SlideShare a Scribd company logo
E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com
ƯỚC MƠ NHỎ NHOI
Hằng năm, vào mùa thi, anh em chúng tôi cố gắng tổ chức chương trình Tiếp Sức Mùa Thi, mọi
sinh hoạt của Giáo Xứ đành xếp lại, tận dụng phòng ốc và nhân tài vật lực để giúp các thí sinh từ những
miền quê xa xăm lên thành phố dự thi.
Có lắm khi nghe những thông tin của ngành giáo dục mà ngao ngán, nhưng biết làm sao hơn khi
mùa thi còn đó, còn bao nhiêu bạn trẻ từ miền quê ngỡ ngàng giữa đô hội, không một người quen,
không nơi nương tựa. Chuyện lùm xùm về đề án dạy học theo chương trình Anh ngữ rầm rộ mấy ngày
nay trên báo chí. Ông Giám Đốc Sở Giáo Dục Đào Tạo thành phố nói một đàng, ông Tổng Lãnh Sự Anh
nói một nẻo, ngược hẳn nhau, ông nào nói đúng, ông nào nói sai ? Nói ông Tổng Lãnh Sự nói đúng,
vọng ngoại chăng ? Nói ông Giám Đốc nói đúng, chẳng lẽ ông Tổng Lãnh Sự nói sai ? Toàn người lớn
mà nói ngược nhau, tin ai ?
Chuyện chương trình học và sách giáo khoa, thay đổi liên tục. Việc ăn nói trước Quốc Hội mà
như trò đùa, ông Thứ Trưởng thay mặt Bộ Trưởng nói 34.000 tỷ là kinh phí cải cách sách giáo khoa,
Đại biểu phản ứng, ông Bộ Trưởng đi ngoại quốc về nói không có con số đó ! Cuối cùng, trước khi đi
vào cõi thinh lặng, người ta bảo có người đưa con số đó cho ông Thứ Trưởng phát biểu ngay tại nghị
trường, ông thứ trưởng cứ nói mà không biết mình nói gì, huề ! Hết ! Quốc Hội là cái gì mà ăn nói kiểu
như vậy ? Bao nhiêu vụ như vậy rồi kết luận luôn là tại một ai đó vô danh, người đánh máy chẳng
hạn, kỷ luật anh đánh máy. Hết !
Hệ thông đào tạo như thế, con người vận hành bộ máy đào tạo như thế, như những kịch sĩ múa
rối vụng về thiếu lương tâm, hằng triệu bạn trẻ cuốn vào guồng máy đào tạo vô lý, hụt hẫng và què quặt,
kéo theo hệ lụy bao nhiêu gia đình, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu con người có tương quan, và chúng
tôi những con người tình nguyện lao vao giòng xoáy vô hồn đó. ( Ảnh chụp Thánh Lễ dành riêng cho
các thí sinh và tình nguyện viên TSMT chiều thứ năm 3.7.2014 ).
Hoàn toàn không kỳ vọng một tí gì về
một thiết chế xã hội như vậy, nhưng không thể
khoanh tay nhìn bao nhiêu bạn trẻ chịu sự thiệt
thòi, chỉ vì khi vào giòng chảy đó, họ thiếu nhiều
điều kiện để tham gia sòng phẳng với anh em
khác. Họ nghèo, tham gia thi cử như là một lối
thoát duy nhất ra khỏi kiếp vô cùng nghèo.
Trong bữa cơm trưa nay, các bạn trẻ
tình nguyện “Tiếp Sứa Mùa Thi” của Nhà Thờ
ngồi nói chuyện với nhau. Hôm nay đưa các thí
sinh đi xem trường lớp. Có một anh tình nguyện
viên kể lại rằng, sau khi đã đưa một thí sinh đến
nơi sẽ thi ngày mai, cô bé liền rụt rè ngỏ lời xin
được đi thăm thành phố: “Anh cho em đi thăm
thành phố, em chưa biết thành phố bao giờ !” Phì cười trước sự chân thật của cô thí sinh, anh xe ôm tình
nguyện chạy một vòng trong thành phố, bữa cơm trưa chàng kể lại với một vẻ tự hào vì đã làm một việc
nghĩa. Chuyện lớn lao đối với cô bè chỉ là “chuyện nhỏ như con thỏ” đối với chàng.
Một giấc mơ nhỏ nhoi được đi thăm thành phố, bao nhiêu bạn trẻ đã ước mơ, một giấc mơ thật
bình dị tầm thường nhưng khó thực hiện. Ngang trái và bất công, giấc mơ bé nhưng khó thực hiện,
trong khi nhiều kẻ phung phí tiền bạc vào những chuyện vô bổ một cách dễ dàng không thương tiếc.
1
NĂM THỨ 14 – SỐ 617 – CHÚA NHẬT 6.7.2014
Trong Kinh Thánh có một câu chuyện cảnh giác mọi người tin, câu chuyện Ladarô nghèo và
người phú hộ, cái đau khổ mà người phú hộ giàu có sẽ phải chịu do chính thái độ thờ ơ của ông trước
cái nghèo cùng cực của người khác, Chúa là Thiên Chúa của sự công bằng sẽ có cách của Ngài để
chia lại tài sản mà Chúa ban cho mọi người cùng chung hưởng, nếu còn có những ai “quần áo lụa là
gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”.
Cách đây một tháng, có một cha đi về kể cho tôi nghe một đám “tạ ơn” của một Nữ Tu khấn trọn
đời, tiệc hơn 50 bàn, ban nhạc chơi sôi nổi ầm ĩ…
Mùa “tạ ơn” đang nở rộ, Chúa nghĩ gì về những cuộc “tạ ơn” đó ? Và còn bao nhiêu những ước
mơ nhỏ nhoi bình dị ?
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 3.7.2014
MỤC LỤC TÌM BÀI:
ƯỚC MƠ NHỎ NHOI ( Lm. Vĩnh Sang ) .............................................................................................. 01
KHIÊM NHƯỜNG ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ............................................................................... 02
TRỞ NÊN HÈN MỌN ( AM. Trần Bình An ) ........................................................................................... 03
HÃY CẦM LẤY VÀ ĐỌC ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ........................................................................ 04
MANG ÁCH CỦA CHÚA SẼ GẶP ĐƯỢC BÌNH AN ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) .............................. 06
KHÚC TẠ ƠN (Trầm Thiên Thu ) .......................................................................................................... 07
PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 12: THÁNH LỄ CUỘC ĐỜI ( Nguyễn Trung ) .................................. 10
CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC ( Phùng Văn Hoá ) ...................................................................................... 12
CUỘC CHIẾN TRƯỜNG KỲ CHỐNG LẠI GIA ĐÌNH ( Bản dịch của Nguyễn Thế Bài ) ...................... 15
CỨU CHUỘC NHỜ TÌNH THƯƠNG YÊU CÔNG CHÍNH ( Lm. Kevin O'Shea, bản dịch của Mai Tá ) ........ 21
LỬA VÀ NƯỚC ( Pháp Nhật ) ............................................................................................................... 24
LƯƠNG TÂM GIÁ BAO NHIÊU ? ( Tạ Khánh Thiết, bản dịch của Nguyễn Thiên ) ............................... 25
MƯỜI LĂM ĐIỀU THƯỢNG ĐẾ SẼ KHÔNG HỎI ( Bản dịch của Huỳnh Huệ ) .................................... 26
NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( TTMV DCCT ) ........................... 27
KHIÊM NHƯỜNG
Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng,
phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta
thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế,
xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất
khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình.
Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người
khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của
họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải
nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa
chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ.
Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn.
Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô
hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con
người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị
người đời quên lãng.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều.
Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự
trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ
trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế
giới ồn ào của loài người.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì
mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi
người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi
xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
2
CÙNG SUY NIỆM
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông
thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực
sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ.
Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại,
khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta
không nhìn thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng
đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống
làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã
nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã
tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn,
tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho
các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình
lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé
mới gặp được Người.
Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường
trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài
học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường
thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp
với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong
lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen.
Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT
TRỞ NÊN HÈN MỌN
Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải
Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký
giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi
nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ
Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như
những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh
đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp
hình và để phỏng vấn.
Một ký giả táo bạo hỏi: "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi
mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước ! Vậy đâu có gì thay đổi sau
bao nhiêu cực nhọc ?" Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ
tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu
mến, rồi mẹ từ tốn nói: "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng
mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh
rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao ?"
Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêsa thản
nhiên tiếp tục cuộc đối thoại: "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai
giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa ?" Chàng ký giả đáp: “Dạ rồi” – "Vậy anh cũng nên nói với vợ và
như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa ?" – "Thưa mẹ, ba đứa !" – "Tốt lắm. Vậy
anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong !" ( Sr. Jean
Berchmans Minh Nguyệt. Mẹ Têrêsa Calcutta ).
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương yêu
mặc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng tự nhận mình bé mọn,
chỉ là một giọt nước trong, một giọt nước long lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, dù Mẹ đã làm biết
bao kỳ công giúp đỡ người nghèo khổ tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.
Hèn mọn bản thân
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem với dáng dấp hài nhi bé bỏng yếu đuối, thì những kẻ chăn
chiên, những mục đồng bé mọn lại là những người đầu tiên được vinh dự đến thăm Hài Nhi. Đến khi đi
3
rao giảng, Người mời gọi mọi người hãy sống đơn sơ, ngây thơ, trong trắng, chân chất, thật thà, thân
thiện, hòa nhã như trẻ em, để được Ơn Cứu Độ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại,
mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” ( Mt 18, 3 ).
Bí quyết cải lão hoàn đồng không phải trẻ lại thân xác mau hư nát, mà canh tân, đổi mới tâm
hồn, bỏ đi những thói hư tật xấu, toan tính, lọc lừa, tất cả cái khôn ngoan thế gian, mà sống vô tư, phó
thác hoàn toàn vào Chúa Quan Phòng, như em bé âu yếm nép vào lòng mẹ che chở.
Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người
đoái thương nhìn tới”, chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân
hưởng tình yêu Chúa.
Hèn mọn với tha nhân
Trở nên bé mọn với tha nhân là khiêm nhường, hạ mình xuống, nhu mì, nhân ái, xóa tan đi cái
tôi tự cao, tự đại, mà tình nguyện coi mình là người đầy tớ phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu đã quỳ
xuống rửa chân cho các môn đệ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh
em cũng phải rửa chân cho nhau” ( Ga 13, 14 ).
Trở nên bé mọn là hiền lành và nhẫn nhục, nhường nhịn, nhân ái, không còn kiêu căng, ngạo
mạn, củng cố địa vị, chỗ đứng, so đo, ganh đua, kèn cựa với bất kỳ ai. “Ai muốn kiện tụng hầu đoạt
chiếc áo cánh của ngươi, hãy nhường cả áo ngoài cho họ. Ai bắt ngươi đi một dặm đường, ngưoi hãy đi
với nó hai dặm nữa. Ai xin ngươi cứ cho, họ muốn vay mượn ngươi đừng từ chối” ( Mt 6, 40 – 42 ).
Trở nên hèn mọn là vui lòng chịu đựng những sự khốn khổ do cường quyền, ác nhân áp bức,
hành hạ, tra tấn, bỏ tù, sát hại, bức tử vì danh Chúa. “Đừng chống cự với người ác. Trái lại, nếu ai tát
má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ nữa” ( Mt 6, 39 ).
Thánh Phaolô cũng hết lòng khuyên nhủ sống khiêm hạ: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư
danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” ( Pl 2, 3 ).
Hèn mọn với Thiên Chúa
Noi gương Đức Giêsu, Người trở nên hèn mọn trước mặt Đức Chúa Cha, hóa thân làm phàm
nhân, người Kitô hữu cũng nhìn nhận mình là tạo vật hèn mọn, chẳng là chi cả trước Thiên Chúa, như
bắt chước người thu thuế đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực
vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" ( Lc 18, 13 ).
Hoặc khi làm được bất cứ việc chi tốt lành, hãy nhận lấy thân phận hèn mọn, đầy tớ bất xứng
mà thưa cùng Chúa, như Người đã từng dạy: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều
chúng tôi phải làm" ( Lc 17, 10 ).
Thánh Phêrô còn minh định thêm về đức khiêm nhường: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo,
nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên
Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định” ( 1Pr 5, 5 – 6 ).
Khi một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ chúc mừng Mẹ Têrêsa được trao giải thưởng
Nobel Hòa Bình năm 1979, thì Mẹ vui vẻ đáp lại: “Tất cả vì vinh quang Chúa !”
“Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo
như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp” ( Đường Hy Vọng, số 517 ).
Lạy Chúa Giêsu, luôn hiền hậu và khiêm nhường, xin ban cho chúng con biết sống hèn
mọn ngay với bản thân, với tha nhân và nhất là với Thiên Chúa cao cả, để có hiệp thông vào mầu
nhiệm Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, trở nên đầy tớ hèn mọn, để được
Chúa đoái thương nhìn đến. Amen.
AM TRẦN BÌNH AN
HÃY CẦM LẤY VÀ ĐỌC
Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy về đời sống Đức Tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân
bản. Những ai học theo giáo huấn của Người sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và do đó
sẽ thành công trong cuộc đời. Sứ điệp Chúa Giêsu gởi đến Chúa Nhật hôm nay là: “Anh em hãy học với
Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường” ( Mt 11, 29 ).
Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm
tâm thế bên trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về người khác,
yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ nhàng, tôn trọng.
4
Khiêm tốn là chấp nhận đứng thấp, ở dưới, như Gioan Tẩy Giả khiêm tốn “Người phải lớn lên,
còn tôi phải nhỏ bé lại”.
Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương trong lòng. Người luôn yêu thương người khác. Đặc biệt là
những người bé mọn. Người luôn muốn và làm điều tốt cho mọi người. Người không lên án, không thành
kiến với những người mà xã hội coi là xấu xa, tội lỗi. Lời nói và hành động của Người luôn toả ra sự dịu
dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Người không nặng lời, không kết án, Người sống bằng tình thương.
Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với
người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị ta. Những người này tự cho mình là
công chính. Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò, Người chỉ thinh lặng cúi xuống hiền
từ dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước
đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay
đừng phạm tội nữa” ( x. Ga 8, 1 – 11 ).
Chúa Giêsu dạy chúng ta sống hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người
mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” ( Lc 15, 4 – 7 ). Người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát
tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên
chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” ( Lc 15, 11 – 32 ). Người cha không
mắng chửi đứa con đầy lầm lỗi trở về, cũng không cãi cọ, không xua đuổi mà lại ôm hôn và dọn tiệc ăn
mừng. Chúng ta có thể kể rất nhiều ví dụ trong Phúc âm về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng
đi xuống. Từ trời cao, Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình
xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm
một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là
Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống
những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ.
Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người.
Ôi lạ lùng thay ! Sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu ngạo,
muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi con người thấp hèn,
muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con
người lên. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình
để phục vụ. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy tình yêu. Hạ
mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên Chúa. ( Tgm. Ngô Quang Kiệt ).
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên
những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp
được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ
bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì
Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều
này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là
điều đẹp lòng Cha” ( Mt 11, 25 – 26 ).
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: Hãy
học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng ( Mt 11,
29 ). Vậy hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền
lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa
mà Thiên Chúa sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được
nguồn bình an cho tâm hồn ( Mt 11, 28 ). Hãy học bài học Giêsu,
hãy học với Thầy Giêsu.
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc
đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến
thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc
vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông thả
theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi.
Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị,
Augustinô bỗng nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” ( hãy cầm lấy và đọc ). Augustinô
thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo
đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo Thánh Thần”.
Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài
là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân.
5
Trở nên một Giáo Phụ, một triết gia, một thần học gia, một vị Thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo
Hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh Kinh.
Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời
Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin
Mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí Tích
Hoà Giải và Bí Tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể. Đó là sứ điệp Lời Chúa gởi đến cho
chúng ta trong Chúa Nhật này.
Học với Thầy Giêsu suốt đời, lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên
khiêm tốn như trẻ thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế giới
của Thiên Chúa.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
MANG ÁCH CỦA CHÚA SẼ GẶP ĐƯỢC BÌNH AN
Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với
cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi
những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của
Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề.
Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì
ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.
Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha
đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những
kẻ bé mọn” ( Mt 11, 25 ). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”, nhưng đặt một điều kiện, đó là:
“Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” ( Mt 11, 29 ).
Cái “ách đó” là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên ? Ách của
Chúa Giêsu là luật của tình yêu
thương, là giới răn mà Người đã để
lại cho các môn đệ Người ( x. Ga 13,
34; 15, 12 ).
Nói đến cái “ách”, luật Do
Thái được xem như đặc quyền của
họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của
Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng
ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự
khôn ngoan của Thiên Chúa và ban
tặng những cái ách ấy cho ai đón
nhận Người. Chúa Giêsu chính là
mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và
ý muốn của Thiên Chúa cho con
người. Người mời gọi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” hãy đến với Người,
hãy tin vào Người, “Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho” ( Mt 11, 28 ).
Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta
mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng.
Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu
mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một
chuyến xe cuộc đời, chắc chắn sẽ đỡ vất vả hơn, sẽ di chuyển được nhanh hơn. Đó chính là điều Chúa
Giêsu làm cho mỗi người chúng ta.
Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay
Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức
Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không ? Ách của Người không phải là
gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng ( x. Mt 11, 30 ). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta
đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một Đấng “cùng mang
ách” với chúng ta.
Ở đoạn trước trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh
thần nghèo khó” ( Mt 5, 3 ) như thể đã có được Nước Trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến
“những kẻ bé mọn” ( Mt 11, 25 ) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh,
6
họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe
khoang, vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.
Tiên tri Dacaria nói đến vị Vua Mêssia lên Giêrusalem, cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ,
nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã
mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã
cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta hãy mang lấy ách của
sự khiêm nhường và hiền hậu, của niềm tin vào tình
thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người
cứu giúp: “Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng
ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có
sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những
phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà
không mệt” ( Is 40, 30 – 31 ).
Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào
lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc
bổ sức như lời Người hứa; và giảm bớt gánh nặng đè trên
chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta.
Có người viện cớ hỏi: Vậy tại sao Thiên Chúa không
cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần
cho tất cả các gánh nặng ? Thưa là vì Ngài không muốn cứu
chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho
chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.
Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé
mọn nghĩa là những người không cậy dựa vào sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào
Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc
khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được.
Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của
Thiên Chúa là Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người
con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con
được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải
cho biết mầu nhiệm Nước Trời.
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “học” nơi Chúa
Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội
tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chị em khác đang mệt nhọc
