệt diệt nhân loại, đến hiện diện,
nối tiếp cho dòng họ Uyn xơn-Hen ri.
Cuốn sổ tay của ông Uyn xơn - một kỷ vật chiến
tranh, còn đây. Những dòng mật lệnh cho các chuyến
phi cơ chở Đi-ô-xin cất cánh. Những chữ ký của ông.
Chữ ký của thần hủy diệt sự sống. Chữ ký phỉ báng
quyền sáng tạo sự sống của Thượng đế.
Thượng đế đã trừng phạt ông, tạo nên một mô
đen hài hước, bi kịch: Ông nội hạ lệnh rải chất độc lên
con trai, để sinh ra đứa cháu quái thai nối dõi dòng họ
cho ông nội.
Sổ tay ông Uyn xơn ghi rõ: Tổng cộng số lượng
chất độc đã rải là 80 triệu lít, trong đó chứa 366 kg Đi-
ô-xin. Một giọt Đi ô xin tạo ra đứa cháu nội ông. Vậy
366kg Đi ô xin tạo ra bao đứa cháu tương đồng như
cháu nội ông?
Ông Uyn xơn chết vì già lão, chứ không phải vì ân
hận. Nếu ân hận tội ác chiến tranh mà chết, thì thế giới
đã sạch bóng chiến tranh từ lâu. Không. Chiến tranh
vẫn có muôn vàn “lý do có lý” để xảy ra.
Đứa cháu tật nguyền “lại giống” tinh tinh, mọc
lông đen xì cứ sống trong nhà Uyn xơn - Hen ri - Julia
như để chứng minh một ADN không hoàn hảo nào đó
trong bản thân sự sống.
Hen ri là nạn nhân, nhưng tại sao Hen ri lại đeo
súng đến Việt Nam. Hồn ông Uyn xơn cãi : Ông chỉ
Gia trang “Chim Ưng cổ trắng” thơ mộng. Đồi cỏ, Thông
già, hoa Hồng khoe sắc. Hen ri lấy vợ, cô gái Julia xinh
đẹp, hăm hở xây dựng chương trình hạnh phúc.
Đứa cháu trai đầu là niềm trông đợi của Uyn xơn.
Dòng họ ông không hổ thẹn, bởi các thế hệ giỏi giang,
kiêu hãnh. Cụ tổ nhà Uyn xơn - Hen ri từ một vùng đồi
cỏ nuôi cừu sản xuất len nào đó ở nước Anh cổ kính,
đã di cư sang châu lục mới mà Cô-lôm-bô tìm ra.
Họ đã phải vật lộn, để xây dựng nên trang trại
này. Họ nuôi bò lấy sữa, học hành, tham gia chiến trận,
đến đời Uyn xơn đã đến đỉnh cao binh nghiệp. Họ
không ngần ngại, cho đứa con trai duy nhất sang Việt
Nam chiến đấu. Dòng họ này phải ghi những trang sử
anh hùng cho lịch sử.
Đứa cháu nội ra đời, sẽ nối tiếp mạch nguồn,
dòng họ trường tồn mãi mãi với thời gian.
Ngày đứa cháu sinh, như tiếng sét giáng xuống
giữa thanh thiên bạch nhật, bổ đôi gia trang “Chim
Ưng cổ trắng”. Hình xác chim Ưng còn đó, mà hồn nó
đã hoảng hốt bay đi mất. Đứa cháu nội người đầy lông
đen, và đầu thì bé tẹo.
Y tế xét nghiệm kết luận đứa bé bị quái thai do di
chứng chất độc Đi-ô-xin từ người bố bị nhiễm ở chiến
trường Việt Nam.
Ông Uyn xơn và Hen ri đóng cửa trong nhà, gào
thét một mình. Hai người quân nhân kiên nghị, cắt thịt
không đau, giờ mềm nhũn ra.
56 57
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
ĐẠI BÀNG HẠT DẺ
Ngày xưa ở một miền đồi xanh biếc có chàng trai
trẻ tên là Hạt dẻ. Một hôm vào rừng săn bắn, chàng
gặp một con Đại bàng cổ vàng đang nằm xòe cánh trên
vũng máu. Hạt dẻ hái lá thuốc bên đường đắp vào vết
thương cho Đại bàng.
-	Cám ơn chàng trai. Ta bị kẻ thù tấn công đau
đớn quá - Đại bàng nói.
Hạt dẻ đem Đại bàng về nhà chăm sóc. Ít lâu sau,
Đại bàng đã khỏi, muốn bay về núi cao rừng sâu.Phút
chia tay, Đại bàng nhả ra một viên ngọc long lanh và
nói:
-	Ta tặng chàng trai Viên Ngọc Thần này. Nó
có phép mầu. Nuốt ngọc vào bụng, chàng trai sẽ biến
thành chim Đại bàng dũng mãnh, và nghe được ngôn
ngữ của các loài chim muông. Khi nhả ngọc ra chàng
làm phận sự quân nhân trong guồng máy chiến tranh.
Rồi đến Tổng thống cũng nói: Đó là Lô gic của chiến
tranh gây nên, chứ đâu phải Tổng thống.
Vậy là Lô gic gây ra tội. Ai là tác giả Lô gic? Thượng
đế ! Cuối cùng là tại Thượng đế.
Gớm chưa, con người gây ra tội ác tày trời, giờ lý
sự loanh quanh đổ lên đầu Thượng đế...
*
* *
Ông Hen ri lẩy bẩy cầm chiếc cuốc xới xáo gốc
Hồng. Một con sâu bò nhoay nhoáy từ cành này sang
cành khác và đớp những cánh hoa. Ông Hen ri không
đủ nhanh nhẹn để đưa tay đuổi theo con sâu. Nó thoăn
thoắt lẩn vào cành lá. Tay ông Uyn xơn bị gai hồng cào
xước máu. Máu rỉ, đặc quánh, và cũng không có nhiều
để tụ lại thành giọt.
Giống Hồng này, tổ tiên ông Hen ri đem từ quê
hương Anh Quốc sang. Nó quý, đẹp nổi tiếng. Bao đời
nhà Hen ri trồng nó, phục tráng giống, giữ gìn cho nó
nở hoa đã mấy trăm năm nay. Nó gần như là biểu tượng
của sức sống gia tộc.
Nhưng đến hôm nay, vườn Hồng đã lụi tàn.
12/8/2014
58 59
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
-	Bạn thơm quá Sen ơi!
Hoa Sen nói:
-	Tặng mùi hương này cho bạn đấy.
Sáng hôm sau, Đại bàng Hạt dẻ dậy trước cả mặt
trời, và lại cất cánh bay. Nó không có vé, nhưng cứ bám
vào nóc chiếc máy bay đi nhờ. Máy bay đi xuyên qua
mây bạc trời xanh đưa Đại bàng đến thành phố. Phớt
lờ các cửa kiểm soát phiền toái của sân bay, Đại bàng
vọt qua nóc nhà ga Cảng Hàng không,vào trung tâm
thành phố. Nó đậu xuống nóc tòa cao ốc bằng kính có
đàn chim sẻ ríu rít. Đàn chim sẻ đang lích chích trao
đổi với nhau băn khoăn vì không có Hộ khẩu ở đây, cư
trú gặp nhiều khó khăn.
-	Thế các cậu từ đâu đến? - Đại bàng hỏi.
-	Chúng tôi quê ở một cánh đồng. Bây giờ người
ta dựng khu công nghiệp ở đây, không khí và nước thải
độc lắm, nên chúng tôi phải di dân.
-	Về thành phố làm gì có các mái bếp bồ hóng ấm
cúng trong ánh lửa chiều đông cho các cậu làm tổ.
-	Vấn đề là làm thế nào để thích nghi với đời sống
hiện đại.
Sáng hôm sau, Đại bàng Hạt dẻ bay xà theo các
tuyến đại lộ để tham quan. Ô tô chạy từng dòng bên
dưới. Đại bàng bay trên. Thành phố chán ngắt, nhà
mọc tự phát, không có quy hoạch, chắp vá như răng
mọc lẫy. Có nhà mà chẳng có đường. Người chen chúc
như bầy kiến. Tất cả đổ xô đi kiếm ăn. Không thì chết
trai sẽ trở lại thành người.
Hạt dẻ vui sướng đón nhận viên ngọc. Còn Đại
bàng thì bay vút mất hút trên trời xanh.
Có ngọc trong tay, chàng trai liền thực hiện ước
mơ của mình. Một động tác nuốt nhẹ, chàng đã trở
thành một con Đại bàng màu hạt dẻ. Còn gì thích bằng
được chao lượn trên cao với gió mây. Chỉ một cái đập
cánh, Đại bàng đã vượt qua dãy núi cao bát ngát sương
mù, rồi xà xuống dòng sông xanh rực nắng. Đại bàng
cứ theo con sông mà đến những miền đất khác nhau.
Thảo nguyên rực rỡ màu hoa, chim bay bướm lượn.
Đại bàng xà xuống, dự cuộc khiêu vũ của đàn ngựa
trắng, ngựa hồng, từng bước nhẩy thơm mùi cỏ dại.
Qua thảo nguyên, Đại bàng đến vùng châu thổ
lúa vàng như nắng. Dòng kênh xanh xanh, con thuyền
nhỏ căng buồm nâu qua bến. Những đầm sen thơm
ngát. Những mái nhà rêu phong cổ kính trong vườn
cổ thụ. Những mái đình, cây đa uy nghiêm, trầm mặc.
Đại bàng xuống ngủ trên mái dạ vàng cùng với
mặt trăng làng quê đêm ấy. Dưới mái dạ là ngọn đèn
dầu ấm cúng của đôi vợ chồng trẻ cười khúc khích với
nhau suốt đêm. Hạt dẻ nghe thấy con Cún Vàng nói
chuyện với chú gà Trống Tồ về chủ đề các vì sao trên
trời. Con Cún đố Gà là sông Ngân hà ở đâu và chùm sao
Vua Thần nông ở đâu. Chúng cũng cười khúc khích.
Hạt dẻ nghe thấy ngoài cầu ao Cá quẫy. Những
con Cá nói chuyện với Hoa Sen. Cá bảo:
60 61
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
-	Tôi không có.
Các cô nhân viên ngân hàng lại cười rũ rượi. Làm
người khổ thế đấy. Không có tiền là người ta cười rũ
rượi.
Đêm nay ngủ ở đâu. Không có tiền thuê nhà trọ.
Thôi ta lại trở về “Lốt Đại bàng” ngủ trên cành cây vậy.
Kiếp người cũng phiền toái lắm. Ở trong những căn
phòng bé xíu như hộp diêm kia thì sung sướng nỗi gì.
Một tốp cảnh sát được mật báo về “Người khả
nghi” vào nhà hàng ăn quỵt, đến Ngân hàng xin tiền, đã
triển khai ngoài đường “chặn đầu khóa đuôi” Hạt dẻ.
-	Xin anh cho xem chứng minh thư.
-	Chứng minh thư là gì? Tôi không có.
-	Xin anh về đồn công an giải quyết.
Hạt dẻ bị thẩm vấn. Toàn những câu hỏi tư duy
chim Đại bàng không trả lời được. Người ta chuẩn bị
phòng cửa sắt để giam “Nghi phạm”. Làm người thành
phố rắc rối quá. Hạt dẻ bực mình, tặc lưỡi, lấy hạt ngọc
trong túi ra nuốt vào bụng. Cả đồn cảnh sát kinh hãi
khi thấy “Đối tượng khả nghi” vụt cái biến mất, chỉ
còn một con chim lông màu hạt dẻ. Đại bàng tức mình
phóng uế một chút phân nho nhỏ trên bàn cảnh sát. Để
cho hệ thống quan liêu của xã hội biết thế nào là “lễ độ”.
Đại bàng bay vút đi, đến công viên. Hồ rộng mênh
mông. Mấy con Thiên nga trắng đang bơi lội. Đại bàng
nghe được các con Thiên nga nói chuyện với nhau chủ
đề vẻ đẹp của mây trời in bóng xuống hồ. Đại bàng thấy
đói...
Hạt dẻ dong trên các đại lộ mãi cũng chán, muốn
trải nghiệm thành dân thành phố xem sao. Đến chỗ
vắng, Đại bàng nhả ngọc ra, biến thành chàng trai.
Quần áo màu hạt dẻ xuềnh xoàng, điệu bộ nhà quê ngô
nghê, Hạt dẻ vào một cửa hàng ăn. Đói quá. Vừa trở lại
“Lốt người” là đói cồn cào. Khi là chim, chỉ vài hạt quả
rừng đã đủ no...
-	Cho tôi một xuất ăn. - Hạt dẻ gọi.
Cô nhân viên hờ hững dọn đĩa cơm bình dân.
Chỉ khi dọn bữa ăn đắt tiền cô mới nhiệt tình.
Hạt dẻ ăn xong thản nhiên đứng dậy đi ra. Bảo
vệ túm lấy:
-	Anh phải trả tiền.
-	Tôi không có. - Tư duy của chim Đại bàng quen
mổ thức ăn trong rừng, thản nhiên trả lời.
Các cô nhân viên nhà hàng cười sặc sụa.
-	Tiền lấy ở đâu? - Hạt dẻ lại hỏi tiếp câu hỏi của
tâm hồn Đại bàng ru mình trong mây trắng trời xanh.
-	Tiền lấy ở Ngân hàng. Đến Ngân hàng mà lấy.
Đại bàng có món nợ là một xuất ăn bình dân. No
bụng và nợ. Nợ đời. Làm người phải nợ như thê đó.
Đại bàng đến Ngân hàng. Tiền từ các máy đếm
tuôn ra rào rào.
-	Cho tôi nắm tiền kia. - Tư duy mây trắng trời
xanh lại nói qua miệng chàng trai miền núi.
-	Sổ tiết kiệm của anh đâu?
62 63
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
gái kiều diễm có làn da trắng như cánh thiên nga.
Tâm hồn Đại bàng xao xuyến. Đại bàng cũng lập
tức nhả viên ngọc của mình ra, và trở thành chàng trai.
Đôi trai gái sung sướng ôm choàng lấy nhau.
Hai người dắt nhau đi trên vạt hoa rừng thơm
ngát, đầy ong bướm bay.
-	Chúng mình không trở lại thành Chim nữa
nhé! - Cô gái Thiên nga nói. - Viên ngọc của em nuốt
vào thì thành người, còn viên ngọc của anh nuốt vào
thì thành chim. Hai tác dụng trái ngược.
-	Phải giữ lấy hai Viên Ngọc Thần, đừng đánh
mất. Chúng mình làm người, yêu nhau, nhưng cũng
có lúc cần phải thành chim để có bầu trời tự do bao la
trên đầu. Mặt đất chật chội này đôi khi cũng đầy những
ràng buộc khó chịu.
Chàng trai Hạt dẻ và cô gái Thiên nga đi ra khỏi
rừng. Con đường vào “Thành - phố - cuộc - sống” bụi
mù. Nhưng bây giờ họ có tình yêu, nên có vũ khí để
đương đầu với “Cuộc sống lầm bụi” ấy.
Đại Yên, ngày 9 tháng 9 năm 2014
một con Thiên nga đẹp nhất có đôi mắt mơ màng đang
nhìn bầu trời. “Tiếng sét ái tình” đã nổ vang trong trái
tim Đại bàng. Đại bàng đến làm quen:
-	Anh với em ta bay thi nào...?
Con thiên nga cất mình lên khỏi mặt nước. Trời
trong vắt, nắng chứa chan. Cánh đại bàng dũng mãnh
cắt gió, cánh thiên nga mềm mại vờn mây.
-	Em không phải là chim Thiên nga bình thường
- Thiên nga nói - Em vốn là một thiếu nữ xinh đẹp, bị
mụ phù thủy chột mắt, phù phép biến thành Thiên nga.
Em nhớ cuộc sống loài người lắm. Em muốn trở thành
người bình thường.
Đại bàng nói:
-	Thế là chúng ta giống nhau. Anh cũng vốn là
một chàng trai.
-	Anh có thể cứu em không, mụ phù thủy ở trong
một cánh rừng gần đây. Anh đến đấy, làm sao lấy được
Viên Ngọc Thần trong người nó, cho em nuốt vào bụng,
thế là em trở lại thành người...
Đại bàng và Thiên nga đến cánh rừng. Mụ phù
thủy ở trong một túp lều u ám. Mụ chỉ còn một mắt,
nhìn gì cũng không rõ. Chim Đại bàng dũng mãnh
xông đến mổ vào chiếc mắt lành của mụ rồi lôi ra tròng
mắt lầy nhầy. Phù thủy gào rú sờ soạng trong bóng
đêm. Đại bàng lục soát người mụ lấy được Viên Ngọc
Thần.
Thiên nga nuốt viên ngọc, lập tức trở lại thành cô
64 65
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Truyền thuyết kể rằng thuở xa xưa ấy, ở làng này
có một chàng học trò nghèo, ngày ngày ăn sắn ăn khoai
nhưng đêm nào cũng thức cùng trăng sao để học bài.
Một hôm chàng đang ngồi bên ngọn đèn nhựa
trám ngoài cửa sổ thì thấy một ngôi sao rơi xuống bên
thềm. Ngôi sao hóa thành người con gái đẹp. Cô gái
đến gần, da thịt nàng tỏa ra ánh sáng soi rõ từng hàng
chữ trong trang sách Luận ngữ để ngỏ.
Thuở ấy, người, tiên và quỷ đôi khi ở lẫn với nhau.
Quê hương tiên ở trên trời, quê hương quỷ ở dưới âm
phủ và quê hương người là mặt đất trần gian. Tiên và
quỷ luôn thích thú cảnh đời trên mặt đất.
Cô gái ngôi sao - nàng tiên, bước đến gập trang
sách của chàng học trò lại:
- Đêm nào từ trên trời nhìn xuống, em cũng thấy
chàng ngồi bên ngọn đèn nhựa trám này. Em nhìn rõ
từng chữ trong trang sách và đọc theo chàng. Em thấy
chữ nghĩa trong đấy triết lý cao siêu thì cao siêu thật,
nhưng nhiều khi viển vông, vô bổ, giả dối. Vậy chàng
dùi mài để làm gì.
- Có học những trang sách này thì ta mới có kiến
thức để dự các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, đỗ
Nghè, đỗ Trạng.
- Chàng quên hết chuyện đời, chỉ lao vào khắc
khổ học một mớ chữ viển vông. Đến khi đỗ thì đầu
đã bạc, về già. Cả cuộc đời thanh xuân uổng phí. Em
muốn cùng chàng hưởng lạc thú trần gian thời tuổi trẻ
NÚI NGỌC MỸ NHÂN
Dải núi thấp nhô lên giữa cánh đồng, hình một
người con gái bờ vai tròn trặn, đôi vú nhô lên, chân
duỗi song song, vẫn được gọi là núi Ngọc mỹ nhân.
Khi mặt trời chớm nhô phía đằng kia, bắn tóc lên vầng
ánh sáng, soi hằn những đường nét mềm mại giữa trời
xanh. Mặt Ngọc mỹ nhân hơi hếch lên, tưởng như đôi
mắt sau giấc ngủ đêm đang chớp chớp vì ánh sáng chói
dọi vào, và nàng tiên núi đang sắp ngồi dậy, xỏa mái tóc
tung tóe trên mặt bằng châu thổ.
Những cảm xúc tưởng tượng kỳ lạ trước Ngọc
mỹ nhân trong khoảnh khắc ban mai, hoàng hôn, đêm
trăng... trong hơi gió đầu thu se se hay nắng mới tháng
ba, đã trở thành một phần tâm hồn người dân vùng
này.
Nàng tiên núi đã thành con dân của quê làng họ.
66 67
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
thường. Sự lặp đi lặp lại của hạnh phúc bình dị sẽ thành
chán nhàm.
Cuộc đời luôn cần những đột biến phát triển mới.
Chàng nho sinh sau mấy năm chìm đắm trong
cảnh đời thường, bỗng giật mình hứng khởi cảnh
“ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” vinh quy bái tổ
của người khoa bảng.
Chàng lục lại chồng sách Tứ thư, Ngũ kinh... xếp
xó lâu nay, để ngày ngày cắp đến trường đại tập của cụ
Thám hoa trên phố Phủ. Còn nàng tiên, thì đêm đêm
