1. GVHD:Th.s Lê Đức Long
SVTH: Bùi Văn Quãng-k38.103.123
Lê Đức Vũ-k38.103.168
Nhóm TH: 03
2. Lịch sử về E-Learning
Khái niệm tổng quan về E-Learning
Một số hình thức của E-Learning
Ưu, nhược điểm cùa hình thức đào tạo E-Learning
So sánh phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học
tích cực
Tình hình phát triền và ứng dụng của E-Learning
Chuẩn trong E-Learning
3. Lịch sử về E-Learning
Thuật ngữ E-learning đã trở nên quen thuộc trên thế giới trong một vài thập kỷ gần
đây. Cùng với sự phát triển của Tin học và mạng truyền thông, các phương thức
giáo dục, đào tạo ngày càng được cải tiến nhằm nâng cao chất lượng, tiết kiệm
thời gian và tiền bạc cho người học. Ngay từ khi mới ra đời, E-Learning đã xâm
nhập vào hầu hết các hoạt động huấn luyện đào tạo của các nước trên thế giới.
Tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDG) nhận định rằng sẽ có một sự phát triển bùng nổ
trong lĩnh vực E-Learning. Và điều đó đã được chứng minh qua sự thành công của
các hệ thống thống giáo dục hiện đại có sử dụng phương pháp E-Learning nhiều
quốc gia như Mỹ, Anh, Nhật,…
Gắn với sự phát triển của công nghệ thông tin và phương pháp giáo dục đào tạo,
quá trình phát triển của E-Learning có thể chia ra thành 4 thời kỳ như sau :
4. Lịch sử về E-Learning
Trước năm
1983
• Thời kỳ này, máy tính chưa được sử dụng rộng rãi.
1984-1993
• Sự ra đời của hệ điều hành Windows 3.1, Máy tính Macintosh, phần
mềm trình diễn powerpoint, cùng các công cụ đa phương tiện khác.
1994-1999
• công nghệ Web được phát minh.
2000-nay
• Các công nghệ tiên tiến xuất hiện.
5. Khái niệm tổng quan về E-Learning
Thật khó có thể định nghĩa một cách chính xác thuật ngữ E-Learning, xong ta có thể điểm
qua một số cách giải thích khác nhau về E-Learning:
• E-Learning nghĩa là việc học sử dụng Internet.
• E-Learning nghĩa là sử dụng công nghệ mạng để thiết kế, phân phối, chọn lựa, quản lý và
mở rộng việc Học.
• E-learning là tổ hợp của công nghệ Internet và Web nhằm tạo ra, cho phép, phân phối,
và/hoặc cung cấp các phương tiện phục vụ học tập.
• E-Learning là Học bằng Internet. E-learning có thể bao gồm việc phân phối nội dung ở các
dạng thức khác nhau; quản lý học tập; và một mạng của người học, người phát triển nội
dung và các chuyên gia.
• E-learning cung cấp cho người học tốc độ tiếp cận tri thức nhanh hơn với giá thành rẻ hơn,
công bằng với mọi người học.
• E-Learning là việc sử dụng sức mạnh của mạng để cho phép học tập ở bất cứ lúc nào, bất
cứ nơi đâu.
Với những quan niệm khác nhau về e-Learning, chúng sẽ có những đặc điểm khác nhau;
cách thức dạy học cũng diễn ra khác nhau; hạ tầng công nghệ, cách thức triển khai, ưu
điểm, hạn chế của e-Learning cũng khác nhau, có thể hiểu, e-Learning là một hình thức học
tập thông qua mạng Internet dưới dạng các khóa học và được quản lý bởi các hệ thống
quản lý học tập đảm bảo sự tương tác, hợp tác đáp ứng nhu cầu họp mọi lúc, mọi nơi của
người học.
7. Một số hình thức của E-Learning
1. Đào tạo dựa trên công nghệ (TBT - Technology-Based Training) là hình thức đào tạo có sự áp dụng
công nghệ, đặc biệt là dựa trên công nghệ thông tin.