bước đi trên con đường cuộc sống. Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
KHÚC TẠ ƠN
Tạ ơn là cảm tạ, cảm ơn, tri ân, biết ơn, nhớ ơn. Sống trên đời,
không ai là một ốc đảo, nghĩa là luôn có mối liên đới với người khác,
bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp. Không ai lại không
thọ ân của người khác, đơn giản nhất là nhờ ông bà, cha mẹ, anh chị
em, hàng xóm, thầy cô, bạn bè... Tục ngữ nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Đó là tiền nhân muốn nhắc nhở chúng ta về lòng biết ơn.
Biết ơn là biết tự trọng, biết tôn trọng người khác, là người có giáo
dưỡng, là người khiêm tốn và trọng chữ tín. Trong tập “Những Lời Khai Thị
Vàng Ngọc”, Tịnh Không Pháp Sư viết: “Hãy biết ơn những người khiển
trách ta, vì họ giúp ta tăng trưởng định tuệ; hãy biết ơn những người làm ta vấp ngã, vì họ khiến năng
lực của ta mạnh mẽ hơn; hãy biết ơn những người bỏ rơi ta, vì họ đã dạy cho ta biết tự lập; hãy biết ơn
những người đánh đập ta, vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta; hãy biết ơn những người lường gạt
ta, vì họ tăng tiến kiến thức cho ta; hãy biết ơn những người làm hại ta, vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta;
hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được kiên định và thành tựu”. Những ý tưởng thật là cao
thượng, ai sống đúng được như vậy thì đúng là vĩ nhân rồi !
7
Phàm nhân mà người ta còn biết được như vậy thì thật đáng quý. Và có lẽ nhờ đó mà chúng ta
không còn ngạc nhiên, và có thể hiểu được lý do Chúa Giêsu bảo chúng ta phải yêu kẻ thù: “Hãy chúc
lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” ( Lc 6, 28 ). Luật yêu của Ngài
khác Cựu Ước, có vẻ “ngược đời” lắm, nhưng đó lại là nghịch-lý-thuận. Quả thật, hiểu cho sâu xa thì ai
cũng là ân nhân của chúng ta, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nghĩa là chúng ta luôn phải biết ơn
người khác. Với Thiên Chúa, chúng ta càng phải biết tạ ơn nhiều hơn và tạ ơn không ngừng. Tạ ơn phải
được lặp đi lặp lại rất nhiều lần như một điệp khúc của bài trường ca vậy !
Tác giả Thánh Vịnh đã tự vấn và tự trả lời: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành
Người đã ban cho ? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” ( Tv 116 [ 114 –
115 ], 12 – 13 ). Tạ ơn Thiên Chúa là bổn phận của chúng ta, việc đó chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại
sinh ơn cứu độ cho chính chúng ta. Kỳ diệu quá!
Nói tới động thái tạ ơn, chúng ta có thể nhớ lại chuyện mười người phong hủi, chuyện thật chứ
không là dụ ngôn. Cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người ngoại bang trở lại tạ ơn
Chúa Giêsu ( Lc 17, 11 – 19 ). Như vậy, chắc chắn chín người kia là “đạo gốc”, vô ơn vì có lẽ tưởng
mình là “ngon”. Câu chuyện này “nhắc khéo” chúng ta về việc chúng ta thường vô ơn bội nghĩa đối với
Thiên Chúa và tha nhân.
Chuyện này cũng phần nào liên quan lời Chúa Giêsu khi Ngài nói về người môn đệ chân chính:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ
ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Có những
người nhân danh Chúa mà nói tiên tri, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ,... nhưng Chúa Giêsu không hề biết
họ: “Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” ( Mt 7, 23 ). Chúng ta làm những việc mà
chúng ta tưởng là “việc đạo đức” nhưng với Chúa thì chỉ là “việc gian ác”. Coi chừng, vì không khéo thì
chúng ta có thể ở trong đám người ấy, và nếu như thế thì thật khốn nạn !
Người khiêm nhường biết nhớ ơn là người vui vẻ, không ưu sầu. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi:
“Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức
Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên
lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” ( Dcr 9, 9 ). Lý do để chúng ta vui mừng rất rõ ràng. Thiên
Chúa đến với chúng ta bằng nhiều cách, dạng phổ biến nhất là Hồng Ân, là Thánh Ân của Ngài. Vì thế
mà chúng ta không thể không biết tạ ơn Ngài. Ngài còn đến với chúng ta qua từng người chúng ta gặp
hằng ngày, và rồi chúng ta cũng phải biết ơn những người chúng ta gặp – dù họ là ai, vì ai cũng có cái
để chúng ta học hỏi – đúng để theo, sai để tránh.
Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài là Đấng cứu thoát
chúng ta khỏi kẻ thù và làm cho chúng ta được an cư lạc
nghiệp: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến
mã khỏi Giêrusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy,
và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị
từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất”
( Dcr 9, 10 ). Vả lại, “chẳng ai có thể nhận được gì mà không
do Trời ban” ( Ga 3, 27 ). Vậy thì không tạ ơn sao được chứ ?
Điệp khúc Tạ ơn là bài ca nguyện tuyệt vời và cần
thiết, phải được lặp đi lặp lại từng ngày trong suốt cuộc đời:
“Lạy Thiên Chúa con thờ, là Vua của con, con nguyện tán
dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh
muôn thuở muôn đời” ( Tv 145, 1 – 2 ).
Thiên Chúa vui lòng thì có lợi cho chúng ta vô cùng.
Tuy nhiên, chúc tụng Chúa khi cuộc đời chúng ta xuôi chèo
mát mái thì không có gì đáng nói, nhưng thật đáng nói nếu
cuộc đời chúng ta luôn gặp trắc trở, số kiếp luôn lận đận, như
Thánh Gióp là tấm gương sáng chói.
Sau khi bị mất tất cả, từ tài sản tới con cái, bản thân
ông cũng bị bệnh tật, mọi người đều xa tránh, nhưng ông vẫn
trung tín với Thiên Chúa. Ông xác định: “Thân trần truồng sinh
từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng
danh Đức Chúa !” ( G 1, 21 ). Cả đời chúng ta cũng không thể so sánh với một góc nhỏ của Thánh Gióp.
Niềm tin của Thánh Gióp lớn lao quá ! Nhưng niềm tin đó không mơ hồ hoặc ảo tưởng, mà hoàn
toàn chính xác, như tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu
8
tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy
Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng:
triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến
công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” ( Tv 145, 8 – 12 ).
Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” ( 1
Sm 2, 6; Kn 16, 13 ), Ngài “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao” ( 1 Sm 2, 6 –
7 ). Nghe có vẻ “oải” quá! Không phải vậy đâu. Ngài vẫn “thành tín trong mọi lời Ngài phán, và đầy yêu
thương trong mọi việc Ngài làm. Ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên”
( Tv 145, 13 – 14 ). Tác giả Thánh Vịnh đã trải nghiệm và tạ ơn: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con
lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” ( Tv 30, 4 ). Đúng là Hồng Ân chồng lên Hồng Ân.
Tạ ơn Chúa là điều hoàn toàn hợp lý !
Tuy nhiên, trong cuộc sống
chúng ta lại thường xuyên hành động
trái ngược, biết mà không làm. Chúa
Giêsu cũng đã nhắc nhở: “Tinh thần
thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu
hèn” ( Mt 26, 41; Mc 14, 38 ). Thân
xác thật nặng nề, nặng hơn đá đeo !
Chúng ta vẫn lòng chai dạ đá, chỉ “ưa
thích chuyện hư không, chạy theo
điều giả dối” ( Tv 4, 3 ).
Thánh Phaolô chia sẻ kinh
nghiệm: “Vì tính xác thịt thì ước muốn
những điều trái ngược với Thần Khí,
còn Thần Khí lại ước muốn những
điều trái ngược với tính xác thịt, đôi
bên kình địch nhau, khiến anh em
không làm được điều anh em muốn” ( Gl 5, 17 ). Thần Khí Chúa rất quan trọng trong đời sống chúng ta,
vì chính Chúa Thánh Thần đã tác động và biến đổi chúng ta, như Thánh Phaolô nói: “Anh em không bị
tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai
không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô” ( Rm 8, 9 ).
Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm
cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng
Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới. Vậy
thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác
thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt
trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” ( Rm 8, 11 – 13 ). Quả
thật, chúng ta luôn là “con nợ” của Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng con nợ cũng vẫn phải biết ơn, vì
mắc nợ cũng là thọ ân vậy.
Hồng Ân lớn nhất mà chúng ta mắc nợ Chúa Giêsu, và phải nhớ mà tạ ơn Ngài, đó là ơn cứu tử
của Ngài dành cho chúng ta: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” ( Ga 10, 15 ). Vâng, chính cái
chết của Ngài là Hồng Ân cao cả, không gì sánh bằng, và chẳng bao giờ chúng ta có thể đền ơn đáp
nghĩa. Nhưng Ngài không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta, mà Ngài chỉ cần chúng ta biết tin yêu Ngài và tạ ơn
Ngài trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ. Điều kiện có khó gì đâu, thế mà chúng ta
vẫn chỉ “hứa lèo”, có máu di truyền của Chú Cuội, hứa nhiều mà giữ chẳng bao nhiêu. Tồi tệ thật đấy !
Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài cất tiếng tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha là
Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết
những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”
( Mt 11, 25 – 26 ). Ngài là Sư Phụ hiền lành và khiêm nhường ( Mt 11, 29 ) nên Ngài chỉ thích những
con người “hèn mọn” mà thôi.
Sau khi dâng lời tạ ơn, Chúa Giêsu cho biết: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai
biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người
Con muốn mặc khải cho” ( Mt 11, 27 ). Ai khiêm nhường thì Ngài sẽ mặc khải cho những điều bí ẩn.
Chắc chắn như vậy. Và Ngài luôn mời gọi mọi người, không trừ ai: “Tất cả những ai đang vất vả mang
gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và
hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” ( Mt 11, 28 – 30 ).
9
Thật vậy, ách của Ngài là ách êm ái, gánh của Ngài là gánh nhẹ nhàng. Không ai lại không vất
vả và mang gánh nặng nề, không cách này thì cách khác, dù theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen, có
nghĩa là không ai lại không cần đến Ngài. Cuộc đời có rất nhiều thứ chúng ta phải “gồng mình” mà
chịu đựng, thậm chí có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và hầu như kiệt sức. Cái ách thô ráp và
cái gánh nặng trĩu ở đâu cũng có, dù trong gia đình hoặc cộng đồng tu trì. Nhưng có lẽ chúng ta chưa
thực sự kề vai vào gánh vác Ách và Gánh của Chúa Giêsu nên chúng ta vẫn thường “than thở” đủ
thứ, than trách đủ kiểu. Thế mới biết phàm nhân yếu hèn quá đỗi, vậy mà vẫn “chảnh” lắm, lúc nào
cũng chỉ rình nổi loạn mà thôi !
Chúng ta được sinh ra làm người là một đại ân. Được lành lặn và khỏe mạnh là một đại ân nữa.
Chúng ta lài được Chúa Giêsu cứu độ, đó là một đặc ân khác. Như vậy, chúc tụng và tạ ơn là một trong
các bổn phận hàng đầu mà chúng ta phải thực hiện đối với Thiên Chúa. Có nhiều cách, một cách đơn
giản là tránh tội: “Hãy run sợ, và đừng phạm tội nữa, trên giường nằm, suy nghĩ và lặng thinh” ( Tv 4, 5 ).
Một cách khác cũng đơn giản là ca hát: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và
Thánh Ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” ( Ep 5, 19 ).
Ca dao Việt Nam nói: “Ai mà phụ nghĩa quên công / Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.
Quả thật, lòng biết ơn rất quan trọng, dù chúng ta đang đứng trên đỉnh núi Tabor hoặc Canvê. Dễ tạ ơn
khi phấn khởi ở trên Tabor, nhưng rất khó tạ ơn khi ủ rũ ở trên Canvê. Hằng ngày, một lời cảm ơn rất
đơn giản nhưng lại rất thường bị lãng quên ! Cuộc đời chúng ta là bản “trường ca tạ ơn” vô tận, với ai
cũng vậy mà thôi. Trong đó có những “nốt tình” khác nhau về trường độ và cao độ, mỗi “nốt” có vị trí
khác nhau nhưng vẫn luôn hài hòa để tạo thành bản tổng phổ hoàn chỉnh.
Lạy Thiên Chúa, chúng con chân thành xin lỗi Ngài vì đã bao lần chúng con vô ơn bội
nghĩa với Ngài và với tha nhân. Xin thêm cho chúng con được dồi dào ba đức đối thần và các
đức đối nhân để chúng con vui mừng vác thập giá hằng ngày mà theo Đức Kitô lên đỉnh đồi
Canvê. Xin giúp chúng con biết sống chân thành yêu thương nhau để hoàn thiện như Ngài.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
PHONG CÁCH PHANXICÔ
Bài 12. Thánh Lễ cuộc đời
Pamela Mauro đã cho rằng Papa Phanxicô không thể
nào ghé thăm nhà chị được, “Nhưng với phong cách của ngài,
thì có thể lắm”. Cha mẹ của chị và cô em gái bị khuyết tật nặng
Roberta sống tại Calabria. Nhà của họ nằm trên con lộ chính
Papa Phanxicô sẽ đi qua trên đường đến dâng Thánh Lễ tại
Sibari vào ngày thứ bẩy 21.6.2014 cho 250 ngàn người. Họ
dựng lên một tấm bảng bên vệ đường với nguyên văn tiếng Ý là
“Papa Francesco”. Người Ý và toàn thế giới Công Giáo rất
thường gọi Giáo Hoàng là Papa, chữ thân thương trìu mến mà
họ gọi cha đẻ của mình, trong khi người Việt chỉ biết gọi ngài là
Đức Thánh Cha hay Đức Giáo Hoàng. Trước cửa nhà, họ dựng
lên các tấm bảng khác
với nội dung “Xin dừng
lại” và “Ở đây có một Thiên Thần đang chờ đón ngài.”
Quả thực Papa Phanxicô đã dừng lại, giữa những tiếng reo
hò “Bravo, Francesco ( Hoan hô Phanxicô ). Ngài bước ra khỏi xe
để ban phép lành cho cô Roberta. Ngài chỉ dùng một cái xe con
con tầm thường thôi, ngồi trong đó rất là chật chội, bây giờ nhiều
người Việt Nam, kể cả một số không ít Giáo Sĩ còn mua xe hoành
tráng hơn cho mình. Có thể xem lại cuộc gặp gỡ ngắn và bất ngờ
này tại: www.youtube.com/watch?v=oVCrfNqQLWQ và có thể
thêm xem hình chụp tại http://foto.ilgazzettino.it/CRONACA/foto/0-
72602.shtml?idArticolo=759349
10
CÙNG NHẬN ĐỊNH
Phong cách của Papa Phanxicô theo mẫu gương Thánh Phanxicô Assisi đang cảm hóa rất nhiều
người trên thế giới.
Mới đây, ngày 8.6.2014, Papa Phanxicô đã thực hiện được một kỳ tích mà trước đây không ai có
thể tưởng tượng được là mời cả hai nguyên thủ của quốc gia không đội trời chung là Israel và Palestine
cùng đến Vatican để cùng cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
Cả ba tôn giáo lớn Kitô Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo đều tôn thờ
một Thiên Chúa Duy Nhất và đều công nhận Abraham là Tổ Phụ của
Lòng Tin của mình.
Kitô hữu chúng ta tin rằng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là Lời
Mặc Khải duy nhất và tối thượng của Thiên Chúa, hơn thế nữa, Chúa
Giêsu còn chính là Thiên Chúa Làm Người.
Nếu Thiên Chúa đã tự
muốn trở nên một con người
bình thường như mọi người,
kể cả bạn và tôi, tức là Người
đã coi con người như đồng
hàng với mình và cuộc đời
mỗi người, dù rất khác biệt,
đều có một giá trị tuyệt đối
như chính cuộc đời mà Người
đã sống trên trần gian này.
Ít có ai nói lên được sự tuyệt vời khôn tả của mầu
nhiệm Thiên Chúa Làm Người một cách cô đọng mà súc tích
như Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas ( Opusc. 57, 1 – 4 ), câu
này được đưa vào Sách giáo lý chính thức của Hội Thánh ( đoạn 460 ): Con duy nhất của Thiên Chúa
muốn chia sẻ với chúng ta thần tính của Người khi đón chịu lấy bản tính con người, nhờ thế mà Người
cũng làm cho con người trở thành Thiên Chúa. ( The only-begotten Son of God, wanting to make us
sharers in his divinity, assumed our nature, so that he, made man, might make men gods ).
Ngày 19.6.2014, Vietcatholic đưa tin: Trước mặt Linh Mục đại diện Chúa Kitô và cộng đoàn, tối
ngày 18.6.2014, 50 bạn trẻ đã cử hành Bí Tích Hôn Phối cách long trọng tại Nguyện Đường Giáo Xứ
Thuận Nghĩa ( cột tre, mái lá ). Giây phút hạnh phúc này là hoa trái của một tình yêu tinh tuyền mà các
đôi trai gái đã trao gửi cho nhau qua một thời gian dài gặp gỡ, tìm hiểu. Qua một tháng miệt mài học hỏi
Giáo Lý Hôn Nhân, hôm nay các anh chị đã tiến tới cử hành Bí Tích Hôn Phối tại Nguyện Đường Giáo
Xứ. Hôn nhân gia đình là nền tảng và mốc điểm khởi đầu cho sự phát triển của Giáo Hội. Với số lượng
12 ngàn Giáo Dân, mỗi năm giáo xứ Thuận Nghĩa tổ chức ba khoá học hôn nhân cho các bạn trẻ để
đáp ứng nhu cầu mục vụ. Nguyện cầu cho các bạn trẻ lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối hôm nay luôn có
Chúa đồng hành để giữ mãi phút giây hạnh phúc của ngày lễ.
Xem hình tại https://www.flickr.com/photos/vietcatholic/14435330786/in/set-72157645242132942
Nguồn http://www.vietcatholic.net/News/Html/125605.htm
Cùng ngày hôm đó còn có tin: 5 Giám Mục và 200
Linh Mục tham dự Lễ An Táng tiễn đưa cha Albertô Trần
Phúc Nhân. Cha Albertô Nhân người gốc Giáo Phận Phát
diệm, là một Linh Mục trong gia đình có 3 anh em Linh Mục
khác là Trần Phúc Long, Trần Phúc Vỵ, Trần Phúc Vinh
Hạnh và có 3 chị em Nữ Tu.
Cha Nhân mới đây về hưu trí tại nhà Dưỡng Lão
Chí Hòa, sau một cơn đau tim, cha đã qua đời ngày 17
tháng 6 hưởng thọ 82 tuổi và phục vụ trong thiên chức Linh
Mục 56 năm. Đám tang của cha Nhân được tổ chức ngày
18 tháng 6 năm 2014, tại Nhà Thờ Chí Hòa Sàigòn, dưới
sự chủ sự của Tổng Giám Mục Sàigòn Phaolô Bùi Văn
Đọc. Đồng tế trong Thánh Lễ An Táng có bốn vị Giám Mục
từ các Giáo Phận khác nhau trong cả nước và hơn 200
Linh Mục. Trong một bài giảng dài, Đức Tổng Giám Mục
nói về phẩm chất gương mẫu của cha Albertô như là
gương sống hiếm hoi của các Linh Mục, và là người bạn của Tổng Giám Mục.
Nguồn http://www.vietcatholic.net/News/Html/125611.htm
11
Đây chính là đặc điểm khá nổi bật của Nhà Thờ Việt Nam. Các Linh Mục rất được quý trọng một
cách hoàn toàn chính đáng. Giữa hàng Giáo Sĩ với nhau có một sự gắn bó hỗ tương cao cả và bền
chặt. Một Linh Mục qua đời được 5 Giám Mục và 200 Linh Mục từ mọi miền đất nước lũ lượt về đồng tế
Thánh Lễ An Táng, một việc rất thường xuyên xẩy ra, là một hình ảnh trên cả tuyệt vời. Cũng tuyệt vời
không kém là hình ảnh 50 bạn trẻ cùng đón nhận Bí Tích Hôn Nhân ( cũng thường xuyên xẩy ra ) với
một Linh Mục duy nhất tại một Nhà Thờ miền quê nghèo phải dựng bằng cột tre và lợp mái bằng lá. Tất
cả đều là những Thánh Lễ cao cả của cuộc đời và có những ý nghĩa khác nhau tùy theo tầm nhìn.
Đâu là tâm tình và thái độ mà Đức Kitô muốn ta có ? Phanxicô đã sống với phong cách
Phanxicô. Papa Phanxicô đang làm thế giới phải bàng hoàng với phong cách của ngài khi dừng chân
bên vệ đường để chúc lành cho một cô bé tật nguyền. Đâu là phong cách mà ta, với tư cách là môn đệ
Đức Kitô, cũng phải có ?
5 Giám Mục và 200 Linh Mục tham dự Thánh Lễ An Táng cho cha Trần Phúc Nhân đều mang
những trọng trách rất nặng nề và quỹ thời gian cũng rất eo hẹp, nhiều vị có khi còn đa đoan hơn cha xứ
Thuận Nghĩa nữa.
Tại sao sau 500 năm, tỷ lệ Kitô hữu tính trên tổng số dân Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ ? Đâu
là mũi nhọn các hoạt động của Nhà Thờ Việt Nam ?
Lời Chúa để cho ta rao giảng cho người khác hay còn để cho ta sống và thực hành. Có bao
nhiêu cuộc đời quanh ta phải hư đi vì ta chẳng hề làm điều chi cho họ cả ? Đâu là điều bận tâm nhất
của ta, không làm không được, mà vì phải làm nên ta đành bỏ qua nhiều điều khác.
“Anh em nghĩ sao ? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín
con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người
ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng
ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” ( Mt 18, 12 – 14 ).
NGUYỄN TRUNG
CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC
Đúng một năm sau sự kiện
11 tháng 9 tại Mỹ, vào ngày
11.9.2002, trung tướng Lưu Á
Châu khi ấy là chính ủy bộ đội
không quân quân khu Thành Đô
đã có bài nói chuyện dành cho các
cấp cán bộ từ tiểu đoàn trưởng trở
lên để bàn về mối tương quan
giữa Dân Chủ và Đạo Đức trong
đó ông kịch liệt phê phán thái độ
thiếu đạo đức của một bộ phận
người dân Trung Quốc:
“Vụ 11/9 năm ngoái là sự
việc có thể khảo nghiệm trình độ
đạo đức của dân ta nhất. Hôm nay
vừa đúng tròn một năm sự kiện ấy. Vụ 11 tháng 9 tuy không thể thay đổi thế giới nhưng đã thay đổi
nước Mỹ. Đồng thời thế giới sau ngày ấy khó thể trở lại trước sự kiện này. Khi xảy ra vụ 11 tháng 9 có
người bạn gọi điện thoại cho tôi nói: sinh viên Đại Học Bắc Kinh và Đại Học Thanh Hoa đang khua
chiêng gõ trống. Tôi bảo đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc còn chưa lọt vào vòng sau kia mà, phải
đến mồng 7 tháng 10 đội Trung Quốc mới đấu trận cuối cùng với đội Liên Hiệp Vương Quốc A Rập, nếu
thắng thì sẽ lọt vào danh sách dự World Cup. Một lúc sau mới biết thì ra sinh viên Trung Quốc đang
chúc mừng việc Tòa Tháp Đôi Mỹ bị đánh sập” ( Nguồn: Tuanvietnam.net 20.6.2014, Tướng Trung
Quốc bàn về niềm tin và đạo đức ).
Đối với sinh viên dẫu sao cũng được kể là tinh hoa dân tộc, đã vậy, còn các nhà báo có nhiệm
vụ phô diễn bộ mặt quốc gia thì sao ? “Báo chí nước ngoài đưa tin: Hồi ấy có một đoàn nhà báo Trung
Quốc đang ở thăm Mỹ khi thấy hình ảnh tòa nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới bị đánh sập, các
12
CÙNG BÌNH LUẬN
thành viên đoàn nhà báo này bất giác vỗ tay. Đây là một dạng ngấm văn hóa. Điều đó không thể trách,
bọn họ đã không thể kiềm chế được bản thân” ( Nguồn: Tuanvietnam. Net, bài viết đã dẫn ).
Cái dạng… ngấm văn hóa vui mừng vỗ tay trước nỗi đau của người khác theo Lưu Á Châu nó là
thứ văn hóa truyền thống của giai cấp phong kiến xưa kia: “Người Trung Quốc xem cảnh giết người
khác không ai không vui mừng phấn khởi. Giai cấp thống trị cố ý đem người ta ra giết hại nơi đông
người. Kẻ bị thống trị thì hưởng thụ tại nơi đông người cái cảm giác khoái trá của kẻ thống trị. Nhất là
khi xử tử bằng kiểu tùng xẻo, kéo dài ba ngày, người xem đông nghìn nghịt” ( Nguồn: Tuanvietnam.net,
Tướng Trung Quốc… đã dẫn ).
Bởi nguyên nhân nào mà ông tướng không quân được biết tới như một nhà văn có tiếng, chủ
nhân của nhiều giải thưởng văn học lại có thể nhận định văn hóa truyền thống Trung Quốc một cách
lệch lạc như vậy ? Theo tôi đó là vì ông ta đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của học thuyết Duy Vật Mácxít.
Chính do nơi ảnh hưởng này mà Lưu Á Châu đã cho rằng:
“Trung Quốc không có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược. Hegel từng nói Trung Quốc không có
triết học. Tôi cho rằng mấy nghìn năm nay Trung Quốc chưa sản sinh được nhà tư tưởng nào. Nhà tư
tưởng tôi nói là những người như Hegel, Socrate, Plato những nhà tư tưởng ấy có cống hiến to lớn đối
với tiến trình văn minh nhân loại. Lão Đam ( Lão Tử ) bạn nói là nhà tư tưởng phải không. Chỉ dựa vào
Đạo Đức Kinh 5.000 chữ mà có thể làm nhà tư tưởng ư ? Đấy là chưa nói Đạo Đức Kinh có vấn đề.
Khổng Tử có thể coi là nhà tư tưởng chăng ? Thế hệ chúng ta xem xét ông thế nào ? Tác phẩm của ông
bị xem xét ra sao ? Tác phẩm của ông chưa từng cung cấp cho nội tâm người Trung Quốc một hệ thống
giá trị có thể đối kháng quyền lực thế tục. Cái mà ông cung cấp là tất cả xoay xung quanh quyền lực.
Nếu Nho học là một tôn giáo thì đó là một tôn giáo rởm. Nếu là tín ngưỡng thì là tín ngưỡng rởm. Nếu là
triết học thì đó là triết học của xã hội quan trường hóa. Xét trên ý nghĩa này thì Nho học có tội với người
Trung Quốc” ( Nguồn: Tuanvietnam.net, Tướng Trung Quốc… đã dẫn ).
Phê phán cả Lão Tử lẫn Khổng Tử cho rằng hai con người này không có cống hiến gì cho văn
minh nhân loại giống như các triết gia Tây Phương: Hegel, Socrat, Plato… Điều ấy chứng tỏ đầu óc của
ông tướng này đã… ngấm nặng ý hệ Duy Vật đến nỗi xổ toẹt toàn bộ di sản văn hóa không những chỉ
riêng của Trung Hoa mà còn của cả nhân loại. Với việc chối từ này chúng ta cũng không lạ gì với việc
mà ông ta nêu lên những tệ hại của cái gọi là văn hóa truyền thống mà thực chất là của Trung Quốc nói
riêng và của các chế độ CS nói chung trong thời hiện đại.
Những tệ hại được nêu lên ấy đại khái như là “Thuật Ngụy Biện". Ngụy biện chẳng qua là sự nói
dối. Có thể nói chế độ Cộng Sản là tập đại thành của dối trá. Giáo sư Trần Phương cựu phó thủ tướng,
cựu bộ trưởng Bộ Nội Thương ( 1981 – 1982 ) cựu ủy viên Trung Ương Đảng đã được Ban Giám Hiệu
trường Phan Chu Trinh mời đến nói chuyện với các giáo viên của trường nhân dịp ông vào công tác tại
Đà Nẵng ( 1987 ): “Nhưng mà hôm nay nói ra để nói rõ rằng chúng ta có rất nhiều cái mơ hồ và chính vì
cái mơ hồ trong tư tưởng đó cho nên cương lĩnh đầy rẫy những cái sai. Ông nói Chủ Nghĩa Xã Hội mà
ông không hiểu nó là cái chi cả. Ông nói định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa mà ông không biết cái định
hướng nó là cái gì. Ông nói là nền dân chủ Xã Hội Chủ Nghĩa mà ông cóc hiểu dân chủ Xã Hội Chủ