luôn ra hiên nhìn bầu trời thở dài, bồi hồi nhớ lại thời
tiên nữ của mình.
Chàng nho sinh đi thi khóa ấy đỗ cử nhân, rồi
vào kinh thi Hội, thi Đình đỗ tiến sĩ. Ngày vinh quy,
người ta đến tìm vợ quan tân khoa để rước võng đào,
thì không thấy đâu cả. Nàng đã mở rương hòm lấy bộ
áo tiên có cánh mặc thay cho bộ áo nâu thôn nữ, và bay
lên trời, để lại lá thư tạm biệt người chồng. Nàng không
thể đem theo đứa con giai, vì đó là một nửa cốt nhục
của hạ giới trần gian.
Đứng trên đám mây ngũ sắc, nàng nhìn xuống
con đường lầm bụi, trống giong cờ mở, biển vàng “ân
tứ vinh quy” của chồng, nhưng lòng rửng rưng. Nàng
phải về trời, múa hát với gió mây...
Nhập vào với những Vì sao Tiên nữ khác, nàng
ngỡ ngàng một chút, rồi nhanh chóng hòa nhập. Nàng
múa hát, du trong không gian xa thẳm, vô tận.
này, ngay hôm nay, và ngay bây giờ, chứ không phải
ngày mai xa xăm.
Đời dưới trần gian thú vị lắm. Em ở tiên cung
nhìn xuống rất thèm. Trên tiên cung chỉ chay tịnh có
mây xanh, tiên nữ dong chơi đi ra đi vào, và múa hát.
Múa hát suông mãi, cũng chán. Em muốn cùng chàng
sống dưới mái tranh vàng, và ánh đèn nhựa trám này.
Chàng trai sung sướng mở vòng tay ôm lấy nàng
tiên. Một cảm giác ngất ngây kỳ lạ của hạnh phúc dâng
tràn.
Từ hôm ấy chàng và nàng tiên bắt tay xây dựng
mái ấm. Nàng tiên trút bỏ bộ quần áo tiên có cánh, cất
trong rương hòm, khoác bộ áo nâu thôn nữ lên người.
Nàng tìm sự ham say vui thích từ việc vun trồng ngọn
lá bông hoa trái quả trong vườn. Nàng thích thú với
ánh lửa bập bùng chiều đông, mùi cơm mới tỏa thơm
ngào ngạt.
Đêm đêm hai vợ chồng nằm ôm nhau trên chiếc
giường ấm cúng, ngoài kia tiếng mưa rơi trên tầu tiêu
lộp bộp, và trên vách, tiếng con thạch sùng tắc lưỡi.
Chàng nho sinh bỏ không dự kỳ thi Hương năm
ấy. Sách vở dẹp vào một góc, ba gian nhà quá chật, mà
hạnh phúc thì cần nhiều không gian để chứa đựng.
Một năm sau, đứa con trai kháu khỉnh của họ ra
đời. Họ truyền tay nhau bế ẵm, ngây ngất ngắm nhìn
đôi mắt thơ ngây trong vắt bầu trời của con...
Cái gì đã đạt được rồi thì sẽ trở thành bình
68 69
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
BỨC ẢNH
Ca nô khởi hành từ thị xã, ngược dòng xé sóng
trắng xóa. Sông Lục trong vắt in hình dãy núi Huyền
giăng giăng, cứ như dòng sông dìm cả dải núi trong
lòng mình, sóng xao động làm núi lẫn trời tan nhòa.
Chiếc ca nô cũ rích kéo còi khàn khàn áp bến. Tôi
lên bờ đi bộ vào thị trấn Phù Dung bên sông. Phố xá
êm đềm. Nhà nào cũng có vườn bên trong. Cây xanh
mướt, na, hồng, nhãn... chim rừng bay lạc về nhớn
nhác. Cửa các nhà, bán đặc sản rừng: đõ ong, chùm
phong lan dại...
Tôi vào quán, ngắm lồng chim núi treo trên cây,
tiếng hót nhớ rừng thảng thốt...
Bữa ăn có thịt Nhím, ninh với hạt Dẻ. Tôi ngồi
trầm ngâm nghe mơ hồ tiếng suối chẩy róc rách sau
nhà...
Điều tai hại là Thượng giới phát hiện ra tội trạng
của nàng đã từng xuống trần gian hưởng thú vui hạ
giới. Nàng không còn vẹn nguyên tinh khiết tiên nữ
nữa. Da thịt nàng đã vẩn mùi nhục cảm.
Thượng giới quyết định đày nàng xuống hạ giới,
biến thành một dải núi, đêm đêm ngửa mặt ngóng lên
trời. Đó chính là dải níu Ngọc mỹ nhân nhô lên giữa
vùng châu thổ.
12-9-2014
70 71
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Anh nhìn thấy cô gái sáng rực như vầng trăng,
vừa đi vừa vuỗi những giọt nước còn đọng trên các
lông tơ. Nắng sưởi khô tỏa hơi trên đôi vú còn nguyên
phấn tuổi dậy thì. Đôi chân trắng muốt màu hoa sen.
Chàng trai vội nấp vào bụi rậm chụp hình. Cô
gái không hề hay biết. Cô mặc quần áo, rồi lững thững
ra về. Hình như trưa nào cô cũng ra sông. Con gái thị
trấn Phù Dung, có khi bơi thi như đàn thiên nga ở đâu
xà xuống.
Những chàng lái ca nô, thường đứng ngẩn ngơ
nhìn, và sau đấy máy ca nô không làm sao nổ lại được
để rời bến.
Gặp được một người con gái đẹp khỏa thân đâu
phải dễ. Nghề nhiếp ảnh, thường ăn may trong khoảnh
khắc trời cho. Chộp được đám mây hình thù kỳ lạ bay
qua. Một giây sau, đám mây đã khác. Chộp được nụ
cười trên gương mặt nhàu nhĩ của bà già. Một giây
sau, bắt bà cười lại, thì nụ cười đã thành ngớ ngẩn. Có
chàng phóng viên phương Tây chộp được cảnh đúng
lúc con chim Ưng ăn xác chết xà xuống mổ em bé châu
Phi đang hấp hối vì đói. Bức ảnh được giải nhất quốc
tế...
Chàng trai chộp cảnh cô gái khỏa thân từ dưới
sông đi lên, đã chụp được bức ảnh đẹp. Lúc đó ánh sáng
thuận chiều, khoảnh khắc cô như hoa Quỳnh nở trong
đêm lồ lộ một thân hình tuyệt mĩ. Cánh tay trần giơ
lên mà cứ gợi ý tưởng con chim trắng muốt sắp bay. Bờ
... “Ngày xửa ngày xưa” dòng sông Lục còn xanh
trong hơn bây giờ, có một nhà báo trẻ mộng mơ, thường
qua lại vùng này. Anh viết những bài văn miêu tả dòng
sông trưa hè, những cô gái thị trấn Phù Dung ra tắm,
đôi vai trần trắng lóa nhô lên trên làn nước xanh biếc...
Anh yêu trung du, đồi cỏ mênh mang, đường
sỏi đỏ xập xòe bóng Gà Gô, cánh Diều Hâu từ bụi Sim
Mua bay vút lên trời xanh.
Anh đã ở với Trung du đêm trăng nghe chim đồi
hót. Tiếng chim đan như mắt võng úp chụp cả một
vùng. Đó là tiếng gọi tìm bạn tình. Cả dãy đồi hàng
ngàn con chim hót. Con đực cất lên, con mái ở xa đáp
lại. Lọc trong rừng âm thanh, chúng nghe đúng tiếng
hót mà chúng “phải lòng”, định hướng phía đó, tiến lại
gần nhau, kết đôi. Gặp nhau rồi thì thôi hót. Tiếng hót
thành chiếc cầu, con đường. Thường thì con đực và con
mái cứ phải cùng hót từ chập tối đến nửa đêm, chúng
mới đến được với nhau. Quá nửa đêm, tiếng hót thưa
vắng loạc choạc, đó là những con chim không tìm được
bạn. Nó hót tiếp đến sáng,rồi chết gục trong một búi cỏ
vì vỡ cổ họng.
...Có một buổi trưa, anh ra chụp ảnh dòng sông
Lục. Quãng vắng, bờ cát lẩn vào cây dại um tùm. Một
cô gái tắm sông đang bước lên bờ. Con gái miền núi
hoang dại. Cởi quần áo vắt trên cành cây, để nguyên
“trang phục thiên nhiên”, đi xuống dòng nước bơi lội,
xong, lại thản nhiên “trang phục thiên nhiên” lên bờ...
72 73
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Bức ảnh khỏa thân “Cô gái sông Lục núi Huyền”
của chàng trai cũng có ý nghĩa tương tự như thế...
Anh là một nhà báo thường thường, chuyên viết
các bài phóng sự cũng thường thường, nhưng được ân
huệ trời cho, thành tác giả bức ảnh đỉnh cao nghệ thuật.
Công của anh là có “khát vọng” ra nhìn các cô gái sông
Lục tắm trưa, nhô vai trần sáng trắng. Lúc đầu ước mơ
chỉ nho nhỏ thế thôi, nào ngờ gặp may. Công lao chính
đương nhiên là thuộc về cô gái, Thượng đế đã tạo nên
thân hình cô như thế. Sau nữa là “công” của mặt trời,
ánh sáng lúc đó không bị ngược, và công của bụi rậm
để anh nấp. Công của chiếc máy ảnh là lúc đó vận hành
tốt. Một giây. Chỉ một giây bấm tách. Qua giây đó cô
gái không có ánh mắt, nụ cười và dáng đi như thế nữa...
Cơ quan Tòa báo đang đấu đá nhau căng thẳng,
tranh giành vị trí. Chàng trai bị đem ra kiểm điểm vì
tội “văn hóa đồi trụy”. Thứ văn hóa “rác rưởi” đang có
nguy cơ xâm nhập làm hư hỏng thanh niên, xói mòn
đạo lý. Ngoài xã hội, cơ quan chức năng đã khởi tố
nhiều người tàng trữ, truyền bá tranh ảnh khiêu dâm,
tạp chí playboy.
Đấu đá nhau bằng mồm, còn khó mới hạ được
nhau. Tóm được một chứng cớ cụ thể thế này, chàng
trai đo ván liền. Ranh giới ảnh “nuy nghệ thuật” với
ảnh khiêu dâm là một sợi tóc. Không dễ phân biệt...
Chàng trai bị tước thẻ phóng viên, treo bút, thu máy
ảnh, chuyển sang phòng “sửa mo rát”.
vai gợi ảnh hình ánh trăng tan chẩy. Và đôi vú là những
mùa quả chín tròn đầy...
Chàng trai hiểu giá trị bức ảnh vô tình có được.
Anh rửa nhiều bản, tặng bạn bè văn nghệ sĩ của mình...
...Vào những năm tháng ấy còn có nhiều quan
niệm ấu trĩ về nghệ thuật. Báo chí không đăng thơ tình,
hội họa thì tranh vẽ phải làm sao quần chúng dễ hiểu...
Bức ảnh “Cô gái sông Lục núi Huyền” của chàng
trai bị phê phán là “văn hóa đồi trụy”. Người ta nhìn
bức ảnh, choáng váng trước vẻ đẹp của nó, nhưng lập
tức phải lên gân lên cốt “lập trường” kết tội. Tòa báo
cho anh làm phóng viên, để đi viết bài chụp ảnh các cô
gái tay súng tay cày, làm nên 5 tấn một héc ta, đâu phải
để đi chụp ảnh “con gái cởi truồng”.
Vào thời Đổi mới hôm nay, Ti vi suốt ngày chiếu
cảnh Hoa Hậu thi áo tắm, thì không thể hiểu nổi chuyện
bức ảnh khỏa thân xưa bị kết tội tày trời. Nhưng việc
đó đã xảy ra, đã có thật.
...Thân hình con gái đẹp là tuyệt phẩm thượng đế
sáng tạo ra, để làm chuẩn Cái Đẹp cho cuộc đời. Đó là
Cái Đẹp nhất trên thế gian này. Không có gì hơn. Vầng
trăng, ngôi sao, áng mây, vầng dương, đại ngàn, sông
suối, núi đồi, cỏ hoa... tất cả đều đẹp, nhưng chỉ là hạng
hai so với cái đẹp của thân hình con gái. Người ta thi
Hoa Hậu, truyền hình khắp thế giới để giúp loài người
có cảm giác thẩm mỹ, nghệ thuật, nâng cao trình độ
hiểu thế nào là Cái Đẹp.
74 75
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
dẹp, bán cân. Một lần lục trong tủ xấp báo cũ ố vàng
của Cha tôi, thấy rơi ra bức ảnh “Cô gái sông Lục núi
Huyền”. Tôi cầm lên xem bàng hoàng. Bức ảnh như tỏa
hào quang. Chuẩn mực Cái Đẹp trên đời hiển hiện. Ý
nghĩa cuộc đời hiển hiện. Hạnh phúc tột cùng của kiếp
người hiển hiện...
Nước mắt tôi giàn giụa. Hai tay tôi giữ chặt bức
ảnh mà chỉ sợ nó như là cánh bướm, cánh diều bay
mất. Chồng Tạp chí Nghệ thuật Nhiếp ảnh Quốc tế
trên bàn. Tôi đã lướt qua nhiều lần. Những bức ảnh của
các Châu Lục được giải. Những bức ảnh ghi lại chân
thực cuộc sống trên thế gian này. Những bức ảnh gợi
cho người ta những tầng cảm xúc, suy tưởng, phong
phú, cao siêu, đẹp đẽ mà hàng ngày bị khuất lấp trong
cuộc sống bụi lầm.
Năm nào Hội đoàn Nhiếp ảnh Quốc tế cũng tổ
chức thi một lần. Khắp thế giới, người ta gửi ảnh về.
Ảnh chiến tranh. Chú bé mười tuổi giầy mũ nhà binh
rộng rênh, súng cao hơn người. Ảnh đoàn Nữ binh,
quân phục hở vú, đôi vú nõn nà đối lập với súng đạn
xù xì đeo quanh người. Nhiếp ảnh quả cũng lắm trò thể
hiện. Ảnh thiên nhiên, đồng đất khô hạn, nứt toác, con
bò cạp răng nọc độc, đang cắn bông hoa. Ảnh sa mạc
mênh mông, con lạc đà thồ trĩu nặng đi về phía chân
trời, như đường đời của kiếp người...
Phần lớn các ảnh chủ đề nỗi đau cuộc sống. Ít
có ảnh chủ đề cái đẹp và hạnh phúc tột đỉnh của kiếp
Lẽ ra phải rời khỏi biên chế cơ quan, nhưng may
có một “Phó thủ trưởng” hiểu biết, cứu vớt ở lại. Vào
những năm tháng ấy toàn bộ “sự sống” diễn ra trong
“biên chế cơ quan”. Rời khỏi là ra vỉa hè bơm xe đạp.
Chàng trai yên tâm ngày ngày soi kính lúp, sửa lỗi typô
như nhổ lông tơ còn sót trên con gà đã mổ. Càng yên
thân, chàng trai tự an ủi. Viết lách, hộc tiết mới được
bài báo, sung sướng nỗi gì. Sửa mo rát, làm như cái
máy, chẳng mệt óc...
Máy ảnh đã trả lại cơ quan, lâu dần rồi anh cũng
quên cả cách điều khiển ống kính thò ra thụt vào mức
độ nào cho đúng. Bức ảnh “Cô gái sông Lục núi Huyền”
đem lại tai họa lớn, thành “kỷ niệm đáng sợ”, nên chẳng
bao giờ anh nhắc đến nữa...
Chàng trai phóng viên ấy là cha tôi. Ông nghỉ
hưu, và vừa mới mất năm ngoái. Tôi lớn lên, nối tiếp
Nghề Báo, nhưng là Báo Hình. Suốt ngày chụp ảnh
Hoa Hậu, Người Mẫu ăn mặc hở hang, cung cấp cho
các Tạp chí Thời trang. Máy ảnh của tôi siêu hiện đại,
chụp được cả chân con kiến, cả chiếc lông tơ trên người
Hoa Hậu. Studio của tôi, suốt ngày Người Mẫu đến cởi
quần áo để tôi “tác nghiệp”, chứ không phải trưa nắng
ra bờ sông Lục rình mò con gái tắm “nhô vai trần sáng
trắng”. Nhìn được tý vai, đã tưởng như nhìn thấy Hằng
Nga hiển hiện.
Các bức ảnh của tôi, tạp chí đăng trang bìa, đem
về vứt góc nhà, chất hàng đống, thỉnh thoảng dọn
76 77
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
aHANH ĐÀO LẠI NỞ
Ở chơi thị trấn Phù Dung vài hôm tôi tha thẩn
khắp nơi. Những dải đồi xanh như chiếc gối êm cho thị
trấn dựa lưng. Dòng suối róc rách bao quanh là chiếc
khăn quàng thiếu nữ trắng tinh khôi trên vai phố xá.
Hoa Mua tím dập gẫy dưới bước chân dạo chơi của các
cô gái Sơn cước.
Tôi làm thân với một bà chủ quán nước chè. Bà
chừng 60 tuổi. “Cô gái sông Lục núi Huyền” xưa, chắc
cùng trang lứa với bà, và biết đâu đã từng đi tắm sông
với nhau. Tôi che phần khỏa thân phía dưới ảnh, chỉ để
lộ gương mặt, cho bà xem, nhờ “nhận dạng”.
Bà thích thú vì có người gợi lại thời thiếu nữ của
mình... Nhưng “con bé” này là ai nhỉ. Trong đám bạn
vẫn ra sông tắm có đứa nào thế này đâu.
Thị trấn xưa hẹp tanh vanh, bọn con gái lãng
mạn, hay tựa cửa, hoa Phù Dung tím nhạt rơi đầy vai.
Phù Dung đẹp, nhà nào cũng trồng ngoài cửa, các ông
bố biết đâu loài hoa vừa nở đã tàn kia, rồi như ám vào
đời con gái của mình...
Bà hàng nước loan truyền cho cả chục bà cùng
trang lứa đến nhà. Các bà đang thiếu cơ hội tụ tập. Các
bà giờ người là cô giáo về hưu, người tráng bánh đa mì
gạo, người buôn giày dép, áo quần, hoa quả ngoài chợ,
bận rộn lắm, và luôn tiếc ngẩn tiếc ngơ thời thiếu nữ
của mình. Tin “tìm Người Mẫu”, trả tiền giải thưởng,
càng làm các bà thích thú. Các bà xem Ti vi thấy bọn
“Người Mẫu” được trả nhiều tiền lắm. Chẳng làm ăn gì,
người. Thể hiện nó khó lắm. Nhưng bức ảnh “Cô gái
sông Lục núi Huyền” có chủ đề đó. Một ý nghĩ lóe sáng
trong đầu tôi. Tại sao không gửi dự thi. Ban chấm giải
ảnh quốc tế người ta không mù. Tôi nhìn ra, thì người
ta cũng nhìn ra...
Tôi gửi bức ảnh đi. Một thời gian sau có hồi âm.
Ảnh được giải cao. Tôi không ngạc nhiên lắm. Lúc
nhận tin, tôi chỉ mỉm cười. Nhưng đến đêm, nhớ lại
việc Cha tôi đã phải rời nghề viết báo, vì nó, nước mắt
tôi đầm đìa.
... “Cô gái sông Lục núi Huyền” này là ai. Ai là
người mẫu. Cô ta phải biết điều đó, biết được giá trị của
mình. Phải chia một nửa số tiền giải thưởng cho cô.
Cô ở đâu bây giờ? Làm sao tìm được. Chính cha
tôi cũng không biết cô là ai. Cô chỉ xuất hiện trước ống
kính cha tôi một giây, rồi mặc quần áo, đội nón, lững
thững đi về thị trấn Phù Dung.
Thị trấn Phù Dung... Tất nhiên là cô đã già, nhưng
thị trấn thì chạy đi đâu được.
Tôi cầm nửa khoản tiền giải thưởng và bức ảnh
“Cô gái sông Lục núi Huyền” xuống canô. Tôi lại về
sông Lục như cha tôi xưa hay đến đó. Tôi đi tìm Người
mẫu của Nghệ thuật. Nghệ thuật không được quên ơn...
*
* *
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)
Hoa anh dao lai no gui dinh (1)

