Tải luận văn thạc sĩ ngành Ngôn ngữ Nhật với đề tài: Một số chiến lược từ chối trong tiếng Nhật (Liên hệ với tiếng Việt). ZALO/TELEGRAM 0917 193 864 để tải bài miễn phí
Download luận văn đồ án tốt nghiệp ngành ngôn ngữ Nhật Bản với đề tài: Nghiên cứu về văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản, cho các bạn có thể làm luận văn tham khảo
Xu huong mua sam truc tuyen cua sinh vien tren dia ban tp. hcmPhuquy Nguyen
Trường đại học Mở TP.HCM
Chương trình đào tạo đặc biệt
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nhóm thực hiện
Nguyễn Phú Quý
Nguyễn Hồng Đức
TRịnh thúy Ngân
Văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Namluanvantrust
Câu hỏi nghiên cứu đặt ra là trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam thì VHDN của Nhật Bản được biểu hiện như thế nào? Nó có ảnh hưởng và tác động đối với việc quản lý DN Việt Nam ra sao? Chúng ta nên học hỏi cái gì và không nên học cái gì từ VHDN Nhật Bản để xây dựng một hệ thống VHDN phù hợp với dân tộc và đất nước mình trong bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường kinh doanh đa văn hóa? Xuất phát từ các vấn đề trên, tôi lựa chọn đề tài: “Văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp Công ty TNHH Fujitsu Việt Nam)” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn của mình.
Tải luận văn thạc sĩ ngành quản trị kinh doanh với đề tài: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng Việt Nam. ZALO/TELE 0917 193 864
Download luận văn đồ án tốt nghiệp ngành ngôn ngữ Nhật Bản với đề tài: Nghiên cứu về văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản, cho các bạn có thể làm luận văn tham khảo
Xu huong mua sam truc tuyen cua sinh vien tren dia ban tp. hcmPhuquy Nguyen
Trường đại học Mở TP.HCM
Chương trình đào tạo đặc biệt
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên
Nhóm thực hiện
Nguyễn Phú Quý
Nguyễn Hồng Đức
TRịnh thúy Ngân
Văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Namluanvantrust
Câu hỏi nghiên cứu đặt ra là trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam thì VHDN của Nhật Bản được biểu hiện như thế nào? Nó có ảnh hưởng và tác động đối với việc quản lý DN Việt Nam ra sao? Chúng ta nên học hỏi cái gì và không nên học cái gì từ VHDN Nhật Bản để xây dựng một hệ thống VHDN phù hợp với dân tộc và đất nước mình trong bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường kinh doanh đa văn hóa? Xuất phát từ các vấn đề trên, tôi lựa chọn đề tài: “Văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp Công ty TNHH Fujitsu Việt Nam)” làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn của mình.
Tải luận văn thạc sĩ ngành quản trị kinh doanh với đề tài: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng Việt Nam. ZALO/TELE 0917 193 864
Download luận văn thạc sĩ ngành tâm lí học với đề tài: Thực trạng hành vi giao tiếp có văn hóa của sinh viên trường CĐSP Cà Mau, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Download báo cao tổng kết nghiên cứu khoa học với đề tài: Chữ Tín của Triết học phương Đông trong văn hóa giao tiếp của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Đề tài sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc, 2018, Chia sẻ cho các bạn sinh viên tài liệu tốt nghiệp ngành khoa học xã hội các bạn làm chuyên đề tốt nghiệp khoa học xã hội vào tải nhé.
Luận văn Thạc sỹ ngành Quản trị kinh doanh: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính văn phòng tại Công ty Cổ phần Vận tải biển Việt Nam (Vosco) cho các bạn làm luận văn tham khảo
Link tải: bit.ly/lv0004
giải pháp Marketing dịch vụ của quán cafe Highlands Coffeeanh hieu
giải pháp Marketing dịch vụ của quán cafe Highlands Coffee Sơ lược về quán cafe Highlands Coffee:Highlands Coffee là một thương hiệu của Công ty Cổ phần Việt Thái Quốc Tế (VTI). Mục tiêu của Công ty là dẫn đầu ngành hàng bán lẻ cao cấp tại Việt Nam.Triết lý của Highlands Coffee là kết hợp những tinh hoa của thế giới hiện đại với những nét duyên và giá trị truyền thống của Việt Nam.
Download luận án tiến sĩ ngành văn hóa học với đề tài: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật Việt Nam, cho các bạn tham khảo làm đề tài nghiên cứu
Bằng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, tác giả mong rằng qua báo cáo này sẽ mang đến cho bạn đọc một các nhìn toàn cảnh về mọi mặt của công ty cổ phần bao bì XNK Tân Đại Minh
Luận Văn Xây Dựng Phát Triển Văn Hóa Doanh Nghiệp, 9 Điểm đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài luận văn hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. Nếu như các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin qua zalo/telegram : 0973.287.149 để được hỗ trợ tải nhé.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành quản trị kinh doanh với đề tài: Một số biện pháp tăng cường ứng dụng và phát triển Thương mại điện tử cho doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng, cho các bạn tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành tâm lí học với đề tài: Thực trạng hành vi giao tiếp có văn hóa của sinh viên trường CĐSP Cà Mau, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Download báo cao tổng kết nghiên cứu khoa học với đề tài: Chữ Tín của Triết học phương Đông trong văn hóa giao tiếp của sinh viên trường Đại học Sài Gòn hiện nay, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Đề tài sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc, 2018, Chia sẻ cho các bạn sinh viên tài liệu tốt nghiệp ngành khoa học xã hội các bạn làm chuyên đề tốt nghiệp khoa học xã hội vào tải nhé.
Luận văn Thạc sỹ ngành Quản trị kinh doanh: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành chính văn phòng tại Công ty Cổ phần Vận tải biển Việt Nam (Vosco) cho các bạn làm luận văn tham khảo
Link tải: bit.ly/lv0004
giải pháp Marketing dịch vụ của quán cafe Highlands Coffeeanh hieu
giải pháp Marketing dịch vụ của quán cafe Highlands Coffee Sơ lược về quán cafe Highlands Coffee:Highlands Coffee là một thương hiệu của Công ty Cổ phần Việt Thái Quốc Tế (VTI). Mục tiêu của Công ty là dẫn đầu ngành hàng bán lẻ cao cấp tại Việt Nam.Triết lý của Highlands Coffee là kết hợp những tinh hoa của thế giới hiện đại với những nét duyên và giá trị truyền thống của Việt Nam.
Download luận án tiến sĩ ngành văn hóa học với đề tài: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động truyền thông VOV, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật Việt Nam, cho các bạn tham khảo làm đề tài nghiên cứu
Bằng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, tác giả mong rằng qua báo cáo này sẽ mang đến cho bạn đọc một các nhìn toàn cảnh về mọi mặt của công ty cổ phần bao bì XNK Tân Đại Minh
Luận Văn Xây Dựng Phát Triển Văn Hóa Doanh Nghiệp, 9 Điểm đã chia sẻ đến cho các bạn học viên một bài luận văn hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. Nếu như các bạn có nhu cầu cần tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin qua zalo/telegram : 0973.287.149 để được hỗ trợ tải nhé.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành quản trị kinh doanh với đề tài: Một số biện pháp tăng cường ứng dụng và phát triển Thương mại điện tử cho doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng, cho các bạn tham khảo
Khóa luận tốt nghiệp Các phạm vi sử dụng của uyển ngữ trong tiếng Hán và tiếng Việt. Trong giao tiếp luôn khó tránh khỏi những trường hợp chúng ta phải chạm đến những vấn đề tế nhị, không muốn trực tiếp nói ra, nếu trực tiếp nói ra sẽ làm mất lòng người khác hoặc làm cho người nghe cảm thấy khó chịu, làm mất hòa khí hai bên. Trong những trường hợp này, người ta thường dùng uyển ngữ để biểu đạt. Sử dụng uyển ngữ làm cho vấn đề trở nên nhẹ nhàng, dễ tiếp nhận hơn nhưng vẫn giữ được nội dung chủ yếu của vấn đề. Trong những trường hợp khác nhau, ở các quốc gia khác nhau, cách dùng của uyển ngữ cũng khác nhau. Đề tài khái quát những tri thức cần thiết về uyển ngữ giúp người học tiếng Hán tránh được những sai sót trong quá trình giao tiếp, tránh hiểu sai, nhầm lẫn về ý nghĩa trong quá trình dạy và học ngôn ngữ, nâng cao khả năng sử dụng từ ngữ, khả năng biểu đạt ngôn ngữ.
Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận. Ý nghĩa của mỗi danh từ được giải thích bằng cách nêu lên đặc trưng không gian nổi trội mà nó mô tả về đơn vị sự vật do danh từ đi sau biểu thị. Có thể, nêu ra một số danh từ chỉ đơn vị có mô tả không gian và phân định theo chiều không gian như sau:
Download luận văn thạc sĩ ngành ngôn ngữ học với đề tài: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, cho các bạn có thể tham khảo làm đề tài nghiên cứu
Download luận văn thạc sĩ ngành ngôn ngữ học với đề tài: Hành động hỏi và hồi đáp trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, cho các bạn làm luận văn tham khảo
20080
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Đề tài sự tương đồng và khác biệt trong cách nói tôn kính, HAY. Chia sẻ cho các bạn sinh viên tài liệu tốt nghiệp ngành khoa học xã hội các bạn làm chuyên đề tốt nghiệp khoa học xã hội vào tải nhé.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành ngôn ngữ học với đề tài: Ngữ nghĩa của danh từ đơn vị tiếng việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Tài liệu này có tính phí xin vui lòng liên hệ facebook để được hỗ trợ Liên hệ page để nhận link download sách và tài liệu: https://www.facebook.com/garmentspace
https://www.facebook.com/garmentspace.blog
My Blog: http://garmentspace.blogspot.com/
Từ khóa tìm kiếm tài liệu : Wash jeans garment washing and dyeing, tài liệu ngành may, purpose of washing, definition of garment washing, tài liệu cắt may, sơ mi nam nữ, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế quần âu, thiết kế veston nam nữ, thiết kế áo dài, chân váy đầm liền thân, zipper, dây kéo trong ngành may, tài liệu ngành may, khóa kéo răng cưa, triển khai sản xuất, jacket nam, phân loại khóa kéo, tin học ngành may, bài giảng Accumark, Gerber Accumarkt, cad/cam ngành may, tài liệu ngành may, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, vật liệu may, tài liệu ngành may, tài liệu về sợi, nguyên liệu dệt, kiểu dệt vải dệt thoi, kiểu dệt vải dệt kim, chỉ may, vật liệu dựng, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, tiêu chuẩn kỹ thuật áo sơ mi nam, tài liệu kỹ thuật ngành may, tài liệu ngành may, nguồn gốc vải denim, lịch sử ra đời và phát triển quần jean, Levi's, Jeans, Levi Straus, Jacob Davis và Levis Strauss, CHẤT LIỆU DENIM, cắt may quần tây nam, quy trình may áo sơ mi căn bản, quần nam không ply, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế áo sơ mi nam theo tài liệu kỹ thuật, tài liệu cắt may,lịch sử ra đời và phát triển quần jean, vải denim, Levis strauss cha đẻ của quần jeans. Jeans skinny, street style áo sơ mi nam, tính vải may áo quần, sơ mi nam nữ, cắt may căn bản, thiết kế quần áo, tài liệu ngành may,máy 2 kim, máy may công nghiệp, two needle sewing machine, tài liệu ngành may, thiết bị ngành may, máy móc ngành may,Tiếng anh ngành may, english for gamrment technology, anh văn chuyên ngành may, may mặc thời trang, english, picture, Nhận biết và phân biệt các loại vải, cotton, chiffon, silk, woolCÁCH MAY – QUY CÁCH LẮP RÁP – QUY CÁCH ĐÁNH SỐTÀI LIỆU KỸ THUẬT NGÀNH MAY –TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT – QUY CÁCH ĐÁNH SỐ - QUY CÁCH LẮP RÁP – QUY CÁCH MAY – QUY TRÌNH MAY – GẤP XẾP ĐÓNG GÓI – GIÁC SƠ ĐỒ MÃ HÀNG - Công nghệ may,kỹ thuật may dây kéo đồ án công nghệ may, công
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành ngôn ngữ học với đề tài: Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay), cho các bạn làm luận án tham khảo
20037
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn nghiên cứu khoa học với đề tài: Thành ngữ, quán ngữ trong hoạt động giao tiếp của giới trẻ hiện nay, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Download luận án tóm tắt với đề tài: Từ ngữ xưng hô trong Phật giáo nằm trong hệ thống từ xưng hô của người Việt, cho các bạn làm luận án tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Download luận án tóm tắt ngành ngôn ngữ học với đề tài: Hành vi xin phép và hồi đáp trong tiếng anh và tiếng việt, cho các bạn làm luận án tham khảo
Similar to BÀI MẪU luận văn thạc sĩ ngành ngôn ngữ Nhật, HAY (20)
Tải bài khóa luận ngành tài chính ngân hàng với đề tài: Hoàn thiện công tác cho vay chính sách tại ngân hàng chính sách xã hội huyện Quỳnh Phụ. TẢI LIÊN HỆ ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng chính sách xã hội với đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hoạt tín dụng trung và dài hạn tại NH chính sách xã hội huyện Vĩnh Lộc – Thanh Hóa. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài mẫu báo cáo thực tập tại ngân hàng Vietcombank với đề tài: Thực trạng và giải pháp mở rộng hoạt động cho vay cá nhân tại Vietcombank – Tân Bình. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài khóa luận tài chính ngân hàng với đề tài: Đánh giá sự hài lòng của khách hàng cá nhân đối với chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Huế (Vietcombank Huế). ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài mẫu tiểu luận môn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước với đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài mẫu tiểu luận về bình đẳng giới với đề tài: Thực trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Tải bài mẫu tiểu luận môn với đề tài: Thái độ của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn –ĐHQGHN về cộng đồng LGBT. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
More from Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default (20)
Hành vi tình dục không an toàn và các yếu tố liên quan trong nhóm nam quan hệ...Man_Ebook
Hành vi tình dục không an toàn và các yếu tố liên quan trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới tại Hà Nội năm 2009-2010
Liên hệ tài tài liệu (Free): https://www.facebook.com/man.trl/
Tuyển tập 9 chuyên đề bồi dưỡng Toán lớp 5 cơ bản và nâng cao ôn thi vào lớp ...Bồi Dưỡng HSG Toán Lớp 3
Tuyển tập 9 chuyên đề bồi dưỡng Toán lớp 5 cơ bản và nâng cao ôn thi vào lớp 6 trường chuyên. Đăng ký mua tài liệu Toán 5 vui lòng liên hệ: 0948.228.325 (Zalo - Cô Trang Toán IQ).
