“Tôi không thể đặt bàn tay lên vai bạn để động viên, nhưng tôi có thể nói lời nói chân thành nhất từ tận đáy lòng mình. Dù cuộc đời của bạn có đáng thất vọng đến mức nào, thì niềm hy vọng vẫn luôn ở phía trước. Trong khốn cùng, vẫn có ngày mai tươi sáng đang chờ bạn…” – (Nick Vujicic)
Quyển sách không chỉ đơn giản kể lại câu chuyện của cậu bé Nick không tay, không chân vượt qua khó khăn trong cuộc sống như thế nào, để có được cuộc sống tràn ngập tiếng cười ngày hôm nay, Nick đã có những ngày tháng đầy nước mắt như thế nào. Vượt lên trên hết là nghị lực phi thường, sự mạnh mẽ không biên giới, ý chí vượt thoát khỏi hoàn cảnh nghiệt ngã của số phận.
“Tôi không thể đặt bàn tay lên vai bạn để động viên, nhưng tôi có thể nói lời nói chân thành nhất từ tận đáy lòng mình. Dù cuộc đời của bạn có đáng thất vọng đến mức nào, thì niềm hy vọng vẫn luôn ở phía trước. Trong khốn cùng, vẫn có ngày mai tươi sáng đang chờ bạn…” – (Nick Vujicic)
Quyển sách không chỉ đơn giản kể lại câu chuyện của cậu bé Nick không tay, không chân vượt qua khó khăn trong cuộc sống như thế nào, để có được cuộc sống tràn ngập tiếng cười ngày hôm nay, Nick đã có những ngày tháng đầy nước mắt như thế nào. Vượt lên trên hết là nghị lực phi thường, sự mạnh mẽ không biên giới, ý chí vượt thoát khỏi hoàn cảnh nghiệt ngã của số phận.
Gia đình là tế bào của xã hội, một gia đình yên vui, hạnh phúc là nền tảng phát triển của một xã hội tiến bộ. Và có lẽ đối với hầu hết mọi người, thành công lớn nhất trong suốt cuộc đời họ không phải là tiền tài, tri thức hay địa vị xã hội mà đó chính là một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, một gia đình bền vững không phải tự nhiên mà có, điều này cần đến sự kết hợp của tài năng, khát khao, tầm nhìn và sự đóng góp của mỗi thành viên trong gia đình.ừ những kinh nghiệm và hoàn cảnh thực tiễn của chính cuộc sống gia đình mình và các gia đình khác, tác giả Stephen Covey chia sẻ những lời khuyên thiết thực để giải quyết các tình huống khó khăn thường gặp trong gia đình qua cuốn sách 7 Thói quen tạo gia đình hạnh phúc. Đó là những cách tìm ra khoảng thời gian tốt để cùng nhau chia sẻ, giải quyết các cuộc tranh cãi trong gia đình, hàn gắn những mối quan hệ rạn nứt hay thay đổi bầu không khí tiêu cực trong gia đình. Tác giả chỉ ra cách thức áp dụng những nguyên tắc vào trong cuộc sống hàng ngày thông qua các hoạt động, gặp gỡ, vui chơi để tạo nên bầu không khí gia đình thấu hiểu, đầy nhiệt huyết và giúp đỡ lẫn nhau.
This presentation goes over we've learned so far about partnering with the community and building relationships through our food systems work in Detroit.
Gia đình là tế bào của xã hội, một gia đình yên vui, hạnh phúc là nền tảng phát triển của một xã hội tiến bộ. Và có lẽ đối với hầu hết mọi người, thành công lớn nhất trong suốt cuộc đời họ không phải là tiền tài, tri thức hay địa vị xã hội mà đó chính là một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, một gia đình bền vững không phải tự nhiên mà có, điều này cần đến sự kết hợp của tài năng, khát khao, tầm nhìn và sự đóng góp của mỗi thành viên trong gia đình.ừ những kinh nghiệm và hoàn cảnh thực tiễn của chính cuộc sống gia đình mình và các gia đình khác, tác giả Stephen Covey chia sẻ những lời khuyên thiết thực để giải quyết các tình huống khó khăn thường gặp trong gia đình qua cuốn sách 7 Thói quen tạo gia đình hạnh phúc. Đó là những cách tìm ra khoảng thời gian tốt để cùng nhau chia sẻ, giải quyết các cuộc tranh cãi trong gia đình, hàn gắn những mối quan hệ rạn nứt hay thay đổi bầu không khí tiêu cực trong gia đình. Tác giả chỉ ra cách thức áp dụng những nguyên tắc vào trong cuộc sống hàng ngày thông qua các hoạt động, gặp gỡ, vui chơi để tạo nên bầu không khí gia đình thấu hiểu, đầy nhiệt huyết và giúp đỡ lẫn nhau.
This presentation goes over we've learned so far about partnering with the community and building relationships through our food systems work in Detroit.
2012 Chevrolet Silverado 1500 For Sale KY | Chevrolet Dealer Near LexingtonJack Burford Chevrolet
2012 Chevrolet Silverado 1500 brochure provided by Jack Burford Chevrolet near Lexington. Find the 2012 Chevrolet Silverado 1500 for sale in Kentucky. Call us about our current sales and incentives at (859) 353-4077. http://www.jackburford.com
một vài người nghĩ họ khó khăn là do trời hại, sai rồi, đó là do chính bạn hại bạn, bạn gieo nhân nào thì gặt quả đấy, quả có thể đến trong đời này -hiện đời, hoặc đời sau.Nghiệp và Luật Nhân Quả không bao giờ sai người
Hơn 10 năm trước, trong tâm trạng của một sinh viên mới ra trường đầy mơ mộng, anh chọn cho mình nickname là “bautroixanh21” – cái tên đầy cảm xúc của dân “Khối C”. Tôi soạn tập truyện và thơ này để dành tặng cho anh, mong anh bình an ở một phương trời mới, cuộc sống mới.
Trọn Bộ Báo Ứng Hiện Đời Của Hạnh Đoan
Playlist full bộ báo ứng hiện đời: http://bit.ly/2PH1n6u
Báo Ứng Hiện Đời Tập 1 và 2: https://youtu.be/x-RVXEOd8JU
Báo Ứng Hiện Đời Tập 3: https://youtu.be/Uo5hoWIlktg
Báo Ứng Hiện Đời Tập 4: https://youtu.be/8htgk1ap4lU
Báo Ứng Hiện Đời Tập 5: https://youtu.be/A_1yNQPB5GU
Báo Ứng Hiện Đời Tập 6: https://youtu.be/eSUNKiMLAV0
Báo Ứng Hiện Đời Tập 7: https://youtu.be/RgbiYLojOCo
Link down file mp3: http://bit.ly/2YE6iJC
Răn Sát Sanh | Tỳ Kheo Ni Hải Triều Âm I New 2020: https://youtu.be/7weDwpFCSls
Ăn Chay | Tổng Hợp Tất Cả Các Kinh Phật Về Việc Ăn Thịt | Sát Sanh | Uống Rượu | Chu An Sĩ: https://youtu.be/GOWCmdSoVNE
Đăng ký xem kênh ở đây: http://bit.ly/31w426V
full bộ báo ứng hiện đời: http://bit.ly/2PH1n6u
Tổng Hợp Ăn Chay: http://bit.ly/34qWFQm
Truyện nhân quả: http://bit.ly/2p0B5CU
Facebook: https://goo.gl/CE5ro9
link sách: Kho truyện: https://www.slideshare.net/Nhanqualuanhoi
Thư viện download: https://goo.gl/B9JC8K
Link lưu truyện dạng text: http://nhanqualuanhoilinhung.blogspot.com
Khuyến khích các bạn share, copy, đăng kênh khác. Bên mình đã mở giấy phép, bạn không lo vấn đề bản quyền.
#nhanqualuanhoi #baounghiendoi #nhanqua #luanhoi #dieuphapam #hanhdoan #báo_ứng_hiện_đời #quakhanh #nhanquabaoung #anchay #truongchay #thuanchay @Diệu Pháp Âm
Như vậy tibu đã nghe:
Xa lắm lận, cách chỗ tibu ở hàng ngàn cây số, tại một cõi rất là đầy đủ vật chất, nhưng khô khang về tinh thần… có một Công Chúa xinh đẹp, sống cô đơn giữa cuộc đời.
Bản tính hiền hòa, cô được Cha Mẹ dạy dỗ là: Con về bển thì con nên thương và coi như gia đình mình vậy, nha con.
Công chúa gạt nước mắt và ra đi trong nỗi sợ sệt, cô đơn của Người con gái về nhà chồng.
========
Cuộc sống thay đổi 180 độ, Công Chúa im lặng chấp nhận số phận và cúi đầu mưu sinh thoát hiểm, hy vọng rằng đây cũng chỉ là câu nhận xét mơ hồ của ông bà: "Lòng Người Có Lúc… Như Sông Có Khúc" hay là "Sông Có Khúc, Người Có Lúc"…
Thục tế: Công Chúa đang cố gắng bơi trong những thác ghềnh, với những cơn xoáy cực kỳ nguy hiểm, chết người: Công Chúa đã bị cơn xoáy đó hất tung xuống lầu cao… Nhưng sao vẫn không chết? Hoặc là những cơn xoáy nhỏ hơn, nhẹ hơn đã… đá văng Công Chúa xuống lầu rồi để mặc Công Chúa từ chỗ đó đứng lên và tiếp tục công việc hằng ngày trong cô đơn với nỗi sợ sệt không bao giờ nguôi…
...
1. E-mail: gxmehangcuugiup@gmail.com Website: www.trungtammucvudcct.com
XIN CHÚA THƯƠNG GÌN GIỮ…
Chiều qua, như đã hứa với lòng mình, tôi sắp xếp giờ đi thăm cha Cố, ngài là bác của tôi. Nhiều
năm qua ngài nghỉ hưu ở một Tu Viện, tuổi đã quá già ( 98 tuổi ) nhưng Chúa lại ban cho ngài còn rất
khỏe mạnh và minh mẫn. Ngài nói với tôi rằng: “Chúa quên bác rồi” ! Có lúc khác ngài nói đùa với người
ta: “Mấy ông thiên thần vui chơi đánh mất sổ nên Chúa không biết đâu mà gọi” !
Mỗi ngày ngài vẫn dùng cơm với cộng đoàn anh em trong Tu Viện, còn ăn được một mình,
không cần người khác trợ giúp nhiều, người giúp chỉ cần gắp thức ăn vào chén của ngài, còn ngài có
thể múc đồ ăn bằng muỗng để tự ăn, riêng phần sữa chua thì cần người đút, vì tay đã run nên thường
bị rớt ra ngoài. Dùng cơm xong, ngài ngồi chơi với anh em, cũng còn nghe được đôi chút nên thỉnh
thoảng vẫn còn nói đùa góp vui. Sau giờ cơm ngài chống gậy đi bộ chung quanh Nhà Thờ đúng một
vòng rồi về phòng nghỉ.
Mỗi ngày ngài vẫn dâng Thánh Lễ đồng tế trong Tu Viện và tham dự một giờ chầu Thánh Thể,
không bỏ sót một giờ kinh nguyện chung nào trừ khi đau yếu. Có một người giúp việc cho ngài, ngài vẫn
chậm rãi đọc những suy niệm Lời Chúa cho ghi lại, đọc thư muốn viết cho con cháu và những người
thân quen, thậm chí lấy sổ tay xem địa chỉ con cháu và nhờ người đi gọi lại để ngài gặp, giúp đỡ những
đứa cháu nào khó khăn nghèo hèn. Tôi hỏi tiền ở đâu mà giúp, ngài nói: “Xin Bề Trên”.
Chiều qua tôi đến thăm, ngài
mừng lắm, dĩ nhiên trong số các cháu, tôi
là đứa cháu được ngài thương quý và tôn
trọng nhất, vì tôi là Linh Mục thế thôi. Ngài
cuống quýt nói cười, hỏi thăm đủ điều,
ngài bảo: “Lúc thường nhớ đến cha có
nhiều sự muốn nói lắm, sao bây giờ gặp
chẳng còn nhớ gì ?!?” Người giúp việc
mách “tội” của ngài cho tôi nghe, cụ cúi
gầm mặt xuống lắng nghe không cãi một
lời nào. ( Ảnh chỉ có tính minh họa ).