2. Đào tạo dựa trên máy tính (CBT - Computer-Based Training). Hiểu theo nghĩa rộng, thuật ngữ này nói
đến bất kỳ một hình thức đào tạo nào có sử dụng máy tính. Nhưng thông thường thuật ngữ này được
hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài trên
các máy tính độc lập, không nối mạng, không có giao tiếp với thế giới bên ngoài. Thuật ngữ này được
hiểu đồng nhất với thuật ngữ CD-ROM Based Training.
3. Đào tạo dựa trên web (WBT - Web-Based Training): là hình thức đào tạo sử dụng công nghệ web. Nội
dung học, các thông tin quản lý khoá học, thông tin về người học được lưu trữ trên máy chủ và người
dùng có thể dễ dàng truy nhập thông qua trình duyệt Web. Người học có thể giao tiếp với nhau và với
giáo viên, sử dụng các chức năng trao đổi trực tiếp, diễn đàn, e-mail... thậm chí có thể nghe được giọng
nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp với mình.
4. Đào tạo trực tuyến (Online Learning/Training): là hình thức đào tạo có sử dụng kết nối mạng để thực
hiện việc học: lấy tài liệu học, giao tiếp giữa người học với nhau và với giáo viên...
5. Đào tạo từ xa (Distance Learning): Thuật ngữ này nói đến hình thức đào tạo trong đó người dạy và
người học không ở cùng một chỗ, thậm chí không cùng một thời điểm. Ví dụ như việc đào tạo sử dụng
công nghệ hội thảo cầu truyền hình hoặc công nghệ web.
8. Ưu, nhược điểm cùa hình thức đào tạo E-Learning
Ưu điểm
• Không bị hạn chế về thời gian và địa
điểm.
• Đến được với học sinh ở vùng xa, học
sinh không truyền thống.
• Cho học sinh điều kiện để tiếp xúc với
những giáo sư mà họ cần.
• Tạo điều kiện giao tiếp dễ hơn đối với
một số học sinh.
• Hấp dẫn đối với các học sinh có động
cơ thúc đẩy học tập.
• Tăng mức độ thích nghi của nhà
trường.
• Tăng số lượng học sinh mà không cần
đầu tư vào phòng học và các phương
tiện học.
• Mở rộng ra các thị trường giáo dục mới.
• Tạo cơ hội để thử nghiệm và để chia sẻ
nguồn tài nguyên.
• Đẩy mạnh khả năng chấp nhận rủi ro.
Nhược điểm
• Giảm cơ hội học hỏi từ bạn bè và giao
tiếp.
• Đòi hỏi phải hỗ trợ nhiều thì học sinh
mới học tốt được.
• Hạn chế sử dụng đối với những người
lớn tuổi không thành thạo sử dụng máy
tính.
• Hạn chế vay tiền đối với học sinh.
• Không kích thích môi trường học tích
cực chủ động.
• Giảm khả năng truyền đạt lòng say mê
từ giáo sư đến học sinh.
• Làm tăng khối lượng công việc của
giảng viên, có một số giảng viên không
quen và không thích dạy qua mạng.
• Chi phí cao.
• Làm nảy sinh các vấn đề về sở hữu trí
tuệ.
• Làm nảy sinh các vấn đề liên quan đến
anh ninh mạng.
9. So sánh phương pháp dạy học truyền thống và
phương pháp dạy học E-Learning
PPDH Truyền
thống
PPDH E-Learning
10. Tình hình phát triển của E-Learning
Thế giới:
E-learning phát triển không đồng đều tại các khu vực trên thế giới. E-learning phát
triển mạnh nhất ở khu vực Bắc Mỹ. ở châu Âu E-Learning cũng rất có triển vọng,
trong khi đó châu Á lại là khu vực ứng dụng công nghệ này ít hơn.
