SlideShare a Scribd company logo
1 of 95
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRỊNH THỊ THU HÒA
GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VỀ ĐẤU THẦU TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CÁC HIỆPĐỊNHVAYQUỐCTẾ
NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
Hà Nội – 2022
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRỊNH THỊ THU HÒA
GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VỀ ĐẤU THẦU TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CÁC HIỆPĐỊNHVAYQUỐCTẾ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành:Quan hệ quốc tế
Mã số: 60310206
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Hoàng Phƣớc Hiệp
Hà Nội – 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung đề cập trong Khoá luận là sản phẩm
của chính tác giả. Các thông tin và số liệu nêu trong Khoá luận là trung
thực và được tổng hợp từ những nguồn thông tin chính thống, có độ tin
cậy cao. Đồng thời, kết quả nghiên cứu trong Khoá luận này chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................2
2. Tình hình nghiên cứu..............................................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................5
4. Nhiệm vụ - Phƣơng phápnghiên cứu ...................................................................5
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..............................................................5
6. Kết cấu luận văn......................................................................................................6
CHƢƠNG1.MỘTSỐVẤNĐỀLÝLUẬNVỀĐẦUTHẦUVÀGIẢIQUYẾT
XUNG ĐỘTPHÁPLUẬTVỀĐẤUTHẦUTRONGQUÁTRÌNHTHỰCHIỆN
CÁCHIỆP ĐỊNHVAYQUỐCTẾ ................................................................................7
1.1. Tổng quan lý luận về đấu thầu ..............................................................................7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức đấu thầu......................................................7
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển lý luận về đấu thầu ......................................16
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu...................................................................18
1.1.4. Khung pháp lý về đấu thầu quốc tế ở Việt Nam .............................................18
1.2. Tổng quan lý luận về giải quyết xung đột pháp luật đấu thầu tại Việt Nam
trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế................................................21
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về đấu thầu......................................................21
1.2.2. Khái niệm Hiệp định vay và việc thực hiện Hiệp định vay ở Việt Nam.........21
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu ................................25
1.2.4. Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda và vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về
đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế .............29
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU
THẦU CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH
VAYQUỐC TẾ ............................................................................................................35
2.1. Thực tiễn quy định của pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các
Hiệp định vay quốc tế mà Việt Nam là thành viên ...................................................35
2.1.1. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định vay liên quan đến mua sắm theo Hiệp
định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)...........................................35
2.1.2. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và khối
Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA)....................................................................................37
2.1.3. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên
minh châu Âu EU (EVFTA).........................................................................................38
2.2. Thực tiễn việc thực hiện các Hiệp định vay quốc tế liên quan đến vấn đề đấu
thầu tại Việt Nam.........................................................................................................38
2.3. Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá
trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế.................................................................41
2.3.1. Giải quyết xung đột về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay
có liên quan đến các cam kết quốc tế tại Hiệp định quốc tế .....................................41
2.3.2.Giải quyết xung đột pháp luật về đấuk thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp
định vay từ nguồn vốn của tổ chức cho vay quốc tế .................................................46
2.4. Hài hòa các quy định pháp luật về đấu thầu của Việt Nam với các quy định
pháp luật về đấu thầu trong Hiệp định vay quốc tế mà Việt Nam là thành viên...59
CHƢƠNG 3. KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH VAY
QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM............................................................................................64
3.1.Thuận lợi và khó khăn đối với việc giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu
trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay mà Việt Nam là thành viên .............64
3.1.1. Những thuận lợi...............................................................................................64
3.1.2. Những khó khăn và hạn chế............................................................................65
3.2. Các giải pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực
hiện các hiệp định vay ở Việt Nam.............................................................................65
3.2.1. Giải pháp chung ..............................................................................................65
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể về thể chế ...................................................................67
3.2.3. Nhóm giải pháp cụ thể về mô hình tổ chức quản lý........................................71
3.2.4. Nhóm giải pháp cụ thể về thi hành..................................................................74
KẾT LUẬN...................................................................................................................83
TÀILIỆUTHAM KHẢO............................................................................................84
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu viết tắt Diễn giải
1 ADB (Asian Development Bank) Ngân hàng Phát triển Châu Á
2 APEC (Asia-Pacific Economic Co
operation)
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương
3 FDI (Foreign Direct Investment) Đầu tư trực tiếp nước ngoài
4 FII (Foreign Indirect Investment) Đầu tư gián tiếp nước ngoài
5 EFTA (EU Free Trade Agreement) Khối mậu dịch tự do Châu Âu
6 FTA (Free Trade Agreement) Hiệp định thương mại tự do
7 G8 8 quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới,
gồm: Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh, Mỹ,
Canada và Nga
8 G4 4 cường quốc về thương mại của thế giới,
gồm: Hoa Kỳ, Châu Âu, Brazil và Ấn Độ
9 ICB (International Competition
Bidding)
Hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế
10 IMF (International Monetary
Fund)
Quỹ tiền tệ thế giới
11 JBIC (Japan Bank of International
Cooperation)
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
12 WB (World Bank) Ngân hàng thế giới
13 WTO (World Trade Organization) Tổ chức Thương mại thế giới
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, hoạt động đấu thầu được áp dụng rộng rãi ở Việt
Nam và đóng góp một phần không nhỏ vào những thành tựu phát triển kinh tế quốc
dân. Cùng với hoạt động đấu thầu trong nước, hoạt động đấu thầu quốc tế luôn đòi hỏi
được hoàn thiện nhằm phát huy tối đa vai trò của mình trong việc tiếp cận và sử dụng
nguồn vốn vay quốc tế phục vụ sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Đây cũng là vấn đề trọng điểm được đặt ra trong các chương trình, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua.
Trước đây, trong cơ chế tập trung bao cấp, vấn đề đấu thầu chưa được coi là
một vấn đề độc lập cần được quy định dưới dạng Luật. Điều đó phần nào phủ nhận giá
trị và tầm quan trọng của đấu thầu và Luật này trên thực tế. Tuy nhiên, nền kinh tế thị
trường ra đời, thực tế sự phát triển kinh tế - xã hội đã làm Luật đấu thầu được nhìn
nhận, đánh giá lại. Luật đấu thầu đã được coi là một trong những yếu tố quan trọng
góp phần thiết thực vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh
tế - xã hội. Nhà nước đã không ngừng thay đổi toàn diện cơ chế quản lý về đấu thầu để
thích ứng linh hoạt với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo thị trường bảo đảm
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế thị
trường, đòi hỏi Nhà nước phải nắm bắt và vận dụng có hiệu quả trong quá trình quản
lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động đấu
thầu là một mắt xích quan trọng trong toàn bộ quá trình mua sắm của Chính phủ nói
chung và trong việc thực hiện các dự án đầu tư quốc tế nói riêng. Vì vậy, việc giải
quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc
tế là một trong những vấn đề nổi cộm của hoạt động đấu thầu tại Việt Nam nhằm thúc
đẩy sự phát, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong hội nhập phát triển kinh tế của
đất nước.
Xuất phát từ ý nghĩa và giá trị to lớn đó mà vấn đề giải quyết xung đột pháp
luật về đấu thầu quốc tế đã trở thành vấn đề quan trọng, là tấm gương phản chiếu ra
nước ngoài của Việt Nam trong việc bảo đảm vay vốn và sử dụng vốn vay từ các tổ
chức cho vay quốc tế một cách hiệu quả và thiết thực. Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh
3
thực tế, việc giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình
thực hiện vay vốn quốc tế chưa được thực hiện một cách thống nhất và còn nhiều bất
cập, chồng chéo nhau cần được giải đáp. Vì vậy, tôi chọn vấn đề giải quyết xung đột
pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế làm đề tài
khoá luận tốt nghiệp của mình với mong muốn đóng góp ý kiến trong quá trình tìm
kiếm giải pháp để giải quyết những xung đột này.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu và tài liệu khác nhau về vấn đề
này nhưng vẫn chưa có công trình nào xử lý đầy đủ vấn đề Giải quyết xung đột pháp
luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế. Liên
quan đến vấn đề đấu thầu, đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu như sau:
1. Tác giả Hoàng Lê Mai Phương lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác đấu
thầu tư vấn tại các dự án ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo” (năm 2012) làm đề tài
nghiên cứu khoá luận Thạc sỹ kinh tế. Với cách tiếp cận những vấn đề cơ bản về đấu
thầu tại các dự án ODA như khái niệm, vai trò và nguyên tắc của đấu thầu tư vấn tại
các dự án ODA, các loại gói thầu tư vấn, quy trình đấu thầu tư vấn, các nhân tố ảnh
hưởng… cũng như tìm hiểu về thực trạng để đánh giá công tác đấu thầu tư vấn tại các
dự án ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giúp cho
việc thực hiện các gói thầu dịch vụ tư vấn được hoàn thiện hơn, chịu ảnh hưởng ít nhất
của các điều kiện khách quan cũng như chủ quan, từ đó nâng cao hiệu quả của quá
trình lựa chọn nhà thầu.
2. Tác giả Nguyễn Đình Linh với công trình “Hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước về hoạt động đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội” (năm2011)
đã đưa ra những cơ sở lý luận cũng như thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động đấu thầu tại một cơ quan quản lý nhà nước cụ thể. Từ đó có những nhận
định và đánh giá, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước
về đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội.
3. Tác giả Nguyễn Văn Ngọc đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác đấu thầu
tại Công ty Cổ phần tư vấn thiết kế giao thông vận tải 4 giai đoạn 2006-2020” làm đề
tài cho khoá luận Thạc sỹ năm 2012. Tác giả đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về
công tác đấu thầu tư vấn: các nội dung, quy trình, thủ tục đấu thầu theo quy định của
nhà nước, các tiêu chí đánh giá và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đấu
4
thầu tư vấn, đồng thời phân tích thực trạng công tác đấu thầu được thực hiện tại Công
ty Cổ phần tư vấn thiết kế giao thông vận tải 4, qua đó đánh giá để đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao khả năng trúng thầu tại công ty.
4. Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với công trình “Công tác đấu thầu quốc tế các gói
thầu tư vấn sử dụng vốn ODA ngành xây dựng đường bộ tại Tổng cục đường bộ Việt
Nam” (năm 2011) đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác đấu
thầu các gói thầu tư vấn sử dụng vốn ODA cụ thể tại ngành xây dựng. Có thể thấyrằng,
cũng giống như khoá luận của tác giả Hoàng Lê Mai Phương, cả 02 đề tài đề tập trung
phân tích công tác đấu thầu tại các gói thầu tư vấn sử dụng vốn ODA với nhà tài trợ là
Worldbank.
5. Tác giả Nguyễn Thị Thúy Huyền với đề tài “Thực trạng đấu thầu quốc tế tại
Việt Nam, sự ảnh hưởng của các văn bản pháp quy đến hoạt động đấu thầu quốc tế
trong giai đoạn hội nhập” (năm 2006) đã nêu rõ ảnh hưởng của các văn bản pháp quy
về đấu thầu đối với công tác đấu thầu tại Việt Nam nhằm nêu rõ những kết quả đạt
được, những bất cập, hạn chế cơ bản của công tác này. Trên cơ sở nhận định những
điểm chung và điểm riêng, điểm tiến bộ cũng như hạn chế của các văn bản pháp quy
về đấu thầu tại Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường ảnh hưởng của
các văn bản pháp quy nói trên, đồng thời góp phần lành mạnh hóa môi trường đầu tư,
chuôngs thất thoát vốn nhà nước.
6. Tác giả Hoàng Thu Nga với đề tài “Công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty cổ
phần xây lắp Bưu điện: Thực trạng và giải pháp” (năm 2008). Tại đề tài này, tác giả
đã đi sâu vào phân tích các hình thức đấu thầu cũng như quy trình tại Công ty cổ phần
xây lắp Bưu điện để từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị phù hợp.
7. Cục Quản lý Đấu thầu với đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện quy
trình kiểm tra về công tác đấu thầu” (2013). Đây là đề tài được Cục Quản lý Đấu thầu
thực hiện trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực tế việc triển khai quy trình kiểm tra về
công tác đấu thầu tại một số Bộ, ngành, địa phương để tiếp thu ý kiến của các bên có
liên quan, tổ chức hội nghị lấy ý kiến, tổng hợp thông tin để từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện quy trình kiểm tra nói chung để tạo.
Qua các công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy những đề tài đã nghiên cứu
tập trung chủ yếu về thực trạng và chỉ ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
chất lượng tổ chức đấu thầu đối với các gói thầu do đơn vị mình thực hiện. Một số đề
5
tài khác nghiên cứu việc tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng trúng thầu tại đơn
vị khi tham gia đấu thầu với vai trò là nhà thầu hay đưa ra thực trạng và các giải pháp
nhằm nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu tại đơn vị mình. Tuy
nhiên, chưa có hoặc có rất ít đề tài nghiên cứu sâu về giải quyết xung đột pháp luật đấu
thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung liên quan tới lý luận và thực tiễn
vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam trong quá trình thực hiện
các Hiệp định vay quốc tế. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động đấu thầu quốc tế
tại Việt Nam và đánh giá, so sánh các quy định về vấn đề này của pháp luật Việt Nam
và quy định của một số quốc gia, tổ chức quốc tế, tác giả đưa ra những đề xuất cụ thể
nhằm hoàn thiện hệ thống đấu thầu quốc tế tại Việt Nam qua đó khắc phục những
xung đột pháp luật trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế.
4. Nhiệm vụ - phƣơng pháp nghiên cứu
a) Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định và giải quyết xung đột pháp
luật về đấu thầu của Việt Nam so với các các quy định tại các Hiệp định quốc tế và tổ
chức cho vay quốc tế, đề tài đưa ra một cách khái quát nhất về lý luận và thực tiễn để
làm rõ những điểm hợp lý và bất hợp lý, những thiếu sót, bất cập của pháp luật đấu
thầu hiện hành ở Việt Nam. Kết hợp với việc tổng hợp kinh nghiệm thực tế, đề tài đưa
ra những kiến nghị và giải pháp khắc phục vấn đề xung đột pháp luật đấu thầu quốc tế
và hoàn thiện pháp luật đấu thầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
b) Phương pháp nghiêncứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khoá luận này là phương
pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh, phương pháp case study, phương pháp
nghiên cứu liên đa ngành và các phương pháp nghiên cứu xã hội khác. Các phương
pháp này được tiến hành với sự vận dụng triệt để phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Với kết quả nghiên cứu đạt được của đề tài đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn cũng như cung cấp các luận cứ khoa học về vấn đề Giải quyết xung
đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay
6
quốc tế. Đề tài cho thấy một cách nhìn tổng thể các chính sách về đấu thầu tại các
Hiệp định thương mại và tổ chức cho vay quốc tế có ảnh hưởng đến chính các quy
định chung về đấu thầu tại Việt Nam, góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu quốc tế.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, Khoá luận được chia
thành ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu thầu và giải quyết xung đột pháp luật
về đấu thầu trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế
Chương 2: Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá
trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế ở Việt Nam
Chương 3: Khuyến nghị giải pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu
trong quá trình thực hiện hiệp định vay quốc tế ở Việt Nam
7
Chƣơng 1
MỘTSỐVẤNĐỀLÝLUẬNVỀĐẦUTHẦUVÀGIẢIQUYẾTXUNGĐỘT
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆP
ĐỊNH VAY QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan lý luận về đấu thầu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức đấu thầu
1.1.1.1. Khái niệm
Về mặt thuật ngữ, từ điển Bách khoa Việt Nam (năm 1995) đĩnh nghĩa:
“Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn xây dựng công trình
(người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện để xây dựng công trình
(người dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn người
dự thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hơn”. Trong từ điển tiếng
Việt (Năm 1998) định nghĩa “Đấu thầu là độ công khai ai nhận làm, nhận bán với
điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc bán” [3].
Về mặt lý luận, đấu thầu được hiểu là “phạm trù kinh tế tồn tại trong nền
kinh tế thị trường. Trong đó, người mua đóng vai trò tổ chức để các nhà thầu
(những người bán) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của người mua là có được hàng hoá
và dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng với chi phí thấp
nhất. Mục tiêu của nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ
đó với giá cả đủ bù đắp các chi phí đầu vào đồng thời đảm bảo mức lợi nhuận cao
nhất có thể” [13, tr.4].
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như không tồn tại sự độc quyền cung cấp
cho bất kỳ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó (trừ một số loại hàng hoá đặc biệt
dùng cho các dịch vụ công). Có nhiều nhà sản xuất, nhà cung cấp cho cùng một loại
hàng hoá và dịch vụ. Trong cơ chế kinh tế thị trường người tiêu dùng (bao gồm các
nhà đầu tư) luôn mong muốn có được hàng hoá và dịch vụ tốt nhất với chi phí thấp
nhất. Vì vậy, mỗi khi có nhu cầu đối với một hàng hoá hay dịch vụ nào đó, họ
thường tổ chức các cuộc đấu thầu để các nhà thầu (bao gồm các nhà cung cấp hàng
hoá và dịch vụ) cạnh tranh nhau về kỹ thuật, công nghệ, chất lượng và giá cả. Trong
8
đó, nhà thầu nào đưa ra được mẫu hàng hoá và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của
người mua và với giá cả thấp nhất sẽ được người mua chấp nhận trao hợp đồng.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hoạt
động đấu thầu không còn giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà nó được mở
rộng ra ở phạm vi quốc tế. Do vậy, khái niệm đấu thầu quốc tế được đặt ra khi hoạt
động đấu thầu có gắn với yếu tố nước ngoài.
Về mặt pháp lý, theo quy định tại khoản 12, Điều 4 Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13 ban hành ngày 26/11/2013 thì “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà
thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn,
mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng
dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở
bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”[12, tr21].
Khoản 13, Điều 4 Luật Đấu thầu nêu trên có quy định cụ thể “Đấu thầu
quốc tế là đấu thầu mà nhà thầu, nhà đầu tư trong nước, nước ngoài được tham dự
thầu”.[12, tr20]
Đi liền với phạm trù đấu thầu, cần hiểu thêm một số khái niệm có liên quan sau:
 Về chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu
- Nhà thầu: Tất cả các tổ chức, cá nhân khi tham gia đấu thầu để giành quyền
ký kết và thực hiện hợp đồng đầu tư, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho bên mời thầu
hoặc chủ đầu tư đều gọi là nhà thầu. Tuỳ theo tính chất của nguồn vốn, người ta có thể
quy định tư cách hợp lệ của nhà thầu theo các chỉ tiêu cụ thể khác nhau. Nhưng nhà
thầu đều phải đảm bảo đáp ứng các nguyên tắc tối thiểu có tính pháp lý. Nhà thầu có
thể tham gia dự thầu độc lập hoặc liên danh với một hoặc nhiều nhà thầu khác để liên
danh dự thầu. Như vậy, Nhà thầu được hiểu là các tổ chức kinh tế, cá nhân độc lập về
tài chính có năng lực pháp luật dân sự (nếu là tổ chức) hoặc năng lực hành vi dân sự
(nếu là cá nhân) để ký kết và thực hiện hợp đồng theo các quy định của pháp luật.
- Bên mời thầu: Theo nghĩa thông thường, bên mời thầu là bên đứng ra tổ
chức đấu thầu. Các chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đại diện của họ tổ chức đấu thầu để lựa
chọn nhà thầu thực hiện một phần hoặc toàn bộ dự án. Bên mời thầu thường là chủ sở
hữu vốn (nguồn để chi trả cho nhà thầu theo giá trị hợp đồng) và là một bên đứng ra
9
ký kết hợp đồng với nhà thầu. Tuy nhiên, trong trường hợp đại diện của chủ dự án,
chủ đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu, thì họ có thể không phải là một bên đứng ra ký
kết hợp đồng với nhà thầu. Trong trường hợp đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư, bên
mời thầu chỉ đóng vai trò chủ dự án, khi đó nhà thầu trúng thầu sẽ là chủ đầu tư. Như
vậy, Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ dự án, chủ
đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu.
Bên cạnh 2 nhóm chủ thể chính tham gia trực tiếp này, trong hoạt động đấu
thầu còn có sự tham gia của các chủ thể gián tiếp, bao gồm: Cơ quan thanh tra, kiểm
tra, giám sát; Tổ chức, công ty kiểm toán độc lập; Các cơ quan báo chí, truyền thông,
ngôn luận; cộng đồng nói chung - tham gia với vai trò giám sát.
 Về thủ tục, tài liệu
- Hồ sơ mời thầu: Trước khi tổ chức đấu thầu, bên mời thầu phải tập hợp toàn
bộ các yêu cầu của gói thầu (về chất lượng, số lượng, kỹ thuật, các điều kiện hợp
đồng, tài chính, thương mại...) thành một bộ tài liệu thống nhất và không thay đổi
trong suốt quá trình đấu thầu để làm căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, đồng
thời làm cơ sở để bên mời thầu đánh giá các hồ sơ dự thầu và xem xét, quyết định nhà
thầu trúng thầu. Có thể khái quát hóa, hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do bên mời
thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu
chuẩn bị hồ sơ dự thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu.
- Hồ sơ dự thầu: Trên cơ sở nghiên cứu các yêu cầu của bên mời thầu nêu
trong hồ sơ mời thầu, cũng như kết quả khảo sát thực địa và các thông tin liên quan
khác, nhà thầu lập bộ hồ sơ dự thầu bao gồm toàn bộ các tài liệu về kỹ thuật, tài chính,
thương mại liên quan đến gói thầu để nộp cho bên mời thầu trong thời gian có hiệu
lực (trước thời điểm đóng thầu). Nhà thầu có hồ sơ dự thầu hợp lệ, đáp ứng các yêu
cầu của hồ sơ mời thầu và có giá đánh giá thấp nhất sẽ được xem xét, đề nghị trúng
thầu. Như vậy, Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ
mời thầu.
1.1.1.2. Đặc điểm đấu thầu quốc tế
Mỗi phương thức giao dịch trên thị trường đều có các đặc điểm riêng khác
nhau. Những đặc điểm riêng đó sẽ tạo nên những nét đặc trưng, quyết định đến quy
10
trình tổ chức ký kết, thực hiện các hợp đồng có liên quan. Vì vậy, cũng như các lĩnh
vực khác việc nghiên cứu đặc điểm pháp luật về đấu thầu nói một cách thấu đáo là
một công việc không thể thiếu. Hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế
nói riêng có một số đặc điểm sau đây:
 Trên thị trường chỉ một người mua và nhiều người bán
Người mua trên thị trường phần lớn thường là những tổ chức, cơ quan, các
chủ đầu tư được Chính phủ cấp tài chính mua sắm hàng hoá, dịch vụ, xây dựng
công trình thường. Nhưng cũng có những trường hợp người mua thiếu vốn phải đi
vay mà điều kiện đòi hỏi phải mở thầu. do có khó khăn về mặt nghiệp vụ, kinh
nghiệm kinh doanh cho nên họ phải lợi dụng sự cạnh tranh giữa các nhà thầu để từ
đó lựa chon được người bán thích hợp nhất và có các điều kiện giao dịch tối ưu nhất.
Ngược lại, các nhà thầu cung cấp hàng hoá, dịch vụ… được tự do cạnh tranh với
nhau để giành quyền cung cấp và kết quả của sự cạnh tranh đó đã làm cho giá cả
tiến gần lại với giá thực trên thị trường, điều mà bất cứ người mua nào cũng mong
đợi.
 Đấu thầu tiến hành theo những điều kiện quy định trước
Mặc dù được tự do cạnh tranh giành quyền cung cấp nhưng các nhà thầu
phải thực hiện theo những điều kiện mà Bên mở thầu đã quy định trước. Hay nói
một cách khác, người mua chỉ có một nhưng họ đã nêu ra những điều kiện ràng
buộc rất chặt chẽ, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Trong đấu thầu, các điều kiện
tài chính, các điều kiện kỹ thuật… thường được thể hiện trong hồ sơ mời thầu. Các
nhà thầu một khi thoả mãn tốt nhất các điều kiện mà Bên mời thầu đưa ra mới mong
có hy vọng trúng thầu, cá biệt có những trường hợp các nhà thầu đã thoả mãn đầy
đủ các điều kiện kỹ thuật, tài chính và uy tín, nhưng vì không tìm được đối tác liên
doanh, liên kết nên đã không giành được hợp đồng. Và cũng có những nhà thầu
không tìm được nhà thầu theo quy định nên cũng không trúng thầu. Chính vì những
lý do nói trên trong đấu thầu thì thị trường thuộc về phía mời thầu, họ “vừa là người
bị động, vừa là người chủ động” là như vậy.
 Chủ động trong việc xác định thời gian và địa điểm mở thầu
Thời gian mở thầu phải được quy định trước, thông thường nó được thực
11
hiện sau khi thông báo mời thầu một số ngày nhất định. Khoảng thời gian này tuy
ước tính nhưng người ta phải tính toán sao cho hợp lý. Ngày giờ, địa điểm sẽ được
xác định cụ thể trong hồ sơ mở thầu. Khi mở thầu các nhà thầu thường phải có mặt
nghe công bố tính hợp lệ của đơn chào và ký vào một biên bản đã được chuẩn bị
trước. Bên mời thầu sẽ công bố công khai một số chỉ tiêu cơ bản của hồ sơ dự thầu.
 Vai trò của người tư vấn
Trong đấu thầu, ngoài bên mời thầu, nhà thầu, còn có sự hiện diện của
người tư vấn. Quan điểm của hầu hết các nước trên thế giới đều cho rằng người tư
vấn là người đảm bảo hạn chế tới mức tối đa các tiêu cực phát sinh. Những thông
đồng thoả hiệp làm cho chủ dự án bị thiệt hại, vì vậy người tư vấn phải có trình độ,
năng lực chuyên môn để giúp chủ dự án (Bên mời thầu) giải quyết các vấn đề kỹ
thuật với các nhà thầu. Dịch vụ tư vấn có thể chia thành:
- Làm báo cáo trước khi đầu tư
- Các dịch vụ chuẩn bị để xác định và thực hiện dự án
- Các dịch vụ giám sát, quản lý dự án
- Giúp đỡ kỹ thuật (dịch vụ cố vấn, phát triển và lập kế hoạch, xây dựng, tổ
chức, đào tạo…).
1.1.1.3. Các hình thức đầu thầu
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau thì hình thức đấu thầu được phân loại
khác nhau, cụ thể như sau:
Căn cứ vào đặc thù về hàng hoá và dịch vụ cần mua, hoạt động đấu thầu
được chia thành 3 lĩnh vực. Mỗi lĩnh vực có quy trình tổ chức đấu thầu riêng phù hợp
với đối tượng hàng hoá hoặc dịch vụ cần mua đó.
 Đấu thầu tuyển chọn tư vấn (Tender for consulting services)
Đối với các nước đang phát triển, nhu cầu về đầu tư xây dựng mới các công
trình hạ tầng cơ sở hoặc nhà xưởng, máy móc phục vụ sản xuất thường rất lớn. Để
thực hiện tốt quá trình đầu tư từ bước xác định dự án, chuẩn bị báo cáo tiền khả thi,
báo cáo nghiên cứu khả thi đến tổ chức thực hiện, giám sát quá trình xây dựng... cần
có đội ngũ chuyên gia lành nghề, có kinh nghiệm và đã có điều kiện tiếp cận với công
nghệ tiên tiến và khoa học hiện đại trên thế giới để thực hiện các dịch vụ tư vấn phục
12
vụ cho quá trình này. Vì vậy, trong quá trình đầu tư nhà tài trợ thường yêu cầu chủ
đầu tư tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn để thực hiện các dịch vụ khảo sát, thiết kế,
lập hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám
sát quá trình xây dựng đáp ứng các yêu cầu của dự án. Do đối tượng lựa chọn để mua
ở đây là các dịch vụ tư vấn của chuyên gia, nên quy trình đấu thầu không thể giống
với việc mua sắm hàng hoá hay dịch vụ xây lắp.
Trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, các nhà thầu (nhà tư vấn) cạnh tranh nhau
thông qua việc cung cấp các chuyên gia có nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên
môn với một mục tiêu để thực hiện tốt nhất, chất lượng nhất các yêu cầu của bên mua.
Trách nhiệm đối với công việc gắn liền với uy tín của nhà tư vấn đã làm cho cácnhà
tư vấn khi tham gia dự thầu thường không phải nộp bảo lãnh dự thầu như đối với các
lĩnh vực mua sắm khác. Bên cạnh đó, tính độc lập, khách quan, trung thực, kiên quyết
luôn là những yếu tố không thể thiếu đối với những nhà tư vấn đích thực.
 Đấu thầu mua sắm hàng hoá (Tender for procurement goods)
Trong đấu thầu mua sắm hàng hoá, các nhà thầu cạnh tranh nhau thông qua
việc đảm bảo cung cấp hàng hoá có đủ chất lượng theo yêu cầu của cơ quan mua sắm
nhưng với chi phí hợp lý nhất cùng với các dịch vụ bảo hành, bảo trì, dịch vụ sau bán
hàng thuận lợi đối với người mua. Sự cạnh tranh trong cung cấp hàng hoá còn thể
hiện ở chỗ nhà thầu đưa ra những hàng hoá (đặc biệt là thiết bị) với công nghệ mới,
đem lại nhiều lợi thế trong sử dụng. Cũng tương tự như trong cung cấp dịch vụ tư vấn,
các nhà thầu cung cấp hàng hoá luôn cạnh tranh nhau bằng uy tín của mình.
 Đấu thầu xây lắp (Tender for works)
Trong lĩnh vực xây lắp, các nhà thầu xây dựng luôn cạnh tranh nhau về giải
pháp để thực hiện thiết kế nêu trong hồ sơ mời thầu sao cho đáp ứng yêu cầu về chất
lượng với chi phí thấp nhất. Giải pháp thực hiện của nhà thầu xây dựng gắn liền với
kinh nghiệm đã đúc kết, gắn với việc áp dụng công nghệ mới và không bỏ qua các
biện pháp thực hiện phù hợp với điều kiện thi công thực tế. Trong đấu thầu xây lắp,
giải pháp thực hiện luôn là yếu tố quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc đấu thầu.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp không yêu cầu kỹ thuật cao thì việc đưa ra các
đơn giá cạnh tranh lại là cơ sở giúp các nhà thầu thắng thầu.
13
Tuy tính chất cạnh tranh trong 3 lĩnh vực nêu trên khác nhau, song đều có
chung mục đích là thoả mãn các yêu cầu của bên mua với chi phí thấp nhất. Nhờ sự
cạnh tranh giữa các nhà thầu, bên mua luôn có cơ hội tìm được một dịch vụ theo ý
muốn với chi phí hợp lý. Mặt khác nhờ có sự cạnh tranh mà các nhà thầu phải luôn
luôn phải tự hoàn thiện mình để tồn tại và vươn lên. Như vậy, cạnh tranh chẳng những
đem lại lợi ích cho người mua, cho các nhà thầu, mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã
hội. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với Nhà nước là phải tạo ra môi trường và thúc đẩy sự
cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu.
Ngoài 3 loại lĩnh vực trên, nhiều nước trên thế giới còn có loại đấu thầu lựa
chọn đối tác thực hiện dự án (Tender for Project). Đây là hình thức phổ biến được
áp dụng khi một dự án có từ hai đối tác trở lên.
Căn cứ vào hình thức lựa chọn nhà thầu, có thể phân loại đấu thầu thành
các hình thức sau:
 Đấu thầu mở rộng (open bidding hay international competitive)
Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong đó không
hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự (Khoản 1, Điều 20 Luật Đấu thầu
2013). Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu
trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo trên tờ thông tin về đấu
thầu và trang web để đấu thầu của Nhà nước và của Bộ, ngành, địa phương tối thiểu
một thời gian xác định trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là
hình thức chủ yếu áp dụng trong đấu thầu.
Hình thức này này có ưu điểm là khuyến khích tính cạnh tranh giữa các nhà
thầu. Các nhà thầu luôn đưa ra các giải pháp tiêu chuẩn đạt chất lượng cao với chi
phí tài chính thấp nhất. Tuy nhiên do số lượng nhà thầu không hạn chế nên có thể có
nhà thầu chưa đủ năng lực vẫn tham gia dự thầu. Đồng thời, do số lượng nhà thầu
lớn nên mất nhiều thời gian và chi phí cho việc tổ chức đấu thầu.
 Đấu thầu hạn chế (limited bidding)
Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong trường hợp gói thầu có yêu cầu cao
về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng yêu
cầu của gói thầu.
14
Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
(i)Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu; (ii)Theo
yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn sử dụng cho gói thầu và (iii)Gói
thầu có yêu cầu cao về kĩ thuật hoặc kĩ thuật có tính đặc thù, gói thầu có tính chất
nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu
của gói thầu.
Hình thức này có ưu điểm là các nhà thầu tham gia đấu thầu là những người
thực sự có đủ năng lực về mọi mặt, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ đầu tư.
Công tác tổ chức đấu thầu cũng tốn ít thời gian và chi phí hơn so với tổ chức đấu
thầu rộng rãi. Tuy nhiên, do hạn chế số lượng nhà thầu nên cũng hạn chế một phần
sự đa dạng trong cạnh tranh giữa các nhà thầu. Đây là hình thức được áp dụng ở
nhiều ngành, địa phương do vậy hiệu quả đạt được không cao, đây cũng là kẽ hở dễ
tạo ra hiện tượng tiêu cực.
 Chỉ định thầu (Single bidding)
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để thương thảo hợp đồng. Điều 22 Luật Đấu thầu 2013, chỉ định thầu đối với
nhà thầu được áp dụng trong các trường hợp sau đây [12].
- Gói thầu cần thực hiện để khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời hậu quả
gây ra do sự cố bất khả kháng; gói thầu cần thực hiện để bảo đảm bí mật nhà nước;
gói thầu cần triển khai ngay để tránh gây nguy hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe
và tài sản của cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc để không ảnh hưởng nghiêm
trọng đến công trình liền kề; gói thầu mua thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế để
triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh trong trường hợp cấp bách;
- Gói thầu cấp bách cần triển khai nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc
gia, biên giới quốc gia, hải đảo;
- Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa
phải mua từ nhà thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về
công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác; gói thầu có tính
chất nghiên cứu, thử nghiệm; mua bản quyền sở hữu trí tuệ;
- Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế
15
xây dựng được chỉ định cho tác giả của thiết kế kiến trúc công trình trúng tuyển
hoặc được tuyển chọn khi tác giả có đủ điều kiện năng lực theo quy định; gói thầu
thi công xây dựng tượng đài, phù điêu, tranh hoành tráng, tác phẩm nghệ thuật gắn
với quyền tác giả từ khâu sáng tác đến thi công công trình;
- Gói thầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên
ngành trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng; gói thầu rà phá
bom, mìn, vật nổ để chuẩn bị mặt bằng thi công xây dựng công trình;
- Gói thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá gói thầu trong
hạn mức được áp dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
 Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này thường được áp dụng cho các gói thầu mua sắm hàng hoá có
giá trị không quá lớn. Mỗi gói thầu thường phải có ít nhất 3 chào hàng của 3 nhà
thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng của bên mời thầu. Việc gửi chào hàng
có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng đường bưu điện hoặc
bằng các phương tiện khác.
 Mua sắm trực tiếp
Hình thức mua sắm trực tiếp được áp dụng trong các trường hợp bổ sung
hợp đồng cũ đã thực hiện xong (dưới một năm) hoặc hợp đồng đang thực hiện với
điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá hoặc khối lượng công
việc mà trước đó đã được tiến hành đấu thầu, nhưng phải đảm bảo không được vượt
mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã kí trước đó. Trước khi kí hợp đồng, nhà
thầu phải chứng minh có đủ năng lực về kĩ thuật và tài chính để thực hiện gói thầu.
 Tự thực hiện (tự thầu)
Hình thức này chỉ áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng
lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ các quy định của Nhà nước.
 Mua sắm đặc biệt
Hình thức này được áp dụng đối với các ngành đặc thù mà nếu không có
những quy định riêng thì không thể đấu thầu được. Cơ quan quản lí ngành phải xây
dựng được quy trình thực hiện đảm bảo các mục tiêu của Quy chế đấu thầu và có ý
16
kiến thống nhất của Cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
Căn cứ vào phƣơng thức áp dụng, hoạt động đấu thầu có thể được phân
loại thành 3 phương thức
 Đấu thầu 1 túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu cần
nộp các đề xuất về kỹ thuật, tài chính, giá bỏ thầu và những điều kiện khác trong
một túi hồ sơ chung. Phương thức này được áp dụng với đấu thầu mua sắm hàng
hoá và xây lắp.