Cách đây mấy tuần, cha Bề Trên
gọi điện thoại hỏi ý tôi một việc của cụ.
Có một người tự xưng là cháu của ngài,
đến thăm đôi ba lần rồi bảo sẽ đón ngài
về nhà thăm con cháu, cụ nghe bùi tai
đòi đi, cha Bề Trên bối rối vì sợ mất lòng ngài nên cho người giúp việc gọi điện hỏi ý tôi, cha Bề Trên tế
nhị không muốn trực tiếp với tôi vì cũng ngại tôi khó xử. Tôi nói với người giúp việc là không cho ngài đi
vì ngài quá lớn tuổi.
Sau đó tôi được biết ngài đã quyết định không đi, nhưng người cháu trở lại gặp Bề Trên nói quá
khẩn thiết, Bề Trên đành gọi cho tôi, tôi cũng trả lời không nên để cho ngài đi và xin Bề Trên dùng quyền
Bề Trên mà khuyên ngài, từ đó ngài mới thôi không thao thức nữa.
Người giúp việc đưa cho tôi xem một cuốn vở, trong đó viết đủ thứ mà ngài muốn viết, lật một
trang đưa tôi xem, trang chia làm hai cột, một bên là “nên đi”, bên kia là “không nên đi”. Ngài yêu cầu
người giúp thực hiện hai hàng cột và cùng ngài phân định vấn đề. Bên “nên đi”, ngài đưa ra hai lý lẽ để
nên đi, bên “không nên đi”, ngài đưa ra 6 lý lẽ để không nên đi. Tôi ngạc nhiên về cách làm việc của ông
cụ, rất rõ ràng và chuẩn mực.
1
NĂM THỨ 15 – SỐ 624 – CHÚA NHẬT 7.9.2014
2. Tôi đặt vấn đề lại với chính tôi và những anh em cộng sự, đứng trước các vấn đề nan giải, có
bao giờ chúng ta làm một cuộc phân định rõ ràng và trong sáng như cụ đã làm ? Không chỉ làm một
mình nhưng xin người khác giúp mình biện phân vấn đề cho chính xác, khách quan và minh bạch ?
Không để cho tình cảm lấn át, những cảm xúc nhất thời làm lung lạc.
Điều còn làm tôi tâm đắc hơn nữa, đó là trong cuộc phân định, ngài đã đưa tiêu chuẩn Tin Mừng
vào trong các lý lẽ. Để những giá trị Tin Mừng thấm đẫm vào các kênh sống, mọi ngóc ngách cuộc đời,
là trách nhiệm hôm nay của việc Tân Phúc Âm hóa. Ông cụ đã 98 tuổi, không còn lên tòa giảng để nói
Lời Chúa, nhưng Lời Chúa đã thầm thấu và chiết xuất ra trong từng hành vi của cụ. Ước gì chúng ta
mỗi người cũng chọn lựa cho mình cách sống như vậy trong thế giới hôm nay.
Bây giờ tôi không còn trẻ, nhưng chưa hẳn là đã già, nhưng nếu một mai “Chúa quên tôi” như đã
quên bác tôi, liệu tôi có được những ngày sống bình an, thanh thản và thánh thiện như bác tôi ? Xin
Chúa thương gìn giữ con.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 6.9.2014
MỤC LỤC TÌM BÀI:
"XIN CHÚA THƯƠNG GÌN GIỮ…" ( Lm. Vĩnh Sang ) .......................................................................... 01
SỬA LỖI ANH EM ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ............................................................................... 02
KHI ANH EM SỬA LỖI CHO NHAU ( AM. Trần Bình An ) .................................................................... 03
NGHỆ THUẬT SỬA LỖI ( Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ) ........................................................................ 05
LIÊN ĐỚI ( Trầm Thiên Thu ) ................................................................................................................ 06
SỐNG BÁC ÁI, HIỆP THÔNG ĐỂ CÙNG NHAU THĂNG TIẾN ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ............. 09
PARAGUAY, MỘT KINH NGHIỆM MỚI ( Lm. Trần Xuân Sang ) .......................................................... 10
NƯỚC TRỜI, THIÊN ĐÀNG, LÀ MỘT HAY HAI ? ( Phùng Văn Hóa ) .................................................. 12
VĂN HÓA ƠN GỌI ( Bản dịch của Trầm Thiên Thu ) ............................................................................ 15
PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 18: CẦU NGUYỆN CHO ĐỨC GIÁO HOÀNG ( Nguyễn Trung ) ..... 16
MỤC ĐÍCH CỦA ĐỜI SỐNG ( Lm. Mark Link ) ..................................................................................... 20
ĐẠI HỌC KHÔNG PHẢI LÀ CON ĐƯỜNG DUY NHẤT TỐT ĐẸP ( Nguyễn Trung ) ............................ 21
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC, TÂN CỬ NHÂN GIAN NAN TÌM VIỆC ( Thiên An, báo Người Việt ) .............. 22
NHỮNG ĐIỀU DỄ THƯƠNG LÀM NÊN NHÂN CÁCH NHẬT ( Khuyết Danh ) ..................................... 24
CÂU NÓI CUỐI CÙNG ( Khuyết Danh ) ................................................................................................ 25
NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ........... 25
SỬA LỖI ANH EM
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy
mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người
khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm
của người khác, ta thường có hai thái độ,
hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá
thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều
thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ
khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ
gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm
sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ
làm cho xã hội suy thoái.
Giáo Hội là một cộng đoàn những
con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi.
Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh
hưởng đến đời sống cộng đoàn.
Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những
hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không
phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống
như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi
2
CÙNG SUY NIỆM
3. bị mắc bệnh ? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm
ngay tức khắc ?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì
nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can
đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do
việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí
trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào
thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ
chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc
cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì
thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế
nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín
nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người
lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là
thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần
thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba
phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra
cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu
đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế.
Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân
thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.
Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT
KHI ANH EM SỬA LỖI NHAU
"Chập tối, tôi trèo tường, lẻn ra Ciné Nha
Trang coi phim "Vết thù trên lưng ngựa hoang". Mãi
đến 23g30 tôi mới trở về Chủng Viện. Tới góc
đường Võ Tánh – Duy Tân ( Trần Phú bây giờ ),
phía bên trong là dãy nhà tắm lộ thiên, tôi nhẹ
nhàng trèo vào. Núp cạnh phòng học lớp 12, ( nay
đã dỡ bỏ, xây mới ) phóng tầm nhìn vào trong sân
Tòa Giám Mục, hoàn toàn trống vắng ! Tất cả im
lặng như tờ, chắc mọi người đều đã yên giấc. Dẫu
vậy, tôi vẫn cẩn thận đi nhón móng cò, lom khom
bước qua khoảng sân rộng.
Bỗng ai đó hắng giọng, rồi sang sảng cất
giọng: “Ai đấy ?” Tôi giật nảy mình. Thì ra… Ông
Nội, vận một bộ đồ thung đen, đang tập thể dục,
kề bên khóm cây cảnh tối hù, ngay bên ngoài căn
phòng của ngài còn sáng đèn. “Dạ thưa, con tên
là…” Như thế Nội đã nhìn thấy tôi ngay khi tôi leo tường trở về, vì ngài đứng trong bóng tối, nhìn ra phía
ngoài sáng trưng ánh đèn. Nhưng nét mặt ngài vẫn bình thản, trìu mến, như chẳng có điều gì bất
thường. Tôi lại càng lo sợ hơn nữa. Sáng mai Ông Nội sẽ trao áo chùng thâm cho 21 anh em chúng tôi.
“Con đi đâu về khuya vậy ?” “Dạ, con đi… đi dạo ngoài bãi biển !” “Giờ này khuya khoắt, mà con
còn đi dạo nữa sao ? Vậy có ghé ăn chè Võ Tánh không ? Con cứ kể rõ cha nghe. Đừng có ngại !” Tôi
không thể nói dối được nữa, vì Ông Nội còn biết chúng tôi hay tranh thủ ăn chè, mỗi khi có dịp ra bên
ngoài. Chắc ngài biết hết trơn rồi, nên đành phải thú thật. “Dạ, con đi xem phim…” “Con cứ kể rõ cha
nghe. Đừng có ngại !” “Dạ, con đi xem phim.” “Phim gì hở con ?” “Dạ. Phim Vết thù trên lưng ngựa
hoang.” “Hay không ? Con kể cho cha nghe xem.” “Bộ phim kể về…” Thu hết can đảm, tôi tóm tắt thuật
chuyện phim. Ông Nội có vẻ vui vui, khuyến khích tôi kể tiếp.
3
4. Vừa dứt chuyện, Nội hỏi tôi có nhớ đến việc ngày mai chăng ? Tôi lý nhí đáp, cúi đầu ăn năn
sám hối lỗi lầm. Một lát sau, Nội liền ban việc đền tội: Một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và kinh
Sáng Danh, rồi còn dịu dàng dặn dò: “Con đã tỏ ra biết hối lỗi, vậy hãy về ngủ và nhớ đừng tái phạm
nữa. Ngày mai cha vẫn cho phép con lên lãnh nhận áo dòng.” “Con xin cám ơn cha.”
Tôi thoát nạn nhẹ cả người, vội chạy lên lầu về phòng ngủ, tuy vẫn còn thình thịch con tim...
Sáng hôm sau, trong Nhà Nguyện Tòa Gíam Mục Nha Trang, người ta vẫn thấy đầy đủ 21 anh em lớp
Đi Gieo IV, hân hoan xếp hàng, lên nhận lãnh áo soutane từ chính bàn tay Đức Cha FX. Nguyễn Văn
Thuận trao ban. Tôi thầm tạ ơn Chúa và nhớ mãi tấm lòng bao dung thánh thiện của Ông Nội" ( Một vụ
cá độ, Kể chuyện Nội, LâmBich.net ).
Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu giảng dạy làm thế nào để sửa lỗi anh
em. Với ba bước ứng xử với người lỗi lầm, Người muốn chiêu hồi con chiên lạc quay trở về với đàn.
Mỗi khi phạm tội là tự tách mình ra khỏi cộng đoàn, ra khỏi tình yêu thương, hồng ân của Thiên
Chúa. Vậy các thành viên cộng đoàn đều có bổn phận và trách nhiệm quan trọng giúp người vấp
phạm sám hối, tin cậy vào Lòng Thương Xót Chúa. Bởi vì “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời,
không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" ( Mt 18, 14 ). Kẻ bé mọn ám chỉ
những người bình dân, nghèo nàn, yếu đuối, bị bỏ rơi, bị xua đuổi, hư hỏng, tội lỗi, những con chiên
lạc loài, đi hoang đáng thương.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà
thôi” ( Mt 18, 15 ). Như thế giúp tha nhận sửa lỗi là mệnh lệnh, một đòi hỏi cấp bách của Đức Giêsu
dành cho những ai chấp nhận đi theo Người. Không thể vô cảm, bình chân như vại, mặc kệ anh em.
Tuy vậy, để thực hành việc tế nhị, khó khăn và nhiều thách đố này, cần đến tình huynh đệ, lòng khoan
dung và tâm tình cầu nguyện, mà Đức Giêsu vạch ra cho người thiện tâm.
Tình huynh đệ
"Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề
luật" ( Rm 13, 8 ). Thánh Phaolô còn khuyên nhủ mọi người sống bác ái huynh đệ, thực tình giúp đỡ nhau,
không vờ vịt, đóng kịch với nhau, cũng như không vênh váo rẻ rúng, khinh miệt, chế giễu, mà trái lại, chân
thành hỗ tương nhau mọi lúc. “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ,
tha thiết với điều lành, thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt thành
không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” ( Rm 12, 9 – 11 ). Với thái độ yêu thương, khiêm
nhường, kính trọng, Kitô hữu mới có thể chân tình ngỏ lời khuyên nhủ, giác ngộ hữu hiệu kẻ lỗi phạm.
“Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh
cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu
của nó, Ta sẽ đòi ngươi” ( Ed 33, 8 – 9 ). Việc sửa lỗi cho nhau không chỉ là trách nhiệm huynh đệ liên
đới, mà còn nghĩa vụ của Kitô hữu đối với chính Thiên Chúa: "Tất cả những gì anh em làm cho những
kẻ bé mọn nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta" ( Mt 25, 40 ).