Nghĩa khác cái Dân Chủ Tư Sản là cái gì…” ( Nguồn: Nguoilotgach.blogspot 20.10.2013, Chúng ta tự
lừa dối chúng ta và chúng ta lừa dối người khác ).
Đã tự lừa dối mình thì không có cách chi không lừa dối người khác và hậu quả của sự lừa dối ấy
tất nhiên chỉ có thể đưa đến sự tàn nhẫn bất công. Xã hội Trung Quốc và những xã hội Cộng Sản khác
ngay cả khi đã chối bỏ nó, như Liên Bang Nga hiện nay, cũng vẫn chịu ảnh hưởng rất nặng của chủ
nghĩa duy vật và độc tài.
Một khi đã nhiễm óc duy
vật rồi thì chỉ còn biết có
mình, coi người khác hoàn
toàn như những đối tượng
để khai thác trục lợi. Lợi
dụng được thì gọi nhau là
đồng chí. Ngược lại thì trừ
khử giết hại không thương
tiếc. Đã biết bao chứng cớ
về sự thanh toán nhau
trong các chế độ độc tài mà
ai cũng biết. Đối với những
con người đã nhiễm óc duy vật rồi thì không gì mà không làm miễn sao có lợi ( bất chính ) cho mình. Từ
cái thói chỉ biết có lợi cho mình ấy mà người ta đã nhẫn tâm làm hại người khác nhưng không có một
chút mặc cảm lương tâm nào.
13
Trung Quốc với chế độ Cộng Sản hiện nay là một quốc gia đứng đầu thế giới trong lãnh vực sản
xuất đồ giả và những thứ độc hại khác từ sữa, đồ chơi cho trẻ em cho đến thực phẩm nhiễm hóa chất
đủ loại. Tư tưởng phát xuất ra hành động, chủ trương theo đuổi một chủ nghĩa xấu như duy vật thì hậu
quả xấu làm sao có thể tránh được: Nạn tham nhũng tràn lan không có cách chi diệt trừ. Nạn phá hủy
môi trường càng ngày càng dữ dội đến nỗi ngay như thủ đô Bắc Kinh đã phải nâng mức báo động đỏ về
ô nhiễm không khí hàng năm nhiều đợt, đợt sau luôn nặng hơn đợt trước !?!
Với những hậu quả nhãn tiền như thế, người ta cũng muốn sửa sai, đổi mới đấy thế nhưng không
thể được. Việc đổi mới giống như việc đánh bùn sang ao chỉ thêm ngầu đục. Cũng trong lần nói chuyện tại
trường Phan Chu Trinh ngày ấy Giáo Sư Trần Phương nói sự đổi mới của chế độ là bất khả ngay cả với
ông Tổng Bí Thư Đảng: “Cho nên có khi cái hôm mà có đồng chí hỏi tôi về đồng chí Lê Duẩn, người ta nói là
tại sao anh ca tụng anh Lê Duẩn là một người biết nghe như thế mà anh ấy không thể đổi mới được ? Tôi
trả lời thế này: Anh Lê Duẩn tuy cũng là người rất là tỉnh táo đấy nhưng ông ấy cũng nằm trong một hệ
thống tư tưởng mà ông không thoát ra được. Ông không thoát được bởi vì thế này: chính ông Lê Duẩn đi
họp cái Hội Nghị 57, Hội Nghị 60. Ông ấy là những người thiết kế ra cái hệ tư tưởng của cái hệ thống Xã Hội
Chủ Nghĩa thế giới này. Nó đấy, cho nên tôi nói thật với các anh đó khi năm 86 chúng ta đổi mới thì ông mới
chịu cái sức ép của thực tế là ông không thể nào không theo cơ chế thị trường được. Ông phải chịu nhưng
ông chưa kiểm điểm cái tư tưởng của ông đâu” ( Nguồn: nguoilotgach.blogspot 30.10.2013, Gs. Trần
Phương… ).
Chưa kiểm điểm bởi vì ông Lê Duẩn chưa
nhận thức được cái sai của Chủ Nghĩa Cộng Sản ở
chỗ nào. Trái lại, tướng Lưu Á Châu có lẽ bởi từng là
giáo sư thỉnh giảng của Đại Học Stanford nên mới
sùng thượng Mỹ hầu vạch ra cái hướng sửa sai cho
nước mình. Trước hết, ông ca ngợi chế độ bầu cử
“Không thể coi thường cơ chế tinh anh của Mỹ. Chế
độ cán bộ, chế độ tranh cử của Mỹ có thể bảo đảm
những người quyết sách đều là tinh anh. Bi kịch của
Trung Quốc chúng ta lớn đến cấp nhà nước, nhỏ tới
từng đơn vị, phần lớn tình hình là người có tư tưởng
thì không có quyết sách, người quyết sách thì không
có tư tưởng. Có đầu óc thì không có cương vị, có
cương vị thì không có đầu óc. Nước Mỹ ngược hẳn
lại, cơ chế hình tháp của họ đưa được những người tinh anh lên. Nhờ thế, một là họ không mắc sai lầm,
hai là họ ít mắc sai lầm, ba là mắc sai lầm thì có thể nhanh chóng sửa sai. Chúng ta thì mắc sai lầm,
thường xuyên mắc sai lầm, mắc sai lầm rồi thì rất khó sửa sai” ( Nguồn: Tuanvietnam.net 20.6.2014,
Tướng Trung Quốc… đã dẫn ).
Ưu điểm của thể chế dân chủ Mỹ chính là ở chỗ việc tranh cử của các ứng cử viên ( Tổng
Thống ). Tranh cử nói cho dễ hiểu thì nó không khác gì việc thi đua mà giám khảo lại chính là các cử
tri. Ở đây ta thấy dường như lá phiếu của người dân sẽ quyết định ai sẽ là người lãnh đạo đất nước.
Tuy nhiên sự thực thì không phải vậy, đằng sau cái việc tranh cử bầu cử đó còn ẩn chứa biết bao điều
khuất lấp, nào là những kỹ thuật dàn dựng nói xấu bôi tro trát chấu nhau, nào là mua phiếu, hứa hẹn
chức vụ béo bở cho những cổ động viên nhiều tiền nhiều thế lực v.v…
Mặc dầu vậy, tất cả những mờ ám ấy chưa phải là vấn đề. Điều quan yếu nhất trong các thể chế
dân chủ chính là việc phổ thông đầu phiếu căn cứ trên đa số tức ứng cử viên nào nhiều phiếu nhất sẽ
đắc cử. Cũng do nơi căn cứ vào đa số ấy mà người ta đã thay thế phẩm chất bằng số lượng. Phảm
chất ( quality ) ở đây gồm bởi những con người có nhận thức, có óc phán đoán, họ biết điều gì thực sự
là cần cho quốc gia dân tộc v.v… Còn số lượng ( quantity ) tức cái đám đông mù quáng chỉ biết đòi hỏi
làm sao đáp ứng được những nhu cầu thiết thực cho đời sống: công ăn việc làm, an sinh xã hội, diệt trừ
tham nhũng v.v… Người tranh cử nào chẳng muốn thắng cử. Bởi vậy nhất định phải nhắm đến cái đám
đông hỗn tạp kia bằng những lời hứa sao cho lọt tai họ…
Cố nhiên việc tranh cử, bầu cử tại các quốc gia dân chủ có nhiều điểm vượt trội so với chế độ
Cộng Sản. Thế nhưng suy cho cạn lẽ thì đời sống con người chẳng lẽ chỉ hạn cuộc trong những nhu
cầu của xác thân hữu hạn này sao ? Bao lâu còn hạn cuộc như thế thì dù cho Cộng Sản hay Dân Chủ
sẽ vẫn còn đối xử với con người như không phải con người, nếu không muốn nói như câu ngạn ngữ La
Mã cổ thời: “Người là lang sói với người” ( Homo homini lupus est ).
Đối xử với con người như không phải con người thì không bao giờ có thể có được đạo đức. Tại
sao ? Bởi con người dù xuất hiện dưới bất cứ hình thức chủng tộc giai cấp nào nó cũng mang nơi mình
14
phẩm chất vô cùng cao quý. Phẩm chất ấy Đạo Phật gọi là Phật tính, là Viên Giác tính. Còn Đạo Chúa gọi
là Thiên Chúa tính, Thượng Đế tính, Thần tính, Hình Ảnh Thiên Chúa, Con Thiên Chúa Hằng Sống v.v…
Chính trị theo cái nghĩa cao quý nhất như tên gọi của nó chẳng những phải đem lại an cư lạc
nghiệp cho muôn nhà, mà còn phải tạo cho con người có được thuận lợi tối đa trong việc thực hiện tâm
linh tính của mình. Sở dĩ chính trị cần làm điều ấy bởi vì cứ bình tâm suy nghĩ mà xem, tất cả rồi sẽ qua
đi, nào những nền văn minh, những đế quốc những chế độ đủ loại nay có còn gì đâu hay chỉ là một ánh
chớp trong vô biên bất tận ? Không còn mà vẫn còn, và cái còn ấy chính là cái nghiệp mà mỗi người đã
tạo lấy cho mình: “Ta sẽ tùy công việc của mỗi người trong các ngươi mà báo ứng” ( Kh 2, 23 ).
PHÙNG VĂN HÓA
Từ khi Thiên Chúa tạo dựng con người và ban cho loài người đời sống GIA ĐÌNH – để con người
hưởng hạnh phúc, tôn thờ Thiên Chúa và tăng thêm người được may mắn và hạnh phúc thờ phượng
Người – thì Satan không hề ngừng nghỉ phá hoại công trình cao đẹp này, mà khởi đầu là cuộc cám dỗ
ông bà nguyên tổ và sự sa ngã của loài người. TỪ ĐÓ, Satan luôn tìm cách khoét sâu và phá hủy thành
trì GIA ĐÌNH này, mọi thời, mọi nơi, mọi lúc. TRẬN CHIẾN ngày càng tàn khốc, với cái nê “tự do” trong
mọi lãnh vực. Giáo Hội là Thầy và Mẹ ( Mater et Magistra ) luôn bảo vệ chân lý, tín lý, luân lý và bảo vệ
con cái mình. CUỘC CHIẾN GIA ĐÌNH ngày càng khốc liệt, không khoan nhượng. Mỗi tín hữu Công
Giáo là một chiến sĩ trong trận chiến trường kỳ này, không được phép lơ là, giao động, gục ngã.
Trong tinh thần đó, chờ đợi và cầu nguyện cho THƯỢNG HỘI DỒNG GIÁM MỤC VỀ GIA ĐÌNG
sắp diễn ra vào tháng 10 tới đây, xin chia sẻ bài viết THE LONG WAR AGAINST THE FAMILY của tác
giả Ryan N.S. Topping ( đã chuyển ngữ ngày 15.2.2013 ).
CUỘC CHIẾN TRƯỜNG KỲ CHỐNG LẠI GIA ĐÌNH
Lớp người ưu tuyển văn hoá cấp tiến đã từ lâu duy trì những thành kiến đối với gia đình vốn,
không bị phản đối, dẫn tới sự sụp đổ của nó. Trong nhiều điều, tôi chỉ xin kể ra đây ba: (1) Sự khẳng
định rằng hôn nhân làm cho nam giới và nữ giới kém tự do hơn (2). Sự giả định rằng con cái là một
gánh nặng và (3) sự khẳng định rằng phân biệt sinh lý là một điều tưởng tượng. Ba ý tưởng này tượng
trưng cho ba làn sóng của phong trào bài gia đình trong 150 năm qua.
Ý tưởng đầu tiên là đóng góp của Chủ Nghĩa
Marx; ý tưởng thứ hai là của thuyết ưu sinh; ý tưởng
thứ ba là kết quả của các nhà lý luận về giới tính gần
đây. Những người bảo thủ xã hội hay quá thường
chơi một trận chiến săn lùng với cánh tả cấp tiến.
Chúng tôi kinh ngạc trước nạn nạo phá thai; chúng
tôi lo âu về nạn ly dị; chúng tôi ngạc nhiên về sự trỗi
dậy của cuộc vận động hành lang đồng tính. Đúng là
báo động đã vang lên.
Nhưng ngay cả trước khi có cuộc vận động
hành lang, nếu gia đình có bao giờ dành lại được vị
trí nỗi bật tự nhiên của nó, các người bảo thủ cần
phải phục hồi ký ức về việc làm sao “gia đình truyền
thống” đã đánh mất con đường của mình. Trong bài
viết này và trong hai bài tiếp theo, tôi muốn nói ra ba
giai đoạn của cuộc chiến trường kỳ chống lại gia đình và sau đó sẽ lưu ý vắn gọn một số nguyên tắc trả
lời có ích cho chúng. Chúng ta sẽ bắt đầu trước hết với sự đóng góp của chủ nghĩa Mác.
Chung cho cả Marx lẫn Engels là niềm tin rằng các quan hệ xã hội không mang đặc điểm sự bình
đẳng vật chất – tuyệt đối, là bất công. Trong bài nghiên cứu có ảnh hưởng của ông, Nguồn gốc Gia Đình,
Tư Hữu và Nhà Nước ( 1884 ), người cộng tác của Karl Marx, Friedrich Engels đã tấn công gia đình như
là tế bào nguyên thuỷ của bất bình đẳng và chế độ nô lệ. Như một sự mở rộng của ao ước chiếm hưu đầu
tiên của con người – từ tương đương của sa ngã trong Chủ Nghĩa Marx – con người cũng mong ước bảo
đảm việc truyền lại tài sản cho hậu thế.
Trong giải thích của Engels, xu thế này là cái làm trỗi dậy chế độ một vợ một chồng. Nam giới với
đất đai tài sản muốn có những người thừa kế với một danh phận hợp pháp. Do đó, trong hôn nhân nữ giới
15
CÙNG PHÂN TÍCH
thuộc về nam giới, đơn thuần như “một dụng cụ sản xuất con cái”. Trong cái nhìn của Engels sự nô dịch
hoá nữ giới, một cách tự nhiên, giống như tất cả các bất bình đẳng, sẽ chấm dứt một khi các phương tiện
sản xuất được chuyển từ tư hữu sang nhà nước. Khi không còn quyền sỡ hữu và không còn khả năng
truyền cho đời sau gia tài của cải, nam giới sẽ không còn quan tâm nhận diện con cái nữa. Một kết quả là
một khi các điều kiện kinh tế làm hôn nhân trỗi lên, chấm dứt, thì hôn nhân cũng sẽ chấm dứt. Kết thúc
lịch sử, tình dục sẽ lại được giải phóng.
Engels tiên đoán rằng cuộc cách mạng sắp đến sẽ giáng một cái tát cho cả gia đình lẫn luân lý tình
dục trưởng giả chống đỡ nó. Trong tương lai xã hội chủ nghĩa này, ”gia đình đơn nhất hết còn là đơn vị kinh
tế của xã hội” và sẽ dẫn đến “sự tăng trưởng dần dà của sự giao hợp không bị giới hạn”. Hiển nhiên Freud
không phải là người đầu tiên gợi ý rằng tình dục là điều mà con người thật sự theo đuổi kiếm tìm.
Bất kể những khiếm khuyết của lý thuyết của ông, Engels ít nhất có thể thấy trước về những
phân nhánh của nó: chủ nghĩa xã hội tiến tới, gia đình lùi dần. Khi những công việc nuôi dạy con cái,
chăm sóc người già và làm ra tiền được nhà nước tiếp thu, ngày càng ít lý do còn lại để một người nam
và một người nữ thành lập một khế ước bền lâu.
Trong những chuyến đi tới các quốc gia Cộng Sản, tôi đã bị đánh động bởi sự việc là thái độ của
chúng ta đối với việc giáo dục trẻ em phù hợp một cách sát sao biết bao với các phương pháp của cộng
sản. Tuy nhiên có sự khác biệt này: dưới Chủ Nghĩa Cộng Sản, hàng triệu bà mẹ bị ép buộc phải làm
việc bên ngoài gia đình và phải gửi con cái họ cho những cơ sở của nhà nước.
Trong thế giới tự do, nhiều người trong chúng ta làm điều này do lựa chọn của riêng chúng ta.
Khi con cái từ tuổi lên ba ăn hai bữa hoặc nhiều hơn với những người lạ, thì chẳng có gì ngạc nhiên khi
cha mẹ thấy khó khăn trong việc kiểm soát mức độ lòng trung thành vốn được cho là hiển nhiên. Con
cái cần số lượng thời giờ hơn là “giờ chất lượng”, và khi nhà cửa trống vắng, thì con cái chuyển các bổn
phận của chúng sang nơi khác, thông thường là cho những người ngang hàng với chúng.
Những cậu trai và cô gái sớm bị đặt vào các cơ sở nhà nước, trở thành mồi béo bở cho cái
được gọi là “văn hoá giới trẻ” – gồm nhạc pop, áo quần đắt tiền và những thú tiêu khiển thô bỉ theo ý đồ
của các tập đoàn để tạo một thị trường dễ dãi. Khi người mẹ phải làm việc, thì việc nuôi nấng con cái
cũng trở nên khó khăn hơn. Thực tế, những đòi hỏi của công việc có thể đi đến chỗ xem ra là trò đùa khi
được đặt bên cạnh tư cách làm cha làm mẹ.
Đối với ngày càng nhiều phụ huynh, các hy sinh tại nhà xem ra chỉ đem lại một sự đền đáp
nghèo nàn. Hẳn nhiên các bà mẹ trẻ không có lựa chọn nào hơn là làm việc ngoài nhà, nhưng nhu cầu
này khó khăn lắm mới trở thành tiêu chí. Gia đình phải hơn chỉ là một trạm cuối xe buýt nơi các kết nối
với những nơi đến khác được thực hiện. Nó phải quay lại thành một trung tâm cho sinh hoạt đầy ý
nghĩa. Giáo dục, việc làm, cầu nguyện, sự chăm sóc và trò chơi là những chức năng chính yếu thuộc về
gia đình được xếp đặt một cách thích hợp. Việc phục hồi sức mạnh của gia đình tuỳ thuộc vào khả năng
của nó, kế đến là giành lại vị trí từ các lực nên ngoài mà các hoạt động của nó đã bị chuyển sang.
Viết cho thế hệ sau Marx và Engels, Đức Thánh Cha Lêô
XIII hiểu rất rõ rằng những gì đang bị đe doạ trong trận chiến
chống lại Chủ Nghĩa Xã Hội. Tân Sự ( Rerum Novarum – 1891 )
để mắt đến không chỉ các quyền của người lao động, mà còn
đến sự tồn tại của gia đình người thợ thuyền. Cả hai đều có các
quyền vốn có nền móng trong tự nhiên và được lộ cho thấy. "Xin
chú ý, vì thế gia đình hoặc đúng hơn xã hội của gia đình này,
một xã hội quả là rất nhỏ bé, nhưng là một xã hội thật sự và có
trước bất cứ một xã hội có tổ chức nào !”
Sự phẫn nộ của các cặp vợ chồng cần phải được gợi ở
nguy hiểm hiện tại mà hạnh phúc của họ đang phải đương đầu.
Sự bình đẳng và sự bổ sung trên thực tế có thể sống chung
trong một sự kết hợp may mắn. Người Kitô hữu đơn thuần
không cần phải chấp nhận rằng bình đẳng phải ( theo như từ
ngữ chủ nghĩa Marx ) bị giảm thiểu chỉ còn là bằng nhau về
đồng lương và cơ hội đồng đều để có giấy phép tình dục.
Trong đợt sóng đầu tiên tấn công vào gia đình, không có
bất cứ dấu hiệu sự phụ thuộc lẫn nhau nào được nhìn thấy như
là một đe doạ đối với tự do. Những kẻ hoạt động chống lại gia
đình đã nhấn mạnh rằng việc phục tùng một hợp đồng độc quyền là một sự hy sinh tự do ý chí. Như
Simone de Beauvoir đã khẳng định, trong hôn nhân, ”người đàn ông và vợ cùng nhau trải qua sự áp
bức của một cơ chế mà họ không lập ra”.
16
Không cần phải nói, sự áp chế này – mà nam giới và nữ giới chịu đựng nhiều nhất – không phải là
kết quả của hôn nhân, mà là kết quả của những lời hứa bị đổ vỡ. Ngay cả qua những chỉ số tẻ nhạt
dường ấy như là sự giàu sang, sức khoẻ và hạnh phúc được báo cáo, một núi nghiên cứu khoa học xã
hội đã từ lâu lật ngược sự khôn ngoan phổ biến của những cuốn tiểu thuyết giật gân thập niên 1960, như
The Second Sex ( giới tính thứ hai ) và cuốn Feminine Mystique ( Nữ tính kỳ bí ) của Betty Friedman.
Cũng như nam giới, phụ nữ chỉ đơn thuần phát triển tốt hơn trong hôn nhân. Họ chịu ít trầm cảm hơn,
được bảo đảm hơn vế mặt tài chính và trải nghiệm hơn sự giao hợp thoả mãn (để có thêm chứng cừ, xin
đọc cuốn The Case of Marriage của Linda Waite và Maggie Gallagher ). Ngay cả ngày nay, nhiều thập
niên sau cuộc tấn công vào lý tưởng của gia đình hạt nhân chỉ có cha mẹ và con cái, chỉ có 8% nữ giới nói
họ hy vọng vẫn chưa kết hôn. Chẳng có gì phải nói thêm về đợt sóng đầu tiên.
Đợt sóng thứ hai cũng chấp nhận lập luận của Chủ Nghĩa Marx rằng công bằng đòi buộc sự
bình đẳng tuyệt đối về vật chất.Nhưng tiếp theo, ngón tay đang vẫy lại hường từ những người đàn ông
sang trẻ em. Nếu nữ giới muốn có tình dục với nam giới ( theo dòng suy tư này ), thì họ phải không bị
trách phạt với con đẻ ngoài ý muốn.
Phần nhiều, việc ngừa tránh thai nhân tạo được coi là vòng đai phòng thủ thứ nhất, nhưng từ
ban đầu, nạo phá thai đã luôn là sự hỗ trợ. Sự kết nối giữa ngừa tránh thai, bình đẳng kinh tế và tiếp
cận với nạo phá thai được thực hiện công khai năm 1992 do Toà Án Tối Cao Hoa Kỳ phán quyết về Kế
Hoạch Hoá Gia Đình chống lại Casey, vốn bảo vệ phán quyết năm 1973 trước đó ủng hộ nạo phá thai
trong vụ Roe chống lại Wade bằng những lời đáng ghi nhớ này:
Hạn chế của luật Roe về quyền lực của bang không thể bị bác bỏ mà không có sự bât công đối
với những người mà, đã hai thập niên phát triển kinh tế và xã hội, đã thiết lập những quan hệ tình dục và
đã có những chọn lựa vốn xác định quan điểm của họ về nhau và vị trí của họ trong xã hội, dựa vào tính
hiệu lực của việc phá thai trong trường hợp ngừa tránh thai thất bại. Khả năng để nữ giới tham gia một
cách bình đẳng vào đời sống kinh tế và xã hội của quốc gia này đã được tạo thuận tiện nhờ khả năng
kiểm soát đời sông inh sản của họ.
Sự dung thứ nạo phá thai được hợp pháp hoá là hậu quả nghiêm trọng nhất theo sau một khi
người ta chấp nhận ngừa tránh thai, nhưng không chỉ một mình nó. Năm 1930, Anh Giáo là tổ chức Kitô
Giáo đầu tiên tán thành việc sử dụng ngừa tránh thai nhân tạo. Và tiếp theo từ điều này, nguyên Tổng
Giám Mục Canterbury, Rowan Williams, cũng lưu ý rằng nói đồng ý với bao cao su là đánh mất quyền
lên án thói giao hợp qua hậu môn. Tách tình dục khỏi việc sinh sản và những kết hợp đồng tính trở nên
tương đương với những kết hợp giữa hai người khác phái. Để đạt mục đích này, Williams đã kết luận:
Trong một Giáo Hội chấp nhận tính hợp
pháp của ngừa tránh thai, thì việc lên án tuyệt
đối các quan hệ giao hợp đồng tính phải dựa trên
hoặc là một triển khai chính thống trừu tượng
một số văn bản Kinh Thánh rất mập mờ, hoặc là
dựa trên một giả thuyết mơ hồ và không Kinh
Thánh về sự bổ túc tự nhiên, được áp dụng một
cách tỉ mỉ và lỗ mãng cho sự phân biệt về thể lý
mà không quan tâm đến cac câu trúc tâm lý.
Lôgic của vị Tổng Giám Mục Anh Giáo
là có cơ sở, tất nhiên – bao lâu mà người ta còn
chấp nhận giả thuyết này. Trong một Giáo Hội
đã chấp nhận ngừa tránh thai, thì việc khiển
trách các kết hợp đồng tính nam đúng là độc
đoán. Mặc dù các tín hữu Công Giáo Rôma nay
đứng trơ trọi một mình như là khối Kitô Giáo duy nhất đồng thanh bác bỏ ngừa tránh thai nhân tạo,
trước khi mọi khối Kitô Giáo năm 1930 – và nhiều tổ chức tôn giáo khác – chống lại nó như là một sự sỉ
nhục đối với nhân phẩm. Việc đình triệt sản tạm thời hay vĩnh viễn một người nam hoặc một người nữ
khoẻ mạnh không chỉ làm mất giá trị hành vi vợ chồng, mà còn hủy hoại sự kết hợp này như nó vốn là.
Như Mahatma Gandhi đã cảnh báo năm 1925: ”Tôi thúc giục những người ủng hộ các phương pháp
kiểm tra sinh đẻ nhân tạo hãy xem xét các hậu quả. Bất cứ sự sử dụng rộng rãi nào các phương pháp
này cũng sẽ dẫn tới việc sự tan rã của giao ước hôn nhân”.
Trong bất cứ sự kiện nào, phong trào ưu sinh và chống lại sinh sản do Margaret Sanger ( 1879 –
1966 ) phổ biến và được duy trì qua Kế hoạch hoá gia đình, đã thành công áp đảo đến nỗi sẽ đòi hỏi nỗ
lực to lớn để đánh thức những sức tưởng tượng của giới trẻ về một thế giới nơi mà con cái không bị coi
như là một gánh nặng xã hội và kinh tế. Sự chuộc tội nào sẽ bị đòi buộc đối với sự tàn sát hàng loạt
những con cái bé nhỏ của chúng ta, thì quả là khó lòng tưởng tượng được. Ngoài sự làm cho lương tâm
17
của mỗi chúng ta nên chai đá, chúng ta nay chỉ mới bắt đầu chịu những cái giá xã hội cho việc sát hại.
Châu Âu đã bước vào mùa đông dân số, những gì Trung Quốc sẽ trải nghiệm một khi ảnh hưởng đầy
đủ của việc quét sạch một thế hệ con gái được cảm nhận, người ta khó lòng mà đoán được. Trước hết
hướng về chống lại nam giới và sau đó chống lại con cái, ngày nay đợt sóng thứ ba của cuộc tấn công
vào gia đình nhắm trực tiếp tới nữ giới.
Chính từ đợt sóng thứ ba mà những tuyên bố về giới tính ngày càng kỳ dị hơn đang được loan
báo và lời khẳng định kì dị nhất trong mọi khẳng định là: giới tính là viễn vông. Với một thế hệ, sinh viên
năm thứ nhất đã học lẫn tránh một cách ngoan ngoãn khi được nói rằng “giới tính” là một giải thích xã
hội. Từ ngữ giới tính nhắc tới một khái niệm xã hội. Nhưng chỉ duy nhất các từ mới có giống đực, giống
cái, thậm chí cả giống trung tính: con người có giống đực và giống cái. Những người đấu tranh nữ
quyền ( và nhiều Kitô hữu ) quen biện luận cho quyền đi bầu của nữ giới trên bình diện mà nam giới và
nữ giới chia sẻ một bản chất chung. Nay họ khẳng định một tính phi lý nữ tính rõ rệt và mặc nhiên phủ
nhận một bản tính con người chung.
Vế số điẻm ghi được này, mũi nhọn của phong trào nữ quyền đã đi được những khoảng cách
mênh mông kể từ cuốn A Vindication of the Rights of Women ( Một xác minh Nữ Quyền, 1792 ) của
Mary Wollstonecraft. Nhìn chung, ngày nay những người đấu tranh nữ quyền đã thay đổi chiến lược về
căn bản các tuyên bố của họ đi theo những kiểu cách gần đây nhất của triết học hậu hiện đại. Như thế,
học giả được hoan nghênh rộng rãi, Luce Irigaray, bênh vực tình trạng đặc quyền của nữ giới không
phải trên nền tảng lý trí, mà là trên căn bản chối từ lý trí.
Hãy kể ra một ví dụ, trong tác phẩm This Sex Which Is Not One ( Giới tính này vốn không phải
là Độc Nhất ) của Bà, chúng ta nghe thấy rằng “Những lời của nàng là những lời mâu thuẫn, ở mức
độ nào đó điên rồ ngay từ quan điểm về lý trí, không thể nghe được đối với bất cứ người nào nghe họ
với những toạ độ làm sẵn, với một tập hợp các chuẩn mực được soạn thảo đầy đủ trong tay”. Bất cứ
điều gì tác giả này mong khẳng định, bà tỏ ra từ chối cho nữ giới chia sẻ tính hợp lý với họ. Đây là
điều đáng tiếc nhất. Với một điều, không tham gia vào lý trí, có rất ít để đặt nền tảng cho nguyên lý
bình đẳng giữa các giới.
Cũng tương tự, việc lập luận rằng nữ giới tham gia vào những “sự hợp lý” khác nhau, chỉ có thể
làm giảm bớt hạnh phúc của nữ giới – vì đa số ước ao chia sẻ một thứ tình thân nào đó với nam giới.
Một thế giới trong đó ngững người nam và những người nữ không cùng chia sẻ một lý trí chung, có khả
năng khiến cho một số đồng tính nữ cảm thấy thoải mái hơn;nhưng nó sẽ có thể là thế giới nhỏ hơn
nhiều để hưởng thụ, mà không có tình thân có ý nghĩa giữa anh chị em giữa vợ chồng, giữa mẹ và con
trai. ( Irigaray ít ra cũng dường như tin rằng hạnh phúc của một phụ nữ được đáp ứng tốt hơn khi tách
khỏi gia đình ). Không mong bị phân loại bởi những cái nhãn làm sẵn những nhận dạng đồng tính, khác
giới tính hoặc chuyển giới, Irigaray đề xuất cái đã được đặt cho tên là “thú nhục dục đa hình thái”. Việc
xây dựng những nhà vệ sinh công cộng sẽ không bao giờ giống nhau.
Nếu ý thức hệ giới tính được chấp nhận, không chỉ những phòng thay quần áo ( có tủ khoá )
sẽ bị tháo đi; gia đình cũng sẽ như thế. Các Kitô hữu, tín đồ Do Thái Giáo, tín đồ Hồi Giáo và những
người bảo thủ cựu trào, đã mở rộng quá nhiều sự bao dung đối với những người thiết kế giới tính.
Như Đức Thánh Cha Biển Đức 16 nhận định gần đây
trong bài giảng Lễ Giáng Sinh, khái niệm gia đình thực
sự và sự an toàn của con cái mới là vấn đề. "Nhưng nếu
không có một tính hai mặt được quy định trước về người
nam và người nữ trong công cuộc tạo dựng, thì gia đình
cũng không còn là một thực tại được công cuộc tạo
dựng thiết lập. Cũng vậy, đứa con đã mất vị trí nó đã
chiếm cho đến nay và phẩm giá gắn liền với nó”.
Chúng ta phải hiểu những đợt sóng ấy như thế
nào ? Chúng ta bắt đầu gỡ bỏ thiệt hại đã xảy ra trong
cuộc chiến trướng lỳ chống lại gia đình này ra sao ?
Trong đoạn cuối của loạt bài này, tôi xin đưa ra
một ít gợi ý.
Có ba đợt tấn công chống lại gia đình:
1. Sự khẳng định rằng hôn nhân nô lệ hoá.
2. Rằng con cái là gánh nặng và…
3. Rằng sự khàc biệt về giới tính là ảo tưởng.
Phải trả lời thế nào ? Tôi mong kềt thúc câu chuyện ngắn của chúng ta bằng việc suy tư không quá
nhiều như thế về một giải quyết bằng hành động, mà là về cách làm sao chúng ta nên đổi mới lối suy nghĩ.
18
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617
Ephata 617