TỔNG HỢP 135 CÂU HỎI DI TRUYỀN PHÂN TỬ LUYỆN THI HỌC SINH GIỎI THPT MÔN SINH ...
BÀI MẪU luận văn thạc sĩ ngành ngôn ngữ Nhật, HAY
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HẰNG NGA
TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ - VĂN HOÁ
ỨNG XỬ THỂ HIỆN TRONG HÀNH VI TỪ CHỐI
CỦA TIẾNG NHẬT ( LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT )
TẢI MIỄN PHÍ KẾT BẠN ZALO:0917 193 864
DỊCH VỤ VIẾT LUẬN VĂN CHẤT LƯỢNG
WEBSITE: LUANVANTRUST.COM
ZALO/TELEGRAM: 0917 193 864
MAIL: BAOCAOTHUCTAPNET@GMAIL.COM
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hµ Néi – 2007
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HẰNG NGA
TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ - VĂN HOÁ
ỨNG XỬ THỂ HIỆN TRONG HÀNH VI TỪ CHỐI
CỦA TIẾNG NHẬT ( LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT )
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201
Luận văn thạc sĩ Ngônngữ học
Người hướng dẫn khoa học:
PGS – TS Nguyễn Đức Tồn
Hà Nội – 2007
3. MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................... 3
Chƣơng 17 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT..................................... 7
1.1. Sơ lƣợc về ngữ dụng học .......................................................................... 7
1.2. Hành vi ngôn ngữ ....................................................................................... 9
1.3. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời ......................................................... 11
1.4. Phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi và động từ ngữ vi............................. 12
I.4.1. Phát ngôn ngữ vi .................................................................................... 13
1.4.2. Biểu thức ngữ vi và động từ ngữ vi ...................................................... 13
1.5. Lƣợt lời và tham thoại .............................................................................. 15
1.5.1.Lượt lời ................................................................................................. 15
1.5.2.Tham thoại............................................................................................. 17
1.6. Cặp thoại(cặp trao đáp) ............................................................................ 18
1.6.1. Cấu trúc nội tại của cặp thoại .............................................................. 18
1.6.2. Liên kết tuyến tính của cặp thoại .......................................................... 21
1.6.3. Tính chất các cặp thoại ......................................................................... 25
1.7. Phép lịch sự trong giao tiếp ...................................................................... 27
1.7.1. Lịch sự dƣơng tính trong giao tiếp ........................................................ 29
1.7.2. Lịch sự âm tính trong giao tiếp ............................................................ 31
1.8. Thể diện và hành vi đe doạ thể diện......................................................... 33
1.8.1.Thể diện ................................................................................................. 33
1.8.2. Hành vi đe doạ thể diện ......................................................................... 36
1.9. Văn hoá, ngôn ngữ và đặc trƣng văn hoá- dân tộc của nó; giao thoa văn
hoá. . . . . . .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
.
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
. .
.
39
1.9.1.Văn hoá ................................................................................................. 39
1.9.2. Ngôn ngữ và đặc trƣng văn hoá- dân tộc của nó .................................. 40
1.9.3. Giao thoa văn hoá ................................................................................. 41
1.10.Tiểu kết ................................................................................................... 42
Chƣơng 2MỘT SỐ CHIẾN LƢỢC TỪ CHỐI TRONG TIẾNG NHẬT (
LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT )........................................................................ 44
2.1. Hành vi từ chối và chiến lƣợc từ chối ...................................................... 44
2.1.1.Hành vi từ chối ...................................................................................... 44
2.1.2.Chiến lƣợc từ chối ................................................................................. 46
2.2. Một số kết quả nghiên cứu chiến lƣợc từ chối trong tiếng Việt và tiếng
Nhật của một số tác giả khác........................................................................... 47
2.2.1. Mộtsố kết quả nghiên cứu chiến lược từ chối trong tiếng Nhậtcủa một
số tác giả khác ................................................................................................. 47
2.3.2. Mộtsố kết quả nghiên cứu chiến lược từ chối trong tiếng Việt của một
số tác giả khác. ................................................................................................ 48
2.3. Một số chiến lƣợc từ chối trong tiếng Nhật thể hiện phép lịch sự dƣơng
tính và phép lịch sự âm tính (liên hệ với tiếng Việt) ..................................... 49
1
4. 2.3.1. Một số chiến lƣợc từ chối thể hiện phép lịch sự dƣơng tính..............50
2.3.2. Một số chiến lƣợc từ chối thể hiện lịch sự âm tính............................69
Chƣơng 3KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG CÁC CHIẾN LƢỢC TỪ CHỐI
TRONG TIẾNG NHẬT CỦA NGƢỜI NHẬT VÀ CỦA NGƢỜI VIỆT HỌC
TIẾNG NHẬT......................................................................................................................................................74
3.1. Phƣơng pháp khảo sát........................................................................74
3.2. Một số kết quả khảo sát hành vi từ chối của các nghiệm thể Nhật -
Nhật(JJ)....................................................................................................76
3.2.2. Mộtsố cách thức từ chối thể hiện phép lịch sự âm tính của các nghiệm
thể Nhật - Nhật(JJ)...................................................................................82
3.2.3. Tỉ lệ sử dụng các chiến lược từ chối và một vài nhận xét...................84
3.3. Một số kết quả khảo sát hành vi từ chối của các thể nghiệm Việt -
Nhật(VJ) cùng một số đề xuất về phƣơng pháp giảng dạy hội thoại tiếng Nhật
cho sinh viên Việt Nam.............................................................................86
3.4. Tiểu kết .............................................................................................89
KẾT LUẬN..............................................................................................91
PHỤ LỤC ................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................94
2
5. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động giao tiếp của các cá nhân trong cộng đồng đƣợc hình thành
thông qua các cuộc hội thoại. Trong giao tiếp hai chiều, ngƣời nói và ngƣời
nghe tƣơng tác lẫn nhau. Hội thoại là một hoạt động giao tiếp phổ biến nhất,
căn bản nhất của con ngƣời. Do vậy, vấn đề hội thoại đƣợc đặc biệt quan tâm
trong Ngữ dụng học. Nó là bộ phận chủ yếu của ngữ dụng học vĩ mô. Công cụ
và sản phẩm của hội thoại là hành vi ngôn ngữ, khi nghiên cứu hành vi ngôn
ngữ cần phải đặt nó trong môi trƣờng hội thoại. Đây là phƣơng hƣớng mới
trong nghiên cứu hành vi ngôn ngữ.
Hành vi ngôn ngữ đƣợc tạo thành từ: hành vi tạo lời, hành vi ở lời và
hành vi mƣợn lời. Trong đó ngữ dụng học quan tâm nhiều nhất tới hành vi ở
lời. Một trong những hành vi đó là hành vi từ chối. Đây là một hành vi ngôn
ngữ rất dễ làm ảnh hƣởng tới thể diện của ngƣời đối thoại. Nhất là trong các
cuộc hội thoại mang tính liên ngôn ngữ-văn hoá, thì những cú sốc văn hoá rất
dễ xảy ra.Vậy làm thế nào để hạn chế đƣợc những cú sốc này, làm thế nào để
đảm bảo đƣợc tính lịch sự trong giao tiếp, đặc biệt là khi phải thực hiện hành
vi từ chối? Trong giới hạn của luận văn này, tôi hi vọng tìm ra đƣợc những
nét ngôn ngữ-văn hoá đặc trƣng đƣợc thể hiện trong hành vi từ chối của tiếng
Nhật (có sự đối chiếu với tiếng Việt). Kết quả này có thể phần nào giúp tăng
cƣờng sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc Việt –Nhật. Đồng thời, luận văn
cũng tiến hành tìm hiểu xem những lỗi giao thoa văn hoá mà sinh viên Việt
Nam thƣờng mắc khi thực hiện hành vi từ chối bằng tiếng Nhật nhƣ thế nào.
Và từ đó chúng ta có thể đề xuất một số phƣơng pháp dạy hội thoại tiếng
Nhật cho học sinh Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
3
6. Trên cơ sở nền tảng lý thuyết của Ngữ dụng học nói chung, lý
thuyết hành vi ngôn ngữ , lý thuyết hội thoại, lý thuyết về lịch sự trong ngôn
ngữ giao tiếp, lý thuyết về đặc trƣng văn hoá- dân tộc trong ngôn ngữ nói
riêng, đề tài này đƣợc nghiên cứu với một số mục đích cụ thể nhƣ: Tìm hiểu
đặc điểm cách thể hiện tính lịch sự dƣơng tính và lịch sự âm tính qua các
chiến lƣợc từ chối trong tiếng Nhật, từ đó có sự liên hệ đối chiếu với tiếng
Việt; nghiên cứu việc sử dụng các chiến lƣợc này trong thực tế hội thoại của
ngƣời Nhật qua sự khảo sát các nghiệm thể Nhật-Nhật (ngƣời Nhật nói tiếng
Nhật) trong một số tình huống cụ thể; tìm hiểu những lỗi giao thoa văn hoá
mà sinh viên Việt thƣờng mắc phải khi thực hiện hành vi từ chối bằng tiếng
Nhật qua các nghiệm thể Việt-Nhật (sinh viên Việt Nam nói tiếng Nhật), từ
đó có thể đề xuất một số phƣơng pháp giảng dạy hội thoại tiếng Nhật cho
sinh viên Việt Nam có hiệu quả hơn.
3. Lịch sử vấn đề
Ngữ dụng nói chung, hành vi ngôn ngữ nói riêng mới đƣợc quan tâm
chú ý nhiều trong thời gian gần đây và các công trình nghiên cứu đang đƣợc
phát triển rất mạnh. Đặc biệt, hành vi từ chối, một hành vi dễ gây phản cảm
cho ngƣời tham gia đối thoại, cũng giành đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Ở Việt Nam, xuất hiện gần nhƣ sớm nhất là bài báo của Nguyễn
Phƣơng Chi năm 1997 mang tựa đề “ Từ chối một hành vi ngôn ngữ tế nhị”
[13]. Sau đó một số bài báo khác cũng của tác giả này đã đƣợc công bố trên
tạp chí Ngôn ngữ, Kỷ yếu hội nghị Ngữ học trẻ…và có thể nói sự kết tinh
nhất về những vấn đề mà tác giả này đề cập là luận án tiến sĩ ngữ văn năm
2004: “Nghiên cứu một số đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá ứng xử của hành vi
từ chối trong tiếng Việt (có sự đối chiếu với tiếng Anh)”[20]. Ngoài ra, còn có
một số bài viết của các tác giả khác nhƣ của Nguyễn Thị Hai năm 2001 với
tựa đề “Hành động từ chối trong tiếng Việt hội thoại” [39] hoặc một số báo
cáo khoa học của sinh viên khoa Ngôn ngữ học, chẳng hạn Đinh Thị Thu
Giang, Trần Thị Hồng Nhung nghiên cứu về hình thức phủ định trong phát
4
7. ngôn từ chối khi giao tiếp thông thƣờng của ngƣời Việt, cùng một số khoá
luận tốt nghiệp cũng của một số sinh viên khoa Ngôn ngữ học: Nguyễn Bá
Bách, Trần Thị Mỹ Bình chủ yếu nghiên cứu về các cách thức biểu hiện hay
kiểu loại của hành vi từ chối trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, còn có luận án
Tiến sĩ ngôn ngữ học của Trần Chi Mai, năm 2005, nghiên cứu về “Phƣơng
thức biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng
Việt)”.[56]
Còn về tình hình nghiên cứu hành vi từ chối trong tiếng Nhật, có thể bắt
đầu kể đến sự xuất hiện các bài viết trên các tạp chí nhƣ: “Nghiên cứu hành vi
từ chối trong tiếng Nhật từ góc nhìn của tiếng Anh” của 生駒智子
và 志村明彦 năm 1993, trên tập chí
(日本語教育 ò của Nhật Bản. Sau đó, xuất hiện một
số công trình nghiên cứu đối chiếu hành vi từ chối trong tiếng Nhật với một
số ngôn ngữ khác nhƣ: Công trình của 藤原千恵美
năm 2004, “So sánh đối chiếu hành vi từ chối của ngƣời Nhật với ngƣời
Inđônêxia”[147], hay công trình của Yin Hyun Soo năm 2005 về “Các chiến
lƣợc ngôn ngữ và phi ngôn ngữ của hành động từ chối trong tiếng Nhật và
tiếng Hàn”[154], hay công trình nghiên cứu của 施信余 , năm
2005, “So sánh đối chiếu hành vi từ chối lời đề nghị của sinh viên Nhật với
sinh viên Đài Loan”[135]v.v.
Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn chƣa có công trình nào đi sâu vào nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề thể hiện lịch sự dƣơng tính và
lịch sự âm tính khi thực hiện hành vi từ chối trong tiếng Nhật hay tiếng Việt.
Đồng thời cũng chƣa có công trình nào đối chiếu hành vi từ chối trong tiếng
Nhật và tiếng Việt. Những vấn đề còn bỏ ngỏ đƣợc nêu nằm trong số những
vấn đề chính sẽ đƣợc nghiên cứu trong luận văn này.
4. Phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
5
8. Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là những lời thoại thể hiện chiến
lƣợc từ chối trong hội thoại tiếng Nhật. Hội thoại ở đây đƣợc giới hạn là song
thoại - gồm hai đối tác tham gia giao tiếp.
Luận văn tập trung nghiên cứu phép lịch sự dƣơng tính và lịch sự âm
tính trong các lời thoại từ chối trong tiếng Nhật (có sự liên hệ đối chiếu với
tiếng Việt). Bên cạnh đó, luận văn còn khảo sát việc sử dụng các chiến lƣợc
này ở các nghiệm thể Nhật- Nhật và Việt –Nhật, đồng thời tìm hiểu đặc điểm
văn hoá giao tiếp cũng nhƣ các lỗi giao thoa văn hoá đối với ngƣời Việt khi
học tiếng Nhật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết đƣợc những nhiệm vụ đã đề ra của đề tài, luận văn sử
dụng chủ yếu phƣơng pháp phân tích ngữ dụng học và phƣơng pháp đối
chiếu. Ngoài ra phƣơng pháp điều tra điền dã, phƣơng pháp thống kê cũng
đƣợc sử dụng kết hợp để làm cơ sở cho những nhận xét định tính.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, tài liệu
trích dẫn, luận văn có ba chƣơng chính là:
Chƣơng 1: Một số vấn đề cơ sở lý thuyết
Chƣơng 2: Một số chiến lƣợc từ chối trong tiếng Nhật (Liên hệ
với tiếng Việt)
Chƣơng 3. Khảo sátviệc sử dụng các chiến lƣợc từ chối trong
tiếng Nhật của ngƣờiNhật và của ngƣời Việt học tiếng Nhật
6
9. Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Sơ lƣợc về ngữ dụng học
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng năm 1938 là mốc ra đời của ngành Ngữ
dụng học. Đó là thời gian nhà kí hiệu học Mỹ Charles W.Morris lần đầu tiên
đã phân kí hiệu học thành ba ngành: kết học, nghĩa học và dụng học trong
công trình “Những cơ sở của lí thuyết kí hiệu”. Kết học nghiên cứu thuộc tính
hình thức của các cấu trúc kí hiệu, của sự kết hợp các kí hiệu để thành các
thông điệp, mối quan hệ giữa các kí hiệu. Nghĩa học nghiên cứu mối quan hệ
giữa các kí hiệu với thế giới hiện thực, nghĩa là giữa kí hiệu và cái đƣợc biểu
đạt. Dụng học nghiên cứu mối quan hệ giữa kí hiệu và sự giải thích chúng, sự
giải thích về ý nghĩa mà kí hiệu đã đƣợc dùng. Ngôn ngữ là một hệ thống kí
hiệu. Ngành dụng học trong ngôn ngữ học đƣợc gọi là ngữ dụng học.
