Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam. Luận văn có mục đích là làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vị trí, vai trò của Toà án ở nước ta kể từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam.doc
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM ...................................7
I. Vị trí của Tòa án trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà
nƣớc ở Việt Nam.............................................................................................7
1.Quyền tƣ pháp trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà
nƣớc ở nƣớc ta................................................................................................7
2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. ................13
3. Yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đối với
Toà án.............................................................................................................33
4. Những yếu tố đảm bảo vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam. ............................................................................................40
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM.......47
I. Đánh giá vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam..47
1. Xét xử hành vi phạm tội ...........................................................................48
2. Giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong lĩnh vực dân sự, kinh tế và lao động
..........................................................................................................................................51
3. Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc ....................................... 55
4. Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngƣời ........................................................... 59
II. Những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án
trong Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam...................................................... 66
1. Phƣơng hƣớng cải cách toà án nhằm nâng cao vai trò của toà án trong Nhà
nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam ......................................................................... 66
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam. ........................................................................................................... 71
4
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
KẾT LUẬN ....................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................85
5
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
APEC
ASEM
AFTA
CCTP
CHXHCN
XHCN
ILO
TAND
TANDTC
UBND
WTO
WHO
: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương
: Hội nghị thượng đỉnh Á Âu
: Khu vực thương mại mậu dịch tự do
: Cải cách tư pháp
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
: Xã hội chủ nghĩa
: Tổ chức lao động quốc tế
: Tòa án nhân dân
: Tòa án nhân dân tối cao
: Ủy ban nhân dân
: Tổ chức thương mại thế giới
: Tổ chức y tế thế giới
1
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đảm bảo quyền lực nhà nước
thống nhất có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp là định hướng cơ bản thực hiện công cuộc đổi mới hệ
thống chính trị nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong ba nhánh quyền
lực nói trên, thì nhánh quyền tư pháp là nhánh quyền được tổ chức để thực
hiện họat động xét xử và những họat động phục vụ trực tiếp cho họat động xét
xử như điều tra, công tố, bổ trợ tư pháp. Tòa án nhân dân là nơi biểu hiện tập
trung nhất của quyền tư pháp, họat động xét xử của Tòa án cũng chính là họat
động thể hiện chất lượng họat động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp và
toàn thể bộ máy nhà nước. Với ý nghĩa đó, việc cải cách Tòa án ở nước ta
phải được xây dựng trên cơ sở những quan điểm đúng đắn và đầy đủ về vị trí,
vai trò của Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước, trong bộ máy nhà nước
đặc biệt là trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện
nay.
Thời gian gần đây, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, công tác lý luận
về nhà nước và pháp luật của Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy
nhiên, để tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách bộ máy nhà nước nói chung,
cải cách tư pháp nói riêng nhằm đáp ứng năng lực phục vụ công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc hiện nay thì
chúng ta không thể không tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến
quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, vị trí, vai trò của từng cơ quan tư
pháp; mối quan hệ giữa lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) với tư
pháp (Tòa án) trong cơ chế phân công phối hợp cùng thực hiện quyền lực nhà
nước.
1
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Do vậy, cải cách tư pháp nói chung, cải cách Tòa án nói riêng là nhiệm
vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được quán triệt và khẳng định trong nhiều văn
kiện quan trọng của Đảng, như Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị
quyết trung ương 3 (Khóa 8), Nghị quyết trung ương 7 (khóa VIII), Nghị
quyết Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IX và lần thứ X, Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”, đặc biệt là ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”. Theo đó, vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp lý, xây dựng chiến
lược nguồn nhân lực, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nguồn kinh phí phục
vụ họat động xét xử nhằm đảm bảo Tòa án có vị trí và vai trò quan trọng trong
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được
quán triệt là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
Qua thực tiễn họat động của Tòa án cho thấy rằng, họat động xét xử của
Tòa án trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng họat
động xét xử được nâng cao, tình trạng xét xử sai, gây oan cho người vô tội đã
giảm đi đáng kể; Tòa án đã xét xử nghiêm minh các vụ án lớn, nghiêm trọng.
Vị trí, vai trò của Tòa án trong nhận thức, tâm thức của người dân đã và đang
dần được cải thiện.
Tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa về vị trí, vai trò của Tòa án trong việc tổ chức thực hiện quyền
tư pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền công dân, quyền con người và bảo
đảm quyền tự do, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì Tòa án ở nước ta cần phải tiếp
tục được cải cách một cách mạnh mẽ, toàn diện từ nhận thức, vấn đề pháp lý,
đến nguồn lực vật chất để phục vụ cho họat động xét xử.
2
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Mặc khác, trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, mặt trái của nền
kinh tế thị trường nên tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất và hậu
quả do hành vi tội phạm gây ra ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tôi
tinh vi. Bên cạnh đó, các khiếu kiện về lao đông, hành chính, kinh tế, dân sự
ngày càng tăng về số lượng, phức tạp và đa dạng hơn. Hơn nữa, do nhận thức
người dân ngày càng cao nên đòi hỏi của người dân đối với hiệu quả và chất
lượng xét xử của Tòa án cũng phải được nâng cao. Toà án phải thực sự là chổ
dựa, công cụ, biểu tượng của công băng, bình đẳng, bảo vệ quyền con người.
Xuất phát từ những vấn đề đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Vai trò của
Tòa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình
với mong muốn là thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá vị
trí, vai trò của Toà án ở nước ta trong thời gian qua. Qua đó, luận văn đề xuất
phương hướng và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao vai trò của Toà
án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ khi những định hướng cải cách tư pháp mà trung tâm là cải cách Toà
án được đề cập trong các văn kiện chính thức của Đảng, Toà án đã trở thành
đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học ở nước ta, như đề tài cấp
nhà nước do TS. Trịnh Hồng Dương làm chủ nhiệm hoàn thành năm 1996 “
Vị trí, vai trò và chức năng của Toà án nhân dân trong Bộ máy nhà nước ta
qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam” MS: 95-98-048/ĐT, đề tài cấp nhà
nước do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm hoàn thành năm 2006, “Cải cách
cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực
xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân”; luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thanh Bình “Thẩm quyền giải quyết của
Toà án nhân dân trong giải quyết khiếu kiện hành chính”; luận án tiến sĩ của
3
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
TS Tô Văn Hoà “Tính độc lập của Toà án- nghiên cứu pháp lý về khía cạnh lý
luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt
Nam”. Toà án còn là đối tượng trung tâm của nhiều công trình khoa học đề
cập đến lĩnh vực đổi mới cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, như
Luận án tiến sĩ của TS. Trần Huy Liệu “Đổi mới và tổ chức hoạt động của các
cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”.