More Related Content

What's hot

Ephata 612
Ephata 612Ephata 612
Ephata 612
Vu Mai JMV
 
Ephata 611
Ephata 611Ephata 611
Ephata 611
Vu Mai JMV
 
Ephata 626
Ephata 626Ephata 626
Ephata 626
Vu Mai JMV
 
Ephata 628
Ephata 628Ephata 628
Ephata 628
Vu Mai JMV
 
Ephata 636
Ephata 636Ephata 636
Ephata 636
Vu Mai JMV
 
So 183
So 183So 183
So 183
HuynhHungDN
 
Ephata 638
Ephata 638Ephata 638
Ephata 638
Vu Mai JMV
 
Ephata 629
Ephata 629Ephata 629
Ephata 629
Vu Mai JMV
 
Ephata 604
Ephata 604Ephata 604
Ephata 604
Vu Mai JMV
 
Ephata 624
Ephata 624Ephata 624
Ephata 624
Vu Mai JMV
 
Ephata 635
Ephata 635Ephata 635
Ephata 635
Vu Mai JMV
 
Thang 10.2011 mail (1)
Thang 10.2011 mail  (1)Thang 10.2011 mail  (1)
Thang 10.2011 mail (1)
CÔNG TY TRANG SỨC EM VÀ TÔI
 