Tại Mỹ, dạy và học điện tử đã nhận được sự ủng hộ và các chính sách trợ giúp của
Chính phủ ngay từ cuối những năm 90. Theo số liệu thống kê của Hội Phát triển và
Đào tạo Mỹ (American Society for Training and Development, ASTD), năm 2000 Mỹ
có gần 47% các trường đại học, cao đẳng đã đưa ra các dạng khác nhau của mô
hình đào tạo từ xa, tạo nên 54.000 khoá học trực tuyến.
Trong những gần đây, châu Âu đã có một thái độ tích cực đối với việc phát triển
công nghệ thông tin cũng như ứng dụng nó trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc
biệt là ứng dụng trong hệ thống giáo dục. Các nước trong Cộng đồng châu Âu đều
nhận thức được tiềm năng to lớn mà công nghệ thông tin mang lại trong việc mở
rộng phạm vi, làm phong phú thêm nội dung và nâng cao chất lượng của nền giáo
dục.
Tại châu á, E-Learning vẫn đang ở trong tình trạng sơ khai, chưa có nhiều thành
công vì một số lý do như: các quy tắc, luật lệ bảo thủ, tệ quan liêu, sự ưa chuộng
đào tạo truyền thống của văn hóa châu á, vấn đề ngôn ngữ không đồng nhất, cơ
sở hạ tầng nghèo nàn và nền kinh tế lạc hậu ở một số quốc gia châu á.
11. Tình hình phát triển của E-Learning
Việt Nam:
Vào khoảng năm 2002 trở về trước, các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về E-Learning ở
Việt Nam không nhiều. Trong hai năm 2003-2004, việc nghiên cứu E-learning ở Việt
Nam đã được nhiều đơn vị quan tâm hơn. Gần đây các hội nghị, hội thảo về công
nghệ thông tin và giáo dục đều có đề cập nhiều đến vấn đề E-Learning và khả năng
áp dụng vào môi trường đào tạo ở Việt Nam như: Hội thảo nâng cao chất lượng đào
tạo ĐHQGHN năm 2000, Hội nghị giáo dục đại học năm 2001 và gần đây là Hội thảo
khoa học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông ICT/rda 2/2003, Hội thảo khoa học quốc gia lần II về nghiên
cứu phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông ICT/rda 9/2004, và
hội thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai E-Learning” do Viện Công nghệ Thông
tin (ĐHQGHN) và Khoa Công nghệ Thông tin (Đại học Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ
chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa học về E-Learning đầu tiên được tổ chức tại
Việt Nam.
Việt Nam đã gia nhập mạng E-Learning châu á (Asia E-learning Network - AEN,
www.asia-elearning.net) với sự tham gia của Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Khoa học -
Công nghệ, trường Đại học Bách Khoa, Bộ Bưu chính Viễn Thông...
Điều này cho thấy tình hình nghiên cứu và ứng dụng loại hình đào tạo này đang
được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực E-Learning ở
Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu còn nhiều việc phải làm mới tiến kịp các nước.
13. Chuẩn trong E-Learning
Chuẩn đóng gói
Chuẩn trao đổi thông
tin
Chuẩn maetadata
Chuẩn chất lượng
14. Chuẩn đóng gói
-chuẩn đóng gói mô tả các cách ghép các đối tượng học tập riêng rẽ để tạo ra một
bài học, cua học, hay các đơn vị nội dung khác, sau đó vận chuyển và sử dụng lại
được trong nhiều hệ thống quản lý khác nhau (LMS/LCMS). Các chuẩn này đảm
bảo hàng trăm hoặc hàng nghìn file được gộp và cài đặt đúng vị trí.
-Chuẩn đóng gói e-Learning bao gồm:
Cách để ghép nhiều đơn vị nội dung khác nhau thành một gói nội dung duy nhất.
Các đơn vị nội dung có thể là các cua học, các file HTML, ảnh, multimedia, style
sheet, và mọi thứ khác xuống đến một icon nhỏ nhất.
Gồm thông tin mô tả tổ chức của một cua học hoặc module sao cho có thể nhập
vào được hệ thống quản lý và hệ thống quản lý có thể hiển thị một menu mô tả
cấu trúc của cua học và học viên sẽ học dựa trên menu đó.