 Đấu thầu 2 túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu cần
nộp những đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng vào
cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh
giá, xếp hạng. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi
hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này chỉ áp dụng đối với đấu thầu
tuyển chọn tư vấn.
 Đấu thầu 2 giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho các gói thầu xây lắp
và mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về
công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp hoặc đối với các dự
án thực hiện theo hợp đồng “chìa khoá trao tay”.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển lý luận về đấu thầu
Đấu thầu là một trong những phương thức mua sắm hàng hoá, dịch vụ được
ra đời và phát triển cùng với phương thức sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt và
các cuộc khủng hoảng đã dẫn đến sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản độc quyền và Chủ
nghĩa tư bản Nhà nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Độc quyền ra đời từ tự
do cạnh tranh, sau đó đối lập với tự do cạnh tranh, nhưng không thủ tiêu tự do cạnh
tranh mà làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Nhà nước tư bản vừa là người
đại diện, người bảo vệ cho giai cấp tư sản và vừa là người điều tiết quá trình sản
xuất, đồng thời cũng là người cung cấp vốn để nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu
khoa học - kỹ thuật. Nhà nước điều tiết các chương trình, các mục tiêu phát triển
kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, các chính sách kinh tế… Ngoài ra, nhà nước
còn bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng, phát triển các ngành
17
kinh tế cần thiết cho xã hội, nhưng lại có hiệu quả kinh tế thấp, lâu hoàn vốn…,
những mua sắm chi tiêu đó của Chính phủ đã trở thành mục tiêu cạnh tranh gay gắt
giữa các tổ chức kinh tế tài chính. Do vậy, để điều chỉnh hoạt động nói trên ở hầu
hết các nước tư bản đều có những luật mua sắm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hoạt động đấu thầu xuất hiện từ rất sớm nhưng các quy định của pháp luật
liên quan đến đấu thầu ra đời muộn hơn và xuất hiện đầu tiên ở Anh. Cho đến khi
Hiệp hội kỹ sư tư vấn quốc tế thành lập thì quy trình đấu thầu ngày càng được hoàn
thiện hơn. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy các quy định về đấu thầu ở các tổ
chức quốc tế và ở các quốc gia khắp trên thế giới. Các quy định này ngày càng được
kiện toàn và thích nghi với các quốc gia và thông lệ quốc tế là cơ sở để Hội nhập
kinh tế toàn cầu.
Trong tương lai, khi xã hội càng phát triển, nền kinh tế càng giàu mạnh, đấu
thầu sẽ càng được sử dụng rộng rãi hơn. thị trường đấu thầu là nơi diễn ra sự mua
bán hàng hoá, dịch vụ, là sự tổng hợp các mối quan hệ, các thành viên tham gia vào
thị trường này đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích kinh tế của mình. Xuất phát từ
những đặc trưng riêng hoạt động đấu thầu giúp tận dụng lợi thế của các quy luật kinh
tế khách quan trong cơ chế kinh tế thị trường mang lại lợi ích cho các chủ thể tham
gia và cho cả nền kinh tế thúc đẩy xã hội pháttriển.
Ở Việt Nam, hoạt động đấu thầu được áp dụng trong khoảng thời gian trên
10 năm trở lại đây, đặc biệt kể từ khi hoạt động viện trợ của các định chế tài chính,
tổ chức tài trợ, cho vay quốc tế được nối lại thì hoạt động đấu thầu ngày càng được
chú trọng nghiên cứu và hoàn thiện. Thông qua đấu thầu, việc thực hiện sử dụng
ngân sách nhà nước minh bạch, công bằng hơn, các chủ đầu tư, đơn vị có chức năng
thực hiện, đơn vị được cho phép sử dụng nguồn vốn, ngân sách đã lựa chọn được
những nhà thầu đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện các dự án, gói thầu làm thay
đổi diện mạo kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội của đất nước. Hàng loạt các công trình
lớn đã được xây dựng, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế đấtnước
phát triển. Thông qua đấu thầu, các nhà thầu trong nước từ khi chỉ làm thầu phụ cho
các nhà thầu nước ngoài đến nay đã lớn mạnh có thể tham gia đấu thầu cạnh tranh
bình đẳng với nhà thầu nước ngoài để dành được các hợp đồng lớn. Ngoài ra, các
18
chủ đầu tư, bên mời thầu đã được tăng cường rất nhiều về năng lực, từ chỗ hiểu đấu
thầu còn mơ hồ đến nay đã có thể thực hiện công tác đấu thầu thuần thục.
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu
Dù thuộc hình thức hay lĩnh vực nào, hoạt động đấu thầu nói chung và đấu
thầu quốc tế nói riêng đều phải đảm đảo đúng và đầy đủ các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc hiệu quả về tài chính và hiệu quả về thờigian.
- Nguyên tắc cạnh tranh: nguyên tắc cạnh tranh tạo điều kiện cho các nhà
thầu cạnh tranh với nhau ở phạm vi rộng nhất cóthể.
- Nguyên tắc công bằng: nguyên tắc này đảm bảo đối xử như nhau đối với các
nhà thầu tham gia dự thầu.
- Nguyên tắc minh bạch: đây là nguyên tắc quan trọng nhất nhưng khó thực
hiện và khó kiểm tra nhất. Nguyên tắc này yêu cầu trong quá trình thực hiện đấu
thầu thì các hoạt động diễn ra không được gây nghi ngờ cho các nhà thầu, Bên mời
thầu và cơ quan quản lý.
1.1.4. Khung pháp lý về đấu thầu quốc tế ở Việt Nam
Với chủ trương tích cực và chủ động trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều chính
sách về quản lý kinh tế liên quan đến đầu tư nói chung và đấu thầu nói riêng. Bảng
thống kê hệ thống hóa các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý đấu thầu được thể
hiện tại Phụ lục 1 - Danh mục văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu hiện hành.
Kể từ khi Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 được ban hành ngày 29 tháng 11
năm 2005, có thể nói hệ thống các văn bản luật, nghị định, thông tư và các văn bản
quy phạm pháp luật khác về đấu thầu đã có xu hướng ngày càng trở nên rõ ràng, đơn
giản, gần với quy định của các tổ chức quốc tế và dễ thực hiện hơn. Công việc đấu
thầu đã dần đi vào nề nếp và trở nên cần thiết đối với xã hội, đồng thời là công cụ
không thể thiếu góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trước áp lực của
tiến trình hội nhập, cơ chế thị trường ngày càng hoàn thiện, yêu cầu về tính minh bạch
và công bằng trong hoạt động mua sắm ở các nước trên thế giới ngày càng đòi hỏi
mức độ cao hơn. Vì vậy, chính sách về đấu thầu cũng cần được luật hoá ở mức độ
ngày càng cao, sát với thực tế hơn và hoàn thiện hơn về nội dung.
19
Với chính sách đổi mới, kinh tế Việt Nam đã được định hướng phát triển theo
cơ chế thị trường và ngày càng vận hành tiếp cận đầy đủ hơn với các quy luật điều
chỉnh đó. Để đảm bảo phát triển thực chất, ba quy luật căn bản điều chỉnh nền kinh tế
thị trường cần phải được hiểu rõ và thực thi tích cực, đó là: Quy luật Cung - Cầu; Quy
luật Giá trị và Quy luật Cạnh tranh.
Trong các quy luật căn bản trên thì quy luật Cạnh tranh là thuộc tính quan
trọng, vừa là công cụ, vừa là đòn bẩy để hai quy luật Cung-Cầu và Giá trị vận hành có
hiệu quả. Tạo dựng được môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch là tiêu chí
hàng đầu để vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phấn đấu, sáng tạo nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình, đồng thời cũng là để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu
tư có chiến lược đầu tư và tạo dựng quan hệ thương mại dài hạn. Ngược lại, nếu môi
trường cạnh tranh không đảm bảo lành mạnh, thiếu minh bạch và tính giải trình thấp
sẽ đánh mất động lực, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia thị
trường dẫn đến hậu quả là cơ chế thị trường sẽ dần biến mất, động lực phát triển của
nền kinh tế sẽ tàn lụi dần, không thể hội nhập được với thị trường cạnh tranh tađang
theo đuổi.
Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 ra đời và được
hoàn thiện tại Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 cùng các hướng dẫn về công tác đấu
thầu như Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ, các thông tư
hướng dẫn liên quan đã thể hiện rõ các quan điểm và giải pháp đảm bảo cho việc thực
thi quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường nêu trên. Các mục tiêu chính mà Luật
Đấu thầu hướng tới là:
- Đảm bảo tính hiệu quả tổng thể cao nhất của chi phí bỏra.
- Tạo dựng môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch để cơ chế vận hành
ổn định, phát triển bền vững.
- Ứng dụng ngày càng rộng rãi và hiệu quả công nghệ thông tin tiên tiến.
Với các mục tiêu và phương châm để đảm bảo cho quy luật cạnh tranh được
vận hành tốt như nêu trên, Luật Đấu thầu 2013 đã cụ thể hóa thông qua các mảng nội
dung sau:
20
(i) Áp dụng các quy trình lựa chọn nhà thầu khoa học, cập nhật tiên tiến nhất
và phù hợp với thực tiễn.
(ii) Kế hoạch lựa chọn nhà thầu với đầy đủ nội dung được luận chứng khoa
học lựa chọn phương án cho mỗi nội dung và là bước yêu cầu bắt buộc thông qua cấp
cao nhất phê duyệt, bao gồm: phân chia gói thầu, phương thức phân chia và quản lý
rủi ro trong hợp đồng và hình thức lựa chọn nhà thầu.
(iii) Công khai thông tin để đảm bảo tính minh bạch thông qua việc vận hành
trang thông tin điện tử quốc gia và báo giấy.
(iv) Thương mại tự do qua mô hình thương mại điện tử và đấu thầu qua
mạng.
(v) Chuyên nghiệp hóa cao trong đấu thầu thông qua việc xác lập, quy định
về các tổ chức tư vấn đấu thầu chuyên nghiệp và chứng chỉ chuyên môn trong đấu
thầu.
(vi) Hệ thống yêu cầu kiểm soát tính tuân thủ được quy định cụ thể.
Luật Đấu thầu đã quy định chi tiết về thủ tục, quy trình và nội dung từng bước
để thực thi các mục tiêu trên. Có thể nói, Luật Đấu thầu là một trong những công cụ
mẫu mực phục vụ tích cực cho cơ chế thị trường phát triển. Hiện nay, Chính phủ và
Quốc hội đang đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật, đổi mới cơ
chế quản lý trong tiến trình đổi mới thể chế kinh tế với mục tiêu để đảm bảo các điều
kiện để nền kinh tế thị trường vận hành theo quy luật đầy đủ của nó.
Để đảm bảo cho việc tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng cao, LuậtĐấu
thầu cũng đã có hệ thống các điều khoản kiểm soát tính tuân thủ, quy định chi tiết cơ
chế kiểm tra giám sát việc tuân thủ đó. Các quy định đó được thể hiện qua một số nội
dung, như:
- Quy định về đảm bảo cạnh tranh trong đấuthầu
- Quy định về các yêu cầu tối thiểu đáp ứng về năng lực, kinh nghiệm, tiêu
chuẩn áp dụng.
- Các nhóm hành vi (9 nhóm) bị cấm trong đấu thầu.
- Cơ chế giải quyết kiến nghị và tranh chấp trong đấuthầu.
21
1.2. Tổng quan lý luận về giải quyết xung đột pháp luật đấu thầu tại
Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về đấu thầu
Mỗi quốc gia đều tự xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng nhằm
khẳng định chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình. Tuy
nhiên, giữa các hệ thống pháp luật này luôn có sự khác nhau, thậm chí là trái ngược
nhau do những nguyên nhân về điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội hay hoàn cảnh
địa lý… Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, việc các quốc gia liên kết với
nhau để cùng hợp tác và phát triển trở nên ngày càng phổ biến, quá trình hợp tác,
đặc biệt trong hợp tác kinh tế không tránh khỏi các hiện tượng xung đột pháp luật
xảy ra. Như vậy, xung đột pháp luật được hiểu là “hiện tượng pháp lý trong đó hai
hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp
luật có sự khác nhau”.
Nguyên nhân làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật là do các quan hệ
dân dự có yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng các quy phạm thực chất
thống nhất hoặc có sự khác nhau về nội dung trong pháp luật của các nước hoặc
khác nhau trong việc giải thích và áp dụng những quy định giống nhau về mặt hình
thức.
Đấu thầu là một loại quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự theo nghĩa
rộng do đó, trên thực tế cũng phát sinh tình trạng xung đột pháp luật giữa các hệ
thống pháp luật của các nước khác nhau về vấn đề này. Có thể hiểu xung đột pháp
luật trong lĩnh vực đấu thầu ở Việt Nam là hiện tượng pháp lý trong đó hai hay
nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ đấu thầu có yếu
tố nước ngoài mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật có sự khác nhau.
Các xung đột này cần phải được giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
đấu thầu có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
1.2.2. Khái niệm Hiệp định vay và việc thực hiện Hiệp định vay quốc tế ở
Việt Nam
Hiệp định vay là thỏa thuận pháp lý quốc tế trong đó có các điều khoản và
22
điều kiện của nước hoặc tổ chức cho vay bao gồm: về khoản vay, các cơ chế về đấu
thầu hàng hóa và dịch vụ cho dự án, giải ngân vốn và các vấn đề khác.
Khoản vay tại Hiệp định vay bao gồm Khoản vay hoặc viện trợ không hoàn
lại, không ràng buộc và khoản vay hoặc viện trợ không hoàn lại có ràng buộc: (1)
Khoản vay hoặc viện trợ không hoàn lại không ràng buộc là khoản vay bằng vốn
vay hoặc không hoàn lại không kèm theo những điều khoản ràng buộc liên quan
đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ. (2) Khoản vay hoặc viện trợ không
hoàn lại có ràng buộc là khoản vay bằng vốn vay hoặc không hoàn lại có kèm theo
các điều kiện liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ từ một số
nhà cung cấp hoặc quốc gia nhất định do nhà tài trợ quyết định.[1]
Các tổ chức cho vay thường là: Những tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp
quốc như: UNDP, UNICEP, UNIDO, FAO, UNFPA, WB, IDA, IMF; Các tổ chức
liên Chính phủ như Liên minh châu Âu, Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển, Hiệp
hội các nước ASEAN…; Các tổ chức tài chính khu vực như: Ngân hàng phát triển
Châu á, Ngân hàng đầu tư Châu Âu…; Các khoản vay chính thức này thường kèm
theo những điều kiện tương đối khắt khe về mặt vĩ mô. Lẽ đương nhiên, các khoản
ODA do IDA, IMF, ADB.. cung cấp cho Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc chung,
một trong số các nguyên tắc bắt buộc đó chính là phải tuân thủ các thủ tục, thể lệ và
quy định của việc sử dụng và thực hiện sử dụng vốn vay này. Trong khi đó, đấu
thầu là vấn đề nhạy cảm trong chính sách kinh tế của các quốc gia nên môi trường
đầu thầu luôn tại tồn tại những vấn đề xung đột liên quan đến cơ chế pháp lý. Qua
khảo sát cho thấy, phần lớn các xung đột pháp luật về đấu thầu là những vấn đề liên
quan tới minh bạch và cạnh tranh, một số ít liên quan tới các vấn đề về đấu thầu (ví
dụ các điều kiện đối với từng hình thức đấu thầu, tiêu chuẩn kỹ thuật trong đấu thầu,
khiếu nại khiếu kiện trong đấu thầu…). Do vậy, việc giải quyết các xung đột pháp
luật về đấu thầu tại mỗi quốc gia cũng như tại Việt Nam là vô cùng quan trọng.
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho hoạt động
vay nợ quốc tế ngày càng trở thành một hoạt động tài chính quốc tế phổ biến với
nhiều chủ thể ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hoạt động vay nợ quốc tế có vai trò
quan trọng trong việc tăng thêm nguồn vốn ngoại tệ, giúp các chủ thể vượt qua khó
23
khăn về vốn, đồng thời, góp phần khơi dậy tiềm năng và thúc đẩy sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực sẵn có của chủ thể. Tuy nhiên, cùng như mọi hoạt động kinh tế
khác, hoạt động vay nợ quốc tế cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Hiệu quả của
hoạt động vay nợ quốc tế chỉ có thể được đảm bảo khi công tác quản trị vay nợ
quốc tế được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ và đầy đủ, qua đó giúp góp
phần thúc đẩy cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thúc đẩy ổn định kinh tế vĩ mô,
đẩy mạnh tăng trưởng bền vững của nền kinh tế đất nước.
Là một trong những quốc gia đang trong quá trình phát triển, vấn đề vay và
trả nợ nước ngoài được Chính phủ Việt Nam quan tâm từ rất sớm. Nghị định số
134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ xác định rõ: vay nước ngoài là
các khoản vay ngắn hạn (có thời hạn vay đến một năm), trung và dài hạn (có thời
hạn vay trên một năm) có hoặc không trả lãi do Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và
các tổ chức là người cư trú ở Việt Nam (gọi tắt là bên đi vay) vay của các tổ chức
tài chính quốc tế, Chính phủ các nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài khác
(gọi tắt là bên cho vay nước ngoài).[15]
Căn cứ vào tính chất của khoản vay, có thể phân loại vay nợ nước ngoài
thành các hình thức sau:
- Theo chủ thể cho vay: gồm các khoản vay song phương và khoản vay đa
phương, theo đó vay đa phương chủ yếu đến từ các cơ quan của Liên hợp quốc,
Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong
khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ; vay song phương
đến từ chính phủ của một nước, vùng lãnh thổ hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân
danh một chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính hay viện trợ nhânđạo.
- Theo loại hình đi vay: gồm vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay
thương mại, theo đó, (i) vay ODA bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa
các chính phủ) hoặc đa phương trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là
cho không. Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại hình vay nợ có nhiều điều kiện
ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ
phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay
ODA dài (có thể 10,15 hay 20, 50 năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy các nước
24
đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình
xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên hình thức vay này thường đi kèm theo
những điều kiện ràng buộc cụ thể. (ii) vay thương mại là hình thức vay không có ưu
đãi về lãi suất và thời gian ân hạn mà áp dụng theo lãi suất thị trường tài chính quốc
tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường.
- Theo thời hạn vay: bao gồm vay ngắn hạn có thời gian đáo hạn 1 năm trở
xuống và vay dài hạn có thời gian vay kéo dài trên 1 năm kể từ ngày ký kếtvay.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, có thể nói nguồn vốn vay
nước ngoài có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam. Nguồn vốn này được đưa vào đầu
tư công, trở thành nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế,
điều chỉnh cán cân thanh toán quốc gia, phục vụ các chương trình công nghiệp hoá
dài hạn, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp đầu vào để phát triển các ngành công
nghiệp cơ bản. Vốn vay nước ngoài cũng đóng vai trò quan trọng đối với phát triển
nông nghiệp, nông thôn đặc biệt là cơ sở hạ tầng, điện, nước, giao thông từ đó tác
động tích cực tới công cuộc xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn, nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo ở Việt Nam trong thời gian qua. Vốn vay nước ngoài tham gia
mạnh mẽ vào quá trình phát triển dịch vụ công cộng, y tế, văn hoá, giáo dục, khoa
học kỹ thuật, góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước, thu hút, mở rộng các
hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đồng thời góp phần ổn định tiêu dùng
trong nước vượt qua tình trạng khủng hoảng tài chính.
Các khoản vay quốc tế được ghi nhận thông qua các hiệp định vay quốc tế -