More Related Content

What's hot

Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)
Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)
Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)hach nguyen phan
 
Qua tang cua thien nhien copy
Qua tang cua thien nhien   copyQua tang cua thien nhien   copy
Qua tang cua thien nhien copyhach nguyen phan
 
Màu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ caMàu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ calechi55
 
Phong lan về trời
Phong lan về trờiPhong lan về trời
Phong lan về trờiPhmVitLong1
 
Me cung day du.dockhôi phucc
Me cung day du.dockhôi phuccMe cung day du.dockhôi phucc
Me cung day du.dockhôi phucchach nguyen phan
 
Phong lan về trời
Phong lan về trờiPhong lan về trời
Phong lan về trờiPhmVitLong1
 
Những kỳ quan xanh - Nguyễn Thế Khoa
Những kỳ quan xanh - Nguyễn Thế KhoaNhững kỳ quan xanh - Nguyễn Thế Khoa
Những kỳ quan xanh - Nguyễn Thế Khoalongvanhien
 
Trích dẫn 3 bài hành VHN
Trích dẫn 3 bài hành VHNTrích dẫn 3 bài hành VHN
Trích dẫn 3 bài hành VHNVo Hieu Nghia
 
Cải lão hoàn đồngdùng đúng nhất
Cải lão hoàn đồngdùng đúng nhấtCải lão hoàn đồngdùng đúng nhất
Cải lão hoàn đồngdùng đúng nhấthach nguyen phan
 
TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN
TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN
TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN Trong Hoang
 
Thơ giáng sinh miền nam thời chiến
Thơ giáng sinh miền nam thời chiếnThơ giáng sinh miền nam thời chiến
Thơ giáng sinh miền nam thời chiếnHoa Bien
 
Sơn nam dề lục bình nam bộ trần mạnh hảo
Sơn nam dề lục bình nam bộ   trần mạnh hảoSơn nam dề lục bình nam bộ   trần mạnh hảo
Sơn nam dề lục bình nam bộ trần mạnh hảoKelsi Luist
 
Bàn về 3 bài hành VHN
Bàn về 3 bài hành VHNBàn về 3 bài hành VHN
Bàn về 3 bài hành VHNVo Hieu Nghia
 
15. coi nguon bai thochuẩnxy copy
15. coi nguon bai thochuẩnxy   copy15. coi nguon bai thochuẩnxy   copy
15. coi nguon bai thochuẩnxy copyhach nguyen phan
 
Đây Thôn Vĩ Dạ
Đây Thôn Vĩ DạĐây Thôn Vĩ Dạ
Đây Thôn Vĩ DạTrang Tống
 
Huong chay cua dong song zzz
Huong chay cua dong  song zzzHuong chay cua dong  song zzz
Huong chay cua dong song zzzhach nguyen phan
 
ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU Tin Hà Đăng
 
Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3
Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3
Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3hach nguyen phan
 

What's hot (20)

Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)
Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)
Nhung bai van hay giup hoc sinh tham khao czzz2)
 
Qua tang cua thien nhien copy
Qua tang cua thien nhien   copyQua tang cua thien nhien   copy
Qua tang cua thien nhien copy
 
Màu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ caMàu tím trong thơ ca
Màu tím trong thơ ca
 
Phong lan về trời
Phong lan về trờiPhong lan về trời
Phong lan về trời
 
Me cung day du.dockhôi phucc
Me cung day du.dockhôi phuccMe cung day du.dockhôi phucc
Me cung day du.dockhôi phucc
 
Phong lan về trời
Phong lan về trờiPhong lan về trời
Phong lan về trời
 
Những kỳ quan xanh - Nguyễn Thế Khoa
Những kỳ quan xanh - Nguyễn Thế KhoaNhững kỳ quan xanh - Nguyễn Thế Khoa
Những kỳ quan xanh - Nguyễn Thế Khoa
 
Trích dẫn 3 bài hành VHN
Trích dẫn 3 bài hành VHNTrích dẫn 3 bài hành VHN
Trích dẫn 3 bài hành VHN
 
Cải lão hoàn đồngdùng đúng nhất
Cải lão hoàn đồngdùng đúng nhấtCải lão hoàn đồngdùng đúng nhất
Cải lão hoàn đồngdùng đúng nhất
 
TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN
TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN
TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ LẶNG IM của PHẠM CÔNG THIỆN
 
Thơ giáng sinh miền nam thời chiến
Thơ giáng sinh miền nam thời chiếnThơ giáng sinh miền nam thời chiến
Thơ giáng sinh miền nam thời chiến
 
Sơn nam dề lục bình nam bộ trần mạnh hảo
Sơn nam dề lục bình nam bộ   trần mạnh hảoSơn nam dề lục bình nam bộ   trần mạnh hảo
Sơn nam dề lục bình nam bộ trần mạnh hảo
 
Ngay từ khổ thơ đầu
Ngay từ khổ thơ đầuNgay từ khổ thơ đầu
Ngay từ khổ thơ đầu
 
Bàn về 3 bài hành VHN
Bàn về 3 bài hành VHNBàn về 3 bài hành VHN
Bàn về 3 bài hành VHN
 
15. coi nguon bai thochuẩnxy copy
15. coi nguon bai thochuẩnxy   copy15. coi nguon bai thochuẩnxy   copy
15. coi nguon bai thochuẩnxy copy
 
Đây Thôn Vĩ Dạ
Đây Thôn Vĩ DạĐây Thôn Vĩ Dạ
Đây Thôn Vĩ Dạ
 
Trai hoa vang
Trai hoa vangTrai hoa vang
Trai hoa vang
 
Huong chay cua dong song zzz
Huong chay cua dong  song zzzHuong chay cua dong  song zzz
Huong chay cua dong song zzz
 
ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
ĐƯỜNG TỐNG THƠ BỐN CÂU
 
Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3
Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3
Nguoi dan ba buon in ca1 4chuan nhat 3
 

Similar to Hoa anh dao lai no gui dinh (1)

Similar to Hoa anh dao lai no gui dinh (1) (20)

Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy KhuêTác giả Thạch Lam -   nhà phê bình Thụy Khuê
Tác giả Thạch Lam - nhà phê bình Thụy Khuê
 
Bến tầm dương nguyễn phan hách - copy (2)
Bến tầm dương   nguyễn phan hách - copy (2)Bến tầm dương   nguyễn phan hách - copy (2)
Bến tầm dương nguyễn phan hách - copy (2)
 
Thi nhan hai phong tap 2
Thi nhan hai phong tap 2Thi nhan hai phong tap 2
Thi nhan hai phong tap 2
 
Chan dung thi nhan hp tap2.doc
Chan dung thi nhan hp tap2.docChan dung thi nhan hp tap2.doc
Chan dung thi nhan hp tap2.doc
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 
Thai Thanh -- Hoang hai Thuy
Thai Thanh  -- Hoang hai ThuyThai Thanh  -- Hoang hai Thuy
Thai Thanh -- Hoang hai Thuy
 
Mưa xuân
Mưa xuânMưa xuân
Mưa xuân
 
Hoa Tiên
Hoa TiênHoa Tiên
Hoa Tiên
 
Bích câu kỳ ngộ
Bích câu kỳ ngộBích câu kỳ ngộ
Bích câu kỳ ngộ
 
Một thời hương cốm
Một thời hương cốmMột thời hương cốm
Một thời hương cốm
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 
Ca co
Ca coCa co
Ca co
 
Thơ
ThơThơ
Thơ
 
đà Lạt thơ
đà Lạt thơđà Lạt thơ
đà Lạt thơ
 
Viết lại thành Thơ
Viết lại thành ThơViết lại thành Thơ
Viết lại thành Thơ
 
Dư âm một thời trên yahoo blog
Dư âm một thời trên yahoo blogDư âm một thời trên yahoo blog
Dư âm một thời trên yahoo blog
 
Tình yêu-người-lính
Tình yêu-người-línhTình yêu-người-lính
Tình yêu-người-lính
 
Tập truyện ngắn: Tình yêu người lính
Tập truyện ngắn: Tình yêu người línhTập truyện ngắn: Tình yêu người lính
Tập truyện ngắn: Tình yêu người lính
 
Kim Vân Kiều
Kim Vân KiềuKim Vân Kiều
Kim Vân Kiều
 
Bang
BangBang
Bang
 

More from hach nguyen phan

More from hach nguyen phan (14)

Qua tang cua thien nhien
Qua tang cua thien nhienQua tang cua thien nhien
Qua tang cua thien nhien
 
Copy of quán bên đường
Copy of quán bên đườngCopy of quán bên đường
Copy of quán bên đường
 
Hat bui canđươcc
Hat bui canđươccHat bui canđươcc
Hat bui canđươcc
 
Chân dung nph.docyyy
Chân dung nph.docyyyChân dung nph.docyyy
Chân dung nph.docyyy
 
Daibangkimdieu
DaibangkimdieuDaibangkimdieu
Daibangkimdieu
 
Hat bui can
Hat bui canHat bui can
Hat bui can
 
Copy of nhung ngoi sao tuoi tho bong 2 (1)
Copy of nhung ngoi sao tuoi tho bong 2 (1)Copy of nhung ngoi sao tuoi tho bong 2 (1)
Copy of nhung ngoi sao tuoi tho bong 2 (1)
 
Chùm tản văn copy
Chùm tản văn   copyChùm tản văn   copy
Chùm tản văn copy
 
Giải cứu.dozzz
Giải cứu.dozzzGiải cứu.dozzz
Giải cứu.dozzz
 
Gio noi1
Gio noi1Gio noi1
Gio noi1
 
Vuon mai in can copy
Vuon mai in can   copyVuon mai in can   copy
Vuon mai in can copy
 
Ke chuyen bac ho
Ke chuyen bac ho   Ke chuyen bac ho
Ke chuyen bac ho
 
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
Luan van (van) chuẩn cuối cungx 2
 
Bắc kinh du kýchuẩn
Bắc kinh du kýchuẩnBắc kinh du kýchuẩn
Bắc kinh du kýchuẩn
 

Hoa anh dao lai no gui dinh (1)