Gồm các kĩ thuật hỗ trợ chuyển các cua học hoặc module từ hệ thống quản lý
này sang hệ thống quản lý khác mà không phải cấu trúc lại nội dung bên trong.
15. Chuẩn trao đổi thông tin
-Các chuẩn trao đổi thông tin xác định một ngôn ngữ mà con người hoặc sự vật có
thể trao đổi thông tin với nhau. Một ví dụ dễ thấy về chuẩn trao đổi thông tin là một
từ điển định nghĩa các từ thông dụng dùng trong một ngôn ngữ.
Trong e-Learning, các chuẩn trao đổi thông tin xác định một ngôn ngữ mà hệ thống
quản lý đào tạo có thể trao đổi thông tin được với các module.
Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét hệ thống quản lý và các module trao đổi với
nhau thông tin gì và như thế nào, các chuẩn trao đổi thông tin nào đang có, chúng
hoạt động như thế nào, và chúng ta phải làm gì để đảm bảo tính tương thích với
các chuẩn đó.
-một vài chủ đề chính dùng trong trao đổi thông tin:
Hệ thống quản lý cần biết khi nào thì đối tượng (học tập) bắt đầu hoạt động đối
tượng cần biết tên học viên .
Đối tượng thông báo ngược lại cho hệ thống quản lý học viên đã hoàn thành
đối tượng bao nhiều phần trăm .
Hệ thống quản lý cần biết thông tin về điểm học viên để lưu vào cơ sở dữ liệu.
Hệ thống quản lý cần biết khi nào học viên chấm dứt học tập và đóng đối
tượng học tập.
16. Chuẩn maetadata
-Metadata giúp nội dung e-Learning hữu ích hơn đối với người bán, người mua, học
viên, và người thiết kế. Metadata cung cấp một cách chuẩn mực để mô tả các cua
học, các bài, các chủ đề, và media. Những mô tả đó sẽ được dịch ra thành các
catalog hỗ trợ cho việc tìm kiếm được nhanh chóng và dễ dàng.
-Có 3 đặc tả metadata đã được đưa ra và có các sản phẩm thực thi chúng trong
thực tế. Chúng bao gồm:
Learning Object Metadata Standard
Learning Resources Meta-data Specification
SCORM Meta-data standards
-Để đảm bảo tính khả chuyển, metadata phải được thu thập và định dạng là XML,
không phải là một công việc dễ để thực hiện bằng tay. Hiện tại, các tổ chức chuẩn
và các người bán đã có các công cụ để tạo các meta-data tuân theo chuẩn.
17. Chuẩn chất lượng
-Các chuẩn chất lượng đảm bảo rằng nội dung của bạn có thể dùng được, học
viên dễ đọc và dễ dùng nội dung bạn tạo ra. Nếu các chuẩn chất lượng không
được đảm bảo thì bạn có thể mất học viên ngay từ những lần học đầu tiên.
Các chuẩn chất lượng đảm bảo các đối tượng học tập không chỉ sử dụng lại được
mà sử dụng được ngay từ những lần học đầu tiên.
-Chuẩn chất lượng thiết kế chính cho e-Learning là e-Learning Courseware
Certification Standards của ASTD E-Learning Certification Institue. Certification
Institue chứng nhận rằng các cua học e-Learning tuân theo một số chuẩn nhất
định như thiết kế giao diện, tương thích với các hệ điều hành và các công cụ
chuẩn, chất lượng sản xuất, và thiết kế giảng dạy.
-Các chuẩn này liên quan tới làm như thế nào để công nghệ thông tin có thể truy
cập được với những người tàn tật, chẳng hạn như những người bị hỏng mắt, nghe
kém, không có sự kết hợp tốt giữa mắt và tay, không đọc được. Hiện tại, không có
các chuẩn dành riêng cho e-Learning, tuy nhiên e-Learning có thể tận dụng các
chuẩn dùng cho công nghệ thông tin và nội dung Web.