Lòng khoan dung
Thiên Chúa đầy lòng khoan dung, nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi con người để cải hóa, Ngài lần
hồi sửa trị họ, nhắc nhở và cho biết đã phạm lỗi ở chỗ nào, để họ tin tưởng vào Ngài mà được cứu rỗi.
“Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn
đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” ( Kn 11, 23 ).
Kitô hữu cũng noi theo lòng khoan dung của Thiên Chúa, mà cư xử với tha nhân, bởi chưng ai
mà không phạm tội. Đức Giêsu đã từng công khai thách đố mọi người: "Ai trong các ông sạch tội thì cứ
việc lấy đá mà ném trước đi" ( Ga 8, 7 ). Sau này Thánh Gioan cũng xác quyết vô cùng mạnh mẽ về
thân phận yếu đuối của con người: ”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình,
và sự thật không ở trong chúng ta” ( 1Ga 1, 8 ).
Như thế, với sự soi sáng khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu cần chân
thành khiêm tốn, khoan dung, hiền hòa, dịu dàng, thông cảm, khuyên nhủ, sửa dạy tha nhân. “Thưa anh
em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần
hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ. Anh em hãy mang
gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” ( Gl 6, 1 – 2 ).
Tâm tình cầu nguyện
"Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự
trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” ( Mt
18, 19 – 20 ).
4
5. Khi hai người đối thoại, thuyết phục nhau, gặp nhau vì Thánh Danh Chúa, thì đương nhiên có
Chúa hiện diện. Hãy nhớ cầu xin Người giúp đỡ cảm hóa người vấp phạm biết phục thiện. Chắc chắn
Chúa không nỡ từ chối nguyện vọng chánh đáng này.
“Người hy sinh biết rộng lượng trước khuyết điểm người khác và nghiêm khắc trước khuyết điểm
của mình” ( Đường Hy Vọng, số 169 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban chúng con ơn can đảm nhắc nhở nhau, cũng như biết nghe lời
khuyên răn, chỉ dẫn khi lỗi lầm, để chúng con luôn thương yêu, khắng khít, đoàn kết trong đàn
chiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Đấng vô nhiễm tinh tuyền, xin giúp chúng con nhận biết tội lỗi vấp phạm,
mà ăn năn sám hối, cũng như khiêm tốn lắng nghe người khác nhắc nhở, hướng dẫn, sửa sai, để
luôn được sống mãi trong Lòng Thương Xót vô hạn của Chúa. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
NGHỆ THUẬT SỬA LỖI
Tuân Tử, một hiền triết Trung Hoa đã nói
rằng: "Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta,
kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót
tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi."
Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong
tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi.
Không ai trên trần thế có thể tự hào mình vô tội.
Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta
nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối
mình và sự thật không ở trong chúng ta” ( 1 Ga 1,
8 ). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược lại, ý thức được sự yếu đuối
của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội thì chúng ta có một
Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” ( 1 Ga 2,1b ). Sửa lỗi
huynh đệ là cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật
đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi
hãy cùng nhau cầu nguyện.
1. Sửa lỗi cho nhau:
- Bước 1: “Nếu anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh
em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không
để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là
giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.
Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị, xây dựng:
Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc, đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác
dụng, khi đó góp ý chỉ còn là chỉ trích, phê phán.
Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận,
nhận ra sai lầm, không cố chấp cứng đầu nhưng can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau
mới có kết quả.
- Bước 2: “Nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc
được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không đem lại kết quả
mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng. Đây không phải là gây áp lực. Sự
hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và tính cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một
nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời
của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” ( Đnl 19, 15 ). Tuy nhiên chỉ thị của Chúa Giêsu
nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ
dàng sửa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp.
Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được
sửa chữa qua tính trung gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.
Người được sửa lỗi chú ý nội dung được góp ý.
5
6. - Bước 3: “Nếu nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả,
đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho quyền cầm buộc tháo
cởi ( x. Mt 18, 18 ). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân
xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không chịu sửa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc
về cộng đoàn.
- Bước 4: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng
đoàn mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp không muốn ở trong
Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý. Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp
phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.
2. Hiệp lời cầu nguyện:
Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong
lời cầu nguyện lại là một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì có
Thầy ở giữa họ”.
Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh
tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo, không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh
đệ này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo Xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc sửa lỗi.
Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó
cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc
sửa sai huynh đệ “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi
chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.
Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em
hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là
một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện
diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó: “Vì ở đâu
có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống
con người cách đơn sơ thanh thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối
chảy, như áng mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là “phá
chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.
Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương.
Tình thương không phải là một tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường
ta phải đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác. Không yêu thương chân thật thì mọi cách
sửa lỗi đều vô hiệu. Không có tấm lòng sẽ gây nên phản kháng và chống báng. Càng yêu thương nhau
thì việc sửa lỗi cho nhau càng hữu hiệu.
Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta
chia sẻ lại tình yêu ấy cho anh em. Tất cả đạo lý của Chúa Kitô hàm chứa trong điều răn mới: “Anh em
hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”, và lời mời gọi nên thánh: “Anh em hãy nên hoàn
thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Sự hoàn thiện nào cũng đòi hỏi phải sửa đổi và điều chỉnh
liên tục mới đạt đến nhân đức và sự thánh thiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con
ơn khôn ngoan để con biết chân thành sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng
nhân từ Chúa xót thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân,
cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho
người khác, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là
chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho cúng con luôn biết rộng lượng, bao dung với người khác vì
con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
LIÊN ĐỚI
Liên đới là sự ràng buộc lẫn nhau về trách nhiệm và nghĩa vụ. Bất cứ cái gì cũng có tính liên đới,
ngay cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Thật vậy, khi một chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Kitô phạm tội, tất cả
chúng ta đều chịu đau khổ, một số người ảnh hưởng trực tiếp. Tội của mình có ảnh hưởng tới người
khác, tội của người khác có thể “dính líu” tới mình.
6
7. Là phàm nhân, tất cả chúng ta đều yếu đuối. Do đó, khi chúng ta muốn hòa giải với Thiên Chúa,
chúng ta cũng phải giải hòa với Giáo Hội, không chỉ với người này hay người nọ mà có thể chúng ta đã
làm tổn thương. Vì thế, “cấu trúc tội lỗi” cũng có “chiều kích xã hội”. Tại sao ? Vì nó nằm trong cách mà
chúng ta có thể phạm tội – không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn là động thái gián tiếp
liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp.
Nói chung, dù là điều tốt hay xấu cũng đều có tính liên đới với nhau. Về tính liên đới, Tóm lược
Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công Giáo ( gọi tắt là Giáo huấn Xã hội Công Giáo – GHXHCG,
Compendio della Dottrina Sociale della Chiesa,
Compendium of the Social Doctrine of the Church )
gọi liên đới là một nguyên tắc cốt lõi của
GHXHCG [1]:
“Liên đới nhấn mạnh đặc biệt đến bản tính
xã hội nội tại của con người, sự bình đẳng của mọi
người về phẩm giá, các quyền và con đường
chung của các cá nhân và các dân tộc hướng đến
một sự hợp nhất ngày càng gắn bó hơn... Việc gia
tăng tương thuộc giữa các cá nhân và các dân tộc
cần phải được kèm theo những nỗ lực mãnh liệt
không kém trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh
những hậu quả nguy hiểm của việc đưa bất công
lên tầm mức toàn cầu. Việc tăng tốc tình trạng
tương tác giữa các cá nhân và các dân tộc cần phải
được đi kèm với những nỗ lực mãnh liệt không kém trên bình diện đạo đức xã hội, để tránh những hậu
quả nguy hiểm của việc đem bất công lên phạm vi toàn cầu”. [2]
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Tình liên đới phải góp phần vào việc thực hiện ý định
của Thiên Chúa trên bình diện cá nhân lẫn bình diện của xã hội quốc gia và quốc tế” ( Sollicitudo Rei
Socialis, 1987, số 40 ).
Ngày xưa, Thiên Chúa đã nhắn nhủ với con người: “Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi
làm người canh gác cho nhà Ítraen. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng
biết” ( Ed 33, 7 ). Đó là trách nhiệm của chúng ta, không của giới nào hoặc giai cấp nào.
Không chỉ vậy, Ngài còn cảnh báo: “Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: ‘Hỡi tên gian ác, chắc chắn
ngươi phải chết’, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa thì chính kẻ gian
ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đã báo
cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại thì nó sẽ phải chết vì tội
của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình” ( Ed 33, 8 – 9 ). Rõ ràng chúng ta có trách
nhiệm và bổn phận đối với nhau. Điều đó vừa là TÍNH liên đới vừa là TÌNH liên đới. Thấy điều sai trái thì
phải lên tiếng ( bằng cách này hay cách nọ, trực tiếp hoặc gián tiếp ). Ai thấy điều sai trái mà im lặng, đó
là đồng lõa hoặc hèn nhát. Thật vậy, chỉ muốn lên thiên đàng một mình là ích kỷ !
Thiên Chúa là Tình Yêu và Chân Lý: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” ( Ga 8, 32 ). Thật hạnh
phúc khi chúng ta biết tôn thờ chính vị Thiên Chúa duy nhất này. Hạnh phúc đó không thể giữ trong
lòng mà phải thể hiện ra cho mọi người khác cùng biết: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô
Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung
đàn” ( Tv 95, 1 – 2 ).
Bổn phận của chúng ta không chỉ là chúc tụng Ngài, mà chúng ta còn phải tôn thờ Ngài và
vâng theo Thánh Ý Ngài: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng
nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người
dẫn dắt” ( Tv 95, 6 – 7a ).
Phàm nhân yếu đuối nhưng rất “chảnh” và bướng bỉnh. Xơ gan là chứng bệnh quái ác. Xơ cứng
bất cứ cơ phận nào cũng nguy hiểm. Xơ cứng lòng tin còn nguy hiểm hơn nhiều. Cứng lòng là cố chấp.
Cố chấp là phạm tới Chúa Thánh Thần. Mà tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì không được tha cả đời
này lẫn đời sau ( x. Mc 3, 28 – 29; Mt 12, 31 – 32 ). Thật đáng sợ vì cực kỳ nguy hiểm ! Vâng lời Chúa
thì phải canh tân đời sống, không thể trì hoãn, thay đổi cách sống càng sớm càng tốt. Rất cấp bách !
Vì yêu thương, vì thương xót, Thiên Chúa lại tiếp tục nhắn nhủ mỗi chúng ta, Ngài thực sự
không muốn ai cố chấp mà phải hư mất đời đời: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa Các
ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng
7
8. thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” ( Tv 95, 7b – 9 ). Hoán cải ngay hôm
nay, ngay bây giờ, thì hiện tại, chứ không là “sẽ” của thì tương lai – dù là tương lai gần nhất.
Trong tương quan của tình liên đới, Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài
món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” ( Rm 13, 8 ). Yêu thương là chu
toàn luật Chúa. Rất đơn giản và ngắn gọn, xem chừng dễ nhưng lại khó lắm, vì khi “xòe” chiếc-quạt-
yêu-thương ra, chúng ta thấy cả một bầu trời bao la lắm, chỉ trong “hình quạt” đó thôi cũng chứa biết
bao vấn đề liên quan chữ YÊU. Đó là sự liên quan, cũng là tính liên đới vậy.
Thật vậy, Thánh Phaolô đã giải thích: “Các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không
được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm
lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại
người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” ( Rm 13, 9 – 10 ). Cụm từ “không làm hại” cũng ẩn
chứa biết bao điều liên quan thể lý và tinh thần, liên quan đức ái. Khó lắm, nhưng ai thực sự có lòng yêu
thương của Đức Kitô thì có thể làm được.
Chúa Giêsu nói về tính liên đới tâm linh giữa những con người đối với nhau: “Nếu người anh em
của anh trót phạm tội thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh thì
anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai
người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không
nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một
người ngoại hay một người thu thuế” ( Mt 18, 15 – 17 ).
Thấy điều sai trái thì phải lên tiếng. Có bốn giai đoạn: Nói riêng ( nói nhỏ ), nói bán công khai, nói
công khai, loại bỏ. Dạng “cấp bốn” là “hết thuốc chữa” vì cố chấp, nói theo ngôn ngữ thời @ là
BoTay.com, không còn hy vọng gì nơi họ nữa !