  • 1. NGUYỄN PHAN HÁCH aHANH ĐÀO LẠI NỞ NHÀ XUẤT BẢN DÂN TRÍ aHANH ĐÀO LẠI NỞ
  • 2. 4 5 HÀ NỘI TÔI YÊU... Nắng tháng Chạp rưng rưng. Nắng của thế kỷ trước ấp ủ mái phố cổ lô nhô. Tôi đi trong rêu phong 36 phố phường. 36 mảnh hồn làng nghề cả nước hội tụ về đây. Ông thợ Bạc chạm khắc thỏi vàng. Bác Phó thổi bễ đúc đồng. Cô gái gói hương cốm đồng quê trong lá dong xanh... Bao nhiêu nghề còn, và bao nhiêu nghề đã mất. Không còn người che lọng vàng tán tía, nên tên phố Hàng Lọng, Hàng Quạt chỉ còn là hoài niệm. Không còn chợ bán Cỏ cho ngựa của vua quan, nhưng tên Nhà ga Hàng Cỏ không quên. Hàng Tre vẫn còn bán những chiếc sào có vết lửa hun nắn thẳng mấu đốt. Sào tre, “di vật” của những dặng tre ngàn đời bao quanh làng Việt, mà thoắt cái đã thành hư ảo.
  • 3. 6 7 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ vang. Gai, sợi gai là cái gì quan trọng thế mà chiếm cả một phố lớn - Hàng Gai. Có lẽ tại là không có sợi se đan dệt, thì mọi thứ cứ rời rông rổng... Hồ Gươm, Hồ Tây long lanh như ánh mắt. Như gương mặt thời gian, soi vào đây thấy bóng hình lâu đài thành quách Lý Trần Lê vàng son... Tôi vịn tay vào đôi Rồng Đá điện Kính Thiên, và bay lên.Tôi nhìn thấy đất Đế Đô ngàn năm tựa lưng vào Ngai núi Tản Viên thần thánh, mặt nhìn ra sông Hồng long mạch trường tồn cuồn cuộn chảy... Tôi thấy Đức Thái tổ họ Lý mang cái tên mộc mạc của làng quê Diên Uẩn (Bắc Ninh) đang ngắm rồng bay làm nên biểu tượng thăng hoa của một thời dựng nước, lập đô. Tôi thấy Đức Thái tổ họ Lê trả gươm cho rùa vàng bên hồ Tả Vọng, biểu tượng khát vọng hòa bình muôn thuở, sau khi binh lửa can qua. Và tôi thấy “Rồng lửa Thăng Long” thời chống Mỹ bay lên quật ngã Pháo đài B52, cho nó uống nước Hồ Tây, cho nó chết chìm trong ao nhỏ làng hoa Ngọc Hà. * * * Tôi đi lang thang dọc bờ sông Hồng. Sóng thời Phố Hàng Gà, còn tiếng gà gáy trong quá vãng. Tiếng gà gáy suốt năm canh, như tiếng chuông điểm nhịp thời gian, tiếng kèn giục giã cuộc sống, nhắc ta không bao giờ đầu hàng. Còn không tiếng gà gáy xưa trong lòng phố cổ. Hàng Phèn. Bao nhiêu tấn phèn gạn nước đục trong, cuộc đời này. Hàng Buồm không còn bán những cánh buồm và gió trên sông chở con người đến những miền xa, chỉ còn đây trên hàng cây mái phố Hàng Buồm hôm nay, tiếng gió căng buồm! Hàng Mã của tuổi thơ, mẹ mua cho cây đèn ông sao thắp sáng suốt cuộc đời con. Hàng Bát Đàn còn nhớ ảnh hình “mâm đan bát đàn” bữa ăn đơn sơ của người Việt cổ... “Hòe hoa hoàng, cử tử mang” Phố Hòe Nhai không còn dặng hòe vàng rợi che đầu sĩ tử đoạn đường buổi sớm vào sân Thành Nội ứng thí, “Đại đình tằng đối tam thiên tự” (Giữa sân rồng múa bút viết ba ngàn chữ) của các ông Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Tôi đi trong phố cổ, bước xăm xăm vào quá khứ. Mùi thơm phố Thuốc Bắc, Lãn Ông... Không còn những ông Lang râu dài, bên những chiếc cân tiểu ly nặng nhẹ thời gian... Hàng Trống, vọng về âm âm tiếng trống hội làng, hội phố. Con trâu một đời cần mẫn kéo cày, lúc chết còn để lại bộ da cho cuộc đời gõ lên những tiếng kêu
  • 4. 8 9 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ bừng sắc hương thời mới. Đào phai, năm cánh mong manh như hồn núi rừng đồng quê về hội tụ. Hình cô gái cầm cành đào đứng bán trên hè phố, đã trở thành biểu tượng của mùa xuân. Màu hoa đào là màu má hồng con gái. Còn hoa Cúc vàng là màu khát vọng tình yêu. Chợ hoa đêm Hà Nội mờ trong trăng khuya, sương sớm để hoa kịp về phòng khách ban mai mỗi gia đình. Hồng Vàng như nàng công chúa kiêu sa. Cẩm chướng, thược dược như cô gái si tình. Ly ly như người yêu ca sĩ thời trang. Diên Vỹ giá mấy chục triệu đô trong tranh Van Gốc, hiện hình về đây thành sắc hương có thật. Loài Cúc trắng Họa Mi đơn sơ, bình dị là sứ giả báo mùa đông đến. Còn Sen Hồ Tây là sứ giả mùa hè. Sen đến nồng nàn, nhưng phải ngậm ngùi ra đi khi gió heo may, như những cuộc chia ly bắt buộc của cuộc đời này. Có một loài hoa gợi tiếng kèn thời gian âm vang khi nắng mới bừng lên sau giá rét mùa đông. Hoa Loa Kèn trắng muốt trên tay cô gái có đôi môi khát thèm đang cắn trái mơ chua, chín cùng một ngày với kỳ hoa nở. Mơ chua tháng ba thoáng qua môi người thiếu nữ Hà Nội. Môi đắm say hương vị cuộc đời nhẻ nhót trái mận đào, vải thiều. Na mở mắt ngỡ ngàng tháng bẩy. Và tháng tám, hồng về để thi với má người con gái đến thì... gian cuồn cuộn trĩu nặng phù sa bồi đắp. Tôi thấy trong mù sương quá vãng bóng hình chiếc tàu thời cơ khí đầu máy hơi nước ngạo mạn, nã pháo vào thành cổ Hà Nội ngàn năm để rồi cả Gácniê lẫn Rivie đều phải bỏ xác tại đoạn đường Cầu Giấy... Tôi thấy những tên sĩ quan ăn cướp Pháp đầu tiên lộp cộp lên bờ nhận phần Nhượng địa Đồn Thủy, và sĩ quan công chính Va Ren cho xây ngôi nhà Tây hai tầng bằng sắt, sỏi, xi măng đầu tiên... Và tôi thấy bóng hình những tên lính phương Tây đã phải bước những bước cuối cùng của chủ nghĩa thực dân qua cầu Long Biên. Tỉnh Hà Nội do Minh Mạng lập ra năm 1831 gồm bốn phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân. Pháp đến, xây trên địa bàn Phủ Hoài Đức thành phố Hà Nội làm thủ phủ liên bang Đông Dương, còn ba phủ kia trả về các tỉnh lẻ. Kiến trúc sư Pháp Ernest He’brad đến Hà Nội năm 1921, và Luis Pineau đến năm 1932, hai ông tạo nên diện mạo phố Tây thuộc địa với các biệt thự tháp nhọn sau bóng dã hương. Ngày hôm nay, Hà Nội mới, vươn vai rộng dài như Thánh Gióng, hứa hẹn một đô thành nguy nga tráng lệ... Mùa xuân đã trở về. Nắng vàng như rót mật. Dòng suối hoa từ ngoại thành tràn vào nhuộm hoa cho phố xá. Đào tết Nhật Tân đã thành sắc màu văn hóa Hà Nội, văn hóa Việt Nam. Đào thế gốc lịch sử xù xì, nở
  • 5. 10 11 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ HỒN CÂY Gia trang cố hương chúng tôi ở một miền đồi có khe suối và vườn hoang đầy cây cổ thụ. Một lần vào vườn hoang tôi tha thẩn dạo chơi đêm trăng, nghe chim đồi hót và tiếng suối chảy róc rách. Soi bóng bên suối có một cây Liễu yểu điệu, lá rủ lướt thướt, bên cây Đào hoa nở rực rỡ và cây Hạnh vươn cành mềm mại như cánh tay thiếu nữ đang cầm những nhành hoa phớt hồng. Đêm về khuya, ánh sương rơi bàng bạc, tôi thấy hồn ba cây chập chờn hiện thành ba cô gái xinh đẹp. Liễu có mái tóc lướt thướt. Đào có gương mặt tươi hồng, và Hạnh có màu da trắng như tuyết. Ba cô nói thì thầm gì với nhau, tôi nghe không rõ. Một cơn gió mạnh ào qua, hình ba cô lại tan nhòa, Tôi đi trong bốn mùa hoa, mùa quả Hà Nội. Hoa Sữa mùa thu tình đầu của tôi. Hoa Xưa tháng hai là tuyết trắng trong tinh khiết của tình tôi. Tôi đắm chìm trong sắc hương Hà Nội, sắc hương của chính lòng tôi... 5/1/2014
  • 6. 12 13 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ đã nhạt thếch, hình hài đã xác khô... Tôi có việc lại phải xa cố hương. Một ngày kia, trở về, tôi lại vào vườn hoang tìm gặp hồn cây Đào, Liễu, Hạnh dù biết họ đã già. Tôi đến bên bờ suối. Bờ suối trơ trụi. Ba cây Đào, Liễu, Hạnh giờ chỉ còn là ba gốc khô nham nhở vết rìu chặt. Tôi đợi mãi, đợi mãi, không có bóng hình ai, ngoài bóng hình tôi với con suối chẩy rì rào... 23/10/2014 chìm vào ba cây Đào, Liễu, Hạnh bên suối. Sáng hôm sau, dưới ánh sáng mặt trời chói chang, tôi lại vào vườn hoang. Ngắt nhành liễu, vò nhàu lá thấy mùi hương mái tóc con gái. Ngắt bông hoa Đào, hoa Hạnh thấy mùi phấn thơm trên má thiếu nữ... Cuộc đời tao loạn, xô đẩy tôi phải đi xa biệt khỏi cố hương. Thời gian trôi, đến khi tóc bạc, tôi mới có dịp trở lại ngôi nhà rêu mốc, nấm mọc ngoài thềm. Khu vườn hoang xơ xác đi nhiều, nhưng ba cây Đào, Liễu, Hạnh vẫn còn, dù lá sắt lại, hoa cỗi cằn. Tôi thức với đêm vườn, và nửa đêm, trong ánh sương rơi bàng bạc, tôi lại thấy hồn cây xuất hiện. Nhưng lần này là ba bà già tóc bạc, da nhăn. Tôi buồn bã lại gần nói: - Có lẽ nào cuộc đời ba cô gái trẻ đã phai tàn quẩn quanh trong khu vườn hoang này. Ba bà già nói: - Biết làm sao được. Chân chúng tôi là những rễ cây Đào, Liễu, Hạnh cắm chặt trong lòng đất. Tôi nói với bà già cây Hạnh: - Bà có biết ngày xưa nàng Dương Quý Phi đã bị ép thắt cổ chết trên cành cây Hạnh ở Mã Ngôi. Và hồn nàng đã nở nên những bông hoa Hạnh rớm máu. - Không. Tôi không biết. Đó là cây Hạnh ở xứ nào. Còn tôi, chỉ là cây Hạnh trong vườn hoang hẻo lánh này thôi... Tôi chia tay ba bà già Đào, Liễu, Hạnh, mà mùi lá
  • 7. 14 15 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ thì bị nhốt chặt trong lồng. Mắt nâu chim Ngói nhìn tôi oán trách, uất hận, dỗi hờn. Bác hàng xóm huấn luyện cho tôi cách bắt chim Ngói. Tôi nấp trong lúa, tay cầm dây dòng. Một đàn chim Ngói khác đang bay ngạo nghễ giữa trời xanh, lại xà xuống. - Giật đi - Bác hàng xóm hạ lệnh. Tay tôi run bắn, mắt hoa lên. Những con chim Ngói đang vui thích nhằn sữa cốm đầu mùa. Chúng nói gì với nhau ríu rít. Tôi nghe được lời chúng nói. Tiếng chúng gù bao giờ cũng làm lòng tôi xao xuyến. Đàn chim Ngói vẫn đang nhẩy giăng giăng trên lúa. Nhưng tôi không giật dây dòng, tôi lấy tay huơ lên báo động, cho đàn chim Ngói bay đi... 28/10/2014 CHIM NGÓI BAY ĐI Gió heo may nhuộm cánh đồng xanh ngả màu hoa hiên. Những bông lúa sữa thơm nức rủ từng đàn Chim Ngói bay về. Mẹ tôi tuốt lúa nếp non về giã cốm, cốm xanh như ngọc bọc trong lá sen cuối mùa. Bác hàng xóm rủ tôi đi bẫy chim Ngói. Lưới giăng trên lúa với con chim Mồi, cất lên tiếng gù buồn bã. Đàn chim Ngói trên trời không nghe kỹ điệu buồn của chim Mồi, nên xà xuống. Bác hàng xóm giật dây dòng. Lưới úp chụp lên đàn chim Ngói. Những con chim Ngói mới nhằn được một hạt lúa non, vị ngọt chưa kịp tan trong lưỡi, đã bị mắt lưới xiết ghì trên cánh, đau đớn giẫy giụa. Vòng cườm biếc trên cổ chim đứt tung, hạt cườm rơi lả tả. Một chiếc lông cánh rụng ra, gió cuốn bay đi, còn con chim Ngói
  • 8. 16 17 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Sao xanh biếc ở trên trời. Một hôm Vì Sao đậu xuống hiên nhà, hiện hình thành một chàng trai đẹp. Mẹ có mang tôi trong một đêm sao băng đầy trời, núi đồi tràn ngập ánh sáng. Cha tôi không thể ở lại ngôi nhà cột buộc bằng dây rừng,mái lợp cỏ, của mẹ tôi được. Người còn phải đi chiến đấu. Đoàn quân Sao đang hành quân trên bầu trời, đội ngũ chờ ông. Ông đi mãi, đi mãi vào mênh mông, không bao giờ trở lại. Tôi lớn lên nhìn lên trời sao, dõi theo bóng ông. Muôn ngàn vì sao hành quân, trong cuộc trường chinh muôn thuở. Tôi nghe thấy những khẩu lệnh mà Đoàn quân Sao nói với nhau. Thỉnh thoảng có những vì sao rơi, đó là những người lính bị hy sinh trong chiến trận.... 30-7-2014 CHA TÔI KHÔNG VỀ Nhà tôi ở một mình trên sườn đồi. Phía trước là con sông trong vắt, đằng sau là rừng già. Tôi lớn lên trong tiếng gió ngàn rền rĩ, và mùi cỏ dại héo thơm. Mẹ tôi có mái tóc dài như suối. Ngày ngày bà rải những nắm thóc vàng trước nhà gọi chim rừng đến nhặt và nghe nó nói chuyện Mẹ tôi đẹp lắm. Trong nắng ban mai, bà giơ tay cuộn những sợi tơ trời trắng muốt đang bay lửng lơ và đan thành áo mặc. Chợ phiên đường xa, Mẹ gánh những vầng mây biếc đi bán. Bao xanh, vạt áo của Người đựng đầy gió trời. Bà mua về những giọt mưa hoa đựng trên nón trắng. Cha tôi đi đâu mãi chả về. Mẹ kể Cha là một Vì
  • 9. 18 19 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Tháng năm nắng hè, hàng Phượng bật lửa đỏ lập lòe. Những cô nữ sinh áo trắng, tóc thề, xe đạp giỏ đựng đầy hoa Phượng, vẫy tay từ giã tuổi thơ. Những cây Bằng lăng rực màu hoa tím, màu thương nhớ của những mối tình đầu mơ hồ thoáng hiện rồi đi. Tình yêu đầu là trò chơi khờ dại cuối cùng của tuổi học trò. Tháng sáu phố nhỏ ngập tràn những gánh hàng rong hoa quả, mận Bắc Hà, Vải thiều Hải Dương, Lục Ngạn... Đào Sapa hồng như má con gái đến thì. Không gian phố nhỏ nức thơm ngạt ngào mùi quả chín. Tiếng ve đêm lanh lảnh, những con ve vàng kêu đến rạc người dưới ánh trăng xanh. Tôi đi lang thang trong đêm hè huyền thoại. Mùi hoa Nhài các vườn nhà phả ra trong sương. Bà tôi cứ dịp này là bày bán những giỏ hoa nhài ngoài cửa. Một hào một giỏ... Thời gian ngưng lại. Bà chỉ biết đơn vị giá cả từ hồi bà là cô gái mặc áo đồng lầm về đây làm dâu. Tháng sáu, những cô hàng hoa, lấy quang gánh đựng hoa Loa kèn xưa, chuyển sang gánh Sen Hồ Tây rực rỡ. Sen mới nở, đọng sương mai, ngát thơm như người thiếu nữ ngát thơm từ chiếc lông tơ... Mây trắng trên đầu phố nhỏ trôi dàn dạt, tựa trò chơi đuổi bắt của thời gian. Những cô hàng hoa quả gánh Na, Hồng từ xứ Lạng về. Na sườn núi mở mắt ngơ ngác nhìn phồn hoa phố hội. Hồng như những cục than đỏ, xếp trong thúng mẹt đợi gió heo may. PHỐ NHỎ Phố cổ, những lớp rêu mấy thế kỷ trên mái ngói lợp dĩ vãng. Nắng vàng hiện tại, tương lai nhuộm màu cho những bức tường quá khứ. Phố vắng, hè rộng, cổ thụ râm mát. Những ngôi nhà mặt tiền đắp nổi hoa văn bằng giấy bản trộn vôi, bên trong có vườn cây cảnh, có giếng khơi, mạch nước quý uống trà thơm mát. Nhịp thời gian bốn mùa đi qua phố nhỏ, đi qua trên vai tôi, thằng bé lang thang bắt ve bên gốc cổ thụ. Tháng ba, nắng mới reo lên. Nắng lặn vào thịt da các cô gái sáng hồng, các cô để chân tay trần dạo chơi hè phố nhỏ. Chị hàng hoa bán những bông loa kèn trắng muốt cho các cô, cánh hoa gợi tiếng kèn cuộc sống náo nức âm vang...
  • 10. 20 21 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ đẹp. Những gốc đào thế cổ thụ xù xì nẩy chồi hoa non tơ bao hàm triết lý cuộc đời. Những em gái sinh viên đến vườn đào, mua một cành, rồi đi bộ đến phố nhỏ đứng bán, lấy tiền lãi đóng học phí học kỳ... Giao thừa, những cành hoa ế vứt bên đường. Cành hoa cũng có số phận, có cành cao giá, có cành lỡ cuộc, hẩm hiu... Tháng hai mưa bụi phấn ướt nhòa phố nhỏ. Những cây Sưa đợi cho thác lũ phù hoa sặc sỡ đi qua, giờ mới nở bừng sắc màu trinh trắng của mình. Cả cây Sưa như cơn mưa tuyết. Cây Sưa tượng trưng cho sự trắng trong ở đời. Có đấy, quý lắm, nhưng ít và ngắn ngủi. Cây Sưa chỉ trổ hoa trong một, hai tuần... Phố nhỏ, nhịp thời gian, bốn mùa lá hoa đến rồi đi, chỉ có hàng Sấu già từ thế kỷ trước, cao ngất, cũ kỹ, bị lãng quên, là quanh năm che chở nắng mưa, gió bão phũ phàng cho phố nhỏ. Sấu tốt quanh năm, lá trên cao xào xạc, tháng ba hoa trắng li ti trải thảm hè đường. Người vô tình đi trên hoa, rồi còn vô tình hơn, gót giày giẫm nát những trái sấu chín rụng thơm nức. Những bước chân cứ đi, đi, vội vã, đi đâu chả biết, nhưng nếu có một lần giữa trưa hè cháy nắng, sững lại, tự hỏi: nếu không có hàng Sấu râm mát này thì phố nhỏ sẽ sống ra sao? 26-6-2014 Nắng thu tựa mạng nhện chăng trên má các cô gái. Các cô rủ nhau dung dăng dung dẻ đêm thu dạo chơi tìm hương Hoa Sữa... Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu/Mùi hoa sữa trong áo em và mái tóc... Các cô đọc câu thơ của một thằng con trai phố này đã viết. Tình đầu thường gắn với ly biệt. Như Hoa Cúc với Hoa Sen. Khi Cúc đến thì Sen phải đi. Quang gánh đọng mùi Sen, giờ chất đầy hoa Cúc. Phố Hoa Sen đã chuyển thành phố Hoa Cúc. Nắng thu vàng bao nhiêu thì Cúc vàng bấy nhiêu. Những cô hàng hoa tong tả gánh mùa Hoa Cúc trên vai. Khi có gánh Cúc Họa mi mỏng manh trắng nhạt xuất hiện giữa phố thì cũng là lúc mùa đông đã về đến đầu phố. Cây sếu trút lá vàng rào rào. Những chiếc lá tròn xoe như đồng tiền vàng, gót giày giẵm tiền vàng bật tóe dưới chân. Cây Sếu hết lá, chỉ còn cành trơ trụi trong gió lạnh, như người không còn áo mặc. Phải đến sang Giêng nó mới có áo mới, biếc non. Nắng tháng Chạp như mật ong. Thời gian ngân lại. Khi nó nhích đi được một chút thì suối lũ Hoa Đào ngày tết ùa về phố nhỏ. Hè đường, lòng đường, một dòng sông hoa. Tưởng như cái phố này, người ta không ăn bằng cơm gạo mà ăn bằng hoa. Đào phai Tây Bắc cành mốc meo trơ trụi mà hứa hẹn sắc hương núi rừng hoang dại cho các phòng khách đô hội. Đào Nhật Tân hoa đỏ rực, dày xít, như sự viên mãn tột cùng của cái