Ngoài ra có rất nhiều bài viết, nhiều ấn phẩm khoa học pháp lý, sách, tạp chí,
báo… đã được xuất bản có nội dung đề cập đến toà án từ nhiều góc độ khác
nhau.
So với trước đây, những vấn đề lý luận về quyền tư pháp, thực hiện
quyền tư pháp, vị trí, vai trò của Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp,
trong bộ máy nhà nước, mô hình tổ chức hệ thống toà án đã được kiến giải
tương đối toàn diện và đầy đủ.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc nghiên cứu và làm rõ những
vấn đề lý luận về vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN vẫn
chưa thật đầy đủ, còn nhiều vấn đề phải bàn luận tiếp. Do đó, trong thời gian
tới cần được tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn nhằm góp phần tạo nên hệ
thống lý luận đầy đủ và toàn diện về tư pháp, bảo đảm cho quyền tư pháp làm
cơ sở phục vụ chiến lược cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết 49-
NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn có mục đích là làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vị
trí, vai trò của Toà án ở nước ta kể từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở đó luận
văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà
án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
4
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn phải hoàn thành những
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Xác định nội hàm của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
những đặc điểm của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tư
pháp, vị trí trung tâm của toà án trong việc thực hiện quyền tư pháp.
- Từ những tiền đề lý luận trên, Luận văn khẳng định một số vai trò quan
trọng và nổi bất của toà án trong nhà nước pháp quyền.
- Luận văn đồng thời phân tích một số quy định pháp lý về vị trí, vai trò
của toà án; một số quy định của pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật
tố tụng toà án và pháp luật liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động xét xử
của toà án và thực tiễn hoạt động xét xử của toà án trong thời gian từ năm
2002 đến nay.
- Trên cơ sở những luận điểm đã nêu ra và những đánh giá vai trò của
toàn án ở nước ta hiện nay, qua đó luân văn đề xuất một số phương hướng và
giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền Việt
Nam.
4.Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Luận văn chỉ đánh giá thực tiễn chất lượng, hiệu quả hoạt động của Toà
án từ năm 2002 trở lại đây.
Để có tính thuyết phục cho những quan điểm nêu ra, luận văn có sự so
sánh với một số quan điểm có tính phổ biến ở các nước tư sản phát triển về vị
trí, vai trò của quyền tư pháp, hoạt động xét xử của Toà án trong nhà nước
pháp quyền.
5. Những điểm mới của luận văn.
Luận văn là một đề
về vai trò cơ bản của Toà
tài nghiên cứu trực tiếp và có tính chất chuyên biệt
án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
5
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đề tài sẽ đánh giá một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về thực tiễn
chất lượng, hiệu quả hoạt động của Toà án nước ta từ năm 2002 trở lại đây.
Luận văn sẽ đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò
của toà án trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
6.Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của
luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Ngoài ra để làm rõ những nội dung của quy định pháp luật,
những luận điểm chưa phổ biến ở nước ta, luận văn đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu cụ thể là phương pháp mô tả kết hợp với phương pháp so sánh.
7.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 2 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN
TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA TOÀ ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
6
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
I. Vị trí của Tòa án trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện
quyền lực Nhà nƣớc ở Việt Nam.
1. Quyền tƣ pháp trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền
lực Nhà nƣớc ở nƣớc ta.
“Tư pháp” là thuật ngữ Hán Việt có hai nghĩa chính: Thứ nhất là
trông coi bảo vệ pháp luật; thứ hai, tư pháp là pháp đình theo pháp luật mà xét
định các việc ở trong phạm vi pháp luật. Trong khoa học pháp lý phương Tây,
tư pháp là xét xử hay là ý tưởng cao đẹp về một nền công lý. Trên phương
diện tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước, tư pháp là một nhánh quyền lực
độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử
(tài phán) do Toà án thực hiện là quan niệm phổ biến ở nhiều nước tư sản phát
triển.
Ở Việt Nam, trên cơ sở nguyên tắc hiến định: “quyền lực Nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quan Nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [1, tr.3] qua
đó cho thấy quyền tư pháp luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền
hành pháp trong tổng thể của quyền lực Nhà nước thống nhất.
Trong khi hoạt động chủ yếu của hành pháp và lập pháp là Nhà nước
ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân tổ
chức trong giới hạn tự do mà pháp luật xác lập. Tuy vậy, vì nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, hiện tượng xâm hại trật tư pháp luật và pháp
luật luôn xuất hiện trong đời sống xã hội. Trong tác phẩm Nhà nước và cách
mạng, Lênin khẳng định: “sẽ là không tưởng khi cho rằng pháp luật đương
nhiên được tất cả mọi người tuân thủ”. Bảo vệ pháp luật, khôi phục trật tự
7
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp luật bị xâm hại là một đòi hỏi khách quan của Nhà nước, của xã hội và
mọi người dân. Chính nhu cầu này đã hình thành nên hoạt động bảo vệ pháp
luật là nội dung cơ bản của quyền tư pháp.
Hoạt động xét xử của Toà án là lĩnh vực thể hiện tập trung nhất của quyền tư
pháp. Nội dung của hoạt động xét xử của Toà án là so sánh các hành vi, tranh chấp
pháp lý liên quan đến con người với các chuẩn mực pháp luật, phán xét tính đúng
đắn, tính hợp pháp của hành vi, tranh chấp. Trên cơ sở đó, Toà án nhân danh Nhà
nước ra phán quyết bắt buộc mọi người phải thi hành, khôi phục lại các giá trị pháp
luật bị vi phạm, bảo vệ và duy trì các giá trị văn minh của pháp luật.
Thực tế đã chứng minh rằng, trong thực thể quyền lực Nhà nước thống
nhất, quyền tư pháp có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ quyền tư pháp vừa là
bộ phận cùng với lập pháp và hành pháp hợp thành quyền lực Nhà nước vừa
là thể chế bảo vệ quyền lực Nhà nước. Vị trí và vai trò đặc biệt của quyền tư
pháp được được J.J. Russeau diễn đạt như sau: “luật đã mất thiêng thì mọi cái
đều hết hy vọng. Luật không còn hiệu lực thì không một cái gì hợp lý có thể
duy trì sức mạnh được nữa”
Như vậy, có thể thấy rằng quyền tư pháp có nội dung là bảo vệ pháp luật.
Hoạt động này được thực hiện tập trung nhất tại toà theo phương thức tài phán.
Với nội hàm trên, quyền tư pháp có những đặc điểm cơ bản sau:
- Quyền tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật của toà án theo phương
thức tài phán.