Mặc dù ra đời đã khá lâu, nhƣng ngữ dụng học mới phát triển rộng rãi ,
nhanh chóng và mạnh mẽ trong gần ba thập kỉ nay. Lúc đầu đối tƣợng nghiên
cứu của ngữ dụng học còn hạn chế. Ví dụ nhƣ Gazda (1979) đã từng định
nghĩa ngữ dụng học sau khi đã giới hạn ngữ nghĩa học và ngữ nghĩa bị chi
phối bởi các điều kiện đúng – sai:
“Ngữdụng học có đối tượng nghiên cứu là ngữ nghĩa của phátngôn
không thể lí giải được bằng quanhệ trực tiếp với những điều kiện đúng
– sai của câu được nói ra. Nói một cách sơ giản thì Ngữ dụng học =
Ngữ nghĩa trừ đi điều kiện đúng – sai.”( dẫn theo sách của S.Levinson
[119,tr.12]).
Về sau, đối tƣợng nghiên cứu của ngữ dụng học ngày càng đƣợc mở
rộng, nó không những nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học mà
còn của nhiều nhà khoa học ở các ngành kế cận nhƣ triết học, văn học, tâm lí
7
10. học, xã hội học...Các nhà nghiên cứu cũng đã định nghĩa ngữ dụng học một
cách rộng rãi hơn, thí dụ theo Kasper:
Ngữ dụng họclà ngành học nghiên cứu ngôn ngữ từ phía người dùng
đặc biệt nghiên cứu những sự lựa chọn mà họ thực hiện, những câu
thức mà họ gặp phải khi sử dụng ngôn ngữ trong tương tác xã hội và
nghiên cứu tác động của cách sử dụng ngôn ngữlên đối ngôn của mình
trong hoạt động giao tiếp. Nói cách khác, ngữ dụng học nghiên cứu
hoạt động giao tiếp trong hoàn cảnh xã hội. Hoạt động giao tiếp bao
gồm không chỉ hành vi ngôn ngữ - như thỉnh cầu, chào... mà còn bao
gồm cả sự tham gia vào những kiểu hội thoại khác nhau và sự tiếp
nhận tương tác trong những sự kiện lời nói phức hợp. Ngữ dụng học là
sự nghiên cứu tu từ học liên cá nhân – cách thức người nói và người
viết hoàn thành mục đích của mình trong tư cách là một con người
trong xã hội, những con người không chỉ nhằm vào việc thực hiện mục
đích của mình mà còn nhằm vào cả việc hình thành nên các quan hệ
liên cá nhân đồng thời với việc thực hiện mục đích.[115, tr.35].
Nhƣ vậy, khi nói về ngữ dụng học, Kasper đã tập trung nói tới hoạt
động giao tiếp, đặc biệt là hoạt động này trong hoàn cảnh xã hội. Cũng với nội
dung gần tƣơng tự, G.Green cho rằng:
Ngữ dụng học là sự nghiên cứu sự sử dụng ngôn ngữ. Sử dụng là một
quá trình theo đó con người giao tiếp với nhau bằng cách sử dụng các
phương tiên ngôn ngữ nhằm đạt đến những mục đích khác nhau. Quá
trình đó bị chi phối bởi những điều kiện xã hội, những điều kiện này sẽ
quyết định việc con người dùng đến và kiểm soát những phương tiện
nào. Do đó cũng có thể xem ngữ dụng học là ngôn ngữ học bị định
hướng vào và bị ràng buộc bởi xã hội. [113, tập 6, tr.3268].
Tóm lại, ngữ dụng học là một ngành khoa học ngày càng đƣợc quan
tâm và phát triển mạnh mẽ. Những cơ sở lý thuyết của nó cũng nhƣ những kết
8
11. quả nghiên cứu đã đƣợc công bố là tiền đề vững chắc cho những nghiên cƣú
tiếp theo. Nó giúp ích rất nhiều cho sự phát triển không những của ngành
ngôn ngữ học mà cho nhiều ngành khoa học khác cũng nhƣ sự phát triển của
xã hội loài ngƣời nói chung. Luận văn này cũng sử dụng khá nhiều những
kiến thức của ngữ dụng học nhƣ lý thuyết về hành vi ngôn ngữ, lý thuyết về
hội thoại, lịch sự trong giao tiếp...
1.2. Hành vi ngôn ngữ
J.L. Austin, nhà triết học Anh ở trƣờng Đại học Tổng hợp Harvard
(Mĩ) trình bày 12 chuyên đề. Những chuyên đề này, năm 1962, hai năm sau
ngày ông mất, đƣợc tập hợp lại xuất bản thành sách với nhan đề “How to do
things with word” Có ngƣời dịch là: “Hành động nhƣ thế nào bằng lời nói”,
cũng có ngƣời dịch là: “Nói tức là hành động”. Đồng thời cũng xuất hiện một
số thuật ngữ khác nhau nhƣ: hành động lời nói, hành động ngôn từ, hành
động ngôn ngữ...Theo Đỗ Hữu Châu, trong luận văn này chúng tôi dùng thuật
ngữ: “hành động ngôn ngữ” [12, tr.446].
Một “hành động ngôn ngữ” đƣợc thực hiện khi một ngƣời nói
(hoặc viết) Sp1 nói ra một phát ngôn cho ngƣời nghe (hoặc ngƣời đọc) Sp2
trong ngữ cảnh. J.L.Austin cho rằng có hành động ngôn ngữ đƣợc tạo thành
từ hành vi tạo lời, hành vi mƣợn lời và hành vi ở lời .
Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ nhƣ ngữ
âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu,... để tạo ra một phát ngôn về hình thức
và nội dung. Một bộ phận của hành vi tạo lời đã là đối tƣợng nghiên cứu của
ngôn ngữ học tiền dụng học.
Hành vi mƣợn lời là những hành vi “mƣợn” phƣơng tiện ngôn ngữ,
nói cho đúng hơn là mƣợn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngoài ngôn
ngữ nào đó ở ngƣời nghe, ngƣời nhận hoặc ở chính ngƣời nói. Ví dụ, nghe
thông báo trên đài phát thanh: “Ngàymai, 25 tháng 7 ở Hà Nội sẽ có mưa lớn,
gió mạnh, sức gió cấp 4 cấp 5 tức 40 đến 50 km một giờ” một số ngƣời sẽ rất
lo lắng, tỏ ra bực mình nếu họ là những ngƣời ở xa cơ quan công tác, một số
9
12. ngƣời khác trái lại sẽ thờ ơ, một số ngƣời khác nữa có thể lại vui mừng vì trời
sẽ đỡ nóng bức,... Nghe phát ngôn sai khiến: “Đóng cửa lại!” Sp2 có thể
đứng dậy đi ra cửa và đẩy cánh cửa cho khép kín lại, anh ta cũng có thể bực
tức, càu nhàu, tỏ vẻ khó chịu. Hành động vật lí đóng cửa, sự bực tức đều
thuộc hành vi mƣợn lời. Chức năng hành động của giao tiếp đƣợc thực hiện
nhờ các hiệu quả mƣợn lời của phát ngôn. Có những hiệu quả mƣợn lời là
đích của một hành vi ở lời ( nhƣ đóng cửa là hiệu quả mƣợn lời của hành vi ở
lời điều khiển), nhƣng có những hiệu quả không thuộc đích của hành vi ở lời
( nhƣ vùng vằng, gắt gỏng, khó chịu khi nghe lệnh). Những hiệu quả mƣợn
lời rất phân tán, không thể tính toán hết đƣợc. Chúng không có tính quy ƣớc
(trừ hành vi mƣợn lời của hành vi ở lời).
Hành vi ở lời là những hành vi ngƣời nói thực hiện ngay khi nói năng.
Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây
ra một phản ứng ngôn ngữ tƣơng ứng với chúng ở ngƣời nhận. Ví dụ về hành
vi ở lời: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa hẹn, khuyên bảo... Khi chúng ta hỏi ai
về một cái gì đó thì ngƣời đƣợc hỏi có nhiệm vụ phải trả lời chúng ta, cho dù
trả lời không biết. Không trả lời, không đáp lại câu hỏi, ngƣời nghe bị xem là
không lịch sự. Khác với các hành vi mƣợn lời, hành vi ở lời có ý định (hay có
đích – intentionnel) quy ƣớc (conventionnel) và có thể chế (institutionnel) dù
rằng quy ƣớc và thể chế của chúng không hiển ngôn mà quy tắc vận hành chúng
đƣợc mọi ngƣời trong một cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một cách không tự
giác. Có thể nói, nắm đƣợc ngôn ngữ, không chỉ có nghĩa là nắm đƣợc âm, từ
ngữ, câu... của ngôn ngữ đó mà còn là nắm đƣợc những quy tắc điều khiển các
hành vi ở lời trong ngôn ngữ đó, có nghĩa là biết các quy tắc để “hỏi”, “hứa
hẹn”, “yêu cầu”, “mời”,... sao cho đúng lúc, đúng chỗ cho thích hợp với ngữ
cảnh, với ngƣời đƣợc hỏi,... Ví dụ ở xã hội Việt Nam và Á Đông nói chung, hỏi
Sp2 về tuổi tác, về tình trạng hôn nhân,... là đƣợc phép, là tỏ sự quan tâm của
ngƣời hỏi với ngƣời đƣợc hỏi. Trái lại hỏi về các đề tài đó ở xã
10
13. hội phƣơng Tây lại bị xem là không lịch sự, là “dí mũi” vào đời tƣ của ngƣời
ta.[12, tr.447]
Nhà nghiên cứu ngôn ngữ học O.Ducrot đã cụ thể hơn về vấn đề hành
vi ở lời bằng việc đƣa ra điểm khác biệt của hành vi ở lời với hành vi tạo lời
và hành vi mƣợn lời. “Theo ông, hành vi ở lời khác với hành vi tạo lời và
hành vi mƣợn lời ở chỗ chúng thay đổi tƣ cách pháp nhân của ngƣời đối
thoại. Chúng đặt ngƣời nói và ngƣời nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi
mới so với tình trạng của họ trƣớc khi thực hiện hành vi ở lời đó.” [10, tr.90]
1.3. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời
Hành vi ở lời cũng nhƣ bất kỳ một hành vi nào khác muốn thực hiện
đƣợc cần có sự thoả mãn những điều kiện nhất định.
“Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là những điều kiện mà một hành
vi ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh của sự phát
ngôn ra nó” [10, tr.111].
Sau đây chúng tôi xin chỉ đề cập tới hai quan điểm về điều kiện sử
dụng của các hành vi ở lời của nhà triết học Austin và nhà nghiên cứu ngôn
ngữ học Searle.
a. Điều kiện sử dụng của các hành vi ở lời theo Austin
Austin xem các điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là những điều kiện
“may mắn” (felicity conditions) nếu chúng đƣợc bảo đảm thì hành vi mới
“thành công”, đạt hiệu quả. Nếu không nó sẽ thất bại. Những điều kiện may
mắn của Austin là nhƣ sau:
Điều kiện thứ nhất:
i- Phải có thủ tục có tính chất quy ƣớc và thủ tục này phải có hiệu quả
cũng có tính quy ƣớc
ii- Hoàn cảnh và con ngƣời phải thích hợp với những điều quy định
trong thủ tục.
Điều kiện thứ hai:
- Thủ tục phải đƣợc thực hiện (i) một cáchđúng đắn và (ii) đầy đủ
11
14. Điều kiện thứ ba:
- Thông thƣờng thì (i) những ngƣời thực hiện hành vi ở lời phải có ý
nghĩ, tình cảm và ý định đúng nhƣ đã đƣợc đề ra trong thủ tục và (ii) khi
hành động diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng nhƣ nó đã có.
b. Điều kiện sử dụng của các hành vi ở lời theo Searle
Trên cơ sở phân tích một ví dụ về hành vi ở lời: hành vi “hứa” trong
tiếng Anh (promise), Searle đã điều chỉnh lại, bổ sung vào những điều kiện
may mắn của Austin và gọi chúng là điều kiện sử dụng hay điều kiện thoả
mãn. Mỗi hành vi ở lời đòi hỏi phải có một hệ những điều kiện còn gọi là quy
tắc (rules) để cho việc thực hiện nó đạt hiệu quả đúng với đích của nó. Mỗi
điều kiện là một điều kiện cần, còn toàn bộ hệ điều kiện là điều kiện đủ. Mỗi
điều kiện lại đƣợc biểu hiện khác nhau tuỳ theo từng phạm trù, từng loại và
từng hành vi ở lời cụ thể.
Theo Searle, có bốn điều kiện sử dụng các hành vi ở lời gồm:
a) Điều kiện nội dung mệnh đề: đây là điều kiện chỉ ra bản chất của
hành vi. Nội dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản hay một hàm
mệnh đề. Nội dung mệnh đề có thể là một hành động của ngƣời nói hay một
hành động của ngƣời nghe.
b) Điều kiện chuẩn bị: bao gồm những hiểu biết của ngƣời phát ngôn
về năng lực, lợi ích, ý định của ngƣời nghe và về các quan hệ giữa ngƣời nói,
ngƣời nghe.
c) Điều kiện chân thành: chỉ ra các trạng thái tâm lí tƣơng ứng của
ngƣời phát ngôn. Xác tín, khảo nghiệm đòi hỏi niềm tin vào điều mình xác
tín; ra lệnh đòi hỏi lòng mong muốn.
d) Điều kiện căn bản: là điều kiện đƣa ra kiểu trách nhiệm mà ngƣời
nói hoặc ngƣời nghe bị ràng buộc khi hành vi ở lời đó đƣợc phát ra. Trách
nhiệm có thể đƣợc rơi vào hành động sẽ đƣợc thực hiện hoặc đối với tính
chân thực của nội dung.
1.4. Phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi và động từ ngữ vi
12
15. I.4.1. Phát ngôn ngữvi
- “Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn – sản phẩm của một hành vi ở lời nào
đó khi hành vi này đƣợc thực hiện một cách trực tiếp, chân thực.”[12, tr.448].