  • 11. 22 23 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ hè, thấy buồn buồn . Thấy mặt đất này cô đơn Bàn chân ai đã đi mòn lối gạch quê hương . Rồi một ngày , bàn chân ấy lạc bước đến những chân trời xa lạ .Đường ở xứ ấy mênh mang choáng ngợp , xe đi mắc cửi , bàn chân chả mấy khi chạm đất , mà chỉ có bốn bánh xe quay trôi tuột . Con đường rực rỡ mà vô cảm . Mình chỉ là hạt bụi trên đường , không ai thèm để ý Rồi một hôm Hạt Bụi bay đã mỏi , bàn chân trở lại quê hương . Con đường xưa quanh quanh , đón bàn chân thời thơ ấu . Bàn chân áp lên con đường , cảm nhận tình quê, ngày mẹ dắt lon ton dạo bước . Con đường thổn thức hơi ấm bàn chân người yêu thuở trước . Một ngọn cỏ xanh trên kẽ ngạch . Đoạn đường này là những viên gạch thách cưới của Cụ Nội mình . Cụ ngày ấy là cô gái đẹp nhất làng , thách cưới đến mấy xải đường Bàn chân như nghe thấy thời gian cuộn chẩy dưới gót.Như thấy Hồn quê ngàn đời, từ thuở những người áo gai nón mê đến đây lập làng ,làm nhà , mở mang ngõ lối. Con đường vẫn còn nguyên đấy , mà bao lớp người từng đi trên đó , giờ thành hư vô cát bụi Chỉ có hồn họ còn đây , nhập vào từng hạt đất , ngọn cỏ . ĐƯỜNG LÀNG Đường quanh co dưới bóng tre xanh … Những nhà có con gái đi lấy chồng thường thách cưới nhà trai lát cho làng một đoạn đường gạch . Trai đinh dẫy cỏ san nền , gạch Bát tràng xếp nghiêng dày xít bên nhau . Ngắn dài tùy sự sang trọng của đám cưới Những đoạn đường làng lưu giữ những mối tình .Dấu tích của tình yêu. Năm tháng đi qua , người ta già chết đi , nhưng chứng tích của mối tình vẫn còn . Các thế hệ sau đi trên kỷ niệm của những lứa đôi Những mối tình nối tiếp , và con đường làng lát gạch dài mãi như dòng tình yêu Con đường làng như có tâm hồn . Nó gợi tả một cái gì đó về cuộc đời . Gợi tả cụ thể gì , không biết .Chỉ biết nhìn nó vắng hoe , chạy lang thang trong nắng trưa
  • 12. 24 25 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ KHĂN QUÀNG TƠ SEN Mùa hè, anh chèo thuyền đi khắp vùng Sen chọn những cọng Sen xanh. Cây Sen bẻ đôi, tơ trắng vương lướt thướt. Anh bện những sợi tơ lại. Mỗi cọng Sen chỉ được một đoạn ngắn. Anh rút tơ Sen từ ngàn ngàn cây Sen, nối lại, được một cuộn tơ. Rồi anh đan dệt nó thành chiếc khăn quàng. Chiếc khăn trắng muốt, nhẹ tênh, như mạng nhện, thơm nức hồn quê. Anh ra Bưu điện Hàng không gửi chiếc khăn cho cô gái - người yêu của anh đang ở Matxcơva. Ngày trước, anh và cô, đêm chia tay ngồi bên đầm Sen, cô nói: - Anh đan cho em chiếc khăn choàng bằng tơ Sen gửi sang cho em nhé! Quàng nó, em có cả hương đồng Con đường là dòng lịch sử của quê hương .Đẹp lắm , phải giữ lấy , bảo tàng … Nhưng chả ai dại gì sống với các đồ vật bảo tàng . Ai cũng phải bước từ quá khứ ra hiện tại. Những con đường làng xưa không biết đến vòng tròn của chiếc bánh xe . Tất cả gánh nặng cuộc đời chất trên quang gánh đôi vai . Người thiếu nữ mảnh mai mà phải gánh Thế gian trên đôi vai nhỏ bé Cuộc đời oái oăm , thơ mộng có khi đi kèm với không thơ mộng… 128-2014
  • 13. 26 27 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ ĐÀN BƯỚM BAY Cơn gió thu đầu mùa xào xạc rừng Phong. Lá Phong vẫn xanh nhưng rồi gió thu sẽ nhuộm đỏ rực như lửa để chịu cái rét tái tê của tuyết mùa đông. Những con bướm Công Chúa màu da cam cảm nhận được gợn gió thu đầu. Chúng lưỡng lự, rập rờn. Mùa di cư về miền nắng ấm phương Nam đã đến. Sắp phải tạm biệt nơi này. Những đàn bướm Công Chúa cả triệu triệu con như một tấm voan hồng phủ kín rừng Phong. Khăn bắt đầu cởi khỏi vai nàng tiên nữ. Những đàn bướm bay lên nhuộm đỏ cả mây trời trên hành trình từ Bắc vào Nam. Trời thu biếc xanh. Những con bướm mỏng manh bé xíu mà dám đọ với tầm vóc bao la của vũ trụ. Chỉ một giọt mưa cũng đủ rửa trôi phấn bướm. Chỉ gió nội trên vai. Bên ấy, tuyết rơi lạnh lắm, khăn Sen làm ấm áp trái tim em. - Còn em, hãy xâu những hạt Tuyết Đầu Mùa thành chiếc vòng long lanh. Ngày về, đem về cho anh nhé. Chiếc vòng là biểu tượng của sự trinh trắng, nguyên vẹn tinh khôi. - Anh nói: Hai người cười khúc khích làm những bông hoa Sen thức giấc. Cô lên máy bay, bay về xứ Phong vàng Tuyết trắng. Người ta cho cô làm thợ dệt. Ngày ngày cuộn nắng trên mười đầu ngón tay, dệt nên những tấm lụa vàng. Cô bảo cô sẽ dệt một chiếc thảm lụa trải dài từ xứ Phong vàng Tuyết trắng đến xứ Hoa Sen cánh trắng nhị vàng, để bắc cầu cho anh sang... Ở quê nhà, anh đợi. Ba mùa Sen anh mới đan dệt được chiếc khăn. Cô đi trên đường phố, chiếc khăn quàng trắng muốt thơm nức hương Sen, làm cả Matxcơva phải ngắm. Nhưng cô không xâu được những hạt Tuyết Đầu Mùa của Matxcơva thành chiếc vòng để tặng anh. Và vì vậy cô không thể về. Bao giờ xâu được chiếc vòng ấy thì cô mới về... 25-8-2014
  • 14. 28 29 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ đã lập trình từ trong bào thai. Gió lạnh phương Bắc từ từ đuổi theo sát nút đàn bướm. Nắng ấm phương Nam vẫy gọi hẹn hò. Đàn bướm bay về nơi hò hẹn. Năm ngàn cây số di cư, là chu trình của năm vòng đời Bướm. Mỗi đời Bướm chỉ bay được một ngàn cây, vừa bay, vừa đẻ, vừa chết. Đến hậu duệ đời thứ năm, đàn bướm mới đậu chân được xuống miền đất ấm. Tại đây chúng bay lượn nhởn nhơ, nhưng mắt vẫn ngước về quê hương phương Bắc. Để rồi một ngày kia, khi lá Phong đỏ phương Bắc đã rụng, mầm xanh mới nhú lên, những đàn bướm lại rùng rùng cất cánh bay lên trời, trở về quê hương đã hết giá lạnh. Đàn bướm bay ngược với năm đời cụ kỵ chúng bay xuôi. Chúng phải về quê, và cũng lại phải năm đời sau mới tới quê nhà. Loài Bướm mang tên Công Chúa, cứ thế mỗi năm một mùa bay di cư suốt nửa chiều dọc trái đất, chỉ bằng đôi cánh mỏng manh. Chúng chả có giấy tờ hộ chiếu. Chúng chả sợ các biên cương. Không có biên giới chế độ nào kìm hãm được chúng. Chúng là Tự Do, trời của ta, đất của ta, cánh bay của ta, chúng là biểu tượng khát vọng truyền đời từ trong lòng Mẹ, khát vọng tự do đi tìm đất sống của mỗi kiếp người. 19/4/2013 một ngụm gió cũng đủ bẻ quặt gẫy tan cánh bướm như gió khơi bẻ gẫy cánh buồm. Những đàn bướm không sợ, mặc cho bão táp mưa sa có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đường di cư của bướm Công Chúa phương Bắc thường là năm ngàn cây số. Cánh sắt máy bay phản lực cũng phải e dè cự ly này. Vậy mà đàn bướm coi thường. Cái gì thôi thúc chúng bay. Sứ mệnh chúng là bay. Vượt qua chiều dọc lục địa, đàn bướm nghỉ chân từng chặng trong những cánh rừng Linh Sam. Rừng là lữ quán. Mỗi chiếc lá là một căn phòng. Lữ quán mênh mông, một triệu căn phòng đủ chỗ cho một triệu lữ khách ngủ qua đêm. Nhưng kìa, ở lữ quán thứ nhất, sáng ra, Reception kinh hoàng thấy chỉ có năm trăm ngàn khách “trả phòng”. Còn lại, một nửa lữ khách chết hết trong đêm, sau khi đẻ hàng tỷ trứng trên “giường trọ”. Vòng đời ngắn ngủi của bướm chỉ đủ bay chừng một chặng đường. Những con bướm trẻ trung còn sống, bay đi, nhưng cũng sẽ chết ở lữ quán thứ hai, sau khi sứ mệnh đẻ trứng hoàn thành. Những quả trứng xinh xinh trên nhành cây Linh Sam rất nhanh cựa quậy. Com bướm đẹp mê hồn chui ra như trong huyền thoại, rung rinh đôi cánh thiên thần. Những con bướm non mở mắt chào đời, và thật kỳ lạ, ngay ngày đầu tiên nó đã cất cánh bay vút lên trời, nhằm hướng phương Nam, nối tiếp lịch bay của mẹ nó
  • 15. 30 31 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Một con sư tử đực to lớn, bờm xòe như tai voi, suốt cả mùa khô đói khát, tuyệt vọng, từ trong nơi ẩn nấp, chạy vụt ra đồng cỏ hứng mưa. Nó đứng trên mỏm cao in hình trên màn nước trắng xóa. Vừa mới dặt dẹo suýt chết đói, vậy mà bây giờ con sư tử đã phóng tầm mắt xác định biên giới, lãnh địa độc quyền của mình, nơi nó làm chúa tể, không kẻ nào được mon men đến. Hình như có một con sư tử khác màu vàng đậm, đang đi tìm miền đất mới. Thân hình nó săn chắc, trẻ trung, dáng điệu tự tin, thong dong bước. Con sư tử già bờm xòe dữ tợn xông lại, chặn từ biên giới. Hai chúa sơn lâm, một già, một trẻ cùng gầm lên lao lại quấn vào nhau. Móng vuốt đọ móng vuốt, răng nanh đọ răng nanh, những cú vồ xé nẩy lửa, tiếng rống vang rền trên đồng cỏ. Con sư tử vàng đậm, trẻ trung áp đảo được con sư tử già gân cốt đã trùng. Chú bờm xòe, niềm khiếp hãi của cả thảo nguyên bao năm, giờ thua trận, đành để mất “giang sơn”, cúp đuôi lủi thủi ra đi... Cuộc đấu tranh sinh tồn trên đồng cỏ xích đạo không khoan nhượng. ...Mùa mưa, sông suối đã đầy tràn. Đàn Linh dương Đầu Bò di cư, cả ngàn con, vượt sông tìm những bãi cỏ non. Tốc độ của chúng khủng khiếp như một trận cuồng phong. Tưởng như tất cả sẽ bị nghiền nát dưới vó Linh dương. Không một vật nào dám mon men đến đường đi của chúng. Con Hươu sao cao cổ, cao nhất TRÊN ĐỒNG CỎ XÍCH ĐẠO Bầu trời xích đạo xanh trong chói chang đến rợn người. Đồng cỏ nằm thiêm thiếp chết cả mùa khô, cây cành xác xơ không đủ sức động đậy. Tất cả chỉ một màu nâu nhạt của sắc diệp lục đã phai tàn. Thỉnh thoảng một cơn cháy bùng bùng, muông thú chết đen thui. Chim đang bay giữa trời cánh bắt lửa, hót lên mấy tiếng đau đớn tuyệt vọng, và rơi xuống như hòn đất ném. Trong những vũng nước cạn sền sệt bùn, những con cá cuối cùng quẫy lộn, bùn thấm qua mang, chờ chết. Từ phía Đông, những cơn mây giông như sứ giả báo tin sự sống đến. Một tiếng sấm vang mở cửa bầu trời, những ánh chớp nhằng nhịt như bản hòa tấu giao hưởng ánh sáng, những giọt mưa như bạc, vàng thể lỏng rào rào rơi xuống trần gian.
  • 16. 32 33 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ xương bay tít lên cao, rồi thả xuống tảng đá cho khúc xương dập vỡ ứa tủy và kề mỏ nhọn hút lấy... Cuộc mưu sinh trên đồng cỏ với những con Chim Ưng - loài chim đầy uy dũng, dọc ngang bầu trời, hóa ra có lúc cũng chẳng dễ dàng gì... 19/4/2013 trong muôn loài, lênh khênh như thang bắc lên giời, đứng từ xa, nhìn toàn cảnh đàn Linh dương Đầu Bò di cư, và nó cho là một cảnh đẹp. Linh dương ăn cỏ thấp, Hươu cao cổ vặt lá trên ngọn cây, không tranh giành gì của nhau, nên chẳng bao giờ hiềm khích. Đàn Linh dương Đầu Bò đổ bộ cơn bão qua sông, làm nước bắn tung tóe. Con nọ chen con kia, không ai được lùi một bước. Con Cá Sấu già to lớn xù xì khủng khiếp đã phải dán mình trong bùn chịu đói suốt mùa khô, giờ nổi lên chờ đợi. Nó ngắm một con Linh dương non tơ, yếu ớt, rồi lao tới, mõm nhọn hoắt đầy răng tua tủa, ngoạm cổ con mồi. Linh dương the thé kêu. Cá Sấu mồm không đủ rộng để nuốt chửng con mồi, phải kéo ra xa, xé từng phần để ăn. Trên bờ bên kia sông, có một con Sư tử đói cũng đang chờ Linh dương. Khác với Hươu cao cổ, nó chỉ thấy hình ảnh đàn Linh dương qua sông là đẹp, nếu nó vồ được một con mồi. Tha con Linh dương về, ăn uống phí phạm, không biết cất đi để dành ngày mai, con sư tử lười nhác tìm bóng dâm lim dim ngủ. Giờ đến lượt đàn Linh cẩu đông con đến thụ hưởng. Chúng nhâu nhâu xâu xé, mỗi con được một miếng. Những con Chim Ưng từ trên trời cao, đến chậm, móng vuốt nguềnh ngoàng nhọn hoắt, tranh nhau với Linh cẩu. Thịt hết rồi, chỉ còn những khúc xương. Những con Chim Ưng tha những khúc
  • 17. 34 35 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ trên đường đời, nên bà thấy cuộc đời thật đáng chán, về già quyết định xa lánh tất cả, một mình về đây, sống với chim muông cỏ cây hoa lá... Mỗi sáng bà lão Dan thường chơi với chim chóc ngoài thềm một lúc rồi ra sân. Ở đấy có một cây Anh Đào đã già, gốc to lớn xù xì, lá còi cọc úa vàng, nhiều năm nay chẳng bao giờ ra hoa được nữa. Nó cũng giống như bà... Tháng ba năm ấy nắng trong vắt chan chứa khác thường, bà lão Dan đang ngồi dưới gốc Anh Đào, có một cánh hoa rơi xuống vạt áo, hồng tươi, thơm nức, mong manh. Bà kinh ngạc nhìn lên thì thấy những cành già xù xì rêu mốc mọi hôm, giờ thành tươi xanh lấm tấm trổ hoa. Thời gian đã quay ngược và cây Anh Đào đã non tơ trở lại ư? Bà lão đi quanh gốc cây, giật mình hơn khi thấy bóng hình mình dưới vũng nước, những sợi tơ đan da mặt biến đi đâu mất cả. Hiện hình dưới kia là một gương mặt mịn màng với làn tóc đen, và đôi mắt không còn mờ đục... Đúng là thời gian đã bắt đầu quay ngược từ bao giờ mà bà không biết. Bà lão vứt cái gậy, vì không cần dùng đến nữa... Cho đến một ngày kia, thời gian quay ngược đã đủ vòng của nó, bà lão ra suối tắm, cởi bỏ bộ áo quần nhàu nhĩ, hiện lên một thân hình như tượng đá trắng, cánh tay đôi vú bờ vai cặp đùi nuột nà vằng vặc trăng rằm... Cô gái Dan bơi ngược chiều suối chẩy. Sóng ào ào HOAANH ĐÀO LẠI NỞ Bà lão Dan sống một mình trong rừng với túp lều bằng cành lá rễ cây đan xen tầng tầng lớp lớp như cái tổ chim. Mái và tường mùa thu xây bằng lá vàng, mùa xuân xây bằng hoa hồng gai và cánh bướm ken dầy. Những con chim rừng về đây, đậu đầy bậc thềm, và bay nhởn nhơ, tiếng hót đan quện. Bà lão đã quá già, da nhăn nheo như tấm lưới. Thỉnh thoảng bà vẫn xuống thị trấn gần đấy mua bán vài thứ, nhưng chủ yếu là sống ở đây. Hoa quả rừng chả thiếu gì. Củ rừng dưới đất, chỉ việc đào lên. Mật ong chẩy ròng ròng trên cây, cá dưới suối bơi lội... Bà sống mùa nào thức nấy, cùng với một con chó rừng tự nguyện về đây canh giữ lũ cáo cầy sục sạo. Xưa kia, bà lão là một cô gái xinh đẹp dưới thị trấn. Những người đàn ông đã lừa dối bà, xô đẩy bà
  • 18. 36 37 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ CHIM NHẠN BIỂN Tạp văn Nguyễn Phan Hách Con nhạn biển mổ vỏ trứng mỏng manh chui ra, cánh ướt rượt, chân lẩy bẩy, chúi vào bụi cỏ. Gió biển thổi ào ào xô nó ngã nghiêng. Không có búi cỏ nó ngã thật. Cỏ mong manh nhưng rằng rịt như cái võng cái nôi làm chỗ tựa. Nhạn biển há mỏ nhận con tép đầu tiên trong đời mà mẹ mớm cho. Tép mang vị mặn, mang sức biển truyền cho nó, con nhạn lớn nhanh như thổi. Một ngày kia nó đã một mình đứng bên bờ biển ào ạt sóng gió nhìn trời xa xăm. Trời biển mênh mông không bờ, đôi cánh nó rậm rật đầy sức sống. Và đôi cánh lần đầu tiên trong đời xòe ra, đón ngọn gió đầu tiên, lao vút lên trắng xóa, nhưng không cuốn trôi được sức trẻ. Cô vẫn lao lên, tay bíu vào các ngọn nước, vượt được cả thác. Thác lũ thời gian chả cuốn được cô... Cây Anh Đào trước cửa lều bà lão Dan bây giờ đã nở bung một rừng hoa, che rợp khoảng trời... Đại Yên 10/6/2013
  • 19. 38 39 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ cũng là bến cảng. Giống như các chàng thủy thủ, nó thích lang thang lên các bến cảng để dạo chơi. Một mình giữa đất trời xa lạ và chẳng đậu chân lâu nơi nào. Nó thích xê dịch. Từ châu Úc vượt qua xích đạo lên châu Á. Trandít qua châu Á nó đến châu Âu. Ham chơi, tạt qua châu Mỹ. Con nhạn biển cứ nhởn nhơ như thế, nhưng thỉnh thoảng lại nhớ quê hương, nhớ những nơi nó đã đi qua, và thường bay về thăm lại. Đời nhạn biển sống được 20 năm. Người ta nhẩm tính tổng số quãng đường nó bay suốt cuộc đời dài bằng đường từ trái đất lên mặt trăng và chặng khứ hồi… Cả thế giới chỉ là ngôi nhà có vườn, có ao của nó. 5-7-2013 không trung. Con nhạn biển đi đâu, không biết. Chỉ biết là đôi cánh đủ lông như cấu tạo bằng gió, tự nhiên bay lửng lơ lên trời. Con người giữa trời biển mênh mông thì cô đơn, sợ chết khiếp. Nhưng với nó thì trời biển giống như ngôi nhà của con người. Bầu trời là mái nhà, biển là nền nhà, bốn phương là tường nhà. Con nhạn biển đang ở Thái Bình Dương, nó quyết định bay sang Đại Tây Dương một cái xem sao. Quyết định dễ như con người đang bơi ở ao sau nhà chuyển ra bơi ao trước nhà. Nó chỉ vỗ một cái mà gió đưa đi xa từ đầu vầng mây đến cuối vầng mây. Tạo hóa cho đôi cánh kỳ diệu, chỉ loài nhạn biển mới có. Nó giống như là gió. Gió thì làm gì biết mỏi. Ở đâu mà gió chả đến được. Con nhạn biển mang hồn của gió, là biểu tượng hiện hình của gió. Chặng nghỉ chân là những cú lượn xà xuống mặt nước mổ vài con tép, cụp cánh lại, nổi phềnh trên sóng để sóng đu đưa ru bài hát mênh mang êm đềm của biển. Thư giãn một chút nó lại bay lên. Năng lượng biển vừa nạp. Và sứ mệnh nó là bay. Đêm khuya, trời biển tối om, một mình nó mải miết bay, cánh vỗ rào rạt. Ban ngày nó bay cùng tia nắng. Tia nắng nghỉ bay vào lúc hoàng hôn. Còn nó không nghỉ. Đêm nay nó ở ao nhà Thái Bình Dương, và đêm nào sang ao Đại Tây Dương. Con nhạn biển mom men quanh các bờ lục địa. Từ Nam bán cầu lên Bắc bán cầu, bất cứ bờ bãi nào
