Khoá Luận Tốt Nghiệp Hoàn Thiện Chính Sách Cạnh Tranh Của Việt Nam Trong Điều Kiện Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương Có Hiệu Lực đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn miễn phí, chẳng những thế còn hay. Nếu các bạn muốn tải bài mẫu này vui lòng nhắn tin nhanh qua zalo/telegram : 0917.193.864 để được hỗ trợ tải nhé!
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hoàn Thiện Chính Sách Cạnh Tranh Của Việt Nam Trong Điều Kiện Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương Có Hiệu Lực
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-------***-------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam trong điều kiện
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực
NHẬN VIẾT THUÊ KHOÁ LUẬN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE: VIETKHOALUAN.COM
Chuyên ngành: Kinh tế Quốc tế
NGUYỄN BÌNH DƯƠNG
Hà Nội - 2022
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-------***-------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam trong điều kiện
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực
Ngành : Kinh tế học
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 60.31.01.06
Họ và tên học viên: NGUYỄN BÌNH DƯƠNG
Người hướng dẫn : PGS, TS TĂNG VĂN NGHĨA
Hà Nội - 2017
3. i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khoá luận “Hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam
trong điều kiện Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực” là công
trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi và do chính tôi hoàn thành. Các tài liệu tham
khảo, trích dẫn, số liệu thống kê phục vụ mục đích nghiên cứu trong khoá luận này
là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2017
Tác giả khoá luận
Nguyễn Bình Dương
4. ii
LỜI CẢM ƠN
Khoá luận này đã không thể hoàn thành nếu thiếu sự hướng dẫn, cổ vũ động
viên và hỗ trợ của nhiều cá nhân và tổ chức.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Chương trình đào tạo trình độ Thạc sỹ
chuyên ngành Kinh tế Quốc tế định hướng nghiên cứu của khoa Sau Đại học trường
Đại học Ngoại Thương đã giúp tôi trang bị tri thức, tạo môi trường nghiên cứu và
điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện khoá luận này.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn tới
PGS.TS Tăng Văn Nghĩa – người trực tiếp hướng dẫn khoa học, người thầy tận tâm
đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và khuyến khích tôi trong suốt quá trình hoàn thành
khoá luận .
Ngoài ra, trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi còn nhận
được rất nhiều sự quan tâm, góp ý, hỗ trợ quý báu của quý thầy cô, đồng nghiệp,
bạn bè và người thân. Bằng sự tri ân sâu sắc, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn
tới tất cả những người đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành khoá luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khoá luận
Nguyễn Bình Dương
5. iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................... ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. vi
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU .................................................. vii
TÓM TẮT CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA KHOÁ LUẬN ................. viii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH
CẠNH TRANH VÀ CẠNH TRANH TRONG HIỆP ĐỊNH TPP........................8
1.1. Khái quát về cạnh tranh.................................................................................8
1.1.1. Nguồn gốc và khái niệm cạnh tranh ........................................................8
1.1.2. Bản chất của cạnh tranh.........................................................................10
1.2. Khái quát về chính sách cạnh tranh ...........................................................11
1.2.1. Khái niệm chính sách cạnh tranh ..........................................................11
1.2.2. Nội dung của chính sách cạnh tranh.....................................................12
1.2.2.1. Chính sách kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ...........12
1.2.2.2. Chính sách kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
hoặc vị trí độc quyền.......................................................................................17
1.2.2.3. Chính sách kiểm soát tập trung kinh tế..............................................20
1.3. Hiệp định TPP và nội dung về chính sách cạnh tranh trong TPP...........24
1.3.1. Sơ lược về Hiệp định TPP.......................................................................24
1.3.2. Nội dung về chính sách cạnh tranh trong TPP .....................................26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH CỦA VIỆT
NAM .........................................................................................................................31
2.1. Chính sách kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ................31
2.1.1. Nội dung kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ...............31
2.1.1.1. Các quy định cấm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh..............................31
2.1.1.2. Các quy định miễn trừ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.......................33
2.1.2. Đánh giá nội dung kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh34
2.1.2.2. Các quy định cấm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh..............................34
6. iv
2.1.2.3. Các quy định miễn trừ thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.......................36
2.2. Chính sách kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc
vị trí độc quyền.....................................................................................................37
2.2.1. Nội dung chính sách kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường hoặc vị trí độc quyền.............................................................................37
2.2.1.1. Các quy định xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí
độc quyền ........................................................................................................37
2.2.1.2. Các quy định xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc vị trí
độc quyền ........................................................................................................39
2.2.2. Đánh giá nội dung chính sách kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền................................................................40
2.2.2.1. Các quy định xác định thị trường liên quan.......................................40
2.2.2.2. Các quy định xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí
độc quyền ........................................................................................................43
2.2.2.3. Các quy định xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc vị trí
độc quyền ........................................................................................................45
2.3. Chính sách kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế....................................51
2.3.1. Nội dung chính sách kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế ................51
2.3.1.1. Các quy định kiểm soát tập trung kinh tế trong pháp luật cạnh tranh
.........................................................................................................................52
2.3.1.2. Các quy định kiểm soát tập trung kinh tế trong pháp luật doanh
nghiệp..............................................................................................................55
2.3.1.3. Các quy định kiểm soát tập trung kinh tế trong pháp luật chứng khoán
.........................................................................................................................57
2.3.1.4. Các quy định kiểm soát tập trung kinh tế trong pháp luật viễn thông
.........................................................................................................................59
2.3.2. Đánh giá nội dung chính sách kiểm soát tập trung kinh tế..................60
2.3.2.1. Môi trường pháp lý kiểm soát tập trung kinh tế chưa đầy đủ............60
2.3.2.2. Quy định gây khó cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý cạnh tranh
.........................................................................................................................62
7. v
2.4. Đánh giá chung về thực trạng chính sách cạnh tranh tại Việt Nam........64
2.4.1. Những ưu điểm và thành tựu .................................................................64
2.4.1.1. Xây dựng và tạo lập hành lang pháp lý chính thức và thống nhất.....64
2.4.1.2. Xây dựng và từng bước hoàn thiện bộ máy cơ quan thực thi............65
2.4.2. Những điểm còn hạn chế........................................................................66
2.4.2.1. Một số quy định hiện hành không còn phù hợp với bối cảnh và xu
hướng phát triển của nền kinh tế.....................................................................66
2.4.2.2. Bất cập trong tổ chức mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ..............67
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH
CỦA VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ CÁC CAM KẾT TRONG HIỆP ĐỊNH TPP
...................................................................................................................................70
3.1. Xác định rõ ràng cách thức xác định thị trường liên quan và xác định
sức mạnh thị trường ............................................................................................70
3.2. Rà soát và hoàn thiện các quy định liên quan đến miễn trừ ....................74
3.3. Hoàn thiện các quy định về thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh...........78
3.4. Tổ chức lại mô hình và nâng cao năng lực cơ quan quản lý cạnh tranh.80
KẾT LUẬN..............................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... xi
PHỤ LỤC.............................................................................................................. xvii
8. vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC Asia - Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương
EU European Union Liên minh châu Âu
FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
ICN International Competition
Network
Mạng lưới cơ quan cạnh tranh quốc
tế
MUTRAP European Trade Policy and
Investment Support Project
Dự án Hỗ trợ Chính sách Thương
mại và Đầu tư của châu Âu
OECD Organization for Economic
Cooperation and
Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế
TPP Trans-Pacific Partnership
Agreement
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương
UNCTAD United Nations Conference on
Trade and Development
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương
mại và Phát triển
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
9. vii
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Ngưỡng thị phần để xác định vị trí thống lĩnh của doanh
nghiệp/nhóm doanh nghiệp
Sơ đồ 0.1: Quy trình tổng hợp và xử lý tài liệu, số liệu, thông tin
10. viii
TÓM TẮT CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA KHOÁ LUẬN
Đề tài khoá luận “Hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam trong điều
kiện Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực” đã đạt được những kết
quả nghiên cứu chủ yếu sau:
Thứ nhất, khoá luận không những có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có tính thời
sự ở Việt Nam mà còn có giá trị trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, đặc biệt là riêng đối với việc Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên
Thái Bình Dương.
Thứ hai, khoá luận đã khái quát và luận giải rõ hơn những vấn đề lý luận về
cạnh tranh và chính sách cạnh tranh. Cụ thể, chính sách cạnh tranh (mà bản chất là
chính sách chống hạn chế cạnh tranh) kiểm soát ba nội dung quan trọng bao gồm
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị
trí độc quyền và hoạt động tập trung kinh tế; trong đó pháp luật cạnh tranh là một
trong những nội hàm quan trọng nhất của chính sách cạnh tranh. Đồng thời, khoá
luận cũng chỉ ra rằng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cùng với xu hướng
toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, và đặc biệt khi Việt Nam tham gia Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương – một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, các
điều khoản về chính sách cạnh tranh là nội dung không thể thiếu trong việc tạo nền
tảng cho các doanh nghiệp, đối tác thương mại được hoạt động trong khuôn khổ
pháp lý đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm góp phần đạt được các
mục tiêu thương mại và đầu tư của Hiệp định.
Thứ ba, khoá luận phân tích thực trạng và đưa ra những đánh giá về chính
sách cạnh tranh hiện nay của Việt Nam thông qua phân tích bà nội dung quan trọng
của chính sách như đã nói ở trên; đồng thời chỉ ra những bất cập và hạn chế của bản
thân chính sách cũng như việc thực thi chính sách cạnh tranh trong thực tiễn.
Thứ tư, từ những bất cập của thực trạng chính sách cạnh tranh, dựa trên cơ sở
lý luận đã được khái quát và luận giải rõ ràng, dựa trên những cam kết của Việt
Nam khi tham gia Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, tác giả đã đề xuất
các giải pháp để hoàn thiện hơn chính sách cạnh tranh của Việt Nam. Các giải pháp
11. ix
không chỉ đảm bảo mục tiêu tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường mà còn phù hợp với những
nguyên tắc, cam kết trong Hiệp định TPP.