- Quyền tư pháp là một bộ phận của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội
và chỉ được thực hiện khi có vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý cần đến
phán quyết của Nhà nước
- Quyền tư pháp được thực hiện bằng nhiều hoạt động độc lập với các
chức năng riêng, diễn ra liên tục theo một quy trình chặt chẽ, tuân thủ các
nguyên tắc, thủ tục nghiêm ngặt dựa trên phương thức đặc thù là tài phán,
phục vụ hoạt động trung tâm là xét xử của toà án. [34, tr.26]
8
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Để những đặc trưng của quyền tư pháp được bảo đảm trong quá trình
thực hiện quyền tư pháp, Nhà nước đã trao nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp
cho nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác nhau cùng thực hiện theo
một trình tự thủ tục chặt chẽ, dân chủ và công khai, trong đó Toà án thực hiện
hoạt động xét xử, cơ quan công tố (Viện kiểm sát nhân dân) thực hiện quyền
truy tố, cơ quan điều tra thực hiện hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ
chứng minh một hành vi vi phạm pháp luật hình sự, cơ quan thi hành án thực
hiện nhiệm vụ thi hành các bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà
án; các cơ quan giám định tư pháp, công chứng, luật sư thực hiện các hoạt
động bổ trợ tư pháp nhằm mục đích phục vụ hoạt động xét xử khách quan,
chính xác, đúng pháp luật, công bằng.
Do đó, hệ thống cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan, thiết chế thực
hiện chức năng chủ yếu là duy trì và bảo vệ công lý bằng các biện pháp và thủ
tục đặc thù dựa trên nguyên tắc tài phán công bằng, công khai, cụ thể gồm cơ
quan tài phán (Toà án) và các cơ quan khác có chức năng chủ yếu là phục vụ
trực tiếp cho hoạt động tài phán.
Như vậy, quyền tư pháp mà trọng tâm là quyền xét xử thực hiện chức
năng bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Bằng hoạt động xét xử các hành vi vi phạm
pháp luật, giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn trong đời sống xã hội, hệ thống
các cơ quan tư pháp mà trung tâm là toà án ngày càng đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong Nhà nước pháp quyền. Vị trí, vai trò của Tòa án được thể hiện ở chỗ:
Toà án không chỉ là công cụ bảo vệ pháp luật mà còn là thiết chế bảo vệ, bảo
đảm cho quyền con người được tôn trọng và thực hiện trong thực tiễn cuộc sống.
A.Vị trí của Toà án trong bộ máy Nhà nƣớc Việt Nam.
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì Toà án có vị trí đặc biệt so với
các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp khác nói riêng, thể
hiện ở những khía cạnh sau:
9
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Một là, toà án xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật của Nhà
nước để đưa ra các phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với
từng vụ việc cụ thể. Thái độ đó được thể hiện bằng những quyết định giải
quyết hợp pháp, hợp lý và áp dụng những chế tài thích hợp mà toà án áp dụng
cho từng trường hợp cụ thể phù hợp với hành vi có lỗi và trái pháp luật trong
mỗi bản án, quyết định của toà án. Như vậy, hoạt động xét xử phản ánh trực
tiếp và sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước.
Hai là, bằng hoạt động xét xử, Toà án thực hiện chức năng kiểm tra hành
vi pháp lý của các cơ quan Nhà nước, quyền công dân, quyền con người. Xa
hơn là Toà án bảo vệ cho trật tự xã hội ổn định, an toàn và có môi trường phát
triển lành mạnh, bền vững.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khi mà vai
trò pháp luật, sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng cao thì vai trò
của Toà án lại càng được khẳng định. Bởi lẽ Toà án chính là cơ quan thực thi quyền
tư pháp đặc biệt là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của bộ máy
nhà nước. Toà án thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước là một trong những nguyên lý cơ bản của nhà nước pháp quyền, là điều kiện
tiên quyết đảm bảomục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở nước ta được thực thi trong thực tiễn đời sống xã hội.
Ở nước ta, việc xác định Toà án có vị trí trung tâm trong việc tổ chức và
thực hiện quyền tư pháp với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử
là một trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách tư pháp
đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020. Tuy nhiên,
việc luật hoá quan niệm này vào pháp luật vẫn chưa được thực hiện triệt để.
Trong pháp luật Việt Nam, vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước có những
đặc điểm sau:
10
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm
2002) và các văn bản pháp luật hịên hành có liên quan đến tổ chức, hoạt động
của bộ máy Nhà nước thì địa vị pháp lý của toà án Việt Nam chịu sự tác động
của nhóm quan hệ cơ bản sau:
- Thứ nhất, quan hệ giữa Toà án với các cành quyền lực khác.
Mối quan hệ giữa Tòa án với Quốc hội
Trên cơ sở nguyên tắc hiến định “quyền lực Nhà nước thống nhất và
thuộc về nhân dân” và nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất” [1, tr.3] thì Toà án ở nước ta có sự phụ thuộc khá nhiều vào Quốc
hội. Tiến sĩ Tô Ngọc Hoà khẳng định: bản chất của mối quan hệ này là cấp
trên và cấp dưới - trong đó Quốc hội là cấp trên và Tòa án là cấp dưới [27, tr.
419]. Điều này thể hiện rõ ở những điểm sau:
Quốc hội có quyền ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan
đến tổ chức hoạt động của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. Quốc hội
có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của toà án trái với Hiến Pháp, luật pháp
hay Nghị quyết của mình.
Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức chánh án TANDTC. Quốc hội có quyền
bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với vị trí này. Chánh án TANDTC phải báo cáo
hàng năm trước Quốc hội; phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội nếu có
yêu cầu của đại biểu Quốc hội.
Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động hằng năm của Toà án.
Mối quan hệ giữa Tòa án với Chủ tịch nước
Hiến pháp xác định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Việt Nam.
Trong mối quan hệ với Toà án, Chủ tịch nước có quyền giám sát, kiểm tra chất
lượng hoạt động của Toà án thông qua báo cáo của chánh án TANDTC. Ngoài ra
chủ tịch nước còn tham gia vào quá trình ra phán quyết của toà án thông qua cơ
chế xét ân xá trong các vụ việc hình sự có tuyên án tử hình.
11
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Mối quan hệ giữa Tòa án với Chính phủ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa toà án và
Chính phủ được xem là mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời
cũng là mối quan hệ mang tính rường cột trong hệ thống quyền lực nhà nước.
Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, do thực trạng toà án phải
áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ trong quá trình
xét xử dẫn đến toà án có sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ.
Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương,
Để bảo đảm sự thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương (Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện), toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính và
chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án toà án
nhân dân các cấp địa phương phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Thứ hai, quan hệ giữa toà án với các cơ quan khác trong hệ thống cơ
quan tư pháp.