  • 20. 40 41 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ vì sao với con thuyền mỏng manh, như vỏ hạt dẻ kia mà người ta dám bơi ra biển. Sóng bờ cũng to lắm chứ. Thế là tôi phải thuê cho bà Mêri một con thuyền thúng. Chủ thuyền là bà Dặm, ngoài 50 tuổi, nhưng đàn bà miền biển săn chắc mạnh mẽ, lái thuyền đi băng băng, đầy tự tin. Bà Mêri mặc áo phao, hào hứng bước lên thuyền. Chai Uýtki nhỏ và ly cầm tay. Vừa trải nghiệm thuyền thúng lướt trên các ngọn sóng, vừa nhấp ly rượu cũng thú vị chứ. Tôi thuê tiếp chiếc thuyền thứ hai với các dụng cụ cứu nạn đầy đủ, áp sát để bảo hiểm và quay phim bà. Bà Mêri ngông nghênh “tạo dáng” bước lên thuyền. Sáng nay sóng khá to. Những lớp “đăng ten” trắng dào dạt lớp lớp cuộn vào bờ. Bà Dặm khéo léo đưa thuyền nhẩy tưng tưng như ném thia lia trên các ngọn sóng. Tôi thật lạ là làm sao đôi bàn tay người đàn bà kia lại có thể làm được như thế. Trông đáng sợ lắm. Từng lớp sóng cuộn lên cao, rồi lại ném xuống, trập trùng, mênh mông, mà con thuyền thì đúng chỉ bé bằng vỏ hạt dẻ, tưởng như sóng đập nó vỡ ra đến nơi. Mà chả cần song, chỉ cần một đám bọt nước xối mạnh, cũng làm vụn ra. Nó bằng nan tre đan trít sơn thôi mà. Thế mà với hai mái chèo, bà Dặm điều khiển được nó đi trên các ngọn sóng, làm như nó chả có “liên quan” gì đến sóng cả. BƠI THUYỀN THÚNG Tôi nhận trách nhiệm của Công ty Du lịch đưa bà Mêri đi chơi biển. Đây là một khách quen, và tôi biết rất rõ về bà, một người sống độc thân, uống rượu mạnh, và thích “ăn chơi”. Trắng trẻo, quý phái, lịch sự, lãng mạn, bà đi đâu, ai cũng có cảm tình. Tôi đưa bà về bãi biển Mê Khê. Bãi nhỏ, mới khai thác, nước xanh biếc, cát sạch tinh, và người thưa vắng, tránh được cảnh ồn ào náo nhiệt của các bãi tắm quá tải. Bà Mêri thích lắm. Thuê một phòng nhỏ trong khách sạn sát mí biển, mở cửa sổ có thể thấy sóng lớp lớp xô bờ. Bãi Mê Khê có một “dịch vụ nghiệp dư” tự phát của ngư dân ở đây: cho khách bơi thuyền thúng. Chiếc thuyền thúng bé tẹo, đan bằng tre trát sơn đen, tròn lung lủng, dân vẫn dùng đi câu tôm đêm ven bờ. Không hiểu
  • 21. 42 43 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ lúc lướt thuyền, bà ấy như con chim, còn tôi là “con sứa” sắp tan ra thành nước. Bà bắt tôi đưa đến “thăm viếng xã giao” bà Dặm. Nhà bà Dặm gần mí biển, tanh nồng mùi cá, gió thổi lồng lộng, vèo bay những bông hoa Muồng tím nhạt trước hè. Bà Dặm tiếp nhiệt tình. Chồng bà, một ngư dân chất phát, hiền hậu, đi hấp “tôm hùm” mời chúng tôi ăn. Những con tôm bà Dặm mới bơi thuyền thúng câu được đêm qua, tươi rói, ngọt thơm. Mêri nói ở Pháp chỉ tết Nôen, bà mới dám mua loại tôm này về ăn. Hai đứa con bà Dặm, một trai một gái, học đại học ngành thủy sản, giờ đang làm cán bộ trên tỉnh liên quan đến nghề đánh cá nhưng lương lậu cũng chỉ đủ ăn. Vợ chồng bà vẫn phải “bám biển” để sống, và trợ cấp thêm thắt cho con. Chồng bà là dân đi đánh bắt xa bờ, mỗi đợt cả tháng mới về, vật lộn với Thái Bình Dương, có lần bão đánh vỡ tan thuyền, bám mảnh ván bơi trên biển mấy ngày mới được cứu hộ. Còn bà, với chiếc thuyền thúng mỏng manh, câu tôm đêm, năm này qua năm khác, từ lúc 16 tuổi đến giờ đã được 38 năm. Chiếc thuyền này mục hỏng, bà thay chiếc thuyền khác. Đã cả trăm chiếc thuyền thúng qua tay bà. Bà Dặm ngồi mắt đăm đăm nhìn ra biển, và cười cười “miêu tả” lại cảnh câu tôm đêm như thế nào theo yêu cầu của khách du lịch. Tôi ngồi thuyền sau quay phim. Bóng bà Dặm hằn lên nền trời, nền biển bao la. Đôi vai áo nâu tròn trặn, và đôi tay dẻo như có cánh. Bà Mêri chưa kịp nhấp ly rượu nào, chưa kịp trải nghiệm khoảnh khắc “du lịch mạo hiểm” nào, đã bò rạp xuống thuyền, một đống váy áo da thịt trắng ngần cuộn tròn lại. Chỉ phút chốc mặt bà tái nhợt, vàng ệch, và mồm nôn ồng ộc. Tôi tuyệt đối chưa ghi được một khuôn hình “trài nghiệm du lịch mạo hiểm” nào của bà, lòng rất băn khoăn. Thuyền vẫn lướt đi, mà lướt theo hướng ra xa. Hợp đồng chương trình là như thế. 30 phút trải nghiệm, giá 1 triệu đồng. Ra xa rồi mới quay về. Bà Mêri đến lúc cuộn tròn trong lòng thuyền cũng không yên nữa, phải vứt cả rượu cả ly, ôm chặt lấy hai chân bà Dặm. Vì sóng thì vẫn cứ trập trùng, mênh mang như lúc trời đất còn hỗn mang. - Quay về, quay về - Bà Mêri hét gọi tôi. Đoạn về cũng không phải đùa. Thuyền phải “ném thia lia” thế nào cho đúng luồng, mới cập được bờ. Khi thuyền chạm cát, bà Mêri như rải khoai, tôi và bà Dặm phải xốc nách hai bên về lều. Mệt vì say sóng, vì sợ, hôm sau bà Mêri mới “đàm đạo” cùng tôi: - Bà Dặm có trọng lượng bằng nửa người tôi, mà sao lại “tài giỏi” thế. Cùng là “đàn bà” cấu tạo như nhau, mà sao khác nhau một trời một vực. Tôi có cảm giác,
  • 22. 44 45 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Cả đời bà phải giữ cân bằng cho thuyền không bị sóng lật úp. Thái Bình Dương thì đêm nào cũng chỉ nhăm nhăm lật úp thuyền bà như cuộc đời chỉ nhăm nhăm xô đẩy dập vùi số phận con người. Bà phải thắng được nó, thì mới sống. Thái Bình Dương rộng mênh mông, mà đêm đêm chả có ai cạnh bà. Mình bà. Một mình bà. May mắn, thì trên trời có những ngôi sao. Ừ, phải rồi, nói bà cô đơn trong đêm thì cũng “hơi oan”, vì trên trời còn có những ngôi sao. Và mỗi tháng một kỳ, có trăng. Bà làm bạn đêm với trăng và sao Thái Bình Dương. Sao nhấp nháy, hàng tỷ ngôi sao đang dõi theo, quan sát bà từng động tác câu tôm. Vậy là bà cũng không đến nỗi “lẻ bóng” một mình lắm! Còn trăng thì có lúc tròn vành vạnh, làm bạn “gần gũi” hơn. Chỉ đến kỳ cuối tháng, trăng “đi gặp người yêu” ở đâu, mất tăm, không gặp. Bà thấy hờn hờn, rỗi rỗi, ghen ghen... Phút gặp lại nhau có gì vui lạ. Sau suốt một đêm thức trắng, thường thì mặt trời từ chân biển tít xa nhô lên, đầu tiên là một vành nhỏ như lưỡi liềm vàng, rồi bay vút cao tròn xoe rực rỡ. Mặt trời đã thức, biển đã thức, ánh chói lòa, bà tắt chiếc đèn chai (bóng làm bằng chai cưa đáy, thủy tinh dày cộp để chắn gió đêm). Những con tôm trong thúng nhảy lách tách, bà bơi thuyền về bờ cát, bắt đầu “hòa nhập” với “cuộc sống”, sau một đêm tách ra khỏi “thế giới”. Bây giờ thì bà “bận rộn” lắm, đi bán tôm, đòi giá đắt rẻ, chả để ý gì ... Mỗi buổi tối, tôi kéo thuyền từ bờ cát ra biển - Bà nói: - Thuyền khá nặng, phải cố sức đẩy. Nó cứ trịt trên cát, không chịu đi cho. Chớm đến nước nó mới chịu nổi phềnh. Tôi bơi ra xa, càng xa càng nhiều tôm hơn, xa đến mức không nhìn thấy bờ cát nữa. Ở đấy tất cả mênh mông, đen ngòm, sóng buôn dập dềnh, tôi bắt đầu thả câu buông lưới... Theo lời kể của bà, tôi tưởng tượng hình ảnh con thuyền thúng của bà lúc ấy cô đơn như thế nào giữa trời nước bao la về đêm. Mà nào phải là thuyền gỗ, thuyền đinh chắc chắn, nó chỉ là những nan tre đan to hơn cái thúng, có lẽ chu vi hơn một mét là cùng. Nó so với biển thì thật đúng là buồn cười, mong manh như vỏ trứng. Vậy mà cô gái Dặm, một mình ngồi đấy, đêm này qua đêm khác, thức với đại dương, từ lúc 16 tuổi đến giờ, ngoài 50 tuổi. Biển thành “giường ngủ đêm” của bà. Bởi câu đêm là câu từ tối đến sáng, càng về sáng càng được nhiều tôm. “Giường ngủ đêm”, nhưng nào có được ngủ. Chỉ biển ngủ thôi, còn bà phải thức. Biển ngủ, nhưng biển “ngáy” hơn sấm. Tiếng biển đêm ầm ào, sóng quện với bóng tối. Bà ngồi chồm hổm trên Thái Bình Dương một mình. Có lúc Thái Bình Dương để cho bà ngồi yên, nhưng có lúc nó giở mình vì mỏi, lật úp thuyền bà. Và bà phải nhẩy xuống sóng, lựa chiều lật nó ngửa lên, tát nước ra. Chỉ đôi tay “mềm yếu” của con gái, mà làm được việc ấy.
  • 23. 46 47 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ nghề này. Cái quan trọng nhất là bà không lấy chồng. Đấy là một ưu thế tuyệt đối, một vũ khí lợi hại, giúp bà tồn tại, thành công, thanh nhàn giữa đất Pari, giờ về già, có tiền đi du lịch thoải mái. Chẳng thằng đàn ông nào thích “lằng nhằng” với gái có chồng. Chơi với “gái không chồng” an toàn, thú vị, chẳng sợ rắc rối gì. Bà Mêri già vẫn đẹp, vẻ đẹp sung mãn, từ bé đến giờ không biết bao nhiêu người yêu bà, và tất nhiên là bà “ai cũng yêu và chẳng yêu ai”. Bà sống như con chim tự do, lúc đậu cành này, lúc đậu cành khác. Rét thì bà bay “di cư” xuống phương Nam ấm. Nóng thì bà lại bay về. Kiểm điểm lại, thực ra, cũng tại bọn đàn ông. Không có “thằng nào” yêu bà chí thiết, đưa bà về ở trong biệt thự sang trọng, chuyển vào tài khoản của bà những “số dư” lớn. Chúng chỉ “say đắm” da thịt của bà, còn tiền thì chi tiêu dè sẻn. Bà phải tự tạo nên cơ chế điều chỉnh, lấy cái lợi thế “không chồng” của mình để “quan hệ” và “tích lũy”. Cuối cùng thì bà cũng thành công. Dù hát hỏng chẳng ra gì, nhưng nghe cũng không đến nỗi nào. Khi bà bước lên sân khấu phòng trà, khối thằng chả mê như điếu đổ bờ vai cánh tay hố nách trắng muốt cuả bà. Bà “đếch cần” một mái ấm gia đình, “đếch cần” những đứa con. Và bà sống như “bà hoàng”, ăn chơi, uống rượu mạnh, và bây giờ muốn gì được nấy, kể cả thử một chuyến “du lịch mạo hiểm” bằng thuyền thúng câu tôm của “thổ dân” xem thế nào... đến mặt trời đang lòi lọi trên đầu. Chỉ đến hoàng hôn, sắp tối, mặt trời sắp lặn, bà kéo thuyền ra biển, mới thấy “nhơ nhớ” mặt trời,... Bà Mêri thích thú trước những lời miêu tả cảnh câu đêm “ấn tượng” của bà Dặm. Bà tặng chủ nhà một vòng ngọc trai bằng nhựa có móc khóa kim loại sáng loáng. Những hạt trai giả đẹp hơn cả hạt trai thật. Thứ này phụ nữ đeo thì tuyệt. Bà Dặm ướm thử lên cổ mình. Vòng ngọc trai làm sáng bừng chiếc cổ nhuộm gió và muối biển đen sạm. - Tôi cũng có những viên ngọc trai. Nhưng làm thế nào mà đục lỗ xâu dây lại thành vòng được như thế này - Bà Dặm nói: - Khi đi câu tôm thỉnh thoảng gặp khu biển thích hợp, tôi cũng câu được cả những con trai to bằng cái bát. Thịt trai nấu thơm ngon lắm. Và trong lòng nó có những hạt trai óng ánh. Tôi tích lại được một vốc, để dành... Bà Dặm đem ra chiếc túi vải rách, đựng những hạt trai thật, to nhỏ khác nhau, chưa được đánh bóng, nên trông rất xấu. Chả làm sao đẹp được bằng chuỗi hạt trai nhựa tinh xảo chế tạo ở Pari của bà Mêri. Đầy phấn khích vì được “trải nghiệm” chuyến du lịch đặc biệt, để “hòa đồng” với “thổ dân”, bà Mêri xin hát tặng chủ nhà một bài dân ca Pháp. Hát là nghề của bà. Nghề sống hẳn hoi. Bà vốn là ca sĩ, vũ nữ trong các quán trà loại ba ở Pari. Giọng hát loàng xoàng, nhưng xinh đẹp, múa đẹp, “chịu chơi”, nên sống được bằng
  • 24. 48 49 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Hò ơi... Dô tá dô tà... Thuyền từ biển lớn, sóng xa thuyền về... Giọng bà Dặm âm âm, ngân lên, xao động. Rõ ràng là người “có giọng”. Có cái gì vời vợi mênh mang của biển trong câu hò của bà. Những lớp sóng xa xa rồi xô đến bồn chồn. Giọng hát từ sâu thẳm của tâm hồn biển ngân vang, chứ không đơn thuần là phát ra từ đầu môi chót lưỡi. Bài hò khá dài... “Ca sĩ phòng trà chuyên nghiệp của trung tâm ăn chơi bậc nhất thế giới Pari” Mêri cũng phải im phắc lắng nghe, xúc động... Trở về khách sạn, bà Mêri cho tôi xem tập anbum của bà. Những tấm “ảnh lụa” đen trắng có từ hồi thợ ảnh khi chụp còn phải phủ tấm khăn lên đầu che kín rồi nheo một mắt qua khe ngắm... ... Cô bé Mêri 16 tuổi từ thị trấn, bỏ nhà, trốn bố mẹ lên Pari, hai cái nơ như đôi bướm ngây thơ trinh trắng đậu trên đầu. Tay xách gói đồ, cô bỡ ngỡ trước bến xe điện đầy những quý ông đội mũ phớt “quả dưa”, tay cầm “ba toong” qua lại. 16 tuổi. Ừ, hình như Mêri cùng tuổi với Dặm. Đêm Mêri đặt bước chân đầu tiên lên sâu khấu phòng trà loại ba ở Pari, cũng là đêm Dặm một mình bơi con thuyền thúng như vỏ hạt rẻ ra Thái Bình Dương. Đêm Mêri hát bài hát đồng quê đầu tiên ở đấy, cũng là đêm Dặm ngồi một mình sợ chết khiếp vì sự mênh mông của Thái Bình Dương, nên cô cũng hát lên. Công bằng mà nói, bà là người tốt. Bà chẳng làm gì hại ai. Chẳng lừa đảo ai. Bà cũng chẳng làm một người đàn ông nào phải đau khổ mà chết vì bà. Bà cũng chưa làm ai phải “mất chức”, mất công danh vì “phạm pháp yêu vợ người khác”. Bà có chồng đâu. Suốt đời bà là người tự do. Người tự do thì yêu đương thả sức... Sau màn hát của Mêri, tôi đề nghị bà Dặm cũng hát. Hát và hò kéo lưới. Dân biển nơi nào cũng biết kiểu này. Khi kéo thuyền to, dọc mí biển, người ta phải chụm sức lại, tròng dây thừng vào vai, và xướng lên những điệu “hò dô” làm nhịp. Những hài “hò dô” phát triển thành những giai điệu hào hứng phấn chấn giúp người ta vượt qua những cơn nhọc nhằn quá sức. Hò kéo thuyền trên biển, mênh mông vời vợi, là tiếng tâm hồn của những con người xứ biển. Dân xóm mách bà Dặm là người có giọng hay nhất ở đây. Mỗi khi gọi nhau đi hợp sức kéo thuyền, ai cũng thích gọi bà đứng ra “cầm càng” xướng lên để cho tất cả hò theo. Bà hò từ lúc 16 tuổi, nên bây giờ, chả ngần ngại gì mà không hò, rồi cả hát dân ca biển cho bà khách vui tính và hào phóng vừa tặng bà chuỗi hạt trai nhựa tân kỳ ở đây chưa ai có... Bà Dặm bước ra chiếc chiếu giữa nhà, hai tay đưa lên vai, kéo một chiếc dây thừng tưởng tượng. Tấm thân mềm mại dẻo dai của bà xô nghiêng, chân choãi ra, như hình tượng trong tranh cổ điển”. Những người kéo thuyền trên sông Vonga”.
  • 25. 50 51 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ VƯỜN HỒNG TÀN LỤI Nắng sớm chan chứa rọi trên vườn Hồng Nhung. Ông Hen ri dạo quanh. Không tìm được bông nào đẹp. Giống Hồng Nhung thuần chủng này hoa thường to bằng vốc tay, đỏ chói. Ông Hen ri đã chăm bón hết cách nhưng sao vườn Hồng ngày một thoái hóa, xác xơ. Không thấy mùi thơm ngào ngạt bốc lên trong nắng sương ban mai... Ông Hen ri già lão, run rẩy bước lò dò bên những luống Hồng còi cọc. Ngắt một bông, vò nhàu, nhựa màu đỏ như máu dính vào tay. Đứng dựa hàng rào, ông Hen ri ngắm gia trang của mình. Đồi xanh biếc, thông già phủ bóng. Tòa biệt thự mái đá đen có gắn hình Chim Ưng cổ trắng - biểu trưng của gia tộc Hen ri. Trên bậc thềm chan chứa nắng kia, như còn bóng Sau này Mêri có mấy “bài tủ”, trong đó có một bài nói về “Sao trời và biển đêm” được thính giả phòng trà đòi hát đi hát lại nhiều lần, vì nó gợi tả nỗi buồn cô đơn, nhỏ bé của kiếp người... Thì chính lúc ấy Dặm đang là “nhân vật chính” của ca khúc kia. Đêm nào Mêri cũng hát bài ấy và đêm nào Dặm cũng ra Thái Bình Dương câu đêm. Số đêm “lao động” của họ bằng nhau. Đời Mêri trôi qua trong các vũ trường phòng trà thì đời của Dặm trôi qua trong đêm và sóng Thái Bình Dương. Rồi họ cùng dần về già. Giọng hát của Mêri có lẽ cũng không hơn gì giọng hát của Dặm. Nếu Dặm bước lên sâu khấu phòng trà có lẽ người ta cũng chào đón nồng nhiệt như với Mêri. Nhưng đời Dặm chỉ có những con sóng đêm Thái Bình Dương chào đón. Và Dặm hát cũng chỉ cho những con sóng đêm Thái Bình Dương nghe. - Tôi đã tìm thấy “hình ảnh biểu tượng” của cuộc đời mình - Bà Mêri cầm tay tôi thầm thì triết lý khi tôi xem xong tập anbum - Tôi sẽ thuê họa sĩ vẽ hình ảnh một người đàn bà với con thuyền thúng trong đêm giữa biển cả và trời sao. Đó chính là đời tôi đấy. Sự cô đơn và thân phận của tôi, của kiếp người... 28/3/2014