Mặc dù khoá luận đã đề ra những giải pháp để hoàn thiện chính sách cạnh
tranh của Việt Nam, nhưng trong phạm vi bài nghiên cứu này, các giải pháp chủ yếu
dựa trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình
Dương chứ chưa xem xét nhiều đến các cam kết trong các Hiệp định thương mại tự
do khác mà Việt Nam ký kết hoặc các tổ chức thương mại quốc tế mà Việt Nam là
quốc gia thành viên. Bên cạnh đó, do giới hạn của khoá luận nên khoá luận cũng
chưa đi sâu để đưa ra cách thức triển khai các giải pháp trên, để cho các giải pháp
thực sự phát huy tác dụng hoàn thiện chính sách trong thực tiễn. Đây có thể là
những nội dung cần tiếp tục được nghiên cứu trong thời gian tới.
12. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh là bản chất và là cơ chế vận hành chủ yếu của một nền kinh tế thị
trường. Cạnh tranh không chỉ là một trong những quy luật cơ bản mà đồng thời còn
là thuộc tính của kinh tế thị trường, do đó, sự hiện diện của cạnh tranh trong nền
kinh tế là điều tất yếu. Xét trên phương diện tích cực thì cạnh tranh là động lực thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo ra nhiều lợi ích cho xã hội và người tiêu dùng;
song xét theo những phương diện khác, chính cạnh tranh lại có thể là yếu tố đưa lại
những hậu quả tiêu cực trên thị trường. Cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn tới tình trạng hạn
chế cạnh tranh và kéo theo đó là độc quyền sẽ xuất hiện. Để phát huy những mặt
tích cực của cạnh tranh và đảm bảo duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh thì
vai trò của Nhà nước rất quan trọng và mang tính chất quyết định.
Trong thời gian vừa qua, hệ thống chính sách cạnh tranh được triển khai và
thực thi tại Việt Nam đã góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, tạo
thuận lợi cho các doanh nghiệp, cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam để từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Tuy
nhiên, những mặt trái của nó nằm ở chỗ: môi trường cạnh tranh ngày càng gắt gao
mang tính sống còn với doanh nghiệp, lợi dụng sự thiếu vắng một khung pháp lý
hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động kinh tế cũng như khe hở của các quy định
pháp luật hiện hành, đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều hành vi phản cạnh tranh,
gây hạn chế cạnh tranh hoặc lợi dụng vị thế độc quyền gây khó khăn, làm tổn hại
đến nền kinh tế, đến hoạt động kinh doanh và lợi ích kinh tế chính đáng của các
doanh nghiệp và của người tiêu dùng. Luật Cạnh tranh được thông qua năm 2004,
đã đi vào cuộc sống hơn mười năm và đã bộc lộ ra nhiều điều bất cập, nhiều lĩnh
vực mà luật chưa có cơ chế điều chỉnh hoặc chưa sâu sát, chưa phù hợp với thực tế.
Ngoài ra, hệ thống các chính sách còn thiếu đồng bộ, rất nhiều chính sách mang tính
chất giải pháp tình thế, ngắn hạn và thiếu tầm nhìn xa; ngay cả việc thực thi các
chính sách đôi khi cũng còn có những độ trễ nhất định; thậm chí, nhiều hỗ trợ, ưu
đãi của chính sách không được triển khai trong thực tế mà chỉ nằm trên giấy tờ. Các
cải cách, sửa đổi và bổ sung liên quan đến chính sách cạnh tranh thường mang tính
13. 2
chắp vá, hầu hết đều theo kiểu “thực thi chính sách - phát sinh vấn đề - sửa đổi bổ
sung - và lại tiếp tục lặp đi lặp lại”. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do
trong công tác soạn thảo và quản lý chính sách đã thiếu đi mất sự phân tích, đánh
giá hệ thống chính sách cạnh tranh một cách khoa học trước và sau khi chính sách
được thực thi. Điều này cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi Luật Cạnh tranh hiện
hành để tạo một hành lang pháp lý đầy đủ và thống nhất nhằm duy trì mục tiêu
chung của chính sách cạnh tranh.
Mặt khác, nước ta đang ở trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế
toàn cầu hóa một cách sâu rộng. Việt Nam đã và đang là thành viên của rất nhiều
các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời cũng là thành viên của rất nhiều
các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Điều đó có nghĩa là thị
trường ngày càng được mở rộng, các cơ hội trong kinh doanh cũng ngày càng nhiều
nhưng theo đó, các khó khăn và thách thức cũng nhiều thêm, cạnh tranh càng thêm
gay gắt và khốc liệt. Do vậy, việc tạo lập, duy trì một môi trường cạnh tranh công
bằng và bình đẳng giữa các chủ thể trong nền kinh tế phù hợp với cam kết trong các
Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia là hết sức cần thiết. Đối với
riêng TPP, đây là một hiệp định thương mại tư do khu vực toàn diện có thể đem đến
những cơ hội rất lớn cho Việt Nam kết nối nền kinh tế của mình với Hoa Kỳ và các
thành viên TPP khác. Tuy nhiên, TPP có những yêu cầu với tiêu chuẩn rất cao trong
hầu hết các lĩnh vực, trong đó có cạnh tranh. Đó là những khó khăn và thách thức
không nhỏ mà Việt Nam phải đối mặt khi tham gia vào sân chơi của các nền kinh tế
hai bên bờ Thái Bình Dương này, và tất nhiên điều đó đòi hỏi việc phải hoàn thiện
chính sách và pháp luật Việt Nam ở các lĩnh vực cho phù hợp với tiêu chuẩn trong
TPP, đặc biệt là chính sách và pháp luật cạnh tranh.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn chủ đề:
“Hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam trong điều kiện Hiệp định Đối tác
Xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
14. 3
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, các nghiên cứu, các công trình học thuật nghiên cứu một cách toàn
diện về hệ thống chính sách cạnh tranh của Việt Nam chưa có nhiều. Nếu như xét
trên phương diện pháp luật cạnh tranh thì đã có một số tài liệu, giáo trình và các bài
nghiên cứu của nhiều tác giả về khía cạnh này. Đơn cử có thể nói đến một số tài liệu
như công trình nghiên cứu “Chính sách cạnh tranh nhìn từ góc độ quốc gia đang
phát triển” của tác giả Bùi Nguyễn Anh Tuấn thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và
Chính sách trình bày thực trạng cạnh tranh ở các quốc gia đang phát triển trong đó
có Việt Nam và đưa ra phương pháp phân tích đối với mối quan hệ thúc đẩy lẫn
nhau giữa chính sách thương mại, chính sách đầu tư và chính sách cạnh tranh ở các
nước đang phát triển; các bài viết “Chính sách cạnh tranh – công cụ vĩ mô nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dân doanh” đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Kinh tế số 333 tháng 2/2016 và bài viết “Một số vấn đề đặt ra đối với việc thực
thi Luật Cạnh tranh” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/2007 của tác giả
Tăng Văn Nghĩa. Qua đó, tác giả PGS.TS Tăng Văn Nghĩa cho rằng chính sách
quản lý toàn diện của Nhà nước đối với nền kinh tế, sự nâng đỡ các doanh nghiệp
quốc doanh trong một thời gian dài trước kia đã làm cho cách doanh nghiệp dân
doanh không có điều kiện và cơ hội cạnh tranh trên thị trường; đồng thời tác giả
cũng chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại trong việc thực thi Luật Cạnh tranh tại Việt
Nam và đề xuất một số tiêu chí để xây dựng chính sách cạnh tranh.
Mới đây, liên quan đến chính sách cạnh tranh trung lập – vấn đề tương tự
được TPP quy định khá chi tiết, tác giả Tăng Văn Nghĩa et al. có công trình nghiên
cứu “Competitive Neutrality: Challenges of Application for Vietnam” đăng trên dữ
liệu Working Paper của Viện Thương mại Thế giới khẳng định tầm quan trọng ngày
càng tăng về tính trung lập trong cạnh tranh của chính sách cạnh tranh mỗi quốc gia
và đưa ra những khuyến nghị trong việc hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt
Nam.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu liên quan đến việc hoàn thiện chính sách
cạnh tranh của quốc gia trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế lại
15. 4
càng ít hơn, và nếu có thì hầu hết là các nghiên cứu liên quan đến các điều khoản,
cam kết về cạnh tranh của Việt Nam khi gia nhập WTO.
Các công trình đã được nghiên cứu trước đây đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau của chính sách cạnh tranh, cũng đã chỉ ra được những vấn đề còn tồn tại,
những bất cập cần bổ sung, thay đổi và cũng đưa ra nhiều ý kiến đóng góp phong
phú, hữu ích. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình, khoá luận , luận án
nào nghiên cứu và đề cập một cách toàn diện đến việc hoàn thiện chính sách cạnh
tranh của Việt Nam trong khuôn khổ TPP. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành khoá luận tốt nghiệp, tác giả sẽ tiếp thu và kế thừa có chọn lọc thành quả
nghiên cứu của các công trình đã có, để từ đó phát huy và có thêm những đóng góp
mới trong khoá luận của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu chính sách cạnh tranh, trong đó pháp luật cạnh tranh
là yếu tố và là nội hàm quan trọng nhất của chính sách cạnh tranh cũng như những
cam kết mà Việt Nam trong TPP, tác giả đưa ra khuyến nghị hoàn thiện chính sách
và pháp luật cạnh tranh của Việt Nam. Từ mục đích nêu trên, các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể bao gồm:
(i) Hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về cạnh tranh và chính sách cạnh
tranh, vấn đề cạnh tranh trong hiệp định TPP.
(ii) Phân tích và đánh giá một cách khoa học, toàn diện, khách quan về thực
trạng chính sách cạnh tranh và thực thi chính sách cạnh tranh tại Việt Nam; đánh
giá các quy định đang được thực thi hiện nay. Phân tích và đánh giá chủ yếu ba quy
định pháp luật về: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng sức mạnh thị trường
hoặc vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
(iii) Trên cơ sở đó, Khoá luận đề xuất các giải pháp/khuyến nghị nhằm hoàn
thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam trong điều kiện Việt Nam tham Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương hay các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
khác.
16. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận là chính sách và pháp luật cạnh tranh
trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, Khoá luận nghiên cứu về chính sách cạnh tranh, pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam, cụ thể là tham gia Hiệp định TPP.