Như đã khẳng định ở trên, trong hệ thống các cơ quan tư pháp, toà án có
vị trí trung tâm. Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính đúng đắn
các hành vi pháp lý của cơ quan điều tra, phán xử hành vi truy tố của Viện
kiểm sát có đúng quy định pháp luật hay không và đưa ra phán quyết để cơ
quan thi hành án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối quan hệ bên
trong này, xét xử là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện tập trung nhất
bản chất của quyền tư pháp.
Mặc khác, pháp luật trao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền
giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên
toà. Chính quy định này đã có ảnh hưởng đến tính chất trung tâm của toà án
trong hệ thống cơ quan tư pháp.
12
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Như vậy, trong pháp luật nước ta, toà án có vị trí độc lập tương đối trong
bộ máy Nhà nước. Qua phân tích cho thấy rằng: sự phụ thuộc của toà án vào
hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân) là
tương đối lớn.Tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống các cơ quan tư
pháp chưa được bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát nhân dân thông
qua quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính những đặc điểm này
về vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước đã ảnh hưởng đến hoạt động của
toà án, đặc biệt là yêu cầu có tính nguyên tắc hiến định của hoạt động tài
phán- toà án phải độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử.
2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam.
a. Nhân danh Nhà nƣớc xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải
quyết tranh chấp trong đời sống xã hội
Kiểm tra, kiểm soát xã hội là một trong những vai trò, chức năng cơ
bản của Nhà nước. Nhà nước thực hiện hoạt động này bằng chuẩn mực pháp
luật thông qua các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc phân công
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đã trao cho cơ quan lập pháp thực
hiện giám sát tối cao đối với việc thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp tổ
chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội
một cách thường xuyên. Khi có những hành vi, tranh chấp có nguy cơ đe doạ
làm sai lệch tính hợp lý, công bằng của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội thì
được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của toà án. Hoạt động kiểm tra,
kiểm soát xã hội của toà án có những đặc trưng cơ bản sau:
- Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh
chấp màcá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng
những cơ chế kiểm tra, giám sát khác.
13
17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
- Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân chủ
và bình đẳng giữa các bên tại toà án.
- Có quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý trong các phán
quyết xử lý.
So với nhánh quyền lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và các
hình thức kiểm tra xã hội khác, hoạt động xét xử của toà án được thực hiện
theo quy trình tố tụng tư pháp chặt chẽ do luật định. Đây là một hình thức
kiểm soát xã hội công khai, dân chủ, chính xác, khách quan và bảo đảm công
bằng, bình đẳng xã hội. Chính vì bảo đảm được những giá trị dân chủ, công
bằng và bình đẳng xã hội trong hoạt động xét xử, toà án trở thành cơ quan có
vị trí tối cao và duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước khi xét xử hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp do người dân yêu cầu Nhà nước thực
hiện.
Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử, bằng các quyết định, bản án
nghiêm minh, công bằng, toà án còn xác lập các chuẩn mực mới trong quan
hệ xã hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân trong hoạt động tư
pháp, tạo dựng niềm tin vào công lý, vào bộ máy Nhà nước, chế độ và quyền
lực nhà nước.
Vì vậy, để bảo đảm những giá trị của pháp luật được thực thi trong thực
tiễn, bảo vệ pháp luật không bị xâm hại, pháp luật đã trao cho toà án vị trí tối
cao có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện hoạt động xét xử hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội khi người dân,
Nhà nước có nhu cầu. Qua đó thể hiện thái độ của nhà nước đối với những
hành vi vi phạm pháp luật cụ thể.
Còn trong nhận thức của người dân, toà án không chỉ là một cơ quan
Nhà nước thông thường mà còn là biểu tượng của công lý, của lẽ phải. Khi
phải đối mặt với quan toà nơi công đường, người dân chờ đợi sự công minh,
14
18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
sáng suốt: "Toà án là người đại diện của công lý và quan toà là cán cân công
lý" [34, tr.22]. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, bản thân pháp luật đã mang tính công lý và toà án bằng hoạt động xét xử
của mình thể hiện công lý, sự công minh, công bằng, không thiên lệch trong
từng vụ án, từng phán quyết của toà án đối với từng hành vi, sự kiện pháp lý.
Trong tinh thần đó có thể nói phán xét, phán quyết của toà án trực tiếp tác
động đến niềm tin, lý tưởng, khát vọng công lý, công bằng xã hội, đến thái độ,
cách nhìn của người dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cả chế độ
chính trị đang tồn tại.
Chính vì vậy, trong Nhà nước pháp quyền, chức năng quan trọng này
của toà án ngày càng được khẳng định. Toà án là cơ quan có quyền nhân danh
quyền lực Nhà nước để thể hiện thái độ của Nhà nước đối với mọi hành vi vi
phạm pháp luật kể cả hành vi vi phạm pháp luật của chính Nhà nước. Quyền
này đã đựơc Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định tại Điều 127 " Toà án là cơ
quan xét xử cao nhất của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [1, tr....
]. Xét xử là một chức năng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, một hoạt động
quyền lực Nhà nước đặc thù. GS.TSKH. Đào Trí Úc cho rằng “hoạt động xét
xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xét xử, đánh giá và ra
phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết
định pháp luật. Khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích
khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó”[62, tr.13].
Như vậy, từ bản chất dân chủ của hoạt động xét xử, vai trò đặc biệt của
hoạt động xét xử, sự nhìn nhận của người dân đối với toà án, toà án đã trở
thành cơ quan Nhà nước có vị trí đặc biệt trong xã hội. Toà án là cơ quan duy
nhất có quyền nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải
quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Thông qua đó thể
hiện thái độ và trách nhiệm của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm trong
15
19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
vụ án, quyết định cụ thể, đồng thời bảo vệ pháp luật, công bằng, bình đẳng xã
hội, các quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người.
b. Bảo vệ pháp luật
Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là
thiết chế trung tâm của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc
bảo vệ pháp luật. Theo J.J. Rousseau, trong một nước, ý chí của toàn dân thể
hiện qua hoạt động lập pháp do cơ quan đại diện nhân dân thực hiện, sức
mạnh quốc gia thể hiện ở hoạt động hành pháp do Chính phủ thực hiện và tư
pháp chính là cơ quan bảo vệ pháp luật do cơ quan quyền lực tối cao ban
hành và do Chính phủ chấp hành [48, tr.43]
Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo vệ những
giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Pháp luật trong nhà nước
pháp quyền là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền luôn mang trong mình những nguyện vọng, quyền
và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó là hệ thống những
chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người phù hợp với trình độ văn minh
của xã hội, để nhân dân tự điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống sinh
họat, trong giao lưu dân sự cũng như trong mối quan hệ với cơ quan công
quyền, đồng thời thể hiện lợi ích và ý chí chung của toàn thể nhân dân lao
động, của toàn thể xã hội và cùng với các quy phạm xã hội khác là một trong
những phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội và điều hoà, phối hợp các lợi ích
xã hội khác nhau.