- “Phát ngôn ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trƣng cho hành vi ở lời tạo
ra nó. Kết cấu đó đƣợc gọi là biểu thức ngữ vi” [12, tr.448].
Ví dụ:
- Mình đề nghị cậu ở lại.
Cấu trúc của một phát ngôn ngữ vi tối thiểu chỉ có một biểu thức ngữ
vi. Tuy nhiên trong cuộc sống hàng ngày, do sự chi phối của nhiều yếu tố mà
phát ngôn ngữ vi còn có sự mở rộng.
Phát ngôn ngữ vi có đặc điểm là:
+ Chủ ngữ là ngôi 1
+ Bổ ngữ là ngôi 2
+ Động từ ngữ vi ở thời hiện tại và thức thực hiện
+Không có các từ chỉ thời gian nhƣ: hôm nay, mai…và không có các từ
chỉ thời thể nhƣ: đã, đang, sẽ và các ngữ khí từ : đấy, à…
1.4.2. Biểu thức ngữ vi và động từ ngữvi
“Biểu thức ngữ vi là những thể thức nói năng đặc trƣng cho một hành
vi ở lời” [12, tr.449].
Một biểu thức ngữ vi đƣợc đánh dấu bởi các dấu hiệu chỉ dẫn, nhờ
những dấu hiệu này mà có các biểu thức ngữ vi khác nhau. Searle gọi các dấu
hiệu chỉ dẫn này là các phƣơng tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (tiếng Anh là:
illocutionary force indecating devices, viết tắt là: IFIDs).Có tác giả nhƣ
Nguyễn Thiện Giáp gọi là “động từ ngôn hành”. Đóng vai trò IFIDs là:
a- Kiểu kết cấu từ ngữ: Đây là những kiểu câu ứng với từng hành vi ở
lời. Ví dụ: biểu thức ngữ vi của hành vi ở lời xin phép thƣờng có kết cấu: “xin
phép...cho...” hoặc “xin ... cho phép...”
b- Các từ ngữ chuyên dùng trong biểu thức ngữ vi: Đây là những từ
ngữ dùng để tổ chức các kết cấu và là các dấu hiệu nhờ chúng mà ta biết đƣợc
13
16. hành vi nào đang đƣợc thực hiện. Biểu thức ngữ vi của hành vi hỏi thƣờng có
các từ ngữ đặc thù nhƣ: “tại sao”, “thế nào”, “ở đâu”, “bao giờ”, “khi
nào”...
c- Ngữ điệu: Cùng tồn tại với các dấu hiệu chỉ dẫn khác, yếu tố ngữ
điệu cũng có vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên các biểu thức ngữ vi
khác nhau trong phát ngôn. Theo Đỗ Hữu Châu: “Cùng một tổ chức từ vựng,
ngữ pháp cụ thể nếu được phátâm với những ngữ điệu khác nhau sẽ cho các
biểu thức ngữ vi khác nhau ứng với những hành vi ở lời khác nhau.
Ví dụ:
- Mình xin cậu đừng làm thế.
Nếu câu này với ngữ điệu đi xuống thì đó có thể là một hành vi van nài,
nhƣng nếu sử dụng ngữ điệu đi lên thì nó lại thể hiện hành vi ra lệnh.
d- Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ – tham thể tạo nên nội
dung mệnh đề đƣợc nêu trong biểu thức ngữ vi với các nhân tố của ngữ cảnh.
Các đặc tính ngữ nghĩa nhƣ tự nguyện hay cƣỡng bức, tích cực hay tiêu cực,
có lợi hay không có lợi v.v.. của hành động đối với ngƣời tạo ra hành vi và
với ngƣời nhận hành vi cũng có giá trị nhƣ những IFIDs.
e- Động từ ngữ vi: là những động từ mà khi phát âm chúng ra cùng với
biểu thức ngữ vi (có khi không cần có biểu thức ngữ vi đi kèm) là ngƣời nói
thực hiện luôn cái hành vi ở lời do chúng biểu thị. [10, tr.97)]
Ví dụ: - Tớ hứa sẽ tới mà.
- Anh cam đoan đâyhoàn toàn là sự thật.
Trong hai ví dụ trên đây ngƣời nói (tớ, anh) đã đồng thời thực hiện
luôn hai hành vi ở lời hứa và cam đoan khi nói.
Không phải mọi động từ xuất hiện trong các phát ngôn đều đƣợc gọi là
động từ ngữ vi. Để đƣợc gọi là những động từ có chức năng ngữ vi chúng
phải thoả mãn một số điều kiện nhất định. Theo Austin, những điều kiện cần
thoả mãn ấy là:
+ Động từ phải đƣợc dùng ở ngôi thứ
nhất 14
17. + Thời hiện tại.
+ Thể chủ động
+ Thức thực thi
- Anh khuyên em hãyở nhà. (a)
- Cô giáo khuyên tớ nên đi thi. (b)
Ở ví dụ (a), động từ “khuyên” đã thoả mãn bốn điều kiện trên, tức là nó
đƣợc dùng ở ngôi thứ nhất, thời hiện tại, thể chủ động và thức thực thi nên
đƣợc gọi là động từ ngữ vi. Ở ví dụ (b) động từ “khuyên” không đƣợc gọi là
động từ ngữ vi vì không thoả mãn bốn điều kiện nhƣ đã nêu trên. Chủ ngữ
ngôi thứ ba, bổ ngữ ngôi thứ nhất.
Căn cứ vào sự có mặt hay vắng mặt của động từ ngữ vi mà Austin chia
biểu thức ngữ vi thành hai loại:
+ Biểu thức ngữ vi nguyên cấp: Là những biểu thức ngữ vi không sử
dụng những động từ ngữ vi.
Ví dụ: - Cậu không nên đến muộn.
+ Biểu thức ngữvi tường minh: Là những biểu thức ngữ vi có sử dụng
động từ ngữ vi dùng theo hiệu lực ngữ vi.
Ví dụ: - Tớ khuyên cậu không nên đến muộn.
1.5. Lƣợt lời và tham thoại
1.5.1. Lượtlời
“Chuỗi đơn vị ngôn ngữ đƣợc một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc
bắt đầu cho đến lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của
mình là một lƣợt lời” [10, tr.205].
Nhƣ vậy, lƣợt lời là phần lời mà mỗi một cá nhân tham gia giao tiếp
đƣa ra, kết thúc lƣợt lời của ngƣời này thì ngƣời kia đƣa ra lƣợt lời của
mình. Sự luân phiên lƣợt lời có giá trị thiết lập đƣờng kênh giao tiếp giữa
ngƣời nói và ngƣời nghe, duy trì cuộc thoại.
15
18. Theo Orecchioni, cần phải đảm bảo nguyên tắc luân phiên lƣợt lời để
cuộc thoại đƣợc phát triển một cách bình thƣờng, lời ngƣời này kế tiếp lời
ngƣời kia và không có sự dẫm đạp lên nhau.
Trong giao tiếp, vấn đề đƣa ra lƣợt lời của ngƣời nói (Sp1) với ngƣời
nghe (Sp2) và ngƣợc lại là vấn đề có giá trị tạo nên cuộc thoại. Hoạt động này
đƣợc cụ thể hoá bằng việc Sp1 đƣa ra lƣợt lời của mình hƣớng về phía
ngƣời nghe (Sp2) nhằm làm cho Sp2 nhận biết đƣợc rằng lƣợt lời đƣợc nói
đó là dành cho Sp2 và về phía Sp2 sau khi tiếp nhận lƣợt lời của Sp1 sẽ phải
đƣa ra lƣợt lời đáp lại để thể hiện quan điểm của mình với lời nói của Sp1,
Sp1: Phim này xem cũng được đấynhỉ?
Sp2: Ừ, kể cũng hayphết!
Khi Sp1 đƣa ra lƣợt lời “Phim này xem cũng được đấy nhỉ?” có giá trị
một câu hỏi hƣớng về Sp2, Sp2 cũng đƣa ra lƣợt lời phản hồi “Ừ, kể cũng
hay phết!” biểu lộ quan điểm của mình với câu hỏi của Sp1.
Cần phân biệt lƣợt lời và tham thoại, tham thoại không đồng nhất với
lƣợt lời, lƣợt lời có thể gồm nhiều tham thoại và có thể nhỏ hơn một tham
thoại. Ví dụ:
Sp1: Mai, đi luôn nhé.
Sp2:Vâng ạ. Cô Hà có đi cùng không ạ?
Ở lƣợt lời của Sp1 chỉ có một tham thoại, nhƣng ở lƣợt lời của Sp2 thì
có tới hai tham thoại: một tham thoại trả lời câu hỏi của Sp1 và một tham
thoại hỏi để lấy thông tin từ Sp1.
Các thành phần tham gia trong lƣợt lời về cơ bản là các hành vi, các
tham thoại. Một tham thoại có thể chồng khít lên một lƣợt lời. Ví dụ:
Sp1: Cháu ăn cơm chưa?.
Sp2: Cháu ăn rồi ạ.
Cặp thoại trên đƣợc tạo thành từ hai tham thoại, mỗi tham thoại nằm
gọn trong lƣợt lời chỉ gồm có một hành vi là hỏi và trả lời. Ở đây tham thoại
trùng khớp với lƣợt lời và hành vi.
16
19. 1.5.2. Tham thoại
Tham thoại là yếu tố luôn xuất hiện trong giao tiếp. Đó là những phần
đóng góp ý kiến của cả hai phía ngƣời nói và ngƣời nghe để tạo nên cuộc
thoại.
Trong cấu trúc cặp thoại, tham thoại là một đơn vị chức năng có tính
chất bản lề, cơ sở để tạo nên cặp thoại và là đơn vị nằm giữa hành vi và tham
thoại. Các cƣơng vị trung gian này của tham thoại làm cho hành vi không
phải là đơn vị cấu trúc trực tiếp mà đó là đơn vị gián tiếp của cặp thoại. Khi
tham thoại chỉ có một hành vi thì ranh giới của nó sẽ trùng với ranh giới hành
vi, nhƣng về nguyên tắc vẫn là hai khái niệm khác nhau.
Cấu trúc của một tham thoại có thể gồm một hay một số hành vi nhƣng
trong đó chỉ có một hành vi chủ hƣớng làm nòng cốt, ngoài ra còn có thể có
hoặc một số hành vi phụ thuộc tồn tại xung quanh (ở trƣớc hoặc ở sau) hành
vi chủ hƣớng. Sơ đồ cấu trúc nhƣ sau:
CH
PT CH
CH PT
PT CH PT
PT PT CH
Ví dụ:
SP1: Bình à, tớ đi học đây, cậu nhớ nhắn lại cho cô ấy giúp tớ nhé .
MR PT CH
SP2:Ừ, tớ sẽ nhắn cho .
MR CH
Trong sơ đồ trên, hành vi chủ hƣớng(CH) là hành vi chính yếu mang
đích giao tiếp hay chủ đề của đàm thoại, còn hành vi phụ thuộc(PT) là những
hành vi có giá trị tạo nền cho hành vi chủ hƣớng.
Xét về mặt chức năng, hành vi chủ hƣớng có chức năng ở lời cònhành
vi phụ thuộc có chức năng liên hành vi. Chức năng liên hành vi là chức năng
17
20. thiết lập mối quan hệ của hành vi phụ thuộc và hành vi chủ hƣớng. Nhờ có
mối quan hệ chặt chẽ với hành vi chủ hƣớng, hành vi phụ thuộc mới có thể
phát huy đƣợc hiệu lực. Đứng về mặt lập luận, quan hệ của hai loại hành vi
này là quan hệ lập luận – một kiểu của quan hệ liên hành vi. Hành vi chủ
hƣớng có vai trò là kết luận, còn hành vi phụ thuộc có vai trò là luận cứ.
Ngoài ra, hành vi chủ hƣớng và hành vi phụ thuộc còn có quan hệ biện minh,
giải thích: hành vi PT là hành vi giải thích, biện minh cho hành vi CH.
Xét về vai trò, vị trí, chức năng của tham thoại trong cuộc thoại, tham
thoại đƣợc phân chia thành một số loại cơ bản sau:
+ Tham thoại tiền dẫn nhập: là những tham thoại đứng trƣớc tham
thoại dẫn nhập trung tâm. Loại tham thoại này không chứa hành vi chủ hƣớng
nhƣng có giá trị khơi gợi và làm tiền đề để dẫn tới việc xuất hiện tham thoại
có hành vi chủ hƣớng.
+ Tham thoại dẫn nhập trung tâm: là tham thoại dẫn nhập chỉ có hành
vi chủ hƣớng còn đƣợc gọi là tham thoại dẫn nhập trung tâm. Đây là tham
thoại chỉ chứa hành vi ngôn ngữ chủ hƣớng và hành vi này có giá trị quyết
định tới tính chất của sự kiện lời nói .
+Tham thoại hồi đáp là lƣợt phản hồi của ngƣời nghe(Sp2) sau khi tiếp
nhận lƣợt lời dẫn nhập từ phía Sp1 và lƣợt phản hồi này có một chức năng
trong giao tiếp đó là chức năng ở lời.
+ Tham thoại kết thúc là tham thoại có vai trò đóng lại cuộc thoại (có
thể từ ngƣời nói hoặc ngƣời nghe).
Trong thực tế hội thoại, tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp, trạng
thái tâm lý của ngƣời nói và ngƣời nghe mà cuộc thoại có sự xuất hiện của cả
bốn loại tham thoại trên hoặc cũng có khi là sự vắng mặt của một số tham
thoại. Tuy nhiên hai loại tham thoại tham thoại dẫn nhập trung tâm và tham
thoại hồi đáp luôn có mặt trong hội thoại.
1.6. Cặp thoại(cặptrao đáp)
1.6.1. Cấu trúcnội tại của cặp thoại
18
21. Cặp thoại là đơn vị lƣỡng thoại nhỏ nhất của cuộc thoại do các tham
thoại tạo nên. Có thể căn cứ vào số lƣợng các tham thoại để phân loại các cặp
thoại.
+ Cặp thoại một tham thoại. Nhƣ đã biết, về nguyên tắc, cặp ít nhất
phải có hai tham thoại của hai nhân vật. Có những trƣờng hợp nhƣ:
Sp1:Gõ cửa
Sp2:Mời vào
Sp1:Anh đóng hộ cái cửa
Sp2:(Đứng dậy đóng của mà không nói lời nào)
Sp1:Đi Hà Nội không?
SP2:(lắc đầu)
Những trƣờng hợp này không phải là những cặp thoại một tham thoại
bởi vì một trong hai tham thoại cấu trúc nên nó đƣợc thực hiện bằng những
hành vi kèm hoặc vật lí. Trong một số trƣờng hợp, chính sự hồi đáp bằng
hành vi vật lí mới khiến cho cuộc thoại có tính chất bình thƣờng. Các yếu tố
ngôn ngữ đƣợc phát ra có tính chất phù trợ, không tất yếu phải có. Ví dụ
trƣờng hợp: “Anh đóng hộ cái cửa” nếu Sp2 trả lời “vâng” rồi bỏ đó, không
làm động tác đóng cửa thì cuộc thoại nói trên không có hiệu quả.