- Về không gian, Khoá luận đề cập đến chính sách cạnh tranh và pháp luật
cạnh tranh tại Việt Nam. Ngoài ra, khoá luận cũng có tham khảo một số nội dung,
điều khoản, quy định có liên quan về chính sách cạnh tranh từ một số quốc gia là
Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản hay các quốc gia khác tham gia Hiệp định TPP.
- Về thời gian, Khoá luận nghiên cứu từ năm 2004 khi Luật Cạnh tranh của
Việt Nam ban hành cho đến năm 2030 trên cơ sở đề xuất các giải pháp/khuyến nghị
hoàn thiện chính sách, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu
Toàn bộ các thông tin và số liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo, nghiên
cứu, số liệu thống kê và trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền hoặc chức năng liên quan như: Bộ Công Thương, Cục quản lý cạnh
tranh, Hội đồng Cạnh tranh...; các nguồn tài liệu chứa đựng các Hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương; hoặc các nguồn tài liệu từ các hội thảo trong
nước và quốc tế có liên quan.
5.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý thông tin, số liệu
Các tài liệu, số liệu và thông tin thứ cấp sau khi thu thập được xử lý để loại bỏ
những tài liệu, số liệu và thông tin kém tin cậy, sau đó trình bày lại những thông tin
và số liệu cần thiết để phục vụ quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó, các thông tin
17. 6
được tập hợp lại để xây dựng danh mục những thông tin và số liệu cần thiết để phục
vụ quá trình phân tích sau này; qua đó, sắp xếp các thông tin và số liệu theo danh
mục đã xây dựng.
Nguồn: Mô tả của tác giả
Sơ đồ 0.1: Quy trình tổng hợp và xử lý tài liệu, số liệu, thông tin
5.3. Phương pháp phân tích
Các thông tin và số liệu trong bài nghiên cứu được phân tích bằng những
phương pháp như sau:
- Phương pháp thống kê và so sánh: sử dụng số liệu theo chuỗi thời gian và tại
một thời điểm để đánh giá sự tương quan giữa các biến số và sự thay đổi giữa các
chủ thể nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: sử dụng để giải thích các số liệu và liên
hệ thực tiễn về thực trạng chính sách cạnh tranh và thực thi chính sách, pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam.
Ngoài ra, một số phương pháp nghiên cứu khác cũng được sử dụng như
phương pháp hệ thống hóa, phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp, phương
pháp so sánh luật học...
6. Đóng góp của khoá luận
6.1. Về mặt lý luận
Thứ nhất, khoá luận làm rõ các vấn đề liên quan đến cạnh tranh và chính sách
cạnh tranh như: khái niệm cạnh tranh/chính sách cạnh tranh, bản chất của cạnh
tranh, các nội dung của chính sách cạnh tranh. Đồng thời, khoá luận cũng chỉ ra
Thu thập dữ liệu Xử lý và trình bày
Phân tích và kết
luận
18. 7
rằng, các điều khoản về chính sách cạnh tranh là không thể thiếu trong các Hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới, và là nội dung quan trọng cần phải nghiên cứu
khi Việt Nam tham gia vào các hiệp định này.
Thứ hai, khoá luận đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách cạnh
tranh của Việt Nam trên cơ sở các cam kết của Việt Nam khi tham gia Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương hay các FTAs thế hệ mới khác.
6.2. Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, khoá luận đã phân tích thực trạng chính sách cạnh tranh của Việt
Nam hiện nay, đưa ra những đánh giá khách quan và chỉ ra những hạn chế của
chính sách và việc thực thi chính sách trong thực tế.
Thứ hai, những tiêu chí, phương hướng được đưa ra trong các giải pháp gắn
với thực tiễn của nền kinh tế cũng như những cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam về chính sách cạnh tranh.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mục lục, mở đẩu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, khoá luận có kết cấu ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chính sách cạnh tranh và cạnh
tranh trong Hiệp định TPP.
Chương 2: Thực trạng chính sách cạnh tranh của Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách cạnh tranh của Việt Nam trên cơ
sở các cam kết trong Hiệp định TPP.
19. 8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH
CẠNH TRANH VÀ CẠNH TRANH TRONG HIỆP ĐỊNH TPP
1.1. Khái quát về cạnh tranh
1.1.1. Nguồn gốc và khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một khái niệm rất rộng, xuất hiện ở hầu hết các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội chứ không hẳn là một khái niệm đặc trưng của kinh tế học.
Còn ở trong kinh tế, cạnh tranh là một yếu tố cơ bản có liên quan và liên hệ mật
thiết đến mọi lĩnh vực của thị trường và đến mọi chủ thể kinh doanh trên thị trường.
Mặc dù vậy, cạnh tranh không phải luôn luôn và mặc định là xuất hiện trong nền
kinh tế. Đã từng có thời kỳ, cạnh tranh và lợi nhuận được coi như mặt trái gắn liền
với chủ nghĩa tư bản và bị gạt ra khỏi công cuộc xây dựng thể chế kinh tế thời kỳ kế
hoạch hóa tập trung. Khi đó, các Nhà nước xã hội chủ nghĩa coi việc nắm giữ sức
mạnh kinh tế kết hợp với yếu tố kế hoạch tập trung như là những động lực cơ bản
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên, cạnh tranh chỉ thực sự xuất hiện khi và chỉ khi nền kinh tế được vận
hành theo một cơ chế nhất định – là cơ chế thị trường, nơi mà pháp luật thừa nhận
và đảm bảo chế độ sở hữu đa thành phần, quyền tự do ý chí trong đó có quyền tự do
kinh doanh của các cá nhân. Và chỉ có tự do cạnh tranh thì nền kinh tế thị trường
mới vận hành theo đúng quy luật tất yếu của nó, và khi đó mới có thể phát huy hết
nội lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Cũng bởi cạnh tranh là động lực phát triển của xã hội, là nhân tố để vận hành
nền kinh tế và là yếu tố để điều chỉnh theo xu hướng lành mạnh hóa các quan hệ xã
hội khi nhà nước đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể thuộc mọi
thành phần kinh tế, do đó nó cũng kéo theo hệ quả đào thải – nghĩa là chủ thể yếu
có kém có xu thế bị loại ra khỏi thị trường, và những ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế. Chính sự đa dạng và phong phú về các hoạt động cạnh tranh diễn ra trên thị
trường trong thực tiễn kinh doanh đã dẫn đến sự không thống nhất về một khái niệm
chung cho cạnh tranh. Từ trước đến nay đã có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu,
cách tiếp cận từ nhiều hướng khác nhau về cạnh tranh. Trong cuốn “Từ điển tiếng
Việt” định nghĩa: “cạnh tranh là cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa
20. 9
những cá nhân, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau” (Hoàng
Phê, 2016, tr.112). Hay như với tư cách là động lực nội tại trong mỗi một chủ thể
kinh doanh, trong cuốn “Black’s Law Dictionary”, cạnh tranh có thể được tạm hiểu
là “sự đấu tranh để giữa các chủ thể để giành lấy những lợi thế thương mại tốt
nhất” (Bryan A.Garner, 2004, tr.302).
Ngoài ra, trong hầu hết các tổ chức, diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế như
WTO, OECD, APEC…khái niệm về cạnh tranh không được định nghĩa một cách cụ
thể mà được thể hiện thông qua các điều khoản cam kết, các nguyên tắc trong các
lĩnh vực và các quy định có liên quan. Do tính chất đa dạng và phức tạp của quá
trình cạnh tranh trong nền kinh tế hiện đại, các định nghĩa về cạnh tranh mặc dù nêu
được trong chừng mực nhất định những đặc điểm căn bản về cạnh tranh, tuy vậy,
chúng đều có những hạn chế nhất định và chưa đảm bảo được tính khái quát cao và
bao trùm trong thực tiễn.
Tựu chung lại, chúng ta có thể nhìn nhận hoạt động cạnh tranh diễn ra trong
nền kinh tế thị trường theo một quan điểm như sau: đó là hành vi của hai hoặc nhiều
chủ thể kinh doanh với mục đích giành lấy cho mình những ưu thế cao nhất so với
chủ thể kinh doanh khác. Nhìn nhận cạnh tranh từ góc độ nêu trên, chúng ta có thể
nhận thấy được rằng cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường,
nơi có sự tham gia của từ hai chủ thể trở lên từ phía cung hoặc từ phía cầu. Và
những chủ thể kinh doanh này có mục đích đối kháng nhau, sự đạt được mục đích
của chủ thể này sẽ dẫn đến sự thất bại của chủ thể kia và ngược lại. Như vậy, cạnh
tranh kinh tế diễn ra khi có ba yếu tố:
(i) Có sự tồn tại của quan hệ thị trường;
(ii) Có ít nhất là hai chủ thể ở mỗi bên của thị trường;
(iii) Có những hành vi đối nghịch nhau của các chủ thể kinh doanh thông qua
những phương tiện cạnh tranh để cải thiện ưu thế của mình và làm bất lợi cho đối
thủ khác.
21. 10
1.1.2. Bản chất của cạnh tranh
Như đã nói ở trên, cạnh tranh vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế, tạo ra nhiều lợi ích cho xã hội và người tiêu dùng, song xét theo một khía
cạnh khác, cạnh tranh cũng có thể đem lại những hậu quả tiêu cực về kinh tế - xã
hội. Nếu cạnh tranh được diễn ra một cách công bằng và công khai giữa các chủ thể
kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng thì nó luôn
đem lại những tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Khi đó, cạnh
tranh là hoạt động căn bản của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
và là động lực để các đối thủ phải tự cải tổ và trang bị cho mình những điều kiện tốt
nhất để duy trì sự tồn tại và phát triển trên thị trường. Kết quả của quá trình cạnh
tranh lành mạnh và công bằng đó là đem lại nhiều giá trị đóng góp cho xã hội và lợi
ích cho người tiêu dùng hơn như chất lượng sản phẩm/dịch vụ tốt hơn với mức giá
thành hợp lý hơn. Một khía cạnh khác của cạnh tranh đó là cùng với mục đích tối đa
hóa lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh thông qua cạnh tranh để giành lấy những
điều kiện, ưu thế có lợi nhất thì cạnh tranh sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
tư bản diễn ra để có thể cải thiện năng lực cạnh tranh của các chủ thể tham gia và có
thể thực hiện được các dự án có quy mô lớn. Tuy nhiên, sự tích tụ và tập trung
nguồn lực nói trên có thể xảy ra không đồng đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế
khác nhau. Đây chính là điều kiện cho sự hình thành các hình thái cạnh tranh không
hoàn hảo, trong đó có độc quyền trên thị trường.