Mon sup tam linh
Mon sup tam linhMon sup tam linh
Mon sup tam linh
co_doc_nhan
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
Vu Mai JMV
 
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
Hiep Tran
 
Ephata 625
Ephata 625Ephata 625
Ephata 625
Vu Mai JMV
 
Tro lai thien duong
Tro lai thien duongTro lai thien duong
Tro lai thien duong
Vui Lên Bạn Nhé
 
Ephata 631
Ephata 631Ephata 631
Ephata 631
Vu Mai JMV
 
Ephata 621
Ephata 621Ephata 621
Ephata 621
Vu Mai JMV
 

What's hot (19)

Ephata 612
Ephata 612Ephata 612
Ephata 612
 
Ephata 611
Ephata 611Ephata 611
Ephata 611
 
Ephata 626
Ephata 626Ephata 626
Ephata 626
 
Ephata 628
Ephata 628Ephata 628
Ephata 628
 
Ephata 636
Ephata 636Ephata 636
Ephata 636
 
So 183
So 183So 183
So 183
 
Ephata 638
Ephata 638Ephata 638
Ephata 638
 
Ephata 629
Ephata 629Ephata 629
Ephata 629
 
Ephata 604
Ephata 604Ephata 604
Ephata 604
 
Ephata 624
Ephata 624Ephata 624
Ephata 624
 
Ephata 635
Ephata 635Ephata 635
Ephata 635
 
Thang 10.2011 mail (1)
Thang 10.2011 mail  (1)Thang 10.2011 mail  (1)
Thang 10.2011 mail (1)
 
Mon sup tam linh
Mon sup tam linhMon sup tam linh
Mon sup tam linh
 
Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
Thông Tin Mục Vụ 1 18-15
 
Ephata 625
Ephata 625Ephata 625
Ephata 625
 
Tro lai thien duong
Tro lai thien duongTro lai thien duong
Tro lai thien duong
 
Ephata 631
Ephata 631Ephata 631
Ephata 631
 
Ephata 621
Ephata 621Ephata 621
Ephata 621
 

Similar to Ephata 617

Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
Vu Mai JMV
 
Ephata 610
Ephata 610Ephata 610
Ephata 610
Vu Mai JMV
 
Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.
Chiến Thắng Bản Thân
 
Doc thu-dac-nhan-tam
Doc thu-dac-nhan-tamDoc thu-dac-nhan-tam
Doc thu-dac-nhan-tam
hangnguyenhn
 
30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.com
30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.com30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.com
30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Một trong các đức tính tốt việt nam VHN
Một trong các đức tính tốt việt nam VHNMột trong các đức tính tốt việt nam VHN
Một trong các đức tính tốt việt nam VHN
Vo Hieu Nghia
 
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜIGIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
Vo Hieu Nghia
 
Ephata 601
Ephata 601Ephata 601
Ephata 601
Vu Mai JMV
 
Hoiky cuahanhthien tts
Hoiky cuahanhthien ttsHoiky cuahanhthien tts
Hoiky cuahanhthien ttsHoa Bien
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
gxduchoa
 
Ephata 608
Ephata 608Ephata 608
Ephata 608
Vu Mai JMV
 
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.OrgKỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Dailyf5.com
 
Ephata 634
Ephata 634Ephata 634
Ephata 634
Vu Mai JMV
 
Ephata 633
Ephata 633Ephata 633
Ephata 633
Vu Mai JMV
 
Ephata 637
Ephata 637Ephata 637
Ephata 637
Vu Mai JMV
 
Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017
Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017
Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017
Venerable Thich Nguyen Tang
 
Nhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doiNhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doi
Linh Hoàng
 
Thu gui con gai 12
Thu gui con gai 12Thu gui con gai 12
Thu gui con gai 12
Nam Ninh Hà
 
Nội san TSC Thanh Đa 2020 final
Nội san TSC Thanh Đa 2020 final Nội san TSC Thanh Đa 2020 final
Nội san TSC Thanh Đa 2020 final
Phuc Dinh
 
Bài UPU - Lần37
Bài UPU - Lần37Bài UPU - Lần37
Bài UPU - Lần37lechi55
 

Similar to Ephata 617 (20)

Ephata 620
Ephata 620Ephata 620
Ephata 620
 
Ephata 610
Ephata 610Ephata 610
Ephata 610
 
Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.
 
Doc thu-dac-nhan-tam
Doc thu-dac-nhan-tamDoc thu-dac-nhan-tam
Doc thu-dac-nhan-tam
 
30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.com
30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.com30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.com
30 bài văn nghị luận xã hộitruonghocso.com
 
Một trong các đức tính tốt việt nam VHN
Một trong các đức tính tốt việt nam VHNMột trong các đức tính tốt việt nam VHN
Một trong các đức tính tốt việt nam VHN
 
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜIGIÁ TRỊ CON NGƯỜI
GIÁ TRỊ CON NGƯỜI
 
Ephata 601
Ephata 601Ephata 601
Ephata 601
 
Hoiky cuahanhthien tts
Hoiky cuahanhthien ttsHoiky cuahanhthien tts
Hoiky cuahanhthien tts
 
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài điMẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
Mẫu cầu nguyện Taize 7: Con đường Ngài đi
 
Ephata 608
Ephata 608Ephata 608
Ephata 608
 
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.OrgKỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
Kỷ yếu ngành Nữ GĐPT Việt Nam 2012 | AoLam.Org
 
Ephata 634
Ephata 634Ephata 634
Ephata 634
 
Ephata 633
Ephata 633Ephata 633
Ephata 633
 
Ephata 637
Ephata 637Ephata 637
Ephata 637
 
Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017
Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017
Văn hóa phật giáo, số 270, ngày 01 04 2017
 
Nhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doiNhân quả bao ung hien doi
Nhân quả bao ung hien doi
 
Thu gui con gai 12
Thu gui con gai 12Thu gui con gai 12
Thu gui con gai 12
 
Nội san TSC Thanh Đa 2020 final
Nội san TSC Thanh Đa 2020 final Nội san TSC Thanh Đa 2020 final
Nội san TSC Thanh Đa 2020 final
 