Chúng ta nói đến các cặp thoại một tham thoại chỉ trong trƣờng hợp
tham thoại Sp1 không đƣợc Sp2 hƣởng ứng hồi đáp bằng một hành vi tƣơng
ứng. Đó là trƣờng hợp ví dụ nhƣ:
Sp1: - Hôm nay em đẹp quá! (Sp1 là một chàng trai gặp cô gái (Sp2
)lần đầu)
Sp2:- ...
Chúng ta gọi những trƣờng hợp này là cặp thoại hẫng. Tuy nhiên,
không nên nghĩ rằng cặp thoại hẫng chỉ xảy ra khi một trong hai nhân vật hội
19
22. thoại tỏ ra không thích thú với tham thoại của ngƣời kia. Có những trƣờng
hợp nhƣ:
Sp1:Chàoem. Em là học sinh mới vào lớp?
Sp2:Vâng ạ.
Tham thoại “Chào em!” không có tham thoại hồi đáp tƣơng ứng
củaSp2.Sp2 chỉ hồi đáp lại tham thoại hỏi của Sp1. Có thể nói ở đây chúng ta
cũng gặp một tham thoại “hẫng” nhƣng rất hay gặp trong thực tế hội thoại
+ Cặp thoại hai tham thoại (cặp thoại đôi). Tham thoại thứ nhất đƣợc
gọi là tham thoại dẫn nhập (initiative), tham thoại thứ hai là tham thoại hồi
đáp. Ví dụ:
Sp1:- Đi đâu đấy?
Sp2:- Đi học.
+ Cặp thoại ba tham thoại (cặp thoại ba). Về nguyên tắc một cặp thoại
đủ hai tham thoại đã là hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong thực tế những tham thoại
nhƣ vậy tỏ ra “cụt lủn” “ông chẳng bà chuộc”, “nhấm nhẳn”. Thƣờng gặp là
những cặp thoại nhƣ:
Sp1: - Đi đâu đấy?
Sp2:- Đi học đây.
Sp1:- Đi học à!
Tham thoại thứ ba do Sp1 phát ra có tính chất “đóng lại” cặp thoại đó
để (nếu cần) mở ra một cặp thoại khác. Tham thoại thứ ba của Sp1 có thể là
một kiểu “tiếng vọng” của tham thoại Sp2 nhƣ trƣờng hợp trên, có thể là
tham thoại tán đồng, đánh giá, chúc mừng, ... Ví dụ:
Sp1:- Hè này cậu đi nghỉmátở đâu?
Sp2:- Tớ định đi Sầm sơn
20
23. Sp1:- Sầm Sơn!Tuyệt vời.
Sp1:- Bao giờ cưới đấy?
Sp2:- Mai
Sp1:- Xin chúc mừng cậu.
1.6.2. Liên kết tuyến tính của cặp thoại
Trên đây chúng ta nói về các kiểu cặp thoại tƣơng đối đơn giản trong
đó mỗi lƣợt lời của Sp1,Sp2 chỉ có một tham thoại do một hành vi ngôn ngữ
thực hiện. Trong thực tế, tổ chức các lƣợt lời trong một cặp thoại phức tạp
hơn nhiều. Có thể có những kiểu liên kết tuyến tính các lƣợt lời trong cặp
thoại nhƣ sau:
+Liên kết hoàn toàn tuyến tính (liên kết “phẳng”).
Ví dụ:
Sp1:- Chào!
Sp2:- Chào!
SP1:- Cám ơn ông!
SP2:- Có gì đâu!
SP1:- Đi đâu đấy?
SP2:- Đi học đây.
SP1:- Đi học à? (Tiếng vọng)
Sp1:- Cậu sẽ nghỉmátở đâu?
Sp2:- Ở Sầm Sơn.
Liên kết “phẳng” có thể có biến thể “hẫng” nhƣ đã nói hoặc biến thể
“ghép”. Ví dụ:
Sp1:- Thưởng có nhà không?
21
24. SP2:- Gì đấy? (SP2 chính là Thưởng)
Sp1:- Cho tớ mượn vở ghi của cậu một lát.
Lƣợt lời “Gì đấy?” của Thƣởng tƣơng đƣơng với hai tham thoại, một
trả lời cho câu hỏi của Sp1, một đặt ra câu cho Sp1. Chúng ta nói hai tham
thoại đó đã “ghép” với nhau trong một lƣợt lời. Kiểu ghép này còn gặp trong
điện thoại.
Sp1:- Alô!
Sp2:- Alô?
Sp1:- Văn phòng Công ty Mĩ phẩm đây. Giáosư Ngọc có nhà không
ạ?
Yếu tố “Alô?” thứ hai thƣờng đƣợc phát âm với ngữ điệu hỏi. Nó vừa
thực hiện tham thoại trả lời cho Alô của Sp1 vừa đặt câu hỏi cho Sp1, nghĩa
của từ này có thể là: “Tôi đây. Có việc gì thể?”.
+ Liên kết chéo. Đây là trƣờng hợp xảy ra khi mỗi nhân vật thực hiện
một số tham thoại khác nhau. Có hai trƣờng hợp thƣờng gặp:
Sp1:- Chịđã có gia đình chưa? Xin lỗi...
Sp2:- Có rồi ạ. Không sao ạ.
Có thể biểu diễn cặp thoại này bằng sơ đồ:
Chị có gia đình chưa?
Xin lỗi.
Có rồi ạ.
Không sao.
Trong cặp thoại này, Sp1 mở ra hai cặp thoại và Sp2trả lời hai cặp thoại đó
theo thứ tự mà Sp1đã định ra.
Sp1:- Đi đâu mà hớt hơ hớt hảithế?
22
25. Sp2:- Thếcòn cậu? Tớ đi học đây.
Sp1:- Thếhả? Tớ đi làm đây.
Thứ tự của các tham thoại trong hai cặp thoại chéo này không khớp với
nhau. Sp1 dẫn nhập một cặp thoại, Sp2 mở ra một cặp thoại khác sau đó mới
hỏi đáp tham thoại của Sp1.
+ Liên kết lồng. Đây là trƣờng hợp trong một cặp thoại bao trùm có
một hoặc một số cặp thoại con. Ví dụ:
(1)Sp1:- Báccó biết anh Tuấn ở đâu không ạ?
(2)Sp2:- Anh hỏi Tuấn nào? Tuấn khoa Sinh haykhoa Toán?
(3)Sp1:- Tuấn khoa Toán ạ.
(4)Sp2:- Tuấn ấyở nhà B3 tầng 4
Đoạn thoại này có cặp thoại lớn, chủ yếu là cặp thoại gồm tham thoại
(1) và (4) (hỏi / trả lời). Cặp thoại này bao trùm cặp thoại nhỏ hơn, có tính xác
minh gồm hai tham thoại (2), (3). Có thể biểu diễn liên kết lồng nhƣ sau:
Bác có
biết
Tuấn khoa Sinh hay khoa Toán?
Tuấn khoa Toán
Tuấn ấyở nhà B3
Tối naycậu đến dự dạ hội của minh chứ?
Lạ i có trƣờng hợp lồng nhƣ sau:
Tớ có thể dẫn bạn đến không?
Trai haygái?
Trái haygái có gì là quan trọng?
Ờ, đấylà vấn đề cân đối thôi mà
Bạn gái.
Ồ, tuyệt lắm! 23
Nhấtđịnh tớ sẽ tới với các cậu
26. Trong đoạn thoại này, một cặp thoại lớn bao gồm một cặp thoại nhỏ;
cặp thoại nhỏ này lại bao gồm một cặp thoại nhỏ hơn. Tham thoại hồi đáp cấu
thành cặp thoại chính đƣợc phát ngôn cuối cùng, khoá cặp thoại lồng lại.
Dƣới đây là một số trƣờng hợp liên kết lồng nữa dẫn làm ví dụ mà
không phân tích:
<1> Sp1: - Giáo sư có nhà không ạ?
Sp2:- Chịđến về luận án à?
Sp1:- Vâng, cháu đến đểđưa tài liệu cho Giáo sư.
Sp2:- Có, Giáo sự có nhà đấy, vào đi.
<2> Sp1:- Xin lỗi, chị bao nhiêu tuổi?
Sp2:- 28 tuổi. Không sao cả.
<3> Sp1:- Chịbao nhiêu tuổi? Xin lỗi nhé.
Sp2: - Chẳng sao. 28 tuổi.
<4> Sp1: - Chịcho một vé đi Sài Gòn
Sp2:- Vế ngồi hay vé giường nằm?
Sp1:- Vé giường nằm.
Sp2:- Đây ạ.
<5> Sp1:- Anh cho biết xe này mấy lít một trăm cây số?
24
27. Sp2:- 100 cây số! Anh muốn hỏi đường trường haytrong
thành phố?
Sp1:- Đường trường.
Sp2:- Một.
1.6.3. Tính chất các cặp thoại
Goffman là ngƣời đầu tiên nêu ra trong số các cặp thoại hai kiểu đặc
biệt, đƣợc gọi là cặp thoại củng cố và cặp thoại sửa chữa. Hai kiểu này mang
tính chất nghi thức của sự giao tiếp thông thƣờng.
+ Cặp thoại củng cố tƣơng ứng với cặp thoại dẫn nhập và kết thúc cuộc
thoại. Đó là những cặp thoại đƣợc cấu tạo từ các tham thoại có tính chất biểu
thái nhƣ lời chào hỏi. Ví dụ:
Sp1:- Chàoanh.
Sp2:- Chàoanh.
Sp1:- Khoẻ chứ?
Sp2:- Cám ơn. Khoẻ. Còn cậu thế nào?
Những cặp thoại này thƣờng có cấu trúc đôi, đơn giản. Chúng kết thúc
với sự chấp nhận của ngƣời đối thoại một cách ứng xử tƣơng tự nhƣ cách
ứng xử của ngƣời phát ngôn thứ nhất, điều này có nguồn gốc từ cách ứng xử
ít nhiều nghi thức hoá, “lễ nghi hoá” trong xã hội. Gọi chúng là những cặp
thoại củng cố vì nhờ chúng quan hệ xã hội đƣợc thiết lập và củng cố để chuẩn
bị cho các quan hệ khác. Tính chất nghi thức của chúng thể hiện ở chỗ các
nhân vật hội thoại dùng các công thức giao tiếp sẵn có, không phải trả lời
đúng theo nghĩa câu chữ của tham thoại của ngƣời đối thoại. Khi tham thoại
hồi đáp trƣợt ra khỏi công thức, lúc đó nó có thể đóng vai trò dẫn nhập cho
một cặp thoại khác. Ví dụ:
Sp1:- Thếnào? Khoẻ không?
25
28. Sp2:- Mình mới ở bệnh viện về.
Sp1:- Cậu phảinằm bệnh viện à? Thế mà mình không biết. Đau
gì đấy?
...
Có thể nói, các tham thoại theo công thức là các tham thoại không có
dấu hiệu. Còn các tham thoại trƣợt khỏi công thức là các tham thoại có dấu
hiệu.
+Tham thoại sửa chữa
Tham thoại sửa chữa dựa trên khái niệm về sự sửa chữa lại một sự vi
phạm lãnh địa của ngƣời đối thoại. Ví dụ tiêu biểu nhƣ sau:
Sp1 (dẫm phảichân củaSp2): - Xin lỗi.
Sp2 : - Không sao.
Hoạt động sửa chữa có tác dụng khôi phục lại sự cân bằng trong giao
tiếp mà sự vi phạm lãnh địa đã làm cho nó mất đi. Sự cân bằng này nếu không
đƣợc khôi phục cuộc thoại có thể phải chuyển hƣớng, đứt quãng, hay không
thể tiến hành đƣợc. Ví dụ khác:
Sp1:- Xin lỗi chị, chị có thể cho biết ga Hàng Cỏở đâu không ạ?
Sp2:- Có gì đâu, ga Hàng Cỏ ở ngã tư bên trái kia
Sp1 phải xin lỗi Sp2 bởi vì đặt câu hỏi cho Sp2 là làm phiền Sp2, vi
phạm đến quyền, đến lãnh địa hội thoại của Sp2 (Sp2 có quyền “im lặng”,
chúng ta đã biết hiệu lực ở lời, hỏi ai tức là đặt ngƣời đó vào trách nhiệm phải
trả lời, mà đặt ai vào trách nhiệm phải trả lời tức là vi phạm đến quyền tự do
nói của anh ta)
+ Cặp thoại tiêu cực
Khi một cặp thoại thoả mãn đƣợc đích của tham thoại dẫn nhập (nói
đúng hơn thoả mãn đƣợc đích của hành vi thực hiện tham thoại dẫn nhập) thì
26
29. đó là một cặp thoại tích cực. Cặp thoại tích cực là những cặp thoại bình
thƣờng và ngƣời ta có thể kết thúc cặp thoại ở đó. Tuy nhiên, có những
trƣờng hợp cặp thoại tiêu cực khi tham thoại hồi đáp đi ngƣợc lại với đích
của tham thoại dẫn nhập. Đây là những trƣờng hợp đƣợc xem là không bình
thƣờng. Kiểu cặp thoại này đáng chú ý do tính chất không bình thƣờng đó.
Trong trƣờng hợp này, cặp thoại có thể kéo dài để hoặc có thể kết thúc bằng
sự bất đồng, sự thất bại dứt khoát hoặc bằng cách xoay chuyển tình thế;
chuyển từ tiêu cực sang tích cực. Ví dụ:
Sp1 (nói với cô bạn gáitên Hạnh):
(1)– Tối nayTiến nói với mình là sẽ đến thăm Hạnh đấy. Cậu ở nhà
chứ?
Sp2(Hạnh):
(2)– Tớ chẳng gặp anh ấyđâu. Anh ấy hâm lắm.
Sp1:
(3)– Anh chàng nàomới làm quen với bạn gáimà chả hâm. Vả lại,
cũng cần phảibiết anh ta có hâm thật không chứ!
Sp2 (ngần ngừmột lát):
(4)– Ừ, cậu nói cũng có lí. Tớ sẽ ở nhà đợi “hắn ta”.
Cặp thoại này đáng lẽ kết thúc một cách tiêu cực với tham thoại hồi đáp
(2). Nhƣng vì nó tiêu cực cho nên Sp1 tiếp tục thuyết phục để cuối cùng kết
thúc một cách tích cực cặp thoại do mình khởi xƣớng.
Thông thƣờng một cặp thoại ít khi kéo dài đến năm, sáu tham thoại.