Ngoài ra, cạnh tranh là sự ganh đua kình địch với nhau trong kinh doanh làm
cho trong cơ chế thị trường cạnh tranh tồn tại như là một yếu tố tự điều chỉnh tính
hiệu quả và hợp lý của các quan hệ thị trường. Điều này tương tự với quy luật cạnh
tranh sinh tồn trong tự nhiên, quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn
khẳng định chiến thắng, duy trì sự tồn tại thuộc về những chủ thể kinh doanh có khả
năng thích nghi hơn với sự biến đổi của thị trường, mạnh hơn, có trình độ quản lý
và tri thức về khoa học công nghệ cao hơn, có tố chất sáng tạo và kinh nghiệm, bản
lĩnh thương trường tốt hơn.
22. 11
1.2. Khái quát về chính sách cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm chính sách cạnh tranh
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một phạm trù tương đối rộng và
được tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như kinh tế học, kinh
doanh, luật học… Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đắt nước, những vấn đề đặt ra trong việc phát triển kinh tế cũng chính
là những luận giải trên con đường phát triển đan xen giữa các lý thuyết kinh tế và
cạnh tranh.
Chính sách cạnh tranh (competition policy) theo định nghĩa trong cuốn “Từ
điển Chính sách Thương mại Quốc tế” của MUTRAP “bao gồm các quy tắc và quy
định nhằm thúc đẩy môi trường cạnh tranh trong một nền kinh tế quốc dân, một
phần thông qua việc phân bổ có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên” (MUTRAP, 2005,
tr.50).
Một quan điểm tương tự về chính sách cạnh tranh đó là “tổng hợp các biện
pháp, công cụ vĩ mô của nhà nước nhằm đảm bảo tự do cạnh tranh và điều tiết
cạnh tranh trong nền kinh tế cũng như duy trì một môi trường cạnh tranh công
bằng, bình đẳng, phù hợp với lợi ích chung của xã hội” (Tăng Văn Nghĩa, 2006,
tr.16 - 17).
Thông qua hai khái niệm nêu trên, tổng quát lại chúng ta có thể đưa ra một
quan điểm chung nhất về chính sách cạnh tranh như sau: là một trong những chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách cạnh tranh là tổng hợp các biện pháp và
công cụ vĩ mô của nhà nước nhằm tạo lập, duy trì và thúc đẩy một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng và hợp pháp trong một nền kinh tế thị trường của mỗi
quốc gia.
Nhìn vào khả năng tham gia thị trường cũng như sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp trên thị trường, chúng ta có thể biết được chính sách cạnh tranh của
quốc gia đó. Hầu hết những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đã có
những bước đi nhằm thống nhất xây dựng chính sách cạnh tranh vì một môi trường
cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho các công ty, doanh nghiệp trên bình diện quốc
23. 12
tế. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của nhà nước trong nền kinh
tế cũng như việc nền kinh tế ấy có vận hành theo đúng cơ chế thị trường hay không,
có nằm trong xu thế toàn cầu hóa và tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
hay không.
1.2.2. Nội dung của chính sách cạnh tranh
Như trên đã đề cập, cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giành những lợi thế
về cho mình trước các đối thủ cạnh tranh khác. Cạnh tranh là phương thức cơ bản
để giành lợi thế kinh doanh của các chủ thể trên thị trường. Không có cạnh tranh, thị
trường hầu như không tồn tại và nếu cạnh tranh bị hạn chế, thị trường có thể bị bóp
méo. Sự đa dạng của các hoạt động kinh doanh trên thị trường cũng kéo theo sự đa
dạng của các hành vi cạnh tranh. Về mặt hình thức, hành vi cạnh tranh bao giờ cũng
biểu hiện thông qua những phương tiện cạnh tranh như bằng cách xác định giá bán,
chất lượng của hàng hóa, dịch vụ, quảng cáo… Mặc dù các hành vi cạnh tranh đều
nhằm mục đích giành lợi thế trong kinh doanh nhưng xét về mặt bản chất của hành
vi thì chúng không phải là giống nhau hoàn toàn. Khi các hành vi cạnh tranh diễn ra
cao độ sẽ dẫn đến những hậu quả thay đổi về cấu trúc thị trường, về sức mạnh thị
trường của các chủ thể tham gia. Những hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp có
sức mạnh thị trường thường mang lại những hậu quả rất nhạy cảm trên thị trường,
các đối thủ cạnh tranh khác rất dễ bị tác động tiêu cực và bị thiệt hại bởi những
hành vi cạnh tranh từ những chủ thể đó. Do đó, chính sách cạnh tranh (mà bản chất
là chính sách chống hạn chế cạnh tranh) tập trung điều chỉnh những hành vi cạnh
tranh liên quan đến hạn chế cạnh tranh, với ba nội dung cụ thể bao gồm: chính sách
kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, chính sách kiểm soát hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền và chính sách kiểm soát tập
trung kinh tế.
1.2.2.1. Chính sách kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Quá trình cạnh tranh khiến cho các chủ thể kinh doanh phải nỗ lực tự cải tổ
bản thân để đạt được những lợi thế hơn so với các đối thủ. Tuy nhiên, không ít các
doanh nghiệp lai coi cạnh tranh như một mối hiểm họa đối với khả năng thu lợi
nhuận và sự tồn vong của doanh nghiệp. Vì vậy, thay vì nỗ lực tự điều chỉnh và
24. 13
nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển trên thị trường, các doanh
nghiệp này đã chọn con đường dễ dàng hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ
cạnh tranh về các yếu tố như giá cả, sản xuất, thị trường, khách hàng...nhằm duy trì
thị phần và lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận. Hậu
quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự độc quyền hóa thị trường, theo
đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản lượng, khách hàng...không
còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống chế bởi một nhóm các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận. Từ việc khống chế thị trường, hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, vì vậy, thường mang tính chất “trục lợi, tận thu” (exploitative) hoặc
“ngăn cản, loại bỏ” (exclusionary) cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên, không phải tất cả các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đều nhất
thiết nhằm mục đích hoặc có tác động làm phương hại cạnh tranh. Trong một số
quốc gia, chính sách cạnh tranh có quy định miễn trừ cho một số thỏa thuận hợp tác
giữa các doanh nghiệp nếu các thỏa thuận đó có tác dụng làm tăng hiệu quả kinh tế,
năng động hóa thị trường. Nhiều quốc gia cho phép các doanh nghiệp hợp tác trong
lĩnh vực nghiên cứu và phát triển sản phẩm, nghiên cứu, phát triển các tiêu chuẩn
thống nhất cho sản phẩm...để kích thích lợi thế kinh tế quy mô, thúc đẩy các tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ nhằm mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh
tế.
Từ các đánh giá, nhìn nhận về tác động tiêu cực của các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, chính sách cạnh tranh của hầu khắp các quốc gia trên thế giới
đều có quy định điều chỉnh các hành vi thỏa thuận và đều coi pháp luật điều chỉnh
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong ba trụ cột quan trọng của pháp
luật cạnh tranh nói riêng và chính sách cạnh tranh nói chung. Tuy nhiên, như đã đề
cập trên đây, do không phải bất kỳ thỏa thuận nào giữa các doanh nghiệp cũng
mang ý nghĩa tiêu cực nên việc phân định rõ các dạng thức thỏa thuận, đánh giá
được bản chất, tác động của các hành vi thỏa thuận có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với việc xây dựng và thực thi chính sách cạnh tranh ở các quốc gia.
Mặc dù không có một khái niệm chung, thống nhất giữa các quốc gia về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh (cartel), tuy nhiên, từ thực tiễn thực thi chính sách và pháp
25. 14
luật cạnh tranh, có thể thấy cách hiểu, cách tiếp cận đối với thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh ở các quốc gia có nhiều điểm tương đối đồng nhất. Ở Châu Âu, thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh được quy định tại Điều 101 (Điều 81 cũ) của Hiệp ước về chức năng
của Liên minh châu Âu (TFEU - Treaty of the Functioning of the European Union)
như sau: “Mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, quyết định của hiệp hội các
doanh nghiệp và mọi hành vi liên kết khác có thể ảnh hưởng đến thương mại giữa
các nước thành viên và có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai
lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường của liên minh, đều bị coi là đi ngược lại với
mục đích thành lập thị trường chung và bị cấm” (European Commission, 2007,
Article 101).
Tại Nhật Bản, Khoản 6 Điều 2 Luật Chống độc quyền quy định: “Hạn chế
thương mại bất hợp lý là các hoạt động kinh doanh mà thông qua đó bất kỳ doanh
nghiệp nào bằng hợp đồng, thỏa thuận hay bất kỳ các hoạt động thông đồng khác,
không phụ thuộc tên gọi, cùng hạn chế hay tiến hành các hoạt động kinh doanh của
họ theo cách thức cố định giá, duy trì giá hay tăng giá, hoặc để giới hạn sản xuất,
công nghệ, sản phẩm, cơ sở sản xuất hay khách hàng hoặc giao dịch của các đối
tác, gây ra hạn chế đáng kể đối với cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, đi ngược
lại lợi ích chung” (Japan Fair Trade Commission, 1947, Article 2).