Vì muốn cứu tội nhân, Chúa Giêsu đã trao quyền tha tội cho các môn đệ qua thiên chức Linh
Mục: “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên Trời cũng cầm buộc như
vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” ( Mt 18, 18 ).
Chúa Giêsu nói “cầm buộc” hoặc “tháo cởi” ở đây không có nghĩa là ưa thì “cởi”, ghét thì “buộc”,
mà là phải luôn cố gắng tìm cách “tháo cởi” cho người khác. Ngài thiết lập chức Linh Mục là để thay
Ngài yêu thương và tha thứ, để phục vụ chứ không để hưởng thụ hoặc “chảnh” ( Mt 20, 28 ), thật buồn
khi vẫn có một số Linh Mục lại “thích” làm ngược lại điều Chúa dạy: Phục vụ ít, hưởng thụ nhiều ! Linh
Mục chỉ là các phàm nhân bình thường, nhưng được Thiên Chúa tuyển chọn và được hành động nhân
danh Đức Giêsu Kitô, là bình sành nhưng chứa đựng kho tàng của Thiên Chúa ( 2 Cr 4, 7 ).
Kỳ diệu quá ! Ước mong sao các
Linh Mục phải thực sự nghiêm túc với ý
thức đó, đừng tự tôn mà làm đau lòng Đức
Kitô !
Về việc hiệp lời cầu nguyện, Chúa
Giêsu nói: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu
ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời
cầu xin bất cứ điều gì thì Cha Thầy, Đấng
ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai
ba người họp lại nhân danh Thầy thì có
Thầy ở đấy, giữa họ” ( Mt 18, 19 – 20 ).
Cầu nguyện là điều cần thiết và tốt
lành, nhưng việc cầu nguyện chung được
Chúa Giêsu đề cao. Việc cầu nguyện
chung luôn cần thiết là “giờ kinh gia đình”,
nhất là buổi tối, nhưng việc làm tốt lành này
lại đang bị “xói mòn” vì người ta đưa ra nhiều lý do để biện hộ cho cái sự “quên lãng” của mình !
Dĩ nhiên chúng ta vẫn có thể và cần phải cầu nguyện riêng. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý: Có lẽ
chúng ta thường chỉ cầu xin nhiều hơn cầu nguyện, và chúng ta cũng thường “quên” nhân danh Đức
Giêsu Kitô, đúng như Ngài đã trách các môn đệ: “Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh
Thầy” ( Ga 16, 24 ). Một lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Và đó cũng là lời trách mà Đức Giêsu Kitô
đang nói với mỗi chúng ta hôm nay vậy !
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng yêu thương và thứ bằng cả tấm lòng
như chính Ngài đã nhân hậu với chúng con, hành động bằng cả con người của chúng con,
8
9. không chút gì vì danh lợi của riêng mỗi chúng con, tất cả chỉ vì sáng danh Ngài mà thôi. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[1] Bảy nguyên tắc trong GHXHCG: ( 1 ) Tôn trọng con người, ( 2 ) Cổ vũ gia đình, ( 3 ) Bảo vệ
quyền tư hữu, ( 4 ) Lao động vì công ích, ( 5 ) Tuân giữ nguyên tắc bổ trợ, ( 6 ) Tôn trọng lao động và
người lao động, ( 7 ) Theo đuổi hòa bình và chăm nom người nghèo. Rút gọn là bốn nguyên tắc chính:
( 1 ) Nhân phẩm, ( 2 ) Công ích, ( 3 ) Bổ trợ, ( 4 ) Liên đới.
[2] Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công
Giáo ( 2005 ), số 192.
SỐNG BÁC ÁI, HIỆP THÔNG
ĐỂ CÙNG NHAU THĂNG TIẾN
Bước vào Chúa Nhật 23, chủ để nổi bật hơn cả là "bác ái huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu".
Sống trong Giáo Hội Chúa Kitô
"Hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu", bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai
cũng muốn và cần làm. Đây không đơn giản chỉ là tương quan xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Việc
sửa lỗi huynh đệ đã có trong sách Lêvi: "Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải
mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó" ( Lv 19, 17 ). Vì bác ái với
dân Israel, Chúa đã làm cho Êdêkien "trở nên người lính canh nhà Israel", và truyền ông phải nói cho "kẻ
gian ác bỏ đường lối mình", để được sống, nếu không "thì chính kẻ gian ác sẽ chết" ( x. Ed 33, 7 – 9 ).
Thánh Phaolô nói: "Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau" ( Rm 13, 8 ). Thì ra
chúng ta phải mắc nợ nhau về tình mến. Cùng một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, Thánh Phaolô mời gọi
ta mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, sống hiền lành, khiêm nhường và liên đới với nhau. Bởi tất cả đều do
Thiên Chúa tạo dựng, được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc, chúng ta là anh em với nhau trong Chúa, nên
hãy đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng mến, vì toàn bộ luật của Thiên Chúa được nên trọn trong tình
yêu, kể cả Mười Điều Răn "và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy
yêu mến kẻ khác như chính mình" ( x. Rm 13, 8 – 10 ).
Tình yêu và sự kiên nhẫn
Lời Thánh Phaolô trong bài ca đức ái: "Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác" ( 1Cr 9 ), cho
thấy Giáo Hội được quy tụ làm thành Thân Thể Chúa Kitô, lãnh nhận sứ mạng bày tỏ Thân Thể này
theo ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta là những chi thể của cùng một Thân Thể, tuy khác nhau, nhưng
cùng qui về Giáo Hội, liên đới với nhau như một bản giao hưởng tình bác ái. Nên ai phạm lỗi, người ấy
thiếu tình bác ái không chỉ với một người, mà con đối với toàn thân thể.
Cứ sự thường ai xúc phạm đến ta, ta không can thiệp gì hết. Viện cớ nó đã xúc phạm đến tôi !
Tôi sẽ không nói gì hết, dứt khoát là không. Vậy làm gì bây giờ ? Nó đã xúc phạm đến tôi: Mắt đền mắt,
răng đền răng ư ? Đây không phải là giải pháp, làm thế sự xấu sẽ xấu hơn. Tôi sẽ đi gặp anh em và nói:
Anh đã làm tổn thương tôi, không được ! Anh được Thiên
Chúa tạo dựng, vì tình bác ái, tôi phải kéo anh về. Chúng ta
không loại trừ vì lỗi cá nhân họ, nhưng giúp họ sửa mình để
trở nên xứng đáng trong cộng đoàn mà họ là thành viên.
Chúa Giêsu đưa ra các cấp độ hành xử với anh em
trong cộng đoàn, dựa trên sự tôn trọng và yêu thương lẫn
nhau miễn sao lợi được người anh em. Tin Mừng ( Mt 18, 15
– 20 ) cho thấy, tình yêu huynh đệ chất chứa trách nhiệm hỗ
tương, nếu anh em có lỗi, tôi phải thể hiện tình yêu với họ,
trước hết, nói chuyện riêng với anh về sai lầm mà anh đã nói
hay làm là không tốt. Hành vi này được gọi là sửa lỗi huynh
đệ: đây không phải là phản ứng đối với hành vi người phạm
lỗi, nhưng là cử chỉ yêu thương dành cho người anh em.
Thánh Augustinô nói: "Anh ấy đã xúc phạm bạn, và
khi xúc phạm, anh ấy đã làm cho bạn tổn thương: bạn không
quan tâm đến thương tích của người anh em bạn sao ? ( ... )
9
10. Vậy, hãy quên đi những sai lầm họ đã xử với bạn, chứ không phải là vết thương bạn phải chịu vì người
anh em" ( Discours 82, 7 ).
Và nếu nó không chịu nghe ngươi ? Cấp tiếp theo, hãy nói chuyện về anh ta với hai hoặc ba người
để giúp anh ý thức hơn về những gì anh đã làm; nếu anh ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp điều này, phải nói
cho cộng đoàn; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì phải làm cho anh ta nhận ra rằng chính anh tự
tách biệt khỏi cộng đoàn Hội Thánh. Đặt ra khỏi cộng đoàn thành viên không chịu hối cải, không có nghĩa
là lên án. Chúng ta cần phải giữ liên hệ với nhau, vì đây là mối liên hệ do Thánh Thần thêu dệt.
Chúng ta bước vào trong cộng đoàn và xây đắp bình an để mang lại cho sức sống cho cộng đoàn.
Dù giới hạn cũng như khuyết điểm cá nhân ta, chúng ta vẫn được mời gọi đón nhận sửa lỗi nhau trong
tình huynh đệ và giúp đỡ người khác qua việc tế nhị này. Đây là trách nhiệm sống của chúng ta với nhau.
Hoa quả của Đức Ái
Khi áp dụng hết mọi cách, vẫn không có hiệu quả, chúng ta hãy phó thác người anh em cho lòng
nhân hậu của Thiên Chúa: "Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề
luật" ( Rm 13, 10 ).
Hoa quả của Đức Ái trong cộng đoàn là cầu nguyện: "Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân
danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy" ( Mt 18, 19 – 20 ). Chúng ta quả quyết: Ở đâu có tình yêu,
ở đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trị. Cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan
trọng, cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của mình trong cộng đoàn ngay cả cộng đoàn nhỏ,
vì nó quy chiếu vào sự hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi. Origen nói rằng "chúng ta phải
thực hiện bản giao hưởng này" nghĩa là sự hòa hợp trong cộng đoàn tín hữu.
Có người sẽ nói: chúng tôi đang tụ họp với nhau trong cùng một khuôn viên Nhà Thờ, đang lắng
nghe tiếng của mục tử chúng tôi, cùng hát thánh ca và hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng tôi chẳng
đang nhân danh Chúa mà tụ họp với nhau đó sao ? Làm gì có sự bất hòa ?
Đúng, chúng ta là một gia đình đang được cùng một mục tử hướng dẫn, không có chia rẽ, nếu
bình tĩnh lại, thinh lặng ra khỏi Nhà Thờ, những lời chỉ trích, xúc phạm người khác, kèm theo là ghen tị,
đố kỵ và tham lam, hận thù, dối trá và gian lận sẽ phải nhường chỗ cho tình bác ái. Vì vậy, chúng ta hãy
tôn trọng Bàn Tiệc Thánh, Chúa Kitô đã hy sinh vì chúng ta, chúng ta hãy thông hiệp với nhau.
Giờ đây chúng ta hướng lòng lên Chúa và dâng lên Ngài lời tha thiết nguyện xin cho cộng đoàn
tín hữu khắp nơi được hiệp nhất trong Chúa Kitô, nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
PARAGUAY – MỘT KINH NGHIỆM MỚI
Hội Thảo Quốc Tế về “VIVAT”
Tháng 8, tháng cao điểm của mùa Đông trước khi bước qua
mùa Xuân với những cơn mưa bất chợt và dai dẳng khiến các cha
xứ ở vùng quê luôn nơm nớp lo lắng cho các hoạt động trong Giáo
Xứ vì tháng 8 là tháng cao điểm của các ngày lễ bổn mạng trong
các Giáo Họ và Giáo Điểm.
Đúng ngày Lễ Quan Thầy các cha xứ Gioan Maria Vianney,
chúng tôi tham dự một cuộc Hội Thảo Quốc Tế về “VIVAT” trọn một tuần lễ tại một co sở của Dòng ở
Paraguay với sự tham dự của hơn 100 thành viên gồm Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân đang làm trong các tổ
chức phi chính phủ đến từ nhiều nước, trong đó có người đến từ Mỹ, từ Thụy Sĩ, Brazil, Chilê, Argentina
và dĩ nhiên là Paraguay vì là nước chủ nhà. Gần 100 tham dự viên ấy gồm có 15 quốc tịch khác nhau
và đa số là các nhà truyền giáo. Từ Chilê, một Linh Mục gốc Việt cũng thuộc Dòng Ngôi Lời cũng đến
tham dự nên chúng tôi có dịp gặp được đồng hương.
Thuật ngữ “VIVAT” có nguồn gốc từ tiếng Latinh ‘vivire’ có nghĩa là “trao ban sự sống”. Điều này
muốn diễn tả một ước vọng sâu xa về những gì hiện hữu là tất cả được sống, mọi người được quyền
sống, mọi vật đều được sống. Đây là lời nguyện trên môi miệng hàng ngày của Thánh Arnold Jassen,
Đấng Sáng Lập Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời lúc sinh thời ngài thường hát: “Vivat Deus Unos et Trinus in
Cordibus Nostris” ( Nguyện xin Chúa Ba Ngôi luôn ngự trị trong tâm hồn chúng con ).