Tuy nhiên sự có mặt các tham thoại tiêu cực làm cho cấu trúc và chức năng
của các cặp thoại trở nên phức tạp, khó miêu tả.[12,tr.639]
1.7. Phép lịch sự trong giao tiếp
27
30. Lịch sự là nhân tố quan trọng trong giao tiếp xã hội, nó tác động trực
tiếp tới quá trình giao tiếp và kết quả giao tiếp. Vấn đề này đã đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu ngôn ngữ đề cập tới trong các công trình của mình. Trong luận
văn này, chúng tôi chỉ đề cập tới quan điểm về lịch sự của một số tác giả:
R.Lakoff, G.Leech, P.Brown và S.Levinson theo cách dịch của Đỗ Hữu Châu
trong cuốn “Đỗ Hữu Châu tuyển tập, tập II”.
a. Quan điểm về phép lịch sự của R.Lakoff:
Theo nữ tác giả này, lịch sự là tôn trọng lẫn nhau. Nó bao gồm các biện
pháp dùng để giảm bớt trở ngại trong tƣơng tác giao tiếp giữa các cá nhân.
Đó là:
+ Quy tắc không áp đặt: Theo quy tắc này, ngƣời nói sẽ tránh hoặc
giảm nhẹ khi yêu cầu ngƣời nghe làm một việc gì đó mà ngƣời nghe không
muốn làm.
+ Quy tắc dành cho ngƣời nghe sự lựa chọn. Quy tắc này hoạt động khi
những ngƣời hội thoại bình đẳng với nhau, nhƣng không gần gũi về quan hệ
xã hội. Dành cho ngƣời nghe sự lựa chọn có nghĩa là nói làm sao cho quan
điểm hay yêu cầu của mình có thể đƣợc biết đến, mà không bị chống lại hay
từ chối.
+ Quy tắc hãy khuyến khích tình cảm bạn bè. Trong phép lịch sự bạn bè,
hầu nhƣ những đề tài cấm kỵ, những nỗi niềm riêng tƣ không đƣợc đƣa ra
để nói.
b. Quan điểm về lịch sự của G.Leech:
G.Leech dựa trên khái niệm tổn thất và lợi ích, bao gồm một số phƣơng
châm.
+ Phƣơng châm khéo léo: đó là biện pháp giảm thiểu những điều bất
lợi tăng tối đa điều có lợi cho ngƣời nghe (trong những phát ngôn cầu khiến
hay cam kết).
28
31. + Phƣơng châm tán đồng nhằm giảm bớt sự chê bai, đồng thời tăng tối
đa sự khen ngợi ngƣời nghe (trong phát ngôn biểu cảm).
+ Phƣơng châm độ lƣợng: giảm thiểu lợi íchcủa mình, tăng tối đa tổn
thất của mình (trong phát ngôn cầu khiến hay cam kết).
+ Phƣơng châm khiêm tốn: giảm thiểu tự khen mình, tăng tối đa sự chê
bai mình.
+ Phƣơng châm tán đồng: giảm thiểu sự bất đồng, tăng tối đa sự tán
đồng giữa mình với ngƣời khác (trong phát ngôn xác tín)
+ Phƣơng châm thiện cảm: giảm thiểu ác cảm, tăng tối đa thiện cảm
giữa mình với ngƣời khác (trong phát ngôn xác tín).
c. Quan điểm về lịch sự của P.Brown và S.Levinson:
Quan điểm về lịch sự của hai tác giả này đƣợc mở rộng từ nguyên tắc
tôn trọng thể diện mà E.Goffman đề xƣớng sẽ đƣợc trình bày ở mục sau.
1.7.1. Lịchsự dương tính trong giaotiếp
Lịch sự dƣơng tính theo cách hiểu của Brown và Levinson là:
“… một sự đền bù cho thể diện dương tính của người nghe, cho mong
muốn thường trực của người ấy là các nhu cầu của người ấy (hoặc các
hành động, cácđòi hỏi, các giá trị xuất phát từ chúng) cần được coi là
điều đáng mong muốn. Sự đền bù được hiện lộ ở việc một phần thoả
mãn mong muốn đó bằng cách thể hiện rằng các nhu cầu của bản thân
ta (hoặc một vài trong số các nhu cầu đó), ở một số khía cạnh, là tương
tự như các nhu cầu của người nghe”.[104, tr.101]
Yule làm rõ khái niệm này khi ông gắn kết nó với sự thân tình, với sự
gần gũi về khoảng cách giữa các bên giao tiếp.
“Một hành động giữ gìn thể diện có liên quan đến lịch sự dương tính
của ta sẽ có xu hướng tỏ ra thân tình; nó nhấn mạnh rằng cả hai người
đều mong muốn cùng một điều, và rằng họ có cùng một mục đích. Đây
cũng được gọi là lịch sự dương tính”.[128, tr.62]
29
32. Còn Nguyễn Quang khi xét theo chức năng của lịch sự dƣơng tính
trong giao tiếp thì cho rằng:
“Lịch sự dương tính là bất cứ hành vi nào (Cả ngôn từ và phi ngôn từ)
được tạo lập một cách phù hợp để biểu lộ sự quan tâm của người nói
đối với người nghe, và do vậy, nâng cao tình thân hữu giữa người nói
và người nghe”.[73, tr.24]
Lịch sự dƣơng tính có thể đƣợc hiểu nôm na là các biểu hiện „tỏ ra
quan tâm đến ngƣời khác‟. Xét theo hệ hình quan hệ, nó là việc kéo gần lại
khoảng cách giữa ngƣời nói và ngƣời nghe, tạo lập ngữ nghĩa thân hữu giữa
các đối tác giao tiếp. Lịch sự dƣơng tính có ba biểu hiện chính:
- Xác địnhcái chung (claim common ground).
- Chỉ ra rằng người nói và người nghe đều có tinh thần hợp tác
(convey that S and H are cooperators).
- Thoả mãn nhu cầu của người nghe về một cái/điều gì (fulfil H‟s want
for some X).
Trong cuốn “ Một số vấn đề giao tiếp nội văn hoá và giao văn hoá”
Nguyễn Quang cũng đã tìm ra 17 chiến lƣợc lịch sự dƣơng tính đƣợc sử
dụng trong giao tiếp đó là:
- Để ý đến ngƣời nghe
- Nói phóng đại
- Tăng cƣờng hứng thú cho ngƣời nghe
- Sử dụng các dấu hiệu nhận diện đồng nhóm
- Tìm kiếm sự đồng ý, đồng tình.
- Tránh bất đồng
- Cho rằng, tỏ ra rằng hay khẳng định rằng ngƣời nói và ngƣời nghe có
cùng quan điểm
- Nói đùa
- Khẳng định hoặc cho rằng ngƣời nói biết về, hay quan tâm đến, các
nhu cầu của ngƣời nghe
30
33. - Mời mọc và hứa hẹn.
- Tỏ ra lạc quan.
- Lôi cuốn cả ngƣời nói và ngƣời nghe vào cuộc.
- Hỏi hoặc nêu lí do
- Có đi có lại.
- Trao tặng và chia sẻ
- An ủi, khích lệ.
- Thăm hỏi chuyện riêng tƣ.
1.7.2. Lịchsự âm tính trong giaotiếp
Lịch sự âm tính, theo định nghĩa của Brown và Levinson là:
“…một hành động đền bù cho thể diện âm tính của người nghe: nhu
cầu của anh ta rằng việc tự do hành động của mình không bị ngăn
chặn và sự lưu tâm của mình không bị cản trở.”[104, tr.129]
Để làm rõ thêm sự khác nhau giữa lịch sự âm tính và lịch sự dƣơng
tính, hai ông cho rằng:
“…Lịch sự âm tính là tâm điểm của hành vi tôn trọng, cũng như lịch sự
dương tính là cốt lõi của hành vi “thân tình” và “vui đùa”. Lịch sự âm
tính tương thuận với “các lễ thức âm tính” (negative rites), đó là các lễ
thức né tránh, của Durkheim. Trong khi lịch sự dương tính thoáng hoạt
thì lịch sự âm tính lại rành mạch và tập trung; nó thực hiện chức năng
làm giảm thiểu sự áp đặt cụ thể mà hành động đe doạ thể diện tạo ra
một cách bất khả kháng”[104, tr.129]
Nhƣ vậy, theo hai ông có thể so sánh khái niệm “lịch sự âm tính”với
khái niệm “lịch sự dƣơng tính” trong dải tiếp diễn “Tôn trọng- Thân tình”. Về
bản chất đây chính là sự kết hợp giữa dải tiếp diễn “Xa cách – Gần gũi” trong
hệ hình “khoảng cách” và dải tiếp diễn “Quyền lực – Thân hữu” trong hệ hình
“sức mạnh”.
Còn Yule lại gắn kết khái niệm này với tính phi thân hữu, sự tôn trọng
và vẻ xa cách giữa các đối tác giao tiếp:
31
34. “Một hành động giữ gìn thể diện có liên quan đến lịch sự âm tính của
ta sẽ có xu hướng tỏ ra tôn trọng, nhấn mạnh vào tầm quan trọng về
thời gian và sự quan tâm của người khác, và thậm chí bao gồm cả sự
xin lỗi vì đã áp đặt hoặc xen ngang. Đây cũng được gọi là lịch sự âm
tính”.[128, tr.62]
Nguyễn Quang xét theo chức năng của lịch sự âm tính trong giao tiếp
đã đƣa ra định nghĩa nhƣ sau:
“Lịch sự âm tính là bấtcứ loại hành vi nào (cả ngôn từ và phi ngôn từ)
được tạo lập một cách phù hợp để tỏ ra rằng người nói không muốn
xâm phạm vào sự riêng tư của người nghe, và do vậy, tạo ra một
khoảng cách nhất định giữa người nói và người nghe.”[73, tr.88]
Lịch sự âm tính có năm biểu hiện chính:
- Nói trực ngôn (Be direct)
- Không đoán định/thừa nhận (Don‟t presume/assume)
- Không ép buộc người nghe [ở nơi mà tình huống lôi kéo ngƣời nghe
làm một việc gì đó (Don‟t coerse H/where x involves H doing A)]
- Nêu ra nhu cầu của người nói là không muốn làm phiền người nghe
(Communicate S‟s want to not impinge on H)
- Đền bù các nhu cầu khác của người nghe, phátsinh từ thể diện âm
tính (Redress other wants of H‟s derivative from negative face)
Trong cuốn “ Một số vấn đề giao tiếp nội văn hoá và giao văn hoá”
Nguyễn Quang cũng đã tìm ra 11 chiến lƣợc lịch sự âm tính đƣợc sử dụng
trong giao tiếp đó là:
- Sử dụng gián tiếp ƣớc lệ.
- Đặt câu hỏi và sử dụng cách nói rào đón.
- Tỏ ra bi quan
- Giảm thiểu sự áp đặt
- Tỏ ra tôn trọng.
32
35. - Nhận lỗi.
- Tránh đề cập đến ngƣời nói và ngƣời nghe.
- Nêu ra hành động đe doạ thể diện nhƣ một nguyên tắc chung
- Sử dụng danh hoá.
- Nói công khai nhƣ thể ngƣời nói chịu ơn ngƣời nghe hoặc ngƣời nghe
không phải chịu ơn ngƣời nói.
- Tránh hỏi chuyện riêng tƣ.
Tóm lại, nếu “Lịch sự dƣơng tính” là “kéo gần lại khoảng cách giữa các
đối tác giao tiếp” thì “Lịch sự âm tính” là “giữ khoảng cách giữa các đối tác giao
tiếp”. Do vậy, “Lịch sự dƣơng tính” còn mang các tên gọi khác nhau nhƣ “Lịch
sự thân mật” (Intimate politeness), “Lịch sự gần gũi” (Close politeness)
… và “Lịch sự âm tính” còn có các cách gọi khác nhau nhƣ “Lịch sự tôn
trọng” (Deference politeness), “Lịch sự khoảng cách” (Distancing
politeness)…[73, tr.89].
1.8. Thể diện và hành vi đe doạ thể diện
1.8.1. Thểdiện
Brown và Levinson xây dựng lí thuyết lịch sự của mình trên khái niệm
thể diện (face) mƣợn của Goffman.
Thể diện đƣợc Brown và Levinson định nghĩa là: “hình ảnh – về – ta
công cộng mà mỗi thành viên (trong xã hội - ĐHC) muốn mình có đƣợc”.
Định nghĩa này đƣợc J.Thomas giải thích: “Thể diện nên đƣợc hiểu là cảm
giác về giá trị cá nhân của mỗi ngƣời hay là hình ảnh về ta. Cái hình ảnh này
có thể bị làm tổn hại, đƣợc giữ gìn hay đƣợc đề cao trong tƣơng tác” [125,
tr.196] G.Yule thì giải thích : “Thể diện là hình ảnh –về -ta công cộng của
một con ngƣời. Nó chỉ cái nghĩa cảm xúc và xã hội về ta (self) mà mỗi ngƣời
có và mong muốn ngƣời khác phải thừa nhận”. [128, tr.60]
Thể diện gồm hai phƣơng diện: Thể hiện âm tính và thể diện dƣơng
tính.
33
36. “Thể diện âm tính là mong muốn không bị can thiệp, mong muốn đƣợc
hành động tự do theo nhƣ cách mình đã lựa chọn.” (J.Thomas); nó là “nhu cầu
đƣợc độc lập, tự do trong hành động, không bị ngƣời khác áp đặt” (G.Yule); nó
bao gồm “quyền tự do hành động mà không bị can thiệp”. (G.M.Green).
Thể diện dƣơng tính là cái “đƣợc phản ánh trong ý muốn mình đƣợc
(ngƣời - ĐHC) ƣa thích, tán thƣởng, tôn trọng, đánh giá cao” (J.Thomas), là
“sự thoả mãn khi một giá trị của mình đƣợc tán thƣởng” (G.M.Green).
G.Yule giải thích cụ thể hơn: “Thể diện dƣơng tính của một ngƣời là cái nhu
cầu đƣợc chấp nhận, thậm chí đƣợc yêu thích bởi ngƣời khác, đƣợc đối xử
nhƣ là thành viên của cùng một nhóm xã hội (với những ngƣời khác - ĐHC)
và nhu cầu đƣợc biết rằng mong muốn của mình cũng đƣợc ngƣời khác chia
sẻ. Nói đơn giản thì thể diện âm tính là nhu cầu đƣợc độc lập còn thể diện
dƣơng tính đƣợc liên thông với ngƣời khác (to be connected). [128, tr.61]
C.K. Orecchioni cụ thể hoá thêm hai khái niệm thể diện âm tính và thể
diện dƣơng tính nhƣ sau:
“Tất cả các sinh thể xã hội đều có hai thể diện:
1. Thể diện âm tính tƣơng ứng với cái mà Goffman gọi là “lãnh địa của
cái tôi” – lãnh địa cơ thể, không gian, thời gian, tài sản vật chất hay tinh thần.
- Cái khái niệm lãnh địa này... đồng thời bao gồm cơ thể của một ngƣời
và những “phụ tùng” (nhƣ quần áo, túi, cặp, những vật riêng tƣ mà ai lục lọi
sờ mó đều khiến ta khó chịu).