Tại Việt Nam, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được liệt vào nhóm các hành vi
hạn chế cạnh tranh, theo đó là các “hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch,
cản trở cạnh tranh trên thị trường” (Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh). Khác với
pháp luật cạnh tranh của Châu Âu và Nhật Bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam
không đưa ra khái niệm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà quy định cụ thể về 08
dạng thức (hành vi) thỏa thuận, bao gồm các thỏa thuận như thỏa thuận ấn định giá,
phân chia thị trường, tiết chế sản lượng...quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh. Như
vậy, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng như của các quốc gia nêu trên đều
không phân biệt hình thức thỏa thuận (công khai hay ngầm) và đều nhắm vào mục
đích/hệ quả hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận
Dưới giác độ pháp lý, căn cứ theo mối quan hệ giữa các chủ thể (doanh
nghiệp) tham gia thỏa thuận, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thể hiện dưới
26. 15
hai hình thức là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh theo chiều ngang (vertical cartel and horizontal cartel). Việc phân loại
này có một ý nghĩa quan trọng trong cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, bởi vì thỏa thuận ngang luôn được đánh giá là có tác động nguy
hại hơn so với thỏa thuận theo chiều dọc do phạm vi ảnh hưởng trên cùng một thị
trường của thỏa thuận ngang lớn hơn thỏa thuận dọc, nên việc phân biệt rõ ràng
giữa thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc sẽ giúp ích cho việc định hướng cách thức
điều chỉnh hành vi thỏa thuận, mức độ can thiệp của cơ quan cạnh tranh đối với vụ
việc.
Do thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang là các thỏa thuận được
thực hiện giữa các chủ thể cùng cấp độ kinh doanh, cho nên các thỏa thuận ngang
thường tập trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp
đang cạnh tranh như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết
hợp đồng và nội dung hợp đồng. Căn cứ vào mức độ vi phạm các nguyên tắc cạnh
tranh, xem xét trên phương diện các tác động mà thỏa thuận theo chiều ngang mang
đến đối với thị trường, người tiêu dùng, nền kinh tế và xã hội nói chung, mà thỏa
thuận theo chiều ngang được chia thành hai nhóm: (i) Thỏa thuận ngang nghiêm
trọng (hardcore cartel) và (ii) Thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng (non-hardcore
cartel).
(i) Thỏa thuận ngang nghiêm trọng (hardcore cartel): Theo “Khuyến nghị về
các hoạt động hiệu quả chống hardcore cartel (Recommendation of the Council
concerning Effective Action against Hardcore Cartels)” của OECD năm 1998, thỏa
thuận ngang nghiêm trọng được hiểu là “một thỏa thuận hay thống nhất ý chí cùng
hành động giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm ấn định giá, gian lận thầu (thông
đồng đấu thầu), hạn chế sản lượng hoặc hạn ngạch, phân chia thị trường theo
nhóm khách hàng, nguồn cung ứng, khu vực địa lý hay các kênh thương mại”
(OECD, 1998, tr.3).
Trên thực tế, hardcore cartel được đề cập đến trong nhiều hệ thống luật như là
một dạng hành vi hạn chế cạnh tranh một cách nghiêm trọng, và vì vậy là các vi
phạm mặc nhiên (per se illegal). Điều đó có nghĩa là các cơ quan cạnh tranh không
27. 16
cần phải chứng minh về tác động hạn chế cạnh tranh do hành vi gây ra, mà mặc
nhiên xác định đó là một vi phạm. Thông thường, thỏa thuận ngang nghiêm trọng
bao hàm 4 loại hành vi điển hình: thỏa thuận/thông đồng/cấu kết ấn định giá; hạn
chế sản lượng; phân chia thị trường và thông đồng đấu thầu.
(ii) Thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng (non-hardcore cartel): Trong số các
thỏa thuận theo chiều ngang, không phải tất cả các thỏa thuận theo chiều ngang đều
gây tác hại xấu, mà có thể có những trường hợp các đối thủ cạnh tranh phối hợp với
nhau theo cách thức mang lại lợi ích kinh tế không chỉ cho bản thân họ, mà còn làm
lợi cho cả người tiêu dùng. Những thỏa thuận ngang như thế có thể gọi là thỏa thuận
hợp tác. Những hình thức thỏa thuận hợp tác phổ biến nhất bao gồm: thỏa thuận
nghiên cứu và phát triển (R&D - Research and Development); thỏa thuận sản xuất;
thỏa thuận mua chung sản phẩm; thỏa thuận thương mại hóa; thỏa thuận định
chuẩn; thỏa thuận bảo vệ môi trường và thỏa thuận về các điều kiện kinh doanh.
Các dạng thỏa thuận nêu trên, một mặt có tác động gây hạn chế cạnh tranh nhưng
mặt khác cũng có tác động thúc đẩy cạnh tranh, mang lại lợi ích cho xã hội và người
tiêu dùng.
Trong khi đó, các thỏa thuận dọc là các thỏa thuận được thực hiện giữa các
chủ thể ở khác cấp độ kinh doanh nên thỏa thuận dọc thường tập trung vào các điều
kiện kinh doanh trên thị trường thứ cấp như giá bán lại, khu vực phân phối, sản
lượng phân phối, khách hàng giao dịch, điều kiện phân phối...Thỏa thuận theo chiều
dọc thường đa dạng, tùy thuộc vào đặc điểm của sản phẩm hay dịch vụ phân phối.
Dựa trên các nhóm hành vi thường gặp, thỏa thuận theo chiều dọc có ba dạng chính,
bao gồm: thỏa thuận ấn định giá bán lại; thỏa thuận bán kèm sản phẩm, dịch vụ và
hợp đồng độc quyền. Ngoài ra, còn có một số hình thức thỏa thuận dọc khác như ấn
định số lượng sản phẩm, dịch vụ phải bán, bán sản phẩm theo mức giá khuyến
nghị...
Về nguyên tắc, thỏa thuận của những doanh nghiệp nhằm hạn chế cạnh tranh
trên thị trường sẽ bị cấm; tuy nhiên, không phải tất cả mọi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh đều bị cấm. Pháp luật cạnh tranh chỉ cấm đối với những thỏa thuận khi chúng
thỏa mãn những điều kiện nhất định, chẳng hạn khi chúng làm giảm căn bản tính
28. 17
cạnh tranh của thị trường hoặc những thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh một cách
bất hợp lý.
1.2.2.2. Chính sách kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị
trí độc quyền
Một trong những vấn đề quan trọng được điều chỉnh bởi chính sách cạnh tranh
đó là việc lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp. Vị trí thống lĩnh và/hoặc vị trí độc quyền trên thị trường là
những vị trí có những lợi thế lớn về cạnh tranh trên thị trường. Đây cũng là động
lực, mục tiêu của doanh nghiệp nói chung khi tiến hành hành vi cạnh tranh trên thị
trường, và kết quả của quá trình cạnh tranh rất dễ có thể hình thành vị trí thống lĩnh
hoặc độc quyền. Khi đã có được vị trí như vậy, các doanh nghiệp sẽ khai thác các
thế mạnh về vị trí mình đang có, và ở một mức độ cao hơn chính là lạm dụng các vị
trí nói trên. Trên thực tế, trong kinh doanh, sau khi giành được vị trí thống lĩnh hoặc
độc quyền doanh nghiệp lại rất hay lạm dụng vị trí này để có những ưu thế cạnh
tranh gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh khác. Ngay cả khi không có sự lạm
dụng thì chính hành vi của doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đều tạo ra sự bất
lợi lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vậy, thông thường một chính sách
cạnh tranh sẽ có các biện pháp tác động thích hợp để các quan hệ thị trường có thể
diễn ra bình thường, tránh được lệch lạc và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực
đến quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường.
Liên quan đến khái niệm vị trí thống lĩnh/độc quyền, pháp luật cạnh tranh của
EU đưa ra cách hiểu như sau: “vị trí thống lĩnh được định nghĩa như thế mạnh kinh
tế hình thành do việc thực hiện hành vi ngăn cản cạnh tranh hiệu quả vốn được duy
trì trên thị trường liên quan, thông qua đó, doanh nghiệp có thể hành xử độc lập
đáng kể trước đối thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối cùng là người tiêu dùng”
(Court of Justice of the European Communities, 1978, Decision 65). Khái niệm này
được Tòa án tư pháp của Cộng đồng châu Âu đưa ra để giải thích rõ hơn cho Điều
102 TFEU trong vụ kiện liên quan đến việc cáo buộc lạm dụng vị trí thống lĩnh giữa
Công ty United Brands và Ủy ban châu Âu.
29. 18
Giải thích cho khái niệm độc quyền trong Mục 2 của Luật Chống độc quyền
Sherman Act của Hoa Kỳ, trong vụ việc Chính phủ Hoa Kỳ khởi kiện Tập đoàn
Grinnell Corporation năm 1966, Tòa án Hoa Kỳ khi đó đã đưa ra cách hiểu “độc
quyền” gồm hai yếu tố: “(i) sở hữu quyền lực độc quyền trên thị trường liên quan
và (ii) cố tình gây ra hoặc duy trì hành vi này trong khoảng thời gian nhất định
nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới gia nhập hoặc mở rộng thị trường” (United
States Supreme Court, 384 U.S. 563, tr.570 – 571).
Nhìn chung, vị trí thống lĩnh được hiểu là khả năng cạnh tranh vượt trội để có
thể thao túng thị trường liên quan đối với một nhóm hàng hóa, dịch vụ của một hoặc
một nhóm doanh nghiệp. Vị trí độc quyền xuất hiện khi trên thị trường chỉ có một
doanh nghiệp đang kinh doanh một lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên
quan hoặc có tồn tại cạnh tranh nhưng không đáng kể. Về nguyên tắc, việc hình
thành vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền không trái pháp luật mà chỉ khi nào doanh
nghiệp lạm dụng vị trí đó để cạnh tranh mới là vi phạm pháp luật. Để loại trừ được
những nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường, chính sách chống hạn chế cạnh
tranh không chỉ kiểm soát những doanh nghiệp có vị trí trên mà còn kiểm soát để
tác động con đường hình thành nên các vị trí đó.
Mục đích chung của chính sách cạnh tranh chỉnh là đảm bảo một môi trường
tự do cạnh tranh cho tất cả các chủ thể tham gia, do vậy, việc kiểm soát lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền cũng là nhằm thực hiện mục đích
chung của chính sách cạnh tranh.
Thứ nhất, việc kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc
quyền sẽ đảm bảo cho một thị trường mở. Trong quá trình cạnh tranh, không thể
tránh khỏi việc hình thành các vị trí thống lĩnh thị trường, thậm chí là độc quyền. Sự
tồn tại của những doanh nghiệp chiếm lĩnh vị trí này làm cho việc gia nhập thị
trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc doanh nghiệp mới là rất khó khăn,
Đặc biệt là khi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/vị trí độc quyền lạm dụng vị trí của
mình để tạo những rào cản gia nhập thị trường đối với các chủ thể tiềm năng. Bởi
vậy, chính sách cạnh tranh luôn phải cấm việc lạm dụng này với mục tiêu đảm bảo
khả năng gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh nói chung.