  • 26. 52 53 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ đội phi công đi rải thuốc khai quang, diệt cỏ, diệt cây lá, trên khắp miền Nam, để Việt cộng không có chỗ ẩn nấp. Việt cộng sống dựa vào rừng. Những sư đoàn bộ binh, xe tăng, đại bác, kho tàng quân nhu... gì gì đều ẩn dưới bóng rừng hết. Máy bay Mỹ trên trời có mắt như mù. Phải làm thế nào xé toang tấm áo Rừng kia, lôi Việt cộng ra ngoài trần trụi. Lúc nhận trọng trách, ông Uyn xơn không hề biết tác dụng gây quái thai qua nhiều thế hệ F1, F2, F3... của chất khai quang Điôxin màu da cam. Các công ty Hóa chất, sản xuất theo đơn đặt hàng của các “Tác giả Cuộc chiến” cũng mù mờ. Có thể biết, có thể không. Chỉ biết Cuộc chiến đang yêu cầu, và lợi nhuận là trên hết. Những chiếc máy bay dưới quyền của ông Uyn xơn cất cánh, phun sương Đi-ô-xin trải dài như một tấm lụa đẹp mắt. Hạt Đi-ô-xin rơi xuống, chiếc lá xanh giật thót, quằn lại, diệp lục biến hóa, rụng ngay khi chưa úa vàng. Đi-ô-xin rơi xuống rừng, núi, dải đồi, cánh đồng, làng mạc, sông suối, ngấm vào lòng đất, mạch ngầm, chảy ra các giếng nước. Lần ấy đơn vị của Hen ri tác chiến trong vùng bị rải Đi-ô-xin. Cây lá trơ trụi. Việt cộng mất chỗ nấp. Đơn vị của Hen ri không bị phục kích, đã hoàn thành chiến dịch. Hen ri được thưởng Huân chương... Hết hạn phục vụ quân đội, hai cha con Uyn xơn - Hen ri xuất ngũ, trở về Mỹ sống cuộc đời bình thường. hình ông Uyn xơn - cha của Hen ri, oai phong lẫm biệt, cành tùng kim tuyến trên ve áo, đang nheo mắt kẻ cả nhìn cuộc đời... Bà Julia trong nhà bước ra. Bà cũng già nua tàn tạ như chồng. Vết nhăn đan lưới võng trên gương mặt. Ánh mắt vô hồn. Lưng lòng khòng, tay chống gậy. Trên trời có tiếng quạ kêu đỗ xuống ngọn thông. Bà Julia giơ gậy xùy xùy đuổi. Âm thanh tiếng quạ gàn quải. Thằng con trai tật nguyền lò dò đi theo mẹ. Thằng bé, bốn mươi tuổi, vẫn là thằng bé, người phủ lông đen xì, đầu to bằng nắm tay, mồm rớt rãi chảy ròng ròng. Ông Hen ri dắt thằng bé, âu yếm, vào dạo vườn Hồng. Ngắt cho nó những bông hoa nho nhỏ... * * * Mấy mươi năm trước, Hen ri là chàng lính Thủy quân Lục chiến ở miền Nam Việt Nam. Còn ông Uyn xơn thì là sĩ quan Bộ chỉ huy cuộc chiến. Hai cha con đồng ngũ, phục vụ trong quân đội viễn chinh. Ông Uyn Xơn được giao một nhiệm vụ đặc biệt. Miền nhiệt đới, cây lá quá rậm rạp, đối phương ẩn nấp trong bóng lá rất an toàn. Phải vặt trụi những chiếc lá nhiệt đới kia đi, đối phương lộ ra trống trải, mới dễ tiêu diệt. Ông Uyn xơn giữ trọng trách Tổng chỉ huy
  • 27. 54 55 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Cuộc đời đã cử một Sứ giả sản phẩm của ý tưởng chiến tranh, ý tưởng tuyệt diệt nhân loại, đến hiện diện, nối tiếp cho dòng họ Uyn xơn-Hen ri. Cuốn sổ tay của ông Uyn xơn - một kỷ vật chiến tranh, còn đây. Những dòng mật lệnh cho các chuyến phi cơ chở Đi-ô-xin cất cánh. Những chữ ký của ông. Chữ ký của thần hủy diệt sự sống. Chữ ký phỉ báng quyền sáng tạo sự sống của Thượng đế. Thượng đế đã trừng phạt ông, tạo nên một mô đen hài hước, bi kịch: Ông nội hạ lệnh rải chất độc lên con trai, để sinh ra đứa cháu quái thai nối dõi dòng họ cho ông nội. Sổ tay ông Uyn xơn ghi rõ: Tổng cộng số lượng chất độc đã rải là 80 triệu lít, trong đó chứa 366 kg Đi- ô-xin. Một giọt Đi ô xin tạo ra đứa cháu nội ông. Vậy 366kg Đi ô xin tạo ra bao đứa cháu tương đồng như cháu nội ông? Ông Uyn xơn chết vì già lão, chứ không phải vì ân hận. Nếu ân hận tội ác chiến tranh mà chết, thì thế giới đã sạch bóng chiến tranh từ lâu. Không. Chiến tranh vẫn có muôn vàn “lý do có lý” để xảy ra. Đứa cháu tật nguyền “lại giống” tinh tinh, mọc lông đen xì cứ sống trong nhà Uyn xơn - Hen ri - Julia như để chứng minh một ADN không hoàn hảo nào đó trong bản thân sự sống. Hen ri là nạn nhân, nhưng tại sao Hen ri lại đeo súng đến Việt Nam. Hồn ông Uyn xơn cãi : Ông chỉ Gia trang “Chim Ưng cổ trắng” thơ mộng. Đồi cỏ, Thông già, hoa Hồng khoe sắc. Hen ri lấy vợ, cô gái Julia xinh đẹp, hăm hở xây dựng chương trình hạnh phúc. Đứa cháu trai đầu là niềm trông đợi của Uyn xơn. Dòng họ ông không hổ thẹn, bởi các thế hệ giỏi giang, kiêu hãnh. Cụ tổ nhà Uyn xơn - Hen ri từ một vùng đồi cỏ nuôi cừu sản xuất len nào đó ở nước Anh cổ kính, đã di cư sang châu lục mới mà Cô-lôm-bô tìm ra. Họ đã phải vật lộn, để xây dựng nên trang trại này. Họ nuôi bò lấy sữa, học hành, tham gia chiến trận, đến đời Uyn xơn đã đến đỉnh cao binh nghiệp. Họ không ngần ngại, cho đứa con trai duy nhất sang Việt Nam chiến đấu. Dòng họ này phải ghi những trang sử anh hùng cho lịch sử. Đứa cháu nội ra đời, sẽ nối tiếp mạch nguồn, dòng họ trường tồn mãi mãi với thời gian. Ngày đứa cháu sinh, như tiếng sét giáng xuống giữa thanh thiên bạch nhật, bổ đôi gia trang “Chim Ưng cổ trắng”. Hình xác chim Ưng còn đó, mà hồn nó đã hoảng hốt bay đi mất. Đứa cháu nội người đầy lông đen, và đầu thì bé tẹo. Y tế xét nghiệm kết luận đứa bé bị quái thai do di chứng chất độc Đi-ô-xin từ người bố bị nhiễm ở chiến trường Việt Nam. Ông Uyn xơn và Hen ri đóng cửa trong nhà, gào thét một mình. Hai người quân nhân kiên nghị, cắt thịt không đau, giờ mềm nhũn ra.
  • 28. 56 57 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ ĐẠI BÀNG HẠT DẺ Ngày xưa ở một miền đồi xanh biếc có chàng trai trẻ tên là Hạt dẻ. Một hôm vào rừng săn bắn, chàng gặp một con Đại bàng cổ vàng đang nằm xòe cánh trên vũng máu. Hạt dẻ hái lá thuốc bên đường đắp vào vết thương cho Đại bàng. - Cám ơn chàng trai. Ta bị kẻ thù tấn công đau đớn quá - Đại bàng nói. Hạt dẻ đem Đại bàng về nhà chăm sóc. Ít lâu sau, Đại bàng đã khỏi, muốn bay về núi cao rừng sâu.Phút chia tay, Đại bàng nhả ra một viên ngọc long lanh và nói: - Ta tặng chàng trai Viên Ngọc Thần này. Nó có phép mầu. Nuốt ngọc vào bụng, chàng trai sẽ biến thành chim Đại bàng dũng mãnh, và nghe được ngôn ngữ của các loài chim muông. Khi nhả ngọc ra chàng làm phận sự quân nhân trong guồng máy chiến tranh. Rồi đến Tổng thống cũng nói: Đó là Lô gic của chiến tranh gây nên, chứ đâu phải Tổng thống. Vậy là Lô gic gây ra tội. Ai là tác giả Lô gic? Thượng đế ! Cuối cùng là tại Thượng đế. Gớm chưa, con người gây ra tội ác tày trời, giờ lý sự loanh quanh đổ lên đầu Thượng đế... * * * Ông Hen ri lẩy bẩy cầm chiếc cuốc xới xáo gốc Hồng. Một con sâu bò nhoay nhoáy từ cành này sang cành khác và đớp những cánh hoa. Ông Hen ri không đủ nhanh nhẹn để đưa tay đuổi theo con sâu. Nó thoăn thoắt lẩn vào cành lá. Tay ông Uyn xơn bị gai hồng cào xước máu. Máu rỉ, đặc quánh, và cũng không có nhiều để tụ lại thành giọt. Giống Hồng này, tổ tiên ông Hen ri đem từ quê hương Anh Quốc sang. Nó quý, đẹp nổi tiếng. Bao đời nhà Hen ri trồng nó, phục tráng giống, giữ gìn cho nó nở hoa đã mấy trăm năm nay. Nó gần như là biểu tượng của sức sống gia tộc. Nhưng đến hôm nay, vườn Hồng đã lụi tàn. 12/8/2014
  • 29. 58 59 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ - Bạn thơm quá Sen ơi! Hoa Sen nói: - Tặng mùi hương này cho bạn đấy. Sáng hôm sau, Đại bàng Hạt dẻ dậy trước cả mặt trời, và lại cất cánh bay. Nó không có vé, nhưng cứ bám vào nóc chiếc máy bay đi nhờ. Máy bay đi xuyên qua mây bạc trời xanh đưa Đại bàng đến thành phố. Phớt lờ các cửa kiểm soát phiền toái của sân bay, Đại bàng vọt qua nóc nhà ga Cảng Hàng không,vào trung tâm thành phố. Nó đậu xuống nóc tòa cao ốc bằng kính có đàn chim sẻ ríu rít. Đàn chim sẻ đang lích chích trao đổi với nhau băn khoăn vì không có Hộ khẩu ở đây, cư trú gặp nhiều khó khăn. - Thế các cậu từ đâu đến? - Đại bàng hỏi. - Chúng tôi quê ở một cánh đồng. Bây giờ người ta dựng khu công nghiệp ở đây, không khí và nước thải độc lắm, nên chúng tôi phải di dân. - Về thành phố làm gì có các mái bếp bồ hóng ấm cúng trong ánh lửa chiều đông cho các cậu làm tổ. - Vấn đề là làm thế nào để thích nghi với đời sống hiện đại. Sáng hôm sau, Đại bàng Hạt dẻ bay xà theo các tuyến đại lộ để tham quan. Ô tô chạy từng dòng bên dưới. Đại bàng bay trên. Thành phố chán ngắt, nhà mọc tự phát, không có quy hoạch, chắp vá như răng mọc lẫy. Có nhà mà chẳng có đường. Người chen chúc như bầy kiến. Tất cả đổ xô đi kiếm ăn. Không thì chết trai sẽ trở lại thành người. Hạt dẻ vui sướng đón nhận viên ngọc. Còn Đại bàng thì bay vút mất hút trên trời xanh. Có ngọc trong tay, chàng trai liền thực hiện ước mơ của mình. Một động tác nuốt nhẹ, chàng đã trở thành một con Đại bàng màu hạt dẻ. Còn gì thích bằng được chao lượn trên cao với gió mây. Chỉ một cái đập cánh, Đại bàng đã vượt qua dãy núi cao bát ngát sương mù, rồi xà xuống dòng sông xanh rực nắng. Đại bàng cứ theo con sông mà đến những miền đất khác nhau. Thảo nguyên rực rỡ màu hoa, chim bay bướm lượn. Đại bàng xà xuống, dự cuộc khiêu vũ của đàn ngựa trắng, ngựa hồng, từng bước nhẩy thơm mùi cỏ dại. Qua thảo nguyên, Đại bàng đến vùng châu thổ lúa vàng như nắng. Dòng kênh xanh xanh, con thuyền nhỏ căng buồm nâu qua bến. Những đầm sen thơm ngát. Những mái nhà rêu phong cổ kính trong vườn cổ thụ. Những mái đình, cây đa uy nghiêm, trầm mặc. Đại bàng xuống ngủ trên mái dạ vàng cùng với mặt trăng làng quê đêm ấy. Dưới mái dạ là ngọn đèn dầu ấm cúng của đôi vợ chồng trẻ cười khúc khích với nhau suốt đêm. Hạt dẻ nghe thấy con Cún Vàng nói chuyện với chú gà Trống Tồ về chủ đề các vì sao trên trời. Con Cún đố Gà là sông Ngân hà ở đâu và chùm sao Vua Thần nông ở đâu. Chúng cũng cười khúc khích. Hạt dẻ nghe thấy ngoài cầu ao Cá quẫy. Những con Cá nói chuyện với Hoa Sen. Cá bảo:
  • 30. 60 61 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ - Tôi không có. Các cô nhân viên ngân hàng lại cười rũ rượi. Làm người khổ thế đấy. Không có tiền là người ta cười rũ rượi. Đêm nay ngủ ở đâu. Không có tiền thuê nhà trọ. Thôi ta lại trở về “Lốt Đại bàng” ngủ trên cành cây vậy. Kiếp người cũng phiền toái lắm. Ở trong những căn phòng bé xíu như hộp diêm kia thì sung sướng nỗi gì. Một tốp cảnh sát được mật báo về “Người khả nghi” vào nhà hàng ăn quỵt, đến Ngân hàng xin tiền, đã triển khai ngoài đường “chặn đầu khóa đuôi” Hạt dẻ. - Xin anh cho xem chứng minh thư. - Chứng minh thư là gì? Tôi không có. - Xin anh về đồn công an giải quyết. Hạt dẻ bị thẩm vấn. Toàn những câu hỏi tư duy chim Đại bàng không trả lời được. Người ta chuẩn bị phòng cửa sắt để giam “Nghi phạm”. Làm người thành phố rắc rối quá. Hạt dẻ bực mình, tặc lưỡi, lấy hạt ngọc trong túi ra nuốt vào bụng. Cả đồn cảnh sát kinh hãi khi thấy “Đối tượng khả nghi” vụt cái biến mất, chỉ còn một con chim lông màu hạt dẻ. Đại bàng tức mình phóng uế một chút phân nho nhỏ trên bàn cảnh sát. Để cho hệ thống quan liêu của xã hội biết thế nào là “lễ độ”. Đại bàng bay vút đi, đến công viên. Hồ rộng mênh mông. Mấy con Thiên nga trắng đang bơi lội. Đại bàng nghe được các con Thiên nga nói chuyện với nhau chủ đề vẻ đẹp của mây trời in bóng xuống hồ. Đại bàng thấy đói... Hạt dẻ dong trên các đại lộ mãi cũng chán, muốn trải nghiệm thành dân thành phố xem sao. Đến chỗ vắng, Đại bàng nhả ngọc ra, biến thành chàng trai. Quần áo màu hạt dẻ xuềnh xoàng, điệu bộ nhà quê ngô nghê, Hạt dẻ vào một cửa hàng ăn. Đói quá. Vừa trở lại “Lốt người” là đói cồn cào. Khi là chim, chỉ vài hạt quả rừng đã đủ no... - Cho tôi một xuất ăn. - Hạt dẻ gọi. Cô nhân viên hờ hững dọn đĩa cơm bình dân. Chỉ khi dọn bữa ăn đắt tiền cô mới nhiệt tình. Hạt dẻ ăn xong thản nhiên đứng dậy đi ra. Bảo vệ túm lấy: - Anh phải trả tiền. - Tôi không có. - Tư duy của chim Đại bàng quen mổ thức ăn trong rừng, thản nhiên trả lời. Các cô nhân viên nhà hàng cười sặc sụa. - Tiền lấy ở đâu? - Hạt dẻ lại hỏi tiếp câu hỏi của tâm hồn Đại bàng ru mình trong mây trắng trời xanh. - Tiền lấy ở Ngân hàng. Đến Ngân hàng mà lấy. Đại bàng có món nợ là một xuất ăn bình dân. No bụng và nợ. Nợ đời. Làm người phải nợ như thê đó. Đại bàng đến Ngân hàng. Tiền từ các máy đếm tuôn ra rào rào. - Cho tôi nắm tiền kia. - Tư duy mây trắng trời xanh lại nói qua miệng chàng trai miền núi. - Sổ tiết kiệm của anh đâu?
  • 31. 62 63 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ gái kiều diễm có làn da trắng như cánh thiên nga. Tâm hồn Đại bàng xao xuyến. Đại bàng cũng lập tức nhả viên ngọc của mình ra, và trở thành chàng trai. Đôi trai gái sung sướng ôm choàng lấy nhau. Hai người dắt nhau đi trên vạt hoa rừng thơm ngát, đầy ong bướm bay. - Chúng mình không trở lại thành Chim nữa nhé! - Cô gái Thiên nga nói. - Viên ngọc của em nuốt vào thì thành người, còn viên ngọc của anh nuốt vào thì thành chim. Hai tác dụng trái ngược. - Phải giữ lấy hai Viên Ngọc Thần, đừng đánh mất. Chúng mình làm người, yêu nhau, nhưng cũng có lúc cần phải thành chim để có bầu trời tự do bao la trên đầu. Mặt đất chật chội này đôi khi cũng đầy những ràng buộc khó chịu. Chàng trai Hạt dẻ và cô gái Thiên nga đi ra khỏi rừng. Con đường vào “Thành - phố - cuộc - sống” bụi mù. Nhưng bây giờ họ có tình yêu, nên có vũ khí để đương đầu với “Cuộc sống lầm bụi” ấy. Đại Yên, ngày 9 tháng 9 năm 2014 một con Thiên nga đẹp nhất có đôi mắt mơ màng đang nhìn bầu trời. “Tiếng sét ái tình” đã nổ vang trong trái tim Đại bàng. Đại bàng đến làm quen: - Anh với em ta bay thi nào...? Con thiên nga cất mình lên khỏi mặt nước. Trời trong vắt, nắng chứa chan. Cánh đại bàng dũng mãnh cắt gió, cánh thiên nga mềm mại vờn mây. - Em không phải là chim Thiên nga bình thường - Thiên nga nói - Em vốn là một thiếu nữ xinh đẹp, bị mụ phù thủy chột mắt, phù phép biến thành Thiên nga. Em nhớ cuộc sống loài người lắm. Em muốn trở thành người bình thường. Đại bàng nói: - Thế là chúng ta giống nhau. Anh cũng vốn là một chàng trai. - Anh có thể cứu em không, mụ phù thủy ở trong một cánh rừng gần đây. Anh đến đấy, làm sao lấy được Viên Ngọc Thần trong người nó, cho em nuốt vào bụng, thế là em trở lại thành người... Đại bàng và Thiên nga đến cánh rừng. Mụ phù thủy ở trong một túp lều u ám. Mụ chỉ còn một mắt, nhìn gì cũng không rõ. Chim Đại bàng dũng mãnh xông đến mổ vào chiếc mắt lành của mụ rồi lôi ra tròng mắt lầy nhầy. Phù thủy gào rú sờ soạng trong bóng đêm. Đại bàng lục soát người mụ lấy được Viên Ngọc Thần. Thiên nga nuốt viên ngọc, lập tức trở lại thành cô
  • 32. 64 65 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Truyền thuyết kể rằng thuở xa xưa ấy, ở làng này có một chàng học trò nghèo, ngày ngày ăn sắn ăn khoai nhưng đêm nào cũng thức cùng trăng sao để học bài. Một hôm chàng đang ngồi bên ngọn đèn nhựa trám ngoài cửa sổ thì thấy một ngôi sao rơi xuống bên thềm. Ngôi sao hóa thành người con gái đẹp. Cô gái đến gần, da thịt nàng tỏa ra ánh sáng soi rõ từng hàng chữ trong trang sách Luận ngữ để ngỏ. Thuở ấy, người, tiên và quỷ đôi khi ở lẫn với nhau. Quê hương tiên ở trên trời, quê hương quỷ ở dưới âm phủ và quê hương người là mặt đất trần gian. Tiên và quỷ luôn thích thú cảnh đời trên mặt đất. Cô gái ngôi sao - nàng tiên, bước đến gập trang sách của chàng học trò lại: - Đêm nào từ trên trời nhìn xuống, em cũng thấy chàng ngồi bên ngọn đèn nhựa trám này. Em nhìn rõ từng chữ trong trang sách và đọc theo chàng. Em thấy chữ nghĩa trong đấy triết lý cao siêu thì cao siêu thật, nhưng nhiều khi viển vông, vô bổ, giả dối. Vậy chàng dùi mài để làm gì. - Có học những trang sách này thì ta mới có kiến thức để dự các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, đỗ Nghè, đỗ Trạng. - Chàng quên hết chuyện đời, chỉ lao vào khắc khổ học một mớ chữ viển vông. Đến khi đỗ thì đầu đã bạc, về già. Cả cuộc đời thanh xuân uổng phí. Em muốn cùng chàng hưởng lạc thú trần gian thời tuổi trẻ NÚI NGỌC MỸ NHÂN Dải núi thấp nhô lên giữa cánh đồng, hình một người con gái bờ vai tròn trặn, đôi vú nhô lên, chân duỗi song song, vẫn được gọi là núi Ngọc mỹ nhân. Khi mặt trời chớm nhô phía đằng kia, bắn tóc lên vầng ánh sáng, soi hằn những đường nét mềm mại giữa trời xanh. Mặt Ngọc mỹ nhân hơi hếch lên, tưởng như đôi mắt sau giấc ngủ đêm đang chớp chớp vì ánh sáng chói dọi vào, và nàng tiên núi đang sắp ngồi dậy, xỏa mái tóc tung tóe trên mặt bằng châu thổ. Những cảm xúc tưởng tượng kỳ lạ trước Ngọc mỹ nhân trong khoảnh khắc ban mai, hoàng hôn, đêm trăng... trong hơi gió đầu thu se se hay nắng mới tháng ba, đã trở thành một phần tâm hồn người dân vùng này. Nàng tiên núi đã thành con dân của quê làng họ.