10
CÙNG TRUYỀN GIÁO
11. Nhìn biểu tượng đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa của Logo VIVAT chúng ta cũng thấy được điều đó.
Dưới chữ V là hình ba người đang ôm chầm lấy nhau, đón nhận và nâng đỡ nhau, và cả ba đều hướng
nhìn về thế giới bên ngoài. Điều này diễn tả ước nguyện sự đồng hành và hiệp nhất. Trên chóp của chữ
I là ba nhánh Ôliu nở hoa muốn nói lên sự hy vọng và ước muốn một thế giới thay đổi.
Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời ( SVD ) và Dòng Nữ Tỳ Thánh Linh Truyền Giáo ( SSpS ) là hai Hội
Dòng tiên phong sáng lập phong trào VIVAT quốc tế từ những năm 1995 và đến năm 2000 thì VIVAT đã
chính thức trở thành một tổ chức phi chính phủ quốc tế có trụ sở tại New York.
Mục tiêu của VIVAT là thăng tiến về nhân quyền, phát triển bền vững, sự hiểu biết và sống hài hòa
với các dân tộc, các nền văn hóa, các giai tầng xã hội và các tôn giáo cũng như tạo ra một xã hội mang
tầm vóc quốc tế và các cộng đồng địa phương
để tất cả mọi người cùng tham gia. Chính Liên
Hiệp Quốc cũng đã công nhận đây là một tổ
chức dân sự, là một diễn đàn quan trọng trong
việc hợp tác với các tổ chức dân sự khác
nhằm chia sẻ những mục tiêu chung của cộng
đồng thế giới.
Tính đến năm 2013 đã có hơn 10 Hội
Dòng đã tham gia vào tổ chức này và VIVAT
được xem là một tổ chức dân sự quốc tế phi
chính phủ có tiếng nói mạnh mẽ nhất trong
việc bảo vệ nhân quyền, những bất công xã
hội và quyền thăng tiến phụ nữ.
Trong những ngày Hội Thảo này chúng tôi được các diễn giả đến từ New York ( Mỹ ), từ Ginebra
( Thụy Sĩ ) cũng như các chuyên viên trong nước trình bày về nhân quyền, về các hoạt động của Liên
Hiệp Quốc, về các tổ chức dân sự… và được đối đáp tranh luận rất cởi mở vì các diễn giả sự dụng rất
thông thạo nhiều thứ tiếng. Trước đây chúng tôi hiểu rất mù mờ về những điều trên đây vì nghĩ rằng
Linh Mục truyền giáo không cần biết những chuyện được cho là “chính chị, chính em” mà chỉ biết rao
giảng Lời Chúa và cử hành các bí tích là đủ. Tuy nhiên, Linh Mục truyền giáo trong thế kỷ 21 cần phải
biết và học hỏi những điều như thế này để có thể áp dụng vào các Giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo
cho đúng và giúp cho những người giáo dân Công Giáo biết sống đúng với tinh thần Tin Mừng mà
không phải lúc nào tâm lý cũng sợ sệt vì “sự thật sẽ giải phóng chúng ta” ( Xc. Ga 8, 32 ). Quả thực
chúng tôi đã học nhiều điều mới mẻ từ khóa Hội Thảo này.
Vài suy nghĩ qua các dịp lễ
Sau những ngày Hội Thảo đầy căng thẳng vì phải làm việc tối đa từ sáng đến tối cho hoàn thành
sớm hơn dự định, chúng tôi lại trở về chốn xưa để làm việc.
Tháng 8 có nhiều dịp lễ đặc biệt của người dân Paraguay. Trong một Thánh Lễ Bổn Mạng của
một cộng đoàn, có một cặp bô lão mừng Ngọc Khánh 60 năm hôn phối cùng với con cái cháu chắt quay
quần, và hai người này còn rất phong độ mặc dầu đã bước qua tuổi 84. Chúng tôi đã mời cặp bô lão
này đọc Sách Thánh, và sau bài giảng lại mời họ lặp lại lời tuyên hứa mà cách đó 60 năm họ đã thề hứa
chung thủy suốt đời.
Thật cảm phục những cặp vợ chồng đến tuổi gần đất xa trời mà sống với nhau thật ấm êm hạnh
phúc. Trong khi đó, giới trẻ ngày nay bị tác động bởi nền công nghệ hiện đại nên họ yêu nhau tốc độ, cưới
nhau tốc độ và ly dị nhau cũng tốc độ vì họ quên đi
nền tảng luân lý và tính cách bất khả phân ly của
hôn nhân mà ngay từ đầu Tạo Hóa đã đặt vào tâm
khảm của từng người khi nói về bí tích hôn phối.
Chúng tôi rất cảm phục những đôi vợ chồng khi họ
có những dịp kỷ niệm Kim Khánh, Ngân Khánh hay
Ngọc Khánh Hôn Phối và chúng tôi luôn tranh thủ
những dịp này để nói về đời sống hôn nhân gia
đình nhằm khuyến khích giới trẻ biết noi theo
những bậc ông bà vì chính ngay trong gia đình ruột
thịt của chúng tôi đã xảy ra những chuyện không
hay giữa những người thân của mình trong đời
sống hôn nhân gia đình.
11
12. Ngày 15 tháng 8 vừa qua là ngày lễ lớn của Paraguay vì đây là ngày lễ Bổn Mạng của Tổng
Giáo Phận Thủ Đô Nuestra Señora de la Asunción ( Đức Mẹ Lên Trời ) và cũng là quốc lễ của đất nước
vì người dân ở đây rất sùng kính Đức Mẹ. Quốc kỳ được xem là biều tượng thiêng liêng trong tất cả các
dịp lễ, nhất là lễ như thế này với 3 màu Xanh ( Tự Do ), Trắng ( Hòa Bình ) và Đỏ ( Công Lý ).
Dù Paraguay có nhiều đảng phái chính trị và mỗi đảng phái đều có cờ và bài hát riêng, nhưng
một khi đảng nào lên cầm quyền thì luôn đặt lợi ích quốc gia trên hết và Quốc Kỳ cũng như Quốc Ca là
hồn thiêng sông núi bất di bất dịch để các đảng phái cùng nhau hướng đến.
Nhìn về quê hương Việt Nam mình mà cảm thấy đau lòng dù người Việt Nam có một lịch sử hơn
4.000 năm văn hiến, một dân tộc cần cù, thông minh nhưng trên trường quốc tế chúng ta chưa thể
ngẩng cao đầu vì vẫn còn một điều gì đó cản trở chúng ta không thể đến gần nhau được.
Cũng chính trong ngày lễ Mẹ Lên Trời này chúng tôi đến dâng lễ đồng tế vào buổi trưa cho một
Nữ Tu Dòng Chúa Thánh Thần ( là Dòng em của Dòng Ngôi Lời ) qua đời trước đó một ngày, và luật
Paraguay chỉ cho phép 24 tiếng đồng hồ sau khi chết phải chôn cất. Vị Nữ Tu này từng là một trong
những người tiên phong của Dòng Chúa Thánh Thần ở Paraguay khi đã thành lập nhiều trường học,
nhiều công trình phúc lợi và được vinh danh như là một nữ anh hùng của Paraguay.
Dù là ngày lễ và người Paraguay rất ít chú trọng đến chuyện ma chay nhưng chúng tôi thấy rất
nhiều Giáo Dân tham dự và trong số những người phúng viếng và tri ân vị Nữ Tu quá cố này có những
người đang là hiệu trưởng các trường đại học danh tiếng của Paraguay, có những người đang làm việc
trong chính phủ, có những người là cấp tướng, tá trong quân
đội vì từng là học trò của vị Nữ Tu này. Những lời tri ân ngắn
ngủi của họ giúp chúng tôi hiểu hơn về những gì mình đang
làm.
Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta sống niềm tin. Chúa
Giêsu từng đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức
là một người ngoại giáo. Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của
con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao
giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Một trong
những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên
Đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng
quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu
Kitô hay đặt chân đến Nhà Thờ. Xin Chúa gia tăng Đức Tin
cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn TRẦN XUÂN SANG, Dòng Ngôi Lời, Paraguay, 17.8.2014
NƯỚC TRỜI, THIÊN ĐÀNG LÀ MỘT HAY HAI ?
Câu hỏi thoạt nghe có vẻ khơi khơi nhưng xét kỹ thì thấy đây là vấn nạn Thần Học rất lớn. Trả lời
cho câu hỏi “Nước Trời là gì và ở đâu ?”, Thần Học có khi nói là Đức Kitô, có khi lại nói đó là Giáo Hội.
Tuy hai lối giải thích có vẻ khác nhau nhưng tựu chung đều đưa đến một thứ Nước Trời Tục Hóa có nghĩa
Đức Kitô đến không phải để rao giảng Tin Mừng nhưng là để xây dựng Nước Trời ở nơi cõi trần. Một khi
Đức Kitô đến để xây dựng Nước Trời thì đương nhiên Nước Trời ấy không thể là Thiên Đàng !
Vậy “Nước Trời là gì và ở đâu ?” Thưa, có thể nói ngay rằng Nước Trời chính là Giáo Hội của
Chúa Kitô ngay tại trần gian này. Vì nếu nói Nước trời là Thiên Đàng thì không đúng. Vì sao ? Thưa vì
nếu nói Nước Trời là Thiên Đàng thì không thể có ba Dụ Ngôn kể ra dưới đây, hay nói cách khác rằng,
nếu Nước Trời là Thiên Đàng thì Chúa Giêsu không dùng Dụ Ngôn mà giảng dạy. Điều này được dẫn
chứng ngay là: “Nước Trời ví như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ thì
kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào lúa rồi đi mất.
Rõ ràng nếu Nước Trời là Thiên Đàng thì quỷ không thể vào được mà gieo điều xấu. Chúa
Giêsu nói: Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt
là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. vậy theo đó, Nước Trời chính là Hội Thánh của Chúa Kitô
ngay tại trần thế này, điều này không thể phủ nhận” ( Nguồn: Legio Mariae ĐBĐM, 17.7.2014 Phêrô
Trần Đình Phan Tiến – Nước Trời ).
12
CÙNG PHÂN TÍCH
13. Trong cách hiểu có tính truyền thống của người Công Giáo Việt Nam thì Thiên Đàng luôn là một nơi
chốn cụ thể và nơi chốn ấy là ở… trên trời ! ? ! Được lên Thiên Đàng có nghĩa là được… lên trời. Mừng kính
Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là mừng Đức Mẹ được Thiên Chúa ban thưởng Nước Thiên Đàng. Đồng hóa
Thiên Đàng với cõi trời như thế chẳng
những chẳng có gì sai, trái lại còn khiến
Đức Tin của người Công Giáo chúng ta có
được Đức Tin kiên vững hầu có thể vượt
qua biết bao nguy khó của đường đời.
Thế nhưng, xét trên phương diện
Thần Học thì sự đồng hóa ấy lại không
thể chấp nhận. Lý do bởi vì Thiên Đàng
khi được đồng hóa với cõi trời như một
nơi chốn như thế lại hoàn toàn trái với
Nước Trời mà Đức Kitô rao giảng. Thật
vậy, Đức Kitô mỗi khi rao giảng về Nước
Trời đều dùng Dụ Ngôn, hơn nữa Ngài chỉ
dùng Dụ Ngôn: “Chúa Giêsu dùng dụ
ngôn mà phán mọi điều ấy cùng quần
chúng. Ngoài dụ ngôn, Ngài chẳng phán gì cùng họ hầu được ứng nghiệm lời tiên tri nói rằng: Ta sẽ mở
miệng mà nói dụ ngôn. Ta sẽ thốt ra những điều đã giấu kín từ buổi Sáng Thế” ( Mt 13, 34 – 35 ).