30. 19
Thứ hai, việc kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc
quyền sẽ tạo lập và duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Những
ưu thế cạnh tranh khi mà doanh nghiệp đạt được vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc
quyền là rất lớn và sự tồn tại của vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền cũng làm cho các
doanh nghiệp luôn luôn có xu hướng lạm dụng vị trí đó để duy trì và củng cố vị trí
của mình trên thị trường, để thao túng thị trường hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
Bởi vậy, việc cấm lạm dụng là điều kiện để duy trì khả năng tham gia thị trường cho
các chủ thể tiềm năng, qua đó tạo lập mà duy trì môi trường cạnh tranh – kinh
doanh bình đẳng.
Thứ ba, việc kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc
quyền còn bảo vệ quyền lợi của các chủ thể kinh doanh vừa và nhỏ. Mô hình thị
trường lý tưởng sẽ bao gồm sự tham gia của tất cả các chủ thể kinh doanh dù là
doanh nghiệp có quy mô lớn hay quy mô nhỏ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ do nguồn lực và năng lực cạnh tranh không bằng được các doanh nghiệp lớn
nên rất dễ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi bất kỳ hoạt động cạnh tranh nào của doanh
nghiệp có sức mạnh thị trường, thậm chí là bị phá sản nếu các doanh nghiệp lớn lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường của họ. Việc cấm hành vi lạm dụng là nhằm bảo vệ
quyền lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách hợp lý. Một mặt, thừa nhận quy
luật đào thải nhưng mặt khác, chấp nhận cạnh tranh trên thị trường. Chính sách cạnh
tranh của hầu hết các quốc gia đều có xu hướng bảo vệ các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nhằm duy trì cơ cấu thị trường hợp lý, qua đó đảm bảo cho thị trường vận hành
một cách tốt nhất, tránh các nguy cơ của thị trường bất cân xứng. Cho nên, việc cấm
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là nhằm đảm bảo một thị trường vận hành một
cách tối ưu, tất cả các chủ thể kinh doanh dù là thực thể hay tiềm năng, lớn hay nhỏ
đều có các cơ hội tham gia vào thị trường một cách bình đẳng trước pháp luật.
Cuối cùng việc kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị tri độc
quyền cũng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Người tiêu dùng
là một trong các bên của thị trường và rõ ràng, nếu thiếu người tiêu dùng thì thị
trường không tồn tại. Bởi vậy, việc duy trì cạnh tranh trên thị trường theo đó, cấm
hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường cũng là để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng
31. 20
thông qua việc đảm bảo trên thị trường có đa dạng người cung cấp. Chỉ có cạnh
tranh thật sự, thị trường minh bạch mới buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có
hiệu quả thông qua sử dụng tốt các nguồn lực, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao
năng lực và trình độ quản lý, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn
nhu cầu của người tiêu dùng. Nếu doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hoặc
vị trí độc quyền, doanh nghiệp rất dễ có thể lạm dụng vị trí đó gây bất lợi cho người
tiêu dùng thông qua tăng giá, chất lượng không cao, đặt ra các điều kiện gây khó
khăn cho khách hàng... Đặc biệt khi xuất hiện doanh nghiệp độc quyền, người tiêu
dùng không còn sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận hàng hóa, dịch vụ và các
điều kiện kèm theo của doanh nghiệp độc quyền. Quyền lợi của người tiêu dùng
không được bảo vệ do tương quan bất hợp lý.
Tóm lại, trong chính sách chống hạn chế cạnh tranh, hầu hết các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền đều bị cấm về nguyên tắc do
tính chất và mức độ ảnh hưởng tiêu cực của nhóm hành vi này. Một vấn đề đặt ra là
sự tồn tại vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền về nguyên tắc là không trái
pháp luật nếu chúng hình thành bằng những con đường hợp pháp. Chỉ khi nào
doanh nghiệp có những hành vi lạm dụng vị trí đó thì mới vị cấm. Tuy nhiên, trong
rất nhiều trường hợp, việc xác định doanh nghiệp lạm dụng sức mạnh thị trường là
việc rất phức tạp và cần phải cân nhắc đến quyền lợi của các bên có liên quan. Mặc
dù, trong chính sách của nhiều quốc gia, việc cấm các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường đều được quy định rất rõ ràng, nhưng khi áp dụng, các cơ quan thực
thi vẫn căn cứ vào nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau để xem xét miễn trừ.
Riêng đối với vị trí độc quyền thì doanh nghiệp sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn bất kỳ
vị trí sức mạnh thị trường nào khác.
1.2.2.3. Chính sách kiểm soát tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế là nhu cầu tất yếu của đời sống kinh tế, thông qua đó các
hãng có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng quy mô sản xuất để giảm chi phí.
Cũng thông qua tập trung kinh tế, các hãng sản xuất mới có điều kiện tập trung
nguồn lực vào nghiên cứu phát triển sản phẩm phục vụ cho việc cạnh tranh trên thị
trường.
32. 21
Sự phát triển của tiến bộ khoa học công nghệ đã kéo theo quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất, hình thành các chủ thể kinh doanh với quy mô lớn nhằm khai
thác lợi thế nhờ quy mô. Trong điều kiện tập trung hóa cao độ có thể sẽ hình thành
vị trí thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền kinh doanh. Điều này dẫn đến hệ quả là
các chủ thể kinh doanh lớn mạnh luôn tìm cách nâng cao áp lực cạnh tranh, buộc
các doanh nghiệp nhỏ yếu hơn phải phục tùng và nằm trong vòng ảnh hưởng của
các doanh nghiệp lớn hoặc buộc phải sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn nếu muốn
tồn tại. Họ có thể mua toàn bộ hoặc mua một phần đối thủ cạnh tranh để nắm quyền
kiểm soát và chi phối các công ty bị thôn tính và thông qua đó là thủ tiêu cạnh
tranh. Đồng thời khi bị sức ép cạnh tranh lớn, các doanh nghiệp nhỏ yếu cũng cần
phải liên kết lại với nhau để tăng khả năng cạnh tranh trước mắt là để duy trì sự tồn
tại của mình trên thị trường, Khi đó số lượng chủ thể cạnh tranh trên thị trường có
xu hướng giảm dần. Kết quả của quá trình tích tụ vốn và tập trung sản xuất có thể
dẫn đến các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, thậm chí độc quyền ra đời.
Quá trình này đã có lịch sử từ hàng trăm năm trước, tuy nhiên cho đến nay vẫn
không ngừng phát triển. Tại các nước công nghiệp phát triển hay một khu vực địa lý
nào đó nơi có công nghiệp và thương mại phát triển, vấn đề tập trung kinh tế vẫn
diễn ra thường xuyên do nhu cầu của việc tập trung vốn nhằm thực hiện những dự
án kinh doanh có quy mô lớn, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp tham gia thị trường. Dưới giác độ thị trường, tự do cạnh tranh sẽ là
nguồn gốc dẫn đến tập trung tích tụ nguồn lực kinh tế. Chính sách tự do cạnh tranh
cũng là cơ sở nền tảng cho việc hình thành tập trung kinh tế. Tuy nhiên, tập trung
kinh tế vẫn luôn là một trong những đối tượng tác động cơ bản của chính sách cạnh
tranh nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng của các quốc gia nhằm kiểm soát
việc tập trung kinh tế có thể diễn ra theo một trình tự và ở một mức độ nhất định
nào đó. Nếu không, tập trung kinh tế sẽ là nguyên nhân chính hình thành các vị trí
thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền – một trạng thái thị trường không có cạnh tranh.
Các giao dịch tập trung kinh tế có thể chia thành ba loại như sau: tập trung
kinh tế theo chiều ngang (horizontal concentration), tập trung kinh tế theo chiều dọc
33. 22
(vertical concentration) và tập trung kinh tế theo dạng hỗn hợp (conglomerate
concentration).
(i) Tập trung kinh tế theo chiều ngang: Hình thức này bao gồm những vụ tập
trung kinh tế của các doanh nghiệp tham gia cung ứng cùng một loại sản phẩm hoặc
các sản phẩm có thể khả năng thay thế mật thiết cho nhau. Khái niệm tập trung kinh
tế theo chiều ngang ngầm ý rằng các doanh nghiệp tồn tại trên cùng một cấp trong
chuỗi sản xuất, cung ứng sản phẩm. Trước khi thực hiện tập trung kinh tế, các
doanh nghiệp này thường là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp hoặc đối thủ tiềm
năng. Sáp nhập theo chiều ngang được coi là có khả năng gây quan ngại đến cạnh
tranh trên thị trường nhất do việc tập trung kinh tế trực tiếp làm suy giảm số lượng
đối thủ cạnh tranh độc lập trên thị trường. Vụ việc tập trung kinh tế theo chiều
ngang có hai dạng tác động chính là: tác động đơn phương (unilater effects) và tác
động kết hợp (coordinated effects).
(ii) Tập trung kinh tế theo chiều dọc: Hình thức này bao gồm các vụ tập trung
kinh tế giữa các doanh nghiệp ở cấp độ khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất,
cung ứng sản phẩm. Nói cách khác, các vụ việc này phát sinh khi các doanh nghiệp
đang hoặc sẽ có mối quan hệ mua - bán sản phẩm thực hiện tập trung kinh tế.
Không giống như các vụ việc tập trung kinh tế theo chiều ngang, các vụ tập trung
kinh tế theo chiều dọc không làm giảm số lượng đối thủ cạnh tranh trên thị trường
liên quan, tuy nhiên, cũng có thể gây ra những quan ngại đáng kể đối với cạnh tranh
trên thị trường. Quan ngại nghiêm trọng nhất liên quan tới cạnh tranh là khi vụ việc
tập trung kinh tế gây ra tác động đóng cửa thị trường, ví dụ, trường hợp một doanh
nghiệp sản xuất tiến hành tập trung kinh tế với các nhà cung cấp nguyên liệu đầu
vào thiết yếu và từ chối cung cấp nguyên liệu thiết yếu đó cho các đối thủ cạnh
tranh khác.