Bài UPU - Lần37
Bài UPU - Lần37Bài UPU - Lần37
Bài UPU - Lần37
 

Ephata 617

  • 1. E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com ƯỚC MƠ NHỎ NHOI Hằng năm, vào mùa thi, anh em chúng tôi cố gắng tổ chức chương trình Tiếp Sức Mùa Thi, mọi sinh hoạt của Giáo Xứ đành xếp lại, tận dụng phòng ốc và nhân tài vật lực để giúp các thí sinh từ những miền quê xa xăm lên thành phố dự thi. Có lắm khi nghe những thông tin của ngành giáo dục mà ngao ngán, nhưng biết làm sao hơn khi mùa thi còn đó, còn bao nhiêu bạn trẻ từ miền quê ngỡ ngàng giữa đô hội, không một người quen, không nơi nương tựa. Chuyện lùm xùm về đề án dạy học theo chương trình Anh ngữ rầm rộ mấy ngày nay trên báo chí. Ông Giám Đốc Sở Giáo Dục Đào Tạo thành phố nói một đàng, ông Tổng Lãnh Sự Anh nói một nẻo, ngược hẳn nhau, ông nào nói đúng, ông nào nói sai ? Nói ông Tổng Lãnh Sự nói đúng, vọng ngoại chăng ? Nói ông Giám Đốc nói đúng, chẳng lẽ ông Tổng Lãnh Sự nói sai ? Toàn người lớn mà nói ngược nhau, tin ai ? Chuyện chương trình học và sách giáo khoa, thay đổi liên tục. Việc ăn nói trước Quốc Hội mà như trò đùa, ông Thứ Trưởng thay mặt Bộ Trưởng nói 34.000 tỷ là kinh phí cải cách sách giáo khoa, Đại biểu phản ứng, ông Bộ Trưởng đi ngoại quốc về nói không có con số đó ! Cuối cùng, trước khi đi vào cõi thinh lặng, người ta bảo có người đưa con số đó cho ông Thứ Trưởng phát biểu ngay tại nghị trường, ông thứ trưởng cứ nói mà không biết mình nói gì, huề ! Hết ! Quốc Hội là cái gì mà ăn nói kiểu như vậy ? Bao nhiêu vụ như vậy rồi kết luận luôn là tại một ai đó vô danh, người đánh máy chẳng hạn, kỷ luật anh đánh máy. Hết ! Hệ thông đào tạo như thế, con người vận hành bộ máy đào tạo như thế, như những kịch sĩ múa rối vụng về thiếu lương tâm, hằng triệu bạn trẻ cuốn vào guồng máy đào tạo vô lý, hụt hẫng và què quặt, kéo theo hệ lụy bao nhiêu gia đình, bao nhiêu tổ chức, bao nhiêu con người có tương quan, và chúng tôi những con người tình nguyện lao vao giòng xoáy vô hồn đó. ( Ảnh chụp Thánh Lễ dành riêng cho các thí sinh và tình nguyện viên TSMT chiều thứ năm 3.7.2014 ). Hoàn toàn không kỳ vọng một tí gì về một thiết chế xã hội như vậy, nhưng không thể khoanh tay nhìn bao nhiêu bạn trẻ chịu sự thiệt thòi, chỉ vì khi vào giòng chảy đó, họ thiếu nhiều điều kiện để tham gia sòng phẳng với anh em khác. Họ nghèo, tham gia thi cử như là một lối thoát duy nhất ra khỏi kiếp vô cùng nghèo. Trong bữa cơm trưa nay, các bạn trẻ tình nguyện “Tiếp Sứa Mùa Thi” của Nhà Thờ ngồi nói chuyện với nhau. Hôm nay đưa các thí sinh đi xem trường lớp. Có một anh tình nguyện viên kể lại rằng, sau khi đã đưa một thí sinh đến nơi sẽ thi ngày mai, cô bé liền rụt rè ngỏ lời xin được đi thăm thành phố: “Anh cho em đi thăm thành phố, em chưa biết thành phố bao giờ !” Phì cười trước sự chân thật của cô thí sinh, anh xe ôm tình nguyện chạy một vòng trong thành phố, bữa cơm trưa chàng kể lại với một vẻ tự hào vì đã làm một việc nghĩa. Chuyện lớn lao đối với cô bè chỉ là “chuyện nhỏ như con thỏ” đối với chàng. Một giấc mơ nhỏ nhoi được đi thăm thành phố, bao nhiêu bạn trẻ đã ước mơ, một giấc mơ thật bình dị tầm thường nhưng khó thực hiện. Ngang trái và bất công, giấc mơ bé nhưng khó thực hiện, trong khi nhiều kẻ phung phí tiền bạc vào những chuyện vô bổ một cách dễ dàng không thương tiếc. 1 NĂM THỨ 14 – SỐ 617 – CHÚA NHẬT 6.7.2014
  • 2. Trong Kinh Thánh có một câu chuyện cảnh giác mọi người tin, câu chuyện Ladarô nghèo và người phú hộ, cái đau khổ mà người phú hộ giàu có sẽ phải chịu do chính thái độ thờ ơ của ông trước cái nghèo cùng cực của người khác, Chúa là Thiên Chúa của sự công bằng sẽ có cách của Ngài để chia lại tài sản mà Chúa ban cho mọi người cùng chung hưởng, nếu còn có những ai “quần áo lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Cách đây một tháng, có một cha đi về kể cho tôi nghe một đám “tạ ơn” của một Nữ Tu khấn trọn đời, tiệc hơn 50 bàn, ban nhạc chơi sôi nổi ầm ĩ… Mùa “tạ ơn” đang nở rộ, Chúa nghĩ gì về những cuộc “tạ ơn” đó ? Và còn bao nhiêu những ước mơ nhỏ nhoi bình dị ? Lm. VĨNH SANG, DCCT, 3.7.2014 MỤC LỤC TÌM BÀI: ƯỚC MƠ NHỎ NHOI ( Lm. Vĩnh Sang ) .............................................................................................. 01 KHIÊM NHƯỜNG ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ............................................................................... 02 TRỞ NÊN HÈN MỌN ( AM. Trần Bình An ) ........................................................................................... 03 HÃY CẦM LẤY VÀ ĐỌC ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ........................................................................ 04 MANG ÁCH CỦA CHÚA SẼ GẶP ĐƯỢC BÌNH AN ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) .............................. 06 KHÚC TẠ ƠN (Trầm Thiên Thu ) .......................................................................................................... 07 PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 12: THÁNH LỄ CUỘC ĐỜI ( Nguyễn Trung ) .................................. 10 CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC ( Phùng Văn Hoá ) ...................................................................................... 12 CUỘC CHIẾN TRƯỜNG KỲ CHỐNG LẠI GIA ĐÌNH ( Bản dịch của Nguyễn Thế Bài ) ...................... 15 CỨU CHUỘC NHỜ TÌNH THƯƠNG YÊU CÔNG CHÍNH ( Lm. Kevin O'Shea, bản dịch của Mai Tá ) ........ 21 LỬA VÀ NƯỚC ( Pháp Nhật ) ............................................................................................................... 24 LƯƠNG TÂM GIÁ BAO NHIÊU ? ( Tạ Khánh Thiết, bản dịch của Nguyễn Thiên ) ............................... 25 MƯỜI LĂM ĐIỀU THƯỢNG ĐẾ SẼ KHÔNG HỎI ( Bản dịch của Huỳnh Huệ ) .................................... 26 NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( TTMV DCCT ) ........................... 27 KHIÊM NHƯỜNG Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng. Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người. Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực. 2 CÙNG SUY NIỆM
  • 3. Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ. Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa. Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp được Người. Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an. Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen. Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT TRỞ NÊN HÈN MỌN Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi: "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước ! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc ?" Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói: "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao ?" Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêsa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại: "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa ?" Chàng ký giả đáp: “Dạ rồi” – "Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa ?" – "Thưa mẹ, ba đứa !" – "Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong !" ( Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt. Mẹ Têrêsa Calcutta ). Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương yêu mặc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng tự nhận mình bé mọn, chỉ là một giọt nước trong, một giọt nước long lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, dù Mẹ đã làm biết bao kỳ công giúp đỡ người nghèo khổ tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới. Hèn mọn bản thân Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem với dáng dấp hài nhi bé bỏng yếu đuối, thì những kẻ chăn chiên, những mục đồng bé mọn lại là những người đầu tiên được vinh dự đến thăm Hài Nhi. Đến khi đi 3
  • 4. rao giảng, Người mời gọi mọi người hãy sống đơn sơ, ngây thơ, trong trắng, chân chất, thật thà, thân thiện, hòa nhã như trẻ em, để được Ơn Cứu Độ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại, mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” ( Mt 18, 3 ). Bí quyết cải lão hoàn đồng không phải trẻ lại thân xác mau hư nát, mà canh tân, đổi mới tâm hồn, bỏ đi những thói hư tật xấu, toan tính, lọc lừa, tất cả cái khôn ngoan thế gian, mà sống vô tư, phó thác hoàn toàn vào Chúa Quan Phòng, như em bé âu yếm nép vào lòng mẹ che chở. Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”, chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân hưởng tình yêu Chúa. Hèn mọn với tha nhân Trở nên bé mọn với tha nhân là khiêm nhường, hạ mình xuống, nhu mì, nhân ái, xóa tan đi cái tôi tự cao, tự đại, mà tình nguyện coi mình là người đầy tớ phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” ( Ga 13, 14 ). Trở nên bé mọn là hiền lành và nhẫn nhục, nhường nhịn, nhân ái, không còn kiêu căng, ngạo mạn, củng cố địa vị, chỗ đứng, so đo, ganh đua, kèn cựa với bất kỳ ai. “Ai muốn kiện tụng hầu đoạt chiếc áo cánh của ngươi, hãy nhường cả áo ngoài cho họ. Ai bắt ngươi đi một dặm đường, ngưoi hãy đi với nó hai dặm nữa. Ai xin ngươi cứ cho, họ muốn vay mượn ngươi đừng từ chối” ( Mt 6, 40 – 42 ). Trở nên hèn mọn là vui lòng chịu đựng những sự khốn khổ do cường quyền, ác nhân áp bức, hành hạ, tra tấn, bỏ tù, sát hại, bức tử vì danh Chúa. “Đừng chống cự với người ác. Trái lại, nếu ai tát má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ nữa” ( Mt 6, 39 ). Thánh Phaolô cũng hết lòng khuyên nhủ sống khiêm hạ: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” ( Pl 2, 3 ). Hèn mọn với Thiên Chúa Noi gương Đức Giêsu, Người trở nên hèn mọn trước mặt Đức Chúa Cha, hóa thân làm phàm nhân, người Kitô hữu cũng nhìn nhận mình là tạo vật hèn mọn, chẳng là chi cả trước Thiên Chúa, như bắt chước người thu thuế đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" ( Lc 18, 13 ). Hoặc khi làm được bất cứ việc chi tốt lành, hãy nhận lấy thân phận hèn mọn, đầy tớ bất xứng mà thưa cùng Chúa, như Người đã từng dạy: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm" ( Lc 17, 10 ). Thánh Phêrô còn minh định thêm về đức khiêm nhường: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định” ( 1Pr 5, 5 – 6 ). Khi một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ chúc mừng Mẹ Têrêsa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979, thì Mẹ vui vẻ đáp lại: “Tất cả vì vinh quang Chúa !” “Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp” ( Đường Hy Vọng, số 517 ). Lạy Chúa Giêsu, luôn hiền hậu và khiêm nhường, xin ban cho chúng con biết sống hèn mọn ngay với bản thân, với tha nhân và nhất là với Thiên Chúa cao cả, để có hiệp thông vào mầu nhiệm Nước Trời. Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, trở nên đầy tớ hèn mọn, để được Chúa đoái thương nhìn đến. Amen. AM TRẦN BÌNH AN HÃY CẦM LẤY VÀ ĐỌC Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy về đời sống Đức Tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân bản. Những ai học theo giáo huấn của Người sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và do đó sẽ thành công trong cuộc đời. Sứ điệp Chúa Giêsu gởi đến Chúa Nhật hôm nay là: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường” ( Mt 11, 29 ). Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về người khác, yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ nhàng, tôn trọng. 4
  • 5. Khiêm tốn là chấp nhận đứng thấp, ở dưới, như Gioan Tẩy Giả khiêm tốn “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương trong lòng. Người luôn yêu thương người khác. Đặc biệt là những người bé mọn. Người luôn muốn và làm điều tốt cho mọi người. Người không lên án, không thành kiến với những người mà xã hội coi là xấu xa, tội lỗi. Lời nói và hành động của Người luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Người không nặng lời, không kết án, Người sống bằng tình thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị ta. Những người này tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò, Người chỉ thinh lặng cúi xuống hiền từ dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” ( x. Ga 8, 1 – 11 ). Chúa Giêsu dạy chúng ta sống hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” ( Lc 15, 4 – 7 ). Người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” ( Lc 15, 11 – 32 ). Người cha không mắng chửi đứa con đầy lầm lỗi trở về, cũng không cãi cọ, không xua đuổi mà lại ôm hôn và dọn tiệc ăn mừng. Chúng ta có thể kể rất nhiều ví dụ trong Phúc âm về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng đi xuống. Từ trời cao, Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người. Ôi lạ lùng thay ! Sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu ngạo, muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi con người thấp hèn, muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con người lên. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình để phục vụ. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy tình yêu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên Chúa. ( Tgm. Ngô Quang Kiệt ). Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” ( Mt 11, 25 – 26 ). Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng ( Mt 11, 29 ). Vậy hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an cho tâm hồn ( Mt 11, 28 ). Hãy học bài học Giêsu, hãy học với Thầy Giêsu. Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi. Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” ( hãy cầm lấy và đọc ). Augustinô thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo Thánh Thần”. Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. 5
  • 6. Trở nên một Giáo Phụ, một triết gia, một thần học gia, một vị Thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo Hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh Kinh. Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin Mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí Tích Hoà Giải và Bí Tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể. Đó là sứ điệp Lời Chúa gởi đến cho chúng ta trong Chúa Nhật này. Học với Thầy Giêsu suốt đời, lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN MANG ÁCH CỦA CHÚA SẼ GẶP ĐƯỢC BÌNH AN Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ. Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” ( Mt 11, 25 ). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”, nhưng đặt một điều kiện, đó là: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” ( Mt 11, 29 ). Cái “ách đó” là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên ? Ách của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho các môn đệ Người ( x. Ga 13, 34; 15, 12 ). Nói đến cái “ách”, luật Do Thái được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người mời gọi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” hãy đến với Người, hãy tin vào Người, “Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho” ( Mt 11, 28 ). Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng. Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một chuyến xe cuộc đời, chắc chắn sẽ đỡ vất vả hơn, sẽ di chuyển được nhanh hơn. Đó chính là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người chúng ta. Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không ? Ách của Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng ( x. Mt 11, 30 ). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một Đấng “cùng mang ách” với chúng ta. Ở đoạn trước trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh thần nghèo khó” ( Mt 5, 3 ) như thể đã có được Nước Trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến “những kẻ bé mọn” ( Mt 11, 25 ) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh, 6
  • 7. họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang, vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào. Tiên tri Dacaria nói đến vị Vua Mêssia lên Giêrusalem, cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết. Chúa Giêsu đề nghị chúng ta hãy mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hậu, của niềm tin vào tình thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp: “Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” ( Is 40, 30 – 31 ). Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc bổ sức như lời Người hứa; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta. Có người viện cớ hỏi: Vậy tại sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần cho tất cả các gánh nặng ? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy. Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những người không cậy dựa vào sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được. Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “học” nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chị em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường cuộc sống. Amen. Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ KHÚC TẠ ƠN Tạ ơn là cảm tạ, cảm ơn, tri ân, biết ơn, nhớ ơn. Sống trên đời, không ai là một ốc đảo, nghĩa là luôn có mối liên đới với người khác, bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp. Không ai lại không thọ ân của người khác, đơn giản nhất là nhờ ông bà, cha mẹ, anh chị em, hàng xóm, thầy cô, bạn bè... Tục ngữ nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó là tiền nhân muốn nhắc nhở chúng ta về lòng biết ơn. Biết ơn là biết tự trọng, biết tôn trọng người khác, là người có giáo dưỡng, là người khiêm tốn và trọng chữ tín. Trong tập “Những Lời Khai Thị Vàng Ngọc”, Tịnh Không Pháp Sư viết: “Hãy biết ơn những người khiển trách ta, vì họ giúp ta tăng trưởng định tuệ; hãy biết ơn những người làm ta vấp ngã, vì họ khiến năng lực của ta mạnh mẽ hơn; hãy biết ơn những người bỏ rơi ta, vì họ đã dạy cho ta biết tự lập; hãy biết ơn những người đánh đập ta, vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta; hãy biết ơn những người lường gạt ta, vì họ tăng tiến kiến thức cho ta; hãy biết ơn những người làm hại ta, vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta; hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được kiên định và thành tựu”. Những ý tưởng thật là cao thượng, ai sống đúng được như vậy thì đúng là vĩ nhân rồi ! 7
  • 8. Phàm nhân mà người ta còn biết được như vậy thì thật đáng quý. Và có lẽ nhờ đó mà chúng ta không còn ngạc nhiên, và có thể hiểu được lý do Chúa Giêsu bảo chúng ta phải yêu kẻ thù: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” ( Lc 6, 28 ). Luật yêu của Ngài khác Cựu Ước, có vẻ “ngược đời” lắm, nhưng đó lại là nghịch-lý-thuận. Quả thật, hiểu cho sâu xa thì ai cũng là ân nhân của chúng ta, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nghĩa là chúng ta luôn phải biết ơn người khác. Với Thiên Chúa, chúng ta càng phải biết tạ ơn nhiều hơn và tạ ơn không ngừng. Tạ ơn phải được lặp đi lặp lại rất nhiều lần như một điệp khúc của bài trường ca vậy ! Tác giả Thánh Vịnh đã tự vấn và tự trả lời: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho ? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” ( Tv 116 [ 114 – 115 ], 12 – 13 ). Tạ ơn Thiên Chúa là bổn phận của chúng ta, việc đó chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn cứu độ cho chính chúng ta. Kỳ diệu quá! Nói tới động thái tạ ơn, chúng ta có thể nhớ lại chuyện mười người phong hủi, chuyện thật chứ không là dụ ngôn. Cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người ngoại bang trở lại tạ ơn Chúa Giêsu ( Lc 17, 11 – 19 ). Như vậy, chắc chắn chín người kia là “đạo gốc”, vô ơn vì có lẽ tưởng mình là “ngon”. Câu chuyện này “nhắc khéo” chúng ta về việc chúng ta thường vô ơn bội nghĩa đối với Thiên Chúa và tha nhân. Chuyện này cũng phần nào liên quan lời Chúa Giêsu khi Ngài nói về người môn đệ chân chính: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Có những người nhân danh Chúa mà nói tiên tri, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ,... nhưng Chúa Giêsu không hề biết họ: “Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” ( Mt 7, 23 ). Chúng ta làm những việc mà chúng ta tưởng là “việc đạo đức” nhưng với Chúa thì chỉ là “việc gian ác”. Coi chừng, vì không khéo thì chúng ta có thể ở trong đám người ấy, và nếu như thế thì thật khốn nạn ! Người khiêm nhường biết nhớ ơn là người vui vẻ, không ưu sầu. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” ( Dcr 9, 9 ). Lý do để chúng ta vui mừng rất rõ ràng. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều cách, dạng phổ biến nhất là Hồng Ân, là Thánh Ân của Ngài. Vì thế mà chúng ta không thể không biết tạ ơn Ngài. Ngài còn đến với chúng ta qua từng người chúng ta gặp hằng ngày, và rồi chúng ta cũng phải biết ơn những người chúng ta gặp – dù họ là ai, vì ai cũng có cái để chúng ta học hỏi – đúng để theo, sai để tránh. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài là Đấng cứu thoát chúng ta khỏi kẻ thù và làm cho chúng ta được an cư lạc nghiệp: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến mã khỏi Giêrusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” ( Dcr 9, 10 ). Vả lại, “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” ( Ga 3, 27 ). Vậy thì không tạ ơn sao được chứ ? Điệp khúc Tạ ơn là bài ca nguyện tuyệt vời và cần thiết, phải được lặp đi lặp lại từng ngày trong suốt cuộc đời: “Lạy Thiên Chúa con thờ, là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” ( Tv 145, 1 – 2 ). Thiên Chúa vui lòng thì có lợi cho chúng ta vô cùng. Tuy nhiên, chúc tụng Chúa khi cuộc đời chúng ta xuôi chèo mát mái thì không có gì đáng nói, nhưng thật đáng nói nếu cuộc đời chúng ta luôn gặp trắc trở, số kiếp luôn lận đận, như Thánh Gióp là tấm gương sáng chói. Sau khi bị mất tất cả, từ tài sản tới con cái, bản thân ông cũng bị bệnh tật, mọi người đều xa tránh, nhưng ông vẫn trung tín với Thiên Chúa. Ông xác định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa !” ( G 1, 21 ). Cả đời chúng ta cũng không thể so sánh với một góc nhỏ của Thánh Gióp. Niềm tin của Thánh Gióp lớn lao quá ! Nhưng niềm tin đó không mơ hồ hoặc ảo tưởng, mà hoàn toàn chính xác, như tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu 8