- Tổng thể những tài sản vật chất của cá nhân (những cái “của tôi”: đĩa
ăn của tôi, xe của tôi, vợ của tôi,...) mà những ngƣời khác không đƣợc phép
động đến nếu không rõ ràng đƣợc phép của chủ nhân.
- Lãnh địa không gian: vị trí của tôi, “nhà mình”, cái “bầu trời” riêng tƣ
ở đó ta sống và sinh hoạt mà đƣờng kính của nó thay đổitheo những tham số
nhất định.
34
37. - Lãnh địa thời gian, đặc biệt là thời gian nói mà ngƣời nói cho là thuộc
về mình khi nói (mà những lời chen ngang của ngƣời khác đƣợc xem là xúc
phạm về nó)
- Dự trữ thông tin mà mỗi ngƣời có, những điều riêng tƣ của từng
ngƣời.
Theo nghĩa này thì không chỉ những khuyết tật của cá nhân nhƣ sự
nghèo khổ, tật nguyền, nhƣ cái sẹo to tƣớng của A.Q., mà cả sự giàu có, hạnh
phúc vợ đẹp con khôn của mỗi ngƣời cũng đều là thể diện âm tính, những cái
hễ ngƣời khác động chạm đến đều làm ta khó chịu nếu không đƣợc phép của
ta. Có những nỗi niềm mà ai vô tình nhắc tới dù xa xôi bóng gió cũng khiến ta
đau lòng. Có những bậc trí giả sống rất hào phóng, đạm bạc, không vụ lợi, thế
nhƣng lại hết sức xấu tính đối với những ngƣời vô tình hoặc cố ý “dám” xông
vào lĩnh vực nghiên cứu của mình, “dám” tỏ ra cũng hiểu biết nhƣ mình hay
hơn mình về lĩnh vực đó. Tục ngữ Việt Nam có câu: con gà tức nhau tiếng
gáy, có nghĩa là “con gà” “tức nhau” về “tiếng gáy” – về những lời nói trình
bày tƣ tƣởng, ý kiến,... về một vấn đề nào đấy mà mỗi “con gà” tự cho là
“thông thạo”.
Về thể diện dƣơng tính, C.K.Orecchioni viết: “Thể diện dƣơng tính nói
tổng quát tƣơng ứng với tính quá tự mê , với toàn bộ những hình ảnh tự đề
cao giá trị của mình mà những ngƣời hội thoại xây dựng nên về mình và cố
gắng áp đặt cho ngƣời trong tƣơng tác”. [12, tr.589]
Hai thể diện âm tính và dƣơng tính là hai mặt bổ sung cho nhau chứ
không phải tách biệt nhau. Hai thể diện này phát huy tác dụng theo lối “cộng
sinh với nhau”, có nghĩa là một sự vi phạm thể diện âm tính cũng đồng thời
làm mất thể diện dƣơng tính. Khi ta lục lọi ví dụ cái túi xách của một cô bạn
trƣớc mặt mọi ngƣời, ta làm mất thể diện âm tính của cô bạn đồng thời cũng
khiến cho thể diện dƣơng tính của cô ta bị tổn hại. (Ngƣời ta sẽ đặt câu hỏi:
Để ngƣời ta “lục lọi” đồ dùng của mình thì cô là ngƣời thế nào?). Khi một
chàng trai tặng cho một cô gái bó hoá, anh bạn này làm tổn hại đến thể diện
35
38. âm tính của mình nhƣng (có thể) làm tăng thể diện dƣơng tính của mình
(nhƣng coi chừng, nếu cô bạn từ chối hoặc nhận một cách lạnh nhạt thì thể
diện dƣơng tính của anh ta cũng mất nốt). Đồng thời cô gái đƣợc hƣởng lợi
ích về thể diện dƣơng tính nhƣng thể diện âm tính của cô ta có thể bị xúc
phạm (Ngƣời ngoài cuộc nghĩ thế nào về cô ta khi cô ta để cho một chàng trai
xa lạ tặng hoa. Vì thể diện âm tính của ngƣời đƣợc tặng có khi bị xúc phạm
cho nên ngƣời này phải cứu vớt danh dự bằng cách từ chối, tức là làm mất thể
diện dƣơng tính của ngƣời tặng).
Orecchioni cho rằng trong một cuộc tƣơng tác có bốn thể diện:
- Thể diện dƣơng tính của ngƣời nói
- Thể diện âm tính của ngƣời nói
- Thể diện dƣơng tính của ngƣời nghe
- Thể diện âm tính của ngƣời nghe.
Cả bốn thể diện này đều đƣợc đƣa vào “cuộc chơi” (cuộc giao tiếp).
1.8.2. Hànhvi đedoạ thể diện
Trên cơ sở khái niệm thể diện, lịch sự đƣợc G.Yule định nghĩa lại nhƣ
sau: “Lịch sự trong tƣơng tác có thể đƣợc xác định là những phƣơng thức
đƣợc dùng để tỏ ra rằng thể diện của ngƣời đối thoại với mình đƣợc thừa
nhận và tôn trọng.” [128, tr.60]. Hay định nghĩa của G.Green: “Lịch sự chỉ bất
cứ phƣơng thức nào đƣợc dùng để tỏ ra lƣu ý đến tình cảm (feelings) hay là
thể diện của nhau trong hội thoại, bất kể khoảng cách xã hội giữa ngƣời nói
và ngƣời nghe nhƣ thế nào” [113, tr.145]
Trong tƣơng tác bằng lời và không bằng lời, chúng ta phải thực hiện
những hành động, những hành vi ngôn ngữ nhất định. Đại bộ phận các hành
vi ngôn ngữ - thậm chí có thể nói tất cả - đều tiềm ẩn khả năng làm tổn hại
đến bốn thể diện kể trên nhƣ ví dụ về sự tặng hoa vừa dẫn. Brown và
Levinson gọi chúng là các hành vi đe doạ thể diện – Face Threatening acts,
viết tắt FTA, một công thức viết tắt đã đi vào bảng mục từ của “lịch sự luận”.
Có những hành vi:
36
39. - Đe doạ thể diện âm tính của ngƣời thực hiện nó nhƣ hành vi tặng
biếu, hứa hẹn.
- Đe doạ thể diện dƣơng tính của ngƣời thực hiện nhƣ thú nhận, cám
ơn, xin lỗi, tự phê bình
- Đe doạ thể diện âm tính của ngƣời tiếp nhận. Đó là những hành vi phi
lời nhƣ vi phạm không gian, sờ mó không đƣợc phép, nhìn uy hiếp ngƣời ta,
gây ồn ào, phun mùi khói thuốc lá, chen hàng... Những hành vi ngôn ngữ nhƣ
khuyên nhủ dặn dò, chỉ vẽ quá mức, đƣa ra những câu hỏi tò mò vào đời tƣ
của ngƣời ta, hỏi không đúng lúc khiến ngƣời ta phải ngừng suy nghĩ, ngừng
công việc, cả ngừng “nghỉ ngơi” để trả lời, những lời gợi ý không ai nhờ, lối
chen ngang, nói chặn, nói hớt, ngắt lời, nói leo.
Đe doạ thể diện dƣơng tính của ngƣời nhận nhƣ phê bình, chê bai,
chửi bới, chế giễu...
Cần lƣu ý là một hành vi đe doạ thể diện không chỉ đe doạ một thể
diện. Nó có thể đồng thời đe doạ một số trong bốn thể diện đã biết. Trở lại
hành vi biếu tặng. Đối với ngƣời biếu đe doạ thể diện âm tính ( làm “tốn
tiền”) nhƣng có thể gia tăng thể diện dƣơng tính (ngƣời biếu tặng tỏ ra là
“giàu”, rộng rãi, biết ơn...). Đối với ngƣời đƣợc tặng, nó gia tăng thể diện
dƣơng tính, mở rộng lãnh địa tài sản của ngƣời này nhƣng đồng thời cũng là
cái nợ cho ngƣời đƣợc tặng, thậm chí nó còn đe doạ thể diện dƣơng tính của
ngƣời đƣợc tặng một cách nặng nề nếu nó đƣợc thực hiện trƣớc mặt một số
ngƣời vì nhiều lí do không khó giải thích.
Chính vì hội thoại là thực hiện các hành vi ở lời mà hành vi ở lời đều
tiềm ẩn khả năng đe doạ thể diện cho nên lịch sự trong giao tiếp chủ yếu là sự
điều phối các thể diện bằng các hành vi ngôn ngữ. Trong hội thoại những đối
tác đều thể hiện mong muốn đƣợc giữ thể diện (Face Want). Mong muốn giữ
thể diện có nghĩa là xử sự làm sao cho hình ảnh – về – ta công cộng của mình
đƣợc tôn trọng (mà tôn trọng thể diện của mình cũng là tôn trọng thể diện của
ngƣời). Việc thực hiện mong muốn giữ thể diện đƣợc thực hiện bằng cái gọi
37
40. là Face Work – chúng tôi tạm dịch là hoạt động thể diện. Hoạt động thể diện
là “tất cả những điều mà một ngƣời phải làm để nhằm làm sao cho hành động
của anh ta không làm mất thể diện cho ai cả kể cả thể diện của chính mình.”
(Goffman, dẫn theo [122, tr.174])
Khi thực hiện một hoạt động hay một hành vi ở lời nào đó đƣợc xem là
có khả năng làm mất thể diện của đối tác thì ngƣời nói tìm cách làm dịu tác
động đe doạ thể diện của nó đi bằng những hành vi mà Brown và Levinson
gọi là giữ thể diện (face saving act). Ví dụ đêm khuya, bị đám thanh niên hàng
xóm ca hát ầm ĩ, ông chồng bực tức bảo vợ:
- Phảisang bảo chúng nóim ngay, đừng có vô văn hoá như thế nữa.
Nhưng bà nói với chồng:
- Thôi, ông có sang thì hãy hỏi chúng nó xem đã có thể thôi hát được
chưa vì đã khuya rồi.
So với cách nói đe doạ thể diện đám trẻ của ông chồng thì lời nói của
bà vợ là một hành vi giữ thể diện cho chúng (và cũng cho chính ông chồng
nữa).
Tuy nhiên, không phải chỉ khi nào có hành vi đe doạ thể diện chúng ta
mới có hành vi giữ thể diện. Bản thân các hành vi ngôn ngữ tự chúng không
phải bao giờ cũng chỉ có hiệu quả đe doạ thể diện. Rất nhiều hành vi ngôn
ngữ khi thực hiện lại có hiệu quả làm gia tăng sự tôn trọng thể diện của cả
ngƣời tiếp nhận và ngƣời nói. Trong cuốn La conversation C.K. Orecchioni
đề xuất khái niệm “Hành vi tôn vinh thể diện” – Face flattering acts, viết tắt là
FFA. Những hành vi nhƣ khen ngợi, cám ơn là những hành vi tôn vinh thể
diện của đối tác, của ngƣời tiếp nhận. Hành vi tôn vinh thể diện là các hành vi
phản - đe doạ thể diện (anti – FTA).
Nhƣ đã biết, sự gia tăng thể diện và sự mất thể diện đi đôi với nhau
nhƣ hình với bóng cho nên sự đe doạ thể diện cũng luôn luôn đồng hành với
sự tôn vinh thể diện. Đe doạ và tôn vinh thể diện là hai mặt tác động của hành
vi ngôn ngữ đối với thể diện của các đối tác trong giao tiếp.
38
41. 1.9. Văn hoá, ngôn ngữ và đặc trƣng văn hoá- dân tộc của nó; giao thoa
văn hoá
1.9.1. Văn hoá
Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hiện tƣợng đƣợc
gọi là Văn hoá. Chẳng hạn, F.Boas định nghĩa văn hoá nhƣ một tổng các mặt
phi sinh vật của đời sống con ngƣời, còn V.Gudinaf lại coi văn hoá không
phải là hiện tƣợng vật chất, mà là một tổng thể nhất định các tri thức hoặc mô
hình giải thuyết cái mà con ngƣời nói ra và làm ra.( theo bản dịch của Nguyễn
Đức Tồn [90,tr.15]).
Hiện tƣợng tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá nhƣ vậy là
do hai nguyên nhân cơ bản. Nguyên nhân thứ nhất là do tính đa diện của nó.
Nguyên nhân thứ hai là do các nhà nghiên cứu thƣờng tách từ văn hoá các
mặt khác nhau cho phù hợp với mục đích nghiên cứu riêng của mình.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Đức Tồn, các định nghĩa về văn hoá có thể
đƣợc chia thành hai nhóm chính. Nhóm thứ nhất bao gồm các định nghĩa
hƣớng vào vấn đề: Văn hoá là gì? Nó gồm những thành tố nào? Nhóm thứ hai
lại gồm các định nghĩa hƣớng vào trả lời các câu hỏi: Văn hoá là gì? Các
chức năng của nó là nhƣ thế nào?
Luận văn này sử dụng định nghĩa đƣợc ghi trong Từ điển bách khoa Xô
- viết: : “ Văn hoá là một tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần được con
người tạo ra và được phát triển theo lịch sử, khác với các đối tượng của tự
nhiên” (theo bản dịch của Nguyễn Đức Tồn [90, tr.16]). Định nghĩa này thể
hiện nhiều điểm nhất trí chung của các nhà nghiên cứu Xô- viết trƣớc đây: hai
nguyên tố cơ bản- văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần- tạo nên một hiện
tƣợng chung đƣợc gọi là văn hóa. Có thể hiểu văn hoá vật chất là toàn bộ
những kết quả vật chất “nhìn thấy đƣợc” của lao động con ngƣời. Còn văn
hoá tinh thần, theo thuật ngữ của chính trị kinh tế học, là sự sản xuất, phân
phối và tiêu dùng các giá trị tinh thần.
39
42. Tóm lại, nhƣ một nhà nghiên cứu Xô- viết đã nói: văn hoá với tƣ cách
là một hiện tƣợng xã hội - bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần đã và
đang đƣợc một cộng đồng ngƣời tích luỹ. Nó “đóng vai trò quan trọng trong
việc hình thành từng cá nhân con ngƣời riêng lẻ” (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn
[90, tr.17]).
1.9.2. Ngôn ngữvà đặctrưng văn hoá- dân tộc của nó
Nhƣ trên đã nói, văn hoá bao gồm văn hoá vật chất và văn hoá tinh
thần. Ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng thuộc thành tố văn hoá
tinh thần. Nó đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình hình thành, phát
triển cũng nhƣ lƣu giữ và kế thừa các yếu tố khác của văn hoá. Nó không
những là thành phần thiết yếu tạo nên nét đặc trƣng vốn có của dân tộc mà nó
còn là dấu hiệu chính để phân ly một dân tộc.