(iii) Tập trung kinh tế theo dạng hỗn hợp: Hình thức này bao gồm các vụ tập
trung kinh tế khi các bên tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực
khác nhau. Điển hình là khi các công ty không cùng sản xuất một loại sản phẩm, và
cũng không có mối quan hệ mua – bán hiện hữu hoặc tiềm năng. Các vụ sáp nhập
theo dạng hỗn hợp được coi là những hình thức tập trung kinh tế ít gây quan ngại
34. 23
nhất đến cạnh tranh trên thị trường và thường được miễn trừ trong các quy định của
chính sách cạnh tranh.
Tóm lại, được diễn ra dưới một số hình thức nhất định, tập trung kinh tế là
hoạt động ở tầm chiến lược mà các doanh nghiệp theo đuổi nhằm khai thác lợi ích
kinh tế theo quy mô, đồng thời nó có thể thay thế các chiến lược về thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh hoặc chiến lược đơn phương gây thiệt hại về cạnh tranh cho các đối
thủ khác. Tập trung kinh tế là nhu cầu khách quan của việc đổi mới hình thức tổ
chức kinh tế trên cơ sở tập trung về nguồn lực, đồng thời là kết quả tất yếu cảu quá
trình tích tụ và tập trung nguồn lực đó. Tuy nhiên, các hành vi tập trung kinh tế sẽ
có hệ quả tác động đến sự vận hành của thị trường, và đương nhiên là sẽ có tác động
tới cạnh tranh được thể hiện ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Chính sách cạnh
tranh của một quốc gia kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế thông qua ba hình thức
cơ bản bao gồm:
(i) Thông qua quy định cấm: Cấm doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế khi
những doanh nghiệp tham gia này cho thấy rõ đã vượt qua những giới hạn cho phép
về thị phần, về doanh thu hay về vốn. Quy định cấm này có hiệu ứng trước, có
nghĩa là doanh nghiệp trước khi tham gia tập trung kinh tế biết được là trường hợp
tập trung kinh tế của họ có bị cấm hay không. Hình thức kiểm soát này cũng được
áp dụng khi có dấu hiệu rõ của một vụ việc tập trung kinh tế đã xảy ra và cơ quan
có thẩm quyền sẽ xem xét để áp dụng biện pháp tác động phù hợp như tái cấu trúc
mới doanh nghiệp tập trung kinh tế, chia lại doanh nghiệp tập trung kinh tế như hiện
trạng ban đầu, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh...
(ii) Thông qua chế độ đăng ký: Doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế phải
tự thông báo về hành vi tập trung kinh tế tới cơ quan quản lý cạnh tranh để xem xét
trước khi thực hiện để có thể nhận được quyết định đồng ý hoặc từ chối từ cơ quan
này. Doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế còn phải cung cấp toàn bộ những
thông tin liên quan đến các bên tham gia, những thông tin về nội dung tập trung
kinh tế, những đánh giá bước đầu về hậu quả của việc tập trung kinh tế cho cơ quan
quản lý cạnh tranh. Việc kiểm soát này được thực hiện trước khi tiến hành tập trung
35. 24
kinh tế và cũng làm cho cơ quan quản lý cạnh tranh dễ dàng tiến hành các hoạt động
kiểm soát của mình hơn.
(iii) Xem xét áp dụng miễn trừ: Đối với những trường hợp có lý do hợp lý sẽ
được cơ quan quản lý cạnh tranh xem xét áp dụng miễn trừ. Trong thực tiễn kinh
doanh, nhiều điều kiện, hoàn cảnh xuất hiện buộc các doanh nghiệp phải tiến hành
đổi mới hình thức tổ chức kinh doanh bao gồm cả việc sáp nhập, liên doanh với
doanh nghiệp khác để duy trì sự tồn tại của mình. Những trường hợp như vậy chính
là nguyên nhân theo quy định của hệ thống chính sách cạnh tranh được xem xét
miễn trừ cho việc tập trung kinh tế. Mặt khác, mục đích của việc kiểm soát tập trung
kinh tế không phải là ngăn cấm các hoạt động tập trung kinh tế mà chủ yếu là để
bảo vệ cơ cấu thị trường, bảo vệ cạnh tranh và mục đích cuối cùng là bảo vệ người
tiêu dùng cũng như lợi ích chung của xã hội. Bới vậy, kiểm soát tập trung kinh tế
chỉ có ý nghĩa khi việc tập trung kinh tế có tác động tiêu cực đến thị trường, cạnh
tranh bị hạn chế do việc xuất hiện vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sau tập trung
kinh tế. Khi đưa ra chính sách cạnh tranh, các nhà quản lý còn phải cân nhắc cả việc
hậu quả của hạn chế cạnh tranh và những bất lợi hay lợi ích mà một vụ việc tập
trung kinh tế mang lại đối với xã hội. Bởi vậy, chính sách chống hạn chế cạnh tranh
bao giờ cũng đưa ra những ngoại lệ của những trường hợp tập trung kinh tế bị cấm.
1.3. Hiệp định TPP và nội dung về chính sách cạnh tranh trong TPP
1.3.1. Sơ lược về Hiệp định TPP
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Tran-Pacific Partnership
Agreement – viết tắt là TPP) là một Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới
giữa 12 nền kinh tế hai bờ Thái Bình Dương. Mặc dù tên gọi của TPP không thể
hiện rõ như một số FTA khác mà Việt Nam đã tham gia như FTA Việt Nam – EU,
FTA Việt Nam – Hàn Quốc...TPP vẫn được biết đến như là một FTA đặc biệt, một
FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao. Lý do chủ yếu là bởi vì đây là FTA có mức độ cam
kết tự do hóa cao nhất, với phạm vi bao trùm nhiều lĩnh vực nhất không chỉ với Việt
Nam mà với tất cả các thành viên trong TPP.
36. 25
Tính đến hết năm 2016, TPP bao gồm 12 quốc gia thành viên ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương là Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand,
Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam. Sau khi hoàn tất
việc rà soát hiệu chỉnh nội dung văn kiện và được cho phép theo quy trình nội bộ,
ngày 04/02/2016 tại New Zealand, 12 quốc gia nói trên đã chính thức ký kết Hiệp
định TPP. Bước tiếp theo là các nước thành viên TPP sẽ phải hoàn tất thủ tục pháp
lý nội bộ để phê chuẩn thông qua các nội dung hiệp định. Trên thực tế, TPP là một
hiệp định rất lớn, động chạm tới hệ thống pháp luật của các nước TPP, do đó hầu
như các quốc gia đều yêu cầu phê chuẩn của Quốc hội/Nghị viện đối với các nội
dung văn kiện mà Chính phủ các nước TPP đã đàm phán. Đến thời điểm hiện tại
(tháng 10/2017) đã có hai quốc gia hoàn thành việc phê chuẩn hiệp định, đó là Nhật
Bản (tháng 12/2016) và New Zealand (tháng 5/2017). Cuối cùng sẽ là bước TPP
chính thức có hiệu lực theo các cách thức và điều kiện cụ thể quy định tại văn bản
Hiệp định. Theo quy định tại văn kiện Hiệp định (Điều 30.51
) thì TPP sẽ chính thức
có hiệu lực theo một trong các cách sau:
Cách 1: TPP sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày mà tất cả các nước Thành
viên TPP thông báo cho New Zealand (nước đóng vai trò Cơ quan Lưu chiểu của
Hiệp định) về việc đã hoàn tất các thủ tục pháp lý (phê chuẩn) nội bộ của mình;
Cách 2: Nếu trong vòng 02 năm kể từ ngày TPP được ký kết Hiệp định chưa
thể có hiệu lực theo cách 1 nhưng có ít nhất 06 nước thành viên chiếm ít nhất 85%
tổng GDP của khu vực (đây là lý do tại sao hai nền kinh tế Hoa Kỳ và Nhật Bản có
vai trò cực kỳ quan trọng trong TPP, đặc biệt là Hoa Kỳ khi mà nước này chiếm đến
60% tổng GDP của toàn khối TPP) thông báo đã hoàn tất các thủ tục pháp lý nội bộ,
thì Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn 02 năm đó;
Cách 3: Nếu cả hai trường hợp trên không xảy ra, thì Hiệp định sẽ có hiệu lực
sau 60 ngày kể từ thời điểm có ít nhất 06 nước thành viên chiếm ít nhất 85% tổng
GDP của khu vực thông báo hoàn tất thủ tục pháp lý nội bộ.
1
Các điều khoản của Hiệp định TPP được nhắc đến trong bài có thể xem tại phụ lục.
37. 26
Tháng 02/2017, Hoa Kỳ đã rút khỏi TPP bằng việc chính thức gửi thông báo
đến 11 nước thành viên còn lại (theo quy định tại Điều 30.6). Tuy nhiên, TPP là một
Hiệp định mở và vẫn có thể kết nạp thêm thành viên mới trong tương lai (theo quy
định tại Điều 30.4). Hiệp định cho phép kết nạp thêm thành viên mới là thành viên
APEC hoặc bất kỳ quốc gia/khu vực thuế quan độc lập nào nếu được các nước TPP
đồng ý; với điều kiện là thành viên tương lai này chấp nhận tuân thủ tất cả các cam
kết đã có trong TPP (bao gồm cả cam kết về thủ tục và điều kiện gia nhập) và được
tất cả các thành viên TPP chấp thuận.
Hiện nay, toàn văn Hiệp định TPP đã được các quốc gia thành viên công bố
bằng ba thứ tiếng gồm tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha, đã được các nước ký xác
thực lời văn và có giá trị pháp lý như nhau. Toàn văn hiệp định gồm 30 chương, bao
trùm rất nhiều vấn đề, từ các vấn đề thương mại truyền thống (hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư…), đến các vấn đề thương mại chưa hoặc ít được đề cập trong các FTA (mua
sắm công, thương mại điện tử, doanh nghiệp nhà nước…), và cả các vấn đề khác có
liên quan đến thương mại (lao động, môi trường…). Do đó, TPP có ảnh hưởng rất
rộng trên rất nhiều lĩnh vực tới các quốc gia thành viên nói chung và Việt Nam nói
riêng, trong đó có chính sách cạnh tranh.