Ngoài ra, Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN, có ý nghĩa đặc
biệt to lớn đối với sự phát triển, mở rộng, củng cố và phát huy nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, tính tích cực về chính trị, tính sáng tạo và quyền làm chủ của
nhân dân. Ngược lại, việc triển khai và mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời
sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và trật tự pháp luật, làm phong phú
16
20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
thêm các quyền tự do của công dân và bảo đảm thực hiện những quyền đó. Do
vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại tách rời nhau.
Dân chủ về chính trị và pháp luật chân chính thể hiện bản chất sâu xa của chế
độ xã hội chủ nghĩa- tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Những
hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật trong xã hội pháp quyền bị coi là
những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình đẳng xã hội, dân chủ XHCN.
Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật không còn đơn thuần là
phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành họat động quan
trọng nhất, cao nhất và có tính cuối cùng để nhà nước và nhân dân bảo vệ các
giá trị cao đẹp của nhà nước pháp quyền, bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội,
quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN.
Vai trò bảo vệ pháp luật của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Toà án áp dụng pháp luật:
Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là hình thức áp dụng pháp luật
để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua hoạt động xét xử, toà án đưa
các hành vi tranh chấp pháp lý liên quan đến những con người cụ thể áp vào
các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng tỏ mối tương quan giữa cái cá
biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn chung là quy phạm pháp
luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý, tính hợp pháp, tính đúng đắn của
hành vi, tranh chấp, từ đó đi đến một phán quyết có tính bắt buộc thi hành đối
với những người có quyền và lợi ích liên quan [34, tr.21]. Bằng việc ra các
bản án, quyết định nhân danh Nhà nước và bắt buộc thi hành, các giá trị pháp
luật bị xâm hại, lệch lạc sẽ được khôi phục lại, công lý được duy trì, sự công
bằng, lẽ phải của pháp luật được bảo vệ. Từ tính chất đặc biệt của việc áp
dụng pháp luật theo phương thức tài phán công, toà án trở thành thiết chế
đóng vai trò đặc biệt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
17
21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp luật, bảo vệ trật tự pháp luật trước những nguy cơ bị những cá nhân, tổ
chức nhất định vi phạm, bảo đảm cho những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ không bị thiệt hại.
Toà án tuân thủ pháp luật:
Một trong những đặc điểm cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền nói
chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng là Nhà nước được
tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, các cơ quan Nhà
nước phải tôn trọng và bảo vệ Hiến Pháp, pháp luật. Toà án là một bộ phận
cấu thành nên bộ máy Nhà nước nên quyền hạn, nhiệm vụ và chức năng của
toà án được xác định trong Hiến Pháp và các văn bản pháp luật. Vì thế, toà án
tuân thủ Hiến Pháp, pháp luật đặc biệt là tuân thủ các nguyên tắc có tính chất
nền tảng về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được vận dụng trong
lĩnh vực tư pháp, như: Nguyên tắc tính tối thượng của Hiến Pháp và pháp luật
trong hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội công dân; các quan hệ xã
hội cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật; trách nhiệm qua lại giữa Nhà
nước và công dân; bảo đảm quyền con người trong quá trình xét xử; quyền
lực Nhà nước thống nhất và có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; tôn trọng và tận tâm thực
hiện các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc tham gia…. là những
biểu hiện rõ rệt nhất vai trò bảo vệ pháp luật của
toà án. Những nguyên tắc này là những nội dung cơ bản của pháp luật nước
ta. Vì thế, toà án tuân thủ các nguyên tắc trên không chỉ có ý nghĩa bảo đảm
hoạt động của toà án bảo đảm đúng pháp luật, không vi phạm pháp luật mà
còn là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm hoạt động xét
xử của toà án dân chủ, công bằng, bình đảng, bảo vệ quyền công dân, các
quyền cơ bản của con người và cao nhất là bảo đảm bản chất quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân.
18
22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
c. Giám sát, kiểm tra hoạt động của Bộ máy Nhà nƣớc
Trong Nhà nước dân chủ, quyền lực Nhà nước là quyền lực của dân,
chính quyền không chỉ phải lấy dân làm gốc, mà những công bộc được dân
giao phó phải biết dựa vào dân, phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đảm bảo quan
trọng nhất để chính quyền làm tốt trách nhiệm là việc các cử tri kiểm soát trực
tiếp chính quyền của mình thông qua việc quyết định lá phiếu trong các cuộc
bầu cử các cơ quan quyền lực dân cử. Hình thức thứ hai để người dân có thể
giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước là thông qua chính hoạt động các cơ
quan Nhà nước có nhiệm vụ trực tiếp kiểm tra, giám sát mức độ tuân thủ pháp
luật của cán bộ, công chức và cơ quan Nhà nước trong quá trình thực hiện
công vụ.
Thực tế hoạt động của chính quyền ở đa số các nước tư bản đều cho
thấy, cho dù đã xây dựng được hệ thống rất đầy đủ các quy định pháp luật về
hoạt động của chính quyền thì hoạt động của chính quyền vẫn luôn có xu
hướng vượt ra khỏi phạm vi quyền lực mà pháp luật đã quy định. Nâng cao
trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân là đòi hỏi chính đáng của nguời
dân, nhưng đây lại là vấn đề rất khó khăn vì nó cản trở đến các lợi ích của các
cơ quan công quyền, và vì vậy, các cơ quan chính quyền thường không mặn
mà, còn về phía người dân, điều đó tùy thuộc rất nhiều vào việc họ có đủ các
thông tin cần thiết, có đủ khả năng và có cơ chế khả thi để phán xét các hành
vi của các nhân viên công quyền hay không và thực tiễn những giả thiết này
vẫn chưa có đủ điều kiện để phát huy hết những ưu điểm của mình. Phải thấy
rằng, không giám sát hoặc giám sát không tốt quyền lực thì người ta sẽ
đem quyền lực để đổi lấy lợi ích, và nếu ai đó lạm dụng quyền lực lại mắc
bệnh duy ý chí, độc đoán “muốn làm gì thì làm” thì sự lãng phí vốn, tài
nguyên, nhân lực của xã hội là vô cùng lớn sẽ xảy ra. Khắc phục thực trạng
19
23. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
này một cách có hiệu quả sẽ là động lực vô cùng to lớn, là điều kiện để phát
triển một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chính vì vậy, các nước, ngoài việc thiết lập những cơ quan, cơ chế
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của quyền lực Nhà nước vì lợi
ích chung luôn đồng hành với việc xác lập những cơ chế để kiểm tra, giám sát
hoạt động thực hiện quyền lực lực Nhà nước của bộ máy Nhà nước.