Trong quá trình quốc tế hoá nhƣ hiện nay, sự giao lƣu hội nhập không
những về kinh tế, xã hội mà cả về văn hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì vai trò
của ngôn ngữ cũng ngày một trở nên quan trọng. Ngôn ngữ không những
đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình này phát triển không ngừng mà bản
thân ngôn ngữ cũng có những sự biến đổi nhất định vì chính bản thân nó là
một thành tố của văn hoá. Nhƣ một nhà nghiên cứu Xô-viết đã nói: “ Ngôn
ngữ là tấm gƣơng thực sự của nền văn hoá dân tộc”. (dẫn theo Nguyễn Đức
Tồn [90, tr.23])
Tóm lại, ngôn ngữ là yếu tố văn hoá quan trọng hàng đầu mang sắc thái
dân tộc rõ nhất. Tuy nhiên, ngoài ngôn ngữ, còn có các thành tố khác của văn
hoá cũng mang đặc trƣng dân tộc nhƣ phong tục, tập quán, truyền thống
v.v… Chính sự đặc thù của văn hoá đƣợc biểu hiện trong ngôn ngữ đã quy
định đặc trƣng văn hoá - dân tộc của hành vi nói năng ở những ngƣời thuộc
cộng đồng văn hoá - ngôn ngữ khác nhau.[90, tr.23].
40
43. 1.9.3. Giao thoa văn hoá
Weinreich khi nghiên cứu việc sử dụng ngôn ngữ của những ngƣời
song ngữ và đa ngữ đã phát hiện thấy sự va chạm, tác động và xâm nhập lẫn
nhau giữa các ngôn ngữ trong quá trình tiếp xúc và ông đã đi đến nhận xét:
Một số nhà nhân chủng học ghi nhận rằng tiếp xúc ngôn ngữ là
một phương diện của tiếp xúc văn hoá, sự giao thoa ngôn ngữ là một
mặt của quá trình lan toả và tiếp xúc văn hoá. [126, tr.1]
Lado khi nghiên cứu so sánh đốichiếu giữa các ngôn ngữ cũng có nhận
xét tƣơng tự. Ông viết:
Các cá thể có xu hướng chuyển các dạng thức(form), ý
nghĩa(meaning)và sự phân bố (distribution) các dạng thức và ý nghĩa
của ngôn ngữ và văn hoá bản ngữ sang ngôn ngữ và văn hoá nước
ngoàicả trong lúc sản sinh lời nói và ứng xử trong nền văn hoá đó lẫn
trong lúc tiếp thụ ngôn ngữ khi họ tìm cách nắm vững, hiểu ngôn ngữ
và văn hoá như người bản ngữ.[116, tr.4]
Ở Việt Nam, Bùi Khánh Thế(1997) và Hồ Lê(1999) cũng đã quan tâm
nghiên cứu về tiếp xúc ngôn ngữ và giao thoa văn hoá. Theo Bùi Khánh Thế:
“Sự giao thoa ngôn ngữ bao trùm lên mọi trƣờng hợp vay mƣợn và liên quan
tới mọi bậc cơ sở ngôn ngữ: ngữ âm- âm vị, ngữ nghĩa, từ vựng, ngữ pháp”.
Hồ Lê[49, tr.363] cũng đã chỉ ra khá rõ những biểu hiện của hiện tƣợng giao
thoa văn hoá. Theo ông, trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ có hiện tƣợng giao
thoa văn hoá. Biểu hiện của hiện tƣợng tiếp biến văn hoá giữa ngôn ngữ A và
ngôn ngữ B, theo quan điểm ngôn ngữ học, chính là sự giao thoa. Ông cho
rằng biểu hiện của sự tiếp biến văn hoá giữa ngôn ngữ A và ngôn ngữ B là sự
xâm nhập nhau giữa ngôn ngữ A và ngôn ngữ B về các phƣơng diện ngữ âm,
từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp và về cách ứng xử trong giao tiếp.
Vào cuối những năm 80 trở lại đây, khi giao tiếp quốc tế ngày càng
phát triển, các nhà nghiên cứu trên thế giới: Samovar và Porter(1982):
Pride(1985); Kolhs và Knight(1994); Wlugstig và Oester(1996) ở Mỹ; Tôn
41
44. Diễn Phong (ở Trung Quốc) và trong nƣớc Nguyễn Quang(1998,2000) đã bắt
đầu quan tâm nghiên cứu đến nhiều quá trình giao tiếp quốc tế và thuật ngữ
“giaothoa văn hoá” đã bắt đầu đƣợc sử dụng rất nhiều. Hầu hết những ngƣời
sử dụng thuật ngữ giao thoa văn hoá đều mặc nhiên công nhận nó và không ai
quan tâm đến việc định nghĩa nó. Thực chất, “giao thoa (interference) là một
thuật ngữ đƣợc sử dụng trong vật lí học dùng để chỉ hiện tƣợng hai hay nhiều
làn sóng làm tăng cƣờng hay làm yếu lẫn nhau khi gặp nhau tại cùng một
điểm”[65, tr.37-38]. Khái niệm này đƣợc vay mƣợn vào lĩnh vực ngôn ngữ
để chỉ sự tác động qua lại trong quá trình tiếp xúc giao lƣu ngôn ngữ - văn
hoá giữa hai hoặc nhiều cộng đồng ngôn ngữ. Trong luận văn này, chúng tôi
sử dụng định nghĩa của Phạm Đăng Bình:
Hiện tượng giao thoa văn hoá trong quá trình giao tiếp
liên ngôn(tiếp xúc ngôn ngữ) diễn ra theo hai chiều. Đó là sự lan toả,
tiếp biến du nhập văn hoá trong quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ
thông qua người biết và sử dụng ngoại ngữ. Biểu hiện cụ thể của hiện
tượng giao thoa văn hoá là sự di chuyển, sự tiếp nhận, vay mượn, sao
chép, bắtchước, mô phỏng, phủ nhậnhoặcbài xích các giá trị văn hoá
hiện hữu trong ngôn ngữ nguồn hoặc ngôn ngữ đích trong quá trình
giao tiếp liên ngôn.[2, tr.27]
1.10. Tiểu kết
Để làm chỗ dựa về mặt lý luận cho những nghiên cứu ở chƣơng 2 và
chƣơng 3, thì một số vấn đề cơ sở lý thuyết ở chƣơng 1 là không thể thiếu.
Những vấn đề đã đƣợc trình bày là những vấn đề cơ bản của ngữ dụng học
nhƣ hành vi ngôn ngữ, phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi...
Để nghiên cứu hành vi từ chối trong tiếng Nhật thì không thể tách rời
khỏi việc nghiên cứu hiện tƣợng này trong hội thoại, do đó các lý thuết về hội
thoại cũng đã đƣợc trình bày ở đây. Đó là những vấn đề nhƣ lƣợt lời, tham
thoại, cặp thoại...
42
45. Đồng thời hành vi từ chối trong tiếng Nhật sẽ đƣợc nghiên cứu dƣới
góc độ tìm ra những đặc điểm về ngôn ngữ- văn hóa, một vấn đề mang tính
chất liên ngành. Vì vậy, nhất thiết phải có những cơ sở lý thuyết có liên quan
nhƣ phép lịch sự, thể diện, văn hoá, ngôn ngữ và đặc trƣng văn hoá dân tộc
của nó...Những nền tảng lý thuyết này đã đƣợc trình bày trong chƣơng 1.
Các chiến lƣợc từ chối thể hiện nét văn hoá trong giao tiếp của ngƣời
Nhật nhƣ thế nào, đặc biệt họ chú ý tới phép lịch sự trong giao tiếp ra sao,
điều này đƣợc liên hệ với tiếng Việt nhƣ thế nào, kết quả khảo sát hành vi từ
chối trên các nghiệm thể Nhật- Nhật và Việt- Nhật ra sao, chúng có ý nghĩa gì
là những nội dung chính sẽ đƣợc trình bày ở chƣơng 2 và chƣơng 3.
43
46. Chƣơng 2
MỘT SỐ CHIẾN LƢỢC TỪ CHỐI TRONG TIẾNG
NHẬT ( LIÊN HỆ VỚI TIẾNG VIỆT )
2.1. Hành vi từ chối và chiến lƣợc từ chối
2.1.1. Hànhvi từ chối
Một số nhà nghiên cứu nhƣ: Searle (1969), Bach & Harnish
(1984), Hurford & Heasley (1985)… đã bỏ qua “từ chối “ nhƣ một động từ
ngữ vi. Có thể do họ đã không chú ý lắm đến các động từ ngữ vi thuộc phía
“phản ứng” (trong mô hình “kích thích – phản ứng” khái quát của lý thuyết
hành vi ngôn ngữ), mà chỉ tập trung chú ý nhiều vào các động từ ngữ vi/ hành
vi ngôn ngữ thuộc phía “kích thích”.
Tuy nhiên, trong một số công trình khác lại có sự ghi nhận “từ chối”
nhƣ là một động từ ngữ vi (chẳng hạn, xem Yule [128, tr.12]).
Mặc dù vậy, điều quan trọng ở đây là các phát ngôn từ chối, với tƣ cách là
một hành vi giao tiếp, hay cụ thể hơn là một hành vi phản ứng, có hiệu lực tại lời
và vì thế là một hành vi ở lời: từ chối. Hành vi từ chối đƣợc ngƣời nói dùng để
đáp lại một hành vi nào đó trong số các hành vi có hiệu lực tại lời là: đề nghị,
yêu cầu, ra lệnh, mời, xin… của một ngƣời khác đã thực hiện trƣớc đó. Theo đó,
hành vi từ chối, cũng nhƣ hành vi trả lời, hành vi đồng ý, … có thể xem nhƣ là
những hành vi hậu vị (post – events- acts), còn hành vi đề nghị, cũng nhƣ hành
vi hỏi, hành vi đề xuất… có thể xem nhƣ là những hành
vi tiền vị (pre – event – acts). Về mặt ngữ nghĩa, theo sự xác định của
Wierzbicka (1987) thì việc từ chối có nghĩa là nói “không, tôi sẽ không làm
việc đó” khi trả lời một phát ngôn của một ngƣời khác mà trong phát ngôn
này anh ta đã thông báo cho chúng ta biết rằng anh ta muốn chúng ta làm một
việc gì đó và rằng anh ta chờ đợi chúng ta làm việc đó” [127,tr.94] .
44
47. Đỗ Hữu Châu cũng chỉ rõ khả năng chỉ xuất hiện sau hành vi
khác như những hành vi ở lời kiểu như từ chối, bác bỏ, nhận lời, v.v..
trong hội thoại: Theo quan điểm hội thoại thì các hành vi ở lời cần
được xem xét các khả năng: thứ nhất, khởi phát lẫn nhau trong hội
thoại. Theo tiêu chí này thì các hành vi ở lời có thể phân biệt với nhau
ở vai trò dẫn. .. hay hồi đáp. Rõ ràng là có những hànhvi có thể dùng
để mở ra các cuộc thoại hay mở ra một đơn vị hội thoại (như hành vi
hỏi, hành vi chào, hành vi tái hiện) và những hànhvi dứt khoát chỉ xuất
hiện sau một hành vi khác của người đối thoại đã xuất hiện (thí dụ
hành vi trong các câu hỏi, hành vi bác bỏ, hành vi nhận lời hay từ
chối...[10, tr.14].
Theo cách phân loại các cặp thoại theo tiêu chuẩn đƣợc ƣa thích và
không đƣợc ƣa thích của Yule thì với tƣ cách là một hành vi giao tiếp cụ thể,
hành vi từ chối cũng nằm trong những sự chi phối vừa nói : xét theo xu thế
định giá chung thì hành vi từ chối không nối kết tạo thành các cặp thoại đƣợc
ƣa thích với các hành vi “kích thích” đi trƣớc nó.
Loại thoại trƣớc
Loại thoại sau
Đƣợc ƣa thích Không ƣa thích
Đánh giá (assessment) Đồng ý (agree) Không đồng ý
(disagree)
Mời (invitation) Chấp nhận (accept) Từ chối
(refuse)
Đề nghị (offer) Chấp nhận (accept) Khƣớc từ
(decline)
Đề xuất (proposal) Đồng ý (agree) Không đồng ý
(disagree)
Yêu cầu (request) Chấp nhận (accept) Từ chối
(refuse)
45
48. 2.1.2. Chiến lượctừ chối
Xét theo góc độ ngữ dụng học hay văn hoá thì mọi “phản ứng” tiêu cực
đều dễ gây nên trạng thái phản cảm từ phía đối tác giao tiếp, và cũng chính vì
thế mà đồng thời, hay nói đúng hơn, trƣớc hết nó gây “khó dễ” cho chính
ngƣời “phản ứng”. Điều này cũng hết sức tự nhiên, bởi lẽ về mặt xã hội hay
văn hoá, thì việc làm cho ngƣơi khác bị tổn hại thì bản thân mình cũng cảm
thấy không dễ chịu. Cũng chính vì vậy mà Yule(1977) cho rằng: “Xuất phát
từ góc độ ngữ dụng học, sự biểu thị của một cặp thoại đƣợc ƣa thích rõ ràng
là đại diện cho sự tiếp xúc nhanh chóng và sự gần gũi. Sự biểu thị của một cặp
thoại không đƣợc ƣa thích rất có thể đại diện cho sự xa cách và sự thiếu tiếp
xúc. Chính hành vi ngôn ngữ từ chối thuộc loại hành vi tiêu cực, không mang
lại lợi ích, không đáp ứng theo sự mong muốn, chờ đợi của đối tác giao tiếp
nên nó là vế thứ hai của cặp thoại không đƣợc ƣa thích, phản ánh sự xung đột
nguyện vọng giữa các bên giao tiếp. Do đó, ngƣời thực hiên hành vi từ chối
luôn tìm cách giảm bớt mức độ xung đột mà hành vi này có thể gây ra bằng
cách sử dụng các chiến lƣợc, sách lƣợc giao tiếp khác nhau. Việc sử dụng
hay ƣa thích sử dụng chiến lƣợc nào ít nhiều mang đặc điểm riêng của từng
cộng đồng văn hoá.
Mỗi một hành vi ngôn ngữ cụ thể đều có một loạt các chiến lƣợc giao
tiếp có tính chất phân biệt riêng. Chẳng hạn, những chiến lƣợc đƣợc sử dụng
trong câu hỏi chắc chắn là có nhiều sự khác biệt so với chiến lƣợc đƣợc sử
dụng trong câu trả lời(xem Lê Đông [30]). Đồng thời, với tƣ cách là những
hành vi ngôn ngữ, giữa chúng vẫn có những điểm tƣơng đồng nhất định về
các chiến lƣợc giao tiếp với tƣ cách là những chiến lƣợc giao tiếp chung, phổ
biến.
Các chiến lƣợc từ chối khác nhau và có thể có đều nằm trong phạm vi
các chiến lƣợc giao tiếp bằng ngôn ngữ của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ.
Những chiến lƣợc này, nhìn chung, đều không vƣợt ra ngoài các mối quan hệ
ràng buộc, chi phối của tƣ duy lôgic nhằm tận dụng ngày càng tối đa những
46