Sở dĩ Chúa chỉ dùng Dụ Ngôn để nói về điều giấu kín từ buổi Sáng Thế, bởi vì “điều giấu kín” ấy
chính là Nước Trời mầu nhiệm nội tại. Nói đến Nước Trời, người ta ai cũng cho rằng đó là một thứ
“Nước” tương tự như một thứ… quốc gia ở trên Trời. Thế nhưng với Chúa Giêsu thì Nước Trời hoàn
toàn khác, bởi đó là Thực Tại Tâm: “Người Pharisêu hỏi Chúa Giêsu về Nước Thiên Chúa chừng nào
đến thì Ngài đáp: Nước Thiên Chúa không đến cách mắt thấy được. Người ta cũng sẽ không nói được:
Đây này hay đó kia. Vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ngươi” ( Lc 17, 20 – 21 ). “Đây này, đó kia”
ám chỉ không gian và thời gian. Nước Trời không thể nói “đây này, đó kia” bởi vì nó siêu vượt cả không
gian lẫn thời gian. Nước Trời siêu vượt không, thời gian ấy, mầu nhiệm thay, lại sẵn đủ ở nơi mỗi
người, chỉ cần quay về là gặp.
Chúa rao giảng Nước Trời nhưng đó lại không phải là một thứ lãnh thổ hay quốc gia nào đó. Đối
với quần chúng, điều ấy thật khó hiểu và cũng chính vì sự khó hiểu ấy nên sau mỗi lần rao giảng Tin
Mừng, Chúa đều kết thúc bằng câu: “Ai có tai để nghe, hãy nghe”. Tai biết nghe ở đây là tai nghe vô
phân biệt. Phải nghe bằng tâm vô phân biệt thì mới có thể nhận biết Nước Trời ở nơi chính mình, đồng
thời cũng chỉ khi ấy mới thấy Nước Trời và Thiên Đàng tuy hai mà một tuy một mà hai. Nước Trời và
Thiên Đàng là một bởi đó cùng là một Thực Tại Tâm. Còn là hai bởi vì Nước Trời cần phải đạt được
ngay trong cõi sống này: Ở đây, lúc này ( Hic et Nunc ). Còn Thiên Đàng lại chỉ có thể đạt tới trong cuộc
sống đời sau. Chính bởi Nước Trời cần đạt tới ngay trong cuộc sống thế nên Đức Kitô nói: “Luật pháp
và tiên tri đến Gioan là hết. Rồi từ đó Tin Mừng Nước Thiên Chúa được rao giảng ra và ai nấy đều phải
nỗ lực mà vào” ( Lc 16, 16 ).
Phải nỗ lực mà vào thì “vào” ở đây không thể có cách hiểu nào khác ngoài ra là vào trong Tâm
của chính mình. Chúa nói luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết, có nghĩa đã đến lúc cần kết thúc Đạo Cũ
( Cựu Ước ) để bước sang Đạo Mới ( Tân Ước ). Sự kết thúc đây không có nghĩa hủy bỏ nhưng để kiện
toàn và sự kiện toàn ấy đã được báo trước bởi Thánh Gioan Tiền Hô về Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên
Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” ( Ga 1, 29 ). Cái tội mà Đấng Cứu Thế đến để xóa ấy là tội gì
nếu không phải là Tội Nguyên Tổ ? Thực vậy chính vì Tội Nguyên Tổ ấy mà đã khiến cho cả loài người
chịu án phải chết: “Cho nên như bởi một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự
chết và như vậy sự chết đã lan khắp mọi người vì mọi người đều đã phạm tội” ( Rm 5, 12 ).
Cái chết do nguyên tổ đưa đến đó là tội gì ? Xin thưa tội ấy là tội phân biệt. Thiên Chúa phán:
“Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn nhưng về cây biết phân biệt thiện ác thì chớ hề
ăn đến. Vì một mai ngươi ăn chắc là phải chết” ( St 2, 16 ). Nguyên nhân sâu xa khiến Tội Nguyên Tổ
đưa đến sự chết bởi đó là sự phân biệt Ta và Người. Nói cách khác, Tội Nguyên Tổ khiến cho thấy có
một Cái Ta độc lập tự tánh là nguồn cội của ba thứ độc dữ: Tham Sân Si. Một khi đã thấy có Ta ( Ngã
chấp ) thì không thể nhận ra mình là Hình Ảnh Thiên Chúa là Con Thiên Chúa nữa ( St 1, 26 ).
Đức Kitô xuống thế rao giảng Tin Mừng Nước Trời tất cả cũng không ngoài mục đích để cho con
người nhận biết và sống với Bản Tính Con Thiên Chúa ở nơi mình. Có nhận ra như thế mới hiểu được
Tin Mừng của Đức Kitô là một cái Tin khiến cho kẻ nghe có được sự Vui Mừng lớn lao. Có cái tin nào
khiến cho ta có thể vui mừng lớn cho bằng biết được Nước Trời là nước vinh quang đời đời lại vốn
hằng hữu ở trong ta như thế ? Chúa rao giảng Tin Mừng và Ngài cũng truyền dạy cả phương pháp để
13
14. cho ta có thể vào ( Ngộ Nhập ) được nơi đó: “Quả thật Ta nói cùng các ngươi hễ ai chẳng nhận lấy
Nước Thiên Chúa như một con trẻ thì hẳn chẳng được vào đó” ( Lc 18, 17 ).
Nhận lấy Nước Trời như một con trẻ tức phải bỏ đi cái tâm phân biệt Ta – Người. Con trẻ ở đây
ám chỉ cho cái tâm vô phân biệt ( Xích Tử Chi Tâm ). Tâm phân biệt khiến ta không thể nhận biết Nước
Trời ở nơi mình. Có tâm phân biệt khi nào thì Nước Trời bị che lấp khi đó. Ngược lại, bỏ đi tâm phân
biệt khi nào thì Nước Trời hiện thực khi ấy. Chính bởi cần bỏ đi tâm phân biệt để Nước Trời hiện thực
nên Chúa mới truyền dạy: “Ta nói cùng các ngươi: hãy yêu kẻ thù nghịch các ngươi và cầu nguyện cho
kẻ bắt bớ các ngươi hầu cho các ngươi được làm con của Cha các ngươi trên Trời bởi vì Ngài khiến
mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho kẻ công chính cùng kẻ bất chính” ( Mt 5, 44 – 45 ).
Với cái tâm hạn hẹp, khi nghe nói Cha ở trên Trời thì liền nghĩ hẳn Thiên Chúa phải ở tít trên trời
cao. Tuy nhiên nếu hiểu như thế thì không bao giờ có thể nhận ra ý chỉ sâu xa của Đức Kitô về Thiên
Chúa vô phân biệt, cho mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho kẻ công chính cùng kẻ bất
chính. Chỉ với Đấng Thiên Chúa Vô Phân Biệt như thế mới có thể là Đấng Cha của muôn loài sinh linh
vạn vật. Tôn giáo đích thật phải là con đường dẫn đưa nhân loại về với Đấng Cha qua trung gian duy
nhất là Đức Giêsu Kitô: “Ta là đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không
qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).
Chúa Giêsu Kitô là trung gian duy nhất đến với Đấng Cha. Thế
nhưng để đi trên con đường trung gian ấy cũng có nhiều phương thế
khác nhau. Với những ai có căn cơ đặc biệt được mạc khải ( Giác Ngộ )
thì Chúa chỉ thẳng ( Trực Chỉ ) về Chúa Cha: “Những điều ấy Ta đã nói
cùng các ngươi bằng Dụ Ngôn. Giờ đến Ta chẳng còn nói cùng các
ngươi bằng dụ ngôn nữa nhưng sẽ nói tỏ tường về Cha cho các
ngươi” ( Ga 16, 25 ).
Chúa nói Dụ Ngôn khi rao giảng Nước Trời với quần chúng
đám đông, còn với các môn đệ thì nói trực tiếp về Đấng Cha của Ngài
và cũng là Cha của mỗi một người trong chúng ta. Mặc dầu Chúa chỉ
nói bằng Dụ Ngôn cho đám đông nhưng không vì thế mà không cứu
vớt họ. Trái lại, đây chính là đối tượng chủ yếu của Ơn Cứu Độ: “Ta
muốn sự thương xót chứ không muốn hy tế. Vì Ta đến không phải để
kêu gọi người công chính bèn là kẻ có tội” ( Mt 9, 13 ).
Kẻ có tội giống như người có bệnh cần được cứu chữa. Thế
nhưng điều kiện trước hết để người bệnh được cứu là phải biết mình
có bệnh, do đó tìm đến với thầy chữa bệnh. Ngược lại, có bệnh lại
không cho là mình bệnh thì chẳng làm sao có thể chữa được. Người
có tội được cứu đầu tiên và có tính điển hình nhất chính là kẻ trộm...
lành: “Một trong hai phạm nhân đồng bị treo cũng nhạo báng Ngài rằng: Ngươi không phải là Đấng Kitô
sao ? Hãy tự cứu mình ngươi và cứu chúng ta với. Nhưng tên kia trách nó rằng: “Ngươi cũng đồng chịu
như vầy thật là công bình lắm. Vì ta chịu báo ứng xứng với việc ta làm. Nhưng người này chẳng hề làm
điều gì trái cả”. Đoạn lại nói rằng: “Giêsu ôi ! Khi Ngài đến trong nước Ngài xin nhớ đến tôi cùng”. Ngài
đáp cùng người ấy rằng: “Quả thật ta nói cùng ngươi, ngay hôm nay ngươi sẽ được ở cùng Ta trên
Nước Thiên Đàng” ( Lc 23, 39 – 43 ).
Cái việc tên trộm cướp mà chúng ta quen gọi là kẻ trộm... lành ấy xin được cứu hoàn toàn không
giống như tên trộm dữ ở chỗ một đàng tỏ ý sỉ nhục, “hãy tự cứu mình và cứu chúng ta với”, một đàng
nhận biết mình xứng với tội lỗi đã làm. Dẫu vậy, nếu chỉ nhận mình có tội thì cũng chưa đủ để được
cứu. Vấn đề thiết yếu trong đời sống tâm linh là phải xin. Có tìm mới gặp, có xin mới được. Người trộm
lành trong lúc cấp thiết nguy tử nhất đã xin, và điều mà anh ta xin ấy không phải để được thoát khỏi cái
chết kinh hoàng trong giờ khắc sắp đến, nhưng là cho được vào Nước của Chúa. Sở dĩ người này có
được điều xin vô giá ấy vì anh có một niềm tin chắc chắn rằng người bị đóng đinh cùng với mình đây đã
làm biết bao điều tốt lành cho người khác thì hẳn nhiên phải có được kết quả tương xứng là làm vua
trong Cõi Trời vinh hiển.
Tôn giáo không phải Triết Học nhưng cũng chẳng phải mê tín dị đoan. Lấy Triết, lấy Thần Học để
đem ra phê phán này nọ là chẳng hiểu biết gì về Đạo Chúa. Tại sao ? Bởi vì chủ trương rốt ráo của Đạo
Chúa là tạo lập nhân lành tối thượng để hưởng quả lành tối thượng chứ không phải là để chứng minh
Thiên Chúa thế này thế khác. Đức Kitô xuống thế rao giảng Tin Mừng Nước Trời và đòi buộc: Ai nấy
phải nỗ lực mà vào thì cái sự “vào” ấy là vào ( Ngộ Nhập ) với Bản Tánh Vô Phân Biệt ở nơi chính mình.
Quay về ( vào ) với Bản Tánh Vô Phân Biệt và sống với Bản Tánh đó là nguyên lý cứu cánh của Đạo
đồng thời đó cũng là mục đích tạo lập nhân lành cao cả nhất.
14
15. Chính bởi cứu cánh của Đạo là sống với Tâm Vô Phân biệt thế nên Đức Kitô mới truyền dạy
chúng ta cần thực hiện đạo lý ấy trong việc làm cũng như cầu
nguyện: “Khi các ngươi bố thí thì đừng cho tay tả biết việc tay
hữu làm… Khi các ngươi cầu nguyện hãy vào phòng kín đóng
cửa lại rồi cầu nguyện Cha ngươi là Đấng ở nơi ẩn mật và
Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ ẩn mật sẽ báo đáp cho
ngươi” ( Mt 6, 2 – 6 ) v.v…
Nhân nào quả đó, hành động với Tâm Vô Phân Biệt là
nhân lành tối thượng tất sẽ được hưởng quả lành tối thượng là
Nước Thiên Đàng đời đời. Nước Thiên Đàng cũng là Sự Sống
Đời Đời, là Chốn Nghỉ Ngơi, là cõi Lạc Viên mà Thánh Phaolô
đang khi còn sống với thân xác đã được đưa lên: “Tôi biết thể
nào người đó hoặc trong thân xác hoặc ngoài thân xác tôi
cũng chẳng biết. Có Đức Chúa Trời biết đã được cất lên đến
Lạc Viên, nghe những lời không thể nói mà người nào cũng
không được phép nói ra” ( 2 Cr 12, 3 – 4 ).