Quyền lực Nhà nước gồm có quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. Trong ba cành quyền này lực này thì nguy cơ lạm quyền dễ rơi
nhất vào cành quyền lực lập pháp và hành pháp. Trong khi đó, tư pháp với
phương thức tài phán là cành quyền lực có ít điều kiện để phát sinh những
hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân nhất. Do đó, khi nói đến
giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của bộ máy Nhà nước chủ yếu là
nói đến sự kiểm tra, giám sát lập pháp và hành pháp. Trong Nhà nước pháp
quyền, kiểm soát quyền lực có nghĩa là giám sát, kiểm tra tính hợp hiến, hợp
pháp các hành vi của cán bộ, công chức và cơ quan Nhà nước (kể cả Quốc hội
và Chính phủ) không lạm quyền, không vi phạm Hiến pháp và pháp luật và
không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các quyền
con người.
Báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 1997 của Ngân hàng thế
giới chỉ ra hai cơ chế để giám sát chính quyền chính thức là một nền tư pháp
độc lập, mạnh mẽ và sự phân lập quyền lực [43, tr.126]. Như vậy, Tư pháp cụ
thể là toà án được đề cập đến đầu tiền với tư cách là một công cụ giám sát,
kiểm tra hành vi của Bộ máy Nhà nước.
Toà án là thể chế quan trọng nhất để giải quyết các tranh chấp giữa các
doanh nghiệp, công dân và Chính phủ, là thiết chế có thể làm sáng tỏ những
điều còn mơ hồ trong pháp luật. Chỉ Tòa án có quyền thâm nhập vào cơ quan
20
24. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
cưỡng chế của Nhà nước để buộc phải đưa ra các cuộc phán xử và cũng chỉ có
toà án có quyền chính thức nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý ra phán
quyết về sự hợp pháp của những hoạt động của ngành lập pháp và hành pháp.
Nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền về tổ chức bộ máy Nhà
nước là tư pháp phải độc lập với hai cành quyền lực còn lại. Tính chất pháp lý
này của tư pháp càng bảo đảm việc thực hiện quyền giám sát, kiểm tra hành
pháp và lập pháp đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh nguyên tắc phân công quyền lực, nguyên tắc về tính tối cao
của luật trong Nhà nước pháp quyền cũng góp phần tạo cho toà án có vị thế để
giám sát, kiểm tra hành vi của lập pháp và hành pháp có hiệu quả. Tính tối
cao của pháp luật đòi hỏi phải có sự phân cấp hiệu lực pháp lý giữa những
loại văn bản pháp luật khác nhau, theo đó Hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối
cao, tất cả văn bản khác phải phù hợp với Hiến Pháp, các văn bản do hành
pháp ban hành phải phù hợp với Hiến Pháp, và luật pháp; hành vi hành chính
của cán bộ công chức, cơ quan Nhà nước phải phù hợp với quy định của pháp
luật, không được trái với văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cao
hơn đặc biệt là bảo đảm không vi phạm các quyền công dân đã được hiến
định. Với vai trò là người bảo vệ pháp luật, toà án có chức năng duy trì trật tự
hiệu lực pháp lý này. Toà án sẽ có thể vô hiệu hóa những văn bản pháp luật
không được ban hành đúng trật tự hiệu lực pháp lý, chẳng hạn có thể bãi bỏ
luật của Quốc hội nếu vi phạm Hiến Pháp, nghị định của Chính phủ trái với
luật của Quốc Hội hay nghị quyết của Hội đồng nhân dân trái với luật, Hiến
Pháp.v.v.
Với đặc trưng là tính độc lập cao và hoạt động theo phương thức tài
phán đặc thù, toà án là một thể chế ít có nguy cơ lạm quyền, ít nguy hiểm đối
với các quyền, tự do của công dân, và còn là một thiết chế quyền lực được tạo
ra nhằm đảm nhận chức năng chống lại sự lạm quyền; kiểm tra, giám sát tính
21
25. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hợp hiến, hợp pháp của chính quyền (lập pháp và hành pháp) để đảm bảo hoạt
động công vụ của bộ máy Nhà nước đúng quy định của Hiến Pháp, pháp luật
và bảo vệ các quyền và tự do của con người. Vì vậy, có thể nói rằng, vai trò
giám sát, kiểm tra hoạt động công vụ của bộ máy Nhà nước phải được giao
cho toà án là một tất yếu của việc tổ chức chính quyền.
d. Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngƣời.
Các quyền và tự do của con người không chỉ là các giá trị tinh thần cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, có cội nguồn xã
hội và tư tưởng từ rất lâu đời trong quá trình phát triển của lịch sử hàng nghìn
năm qua mà chúng còn là khát vọng, ước mơ và lý tưởng của các dân tộc
trong cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ để chống lại các chế độ bất công, tàn
bạo, chuyên chế và cực quyền. Vì vậy bảo vệ và phát triển các quyền và tự do
của con người trong hoạt động xét xử cũng như việc đưa ra mục tiêu hoạt
động xét xử phải hướng đến bảo vệ các quyền và tự do của con người là một
tất yếu của nền tư pháp, của toà án trong Nhà nước pháp quyền.
Quyền công dân, từ góc độ pháp lý, là những quyền cơ bản của con
người được quy định trong Hiến Pháp và pháp luật, cụ thể quyền được sống,
quyền tự do và bảo vệ thân thể, quyền được bảo vệ khỏi bắt bớ, giam hãm,
hoặc đày ải vô cơ, quyền tự do đi lại và cư trú, quyền có quốc tịch, quyền sở
hữu tài sản, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do về tư tương, tín ngưỡng và
tôn giáo.v.v. Các quyền công dân là những quyền pháp lý nên đặc trưng cơ
bản của việc bảo vệ các quyền công dân là được thực hiện theo cơ chế do
pháp luật quy định. Chính Hiến Pháp và pháp luật là thể chế quan trọng bảo
đảm cho việc tôn trọng và thực thi các quyền công dân. Theo tư duy pháp
luật, trong xã hội có Nhà nước, Nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm cho
những quyền công dân được tôn trọng và được thực thi trong thực tế. Toà án
với tư cách là cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật nên toà
22
26. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
án đóng vai trò đặc biệt quan trọng thực hiện chức năng bảo vệ quyền công
dân của Nhà nước.