1.3.2. Nội dung về chính sách cạnh tranh trong TPP
TPP có một chương riêng về chính sách cạnh tranh (chương 16). Tuy nhiên,
Chương này của TPP không bao gồm các cam kết về các chính sách cạnh tranh cụ
thể mà chỉ chủ yếu đưa ra các nguyên tắc chung (với 09 điều khoản - cụ thể xem tại
phụ lục) nhằm đảm bảo khuôn khổ cạnh tranh bình đẳng trong khu vực qua đó thúc
đẩy mục tiêu về thương mại và đầu tư của Hiệp định. Mục tiêu của chương chính
sách cạnh tranh trong TPP là hướng đến việc tạo lập và đảm bảo khuôn khổ cạnh
tranh bình đẳng trong khu vực thương mại tự do, ngăn chặn và loại bỏ các hành vi
kinh doanh phản cạnh tranh trên thị trường, thúc đẩy hiệu quả kinh tế và phúc lợi
người tiêu dùng. Do đó, các nước thành viên có nghĩa vụ áp dụng luật cạnh tranh
đối với tất cả các hoạt động thương mại trên lãnh thổ nước mình, dựa trên nguyên
tắc minh bạch, công bằng trong thủ tục tố tụng và không phân biệt đối xử. Tuy
nhiên, các thành viên TPP có thể cho phép một số trường hợp miễn trừ trong quá
38. 27
trình áp dụng luật cạnh tranh quốc gia khi thực hiện mục tiêu chính sách hoặc vì lợi
ích công.
Bên cạnh đó, Hiệp định cũng cho phép doanh nghiệp có quyền khởi kiện hoặc
yêu cầu cơ quan cạnh tranh tiến hành điều tra nhằm ngăn chặn hoặc khắc phục hành
vi vi phạm luật cạnh tranh quốc gia. Đây là một điểm mới so với các Hiệp định
thương mại tự do trước đây, là yếu tố bổ sung cần thiết để bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể kinh doanh không bị ảnh hưởng tiêu cực do hành vi phản
cạnh tranh trên thị trường.
Liên quan đến việc hợp tác giữa các quốc gia thành viên, các nước trong TPP
cũng cam kết sẽ cho phép các cơ quan cạnh tranh xem xét ký kết các thỏa thuận hợp
tác chuyên môn phù hợp nhằm thúc đẩy thực thi pháp luật cạnh tranh một cách hiệu
quả trong khu vực thương mại tự do, trong khuôn khổ nguồn lực có sẵn của các bên.
Các nội dung hợp tác bao gồm trao đổi thông tin, thông báo và tham vấn về các vấn
đề thực thi pháp luật cạnh tranh. Bên cạnh đó, các nước cũng sẵn sàng tham gia các
hoạt động hỗ trợ kỹ thuật với mục đích chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng, thực thi luật và chính sách cạnh tranh. Và mặc dù chương chính sách cạnh
tranh này không thuộc đối tượng điều chỉnh của các quy định về giải quyết tranh
chấp của Hiệp định TPP, nhưng các nước thành viên có thể tham vấn để xử lý
những quan ngại liên quan đến việc thực thi các nội dung của chương này.
Ngoài ra, một số nội dung liên quan đến cạnh tranh còn được thể hiện tại trong
các cam kết nằm rải rác trong các điều khoản tại các chương khác ngoài chương
chính sách cạnh tranh, mà tiêu biểu là chương 17 của TPP – doanh nghiệp thuộc sở
hữu nhà nước và độc quyền chỉ định. Mục tiêu chính của các thành viên TPP khi
xây dựng bộ nguyên tắc mới về doanh nghiệp nhà nước cũng là để đảm bảo tạo lập
môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong khu vực thương
mại tự do; đồng thời các thành viên cũng thừa nhận do sự đa dạng về lịch sử, chính
trị và kinh tế nên tại một số nước thành viên, đặc biệt là các nước đang phát triển,
khu vực doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các
mục tiêu chính sách công, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an ninh – quốc phòng.
Chương này có các quy định cấm hành vi phản cạnh tranh của doanh nghiệp được
39. 28
chỉ định độc quyền. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước khi được chỉ định độc quyền
không được trực tiếp hay gián tiếp lợi dụng vị trí đó để gây ra hành vi hạn chế cạnh
tranh trên một thị trường khác mà doanh nghiệp có tham gia kinh doanh và cạnh
tranh với các doanh nghiệp khác, gây tác động bất lợi tới một nước thành viên TPP
khác.
Nhìn chung, không chỉ trong Hiệp định TPP, trong các Hiệp định thương mại
tự do mà Việt Nam đã ký kết hoặc đang đàm phán trong thời gian gần đây (Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu, Hiệp định Đối tác Kinh tế
Việt Nam – Nhật Bản, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc...), các
điều khoản về chính sách cạnh tranh là nội dung không thể thiếu trong việc tạo nền
tảng cho các doanh nghiệp, đối tác thương mại được hoạt động trong khuôn khổ
pháp lý đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm góp phần đạt được các
mục tiêu thương mại và đầu tư của các Hiệp định. Các cam kết về chính sách cạnh
tranh trong Hiệp định TPP có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam và mang lại
nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế nói chung và trong lĩnh vực cạnh tranh nói
riêng.
Thứ nhất, các cam kết về pháp luật và chính sách cạnh tranh trong Hiệp định
TPP đảm bảo khuôn khổ pháp lý kiểm soát và điều chỉnh các hành vi phản cạnh
tranh diễn ra trên lãnh thổ các thành viên Hiệp định gây ảnh hưởng đến thương mại
và đầu tư trong khối. Các cam kết này sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về cạnh
tranh tại Việt Nam, từ đó thu hút, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế, bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh doanh tại Việt Nam
khi môi trường kinh doanh được đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và
không phân biệt đối xử. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được đảm bảo
đối xử bình đẳng khi tham gia cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường
các thành viên TPP khác.
Thứ hai, các cam kết về pháp luật và chính sách cạnh tranh giúp cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam hình thành và thấm nhuần văn hóa cạnh tranh, nâng cao
nhận thức về cạnh tranh lành mạnh và có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
40. 29
Thứ ba, các cam kết này tạo điều kiện nâng cao trình độ và năng lực của cơ
quan thực thi pháp luật cạnh tranh của Việt Nam thông qua các cơ chế về hợp tác,
trao đổi thông tin, tham vấn về những vấn đề liên quan đến cạnh tranh giữa các
nước thành viên trong quá trình thực thi cam kết.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích nêu trên, các cam kết về chính sách cạnh
tranh trong Hiệp định TPP cũng sẽ đặt ra thách thức đối với Việt Nam khi cơ quan
thực thi pháp luật cạnh tranh sẽ ngày càng phải đối mặt với nhiều vụ việc cạnh tranh
có tính chất phức tạp, hành vi phản cạnh tranh đa dạng và tinh vi trong bối cảnh hội
nhập kinh tế sâu rộng trong thời gian tới. Do đó, Việt Nam cần nâng cao khả năng
thực thi, cũng như từng bước hoàn thiện và hài hòa hóa pháp luật cạnh tranh trong
nước với các cam kết trong Hiệp định TPP để đảm bảo việc thực thi các cam kết
một cách hiệu quả.
41. 30
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cạnh tranh
và chính sách cạnh tranh, nêu rõ nguồn gốc, đi sâu vào bản chất và đưa ra những
khái niệm một cách tổng quát và trực quan nhất cho các vấn đề nêu trên.
Cạnh tranh là động lực để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội; bên
cạnh đó, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi và chỉ khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, và chỉ có tự do cạnh tranh thì nền kinh tế thị trường mới vận hành theo đúng
quy luật tất yếu của nó. Chính sách cạnh tranh ở mỗi một quốc gia luôn luôn hướng
đến việc tạo lập và bảo đảm duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh của mọi chủ thể trên
thị trường.
Ngoài ra, tại chương 1 tác giả cũng tổng hợp và phân tích khái quát nội dung
về chính sách cạnh tranh tại các điều khoản cam kết trong Hiệp định TPP. Những
điều khoản mang tính nguyên tắc chung về chính sách cạnh tranh này sẽ là những
nguyên tắc mà Việt Nam cần phải tuân thủ trong quá trình xây dựng và thực thi
chính sách cạnh tranh trong điều kiện TPP có hiệu lực.
42. 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH CỦA
VIỆT NAM
2.1. Chính sách kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
2.1.1. Nội dung kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Như đã nói ở trên, tại Việt Nam, pháp luật cạnh tranh hiện hành không đưa ra
một định nghĩa cụ thể về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh được liệt vào nhóm các “hành vi hạn chế cạnh tranh”, theo đó “là các hành vi
của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường” (Khoản 3
Điều 3 Luật Cạnh tranh). Cùng với đó, Luật Cạnh tranh Việt Nam ban hành năm
2004 chỉ quy định cụ thể về tám dạng thức (hành vi) thỏa thuận, bao gồm các thỏa
thuận như thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, tiết chế sản lượng...quy định
tại Điều 8 Luật Cạnh tranh. Mỗi loại thỏa thuận trên được mô tả chi tiết tại Nghị
định hướng dẫn thi hành (từ Điều 14 đến Điều 21 Nghị định 116/2005/NĐ-CP của
Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh – sau đây gọi
tắt là Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Như vậy, phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh bị điều chỉnh chỉ nằm trong khuôn khổ các hành vi được quy định trong Luật
và Nghị định.
Nhìn vào cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của
Việt Nam nói trên, có thể thấy rằng pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành sử
dụng cách tiếp cận đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hẹp hơn so với cách tiếp
cận của các quốc gia phát triển khác ở chỗ: ngoài tám dạng thỏa thuận được luật hóa
tại Điều 8 của Luật Cạnh tranh, các hạn chế thương mại bất hợp lý khác hay các
hành vi liên kết, thông đồng khác mặc dù có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn
chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường nhưng nếu không thuộc
tám dạng thỏa thuận được liệt kê sẽ không bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
và không bị xem xét.
2.1.1.1. Các quy định cấm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các quy định cấm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được đề cập tại Điều
9 Luật Cạnh tranh. Theo đó, các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm ở hai