đây là một loại hình cụ thể của Hiệp định quốc tế/hay Điều ước quốc tế nói chung,
theo đó hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ thỏa thuận với nhau bằng văn
bản về việc vay nợ một khoản tiền nhất định thông qua nhiều hình thức khác nhau
phục vụ các mục đích công.
Hầu hết các khoản vay của Việt Nam là những khoản vay ODA hoặc vay ưu
đãi của các tổ chức quốc tế, chủ yếu là của ADB, WB và Nhật Bản nên thời gian
vay thường dài, lãi vay ưu đãi, chi phí vay thấp, ít có biến động trong cơ cấu vay
nợ.
25
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu quốc tế
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là việc các quốc gia lựa chọn
một hệ thống pháp luật nào đó để áp dụng giải quyết một quan hệ phát luật phát
sinh. Điều này có nghĩa là việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào để áp dụng sẽ
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tòa án có thẩm quyền hoặc sẽ không phụ
thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ đó. Đây cũng là mục đích của tư pháp
quốc tế nhằm đảm bảo giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh một cách khách
quan, trọn vẹn trên cơ sở hợp tác bình đẳng, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa các quốc
gia. Thực tế hiện nay, hầu hết các nước đều có những cách thức và biện pháp riêng
của mình để điều chỉnh và phân định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào
các quan hệ pháp luật dân sự mang tính chất quốc tế. Trong đó có hai phương pháp
phổ biến là Phương pháp xung đột và Phương pháp thực chất. Nhìn chung, mỗi
phương pháp đều có những ưu thế và hạn chế nhất định tác động hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Do đó, việc phối hợp cả hai phương pháp này một cách mềm dẻo, linh
hoạt vào giải quyết các quan hệ pháp luật sẽ mang lại những tác động tích cực
không chỉ đối với quan hệ đó nói riêng mà lớn hơn là tình hữu hảo, giao lưu, phát
triển lâu dài giữa các quốc gia với nhau nói chung.
 Phương pháp thực chất: được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy
phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa
là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ.
Các quy phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức:
+ Trong các điều ước quốc tế (quy phạm thực chất thống nhất): Đây là
trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các điều ước quốc tế.
Trong quá trình hợp tác quốc tế về mọi mặt: kinh tế, thương mại, kỹ thuật, văn hóa,
giao thông vận tải… Hay có thể nói rằng đây là quá trình quốc tế hóa đời sống kinh
tế - xã hội giữa các nước.
+ Trong các văn bản pháp luật của một quốc gia (quy phạm thực chất trong
nước).
Việc sử dụng phương pháp thực chất là việc các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết cũng như các bên tham gia quan hệ pháp luật chiếu theo các quy phạm thực
26
chất đã được quy định sẵn trong các điều ước quốc tế hoặc đã được quy định trong
luật quốc gia để xem xét và giải quyết các xung đột. Điều này có nghĩa là sẽ trực
tiếp áp dụng quy phạm đó để giải quyết và loại trừ việc phải chọn luật và áp dụng
luật nước ngoài. Phương pháp này có ưu điểm hơn so với phương pháp xung đột là
nó giải quyết trực tiếp các quan hệ và chỉ áp dụng trong các quan hệ, lĩnh vực cụ thể.
Phương pháp này giúp cho việc giải quyết các xung đột nhanh chóng hơn, không
phải qua giai đoạn chọn hệ thống luật và các quy phạm của hệ thống luật đó để giải
quyết.
Phương pháp này còn được thực hiện bằng cách các quốc gia kí kết điều
ước quốc tế và ghi nhận các quy phạm thực chất thống nhất trong đó nhằm làm tăng
khả năng điều chỉnh hữu hiệu của luật pháp, tính khả thi cao hơn, loại bỏ được sự
khác biệt, thậm chí mâu thuẫn trong luật pháp giữa các nước với nhau.
Tuy nhiên, các quy phạm thực chất, do tính cụ thể và trực tiếp của nó mà
đôi khi không thể trù liệu được hết các lĩnh vực cũng như quan hệ phát sinh. Không
những thế, phần lớn các quốc gia có điều kiện kinh tế chính trị xã hội khác nhau, do
đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống nhất chung giữa các quốc gia là
điều không hề đơn giản.
 Phương pháp xung đột: được hình thành khá sớm và xây dựng trên nền
tảng hệ thống các quy phạm xung đột của các quốc gia, đó là hệ thống các quy
phạm xung đột của nước mà tòa án ở đó có thẩm quyền giải quyết (theo nguyên tắc
Lex fori). Quy phạm xung đột là quy phạm mang tính chất dẫn chiếu, ấn định luật
pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố
nước ngoài trong một tình huống thực tế. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền giải quyết
phải chọn ra một hệ thống pháp luật của nước này hay nước kia có liên đới tới yếu
tố nước ngoài đề xác định quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự.
Xuất phát từ đặc điểm của quy phạm xung đột, có thể thấy phương pháp
xung đột mang tính chất chung, gián tiếp giải quyết các quan hệ cụ thể. Việc xây
dựng các quy phạm xung đột có một ý nghĩa quan trọng trong tư pháp quốc tế
hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế chính trị của các quốc gia ngày
càng phát triển, đòi hỏi các nước phải có quan hệ mật thiết với nhau. Khi đó, việc
27
bảo hộ cho công dân nước nước mình tại nước ngoài cũng như trong nước sẽ là một
vấn đề cần phải được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, các quan hệ pháp luật dân sự theo
nghĩa rộng là những quan hệ luôn có tính chất vượt ra khỏi “biên giới” của quốc gia
hay nói cách khác nó luôn luôn liên quan đến một hoặc nhiều quốc gia khác. Do đó,
việc thừa nhận quy phạm xung đột là công cụ chủ yếu để thiết lập và bảo đảm một
trật tự pháp lý trong quan hệ pháp luật dân sự quốc tế. Chính vì thế, phương pháp
xung đột được sử dụng cả ở các nước theo hệ thống luật thực định (các nước châu
Âu lục địa như Đức, Pháp…), cũng như ở các nước theo hệ thống luật thực hành
(như Anh, Pháp…). Phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết các vấn đề dân
sự có yếu tố nước ngoài một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Qua đó, tránh được những
tranh chấp giữa các quốc gia, gây bất ổn đến quan hệ giữa các nước với nhau, quan
trọng nhất là điều hòa được lợi ích giữa các quốc gia.
Bên cạnh những ưu điểm của phương pháp này, còn phải nói đến những hạn
chế nhất định không thể tránh khỏi. Vì pháp luật của các nước có những quy định
khác nhau, việc sử dụng quy phạm xung đột để giải quyết được xem là giải pháp tốt
nhất. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và riêng biệt của quy phạm xung đột mà vẫn
có những trường hợp Tòa án không chọn được luật thực chất để áp dụng bởi chưa
có quy phạm xung đột trong lĩnh vực đó hoặc đối với các nước thuộc hệ thống Luật
Anh- Mỹ thì vấn đề này càng trở nên phức tạp.
Các chuyên gia cho rằng phương pháp thực chất thể hiện được tính ưu việt
hơn hẳn so với phương pháp xung đột bởi sự nhanh chóng, cụ thể trong việc áp
dụng luật điều chỉnh một quan hệ pháp luật nào đó. Tuy nhiên, phương pháp thực
chất khó có thể xây dựng và đi đến thống nhất giữa các bên bởi hầu hết các quốc gia
không có sự tương đồng về lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích… Do đó,
việc xây dựng được một quy phạm thực chất là rất khó khăn.
Đối chiếu vào thực tiễn áp dụng các phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật tại Việt Nam, có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam hiện nay không có những
điều luật cụ thể nói về khái niệm, định nghĩa các phương pháp, nhưng chúng ta có
thể rút ra từ những quy định mà bản chất chính là sự áp dụng các phương pháp đó
trong các vấn đề cụ thể.
28
Đối với phương pháp thực chất, xuất phát từ chủ quyền quốc gia , quốc gia
có quyền tài phán đối với các chủ thể, quan hệ có yếu tố nước ngoài trong lãnh thổ
của mình. Chính vì thế, Nhà nước Việt Nam đã ban hành những văn bản pháp luật
quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ đối với người nước ngoài. Phần lớn các quy
định trong hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan đến người nước ngoài là các
quy phạm thực chất. Bên cạnh luật quốc gia, các quy phạm thực chất còn được thể
hiện trong điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc gia nhập. Trong các
điều ước quốc tế đó, các bên (có Việt Nam) thỏa thuận với nhau những cách thức,
giải pháp giải quyết các vấn đề khi tranh chấp xảy ra. Ngoài ra, phương pháp thực
chất còn thể hiện ở các tập quán quốc tế mà Việt Nam công nhận. Khi đó, những tập
quán đó được áp dụng và các chủ thể sẽ bị xử lý theo pháp luật khi họ vi phạm.
- Đối với phương pháp xung đột, xu thế hội nhập với thế giới đã làm phát
sinh những vấn đề liên quan đến hai hay nhiều nước khi công dân, pháp nhân của
họ tham gia quan hệ pháp luật với nhau… Để giải quyết những vấn đề pháp lý trên,
khi mà không thể sử dụng được ngay các quy phạm thực chất thì luật pháp của mỗi
nước đều đã xây dựng những quy phạm xung đột riêng của mình. Ở Việt Nam cũng
vậy, quy phạm xung đột thường được thể hiện trong các văn bản pháp luật quốc gia.
Tuy nhiên, quy phạm xung đột trong luật pháp thường xây được xây dựng trong Bộ
luật Dân sự là chủ yếu. Bởi lẽ chúng điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài. Do đó, quy phạm xung đột luôn mang tính chất dân sự. Hơn thế nữa, quy
phạm xung đột cùng với các quy phạm thực chất mà nó dẫn chiếu tới quy định các
quy tắc xử sự cho các bên tham gia các quá trình quan hệ dân sự. Bên cạnh đó, các
quy phạm xung đột còn được quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp và
pháp lý (song phương và đa phương) giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
Như đã đề cập ở phần trên, đấu thầu là một loại quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng, do đó việc giải quyết các vấn đề xung đột pháp luật trong lĩnh vực này cũng
hoàn toàn tương tự như việc giải quyết xung đột pháp luật dân sự theo nghĩa rộng
nói chung đã phân tích trên đây.
29
1.2.4. Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda và vấn đề giải quyết xung đột pháp
luật về đấu thầu quốc tế tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay
quốc tế
1.2.4.1. Sự hình thành Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda
Đây là nguyên tắc có lịch sử lâu đời nhất trong số các nguyên tắc cơ bản
của Luật quốc tế. Tiền thân của nó là nguyên tắc Tuân thủ điều ước quốc tế xuất
hiện từ thời La mã cổ đại và tồn tại hàng ngàn năm dưới dạng tập quán pháp lý quốc
tế trước khi được ghi nhận chính thức trong điều ước quốc tế.
Trước khi có Luật quốc tế hiện đại, nguyên tắc này tồn tại chủ yếu để mang
lại lợi ích cho các nước lớn, bởi vì trước đây điều ước quốc tế thường chứa đựng
các quy phạm mang tính bất bình đẳng do các nước lớn áp đặt cho các nước nhỏ
phải ký kết. Do vậy, tuân thủ chặt chẽ điều ước quốc tế chính là một hình thức hợp
pháp nhất để duy trì lợi ích của các nước lớn.
Hiện nay, nguyên tắc này tồn tại trong hầu hết các văn bản pháp lý quan
trọng của luật quốc tế, và được ghi nhận chính thức tại khoản 2 điều 2 của Hiến
chương Liên hợp quốc: "tất cả các thành viên Liên hợp quốc thiện chí thực hiện các
nghĩa vụ do Hiến chương đặt ra" với tên gọi là nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực
hiện các cam kết quốc tế.
Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế với tư cách là một
nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế, trong đó: “Tất cả các nước thành viên phải làm
tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này.” Điều 26 Công
ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế cũng đã khẳng định tính phổ cập của
nguyên tắc thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế. Theo Công ước Viên 1969:
“Mỗi Điều ước quốc tế hiện hành đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các
bên thực hiện một cách thiện chí.” Tuyên bố về các nguyên tắc của Luật quốc tế
1970 đã mở rộng hơn nữa phạm vi áp dụng của nguyên tắc Pacta sunt servanda.
Theo tuyên bố về các nguyên tắc của Luật quốc tế 1970: “Mỗi quốc gia phải thiện
chí thực hiện các nghĩa vụ quốc tế do hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ phát sinh từ
các quy phạm và nguyên tắc được công nhận rộng rãi của Luật quốc tế. Khi nghĩa
vụ theo Điều ước quốc tế trái với nghĩa vụ của thành viên Liên hợp quốc theo Hiến
30
chương thì nghĩa vụ theo Hiến chương có giá trị ưu tiên.”
Theo các văn kiện pháp lý quốc tế hiện hành, nguyên tắc “Pacta sunt
servanda” chỉ được áp dụng đối với các Điều ước quốc tế có hiệu lực, tức là đối với
những Điều ước quốc tế được ký kết một cách tự nguyện trên cơ sở bình đẳng. Mọi
quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện, có thiện chí, trung thực và đầy đủ
các nghĩa vụ Điều ước quốc tế của mình đó là các nghĩa vụ phát sinh từ Hiến
chương của Liên Hợp Quốc; các nghĩa vụ phát sinh từ các nguyên tắc và quy phạm
được thừa nhận rộng rãi của Luật quốc tế; các nghĩa vụ theo các Điều ước quốc tế
mà quốc gia là thành viên. Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa
vụ Điều ước quốc tế một cách triệt để không phụ thuộc vào các sự kiện trong nước
hay quốc tế. Các sự kiện khách quan như: thay đổi chính phủ, thay đổi hình thức
quản lý hay chế độ xã hội, thiên tai, thay đổi lãnh thổ hay thay đổi hoàn cảnh quốc
tế không thể là lý do để quốc gia không thực hiện Điều ước quốc tế. Các quốc gia
thành viên Điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của pháp luật trong
nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. Yêu cầu này
được coi là một bộ phận không tách rời của nguyên tắc Pacta sunt servanda và được
quy định tại Điều 27 Công ước Viên năm 1969.
1.2.4.2. Ngoại lệ của nguyên tắc
Luật quốc tế đòi hỏi các quốc gia thực hiện tận tâm, có thiện chí và đầy đủ
các nghĩa vụ của điều ước. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng cho phép các quốc gia
có thể không phải thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên trong các
trường hợp sau đây:
- Các quốc gia không phải thực hiện điều ước quốc tế nếu trong quá trình
ký kết các bên có sự vi phạm pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục ký kết.
- Khi điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên hợp quốc và
trái với các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế.
- Khi có sự vi phạm nghiêm trọng của một bên cam kết thì bên còn lại có
quyền từ chối thực hiện, vì nghĩa vụ theo điều ước quốc tế chỉ có thể được thực hiện
trên cơ sở có đi có lại.
- Khi xuất hiện điều khoản Rebus-sic-stantibus (điều khoản về sự thay đổi
31
cơ bản của hoàn cảnh) dẫn đến các bên không thể tiếp tục thực hiện được điều ước
quốc tế (Điều 62 Công ước Viên 1969).
Khi xuất hiện điều khoản này, các quốc gia có thể viện dẫn để thực hiện 1
trong 3 hành vi sau:
- Chấm dứt hiệu lực hành vi này làm mất hoàn toàn hiệu lực của điều ước
quốc" của điều ước quốc tế.
- Hành vi này chỉ tạm thời"- Tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước quốc
tế làm mất hiệu lực của điều ước quốc tế.
- Rút khỏi quan hệ điều ước quốc tế hành vi này không làm chấm dứt hiệu
lực hoàn toàn của điều ước quốc tế. Điều" ước quốc tế chỉ mất hiệu lực với quốc gia
viện dẫn điều khoản Rebus-sic-stantibus, nó vẫn có hiệu lực đối với các quốc gia
thành viên khác của điều ước.
+ Hoàn cảnh bị thay đổi được ghi nhận trong điều 62 Công ước Viên 1969
phải là cơ sở chủ yếu tạo nên sự thỏa thuận của các bên; hoàn cảnh này các bên
không thể thấy trước (dự liệu trước) vào thời điểm ký kết điều ước quốc tế.
+ Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được hiểu là: hoàn cảnh đó bị xáo trộn
lớn đến mức làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các
bên sự thay đổi này vượt ra khỏi tầm kiểm soát"vẫn còn phải thi hành theo điều
ước các bên không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình trong quan"của các
bên hệ điều ước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, sự thay đổi cơ bản
của hoàn cảnh sẽ không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi quan
hệ điều ước nếu đó là điều ước liên quan đến việc thiết lập biên giới quốc gia; hoặc
sự thay đổi đó là kết quả của một sự vi phạm nghiêm trọng của chính bên nêu lên nó.
Trong trường hợp này, bên còn lại có thể viện dẫn chính điều khoản Rebus-sic-
stantibus để giải thoát mình khỏi các nghĩa vụ trong cam kết mà không bị coi là vi
phạm nguyên tắc Pacta sunt servanda. Tuy nhiên, việc áp dụng điều khoản Rebus-
sic-stantibus phải được thông báo cho bên kia biết.
1.2.4.3.Vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam theo
nguyên tắc Pacta Sunt Servanda
Nội dung của nguyên tắc Pacta sunt servanda – nguyên tắc tận tâm, thiện
32
chí thực hiện các cam kết quốc tế biểu hiện ở mặt sau: Mọi quốc gia đều có nghĩa
vụ thực hiện tự nguyện, có thiện chí, trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ ĐƯQT của
mình; Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế,
tuân thủ một cách triệt để, không do dự; Các quốc gia thành viên ĐƯQT không
được coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình; Các quốc gia
không có quyền ký kết ĐƯQT mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình được quy định
trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia ký kết hoặc tham gia ký kết trước đó
với các quốc gia khác; Không được cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực
hiện và xem xét lại ĐƯQT; Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự
giữa các nước thành viên của ĐƯQT không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý
phát sinh giữa các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự
này là cần thiết cho việc thực hiện điều ước (Điều 64 Công ước Viên 1969). Nguyên
tắc này đã được áp dụng để giải quyết các xung đột về đấu thầu quốc tế tại Hiệp
định vay quốc tế tại Việt Nam như sau
Giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu quốc tế trên cơ sở nguyên tắc tôn
trọng các cam kết quốc tế (Pacta Sunt Servanda): Cũng như các quốc gia khác, Việt
Nam có nghĩa vụ phải thực hiện một cách thiện chí những nghĩa vụ mà mình đã
cam kết phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và Luật quốc tế hiện đại. Những
nghĩa vụ đã cam kết ở đây chủ yếu gồm những nghĩa vụ phát sinh từ điều ước, và
những và những nghĩa vụ phát sinh từ các nguồn khác, ví dụ, từ tập quán quốc tế.
Nhưng tất cả những nghĩa vụ đó phải phù hợp với những điều quy định trong Hiến
chương Liên hợp quốc mà trước hết là những mục đích và nguyên tắc của tổ chức
này. Như vậy, đối với những nghĩa vụ không phù hợp với Hiến chương Liên hợp
quốc thì Việt Nam sẽ không được thi hành.
Lịch sử quan hệ quốc tế cho thấy không ít những điều ước quốc tế không
hợp pháp. Điển hình là hiệp ước Mu-ních ngày 29 tháng 9 năm 1938. Những điều
ước như vậy không có giá trị pháp lý cho nên không thể ràng buộc các bên đã ký
kết. Vì vậy, Việt Nam cũng như các quốc gia khác không có nghĩa vụ phải thực hiện
chúng. Nếu những cam kết phát sinh từ điều ước quốc tế trái với những cam kết
theo Hiến chương Liên hợp quốc thì những cam kết theo Hiến chương Liên hợp
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế
Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế

More Related Content

Similar to Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế

Similar to Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế (20)

Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOTĐề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Liên kết các Ngân hàng Thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạn...
Luận văn: Liên kết các Ngân hàng Thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạn...Luận văn: Liên kết các Ngân hàng Thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạn...
Luận văn: Liên kết các Ngân hàng Thương mại Việt Nam để nâng cao năng lực cạn...
 
BÀI MẪU Khóa luận sáp nhập công ty, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận sáp nhập công ty, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận sáp nhập công ty, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận sáp nhập công ty, HAY, 9 ĐIỂM
 
Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam 6831234.pdf
Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam 6831234.pdfPháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam 6831234.pdf
Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam 6831234.pdf
 
Đề tài 27 Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đến đầu tư của nhà...
Đề tài 27 Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đến đầu tư  của nhà...Đề tài 27 Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đến đầu tư  của nhà...
Đề tài 27 Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đến đầu tư của nhà...
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAY
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAYLuận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAY
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về đấu thầu xây dựng, HAY
 
Luận văn: Phát triển thị trường Trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
Luận văn: Phát triển thị trường Trái phiếu doanh nghiệp tại Việt NamLuận văn: Phát triển thị trường Trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
Luận văn: Phát triển thị trường Trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
 
Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước độc quyền ở Vi...
Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước độc quyền ở Vi...Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước độc quyền ở Vi...
Luận văn: Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước độc quyền ở Vi...
 
Kiểm soát hành vi lạm dụng mang tính trục lợi của Doanh nghiệp
Kiểm soát hành vi lạm dụng mang tính trục lợi của Doanh nghiệpKiểm soát hành vi lạm dụng mang tính trục lợi của Doanh nghiệp
Kiểm soát hành vi lạm dụng mang tính trục lợi của Doanh nghiệp
 
Luận văn: Hoàn thiện hệ thống thẩm định niêm yết trên thị trường chứng khoán ...
Luận văn: Hoàn thiện hệ thống thẩm định niêm yết trên thị trường chứng khoán ...Luận văn: Hoàn thiện hệ thống thẩm định niêm yết trên thị trường chứng khoán ...
Luận văn: Hoàn thiện hệ thống thẩm định niêm yết trên thị trường chứng khoán ...
 
Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Lựa Chọn Kỳ Hạn Nợ Của Các Công Ty Niêm Yết Việ...
Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Lựa Chọn Kỳ Hạn Nợ Của Các Công Ty Niêm Yết Việ...Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Lựa Chọn Kỳ Hạn Nợ Của Các Công Ty Niêm Yết Việ...
Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Lựa Chọn Kỳ Hạn Nợ Của Các Công Ty Niêm Yết Việ...
 
Pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt NamPháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hoạt Động Đầu Tư Mạo Hiểm Trên Thế Giới Và Một Số Bài Họ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hoạt Động Đầu Tư Mạo Hiểm Trên Thế Giới Và Một Số Bài Họ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Hoạt Động Đầu Tư Mạo Hiểm Trên Thế Giới Và Một Số Bài Họ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hoạt Động Đầu Tư Mạo Hiểm Trên Thế Giới Và Một Số Bài Họ...
 
Pháp Luật Về Công Ty Chứng Khoán Bảo Đảm Phù Hợp Với Các Cam Kết Quốc Tế.doc
Pháp Luật Về Công Ty Chứng Khoán Bảo Đảm Phù Hợp Với Các Cam Kết Quốc Tế.docPháp Luật Về Công Ty Chứng Khoán Bảo Đảm Phù Hợp Với Các Cam Kết Quốc Tế.doc
Pháp Luật Về Công Ty Chứng Khoán Bảo Đảm Phù Hợp Với Các Cam Kết Quốc Tế.doc
 
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoánĐịa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
 
Đề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần
Đề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phầnĐề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần
Đề tài: Vấn đề pháp lý trong quản lý và điều hành công ty cổ phần
 
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành MạnhLuận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
Luận Văn Hành Vi Khuyến Mại Nhằm Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
 
Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng Techcombank
Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng TechcombankLuận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng Techcombank
Luận văn: Hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng Techcombank
 
Nâng cao hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng, HAY
Nâng cao hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng, HAYNâng cao hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng, HAY
Nâng cao hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán Ngân hàng, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàngĐề tài: Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 

Khoá Luận Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Về Đấu Thầu Tại Việt Nam Trong Quá Trình Thực Hiện Các Hiệp Định Vay Quốc Tế