  • 9. tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” ( Tv 145, 8 – 12 ). Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” ( 1 Sm 2, 6; Kn 16, 13 ), Ngài “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao” ( 1 Sm 2, 6 – 7 ). Nghe có vẻ “oải” quá! Không phải vậy đâu. Ngài vẫn “thành tín trong mọi lời Ngài phán, và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm. Ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên” ( Tv 145, 13 – 14 ). Tác giả Thánh Vịnh đã trải nghiệm và tạ ơn: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” ( Tv 30, 4 ). Đúng là Hồng Ân chồng lên Hồng Ân. Tạ ơn Chúa là điều hoàn toàn hợp lý ! Tuy nhiên, trong cuộc sống chúng ta lại thường xuyên hành động trái ngược, biết mà không làm. Chúa Giêsu cũng đã nhắc nhở: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” ( Mt 26, 41; Mc 14, 38 ). Thân xác thật nặng nề, nặng hơn đá đeo ! Chúng ta vẫn lòng chai dạ đá, chỉ “ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối” ( Tv 4, 3 ). Thánh Phaolô chia sẻ kinh nghiệm: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” ( Gl 5, 17 ). Thần Khí Chúa rất quan trọng trong đời sống chúng ta, vì chính Chúa Thánh Thần đã tác động và biến đổi chúng ta, như Thánh Phaolô nói: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô” ( Rm 8, 9 ). Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới. Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” ( Rm 8, 11 – 13 ). Quả thật, chúng ta luôn là “con nợ” của Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng con nợ cũng vẫn phải biết ơn, vì mắc nợ cũng là thọ ân vậy. Hồng Ân lớn nhất mà chúng ta mắc nợ Chúa Giêsu, và phải nhớ mà tạ ơn Ngài, đó là ơn cứu tử của Ngài dành cho chúng ta: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” ( Ga 10, 15 ). Vâng, chính cái chết của Ngài là Hồng Ân cao cả, không gì sánh bằng, và chẳng bao giờ chúng ta có thể đền ơn đáp nghĩa. Nhưng Ngài không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta, mà Ngài chỉ cần chúng ta biết tin yêu Ngài và tạ ơn Ngài trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ. Điều kiện có khó gì đâu, thế mà chúng ta vẫn chỉ “hứa lèo”, có máu di truyền của Chú Cuội, hứa nhiều mà giữ chẳng bao nhiêu. Tồi tệ thật đấy ! Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài cất tiếng tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” ( Mt 11, 25 – 26 ). Ngài là Sư Phụ hiền lành và khiêm nhường ( Mt 11, 29 ) nên Ngài chỉ thích những con người “hèn mọn” mà thôi. Sau khi dâng lời tạ ơn, Chúa Giêsu cho biết: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” ( Mt 11, 27 ). Ai khiêm nhường thì Ngài sẽ mặc khải cho những điều bí ẩn. Chắc chắn như vậy. Và Ngài luôn mời gọi mọi người, không trừ ai: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” ( Mt 11, 28 – 30 ). 9
  • 10. Thật vậy, ách của Ngài là ách êm ái, gánh của Ngài là gánh nhẹ nhàng. Không ai lại không vất vả và mang gánh nặng nề, không cách này thì cách khác, dù theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen, có nghĩa là không ai lại không cần đến Ngài. Cuộc đời có rất nhiều thứ chúng ta phải “gồng mình” mà chịu đựng, thậm chí có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và hầu như kiệt sức. Cái ách thô ráp và cái gánh nặng trĩu ở đâu cũng có, dù trong gia đình hoặc cộng đồng tu trì. Nhưng có lẽ chúng ta chưa thực sự kề vai vào gánh vác Ách và Gánh của Chúa Giêsu nên chúng ta vẫn thường “than thở” đủ thứ, than trách đủ kiểu. Thế mới biết phàm nhân yếu hèn quá đỗi, vậy mà vẫn “chảnh” lắm, lúc nào cũng chỉ rình nổi loạn mà thôi ! Chúng ta được sinh ra làm người là một đại ân. Được lành lặn và khỏe mạnh là một đại ân nữa. Chúng ta lài được Chúa Giêsu cứu độ, đó là một đặc ân khác. Như vậy, chúc tụng và tạ ơn là một trong các bổn phận hàng đầu mà chúng ta phải thực hiện đối với Thiên Chúa. Có nhiều cách, một cách đơn giản là tránh tội: “Hãy run sợ, và đừng phạm tội nữa, trên giường nằm, suy nghĩ và lặng thinh” ( Tv 4, 5 ). Một cách khác cũng đơn giản là ca hát: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” ( Ep 5, 19 ). Ca dao Việt Nam nói: “Ai mà phụ nghĩa quên công / Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Quả thật, lòng biết ơn rất quan trọng, dù chúng ta đang đứng trên đỉnh núi Tabor hoặc Canvê. Dễ tạ ơn khi phấn khởi ở trên Tabor, nhưng rất khó tạ ơn khi ủ rũ ở trên Canvê. Hằng ngày, một lời cảm ơn rất đơn giản nhưng lại rất thường bị lãng quên ! Cuộc đời chúng ta là bản “trường ca tạ ơn” vô tận, với ai cũng vậy mà thôi. Trong đó có những “nốt tình” khác nhau về trường độ và cao độ, mỗi “nốt” có vị trí khác nhau nhưng vẫn luôn hài hòa để tạo thành bản tổng phổ hoàn chỉnh. Lạy Thiên Chúa, chúng con chân thành xin lỗi Ngài vì đã bao lần chúng con vô ơn bội nghĩa với Ngài và với tha nhân. Xin thêm cho chúng con được dồi dào ba đức đối thần và các đức đối nhân để chúng con vui mừng vác thập giá hằng ngày mà theo Đức Kitô lên đỉnh đồi Canvê. Xin giúp chúng con biết sống chân thành yêu thương nhau để hoàn thiện như Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen. TRẦM THIÊN THU PHONG CÁCH PHANXICÔ Bài 12. Thánh Lễ cuộc đời Pamela Mauro đã cho rằng Papa Phanxicô không thể nào ghé thăm nhà chị được, “Nhưng với phong cách của ngài, thì có thể lắm”. Cha mẹ của chị và cô em gái bị khuyết tật nặng Roberta sống tại Calabria. Nhà của họ nằm trên con lộ chính Papa Phanxicô sẽ đi qua trên đường đến dâng Thánh Lễ tại Sibari vào ngày thứ bẩy 21.6.2014 cho 250 ngàn người. Họ dựng lên một tấm bảng bên vệ đường với nguyên văn tiếng Ý là “Papa Francesco”. Người Ý và toàn thế giới Công Giáo rất thường gọi Giáo Hoàng là Papa, chữ thân thương trìu mến mà họ gọi cha đẻ của mình, trong khi người Việt chỉ biết gọi ngài là Đức Thánh Cha hay Đức Giáo Hoàng. Trước cửa nhà, họ dựng lên các tấm bảng khác với nội dung “Xin dừng lại” và “Ở đây có một Thiên Thần đang chờ đón ngài.” Quả thực Papa Phanxicô đã dừng lại, giữa những tiếng reo hò “Bravo, Francesco ( Hoan hô Phanxicô ). Ngài bước ra khỏi xe để ban phép lành cho cô Roberta. Ngài chỉ dùng một cái xe con con tầm thường thôi, ngồi trong đó rất là chật chội, bây giờ nhiều người Việt Nam, kể cả một số không ít Giáo Sĩ còn mua xe hoành tráng hơn cho mình. Có thể xem lại cuộc gặp gỡ ngắn và bất ngờ này tại: www.youtube.com/watch?v=oVCrfNqQLWQ và có thể thêm xem hình chụp tại http://foto.ilgazzettino.it/CRONACA/foto/0- 72602.shtml?idArticolo=759349 10 CÙNG NHẬN ĐỊNH
  • 11. Phong cách của Papa Phanxicô theo mẫu gương Thánh Phanxicô Assisi đang cảm hóa rất nhiều người trên thế giới. Mới đây, ngày 8.6.2014, Papa Phanxicô đã thực hiện được một kỳ tích mà trước đây không ai có thể tưởng tượng được là mời cả hai nguyên thủ của quốc gia không đội trời chung là Israel và Palestine cùng đến Vatican để cùng cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Cả ba tôn giáo lớn Kitô Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo đều tôn thờ một Thiên Chúa Duy Nhất và đều công nhận Abraham là Tổ Phụ của Lòng Tin của mình. Kitô hữu chúng ta tin rằng chỉ có Chúa Giêsu mới chính là Lời Mặc Khải duy nhất và tối thượng của Thiên Chúa, hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn chính là Thiên Chúa Làm Người. Nếu Thiên Chúa đã tự muốn trở nên một con người bình thường như mọi người, kể cả bạn và tôi, tức là Người đã coi con người như đồng hàng với mình và cuộc đời mỗi người, dù rất khác biệt, đều có một giá trị tuyệt đối như chính cuộc đời mà Người đã sống trên trần gian này. Ít có ai nói lên được sự tuyệt vời khôn tả của mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người một cách cô đọng mà súc tích như Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas ( Opusc. 57, 1 – 4 ), câu này được đưa vào Sách giáo lý chính thức của Hội Thánh ( đoạn 460 ): Con duy nhất của Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta thần tính của Người khi đón chịu lấy bản tính con người, nhờ thế mà Người cũng làm cho con người trở thành Thiên Chúa. ( The only-begotten Son of God, wanting to make us sharers in his divinity, assumed our nature, so that he, made man, might make men gods ). Ngày 19.6.2014, Vietcatholic đưa tin: Trước mặt Linh Mục đại diện Chúa Kitô và cộng đoàn, tối ngày 18.6.2014, 50 bạn trẻ đã cử hành Bí Tích Hôn Phối cách long trọng tại Nguyện Đường Giáo Xứ Thuận Nghĩa ( cột tre, mái lá ). Giây phút hạnh phúc này là hoa trái của một tình yêu tinh tuyền mà các đôi trai gái đã trao gửi cho nhau qua một thời gian dài gặp gỡ, tìm hiểu. Qua một tháng miệt mài học hỏi Giáo Lý Hôn Nhân, hôm nay các anh chị đã tiến tới cử hành Bí Tích Hôn Phối tại Nguyện Đường Giáo Xứ. Hôn nhân gia đình là nền tảng và mốc điểm khởi đầu cho sự phát triển của Giáo Hội. Với số lượng 12 ngàn Giáo Dân, mỗi năm giáo xứ Thuận Nghĩa tổ chức ba khoá học hôn nhân cho các bạn trẻ để đáp ứng nhu cầu mục vụ. Nguyện cầu cho các bạn trẻ lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối hôm nay luôn có Chúa đồng hành để giữ mãi phút giây hạnh phúc của ngày lễ. Xem hình tại https://www.flickr.com/photos/vietcatholic/14435330786/in/set-72157645242132942 Nguồn http://www.vietcatholic.net/News/Html/125605.htm Cùng ngày hôm đó còn có tin: 5 Giám Mục và 200 Linh Mục tham dự Lễ An Táng tiễn đưa cha Albertô Trần Phúc Nhân. Cha Albertô Nhân người gốc Giáo Phận Phát diệm, là một Linh Mục trong gia đình có 3 anh em Linh Mục khác là Trần Phúc Long, Trần Phúc Vỵ, Trần Phúc Vinh Hạnh và có 3 chị em Nữ Tu. Cha Nhân mới đây về hưu trí tại nhà Dưỡng Lão Chí Hòa, sau một cơn đau tim, cha đã qua đời ngày 17 tháng 6 hưởng thọ 82 tuổi và phục vụ trong thiên chức Linh Mục 56 năm. Đám tang của cha Nhân được tổ chức ngày 18 tháng 6 năm 2014, tại Nhà Thờ Chí Hòa Sàigòn, dưới sự chủ sự của Tổng Giám Mục Sàigòn Phaolô Bùi Văn Đọc. Đồng tế trong Thánh Lễ An Táng có bốn vị Giám Mục từ các Giáo Phận khác nhau trong cả nước và hơn 200 Linh Mục. Trong một bài giảng dài, Đức Tổng Giám Mục nói về phẩm chất gương mẫu của cha Albertô như là gương sống hiếm hoi của các Linh Mục, và là người bạn của Tổng Giám Mục. Nguồn http://www.vietcatholic.net/News/Html/125611.htm 11
  • 12. Đây chính là đặc điểm khá nổi bật của Nhà Thờ Việt Nam. Các Linh Mục rất được quý trọng một cách hoàn toàn chính đáng. Giữa hàng Giáo Sĩ với nhau có một sự gắn bó hỗ tương cao cả và bền chặt. Một Linh Mục qua đời được 5 Giám Mục và 200 Linh Mục từ mọi miền đất nước lũ lượt về đồng tế Thánh Lễ An Táng, một việc rất thường xuyên xẩy ra, là một hình ảnh trên cả tuyệt vời. Cũng tuyệt vời không kém là hình ảnh 50 bạn trẻ cùng đón nhận Bí Tích Hôn Nhân ( cũng thường xuyên xẩy ra ) với một Linh Mục duy nhất tại một Nhà Thờ miền quê nghèo phải dựng bằng cột tre và lợp mái bằng lá. Tất cả đều là những Thánh Lễ cao cả của cuộc đời và có những ý nghĩa khác nhau tùy theo tầm nhìn. Đâu là tâm tình và thái độ mà Đức Kitô muốn ta có ? Phanxicô đã sống với phong cách Phanxicô. Papa Phanxicô đang làm thế giới phải bàng hoàng với phong cách của ngài khi dừng chân bên vệ đường để chúc lành cho một cô bé tật nguyền. Đâu là phong cách mà ta, với tư cách là môn đệ Đức Kitô, cũng phải có ? 5 Giám Mục và 200 Linh Mục tham dự Thánh Lễ An Táng cho cha Trần Phúc Nhân đều mang những trọng trách rất nặng nề và quỹ thời gian cũng rất eo hẹp, nhiều vị có khi còn đa đoan hơn cha xứ Thuận Nghĩa nữa. Tại sao sau 500 năm, tỷ lệ Kitô hữu tính trên tổng số dân Việt Nam vẫn dậm chân tại chỗ ? Đâu là mũi nhọn các hoạt động của Nhà Thờ Việt Nam ? Lời Chúa để cho ta rao giảng cho người khác hay còn để cho ta sống và thực hành. Có bao nhiêu cuộc đời quanh ta phải hư đi vì ta chẳng hề làm điều chi cho họ cả ? Đâu là điều bận tâm nhất của ta, không làm không được, mà vì phải làm nên ta đành bỏ qua nhiều điều khác. “Anh em nghĩ sao ? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” ( Mt 18, 12 – 14 ). NGUYỄN TRUNG CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC Đúng một năm sau sự kiện 11 tháng 9 tại Mỹ, vào ngày 11.9.2002, trung tướng Lưu Á Châu khi ấy là chính ủy bộ đội không quân quân khu Thành Đô đã có bài nói chuyện dành cho các cấp cán bộ từ tiểu đoàn trưởng trở lên để bàn về mối tương quan giữa Dân Chủ và Đạo Đức trong đó ông kịch liệt phê phán thái độ thiếu đạo đức của một bộ phận người dân Trung Quốc: “Vụ 11/9 năm ngoái là sự việc có thể khảo nghiệm trình độ đạo đức của dân ta nhất. Hôm nay vừa đúng tròn một năm sự kiện ấy. Vụ 11 tháng 9 tuy không thể thay đổi thế giới nhưng đã thay đổi nước Mỹ. Đồng thời thế giới sau ngày ấy khó thể trở lại trước sự kiện này. Khi xảy ra vụ 11 tháng 9 có người bạn gọi điện thoại cho tôi nói: sinh viên Đại Học Bắc Kinh và Đại Học Thanh Hoa đang khua chiêng gõ trống. Tôi bảo đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc còn chưa lọt vào vòng sau kia mà, phải đến mồng 7 tháng 10 đội Trung Quốc mới đấu trận cuối cùng với đội Liên Hiệp Vương Quốc A Rập, nếu thắng thì sẽ lọt vào danh sách dự World Cup. Một lúc sau mới biết thì ra sinh viên Trung Quốc đang chúc mừng việc Tòa Tháp Đôi Mỹ bị đánh sập” ( Nguồn: Tuanvietnam.net 20.6.2014, Tướng Trung Quốc bàn về niềm tin và đạo đức ). Đối với sinh viên dẫu sao cũng được kể là tinh hoa dân tộc, đã vậy, còn các nhà báo có nhiệm vụ phô diễn bộ mặt quốc gia thì sao ? “Báo chí nước ngoài đưa tin: Hồi ấy có một đoàn nhà báo Trung Quốc đang ở thăm Mỹ khi thấy hình ảnh tòa nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới bị đánh sập, các 12 CÙNG BÌNH LUẬN
  • 13. thành viên đoàn nhà báo này bất giác vỗ tay. Đây là một dạng ngấm văn hóa. Điều đó không thể trách, bọn họ đã không thể kiềm chế được bản thân” ( Nguồn: Tuanvietnam. Net, bài viết đã dẫn ). Cái dạng… ngấm văn hóa vui mừng vỗ tay trước nỗi đau của người khác theo Lưu Á Châu nó là thứ văn hóa truyền thống của giai cấp phong kiến xưa kia: “Người Trung Quốc xem cảnh giết người khác không ai không vui mừng phấn khởi. Giai cấp thống trị cố ý đem người ta ra giết hại nơi đông người. Kẻ bị thống trị thì hưởng thụ tại nơi đông người cái cảm giác khoái trá của kẻ thống trị. Nhất là khi xử tử bằng kiểu tùng xẻo, kéo dài ba ngày, người xem đông nghìn nghịt” ( Nguồn: Tuanvietnam.net, Tướng Trung Quốc… đã dẫn ). Bởi nguyên nhân nào mà ông tướng không quân được biết tới như một nhà văn có tiếng, chủ nhân của nhiều giải thưởng văn học lại có thể nhận định văn hóa truyền thống Trung Quốc một cách lệch lạc như vậy ? Theo tôi đó là vì ông ta đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của học thuyết Duy Vật Mácxít. Chính do nơi ảnh hưởng này mà Lưu Á Châu đã cho rằng: “Trung Quốc không có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược. Hegel từng nói Trung Quốc không có triết học. Tôi cho rằng mấy nghìn năm nay Trung Quốc chưa sản sinh được nhà tư tưởng nào. Nhà tư tưởng tôi nói là những người như Hegel, Socrate, Plato những nhà tư tưởng ấy có cống hiến to lớn đối với tiến trình văn minh nhân loại. Lão Đam ( Lão Tử ) bạn nói là nhà tư tưởng phải không. Chỉ dựa vào Đạo Đức Kinh 5.000 chữ mà có thể làm nhà tư tưởng ư ? Đấy là chưa nói Đạo Đức Kinh có vấn đề. Khổng Tử có thể coi là nhà tư tưởng chăng ? Thế hệ chúng ta xem xét ông thế nào ? Tác phẩm của ông bị xem xét ra sao ? Tác phẩm của ông chưa từng cung cấp cho nội tâm người Trung Quốc một hệ thống giá trị có thể đối kháng quyền lực thế tục. Cái mà ông cung cấp là tất cả xoay xung quanh quyền lực. Nếu Nho học là một tôn giáo thì đó là một tôn giáo rởm. Nếu là tín ngưỡng thì là tín ngưỡng rởm. Nếu là triết học thì đó là triết học của xã hội quan trường hóa. Xét trên ý nghĩa này thì Nho học có tội với người Trung Quốc” ( Nguồn: Tuanvietnam.net, Tướng Trung Quốc… đã dẫn ). Phê phán cả Lão Tử lẫn Khổng Tử cho rằng hai con người này không có cống hiến gì cho văn minh nhân loại giống như các triết gia Tây Phương: Hegel, Socrat, Plato… Điều ấy chứng tỏ đầu óc của ông tướng này đã… ngấm nặng ý hệ Duy Vật đến nỗi xổ toẹt toàn bộ di sản văn hóa không những chỉ riêng của Trung Hoa mà còn của cả nhân loại. Với việc chối từ này chúng ta cũng không lạ gì với việc mà ông ta nêu lên những tệ hại của cái gọi là văn hóa truyền thống mà thực chất là của Trung Quốc nói riêng và của các chế độ CS nói chung trong thời hiện đại. Những tệ hại được nêu lên ấy đại khái như là “Thuật Ngụy Biện". Ngụy biện chẳng qua là sự nói dối. Có thể nói chế độ Cộng Sản là tập đại thành của dối trá. Giáo sư Trần Phương cựu phó thủ tướng, cựu bộ trưởng Bộ Nội Thương ( 1981 – 1982 ) cựu ủy viên Trung Ương Đảng đã được Ban Giám Hiệu trường Phan Chu Trinh mời đến nói chuyện với các giáo viên của trường nhân dịp ông vào công tác tại Đà Nẵng ( 1987 ): “Nhưng mà hôm nay nói ra để nói rõ rằng chúng ta có rất nhiều cái mơ hồ và chính vì cái mơ hồ trong tư tưởng đó cho nên cương lĩnh đầy rẫy những cái sai. Ông nói Chủ Nghĩa Xã Hội mà ông không hiểu nó là cái chi cả. Ông nói định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa mà ông không biết cái định hướng nó là cái gì. Ông nói là nền dân chủ Xã Hội Chủ Nghĩa mà ông cóc hiểu dân chủ Xã Hội Chủ Nghĩa khác cái Dân Chủ Tư Sản là cái gì…” ( Nguồn: Nguoilotgach.blogspot 20.10.2013, Chúng ta tự lừa dối chúng ta và chúng ta lừa dối người khác ). Đã tự lừa dối mình thì không có cách chi không lừa dối người khác và hậu quả của sự lừa dối ấy tất nhiên chỉ có thể đưa đến sự tàn nhẫn bất công. Xã hội Trung Quốc và những xã hội Cộng Sản khác ngay cả khi đã chối bỏ nó, như Liên Bang Nga hiện nay, cũng vẫn chịu ảnh hưởng rất nặng của chủ nghĩa duy vật và độc tài. Một khi đã nhiễm óc duy vật rồi thì chỉ còn biết có mình, coi người khác hoàn toàn như những đối tượng để khai thác trục lợi. Lợi dụng được thì gọi nhau là đồng chí. Ngược lại thì trừ khử giết hại không thương tiếc. Đã biết bao chứng cớ về sự thanh toán nhau trong các chế độ độc tài mà ai cũng biết. Đối với những con người đã nhiễm óc duy vật rồi thì không gì mà không làm miễn sao có lợi ( bất chính ) cho mình. Từ cái thói chỉ biết có lợi cho mình ấy mà người ta đã nhẫn tâm làm hại người khác nhưng không có một chút mặc cảm lương tâm nào. 13