  • 33. 66 67 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ thường. Sự lặp đi lặp lại của hạnh phúc bình dị sẽ thành chán nhàm. Cuộc đời luôn cần những đột biến phát triển mới. Chàng nho sinh sau mấy năm chìm đắm trong cảnh đời thường, bỗng giật mình hứng khởi cảnh “ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” vinh quy bái tổ của người khoa bảng. Chàng lục lại chồng sách Tứ thư, Ngũ kinh... xếp xó lâu nay, để ngày ngày cắp đến trường đại tập của cụ Thám hoa trên phố Phủ. Còn nàng tiên, thì đêm đêm luôn ra hiên nhìn bầu trời thở dài, bồi hồi nhớ lại thời tiên nữ của mình. Chàng nho sinh đi thi khóa ấy đỗ cử nhân, rồi vào kinh thi Hội, thi Đình đỗ tiến sĩ. Ngày vinh quy, người ta đến tìm vợ quan tân khoa để rước võng đào, thì không thấy đâu cả. Nàng đã mở rương hòm lấy bộ áo tiên có cánh mặc thay cho bộ áo nâu thôn nữ, và bay lên trời, để lại lá thư tạm biệt người chồng. Nàng không thể đem theo đứa con giai, vì đó là một nửa cốt nhục của hạ giới trần gian. Đứng trên đám mây ngũ sắc, nàng nhìn xuống con đường lầm bụi, trống giong cờ mở, biển vàng “ân tứ vinh quy” của chồng, nhưng lòng rửng rưng. Nàng phải về trời, múa hát với gió mây... Nhập vào với những Vì sao Tiên nữ khác, nàng ngỡ ngàng một chút, rồi nhanh chóng hòa nhập. Nàng múa hát, du trong không gian xa thẳm, vô tận. này, ngay hôm nay, và ngay bây giờ, chứ không phải ngày mai xa xăm. Đời dưới trần gian thú vị lắm. Em ở tiên cung nhìn xuống rất thèm. Trên tiên cung chỉ chay tịnh có mây xanh, tiên nữ dong chơi đi ra đi vào, và múa hát. Múa hát suông mãi, cũng chán. Em muốn cùng chàng sống dưới mái tranh vàng, và ánh đèn nhựa trám này. Chàng trai sung sướng mở vòng tay ôm lấy nàng tiên. Một cảm giác ngất ngây kỳ lạ của hạnh phúc dâng tràn. Từ hôm ấy chàng và nàng tiên bắt tay xây dựng mái ấm. Nàng tiên trút bỏ bộ quần áo tiên có cánh, cất trong rương hòm, khoác bộ áo nâu thôn nữ lên người. Nàng tìm sự ham say vui thích từ việc vun trồng ngọn lá bông hoa trái quả trong vườn. Nàng thích thú với ánh lửa bập bùng chiều đông, mùi cơm mới tỏa thơm ngào ngạt. Đêm đêm hai vợ chồng nằm ôm nhau trên chiếc giường ấm cúng, ngoài kia tiếng mưa rơi trên tầu tiêu lộp bộp, và trên vách, tiếng con thạch sùng tắc lưỡi. Chàng nho sinh bỏ không dự kỳ thi Hương năm ấy. Sách vở dẹp vào một góc, ba gian nhà quá chật, mà hạnh phúc thì cần nhiều không gian để chứa đựng. Một năm sau, đứa con trai kháu khỉnh của họ ra đời. Họ truyền tay nhau bế ẵm, ngây ngất ngắm nhìn đôi mắt thơ ngây trong vắt bầu trời của con... Cái gì đã đạt được rồi thì sẽ trở thành bình
  • 34. 68 69 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ BỨC ẢNH Ca nô khởi hành từ thị xã, ngược dòng xé sóng trắng xóa. Sông Lục trong vắt in hình dãy núi Huyền giăng giăng, cứ như dòng sông dìm cả dải núi trong lòng mình, sóng xao động làm núi lẫn trời tan nhòa. Chiếc ca nô cũ rích kéo còi khàn khàn áp bến. Tôi lên bờ đi bộ vào thị trấn Phù Dung bên sông. Phố xá êm đềm. Nhà nào cũng có vườn bên trong. Cây xanh mướt, na, hồng, nhãn... chim rừng bay lạc về nhớn nhác. Cửa các nhà, bán đặc sản rừng: đõ ong, chùm phong lan dại... Tôi vào quán, ngắm lồng chim núi treo trên cây, tiếng hót nhớ rừng thảng thốt... Bữa ăn có thịt Nhím, ninh với hạt Dẻ. Tôi ngồi trầm ngâm nghe mơ hồ tiếng suối chẩy róc rách sau nhà... Điều tai hại là Thượng giới phát hiện ra tội trạng của nàng đã từng xuống trần gian hưởng thú vui hạ giới. Nàng không còn vẹn nguyên tinh khiết tiên nữ nữa. Da thịt nàng đã vẩn mùi nhục cảm. Thượng giới quyết định đày nàng xuống hạ giới, biến thành một dải núi, đêm đêm ngửa mặt ngóng lên trời. Đó chính là dải níu Ngọc mỹ nhân nhô lên giữa vùng châu thổ. 12-9-2014
  • 35. 70 71 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Anh nhìn thấy cô gái sáng rực như vầng trăng, vừa đi vừa vuỗi những giọt nước còn đọng trên các lông tơ. Nắng sưởi khô tỏa hơi trên đôi vú còn nguyên phấn tuổi dậy thì. Đôi chân trắng muốt màu hoa sen. Chàng trai vội nấp vào bụi rậm chụp hình. Cô gái không hề hay biết. Cô mặc quần áo, rồi lững thững ra về. Hình như trưa nào cô cũng ra sông. Con gái thị trấn Phù Dung, có khi bơi thi như đàn thiên nga ở đâu xà xuống. Những chàng lái ca nô, thường đứng ngẩn ngơ nhìn, và sau đấy máy ca nô không làm sao nổ lại được để rời bến. Gặp được một người con gái đẹp khỏa thân đâu phải dễ. Nghề nhiếp ảnh, thường ăn may trong khoảnh khắc trời cho. Chộp được đám mây hình thù kỳ lạ bay qua. Một giây sau, đám mây đã khác. Chộp được nụ cười trên gương mặt nhàu nhĩ của bà già. Một giây sau, bắt bà cười lại, thì nụ cười đã thành ngớ ngẩn. Có chàng phóng viên phương Tây chộp được cảnh đúng lúc con chim Ưng ăn xác chết xà xuống mổ em bé châu Phi đang hấp hối vì đói. Bức ảnh được giải nhất quốc tế... Chàng trai chộp cảnh cô gái khỏa thân từ dưới sông đi lên, đã chụp được bức ảnh đẹp. Lúc đó ánh sáng thuận chiều, khoảnh khắc cô như hoa Quỳnh nở trong đêm lồ lộ một thân hình tuyệt mĩ. Cánh tay trần giơ lên mà cứ gợi ý tưởng con chim trắng muốt sắp bay. Bờ ... “Ngày xửa ngày xưa” dòng sông Lục còn xanh trong hơn bây giờ, có một nhà báo trẻ mộng mơ, thường qua lại vùng này. Anh viết những bài văn miêu tả dòng sông trưa hè, những cô gái thị trấn Phù Dung ra tắm, đôi vai trần trắng lóa nhô lên trên làn nước xanh biếc... Anh yêu trung du, đồi cỏ mênh mang, đường sỏi đỏ xập xòe bóng Gà Gô, cánh Diều Hâu từ bụi Sim Mua bay vút lên trời xanh. Anh đã ở với Trung du đêm trăng nghe chim đồi hót. Tiếng chim đan như mắt võng úp chụp cả một vùng. Đó là tiếng gọi tìm bạn tình. Cả dãy đồi hàng ngàn con chim hót. Con đực cất lên, con mái ở xa đáp lại. Lọc trong rừng âm thanh, chúng nghe đúng tiếng hót mà chúng “phải lòng”, định hướng phía đó, tiến lại gần nhau, kết đôi. Gặp nhau rồi thì thôi hót. Tiếng hót thành chiếc cầu, con đường. Thường thì con đực và con mái cứ phải cùng hót từ chập tối đến nửa đêm, chúng mới đến được với nhau. Quá nửa đêm, tiếng hót thưa vắng loạc choạc, đó là những con chim không tìm được bạn. Nó hót tiếp đến sáng,rồi chết gục trong một búi cỏ vì vỡ cổ họng. ...Có một buổi trưa, anh ra chụp ảnh dòng sông Lục. Quãng vắng, bờ cát lẩn vào cây dại um tùm. Một cô gái tắm sông đang bước lên bờ. Con gái miền núi hoang dại. Cởi quần áo vắt trên cành cây, để nguyên “trang phục thiên nhiên”, đi xuống dòng nước bơi lội, xong, lại thản nhiên “trang phục thiên nhiên” lên bờ...
  • 36. 72 73 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Bức ảnh khỏa thân “Cô gái sông Lục núi Huyền” của chàng trai cũng có ý nghĩa tương tự như thế... Anh là một nhà báo thường thường, chuyên viết các bài phóng sự cũng thường thường, nhưng được ân huệ trời cho, thành tác giả bức ảnh đỉnh cao nghệ thuật. Công của anh là có “khát vọng” ra nhìn các cô gái sông Lục tắm trưa, nhô vai trần sáng trắng. Lúc đầu ước mơ chỉ nho nhỏ thế thôi, nào ngờ gặp may. Công lao chính đương nhiên là thuộc về cô gái, Thượng đế đã tạo nên thân hình cô như thế. Sau nữa là “công” của mặt trời, ánh sáng lúc đó không bị ngược, và công của bụi rậm để anh nấp. Công của chiếc máy ảnh là lúc đó vận hành tốt. Một giây. Chỉ một giây bấm tách. Qua giây đó cô gái không có ánh mắt, nụ cười và dáng đi như thế nữa... Cơ quan Tòa báo đang đấu đá nhau căng thẳng, tranh giành vị trí. Chàng trai bị đem ra kiểm điểm vì tội “văn hóa đồi trụy”. Thứ văn hóa “rác rưởi” đang có nguy cơ xâm nhập làm hư hỏng thanh niên, xói mòn đạo lý. Ngoài xã hội, cơ quan chức năng đã khởi tố nhiều người tàng trữ, truyền bá tranh ảnh khiêu dâm, tạp chí playboy. Đấu đá nhau bằng mồm, còn khó mới hạ được nhau. Tóm được một chứng cớ cụ thể thế này, chàng trai đo ván liền. Ranh giới ảnh “nuy nghệ thuật” với ảnh khiêu dâm là một sợi tóc. Không dễ phân biệt... Chàng trai bị tước thẻ phóng viên, treo bút, thu máy ảnh, chuyển sang phòng “sửa mo rát”. vai gợi ảnh hình ánh trăng tan chẩy. Và đôi vú là những mùa quả chín tròn đầy... Chàng trai hiểu giá trị bức ảnh vô tình có được. Anh rửa nhiều bản, tặng bạn bè văn nghệ sĩ của mình... ...Vào những năm tháng ấy còn có nhiều quan niệm ấu trĩ về nghệ thuật. Báo chí không đăng thơ tình, hội họa thì tranh vẽ phải làm sao quần chúng dễ hiểu... Bức ảnh “Cô gái sông Lục núi Huyền” của chàng trai bị phê phán là “văn hóa đồi trụy”. Người ta nhìn bức ảnh, choáng váng trước vẻ đẹp của nó, nhưng lập tức phải lên gân lên cốt “lập trường” kết tội. Tòa báo cho anh làm phóng viên, để đi viết bài chụp ảnh các cô gái tay súng tay cày, làm nên 5 tấn một héc ta, đâu phải để đi chụp ảnh “con gái cởi truồng”. Vào thời Đổi mới hôm nay, Ti vi suốt ngày chiếu cảnh Hoa Hậu thi áo tắm, thì không thể hiểu nổi chuyện bức ảnh khỏa thân xưa bị kết tội tày trời. Nhưng việc đó đã xảy ra, đã có thật. ...Thân hình con gái đẹp là tuyệt phẩm thượng đế sáng tạo ra, để làm chuẩn Cái Đẹp cho cuộc đời. Đó là Cái Đẹp nhất trên thế gian này. Không có gì hơn. Vầng trăng, ngôi sao, áng mây, vầng dương, đại ngàn, sông suối, núi đồi, cỏ hoa... tất cả đều đẹp, nhưng chỉ là hạng hai so với cái đẹp của thân hình con gái. Người ta thi Hoa Hậu, truyền hình khắp thế giới để giúp loài người có cảm giác thẩm mỹ, nghệ thuật, nâng cao trình độ hiểu thế nào là Cái Đẹp.
  • 37. 74 75 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ dẹp, bán cân. Một lần lục trong tủ xấp báo cũ ố vàng của Cha tôi, thấy rơi ra bức ảnh “Cô gái sông Lục núi Huyền”. Tôi cầm lên xem bàng hoàng. Bức ảnh như tỏa hào quang. Chuẩn mực Cái Đẹp trên đời hiển hiện. Ý nghĩa cuộc đời hiển hiện. Hạnh phúc tột cùng của kiếp người hiển hiện... Nước mắt tôi giàn giụa. Hai tay tôi giữ chặt bức ảnh mà chỉ sợ nó như là cánh bướm, cánh diều bay mất. Chồng Tạp chí Nghệ thuật Nhiếp ảnh Quốc tế trên bàn. Tôi đã lướt qua nhiều lần. Những bức ảnh của các Châu Lục được giải. Những bức ảnh ghi lại chân thực cuộc sống trên thế gian này. Những bức ảnh gợi cho người ta những tầng cảm xúc, suy tưởng, phong phú, cao siêu, đẹp đẽ mà hàng ngày bị khuất lấp trong cuộc sống bụi lầm. Năm nào Hội đoàn Nhiếp ảnh Quốc tế cũng tổ chức thi một lần. Khắp thế giới, người ta gửi ảnh về. Ảnh chiến tranh. Chú bé mười tuổi giầy mũ nhà binh rộng rênh, súng cao hơn người. Ảnh đoàn Nữ binh, quân phục hở vú, đôi vú nõn nà đối lập với súng đạn xù xì đeo quanh người. Nhiếp ảnh quả cũng lắm trò thể hiện. Ảnh thiên nhiên, đồng đất khô hạn, nứt toác, con bò cạp răng nọc độc, đang cắn bông hoa. Ảnh sa mạc mênh mông, con lạc đà thồ trĩu nặng đi về phía chân trời, như đường đời của kiếp người... Phần lớn các ảnh chủ đề nỗi đau cuộc sống. Ít có ảnh chủ đề cái đẹp và hạnh phúc tột đỉnh của kiếp Lẽ ra phải rời khỏi biên chế cơ quan, nhưng may có một “Phó thủ trưởng” hiểu biết, cứu vớt ở lại. Vào những năm tháng ấy toàn bộ “sự sống” diễn ra trong “biên chế cơ quan”. Rời khỏi là ra vỉa hè bơm xe đạp. Chàng trai yên tâm ngày ngày soi kính lúp, sửa lỗi typô như nhổ lông tơ còn sót trên con gà đã mổ. Càng yên thân, chàng trai tự an ủi. Viết lách, hộc tiết mới được bài báo, sung sướng nỗi gì. Sửa mo rát, làm như cái máy, chẳng mệt óc... Máy ảnh đã trả lại cơ quan, lâu dần rồi anh cũng quên cả cách điều khiển ống kính thò ra thụt vào mức độ nào cho đúng. Bức ảnh “Cô gái sông Lục núi Huyền” đem lại tai họa lớn, thành “kỷ niệm đáng sợ”, nên chẳng bao giờ anh nhắc đến nữa... Chàng trai phóng viên ấy là cha tôi. Ông nghỉ hưu, và vừa mới mất năm ngoái. Tôi lớn lên, nối tiếp Nghề Báo, nhưng là Báo Hình. Suốt ngày chụp ảnh Hoa Hậu, Người Mẫu ăn mặc hở hang, cung cấp cho các Tạp chí Thời trang. Máy ảnh của tôi siêu hiện đại, chụp được cả chân con kiến, cả chiếc lông tơ trên người Hoa Hậu. Studio của tôi, suốt ngày Người Mẫu đến cởi quần áo để tôi “tác nghiệp”, chứ không phải trưa nắng ra bờ sông Lục rình mò con gái tắm “nhô vai trần sáng trắng”. Nhìn được tý vai, đã tưởng như nhìn thấy Hằng Nga hiển hiện. Các bức ảnh của tôi, tạp chí đăng trang bìa, đem về vứt góc nhà, chất hàng đống, thỉnh thoảng dọn
  • 38. 76 77 aHANH ĐÀO LẠI NỞ aHANH ĐÀO LẠI NỞ Ở chơi thị trấn Phù Dung vài hôm tôi tha thẩn khắp nơi. Những dải đồi xanh như chiếc gối êm cho thị trấn dựa lưng. Dòng suối róc rách bao quanh là chiếc khăn quàng thiếu nữ trắng tinh khôi trên vai phố xá. Hoa Mua tím dập gẫy dưới bước chân dạo chơi của các cô gái Sơn cước. Tôi làm thân với một bà chủ quán nước chè. Bà chừng 60 tuổi. “Cô gái sông Lục núi Huyền” xưa, chắc cùng trang lứa với bà, và biết đâu đã từng đi tắm sông với nhau. Tôi che phần khỏa thân phía dưới ảnh, chỉ để lộ gương mặt, cho bà xem, nhờ “nhận dạng”. Bà thích thú vì có người gợi lại thời thiếu nữ của mình... Nhưng “con bé” này là ai nhỉ. Trong đám bạn vẫn ra sông tắm có đứa nào thế này đâu. Thị trấn xưa hẹp tanh vanh, bọn con gái lãng mạn, hay tựa cửa, hoa Phù Dung tím nhạt rơi đầy vai. Phù Dung đẹp, nhà nào cũng trồng ngoài cửa, các ông bố biết đâu loài hoa vừa nở đã tàn kia, rồi như ám vào đời con gái của mình... Bà hàng nước loan truyền cho cả chục bà cùng trang lứa đến nhà. Các bà đang thiếu cơ hội tụ tập. Các bà giờ người là cô giáo về hưu, người tráng bánh đa mì gạo, người buôn giày dép, áo quần, hoa quả ngoài chợ, bận rộn lắm, và luôn tiếc ngẩn tiếc ngơ thời thiếu nữ của mình. Tin “tìm Người Mẫu”, trả tiền giải thưởng, càng làm các bà thích thú. Các bà xem Ti vi thấy bọn “Người Mẫu” được trả nhiều tiền lắm. Chẳng làm ăn gì, người. Thể hiện nó khó lắm. Nhưng bức ảnh “Cô gái sông Lục núi Huyền” có chủ đề đó. Một ý nghĩ lóe sáng trong đầu tôi. Tại sao không gửi dự thi. Ban chấm giải ảnh quốc tế người ta không mù. Tôi nhìn ra, thì người ta cũng nhìn ra... Tôi gửi bức ảnh đi. Một thời gian sau có hồi âm. Ảnh được giải cao. Tôi không ngạc nhiên lắm. Lúc nhận tin, tôi chỉ mỉm cười. Nhưng đến đêm, nhớ lại việc Cha tôi đã phải rời nghề viết báo, vì nó, nước mắt tôi đầm đìa. ... “Cô gái sông Lục núi Huyền” này là ai. Ai là người mẫu. Cô ta phải biết điều đó, biết được giá trị của mình. Phải chia một nửa số tiền giải thưởng cho cô. Cô ở đâu bây giờ? Làm sao tìm được. Chính cha tôi cũng không biết cô là ai. Cô chỉ xuất hiện trước ống kính cha tôi một giây, rồi mặc quần áo, đội nón, lững thững đi về thị trấn Phù Dung. Thị trấn Phù Dung... Tất nhiên là cô đã già, nhưng thị trấn thì chạy đi đâu được. Tôi cầm nửa khoản tiền giải thưởng và bức ảnh “Cô gái sông Lục núi Huyền” xuống canô. Tôi lại về sông Lục như cha tôi xưa hay đến đó. Tôi đi tìm Người mẫu của Nghệ thuật. Nghệ thuật không được quên ơn... * * *