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRỊNH THỊ THU HÒA GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆPĐỊNHVAYQUỐCTẾ NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864 WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ Hà Nội – 2022
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRỊNH THỊ THU HÒA GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆPĐỊNHVAYQUỐCTẾ KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành:Quan hệ quốc tế Mã số: 60310206 Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Hoàng Phƣớc Hiệp Hà Nội – 2022
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các nội dung đề cập trong Khoá luận là sản phẩm của chính tác giả. Các thông tin và số liệu nêu trong Khoá luận là trung thực và được tổng hợp từ những nguồn thông tin chính thống, có độ tin cậy cao. Đồng thời, kết quả nghiên cứu trong Khoá luận này chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
  • 4. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................2 1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................2 2. Tình hình nghiên cứu..............................................................................................3 3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................5 4. Nhiệm vụ - Phƣơng phápnghiên cứu ...................................................................5 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..............................................................5 6. Kết cấu luận văn......................................................................................................6 CHƢƠNG1.MỘTSỐVẤNĐỀLÝLUẬNVỀĐẦUTHẦUVÀGIẢIQUYẾT XUNG ĐỘTPHÁPLUẬTVỀĐẤUTHẦUTRONGQUÁTRÌNHTHỰCHIỆN CÁCHIỆP ĐỊNHVAYQUỐCTẾ ................................................................................7 1.1. Tổng quan lý luận về đấu thầu ..............................................................................7 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức đấu thầu......................................................7 1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển lý luận về đấu thầu ......................................16 1.1.3. Nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu...................................................................18 1.1.4. Khung pháp lý về đấu thầu quốc tế ở Việt Nam .............................................18 1.2. Tổng quan lý luận về giải quyết xung đột pháp luật đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế................................................21 1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về đấu thầu......................................................21 1.2.2. Khái niệm Hiệp định vay và việc thực hiện Hiệp định vay ở Việt Nam.........21 1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu ................................25 1.2.4. Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda và vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế .............29 CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH VAYQUỐC TẾ ............................................................................................................35 2.1. Thực tiễn quy định của pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế mà Việt Nam là thành viên ...................................................35 2.1.1. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định vay liên quan đến mua sắm theo Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)...........................................35
  • 5. 2.1.2. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và khối Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA)....................................................................................37 2.1.3. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu EU (EVFTA).........................................................................................38 2.2. Thực tiễn việc thực hiện các Hiệp định vay quốc tế liên quan đến vấn đề đấu thầu tại Việt Nam.........................................................................................................38 2.3. Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế.................................................................41 2.3.1. Giải quyết xung đột về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay có liên quan đến các cam kết quốc tế tại Hiệp định quốc tế .....................................41 2.3.2.Giải quyết xung đột pháp luật về đấuk thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay từ nguồn vốn của tổ chức cho vay quốc tế .................................................46 2.4. Hài hòa các quy định pháp luật về đấu thầu của Việt Nam với các quy định pháp luật về đấu thầu trong Hiệp định vay quốc tế mà Việt Nam là thành viên...59 CHƢƠNG 3. KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH VAY QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM............................................................................................64 3.1.Thuận lợi và khó khăn đối với việc giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay mà Việt Nam là thành viên .............64 3.1.1. Những thuận lợi...............................................................................................64 3.1.2. Những khó khăn và hạn chế............................................................................65 3.2. Các giải pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các hiệp định vay ở Việt Nam.............................................................................65 3.2.1. Giải pháp chung ..............................................................................................65 3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể về thể chế ...................................................................67 3.2.3. Nhóm giải pháp cụ thể về mô hình tổ chức quản lý........................................71 3.2.4. Nhóm giải pháp cụ thể về thi hành..................................................................74 KẾT LUẬN...................................................................................................................83 TÀILIỆUTHAM KHẢO............................................................................................84
  • 6. DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu viết tắt Diễn giải 1 ADB (Asian Development Bank) Ngân hàng Phát triển Châu Á 2 APEC (Asia-Pacific Economic Co operation) Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương 3 FDI (Foreign Direct Investment) Đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 FII (Foreign Indirect Investment) Đầu tư gián tiếp nước ngoài 5 EFTA (EU Free Trade Agreement) Khối mậu dịch tự do Châu Âu 6 FTA (Free Trade Agreement) Hiệp định thương mại tự do 7 G8 8 quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới, gồm: Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh, Mỹ, Canada và Nga 8 G4 4 cường quốc về thương mại của thế giới, gồm: Hoa Kỳ, Châu Âu, Brazil và Ấn Độ 9 ICB (International Competition Bidding) Hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế 10 IMF (International Monetary Fund) Quỹ tiền tệ thế giới 11 JBIC (Japan Bank of International Cooperation) Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản 12 WB (World Bank) Ngân hàng thế giới 13 WTO (World Trade Organization) Tổ chức Thương mại thế giới
  • 7. 2 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, hoạt động đấu thầu được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam và đóng góp một phần không nhỏ vào những thành tựu phát triển kinh tế quốc dân. Cùng với hoạt động đấu thầu trong nước, hoạt động đấu thầu quốc tế luôn đòi hỏi được hoàn thiện nhằm phát huy tối đa vai trò của mình trong việc tiếp cận và sử dụng nguồn vốn vay quốc tế phục vụ sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đây cũng là vấn đề trọng điểm được đặt ra trong các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua. Trước đây, trong cơ chế tập trung bao cấp, vấn đề đấu thầu chưa được coi là một vấn đề độc lập cần được quy định dưới dạng Luật. Điều đó phần nào phủ nhận giá trị và tầm quan trọng của đấu thầu và Luật này trên thực tế. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ra đời, thực tế sự phát triển kinh tế - xã hội đã làm Luật đấu thầu được nhìn nhận, đánh giá lại. Luật đấu thầu đã được coi là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thiết thực vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước đã không ngừng thay đổi toàn diện cơ chế quản lý về đấu thầu để thích ứng linh hoạt với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo thị trường bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi Nhà nước phải nắm bắt và vận dụng có hiệu quả trong quá trình quản lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động đấu thầu là một mắt xích quan trọng trong toàn bộ quá trình mua sắm của Chính phủ nói chung và trong việc thực hiện các dự án đầu tư quốc tế nói riêng. Vì vậy, việc giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế là một trong những vấn đề nổi cộm của hoạt động đấu thầu tại Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong hội nhập phát triển kinh tế của đất nước. Xuất phát từ ý nghĩa và giá trị to lớn đó mà vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu quốc tế đã trở thành vấn đề quan trọng, là tấm gương phản chiếu ra nước ngoài của Việt Nam trong việc bảo đảm vay vốn và sử dụng vốn vay từ các tổ chức cho vay quốc tế một cách hiệu quả và thiết thực. Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh
  • 8. 3 thực tế, việc giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện vay vốn quốc tế chưa được thực hiện một cách thống nhất và còn nhiều bất cập, chồng chéo nhau cần được giải đáp. Vì vậy, tôi chọn vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình với mong muốn đóng góp ý kiến trong quá trình tìm kiếm giải pháp để giải quyết những xung đột này. 2. Tình hình nghiên cứu Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu và tài liệu khác nhau về vấn đề này nhưng vẫn chưa có công trình nào xử lý đầy đủ vấn đề Giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế. Liên quan đến vấn đề đấu thầu, đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu như sau: 1. Tác giả Hoàng Lê Mai Phương lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác đấu thầu tư vấn tại các dự án ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo” (năm 2012) làm đề tài nghiên cứu khoá luận Thạc sỹ kinh tế. Với cách tiếp cận những vấn đề cơ bản về đấu thầu tại các dự án ODA như khái niệm, vai trò và nguyên tắc của đấu thầu tư vấn tại các dự án ODA, các loại gói thầu tư vấn, quy trình đấu thầu tư vấn, các nhân tố ảnh hưởng… cũng như tìm hiểu về thực trạng để đánh giá công tác đấu thầu tư vấn tại các dự án ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giúp cho việc thực hiện các gói thầu dịch vụ tư vấn được hoàn thiện hơn, chịu ảnh hưởng ít nhất của các điều kiện khách quan cũng như chủ quan, từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình lựa chọn nhà thầu. 2. Tác giả Nguyễn Đình Linh với công trình “Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội” (năm2011) đã đưa ra những cơ sở lý luận cũng như thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu tại một cơ quan quản lý nhà nước cụ thể. Từ đó có những nhận định và đánh giá, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội. 3. Tác giả Nguyễn Văn Ngọc đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác đấu thầu tại Công ty Cổ phần tư vấn thiết kế giao thông vận tải 4 giai đoạn 2006-2020” làm đề tài cho khoá luận Thạc sỹ năm 2012. Tác giả đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về công tác đấu thầu tư vấn: các nội dung, quy trình, thủ tục đấu thầu theo quy định của nhà nước, các tiêu chí đánh giá và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đấu
  • 9. 4 thầu tư vấn, đồng thời phân tích thực trạng công tác đấu thầu được thực hiện tại Công ty Cổ phần tư vấn thiết kế giao thông vận tải 4, qua đó đánh giá để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao khả năng trúng thầu tại công ty. 4. Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với công trình “Công tác đấu thầu quốc tế các gói thầu tư vấn sử dụng vốn ODA ngành xây dựng đường bộ tại Tổng cục đường bộ Việt Nam” (năm 2011) đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác đấu thầu các gói thầu tư vấn sử dụng vốn ODA cụ thể tại ngành xây dựng. Có thể thấyrằng, cũng giống như khoá luận của tác giả Hoàng Lê Mai Phương, cả 02 đề tài đề tập trung phân tích công tác đấu thầu tại các gói thầu tư vấn sử dụng vốn ODA với nhà tài trợ là Worldbank. 5. Tác giả Nguyễn Thị Thúy Huyền với đề tài “Thực trạng đấu thầu quốc tế tại Việt Nam, sự ảnh hưởng của các văn bản pháp quy đến hoạt động đấu thầu quốc tế trong giai đoạn hội nhập” (năm 2006) đã nêu rõ ảnh hưởng của các văn bản pháp quy về đấu thầu đối với công tác đấu thầu tại Việt Nam nhằm nêu rõ những kết quả đạt được, những bất cập, hạn chế cơ bản của công tác này. Trên cơ sở nhận định những điểm chung và điểm riêng, điểm tiến bộ cũng như hạn chế của các văn bản pháp quy về đấu thầu tại Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường ảnh hưởng của các văn bản pháp quy nói trên, đồng thời góp phần lành mạnh hóa môi trường đầu tư, chuôngs thất thoát vốn nhà nước. 6. Tác giả Hoàng Thu Nga với đề tài “Công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện: Thực trạng và giải pháp” (năm 2008). Tại đề tài này, tác giả đã đi sâu vào phân tích các hình thức đấu thầu cũng như quy trình tại Công ty cổ phần xây lắp Bưu điện để từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị phù hợp. 7. Cục Quản lý Đấu thầu với đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện quy trình kiểm tra về công tác đấu thầu” (2013). Đây là đề tài được Cục Quản lý Đấu thầu thực hiện trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực tế việc triển khai quy trình kiểm tra về công tác đấu thầu tại một số Bộ, ngành, địa phương để tiếp thu ý kiến của các bên có liên quan, tổ chức hội nghị lấy ý kiến, tổng hợp thông tin để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm tra nói chung để tạo. Qua các công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy những đề tài đã nghiên cứu tập trung chủ yếu về thực trạng và chỉ ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng tổ chức đấu thầu đối với các gói thầu do đơn vị mình thực hiện. Một số đề
  • 10. 5 tài khác nghiên cứu việc tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng trúng thầu tại đơn vị khi tham gia đấu thầu với vai trò là nhà thầu hay đưa ra thực trạng và các giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu tại đơn vị mình. Tuy nhiên, chưa có hoặc có rất ít đề tài nghiên cứu sâu về giải quyết xung đột pháp luật đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung liên quan tới lý luận và thực tiễn vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động đấu thầu quốc tế tại Việt Nam và đánh giá, so sánh các quy định về vấn đề này của pháp luật Việt Nam và quy định của một số quốc gia, tổ chức quốc tế, tác giả đưa ra những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống đấu thầu quốc tế tại Việt Nam qua đó khắc phục những xung đột pháp luật trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế. 4. Nhiệm vụ - phƣơng pháp nghiên cứu a) Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định và giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu của Việt Nam so với các các quy định tại các Hiệp định quốc tế và tổ chức cho vay quốc tế, đề tài đưa ra một cách khái quát nhất về lý luận và thực tiễn để làm rõ những điểm hợp lý và bất hợp lý, những thiếu sót, bất cập của pháp luật đấu thầu hiện hành ở Việt Nam. Kết hợp với việc tổng hợp kinh nghiệm thực tế, đề tài đưa ra những kiến nghị và giải pháp khắc phục vấn đề xung đột pháp luật đấu thầu quốc tế và hoàn thiện pháp luật đấu thầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. b) Phương pháp nghiêncứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khoá luận này là phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh, phương pháp case study, phương pháp nghiên cứu liên đa ngành và các phương pháp nghiên cứu xã hội khác. Các phương pháp này được tiến hành với sự vận dụng triệt để phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Với kết quả nghiên cứu đạt được của đề tài đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như cung cấp các luận cứ khoa học về vấn đề Giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay
  • 11. 6 quốc tế. Đề tài cho thấy một cách nhìn tổng thể các chính sách về đấu thầu tại các Hiệp định thương mại và tổ chức cho vay quốc tế có ảnh hưởng đến chính các quy định chung về đấu thầu tại Việt Nam, góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu quốc tế. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, Khoá luận được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu thầu và giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế Chương 2: Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế ở Việt Nam Chương 3: Khuyến nghị giải pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện hiệp định vay quốc tế ở Việt Nam
  • 12. 7 Chƣơng 1 MỘTSỐVẤNĐỀLÝLUẬNVỀĐẦUTHẦUVÀGIẢIQUYẾTXUNGĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH VAY QUỐC TẾ 1.1. Tổng quan lý luận về đấu thầu 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức đấu thầu 1.1.1.1. Khái niệm Về mặt thuật ngữ, từ điển Bách khoa Việt Nam (năm 1995) đĩnh nghĩa: “Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn xây dựng công trình (người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện để xây dựng công trình (người dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn người dự thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hơn”. Trong từ điển tiếng Việt (Năm 1998) định nghĩa “Đấu thầu là độ công khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc bán” [3]. Về mặt lý luận, đấu thầu được hiểu là “phạm trù kinh tế tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Trong đó, người mua đóng vai trò tổ chức để các nhà thầu (những người bán) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của người mua là có được hàng hoá và dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng với chi phí thấp nhất. Mục tiêu của nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ đó với giá cả đủ bù đắp các chi phí đầu vào đồng thời đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể” [13, tr.4]. Trong nền kinh tế thị trường, hầu như không tồn tại sự độc quyền cung cấp cho bất kỳ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó (trừ một số loại hàng hoá đặc biệt dùng cho các dịch vụ công). Có nhiều nhà sản xuất, nhà cung cấp cho cùng một loại hàng hoá và dịch vụ. Trong cơ chế kinh tế thị trường người tiêu dùng (bao gồm các nhà đầu tư) luôn mong muốn có được hàng hoá và dịch vụ tốt nhất với chi phí thấp nhất. Vì vậy, mỗi khi có nhu cầu đối với một hàng hoá hay dịch vụ nào đó, họ thường tổ chức các cuộc đấu thầu để các nhà thầu (bao gồm các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ) cạnh tranh nhau về kỹ thuật, công nghệ, chất lượng và giá cả. Trong
  • 13. 8 đó, nhà thầu nào đưa ra được mẫu hàng hoá và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của người mua và với giá cả thấp nhất sẽ được người mua chấp nhận trao hợp đồng. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động đấu thầu không còn giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà nó được mở rộng ra ở phạm vi quốc tế. Do vậy, khái niệm đấu thầu quốc tế được đặt ra khi hoạt động đấu thầu có gắn với yếu tố nước ngoài. Về mặt pháp lý, theo quy định tại khoản 12, Điều 4 Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ban hành ngày 26/11/2013 thì “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”[12, tr21]. Khoản 13, Điều 4 Luật Đấu thầu nêu trên có quy định cụ thể “Đấu thầu quốc tế là đấu thầu mà nhà thầu, nhà đầu tư trong nước, nước ngoài được tham dự thầu”.[12, tr20] Đi liền với phạm trù đấu thầu, cần hiểu thêm một số khái niệm có liên quan sau:  Về chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu - Nhà thầu: Tất cả các tổ chức, cá nhân khi tham gia đấu thầu để giành quyền ký kết và thực hiện hợp đồng đầu tư, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho bên mời thầu hoặc chủ đầu tư đều gọi là nhà thầu. Tuỳ theo tính chất của nguồn vốn, người ta có thể quy định tư cách hợp lệ của nhà thầu theo các chỉ tiêu cụ thể khác nhau. Nhưng nhà thầu đều phải đảm bảo đáp ứng các nguyên tắc tối thiểu có tính pháp lý. Nhà thầu có thể tham gia dự thầu độc lập hoặc liên danh với một hoặc nhiều nhà thầu khác để liên danh dự thầu. Như vậy, Nhà thầu được hiểu là các tổ chức kinh tế, cá nhân độc lập về tài chính có năng lực pháp luật dân sự (nếu là tổ chức) hoặc năng lực hành vi dân sự (nếu là cá nhân) để ký kết và thực hiện hợp đồng theo các quy định của pháp luật. - Bên mời thầu: Theo nghĩa thông thường, bên mời thầu là bên đứng ra tổ chức đấu thầu. Các chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đại diện của họ tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu thực hiện một phần hoặc toàn bộ dự án. Bên mời thầu thường là chủ sở hữu vốn (nguồn để chi trả cho nhà thầu theo giá trị hợp đồng) và là một bên đứng ra
  • 14. 9 ký kết hợp đồng với nhà thầu. Tuy nhiên, trong trường hợp đại diện của chủ dự án, chủ đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu, thì họ có thể không phải là một bên đứng ra ký kết hợp đồng với nhà thầu. Trong trường hợp đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư, bên mời thầu chỉ đóng vai trò chủ dự án, khi đó nhà thầu trúng thầu sẽ là chủ đầu tư. Như vậy, Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ dự án, chủ đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu. Bên cạnh 2 nhóm chủ thể chính tham gia trực tiếp này, trong hoạt động đấu thầu còn có sự tham gia của các chủ thể gián tiếp, bao gồm: Cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát; Tổ chức, công ty kiểm toán độc lập; Các cơ quan báo chí, truyền thông, ngôn luận; cộng đồng nói chung - tham gia với vai trò giám sát.  Về thủ tục, tài liệu - Hồ sơ mời thầu: Trước khi tổ chức đấu thầu, bên mời thầu phải tập hợp toàn bộ các yêu cầu của gói thầu (về chất lượng, số lượng, kỹ thuật, các điều kiện hợp đồng, tài chính, thương mại...) thành một bộ tài liệu thống nhất và không thay đổi trong suốt quá trình đấu thầu để làm căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, đồng thời làm cơ sở để bên mời thầu đánh giá các hồ sơ dự thầu và xem xét, quyết định nhà thầu trúng thầu. Có thể khái quát hóa, hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. - Hồ sơ dự thầu: Trên cơ sở nghiên cứu các yêu cầu của bên mời thầu nêu trong hồ sơ mời thầu, cũng như kết quả khảo sát thực địa và các thông tin liên quan khác, nhà thầu lập bộ hồ sơ dự thầu bao gồm toàn bộ các tài liệu về kỹ thuật, tài chính, thương mại liên quan đến gói thầu để nộp cho bên mời thầu trong thời gian có hiệu lực (trước thời điểm đóng thầu). Nhà thầu có hồ sơ dự thầu hợp lệ, đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu và có giá đánh giá thấp nhất sẽ được xem xét, đề nghị trúng thầu. Như vậy, Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. 1.1.1.2. Đặc điểm đấu thầu quốc tế Mỗi phương thức giao dịch trên thị trường đều có các đặc điểm riêng khác nhau. Những đặc điểm riêng đó sẽ tạo nên những nét đặc trưng, quyết định đến quy