Thiên Đàng rõ ràng là một nơi chốn chứ không phải chỉ
là tình trạng lúc có lúc không, hoặc tệ hơn, lại còn phủ nhận
nó, thì làm sao con người có thể tin được lời hứa của Đức Kitô
với các Tông Đồ trước khi Ngài đi nộp mình chịu chết: “Ta đi
để sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi Ta đi mà sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi thì Ta sẽ trở lại
tiếp các ngươi về với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng sẽ ở đó” ( Ga 14, 2 – 3 ).
Chúa nói Ta đi để sắm sẵn cho các ngươi một chỗ thì một chỗ đó chính là Nước Thiên Đàng
vĩnh cửu đời đời. Có lòng tin vững chắc vào Thiên Đàng thì mới thiết tha ước nguyện về đó. Ngược lại,
không tin thì không xin, mà đã không xin thì không cách chi có thể về nơi chốn đó được. Trong thời Tục
Hóa cao độ này, lòng tin vào sự hiện hữu của Nước Thiên Đàng hầu như đã mất và cũng chính bởi thế
mà con người tuy phải sống trong một thế giới chứa đầy đảo điên, điên đảo, nào là chiến tranh khủng
bố khốc liệt, nào là dịch bệnh tràn lan không thuốc chữa, thiên tai đói kém triền miên, nhưng không hề
có nơi bám víu nương tựa, bởi lẽ thời này là thời Đức Tin chân chính hầu như đã hoàn toàn biến mất.
Chúa Giêsu nói với những kẻ không có lòng tin: “Các con không tin ở cuộc sống vĩnh cửu ư ? Vậy
các con hãy nói cho Cha xem các con đã sống hoàn toàn hạnh phúc nơi trần thế rồi ư ? Các con chẳng
cảm thấy cần một cái gì mà các con không thể tìm gặp nơi cõi tạm này ư ?” ( Josefa Menandez ( 1890 –
1923 ) Thông Điệp của Trái Tim Chúa Giêsu gửi cho thế giới ).
PHÙNG VĂN HÓA
VĂN HÓA ƠN GỌI
Chắc hẳn nhiều người lớn Công Giáo còn nhớ về Giáo Xứ và trường học do các Linh Mục và Tu
Sĩ điều hành. Điều này không phổ biến ở Bắc Mỹ. Thanh thiếu niên Công Giáo lớn lên ít có kinh nghiệm
hoặc không có kinh nghiệm như người tu trì ( Linh Mục hoặc Tu Sĩ ). Ngày nay, thách đố của chúng ta là
tạo một văn hóa ơn gọi tại gia đình, Nhà Thờ và trường học để ĐỘNG VIÊN và GIÚP ĐỠ thanh
thiếu niên đáp lại tiếng Chúa gọi. Ngoài việc nuôi dưỡng đời sống hôn nhân và đời sống độc thân,
các gia đình và các giáo xứ làm sao nuôi dưỡng ơn gọi làm Linh Mục và Tu Sĩ ?
HỌ Ở ĐÂU ?
Có nhiều lý do để giao tiếp với các Tu Sĩ và Linh Mục, nhưng ngày nay có vẻ ít có cơ hội. Ơn gọi
tu trì giảm sút ở nhiều nơi. Thập niên 1960, sau Công Đồng Vatican II, Giáo Hội đã có kinh nghiệm về
sự canh tân. Sau đó, Giáo Dân được “chú ý” hơn và có thể là người lãnh đạo ở các trường học, bệnh
viện và Giáo Xứ, cũng có nhiều Tu Sĩ biết dấn thân hơn trong việc phục vụ người nghèo, người bệnh,
và người già.
Ngày nay, ơn gọi thiếu, có thể có nhiều lý do. Ngoài ba lời khấn ( vâng lời, nghèo khó, khiết
tịnh ), có Dòng Tu còn thêm các lời khấn khác, đồng thời còn phải biết lắng nghe lời mời gọi phục vụ
vô điều kiện. Nhiều Tu Sĩ nói rằng họ có thể đi tới bất cứ nơi nào theo nhu cầu và vâng lời bề trên, có
thể làm mọi thứ vì yêu mến Đức Kitô. Ngày nay, mặc dù ơn gọi giảm sút, nhưng vẫn có những người
theo tiếng gọi của Chúa Giêsu để sống lời khuyên Phúc Âm mà phục vụ những người đau khổ: vô gia
cư, trẻ em mồ côi, bệnh nhân HIV/AIDS, phong cùi... Sự tự nguyện của họ nâng đỡ những người
nghèo khổ nhất, vì Đức Ái Kitô giáo: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” ( 2 Cr 5, 14 ).
15
16. LÝ DO
Xuyên suốt lịch sử Giáo Hội, số Linh Mục và Tu Sĩ vẫn tăng dù có những lúc giảm sút. Những
năm trước Công Đồng Vatican II là “thời hoàng kim” về ơn gọi. Trong mọi thời, luôn có những người
cảm nghiệm lời mời gọi của Thiên Chúa và quảng đại đáp lại.
Đặc tính nào cần có đối với các Linh Mục và Tu Sĩ ? Ai có thể
sống theo các lời khuyên Phúc Âm ? Họ cần có sức khỏe tốt về thể lý
và tâm thần để phục vụ và trung thành với Đức Kitô. Lời hứa là khả
năng giữ các giá trị như sống độc thân, sống giản dị và sẵn sàng hy
sinh vì mục đích chung. Linh Mục và Tu Sĩ ngày nay cần linh động để
thích nghi với những cách thay đổi của Giáo Hội và thời đại.
Cuối cùng, những người theo tiếng gọi làm Linh Mục, làm Phó
Tế vĩnh viễn hoặc làm Tu Sĩ cần vượt qua những động thái tiêu cực bởi
các vụ "bê bối" trong Giáo Hội, những điều ảnh hưởng xấu tới ơn gọi.
Có thể họ thiếu kinh nghiệm về việc sự khuyến khích của cha mẹ, gia
đình và cộng đồng – kể cả các Linh Mục và Tu Sĩ.
NHẬN THỨC
Nghiên cứu cho thấy rằng cần phải gieo trồng và vun xới “hạt
giống ơn gọi tu trì”. Nhận thức ơn gọi cần phải là phần căn tính của việc
đào tạo Đức Tin cho giới trẻ ở bất cứ nơi nào. Sự ảnh hưởng quan
trọng đối với việc thể hiện Đức Tin của giới trẻ phải khởi đầu từ cha mẹ.
Từ việc chọn trường tới việc chọn nghề, sự ảnh hưởng của cha mẹ là
chủ yếu. Thái độ của cha mẹ đối với ơn gọi tu trì như màn hình theo
dõi, có thể xác định cách chọn lựa của giới trẻ. Nhận thức vấn đề là một
quá trình tiệm tiến. Những người hướng dẫn ơn gọi phải cung cấp thông tin tổng quát giúp giới trẻ lắng
nghe và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả khi chúng được mời gọi theo hướng khác.
Chúng ta hãy nói về việc đào tạo ở Chủng Viện và Dòng Tu. Sự nhận thức tiếp tục trong vài năm
trước khi được truyền chức Linh Mục hoặc khấn trọng ( vĩnh thệ ). Sự nhận thức đúng đắn giúp giới trẻ
không lo sợ khi quyết định – dù đúng hay sai. Khi đi tu, vẫn có sự lo lắng tự nhiên của con người. Chúng
ta cũng nên thoải mái với những người “ta-ru” ( tu ra ), gọi là tu xuất. Người ta vẫn có cái nhìn khắt khe
với họ khiến họ khó vươn lên.
VĂN HÓA ƠN GỌI
Thế nào là “văn hóa ơn gọi” trong Giáo Xứ ? Làm sao tiếp nhận giới trẻ ? Có những “vật cản” làm
nản lòng giới trẻ khi khám phá ơn gọi tu trì ? Cần đào tạo thế nào để giáo dục giới trẻ ? Đặt ra vấn đề này
ở Giáo Xứ là điều đúng. Đây là niềm hy vọng đối với ơn gọi tu trì. Nhu cầu càng ngày càng nhiều, và
Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi mọi người mở rộng lòng đáp lại để có thể trở thành Linh Mục và Tu Sĩ.
Giáo Hội cần các bậc cha mẹ, các giáo dục viên, và mọi người cùng cộng tác, cùng khuyến
khích giới trẻ dấn than vì Đức Kitô bằng cách trở nên Linh Mục, phó tế vĩnh viễn, và Tu Sĩ.
Cậu bé Samuel là tấm gương để chúng ta noi theo, vì cậu đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi
trong đêm khuya: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” ( 1 Sm 3, 10; x. Dt 10, 7 và 9 ).
TRẦM THIÊN THU, chuyển ngữ từ OblateVocations.com
PHONG CÁCH PHANXICÔ
Bài 18. Cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng
Lúc lên năm sáu tuổi tôi thường hát to vào các buổi Chầu Thánh Thể: "Này con là Đá ! Trên viên
đá này Cha xây Giáo Hội muôn đời kiên trung ! Này con là Đá ! Xatan sức hùng mưu ma vẫy vùng
không hề chuyển rung. Ta hãy nguyện xin cho Đức Giáo Hoàng Gioan. Chúa gìn giữ người, tăng gấp
sinh lực và ban cho người đời này hạnh phúc. Đừng trao người cho ác tâm quân thù, đừng trao người
cho ác tâm quân thù."
Lớn lên có thêm một tí trí khôn, ngẫm đi nghĩ lại thì lại bàng hoàng nhận ra khẳng định Giáo Hội
muôn đời kiên trung và không hề chuyển rung cũng như xin cho Đức Giáo Hoàng đời này hạnh phúc có
16
CÙNG NHẬN ĐỊNH
17. lẽ không hoàn toàn đúng. Chúa Giêsu Khổ Nạn-Phục Sinh luôn ở cùng Giáo Hội nhưng vì tôn trọng tự
do và quyền quyết định của các Tín Hữu, sự có mặt của Người chìm khuất và sâu lắng đến độ ta
thường tưởng rằng Người đang ngủ quên. Hiện trạng muôn đời của Giáo Hội luôn là:
Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi !” Bỏ đám
đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo
Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. Trong khi đó,
Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói:
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao ?” ( Mc 4, 35 – 38 ).
Giáo Hội luôn như một con thuyền chòng chành trên biển cả vì sóng to gió lớn. Cuồng phong
chưa hẳn là các thế lực ngoại giáo vô thần muốn tiêu diệt ta cho bằng chính những sai lệch của chính ta
đi ra khỏi con đường của Chúa. Giữ đạo hình thức, sống xa hoa, lạm dụng tình dục trẻ em, đi đêm với
quyền lực đen tối, rao giảng về một Đức Kitô thiếu bóng thập giá… chính là những cuồng phong lớn
nhất. Trong khi tưởng rằng Chúa đang ngủ thì thật ra chính ta mới đang ngủ quên.
Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: “Simon, anh ngủ à ? Anh
không thức nổi một giờ sao ? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần
thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở
lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người. Lần thứ
ba, Người trở lại và bảo các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao ? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này
Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi” ( Mc 14, 37 – 41 ).
Ta phải cầu xin ra sao cho Đức Giáo Hoàng ? Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông
Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” Ông
đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu
mến Thầy không ?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức
Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình
thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và
dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh
Thiên Chúa ( x. Ga 21, 15 – 19 ).
Như thế, cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng là cầu xin cho ngài có lòng yêu mến Chúa Giêsu
mãnh liệt hơn hẳn các người khác. Chỉ lòng yêu mến mới giúp ngài chăm sóc đàn chiên của Chúa
Giêsu được tốt đẹp, rồi các ngài còn phải đổ máu ra ( như Thánh Gioan-Phaolô II đã bị bắn vào người ).
Ý cầu nguyện này có thể áp dụng cho mọi thành phần Dân Chúa. Ai cũng cần có lòng yêu mến Chúa
Giêsu, đó là nền tảng duy nhất cho mọi việc ta làm, và có khi ta còn cần phải tôn vinh Thiên Chúa bằng
chính mạng sống ta như các Kitô Hữu tại Iraq trong mùa hè 2014.