  • 14. Trung Quốc với chế độ Cộng Sản hiện nay là một quốc gia đứng đầu thế giới trong lãnh vực sản xuất đồ giả và những thứ độc hại khác từ sữa, đồ chơi cho trẻ em cho đến thực phẩm nhiễm hóa chất đủ loại. Tư tưởng phát xuất ra hành động, chủ trương theo đuổi một chủ nghĩa xấu như duy vật thì hậu quả xấu làm sao có thể tránh được: Nạn tham nhũng tràn lan không có cách chi diệt trừ. Nạn phá hủy môi trường càng ngày càng dữ dội đến nỗi ngay như thủ đô Bắc Kinh đã phải nâng mức báo động đỏ về ô nhiễm không khí hàng năm nhiều đợt, đợt sau luôn nặng hơn đợt trước !?! Với những hậu quả nhãn tiền như thế, người ta cũng muốn sửa sai, đổi mới đấy thế nhưng không thể được. Việc đổi mới giống như việc đánh bùn sang ao chỉ thêm ngầu đục. Cũng trong lần nói chuyện tại trường Phan Chu Trinh ngày ấy Giáo Sư Trần Phương nói sự đổi mới của chế độ là bất khả ngay cả với ông Tổng Bí Thư Đảng: “Cho nên có khi cái hôm mà có đồng chí hỏi tôi về đồng chí Lê Duẩn, người ta nói là tại sao anh ca tụng anh Lê Duẩn là một người biết nghe như thế mà anh ấy không thể đổi mới được ? Tôi trả lời thế này: Anh Lê Duẩn tuy cũng là người rất là tỉnh táo đấy nhưng ông ấy cũng nằm trong một hệ thống tư tưởng mà ông không thoát ra được. Ông không thoát được bởi vì thế này: chính ông Lê Duẩn đi họp cái Hội Nghị 57, Hội Nghị 60. Ông ấy là những người thiết kế ra cái hệ tư tưởng của cái hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa thế giới này. Nó đấy, cho nên tôi nói thật với các anh đó khi năm 86 chúng ta đổi mới thì ông mới chịu cái sức ép của thực tế là ông không thể nào không theo cơ chế thị trường được. Ông phải chịu nhưng ông chưa kiểm điểm cái tư tưởng của ông đâu” ( Nguồn: nguoilotgach.blogspot 30.10.2013, Gs. Trần Phương… ). Chưa kiểm điểm bởi vì ông Lê Duẩn chưa nhận thức được cái sai của Chủ Nghĩa Cộng Sản ở chỗ nào. Trái lại, tướng Lưu Á Châu có lẽ bởi từng là giáo sư thỉnh giảng của Đại Học Stanford nên mới sùng thượng Mỹ hầu vạch ra cái hướng sửa sai cho nước mình. Trước hết, ông ca ngợi chế độ bầu cử “Không thể coi thường cơ chế tinh anh của Mỹ. Chế độ cán bộ, chế độ tranh cử của Mỹ có thể bảo đảm những người quyết sách đều là tinh anh. Bi kịch của Trung Quốc chúng ta lớn đến cấp nhà nước, nhỏ tới từng đơn vị, phần lớn tình hình là người có tư tưởng thì không có quyết sách, người quyết sách thì không có tư tưởng. Có đầu óc thì không có cương vị, có cương vị thì không có đầu óc. Nước Mỹ ngược hẳn lại, cơ chế hình tháp của họ đưa được những người tinh anh lên. Nhờ thế, một là họ không mắc sai lầm, hai là họ ít mắc sai lầm, ba là mắc sai lầm thì có thể nhanh chóng sửa sai. Chúng ta thì mắc sai lầm, thường xuyên mắc sai lầm, mắc sai lầm rồi thì rất khó sửa sai” ( Nguồn: Tuanvietnam.net 20.6.2014, Tướng Trung Quốc… đã dẫn ). Ưu điểm của thể chế dân chủ Mỹ chính là ở chỗ việc tranh cử của các ứng cử viên ( Tổng Thống ). Tranh cử nói cho dễ hiểu thì nó không khác gì việc thi đua mà giám khảo lại chính là các cử tri. Ở đây ta thấy dường như lá phiếu của người dân sẽ quyết định ai sẽ là người lãnh đạo đất nước. Tuy nhiên sự thực thì không phải vậy, đằng sau cái việc tranh cử bầu cử đó còn ẩn chứa biết bao điều khuất lấp, nào là những kỹ thuật dàn dựng nói xấu bôi tro trát chấu nhau, nào là mua phiếu, hứa hẹn chức vụ béo bở cho những cổ động viên nhiều tiền nhiều thế lực v.v… Mặc dầu vậy, tất cả những mờ ám ấy chưa phải là vấn đề. Điều quan yếu nhất trong các thể chế dân chủ chính là việc phổ thông đầu phiếu căn cứ trên đa số tức ứng cử viên nào nhiều phiếu nhất sẽ đắc cử. Cũng do nơi căn cứ vào đa số ấy mà người ta đã thay thế phẩm chất bằng số lượng. Phảm chất ( quality ) ở đây gồm bởi những con người có nhận thức, có óc phán đoán, họ biết điều gì thực sự là cần cho quốc gia dân tộc v.v… Còn số lượng ( quantity ) tức cái đám đông mù quáng chỉ biết đòi hỏi làm sao đáp ứng được những nhu cầu thiết thực cho đời sống: công ăn việc làm, an sinh xã hội, diệt trừ tham nhũng v.v… Người tranh cử nào chẳng muốn thắng cử. Bởi vậy nhất định phải nhắm đến cái đám đông hỗn tạp kia bằng những lời hứa sao cho lọt tai họ… Cố nhiên việc tranh cử, bầu cử tại các quốc gia dân chủ có nhiều điểm vượt trội so với chế độ Cộng Sản. Thế nhưng suy cho cạn lẽ thì đời sống con người chẳng lẽ chỉ hạn cuộc trong những nhu cầu của xác thân hữu hạn này sao ? Bao lâu còn hạn cuộc như thế thì dù cho Cộng Sản hay Dân Chủ sẽ vẫn còn đối xử với con người như không phải con người, nếu không muốn nói như câu ngạn ngữ La Mã cổ thời: “Người là lang sói với người” ( Homo homini lupus est ). Đối xử với con người như không phải con người thì không bao giờ có thể có được đạo đức. Tại sao ? Bởi con người dù xuất hiện dưới bất cứ hình thức chủng tộc giai cấp nào nó cũng mang nơi mình 14
  • 15. phẩm chất vô cùng cao quý. Phẩm chất ấy Đạo Phật gọi là Phật tính, là Viên Giác tính. Còn Đạo Chúa gọi là Thiên Chúa tính, Thượng Đế tính, Thần tính, Hình Ảnh Thiên Chúa, Con Thiên Chúa Hằng Sống v.v… Chính trị theo cái nghĩa cao quý nhất như tên gọi của nó chẳng những phải đem lại an cư lạc nghiệp cho muôn nhà, mà còn phải tạo cho con người có được thuận lợi tối đa trong việc thực hiện tâm linh tính của mình. Sở dĩ chính trị cần làm điều ấy bởi vì cứ bình tâm suy nghĩ mà xem, tất cả rồi sẽ qua đi, nào những nền văn minh, những đế quốc những chế độ đủ loại nay có còn gì đâu hay chỉ là một ánh chớp trong vô biên bất tận ? Không còn mà vẫn còn, và cái còn ấy chính là cái nghiệp mà mỗi người đã tạo lấy cho mình: “Ta sẽ tùy công việc của mỗi người trong các ngươi mà báo ứng” ( Kh 2, 23 ). PHÙNG VĂN HÓA Từ khi Thiên Chúa tạo dựng con người và ban cho loài người đời sống GIA ĐÌNH – để con người hưởng hạnh phúc, tôn thờ Thiên Chúa và tăng thêm người được may mắn và hạnh phúc thờ phượng Người – thì Satan không hề ngừng nghỉ phá hoại công trình cao đẹp này, mà khởi đầu là cuộc cám dỗ ông bà nguyên tổ và sự sa ngã của loài người. TỪ ĐÓ, Satan luôn tìm cách khoét sâu và phá hủy thành trì GIA ĐÌNH này, mọi thời, mọi nơi, mọi lúc. TRẬN CHIẾN ngày càng tàn khốc, với cái nê “tự do” trong mọi lãnh vực. Giáo Hội là Thầy và Mẹ ( Mater et Magistra ) luôn bảo vệ chân lý, tín lý, luân lý và bảo vệ con cái mình. CUỘC CHIẾN GIA ĐÌNH ngày càng khốc liệt, không khoan nhượng. Mỗi tín hữu Công Giáo là một chiến sĩ trong trận chiến trường kỳ này, không được phép lơ là, giao động, gục ngã. Trong tinh thần đó, chờ đợi và cầu nguyện cho THƯỢNG HỘI DỒNG GIÁM MỤC VỀ GIA ĐÌNG sắp diễn ra vào tháng 10 tới đây, xin chia sẻ bài viết THE LONG WAR AGAINST THE FAMILY của tác giả Ryan N.S. Topping ( đã chuyển ngữ ngày 15.2.2013 ). CUỘC CHIẾN TRƯỜNG KỲ CHỐNG LẠI GIA ĐÌNH Lớp người ưu tuyển văn hoá cấp tiến đã từ lâu duy trì những thành kiến đối với gia đình vốn, không bị phản đối, dẫn tới sự sụp đổ của nó. Trong nhiều điều, tôi chỉ xin kể ra đây ba: (1) Sự khẳng định rằng hôn nhân làm cho nam giới và nữ giới kém tự do hơn (2). Sự giả định rằng con cái là một gánh nặng và (3) sự khẳng định rằng phân biệt sinh lý là một điều tưởng tượng. Ba ý tưởng này tượng trưng cho ba làn sóng của phong trào bài gia đình trong 150 năm qua. Ý tưởng đầu tiên là đóng góp của Chủ Nghĩa Marx; ý tưởng thứ hai là của thuyết ưu sinh; ý tưởng thứ ba là kết quả của các nhà lý luận về giới tính gần đây. Những người bảo thủ xã hội hay quá thường chơi một trận chiến săn lùng với cánh tả cấp tiến. Chúng tôi kinh ngạc trước nạn nạo phá thai; chúng tôi lo âu về nạn ly dị; chúng tôi ngạc nhiên về sự trỗi dậy của cuộc vận động hành lang đồng tính. Đúng là báo động đã vang lên. Nhưng ngay cả trước khi có cuộc vận động hành lang, nếu gia đình có bao giờ dành lại được vị trí nỗi bật tự nhiên của nó, các người bảo thủ cần phải phục hồi ký ức về việc làm sao “gia đình truyền thống” đã đánh mất con đường của mình. Trong bài viết này và trong hai bài tiếp theo, tôi muốn nói ra ba giai đoạn của cuộc chiến trường kỳ chống lại gia đình và sau đó sẽ lưu ý vắn gọn một số nguyên tắc trả lời có ích cho chúng. Chúng ta sẽ bắt đầu trước hết với sự đóng góp của chủ nghĩa Mác. Chung cho cả Marx lẫn Engels là niềm tin rằng các quan hệ xã hội không mang đặc điểm sự bình đẳng vật chất – tuyệt đối, là bất công. Trong bài nghiên cứu có ảnh hưởng của ông, Nguồn gốc Gia Đình, Tư Hữu và Nhà Nước ( 1884 ), người cộng tác của Karl Marx, Friedrich Engels đã tấn công gia đình như là tế bào nguyên thuỷ của bất bình đẳng và chế độ nô lệ. Như một sự mở rộng của ao ước chiếm hưu đầu tiên của con người – từ tương đương của sa ngã trong Chủ Nghĩa Marx – con người cũng mong ước bảo đảm việc truyền lại tài sản cho hậu thế. Trong giải thích của Engels, xu thế này là cái làm trỗi dậy chế độ một vợ một chồng. Nam giới với đất đai tài sản muốn có những người thừa kế với một danh phận hợp pháp. Do đó, trong hôn nhân nữ giới 15 CÙNG PHÂN TÍCH
  • 16. thuộc về nam giới, đơn thuần như “một dụng cụ sản xuất con cái”. Trong cái nhìn của Engels sự nô dịch hoá nữ giới, một cách tự nhiên, giống như tất cả các bất bình đẳng, sẽ chấm dứt một khi các phương tiện sản xuất được chuyển từ tư hữu sang nhà nước. Khi không còn quyền sỡ hữu và không còn khả năng truyền cho đời sau gia tài của cải, nam giới sẽ không còn quan tâm nhận diện con cái nữa. Một kết quả là một khi các điều kiện kinh tế làm hôn nhân trỗi lên, chấm dứt, thì hôn nhân cũng sẽ chấm dứt. Kết thúc lịch sử, tình dục sẽ lại được giải phóng. Engels tiên đoán rằng cuộc cách mạng sắp đến sẽ giáng một cái tát cho cả gia đình lẫn luân lý tình dục trưởng giả chống đỡ nó. Trong tương lai xã hội chủ nghĩa này, ”gia đình đơn nhất hết còn là đơn vị kinh tế của xã hội” và sẽ dẫn đến “sự tăng trưởng dần dà của sự giao hợp không bị giới hạn”. Hiển nhiên Freud không phải là người đầu tiên gợi ý rằng tình dục là điều mà con người thật sự theo đuổi kiếm tìm. Bất kể những khiếm khuyết của lý thuyết của ông, Engels ít nhất có thể thấy trước về những phân nhánh của nó: chủ nghĩa xã hội tiến tới, gia đình lùi dần. Khi những công việc nuôi dạy con cái, chăm sóc người già và làm ra tiền được nhà nước tiếp thu, ngày càng ít lý do còn lại để một người nam và một người nữ thành lập một khế ước bền lâu. Trong những chuyến đi tới các quốc gia Cộng Sản, tôi đã bị đánh động bởi sự việc là thái độ của chúng ta đối với việc giáo dục trẻ em phù hợp một cách sát sao biết bao với các phương pháp của cộng sản. Tuy nhiên có sự khác biệt này: dưới Chủ Nghĩa Cộng Sản, hàng triệu bà mẹ bị ép buộc phải làm việc bên ngoài gia đình và phải gửi con cái họ cho những cơ sở của nhà nước. Trong thế giới tự do, nhiều người trong chúng ta làm điều này do lựa chọn của riêng chúng ta. Khi con cái từ tuổi lên ba ăn hai bữa hoặc nhiều hơn với những người lạ, thì chẳng có gì ngạc nhiên khi cha mẹ thấy khó khăn trong việc kiểm soát mức độ lòng trung thành vốn được cho là hiển nhiên. Con cái cần số lượng thời giờ hơn là “giờ chất lượng”, và khi nhà cửa trống vắng, thì con cái chuyển các bổn phận của chúng sang nơi khác, thông thường là cho những người ngang hàng với chúng. Những cậu trai và cô gái sớm bị đặt vào các cơ sở nhà nước, trở thành mồi béo bở cho cái được gọi là “văn hoá giới trẻ” – gồm nhạc pop, áo quần đắt tiền và những thú tiêu khiển thô bỉ theo ý đồ của các tập đoàn để tạo một thị trường dễ dãi. Khi người mẹ phải làm việc, thì việc nuôi nấng con cái cũng trở nên khó khăn hơn. Thực tế, những đòi hỏi của công việc có thể đi đến chỗ xem ra là trò đùa khi được đặt bên cạnh tư cách làm cha làm mẹ. Đối với ngày càng nhiều phụ huynh, các hy sinh tại nhà xem ra chỉ đem lại một sự đền đáp nghèo nàn. Hẳn nhiên các bà mẹ trẻ không có lựa chọn nào hơn là làm việc ngoài nhà, nhưng nhu cầu này khó khăn lắm mới trở thành tiêu chí. Gia đình phải hơn chỉ là một trạm cuối xe buýt nơi các kết nối với những nơi đến khác được thực hiện. Nó phải quay lại thành một trung tâm cho sinh hoạt đầy ý nghĩa. Giáo dục, việc làm, cầu nguyện, sự chăm sóc và trò chơi là những chức năng chính yếu thuộc về gia đình được xếp đặt một cách thích hợp. Việc phục hồi sức mạnh của gia đình tuỳ thuộc vào khả năng của nó, kế đến là giành lại vị trí từ các lực nên ngoài mà các hoạt động của nó đã bị chuyển sang. Viết cho thế hệ sau Marx và Engels, Đức Thánh Cha Lêô XIII hiểu rất rõ rằng những gì đang bị đe doạ trong trận chiến chống lại Chủ Nghĩa Xã Hội. Tân Sự ( Rerum Novarum – 1891 ) để mắt đến không chỉ các quyền của người lao động, mà còn đến sự tồn tại của gia đình người thợ thuyền. Cả hai đều có các quyền vốn có nền móng trong tự nhiên và được lộ cho thấy. "Xin chú ý, vì thế gia đình hoặc đúng hơn xã hội của gia đình này, một xã hội quả là rất nhỏ bé, nhưng là một xã hội thật sự và có trước bất cứ một xã hội có tổ chức nào !” Sự phẫn nộ của các cặp vợ chồng cần phải được gợi ở nguy hiểm hiện tại mà hạnh phúc của họ đang phải đương đầu. Sự bình đẳng và sự bổ sung trên thực tế có thể sống chung trong một sự kết hợp may mắn. Người Kitô hữu đơn thuần không cần phải chấp nhận rằng bình đẳng phải ( theo như từ ngữ chủ nghĩa Marx ) bị giảm thiểu chỉ còn là bằng nhau về đồng lương và cơ hội đồng đều để có giấy phép tình dục. Trong đợt sóng đầu tiên tấn công vào gia đình, không có bất cứ dấu hiệu sự phụ thuộc lẫn nhau nào được nhìn thấy như là một đe doạ đối với tự do. Những kẻ hoạt động chống lại gia đình đã nhấn mạnh rằng việc phục tùng một hợp đồng độc quyền là một sự hy sinh tự do ý chí. Như Simone de Beauvoir đã khẳng định, trong hôn nhân, ”người đàn ông và vợ cùng nhau trải qua sự áp bức của một cơ chế mà họ không lập ra”. 16
  • 17. Không cần phải nói, sự áp chế này – mà nam giới và nữ giới chịu đựng nhiều nhất – không phải là kết quả của hôn nhân, mà là kết quả của những lời hứa bị đổ vỡ. Ngay cả qua những chỉ số tẻ nhạt dường ấy như là sự giàu sang, sức khoẻ và hạnh phúc được báo cáo, một núi nghiên cứu khoa học xã hội đã từ lâu lật ngược sự khôn ngoan phổ biến của những cuốn tiểu thuyết giật gân thập niên 1960, như The Second Sex ( giới tính thứ hai ) và cuốn Feminine Mystique ( Nữ tính kỳ bí ) của Betty Friedman. Cũng như nam giới, phụ nữ chỉ đơn thuần phát triển tốt hơn trong hôn nhân. Họ chịu ít trầm cảm hơn, được bảo đảm hơn vế mặt tài chính và trải nghiệm hơn sự giao hợp thoả mãn (để có thêm chứng cừ, xin đọc cuốn The Case of Marriage của Linda Waite và Maggie Gallagher ). Ngay cả ngày nay, nhiều thập niên sau cuộc tấn công vào lý tưởng của gia đình hạt nhân chỉ có cha mẹ và con cái, chỉ có 8% nữ giới nói họ hy vọng vẫn chưa kết hôn. Chẳng có gì phải nói thêm về đợt sóng đầu tiên. Đợt sóng thứ hai cũng chấp nhận lập luận của Chủ Nghĩa Marx rằng công bằng đòi buộc sự bình đẳng tuyệt đối về vật chất.Nhưng tiếp theo, ngón tay đang vẫy lại hường từ những người đàn ông sang trẻ em. Nếu nữ giới muốn có tình dục với nam giới ( theo dòng suy tư này ), thì họ phải không bị trách phạt với con đẻ ngoài ý muốn. Phần nhiều, việc ngừa tránh thai nhân tạo được coi là vòng đai phòng thủ thứ nhất, nhưng từ ban đầu, nạo phá thai đã luôn là sự hỗ trợ. Sự kết nối giữa ngừa tránh thai, bình đẳng kinh tế và tiếp cận với nạo phá thai được thực hiện công khai năm 1992 do Toà Án Tối Cao Hoa Kỳ phán quyết về Kế Hoạch Hoá Gia Đình chống lại Casey, vốn bảo vệ phán quyết năm 1973 trước đó ủng hộ nạo phá thai trong vụ Roe chống lại Wade bằng những lời đáng ghi nhớ này: Hạn chế của luật Roe về quyền lực của bang không thể bị bác bỏ mà không có sự bât công đối với những người mà, đã hai thập niên phát triển kinh tế và xã hội, đã thiết lập những quan hệ tình dục và đã có những chọn lựa vốn xác định quan điểm của họ về nhau và vị trí của họ trong xã hội, dựa vào tính hiệu lực của việc phá thai trong trường hợp ngừa tránh thai thất bại. Khả năng để nữ giới tham gia một cách bình đẳng vào đời sống kinh tế và xã hội của quốc gia này đã được tạo thuận tiện nhờ khả năng kiểm soát đời sông inh sản của họ. Sự dung thứ nạo phá thai được hợp pháp hoá là hậu quả nghiêm trọng nhất theo sau một khi người ta chấp nhận ngừa tránh thai, nhưng không chỉ một mình nó. Năm 1930, Anh Giáo là tổ chức Kitô Giáo đầu tiên tán thành việc sử dụng ngừa tránh thai nhân tạo. Và tiếp theo từ điều này, nguyên Tổng Giám Mục Canterbury, Rowan Williams, cũng lưu ý rằng nói đồng ý với bao cao su là đánh mất quyền lên án thói giao hợp qua hậu môn. Tách tình dục khỏi việc sinh sản và những kết hợp đồng tính trở nên tương đương với những kết hợp giữa hai người khác phái. Để đạt mục đích này, Williams đã kết luận: Trong một Giáo Hội chấp nhận tính hợp pháp của ngừa tránh thai, thì việc lên án tuyệt đối các quan hệ giao hợp đồng tính phải dựa trên hoặc là một triển khai chính thống trừu tượng một số văn bản Kinh Thánh rất mập mờ, hoặc là dựa trên một giả thuyết mơ hồ và không Kinh Thánh về sự bổ túc tự nhiên, được áp dụng một cách tỉ mỉ và lỗ mãng cho sự phân biệt về thể lý mà không quan tâm đến cac câu trúc tâm lý. Lôgic của vị Tổng Giám Mục Anh Giáo là có cơ sở, tất nhiên – bao lâu mà người ta còn chấp nhận giả thuyết này. Trong một Giáo Hội đã chấp nhận ngừa tránh thai, thì việc khiển trách các kết hợp đồng tính nam đúng là độc đoán. Mặc dù các tín hữu Công Giáo Rôma nay đứng trơ trọi một mình như là khối Kitô Giáo duy nhất đồng thanh bác bỏ ngừa tránh thai nhân tạo, trước khi mọi khối Kitô Giáo năm 1930 – và nhiều tổ chức tôn giáo khác – chống lại nó như là một sự sỉ nhục đối với nhân phẩm. Việc đình triệt sản tạm thời hay vĩnh viễn một người nam hoặc một người nữ khoẻ mạnh không chỉ làm mất giá trị hành vi vợ chồng, mà còn hủy hoại sự kết hợp này như nó vốn là. Như Mahatma Gandhi đã cảnh báo năm 1925: ”Tôi thúc giục những người ủng hộ các phương pháp kiểm tra sinh đẻ nhân tạo hãy xem xét các hậu quả. Bất cứ sự sử dụng rộng rãi nào các phương pháp này cũng sẽ dẫn tới việc sự tan rã của giao ước hôn nhân”. Trong bất cứ sự kiện nào, phong trào ưu sinh và chống lại sinh sản do Margaret Sanger ( 1879 – 1966 ) phổ biến và được duy trì qua Kế hoạch hoá gia đình, đã thành công áp đảo đến nỗi sẽ đòi hỏi nỗ lực to lớn để đánh thức những sức tưởng tượng của giới trẻ về một thế giới nơi mà con cái không bị coi như là một gánh nặng xã hội và kinh tế. Sự chuộc tội nào sẽ bị đòi buộc đối với sự tàn sát hàng loạt những con cái bé nhỏ của chúng ta, thì quả là khó lòng tưởng tượng được. Ngoài sự làm cho lương tâm 17
  • 18. của mỗi chúng ta nên chai đá, chúng ta nay chỉ mới bắt đầu chịu những cái giá xã hội cho việc sát hại. Châu Âu đã bước vào mùa đông dân số, những gì Trung Quốc sẽ trải nghiệm một khi ảnh hưởng đầy đủ của việc quét sạch một thế hệ con gái được cảm nhận, người ta khó lòng mà đoán được. Trước hết hướng về chống lại nam giới và sau đó chống lại con cái, ngày nay đợt sóng thứ ba của cuộc tấn công vào gia đình nhắm trực tiếp tới nữ giới. Chính từ đợt sóng thứ ba mà những tuyên bố về giới tính ngày càng kỳ dị hơn đang được loan báo và lời khẳng định kì dị nhất trong mọi khẳng định là: giới tính là viễn vông. Với một thế hệ, sinh viên năm thứ nhất đã học lẫn tránh một cách ngoan ngoãn khi được nói rằng “giới tính” là một giải thích xã hội. Từ ngữ giới tính nhắc tới một khái niệm xã hội. Nhưng chỉ duy nhất các từ mới có giống đực, giống cái, thậm chí cả giống trung tính: con người có giống đực và giống cái. Những người đấu tranh nữ quyền ( và nhiều Kitô hữu ) quen biện luận cho quyền đi bầu của nữ giới trên bình diện mà nam giới và nữ giới chia sẻ một bản chất chung. Nay họ khẳng định một tính phi lý nữ tính rõ rệt và mặc nhiên phủ nhận một bản tính con người chung. Vế số điẻm ghi được này, mũi nhọn của phong trào nữ quyền đã đi được những khoảng cách mênh mông kể từ cuốn A Vindication of the Rights of Women ( Một xác minh Nữ Quyền, 1792 ) của Mary Wollstonecraft. Nhìn chung, ngày nay những người đấu tranh nữ quyền đã thay đổi chiến lược về căn bản các tuyên bố của họ đi theo những kiểu cách gần đây nhất của triết học hậu hiện đại. Như thế, học giả được hoan nghênh rộng rãi, Luce Irigaray, bênh vực tình trạng đặc quyền của nữ giới không phải trên nền tảng lý trí, mà là trên căn bản chối từ lý trí. Hãy kể ra một ví dụ, trong tác phẩm This Sex Which Is Not One ( Giới tính này vốn không phải là Độc Nhất ) của Bà, chúng ta nghe thấy rằng “Những lời của nàng là những lời mâu thuẫn, ở mức độ nào đó điên rồ ngay từ quan điểm về lý trí, không thể nghe được đối với bất cứ người nào nghe họ với những toạ độ làm sẵn, với một tập hợp các chuẩn mực được soạn thảo đầy đủ trong tay”. Bất cứ điều gì tác giả này mong khẳng định, bà tỏ ra từ chối cho nữ giới chia sẻ tính hợp lý với họ. Đây là điều đáng tiếc nhất. Với một điều, không tham gia vào lý trí, có rất ít để đặt nền tảng cho nguyên lý bình đẳng giữa các giới. Cũng tương tự, việc lập luận rằng nữ giới tham gia vào những “sự hợp lý” khác nhau, chỉ có thể làm giảm bớt hạnh phúc của nữ giới – vì đa số ước ao chia sẻ một thứ tình thân nào đó với nam giới. Một thế giới trong đó ngững người nam và những người nữ không cùng chia sẻ một lý trí chung, có khả năng khiến cho một số đồng tính nữ cảm thấy thoải mái hơn;nhưng nó sẽ có thể là thế giới nhỏ hơn nhiều để hưởng thụ, mà không có tình thân có ý nghĩa giữa anh chị em giữa vợ chồng, giữa mẹ và con trai. ( Irigaray ít ra cũng dường như tin rằng hạnh phúc của một phụ nữ được đáp ứng tốt hơn khi tách khỏi gia đình ). Không mong bị phân loại bởi những cái nhãn làm sẵn những nhận dạng đồng tính, khác giới tính hoặc chuyển giới, Irigaray đề xuất cái đã được đặt cho tên là “thú nhục dục đa hình thái”. Việc xây dựng những nhà vệ sinh công cộng sẽ không bao giờ giống nhau. Nếu ý thức hệ giới tính được chấp nhận, không chỉ những phòng thay quần áo ( có tủ khoá ) sẽ bị tháo đi; gia đình cũng sẽ như thế. Các Kitô hữu, tín đồ Do Thái Giáo, tín đồ Hồi Giáo và những người bảo thủ cựu trào, đã mở rộng quá nhiều sự bao dung đối với những người thiết kế giới tính. Như Đức Thánh Cha Biển Đức 16 nhận định gần đây trong bài giảng Lễ Giáng Sinh, khái niệm gia đình thực sự và sự an toàn của con cái mới là vấn đề. "Nhưng nếu không có một tính hai mặt được quy định trước về người nam và người nữ trong công cuộc tạo dựng, thì gia đình cũng không còn là một thực tại được công cuộc tạo dựng thiết lập. Cũng vậy, đứa con đã mất vị trí nó đã chiếm cho đến nay và phẩm giá gắn liền với nó”. Chúng ta phải hiểu những đợt sóng ấy như thế nào ? Chúng ta bắt đầu gỡ bỏ thiệt hại đã xảy ra trong cuộc chiến trướng lỳ chống lại gia đình này ra sao ? Trong đoạn cuối của loạt bài này, tôi xin đưa ra một ít gợi ý. Có ba đợt tấn công chống lại gia đình: 1. Sự khẳng định rằng hôn nhân nô lệ hoá. 2. Rằng con cái là gánh nặng và… 3. Rằng sự khàc biệt về giới tính là ảo tưởng. Phải trả lời thế nào ? Tôi mong kềt thúc câu chuyện ngắn của chúng ta bằng việc suy tư không quá nhiều như thế về một giải quyết bằng hành động, mà là về cách làm sao chúng ta nên đổi mới lối suy nghĩ. 18