  • 15. 10 trình tổ chức ký kết, thực hiện các hợp đồng có liên quan. Vì vậy, cũng như các lĩnh vực khác việc nghiên cứu đặc điểm pháp luật về đấu thầu nói một cách thấu đáo là một công việc không thể thiếu. Hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế nói riêng có một số đặc điểm sau đây:  Trên thị trường chỉ một người mua và nhiều người bán Người mua trên thị trường phần lớn thường là những tổ chức, cơ quan, các chủ đầu tư được Chính phủ cấp tài chính mua sắm hàng hoá, dịch vụ, xây dựng công trình thường. Nhưng cũng có những trường hợp người mua thiếu vốn phải đi vay mà điều kiện đòi hỏi phải mở thầu. do có khó khăn về mặt nghiệp vụ, kinh nghiệm kinh doanh cho nên họ phải lợi dụng sự cạnh tranh giữa các nhà thầu để từ đó lựa chon được người bán thích hợp nhất và có các điều kiện giao dịch tối ưu nhất. Ngược lại, các nhà thầu cung cấp hàng hoá, dịch vụ… được tự do cạnh tranh với nhau để giành quyền cung cấp và kết quả của sự cạnh tranh đó đã làm cho giá cả tiến gần lại với giá thực trên thị trường, điều mà bất cứ người mua nào cũng mong đợi.  Đấu thầu tiến hành theo những điều kiện quy định trước Mặc dù được tự do cạnh tranh giành quyền cung cấp nhưng các nhà thầu phải thực hiện theo những điều kiện mà Bên mở thầu đã quy định trước. Hay nói một cách khác, người mua chỉ có một nhưng họ đã nêu ra những điều kiện ràng buộc rất chặt chẽ, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Trong đấu thầu, các điều kiện tài chính, các điều kiện kỹ thuật… thường được thể hiện trong hồ sơ mời thầu. Các nhà thầu một khi thoả mãn tốt nhất các điều kiện mà Bên mời thầu đưa ra mới mong có hy vọng trúng thầu, cá biệt có những trường hợp các nhà thầu đã thoả mãn đầy đủ các điều kiện kỹ thuật, tài chính và uy tín, nhưng vì không tìm được đối tác liên doanh, liên kết nên đã không giành được hợp đồng. Và cũng có những nhà thầu không tìm được nhà thầu theo quy định nên cũng không trúng thầu. Chính vì những lý do nói trên trong đấu thầu thì thị trường thuộc về phía mời thầu, họ “vừa là người bị động, vừa là người chủ động” là như vậy.  Chủ động trong việc xác định thời gian và địa điểm mở thầu Thời gian mở thầu phải được quy định trước, thông thường nó được thực
  • 16. 11 hiện sau khi thông báo mời thầu một số ngày nhất định. Khoảng thời gian này tuy ước tính nhưng người ta phải tính toán sao cho hợp lý. Ngày giờ, địa điểm sẽ được xác định cụ thể trong hồ sơ mở thầu. Khi mở thầu các nhà thầu thường phải có mặt nghe công bố tính hợp lệ của đơn chào và ký vào một biên bản đã được chuẩn bị trước. Bên mời thầu sẽ công bố công khai một số chỉ tiêu cơ bản của hồ sơ dự thầu.  Vai trò của người tư vấn Trong đấu thầu, ngoài bên mời thầu, nhà thầu, còn có sự hiện diện của người tư vấn. Quan điểm của hầu hết các nước trên thế giới đều cho rằng người tư vấn là người đảm bảo hạn chế tới mức tối đa các tiêu cực phát sinh. Những thông đồng thoả hiệp làm cho chủ dự án bị thiệt hại, vì vậy người tư vấn phải có trình độ, năng lực chuyên môn để giúp chủ dự án (Bên mời thầu) giải quyết các vấn đề kỹ thuật với các nhà thầu. Dịch vụ tư vấn có thể chia thành: - Làm báo cáo trước khi đầu tư - Các dịch vụ chuẩn bị để xác định và thực hiện dự án - Các dịch vụ giám sát, quản lý dự án - Giúp đỡ kỹ thuật (dịch vụ cố vấn, phát triển và lập kế hoạch, xây dựng, tổ chức, đào tạo…). 1.1.1.3. Các hình thức đầu thầu Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau thì hình thức đấu thầu được phân loại khác nhau, cụ thể như sau: Căn cứ vào đặc thù về hàng hoá và dịch vụ cần mua, hoạt động đấu thầu được chia thành 3 lĩnh vực. Mỗi lĩnh vực có quy trình tổ chức đấu thầu riêng phù hợp với đối tượng hàng hoá hoặc dịch vụ cần mua đó.  Đấu thầu tuyển chọn tư vấn (Tender for consulting services) Đối với các nước đang phát triển, nhu cầu về đầu tư xây dựng mới các công trình hạ tầng cơ sở hoặc nhà xưởng, máy móc phục vụ sản xuất thường rất lớn. Để thực hiện tốt quá trình đầu tư từ bước xác định dự án, chuẩn bị báo cáo tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi đến tổ chức thực hiện, giám sát quá trình xây dựng... cần có đội ngũ chuyên gia lành nghề, có kinh nghiệm và đã có điều kiện tiếp cận với công nghệ tiên tiến và khoa học hiện đại trên thế giới để thực hiện các dịch vụ tư vấn phục
  • 17. 12 vụ cho quá trình này. Vì vậy, trong quá trình đầu tư nhà tài trợ thường yêu cầu chủ đầu tư tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn để thực hiện các dịch vụ khảo sát, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám sát quá trình xây dựng đáp ứng các yêu cầu của dự án. Do đối tượng lựa chọn để mua ở đây là các dịch vụ tư vấn của chuyên gia, nên quy trình đấu thầu không thể giống với việc mua sắm hàng hoá hay dịch vụ xây lắp. Trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, các nhà thầu (nhà tư vấn) cạnh tranh nhau thông qua việc cung cấp các chuyên gia có nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn với một mục tiêu để thực hiện tốt nhất, chất lượng nhất các yêu cầu của bên mua. Trách nhiệm đối với công việc gắn liền với uy tín của nhà tư vấn đã làm cho cácnhà tư vấn khi tham gia dự thầu thường không phải nộp bảo lãnh dự thầu như đối với các lĩnh vực mua sắm khác. Bên cạnh đó, tính độc lập, khách quan, trung thực, kiên quyết luôn là những yếu tố không thể thiếu đối với những nhà tư vấn đích thực.  Đấu thầu mua sắm hàng hoá (Tender for procurement goods) Trong đấu thầu mua sắm hàng hoá, các nhà thầu cạnh tranh nhau thông qua việc đảm bảo cung cấp hàng hoá có đủ chất lượng theo yêu cầu của cơ quan mua sắm nhưng với chi phí hợp lý nhất cùng với các dịch vụ bảo hành, bảo trì, dịch vụ sau bán hàng thuận lợi đối với người mua. Sự cạnh tranh trong cung cấp hàng hoá còn thể hiện ở chỗ nhà thầu đưa ra những hàng hoá (đặc biệt là thiết bị) với công nghệ mới, đem lại nhiều lợi thế trong sử dụng. Cũng tương tự như trong cung cấp dịch vụ tư vấn, các nhà thầu cung cấp hàng hoá luôn cạnh tranh nhau bằng uy tín của mình.  Đấu thầu xây lắp (Tender for works) Trong lĩnh vực xây lắp, các nhà thầu xây dựng luôn cạnh tranh nhau về giải pháp để thực hiện thiết kế nêu trong hồ sơ mời thầu sao cho đáp ứng yêu cầu về chất lượng với chi phí thấp nhất. Giải pháp thực hiện của nhà thầu xây dựng gắn liền với kinh nghiệm đã đúc kết, gắn với việc áp dụng công nghệ mới và không bỏ qua các biện pháp thực hiện phù hợp với điều kiện thi công thực tế. Trong đấu thầu xây lắp, giải pháp thực hiện luôn là yếu tố quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc đấu thầu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp không yêu cầu kỹ thuật cao thì việc đưa ra các đơn giá cạnh tranh lại là cơ sở giúp các nhà thầu thắng thầu.
  • 18. 13 Tuy tính chất cạnh tranh trong 3 lĩnh vực nêu trên khác nhau, song đều có chung mục đích là thoả mãn các yêu cầu của bên mua với chi phí thấp nhất. Nhờ sự cạnh tranh giữa các nhà thầu, bên mua luôn có cơ hội tìm được một dịch vụ theo ý muốn với chi phí hợp lý. Mặt khác nhờ có sự cạnh tranh mà các nhà thầu phải luôn luôn phải tự hoàn thiện mình để tồn tại và vươn lên. Như vậy, cạnh tranh chẳng những đem lại lợi ích cho người mua, cho các nhà thầu, mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với Nhà nước là phải tạo ra môi trường và thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu. Ngoài 3 loại lĩnh vực trên, nhiều nước trên thế giới còn có loại đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án (Tender for Project). Đây là hình thức phổ biến được áp dụng khi một dự án có từ hai đối tác trở lên. Căn cứ vào hình thức lựa chọn nhà thầu, có thể phân loại đấu thầu thành các hình thức sau:  Đấu thầu mở rộng (open bidding hay international competitive) Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong đó không hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự (Khoản 1, Điều 20 Luật Đấu thầu 2013). Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo trên tờ thông tin về đấu thầu và trang web để đấu thầu của Nhà nước và của Bộ, ngành, địa phương tối thiểu một thời gian xác định trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu áp dụng trong đấu thầu. Hình thức này này có ưu điểm là khuyến khích tính cạnh tranh giữa các nhà thầu. Các nhà thầu luôn đưa ra các giải pháp tiêu chuẩn đạt chất lượng cao với chi phí tài chính thấp nhất. Tuy nhiên do số lượng nhà thầu không hạn chế nên có thể có nhà thầu chưa đủ năng lực vẫn tham gia dự thầu. Đồng thời, do số lượng nhà thầu lớn nên mất nhiều thời gian và chi phí cho việc tổ chức đấu thầu.  Đấu thầu hạn chế (limited bidding) Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong trường hợp gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
  • 19. 14 Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: (i)Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu; (ii)Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn sử dụng cho gói thầu và (iii)Gói thầu có yêu cầu cao về kĩ thuật hoặc kĩ thuật có tính đặc thù, gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Hình thức này có ưu điểm là các nhà thầu tham gia đấu thầu là những người thực sự có đủ năng lực về mọi mặt, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ đầu tư. Công tác tổ chức đấu thầu cũng tốn ít thời gian và chi phí hơn so với tổ chức đấu thầu rộng rãi. Tuy nhiên, do hạn chế số lượng nhà thầu nên cũng hạn chế một phần sự đa dạng trong cạnh tranh giữa các nhà thầu. Đây là hình thức được áp dụng ở nhiều ngành, địa phương do vậy hiệu quả đạt được không cao, đây cũng là kẽ hở dễ tạo ra hiện tượng tiêu cực.  Chỉ định thầu (Single bidding) Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Điều 22 Luật Đấu thầu 2013, chỉ định thầu đối với nhà thầu được áp dụng trong các trường hợp sau đây [12]. - Gói thầu cần thực hiện để khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời hậu quả gây ra do sự cố bất khả kháng; gói thầu cần thực hiện để bảo đảm bí mật nhà nước; gói thầu cần triển khai ngay để tránh gây nguy hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc để không ảnh hưởng nghiêm trọng đến công trình liền kề; gói thầu mua thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế để triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh trong trường hợp cấp bách; - Gói thầu cấp bách cần triển khai nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia, biên giới quốc gia, hải đảo; - Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa phải mua từ nhà thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm; mua bản quyền sở hữu trí tuệ; - Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế
  • 20. 15 xây dựng được chỉ định cho tác giả của thiết kế kiến trúc công trình trúng tuyển hoặc được tuyển chọn khi tác giả có đủ điều kiện năng lực theo quy định; gói thầu thi công xây dựng tượng đài, phù điêu, tranh hoành tráng, tác phẩm nghệ thuật gắn với quyền tác giả từ khâu sáng tác đến thi công công trình; - Gói thầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng; gói thầu rà phá bom, mìn, vật nổ để chuẩn bị mặt bằng thi công xây dựng công trình; - Gói thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá gói thầu trong hạn mức được áp dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.  Chào hàng cạnh tranh Hình thức này thường được áp dụng cho các gói thầu mua sắm hàng hoá có giá trị không quá lớn. Mỗi gói thầu thường phải có ít nhất 3 chào hàng của 3 nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng của bên mời thầu. Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng đường bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác.  Mua sắm trực tiếp Hình thức mua sắm trực tiếp được áp dụng trong các trường hợp bổ sung hợp đồng cũ đã thực hiện xong (dưới một năm) hoặc hợp đồng đang thực hiện với điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá hoặc khối lượng công việc mà trước đó đã được tiến hành đấu thầu, nhưng phải đảm bảo không được vượt mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã kí trước đó. Trước khi kí hợp đồng, nhà thầu phải chứng minh có đủ năng lực về kĩ thuật và tài chính để thực hiện gói thầu.  Tự thực hiện (tự thầu) Hình thức này chỉ áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ các quy định của Nhà nước.  Mua sắm đặc biệt Hình thức này được áp dụng đối với các ngành đặc thù mà nếu không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu được. Cơ quan quản lí ngành phải xây dựng được quy trình thực hiện đảm bảo các mục tiêu của Quy chế đấu thầu và có ý
  • 21. 16 kiến thống nhất của Cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ vào phƣơng thức áp dụng, hoạt động đấu thầu có thể được phân loại thành 3 phương thức  Đấu thầu 1 túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu cần nộp các đề xuất về kỹ thuật, tài chính, giá bỏ thầu và những điều kiện khác trong một túi hồ sơ chung. Phương thức này được áp dụng với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp.  Đấu thầu 2 túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu cần nộp những đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá, xếp hạng. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này chỉ áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn.  Đấu thầu 2 giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho các gói thầu xây lắp và mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp hoặc đối với các dự án thực hiện theo hợp đồng “chìa khoá trao tay”. 1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển lý luận về đấu thầu Đấu thầu là một trong những phương thức mua sắm hàng hoá, dịch vụ được ra đời và phát triển cùng với phương thức sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt và các cuộc khủng hoảng đã dẫn đến sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản độc quyền và Chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, sau đó đối lập với tự do cạnh tranh, nhưng không thủ tiêu tự do cạnh tranh mà làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Nhà nước tư bản vừa là người đại diện, người bảo vệ cho giai cấp tư sản và vừa là người điều tiết quá trình sản xuất, đồng thời cũng là người cung cấp vốn để nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật. Nhà nước điều tiết các chương trình, các mục tiêu phát triển kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, các chính sách kinh tế… Ngoài ra, nhà nước còn bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng, phát triển các ngành
  • 22. 17 kinh tế cần thiết cho xã hội, nhưng lại có hiệu quả kinh tế thấp, lâu hoàn vốn…, những mua sắm chi tiêu đó của Chính phủ đã trở thành mục tiêu cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức kinh tế tài chính. Do vậy, để điều chỉnh hoạt động nói trên ở hầu hết các nước tư bản đều có những luật mua sắm dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động đấu thầu xuất hiện từ rất sớm nhưng các quy định của pháp luật liên quan đến đấu thầu ra đời muộn hơn và xuất hiện đầu tiên ở Anh. Cho đến khi Hiệp hội kỹ sư tư vấn quốc tế thành lập thì quy trình đấu thầu ngày càng được hoàn thiện hơn. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy các quy định về đấu thầu ở các tổ chức quốc tế và ở các quốc gia khắp trên thế giới. Các quy định này ngày càng được kiện toàn và thích nghi với các quốc gia và thông lệ quốc tế là cơ sở để Hội nhập kinh tế toàn cầu. Trong tương lai, khi xã hội càng phát triển, nền kinh tế càng giàu mạnh, đấu thầu sẽ càng được sử dụng rộng rãi hơn. thị trường đấu thầu là nơi diễn ra sự mua bán hàng hoá, dịch vụ, là sự tổng hợp các mối quan hệ, các thành viên tham gia vào thị trường này đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích kinh tế của mình. Xuất phát từ những đặc trưng riêng hoạt động đấu thầu giúp tận dụng lợi thế của các quy luật kinh tế khách quan trong cơ chế kinh tế thị trường mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia và cho cả nền kinh tế thúc đẩy xã hội pháttriển. Ở Việt Nam, hoạt động đấu thầu được áp dụng trong khoảng thời gian trên 10 năm trở lại đây, đặc biệt kể từ khi hoạt động viện trợ của các định chế tài chính, tổ chức tài trợ, cho vay quốc tế được nối lại thì hoạt động đấu thầu ngày càng được chú trọng nghiên cứu và hoàn thiện. Thông qua đấu thầu, việc thực hiện sử dụng ngân sách nhà nước minh bạch, công bằng hơn, các chủ đầu tư, đơn vị có chức năng thực hiện, đơn vị được cho phép sử dụng nguồn vốn, ngân sách đã lựa chọn được những nhà thầu đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện các dự án, gói thầu làm thay đổi diện mạo kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội của đất nước. Hàng loạt các công trình lớn đã được xây dựng, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế đấtnước phát triển. Thông qua đấu thầu, các nhà thầu trong nước từ khi chỉ làm thầu phụ cho các nhà thầu nước ngoài đến nay đã lớn mạnh có thể tham gia đấu thầu cạnh tranh bình đẳng với nhà thầu nước ngoài để dành được các hợp đồng lớn. Ngoài ra, các
  • 23. 18 chủ đầu tư, bên mời thầu đã được tăng cường rất nhiều về năng lực, từ chỗ hiểu đấu thầu còn mơ hồ đến nay đã có thể thực hiện công tác đấu thầu thuần thục. 1.1.3. Nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu Dù thuộc hình thức hay lĩnh vực nào, hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế nói riêng đều phải đảm đảo đúng và đầy đủ các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc hiệu quả về tài chính và hiệu quả về thờigian. - Nguyên tắc cạnh tranh: nguyên tắc cạnh tranh tạo điều kiện cho các nhà thầu cạnh tranh với nhau ở phạm vi rộng nhất cóthể. - Nguyên tắc công bằng: nguyên tắc này đảm bảo đối xử như nhau đối với các nhà thầu tham gia dự thầu. - Nguyên tắc minh bạch: đây là nguyên tắc quan trọng nhất nhưng khó thực hiện và khó kiểm tra nhất. Nguyên tắc này yêu cầu trong quá trình thực hiện đấu thầu thì các hoạt động diễn ra không được gây nghi ngờ cho các nhà thầu, Bên mời thầu và cơ quan quản lý. 1.1.4. Khung pháp lý về đấu thầu quốc tế ở Việt Nam Với chủ trương tích cực và chủ động trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều chính sách về quản lý kinh tế liên quan đến đầu tư nói chung và đấu thầu nói riêng. Bảng thống kê hệ thống hóa các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý đấu thầu được thể hiện tại Phụ lục 1 - Danh mục văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu hiện hành. Kể từ khi Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 được ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, có thể nói hệ thống các văn bản luật, nghị định, thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác về đấu thầu đã có xu hướng ngày càng trở nên rõ ràng, đơn giản, gần với quy định của các tổ chức quốc tế và dễ thực hiện hơn. Công việc đấu thầu đã dần đi vào nề nếp và trở nên cần thiết đối với xã hội, đồng thời là công cụ không thể thiếu góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trước áp lực của tiến trình hội nhập, cơ chế thị trường ngày càng hoàn thiện, yêu cầu về tính minh bạch và công bằng trong hoạt động mua sắm ở các nước trên thế giới ngày càng đòi hỏi mức độ cao hơn. Vì vậy, chính sách về đấu thầu cũng cần được luật hoá ở mức độ ngày càng cao, sát với thực tế hơn và hoàn thiện hơn về nội dung.
  • 24. 19 Với chính sách đổi mới, kinh tế Việt Nam đã được định hướng phát triển theo cơ chế thị trường và ngày càng vận hành tiếp cận đầy đủ hơn với các quy luật điều chỉnh đó. Để đảm bảo phát triển thực chất, ba quy luật căn bản điều chỉnh nền kinh tế thị trường cần phải được hiểu rõ và thực thi tích cực, đó là: Quy luật Cung - Cầu; Quy luật Giá trị và Quy luật Cạnh tranh. Trong các quy luật căn bản trên thì quy luật Cạnh tranh là thuộc tính quan trọng, vừa là công cụ, vừa là đòn bẩy để hai quy luật Cung-Cầu và Giá trị vận hành có hiệu quả. Tạo dựng được môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch là tiêu chí hàng đầu để vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phấn đấu, sáng tạo nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, đồng thời cũng là để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu tư có chiến lược đầu tư và tạo dựng quan hệ thương mại dài hạn. Ngược lại, nếu môi trường cạnh tranh không đảm bảo lành mạnh, thiếu minh bạch và tính giải trình thấp sẽ đánh mất động lực, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia thị trường dẫn đến hậu quả là cơ chế thị trường sẽ dần biến mất, động lực phát triển của nền kinh tế sẽ tàn lụi dần, không thể hội nhập được với thị trường cạnh tranh tađang theo đuổi. Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 ra đời và được hoàn thiện tại Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 cùng các hướng dẫn về công tác đấu thầu như Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ, các thông tư hướng dẫn liên quan đã thể hiện rõ các quan điểm và giải pháp đảm bảo cho việc thực thi quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường nêu trên. Các mục tiêu chính mà Luật Đấu thầu hướng tới là: - Đảm bảo tính hiệu quả tổng thể cao nhất của chi phí bỏra. - Tạo dựng môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch để cơ chế vận hành ổn định, phát triển bền vững. - Ứng dụng ngày càng rộng rãi và hiệu quả công nghệ thông tin tiên tiến. Với các mục tiêu và phương châm để đảm bảo cho quy luật cạnh tranh được vận hành tốt như nêu trên, Luật Đấu thầu 2013 đã cụ thể hóa thông qua các mảng nội dung sau:
  • 25. 20 (i) Áp dụng các quy trình lựa chọn nhà thầu khoa học, cập nhật tiên tiến nhất và phù hợp với thực tiễn. (ii) Kế hoạch lựa chọn nhà thầu với đầy đủ nội dung được luận chứng khoa học lựa chọn phương án cho mỗi nội dung và là bước yêu cầu bắt buộc thông qua cấp cao nhất phê duyệt, bao gồm: phân chia gói thầu, phương thức phân chia và quản lý rủi ro trong hợp đồng và hình thức lựa chọn nhà thầu. (iii) Công khai thông tin để đảm bảo tính minh bạch thông qua việc vận hành trang thông tin điện tử quốc gia và báo giấy. (iv) Thương mại tự do qua mô hình thương mại điện tử và đấu thầu qua mạng. (v) Chuyên nghiệp hóa cao trong đấu thầu thông qua việc xác lập, quy định về các tổ chức tư vấn đấu thầu chuyên nghiệp và chứng chỉ chuyên môn trong đấu thầu. (vi) Hệ thống yêu cầu kiểm soát tính tuân thủ được quy định cụ thể. Luật Đấu thầu đã quy định chi tiết về thủ tục, quy trình và nội dung từng bước để thực thi các mục tiêu trên. Có thể nói, Luật Đấu thầu là một trong những công cụ mẫu mực phục vụ tích cực cho cơ chế thị trường phát triển. Hiện nay, Chính phủ và Quốc hội đang đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật, đổi mới cơ chế quản lý trong tiến trình đổi mới thể chế kinh tế với mục tiêu để đảm bảo các điều kiện để nền kinh tế thị trường vận hành theo quy luật đầy đủ của nó. Để đảm bảo cho việc tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng cao, LuậtĐấu thầu cũng đã có hệ thống các điều khoản kiểm soát tính tuân thủ, quy định chi tiết cơ chế kiểm tra giám sát việc tuân thủ đó. Các quy định đó được thể hiện qua một số nội dung, như: - Quy định về đảm bảo cạnh tranh trong đấuthầu - Quy định về các yêu cầu tối thiểu đáp ứng về năng lực, kinh nghiệm, tiêu chuẩn áp dụng. - Các nhóm hành vi (9 nhóm) bị cấm trong đấu thầu. - Cơ chế giải quyết kiến nghị và tranh chấp trong đấuthầu.
  • 26. 21 1.2. Tổng quan lý luận về giải quyết xung đột pháp luật đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế 1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về đấu thầu Mỗi quốc gia đều tự xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng nhằm khẳng định chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình. Tuy nhiên, giữa các hệ thống pháp luật này luôn có sự khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau do những nguyên nhân về điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội hay hoàn cảnh địa lý… Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, việc các quốc gia liên kết với nhau để cùng hợp tác và phát triển trở nên ngày càng phổ biến, quá trình hợp tác, đặc biệt trong hợp tác kinh tế không tránh khỏi các hiện tượng xung đột pháp luật xảy ra. Như vậy, xung đột pháp luật được hiểu là “hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật có sự khác nhau”. Nguyên nhân làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật là do các quan hệ dân dự có yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng các quy phạm thực chất thống nhất hoặc có sự khác nhau về nội dung trong pháp luật của các nước hoặc khác nhau trong việc giải thích và áp dụng những quy định giống nhau về mặt hình thức. Đấu thầu là một loại quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự theo nghĩa rộng do đó, trên thực tế cũng phát sinh tình trạng xung đột pháp luật giữa các hệ thống pháp luật của các nước khác nhau về vấn đề này. Có thể hiểu xung đột pháp luật trong lĩnh vực đấu thầu ở Việt Nam là hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia vào điều chỉnh một quan hệ đấu thầu có yếu tố nước ngoài mà nội dung điều chỉnh trong mỗi hệ thống pháp luật có sự khác nhau. Các xung đột này cần phải được giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu thầu có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. 1.2.2. Khái niệm Hiệp định vay và việc thực hiện Hiệp định vay quốc tế ở Việt Nam Hiệp định vay là thỏa thuận pháp lý quốc tế trong đó có các điều khoản và