Chúa Giêsu đã là người đầu tiên tha thiết cầu nguyện cho Phêrô. Rồi Chúa nói: “Simôn, Simôn ơi, kìa
Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất
lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” ( Lc 22, 31 – 32 ).
Trong các Thánh Lễ hàng ngày, lời cầu nguyện cho Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng luôn được
kính cẩn dâng lên trước tiên trong Lời Nguyện Thánh Thể.
Việt Ngữ Anh Ý Tây Ban Nha Latin
Lạy Chúa, xin
nhớ đến Hội
Thánh Chúa lan
rộng khắp hoàn
cầu, để kiện toàn
Hội Thánh trong
đức mến, cùng
với Đức Giáo
Hoàng... Đức
Giám Mục...
chúng con, và
toàn thể hàng
giáo sĩ.
Remember, Lord,
your Church,
spread
throughout the
world, and bring
her to the fullness
of charity,
together with N.
our Pope and N.
our Bishop and
all the clergy.
Ricordati, Padre,
della tua Chiesa
diffusa su tutta la
terra: rendila
perfetta nell'amore
in unione con il
nostro Papa N.,
il nostro Vescovo
N.,
e tutto l'ordine
sacerdotale.
Acuérdate, Señor,
de tu Iglesia
extendida por toda
la tierra; y con el
Papa N., con
nuestro Obispo N.
y todos los
pastores que
cuidan de tu
pueblo, llévala a su
perfección por la
caridad
in primis, quæ tibi
offérimus pro
Ecclésia tua
sancta cathólica:
quam pacificáre,
custodíre, adunáre
et régere dignéris
toto orbe terrárum:
una cum fámutuo
Papa nostro et
Antístite nostro N.
et ómnibus
orthodóxis atque
cathólicæ et
apostólicæ fídei
cultóribus.
17
18. Bách Khoa Tự Điển Wikipedia nhận định từ Giáo Hoàng của người Việt Nam ( rập khuôn từ
tiếng Hoa 教皇 Jiàohuáng ) là không chính xác.
( Trích ) Chữ “pope” trong tiếng Anh
xuất phát từ chữ “papa” trong tiếng Latin. Tuy
nhiên, đây là từ Hy Lạp cổ, dùng để chỉ người
cha trong gia đình. Ban đầu, “papa” để gọi các vị
Giám mục, Linh Mục trong Giáo Hội, thể hiện sự
tôn trọng, kính cẩn. Ngày nay, Giáo Hội Chính
Thống Hy Lạp, Chính Thống Nga và Serbia vẫn
dùng cách gọi như thế, tuy nhiên, Giáo Hội
Công Giáo Rôma chỉ sử dụng từ ngữ này dành
cho vị Giám mục Rôma. Giáo hoàng Grêgôriô
VII ( 1073 – 1085 ) là người đã quy định giới hạn
dùng từ “papa”. “Giáo hoàng” trong tiếng Việt
thực ra không dịch sát từ gốc Latinh, nó được
dịch theo cảm tính đối với vị lãnh đạo tinh thần
đáng kính. "Giáo" nghĩa là Giáo Hội, "hoàng"
nghĩa là ông vua, người lãnh đạo Giáo Hội. Thông thường, các giáo dân Công Giáo Việt Nam hay sử
dụng danh xưng Đức Giáo hoàng và Đức Thánh Cha để tôn kính Giáo hoàng. Trước thế kỷ 20 tự điển
tiếng Việt còn dùng "Đức Giáo Tông"' và "Đại phụ Thánh hội tông" để chỉ ngôi vị Giáo hoàng.
( Nguồn http://vi.wikipedia.org/wiki/Giáo_hoàng )
Vào lúc trang trọng nhất trong mọi Thánh Lễ dâng lên hàng ngày trên khắp thế giới, Nhà Thờ
Toàn Cầu vẫn chỉ dùng một từ là Nhà Thờ để cầu cho chính mình. Nhà Thờ tức là Thánh Điện của
Chúa Giêsu, Đấng Tử Nạn và Phục Sinh.
"Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với
các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là
các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu. Trong Người, toàn thể công
trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh
em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần
Khí" ( Ep 2, 19 – 22 )
Người là thân cây nho và ta đều là những cành nho ( x. Ga 15, 4 ). Chúa Giêsu là đầu và mọi Tín
Hữu đều là chi thể ( x. Rm 15, 5 ). Thân Thể Chúa Giêsu đâu có phải là một cái hội mà ta cứ quen gọi
một cách máy móc bắt chước theo tiếng Hoa ( 教會Jiàohuì ) là Giáo Hội.
Cũng trong Thánh Lễ trên khắp thế giới, vị Đại Diện Chúa Kitô luôn được gọi là Papa, từ thân
thương mà vẫn tôn kính chứ không phải là Đức Giáo Hoàng hay Đức Thánh Cha theo cách Việt Nam.
Người Việt vẫn luôn dùng Ma Soeur để gọi các Nữ Tu. Từ gốc Pháp chỉ có nghĩa là “người chị
em của tôi. Ma Soeur vẫn hay hơn các từ Việt hóa như Bà Sơ, Bà Dòng, Bà Mụ, Dì Phước, Tiểu Muội.
"Em hiền như Ma Soeur, vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta bệnh hoạn, em yêu này em yêu..
Ta nhờ em ru ta, hãy ru tên vô đạo,
Hãy ru tên khờ khạo, em yêu này em yêu..." ( Nguyễn Tất Nhiên – Phạm Duy )
Phật Giáo cũng có khó khăn khi cố gắng Việt hóa về các từ ngữ.
( Trích ) Ở Việt Nam từ Ni Cô thường dùng cho người phụ nữ xuất gia. Ở Ấn Độ, người ta dùng
chữ ni để chỉ phụ nữ, với ý tứ tôn kính, chứ không dùng chữ ni để chỉ riêng người phụ nữ xuất gia.
Trong Phật Giáo, phụ nữ mới xuất gia gọi là “Sadini” xuất gia lâu năm, thụ giới tỳ kheo ni, gọi là Tỳ kheo
ni. Dân Trung Quốc, người con gái chưa lấy chồng gọi là cô, vì vậy gọi Sadini và Tỳ kheo ni là ni cô, gọi
như vậy cũng không có gì là coi thường. Vì vậy mà trong sách Truyền Đăng Lục, các bậc đạo đức gọi
các sư cô là ni cô.
Thế nhưng, từ khi ông Đào Tôn Nghi, đời nhà Minh viết cuốn Huế Canh Lục xếp ni cô vào hàng
“Tam cô lục bà” thì từ ni cô mới có ý tứ khinh miệt. Do đó, thời gian gần đây, ni chúng không muốn
người tại gia gọi họ là ni cô. Dựa vào chữ Phạn, ni nghĩa là nữ. Nếu thêm chữ cô nữa, thành ra nữ cô.
Theo văn mà hiểu nghĩa thì dùng từ như vậy là không thông rồi. Nữ là phân biệt với nam. Có nữ cô thì
phải có nam cô chăng ? Đã dùng chữ cô thì phải có đối từ, như gọi nữ đạo sĩ là nữ đạo cô; tỳ kheo ni
gọi là Phật cô; Nữ Tu Sĩ của đạo Gia Tô cũng nên gọi là Gia cô nếu không thì xem nặng bên này, xem
18
19. nhẹ bên kia là không phải. ( Nguồn http://kienthuc.net.vn/hoc/hieu-hoa-thuong-ni-co-cu-si-the-nao-moi-
dung-185575.html )
Tôi vẫn thích gọi các Tu Sĩ La Salle ( Fratres Scholarum Christianarum, F.S.C ) là Frères. Tiếng
Pháp có nghĩa là người anh em. Hiện nay nhiều người vẫn gọi như thế. Nếu đổi thành Tu Huynh, Sư
Huynh, Thầy Dòng thì lại làm mất đi rất nhiều tinh thần La Salle.
Tại sao ta không dám hội nhập với Nhà Thờ Toàn Cầu để gọi các vị Đại Diện Chúa Kitô là
Papa ? Ai có thể cấm cản ta ?
Thánh Phanxicô Assisi được đa số nhân loại thuộc bất kỳ tín ngưỡng nào nhìn nhận là vị Thánh
Công Giáo đã phản ánh một cách trung thực nhất khuôn mặt của Chúa Giêsu. Đâu là đặc điểm nổi bật
nhất của anh. Cuộc đời và con đường Phanxicô nếu được cô đọng lại nơi một từ duy nhất là NGHÈO.
Chúa Giêsu đã ban cho anh cái nghèo của chính Người. Đó là sự vĩ đại nhất của Chúa Giêsu. Người
được sinh ra nơi một chuồng súc vật, sống đời không có một hòn đá gối đầu, chết ô nhục trần truồng
trên thập giá. Các Kitô Hữu tiên khởi trong 300 năm đầu tiên cũng giống như Người, họ thuộc tầng lớp
bần cùng khốn khổ nhất của xã hội, nghèo đói, thất học, sống đời lang bạt kỳ hồ, du thử du thực,
thường xuyên bị ngược đãi, bách bớ, giết chóc, họ không hề xây lên một Đền Thờ nào cả. Đại biểu nổi
bật của họ là Phaolô.
Năm lần tôi bị người Do Thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá;
ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi ! … gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy
hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa
mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường
phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng ( x. 2 Cr 24 – 27 ).
Đến thế kỷ 13, thời đại của Phanxicô, Nhà Thờ trở thành một thế lực giầu có và hùng mạnh nhất
ở Âu Châu, xây dựng lên vô vàn vô số Đền Thánh huy hoàng lộng lẫy, các Tu Viện bề thế, hàng Giáo Sĩ
là thành phần học thức nhất trong xã hội, sống trong nhung lụa, triền miên dính líu vào chính trị và các
cuộc chiến tranh dành quyền lực, tổ chức các Pháp đình tôn giáo để xử tử những thành phần bị cho là
lạc đạo, các sinh hoạt trong đạo mang nặng hình thức, ân xá được treo giá để mua bán.
Phanxicô phục hồi và trả lại thân phận nghèo của Đức Kitô
bằng chính lối sống nghèo đến mức tận cùng của anh. Anh thích nhận
mình là kẻ dốt nát, chất phát và vô học ( THD 39; Dc19 ). Có những bí
nhiệm của Thiên Chúa mà Thánh Phanxicô đã am tường; tuy vô học,
Ngài đã được ơn thông hiểu cao minh ( x. 2 Cel 7 ). Phanxicô thường
phải đọc cho các anh em khác viết các tư tưởng của anh vì anh
thường viết sai tiếng Latin và viết một cách rất khó nhọc.
( Trích ) Nguyện ước cuối cùng viết cho chị Clara. Tôi, Tu Sĩ
Phanxicô hèn mọn, tôi muốn bước theo Đức Giêsu Kitô là Chúa chí
tôn, và Thánh mẫu Người bằng cách sống nghèo khó và muốn bền
vững trong lối sống ấy cho đến cùng. Tôi xin chị em là các Bà chúa
của tôi và khuyên chị em hãy luôn luôn giữ lấy lối sống nghèo khó rất
thánh thiện ấy. Chị em hãy coi chừng, đừng để ai dạy bảo hay khuyến
khích chị em vĩnh viễn xa rời lối sống ấy bằng cách này hay cách
khác ( Ultima voluntas scripta s. Clarae, x. Opuscula, tr. 318 ).
Nơi Papa Phanxicô hiện nay, toàn thể Dân Chúa cũng như
người bên ngoài được vô cùng thích thú và thán phục trước phong
cách nghèo của vị Đại Diện Chúa Kitô theo gương Thánh Phanxicô. Do đó, bài hát Cầu cho Giáo Hoàng
( cũng là cho tất cả mọi người khác ) có thể là:
Này con là Đá ! Trên viên đá này Cha xây Thánh Điện muôn đời kiên trung !
Này con là Đá ! Satan sức hùng mưu ma vẫy vùng không hề chuyển rung.
Ta hãy nguyện xin cho Papa Phanxicô
Chúa gìn giữ người, tăng gấp sinh lực và ban cho người đời này nghèo khó.
Đừng trao người cho ác tâm quân thù, đừng trao người cho các tâm quân thù.
NGUYỄN TRUNG, 21.8.2014 ( Còn tiếp nhiều kỳ )
19