  • 27. 22 điều kiện của nước hoặc tổ chức cho vay bao gồm: về khoản vay, các cơ chế về đấu thầu hàng hóa và dịch vụ cho dự án, giải ngân vốn và các vấn đề khác. Khoản vay tại Hiệp định vay bao gồm Khoản vay hoặc viện trợ không hoàn lại, không ràng buộc và khoản vay hoặc viện trợ không hoàn lại có ràng buộc: (1) Khoản vay hoặc viện trợ không hoàn lại không ràng buộc là khoản vay bằng vốn vay hoặc không hoàn lại không kèm theo những điều khoản ràng buộc liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ. (2) Khoản vay hoặc viện trợ không hoàn lại có ràng buộc là khoản vay bằng vốn vay hoặc không hoàn lại có kèm theo các điều kiện liên quan đến cung cấp và mua sắm hàng hóa và dịch vụ từ một số nhà cung cấp hoặc quốc gia nhất định do nhà tài trợ quyết định.[1] Các tổ chức cho vay thường là: Những tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc như: UNDP, UNICEP, UNIDO, FAO, UNFPA, WB, IDA, IMF; Các tổ chức liên Chính phủ như Liên minh châu Âu, Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển, Hiệp hội các nước ASEAN…; Các tổ chức tài chính khu vực như: Ngân hàng phát triển Châu á, Ngân hàng đầu tư Châu Âu…; Các khoản vay chính thức này thường kèm theo những điều kiện tương đối khắt khe về mặt vĩ mô. Lẽ đương nhiên, các khoản ODA do IDA, IMF, ADB.. cung cấp cho Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc chung, một trong số các nguyên tắc bắt buộc đó chính là phải tuân thủ các thủ tục, thể lệ và quy định của việc sử dụng và thực hiện sử dụng vốn vay này. Trong khi đó, đấu thầu là vấn đề nhạy cảm trong chính sách kinh tế của các quốc gia nên môi trường đầu thầu luôn tại tồn tại những vấn đề xung đột liên quan đến cơ chế pháp lý. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn các xung đột pháp luật về đấu thầu là những vấn đề liên quan tới minh bạch và cạnh tranh, một số ít liên quan tới các vấn đề về đấu thầu (ví dụ các điều kiện đối với từng hình thức đấu thầu, tiêu chuẩn kỹ thuật trong đấu thầu, khiếu nại khiếu kiện trong đấu thầu…). Do vậy, việc giải quyết các xung đột pháp luật về đấu thầu tại mỗi quốc gia cũng như tại Việt Nam là vô cùng quan trọng. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho hoạt động vay nợ quốc tế ngày càng trở thành một hoạt động tài chính quốc tế phổ biến với nhiều chủ thể ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hoạt động vay nợ quốc tế có vai trò quan trọng trong việc tăng thêm nguồn vốn ngoại tệ, giúp các chủ thể vượt qua khó
  • 28. 23 khăn về vốn, đồng thời, góp phần khơi dậy tiềm năng và thúc đẩy sử dụng có hiệu quả các nguồn lực sẵn có của chủ thể. Tuy nhiên, cùng như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động vay nợ quốc tế cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Hiệu quả của hoạt động vay nợ quốc tế chỉ có thể được đảm bảo khi công tác quản trị vay nợ quốc tế được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ và đầy đủ, qua đó giúp góp phần thúc đẩy cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thúc đẩy ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh tăng trưởng bền vững của nền kinh tế đất nước. Là một trong những quốc gia đang trong quá trình phát triển, vấn đề vay và trả nợ nước ngoài được Chính phủ Việt Nam quan tâm từ rất sớm. Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ xác định rõ: vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn (có thời hạn vay đến một năm), trung và dài hạn (có thời hạn vay trên một năm) có hoặc không trả lãi do Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và các tổ chức là người cư trú ở Việt Nam (gọi tắt là bên đi vay) vay của các tổ chức tài chính quốc tế, Chính phủ các nước, các tổ chức và cá nhân nước ngoài khác (gọi tắt là bên cho vay nước ngoài).[15] Căn cứ vào tính chất của khoản vay, có thể phân loại vay nợ nước ngoài thành các hình thức sau: - Theo chủ thể cho vay: gồm các khoản vay song phương và khoản vay đa phương, theo đó vay đa phương chủ yếu đến từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ; vay song phương đến từ chính phủ của một nước, vùng lãnh thổ hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một chính phủ duy nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính hay viện trợ nhânđạo. - Theo loại hình đi vay: gồm vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay thương mại, theo đó, (i) vay ODA bao gồm các chuyển khoản song phương (giữa các chính phủ) hoặc đa phương trong đó ít nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là cho không. Vay hỗ trợ phát triển chính thức là loại hình vay nợ có nhiều điều kiện ưu đãi về lãi suất, về thời gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay ODA dài (có thể 10,15 hay 20, 50 năm) và thời gian ân hạn dài, do vậy các nước
  • 29. 24 đang phát triển thường hướng tới và tận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên hình thức vay này thường đi kèm theo những điều kiện ràng buộc cụ thể. (ii) vay thương mại là hình thức vay không có ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn mà áp dụng theo lãi suất thị trường tài chính quốc tế và thường thay đổi theo lãi suất thị trường. - Theo thời hạn vay: bao gồm vay ngắn hạn có thời gian đáo hạn 1 năm trở xuống và vay dài hạn có thời gian vay kéo dài trên 1 năm kể từ ngày ký kếtvay. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, có thể nói nguồn vốn vay nước ngoài có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam. Nguồn vốn này được đưa vào đầu tư công, trở thành nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc gia, phục vụ các chương trình công nghiệp hoá dài hạn, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp đầu vào để phát triển các ngành công nghiệp cơ bản. Vốn vay nước ngoài cũng đóng vai trò quan trọng đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn đặc biệt là cơ sở hạ tầng, điện, nước, giao thông từ đó tác động tích cực tới công cuộc xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở Việt Nam trong thời gian qua. Vốn vay nước ngoài tham gia mạnh mẽ vào quá trình phát triển dịch vụ công cộng, y tế, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật, góp phần cải thiện môi trường đầu tư trong nước, thu hút, mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đồng thời góp phần ổn định tiêu dùng trong nước vượt qua tình trạng khủng hoảng tài chính. Các khoản vay quốc tế được ghi nhận thông qua các hiệp định vay quốc tế - đây là một loại hình cụ thể của Hiệp định quốc tế/hay Điều ước quốc tế nói chung, theo đó hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ thỏa thuận với nhau bằng văn bản về việc vay nợ một khoản tiền nhất định thông qua nhiều hình thức khác nhau phục vụ các mục đích công. Hầu hết các khoản vay của Việt Nam là những khoản vay ODA hoặc vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế, chủ yếu là của ADB, WB và Nhật Bản nên thời gian vay thường dài, lãi vay ưu đãi, chi phí vay thấp, ít có biến động trong cơ cấu vay nợ.
  • 30. 25 1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu quốc tế Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là việc các quốc gia lựa chọn một hệ thống pháp luật nào đó để áp dụng giải quyết một quan hệ phát luật phát sinh. Điều này có nghĩa là việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào để áp dụng sẽ không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tòa án có thẩm quyền hoặc sẽ không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ đó. Đây cũng là mục đích của tư pháp quốc tế nhằm đảm bảo giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh một cách khách quan, trọn vẹn trên cơ sở hợp tác bình đẳng, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa các quốc gia. Thực tế hiện nay, hầu hết các nước đều có những cách thức và biện pháp riêng của mình để điều chỉnh và phân định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự mang tính chất quốc tế. Trong đó có hai phương pháp phổ biến là Phương pháp xung đột và Phương pháp thực chất. Nhìn chung, mỗi phương pháp đều có những ưu thế và hạn chế nhất định tác động hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Do đó, việc phối hợp cả hai phương pháp này một cách mềm dẻo, linh hoạt vào giải quyết các quan hệ pháp luật sẽ mang lại những tác động tích cực không chỉ đối với quan hệ đó nói riêng mà lớn hơn là tình hữu hảo, giao lưu, phát triển lâu dài giữa các quốc gia với nhau nói chung.  Phương pháp thực chất: được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ. Các quy phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức: + Trong các điều ước quốc tế (quy phạm thực chất thống nhất): Đây là trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các điều ước quốc tế. Trong quá trình hợp tác quốc tế về mọi mặt: kinh tế, thương mại, kỹ thuật, văn hóa, giao thông vận tải… Hay có thể nói rằng đây là quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội giữa các nước. + Trong các văn bản pháp luật của một quốc gia (quy phạm thực chất trong nước). Việc sử dụng phương pháp thực chất là việc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ pháp luật chiếu theo các quy phạm thực
  • 31. 26 chất đã được quy định sẵn trong các điều ước quốc tế hoặc đã được quy định trong luật quốc gia để xem xét và giải quyết các xung đột. Điều này có nghĩa là sẽ trực tiếp áp dụng quy phạm đó để giải quyết và loại trừ việc phải chọn luật và áp dụng luật nước ngoài. Phương pháp này có ưu điểm hơn so với phương pháp xung đột là nó giải quyết trực tiếp các quan hệ và chỉ áp dụng trong các quan hệ, lĩnh vực cụ thể. Phương pháp này giúp cho việc giải quyết các xung đột nhanh chóng hơn, không phải qua giai đoạn chọn hệ thống luật và các quy phạm của hệ thống luật đó để giải quyết. Phương pháp này còn được thực hiện bằng cách các quốc gia kí kết điều ước quốc tế và ghi nhận các quy phạm thực chất thống nhất trong đó nhằm làm tăng khả năng điều chỉnh hữu hiệu của luật pháp, tính khả thi cao hơn, loại bỏ được sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn trong luật pháp giữa các nước với nhau. Tuy nhiên, các quy phạm thực chất, do tính cụ thể và trực tiếp của nó mà đôi khi không thể trù liệu được hết các lĩnh vực cũng như quan hệ phát sinh. Không những thế, phần lớn các quốc gia có điều kiện kinh tế chính trị xã hội khác nhau, do đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống nhất chung giữa các quốc gia là điều không hề đơn giản.  Phương pháp xung đột: được hình thành khá sớm và xây dựng trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của các quốc gia, đó là hệ thống các quy phạm xung đột của nước mà tòa án ở đó có thẩm quyền giải quyết (theo nguyên tắc Lex fori). Quy phạm xung đột là quy phạm mang tính chất dẫn chiếu, ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong một tình huống thực tế. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải chọn ra một hệ thống pháp luật của nước này hay nước kia có liên đới tới yếu tố nước ngoài đề xác định quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự. Xuất phát từ đặc điểm của quy phạm xung đột, có thể thấy phương pháp xung đột mang tính chất chung, gián tiếp giải quyết các quan hệ cụ thể. Việc xây dựng các quy phạm xung đột có một ý nghĩa quan trọng trong tư pháp quốc tế hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế chính trị của các quốc gia ngày càng phát triển, đòi hỏi các nước phải có quan hệ mật thiết với nhau. Khi đó, việc
  • 32. 27 bảo hộ cho công dân nước nước mình tại nước ngoài cũng như trong nước sẽ là một vấn đề cần phải được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng là những quan hệ luôn có tính chất vượt ra khỏi “biên giới” của quốc gia hay nói cách khác nó luôn luôn liên quan đến một hoặc nhiều quốc gia khác. Do đó, việc thừa nhận quy phạm xung đột là công cụ chủ yếu để thiết lập và bảo đảm một trật tự pháp lý trong quan hệ pháp luật dân sự quốc tế. Chính vì thế, phương pháp xung đột được sử dụng cả ở các nước theo hệ thống luật thực định (các nước châu Âu lục địa như Đức, Pháp…), cũng như ở các nước theo hệ thống luật thực hành (như Anh, Pháp…). Phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết các vấn đề dân sự có yếu tố nước ngoài một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Qua đó, tránh được những tranh chấp giữa các quốc gia, gây bất ổn đến quan hệ giữa các nước với nhau, quan trọng nhất là điều hòa được lợi ích giữa các quốc gia. Bên cạnh những ưu điểm của phương pháp này, còn phải nói đến những hạn chế nhất định không thể tránh khỏi. Vì pháp luật của các nước có những quy định khác nhau, việc sử dụng quy phạm xung đột để giải quyết được xem là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và riêng biệt của quy phạm xung đột mà vẫn có những trường hợp Tòa án không chọn được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy phạm xung đột trong lĩnh vực đó hoặc đối với các nước thuộc hệ thống Luật Anh- Mỹ thì vấn đề này càng trở nên phức tạp. Các chuyên gia cho rằng phương pháp thực chất thể hiện được tính ưu việt hơn hẳn so với phương pháp xung đột bởi sự nhanh chóng, cụ thể trong việc áp dụng luật điều chỉnh một quan hệ pháp luật nào đó. Tuy nhiên, phương pháp thực chất khó có thể xây dựng và đi đến thống nhất giữa các bên bởi hầu hết các quốc gia không có sự tương đồng về lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích… Do đó, việc xây dựng được một quy phạm thực chất là rất khó khăn. Đối chiếu vào thực tiễn áp dụng các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật tại Việt Nam, có thể thấy rằng pháp luật Việt Nam hiện nay không có những điều luật cụ thể nói về khái niệm, định nghĩa các phương pháp, nhưng chúng ta có thể rút ra từ những quy định mà bản chất chính là sự áp dụng các phương pháp đó trong các vấn đề cụ thể.
  • 33. 28 Đối với phương pháp thực chất, xuất phát từ chủ quyền quốc gia , quốc gia có quyền tài phán đối với các chủ thể, quan hệ có yếu tố nước ngoài trong lãnh thổ của mình. Chính vì thế, Nhà nước Việt Nam đã ban hành những văn bản pháp luật quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ đối với người nước ngoài. Phần lớn các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan đến người nước ngoài là các quy phạm thực chất. Bên cạnh luật quốc gia, các quy phạm thực chất còn được thể hiện trong điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc gia nhập. Trong các điều ước quốc tế đó, các bên (có Việt Nam) thỏa thuận với nhau những cách thức, giải pháp giải quyết các vấn đề khi tranh chấp xảy ra. Ngoài ra, phương pháp thực chất còn thể hiện ở các tập quán quốc tế mà Việt Nam công nhận. Khi đó, những tập quán đó được áp dụng và các chủ thể sẽ bị xử lý theo pháp luật khi họ vi phạm. - Đối với phương pháp xung đột, xu thế hội nhập với thế giới đã làm phát sinh những vấn đề liên quan đến hai hay nhiều nước khi công dân, pháp nhân của họ tham gia quan hệ pháp luật với nhau… Để giải quyết những vấn đề pháp lý trên, khi mà không thể sử dụng được ngay các quy phạm thực chất thì luật pháp của mỗi nước đều đã xây dựng những quy phạm xung đột riêng của mình. Ở Việt Nam cũng vậy, quy phạm xung đột thường được thể hiện trong các văn bản pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, quy phạm xung đột trong luật pháp thường xây được xây dựng trong Bộ luật Dân sự là chủ yếu. Bởi lẽ chúng điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do đó, quy phạm xung đột luôn mang tính chất dân sự. Hơn thế nữa, quy phạm xung đột cùng với các quy phạm thực chất mà nó dẫn chiếu tới quy định các quy tắc xử sự cho các bên tham gia các quá trình quan hệ dân sự. Bên cạnh đó, các quy phạm xung đột còn được quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý (song phương và đa phương) giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Như đã đề cập ở phần trên, đấu thầu là một loại quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, do đó việc giải quyết các vấn đề xung đột pháp luật trong lĩnh vực này cũng hoàn toàn tương tự như việc giải quyết xung đột pháp luật dân sự theo nghĩa rộng nói chung đã phân tích trên đây.
  • 34. 29 1.2.4. Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda và vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu quốc tế tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế 1.2.4.1. Sự hình thành Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda Đây là nguyên tắc có lịch sử lâu đời nhất trong số các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Tiền thân của nó là nguyên tắc Tuân thủ điều ước quốc tế xuất hiện từ thời La mã cổ đại và tồn tại hàng ngàn năm dưới dạng tập quán pháp lý quốc tế trước khi được ghi nhận chính thức trong điều ước quốc tế. Trước khi có Luật quốc tế hiện đại, nguyên tắc này tồn tại chủ yếu để mang lại lợi ích cho các nước lớn, bởi vì trước đây điều ước quốc tế thường chứa đựng các quy phạm mang tính bất bình đẳng do các nước lớn áp đặt cho các nước nhỏ phải ký kết. Do vậy, tuân thủ chặt chẽ điều ước quốc tế chính là một hình thức hợp pháp nhất để duy trì lợi ích của các nước lớn. Hiện nay, nguyên tắc này tồn tại trong hầu hết các văn bản pháp lý quan trọng của luật quốc tế, và được ghi nhận chính thức tại khoản 2 điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc: "tất cả các thành viên Liên hợp quốc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ do Hiến chương đặt ra" với tên gọi là nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế. Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế, trong đó: “Tất cả các nước thành viên phải làm tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này.” Điều 26 Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế cũng đã khẳng định tính phổ cập của nguyên tắc thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế. Theo Công ước Viên 1969: “Mỗi Điều ước quốc tế hiện hành đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thực hiện một cách thiện chí.” Tuyên bố về các nguyên tắc của Luật quốc tế 1970 đã mở rộng hơn nữa phạm vi áp dụng của nguyên tắc Pacta sunt servanda. Theo tuyên bố về các nguyên tắc của Luật quốc tế 1970: “Mỗi quốc gia phải thiện chí thực hiện các nghĩa vụ quốc tế do hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ phát sinh từ các quy phạm và nguyên tắc được công nhận rộng rãi của Luật quốc tế. Khi nghĩa vụ theo Điều ước quốc tế trái với nghĩa vụ của thành viên Liên hợp quốc theo Hiến
  • 35. 30 chương thì nghĩa vụ theo Hiến chương có giá trị ưu tiên.” Theo các văn kiện pháp lý quốc tế hiện hành, nguyên tắc “Pacta sunt servanda” chỉ được áp dụng đối với các Điều ước quốc tế có hiệu lực, tức là đối với những Điều ước quốc tế được ký kết một cách tự nguyện trên cơ sở bình đẳng. Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện, có thiện chí, trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ Điều ước quốc tế của mình đó là các nghĩa vụ phát sinh từ Hiến chương của Liên Hợp Quốc; các nghĩa vụ phát sinh từ các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của Luật quốc tế; các nghĩa vụ theo các Điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên. Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ Điều ước quốc tế một cách triệt để không phụ thuộc vào các sự kiện trong nước hay quốc tế. Các sự kiện khách quan như: thay đổi chính phủ, thay đổi hình thức quản lý hay chế độ xã hội, thiên tai, thay đổi lãnh thổ hay thay đổi hoàn cảnh quốc tế không thể là lý do để quốc gia không thực hiện Điều ước quốc tế. Các quốc gia thành viên Điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của pháp luật trong nước để coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. Yêu cầu này được coi là một bộ phận không tách rời của nguyên tắc Pacta sunt servanda và được quy định tại Điều 27 Công ước Viên năm 1969. 1.2.4.2. Ngoại lệ của nguyên tắc Luật quốc tế đòi hỏi các quốc gia thực hiện tận tâm, có thiện chí và đầy đủ các nghĩa vụ của điều ước. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng cho phép các quốc gia có thể không phải thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên trong các trường hợp sau đây: - Các quốc gia không phải thực hiện điều ước quốc tế nếu trong quá trình ký kết các bên có sự vi phạm pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục ký kết. - Khi điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên hợp quốc và trái với các nguyên tắc và quy phạm được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế. - Khi có sự vi phạm nghiêm trọng của một bên cam kết thì bên còn lại có quyền từ chối thực hiện, vì nghĩa vụ theo điều ước quốc tế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở có đi có lại. - Khi xuất hiện điều khoản Rebus-sic-stantibus (điều khoản về sự thay đổi
  • 36. 31 cơ bản của hoàn cảnh) dẫn đến các bên không thể tiếp tục thực hiện được điều ước quốc tế (Điều 62 Công ước Viên 1969). Khi xuất hiện điều khoản này, các quốc gia có thể viện dẫn để thực hiện 1 trong 3 hành vi sau: - Chấm dứt hiệu lực hành vi này làm mất hoàn toàn hiệu lực của điều ước quốc" của điều ước quốc tế. - Hành vi này chỉ tạm thời"- Tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước quốc tế làm mất hiệu lực của điều ước quốc tế. - Rút khỏi quan hệ điều ước quốc tế hành vi này không làm chấm dứt hiệu lực hoàn toàn của điều ước quốc tế. Điều" ước quốc tế chỉ mất hiệu lực với quốc gia viện dẫn điều khoản Rebus-sic-stantibus, nó vẫn có hiệu lực đối với các quốc gia thành viên khác của điều ước. + Hoàn cảnh bị thay đổi được ghi nhận trong điều 62 Công ước Viên 1969 phải là cơ sở chủ yếu tạo nên sự thỏa thuận của các bên; hoàn cảnh này các bên không thể thấy trước (dự liệu trước) vào thời điểm ký kết điều ước quốc tế. + Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được hiểu là: hoàn cảnh đó bị xáo trộn lớn đến mức làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên sự thay đổi này vượt ra khỏi tầm kiểm soát"vẫn còn phải thi hành theo điều ước các bên không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình trong quan"của các bên hệ điều ước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh sẽ không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi quan hệ điều ước nếu đó là điều ước liên quan đến việc thiết lập biên giới quốc gia; hoặc sự thay đổi đó là kết quả của một sự vi phạm nghiêm trọng của chính bên nêu lên nó. Trong trường hợp này, bên còn lại có thể viện dẫn chính điều khoản Rebus-sic- stantibus để giải thoát mình khỏi các nghĩa vụ trong cam kết mà không bị coi là vi phạm nguyên tắc Pacta sunt servanda. Tuy nhiên, việc áp dụng điều khoản Rebus- sic-stantibus phải được thông báo cho bên kia biết. 1.2.4.3.Vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam theo nguyên tắc Pacta Sunt Servanda Nội dung của nguyên tắc Pacta sunt servanda – nguyên tắc tận tâm, thiện
  • 37. 32 chí thực hiện các cam kết quốc tế biểu hiện ở mặt sau: Mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện, có thiện chí, trung thực và đầy đủ các nghĩa vụ ĐƯQT của mình; Mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự; Các quốc gia thành viên ĐƯQT không được coi đó là nguyên nhân và từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình; Các quốc gia không có quyền ký kết ĐƯQT mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia ký kết hoặc tham gia ký kết trước đó với các quốc gia khác; Không được cho phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại ĐƯQT; Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các nước thành viên của ĐƯQT không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các quốc gia này, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao hoặc lãnh sự này là cần thiết cho việc thực hiện điều ước (Điều 64 Công ước Viên 1969). Nguyên tắc này đã được áp dụng để giải quyết các xung đột về đấu thầu quốc tế tại Hiệp định vay quốc tế tại Việt Nam như sau Giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu quốc tế trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng các cam kết quốc tế (Pacta Sunt Servanda): Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam có nghĩa vụ phải thực hiện một cách thiện chí những nghĩa vụ mà mình đã cam kết phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và Luật quốc tế hiện đại. Những nghĩa vụ đã cam kết ở đây chủ yếu gồm những nghĩa vụ phát sinh từ điều ước, và những và những nghĩa vụ phát sinh từ các nguồn khác, ví dụ, từ tập quán quốc tế. Nhưng tất cả những nghĩa vụ đó phải phù hợp với những điều quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc mà trước hết là những mục đích và nguyên tắc của tổ chức này. Như vậy, đối với những nghĩa vụ không phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc thì Việt Nam sẽ không được thi hành. Lịch sử quan hệ quốc tế cho thấy không ít những điều ước quốc tế không hợp pháp. Điển hình là hiệp ước Mu-ních ngày 29 tháng 9 năm 1938. Những điều ước như vậy không có giá trị pháp lý cho nên không thể ràng buộc các bên đã ký kết. Vì vậy, Việt Nam cũng như các quốc gia khác không có nghĩa vụ phải thực hiện chúng. Nếu những cam kết phát sinh từ điều ước quốc tế trái với những cam kết theo Hiến chương Liên hợp quốc thì những cam kết theo Hiến chương Liên hợp