Chắc chắn rằng, pháp luật của quốc gia, đặc biệt là Hiến pháp và các
đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành đóng vai trò then chốt trong việc bảo
vệ quyền công dân. Thông qua các đạo luật, cơ quan lập pháp ghi nhận các
quyền công dân và xác định trách nhiệm cho các cơ quan Nhà nước phải tôn
trọng, đồng thời dự liệu những hình thức xử lý sẽ áp dụng cho những người
có hành vi xâm hại các quyền đó. Tuy vậy. pháp luật thường quy định một
cách khái quát, chung chung và không thể giải quyết những vi phạm mang
tính cá biệt xảy ra trong thực tế. Trong trường hợp đó, toà án chính là cơ quan
có chức năng giải thích và áp dụng pháp luật một cách sáng tạo để cung cấp
sự bảo vệ cuối cùng cho các quyền công dân. Ngoài ra, ý nghĩa quan trọng
nhất của các quyền công dân là chúng được tôn trọng và được thực thi trong
thực tế đời sống xã hội. Không hiếm trường hợp, Hiến pháp và luật quy định
rất nhiều quyền cho công dân, nhưng lại được thực hiện một cách nghèo nàn
trong thực tế. Điều này gián tiếp khẳng định, toà án chính là người phải có
trách nhiệm phải bảo vệ quyền công dân và đảm bảo cho các quyền này được
tôn trọng và thực thi trong thực tế.
Trong Nhà nước pháp quyền, Chỉ có toà án độc lập và khách quan, với
tư cách là một công cụ kiềm chế cần thiết đối với sự lạm dụng quyền tiềm
tàng từ nhánh lập pháp và hành pháp, mới có thể đảm bảo một cách hiệu quả
việc bảo vệ quyền công dân. Lập pháp là cơ quan đóng vai trò tích cực trong
việc bảo vệ quyền công dân. Nhưng đây là cơ quan hoạt động theo phương
thức thảo luận nghị trường và có tính chất đại diện rộng rãi nên không thể bảo
vệ quyền con người khi có hành vi cá biệt xâm phạm đến nó xảy ra. Trong
trường hợp này chỉ có toà án bằng hoạt động xét xử khách quan, công bằng
mới có thể nhân danh Nhà nước, đại diện công quyền thực hiện trách nhiệm
23
27. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
bảo vệ quyền công dân của Nhà nước. Trong khi, hành pháp với chức năng tổ
chức thực hiện pháp luật trên cơ sở nguyên tắc hành chính mệnh lệnh phục
tùng đã bộc lộ nhiều bất cập khi đóng vai trò là người bảo vệ quyền công dân.
Hơn thế nữa, do xuất phát từ nhu cầu của hoạt động quản lý xã hội, hoạt động
của hành pháp không ít trường hợp còn xâm hại đến cả quyền công dân của
những cá nhân cụ thể. Khi điều này xảy ra, toà án sẽ được yêu cầu để đưa ra
phán quyết cuối cùng nhằm xác nhận hành vi công vụ đó có xâm hại đến
quyền công dân không.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định toà án đóng vai trò
quan trọng nhất trong việc bảo vệ quyền công dân là có tính khách quan, phù
hợp với những yêu cầu của một Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân. Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền công dân của toà án không chỉ là
yêu cầu của Nhà nước mà còn là ý nguyện của mọi người dân. Bởi lẽ trong
nhận thức của người dân, toà án không chỉ là cơ quan ra phán quyết khẳng
định một hành vi có phù hợp với pháp luật hay không mà toà án còn là biểu
tượng của công lý, công bằng và bình đẳng xã hội. Tính chất đặc biệt của toà
án khi thực hiện chức năng bảo vệ quyền công dân còn được biểu hiện trong
các khía cạnh pháp lý sau:
Trong hoạt động xét xử thì mối quan hệ cơ bản là mối quan hệ giữa hai
bên - một bên là nhân danh quyền lực Nhà nước và bên kia là các quyền và tự
do của công dân. Đây là mối quan hệ không cân bằng về địa vị. Do đó, vai trò
đảm bảo các quyền công dân của Toà án trong hoạt động xét xử được thực
hiện thông qua việc tuân thủ các nguyên tắc trong quá trình tiến hành xét xử
như: tôn trọng nguyên tắc quyền yêu cầu Toà án bảo vệ, nguyên tắc suy đoán
vô tội, nguyên tắc tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc tôn
trọng quyền bất khả xâm phạm cá nhân, quyền bất khả xâm phạm đời tư... Và
trên từng bước đi, khâu đoạn của quá trình xét xử đều có tính pháp chế, tính
24
28. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
pháp quyền nhằm bảo đảm tính xác thực, đúng đắn, vô tư, khách quan,
nghiêm minh trong việc xem xét và đánh giá bản chất pháp lý của các sự kiện,
hành vi pháp lý làm cơ sở cho việc áp dụng đúng đắn các quy định của pháp
luật. Các chế định pháp lý bảo vệ quyền của con người trong quá trình xét xử
đặc biệt được coi trọng và nội dung này trở thành tư tưởng cơ bản có tính
xuyên suốt toàn bộ hoạt động của toà án. Có thể khẳng định, trong quá trình
thực hiện hoạt động xét xử, quyền công dân nói riêng, quyền con người nói
chung được Tòa án bảo vệ một cách tối đa.
Xét xử là một quá trình áp dụng pháp luật có tính sáng tạo trên cơ sở
nguyên tắc công khai, tranh luận trực tiếp giữa các bên tại phiên toà đã và
đang trở thành môi trường lý tưởng để người dân yêu cầu Nhà nước bảo vệ
quyền và tự do của mình; là nơi mà người dân thực sự trở thành người chủ
của quyền lực Nhà nước. Họ trực tiếp cung cấp thông tin, chứng minh tính
xác thực của thông tin để người đại diện của họ xây dựng và ra phán quyết về
một hành vi, vụ việc cụ thể có đúng pháp luật hay không. Trong quá trình xét
xử, người dân ngang quyền với các thiết chế đại diện cho Nhà nước trong quá
trình tiến hành tố tụng. Không ai có thể phủ nhận tính khách quan của sự việc
vì những mục đích cá nhân hay là những quan điểm chính trị. Tiêu chí cao
nhất trong hoạt động xét xử là tôn trọng tính khách quan xác thực của sự việc
đã diễn ra và những chuẩn mực pháp lý đã được luật dự liệu. Với những đặc
trưng này, Toà án -thể chế tổ chức thực hiện quá trình xét xử đang ngày càng
là chổ dựa tin cậy cho những người yêu công lý, công bằng xã hội và tự mình
bảo vệ các quyền tự do của bản thân.
Nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của toà
án đã có hiệu lực pháp luật” là sự khái quát và thể hiện tập trung nhất tư tưởng
bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng hình sự
nói riêng, trong hoạt động tư pháp nói chung. Nguyên tắc này trực
25
29. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tiếp khẳng định quyền con người được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ
tuyệt đối trong quá trình xét xử của toà án.
Hoạt động xét xử là môt quá trình tái hiện lại sự thật khách quan của
một hành vi đã diễn ra. Thông qua các chứng cứ mà các bên cung cấp công
khai trước phiên toà, trên cơ sở những quy định của pháp luật, Hội động xét
xử ra phán quyết xác định hành vi đó có trái pháp luật không, đồng thời quyết
định áp dụng hình thức cưỡng chế như thế nào nhằm mục đích khắc phục
những thiệt hại đã xảy ra, giáo dục và trừng phạt những người đã thực hiện
hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước
và xã hội. Qua đó, toà án khôi phục lại những quan hệ xã hội đã bị xâm phạm,
đưa ra những biện pháp để bảo vệ và phát triển những giá trị cao đẹp của các
khách thể pháp luật nói chung, quyền tự do của con người nói riêng.
Trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người là khách thể đặc biệt
luôn được pháp luật bảo vệ. Quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm về
sức khỏe, quyền được sở hữu tài sản là những quyền được pháp luật bảo vệ ở
mức độ cao nhất. Những hành vi xâm phạm các quyền này bị xem là hành vi
đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Người thực hiện hành vi hành vi phạm tội có
thể bị toà án áp dụng những hình thức chế tài rất nghiêm khắc để trừng phạt,
răn đe và giáo dục họ.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định toà án là nơi mà người dân có
quyền thể hiện thái độ của mình đối với hành vi vi phạm pháp luật, là nơi mà
tiếng nói của người dân là chứng cứ trực tiếp xây dựng nên văn bản có tính
quyền lực Nhà nước. Hay nói cách khác, xét xử là phương thức để người dân
trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Chính đặc trưng có tính bản chất này của hoạt động xét xử thể hiện vai
trò đặc biệt quan trọng của toà án trong việc bảo đảm và phát triển các quyền
công dân, quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
26
30. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
e. Góp phần thực hiện các cam kết quốc tế, xét xử hành vi vi
phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài.
- Góp phần thực hiện các cam kết quốc tế
Theo xu hướng pháp luật quốc tế hiện này, việc thiết lập các mối quan
hệ giữa các quốc gia với nhau thường được xác định trong các điều ước quốc
tế song phương và đa phương. Theo các nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại,
các quốc gia phải có nghĩa vụ tự giác thực hiện và thực hiện một cách tận tâm,
trung thực các cam kết quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tự nguyện gia
nhập. Để thực hiện các cam kết quốc tế, các quốc gia thường thực hiện theo
hai phương thức, gồm: hoặc áp dụng trực tiếp các quy định của điều ước quốc
tế vào điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia hoặc hoàn thiện hệ thống pháp luật của quốc gia phù hợp với những nội
dung của điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên.
Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật nên toà án là
một trong những cơ quan Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các cam kết quốc tế mà quốc gia là thành viên. Hoạt động áp dụng pháp luật
của toà án là hoạt động áp dụng pháp luật có tính đặc thù, đó là chỉ diễn ra khi
có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có yêu cầu của một trong các bên tranh
chấp; kết quả của hoạt động xét xử là những phán quyết có nội dung bắt buộc
thi hành những biện pháp cưỡng chế vì thế tác động trực tiếp đến quyền, lợi
ích của cá nhân, tổ chức. Do đó, yêu cầu tuân thủ và vận dụng các cam kết
quốc tế của quốc gia không chỉ đến từ Nhà nước mà còn đến từ cá nhân tổ
chức, đặc biệt cá nhân, tổ chức là người nước ngoài. Do vậy, thẩm quyền xét
xử của Tòa án ngày càng được mở rộng và trở thành chủ thể có vai trò trung
tâm trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động tuân thủ pháp
luật của bộ máy Nhà nước. Đồng thời Tòa án ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của một quốc gia. Tòa án vừa
27
31. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
là cơ quan trực tiếp áp dụng các cam kết quốc tế mà quốc gia là thành viên
vừa là cơ quan có trách nhiệm giám sát và trực tiếp phân xử một hành vi pháp
lý có vi phạm các cam kết mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia hay không
(điều này được thực hiện khi công dân có yêu cầu Tòa án phân xử hành vi
công quyền của cơ quan Nhà nước khi công dân cho rằng Nhà nước đã vi
phạm các cam kết quốc tế).
Từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước thì
quá trình hội nhập quốc tế đã có sự phát triển nhanh chóng. Chúng ta đã chủ
động mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế, như: Liên Hợp Quốc, WHO,
ILO, IMF, WB...), các tổ chức khu vực, như: ASEAN, APEC, ASEM và
nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau trên toàn thế giới (đến nay chúng
ta đã đặt quan hệ ngoại giao với hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới)...
đồng thời, chúng ta đã tiến hành ký kết và gia nhập nhiều điều ước quốc tế
trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau trong đó có nhiều Hiệp định
có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tư pháp, như Hiệp định AFTA, Hịêp định
GATTS, Hiệp định CEPT, các hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí truệ, các
hiệp định về tương trợ tư pháp với các nước, các công ước quốc tế về phòng
chống tội phạm quốc tế, công ước về phòng chống tham nhũng, khủng bố
quốc tế, dẫn độ tội phạm quốc tế... Theo tư duy pháp lý của đa số các nước,
những thủ tục tư pháp liên quan đến những lĩnh vực này là do Tòa án thực
hiện. Để chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta đã có những cải cách pháp lý
phù hợp nhằm tạo ra sự tương đồng nhất định với các đối tác trong quá trình
hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau thực hiện tận tâm, trung thực và có hiệu quả cao
những cam kết quốc tế có liên quan đến lĩnh vực tư pháp. Định hướng này
trực tiệp khẳng định Tòa án ngày càng đóng vai trò trung tâm trong việc thực
hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan trực tiếp đến
lĩnh vực tư pháp.
28
32. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Từ khi chúng ta gia nhập WTO, yêu cầu đặt ra đối với chúng ta là phải
nhanh chóng cải cách hệ thống các cơ quan áp dụng pháp luật nhằm đáp ứng
những yêu cầu trong các Hiệp định của WTO. Từ nguyên tắc “quy định của
WTO là chuẩn mực tối cao chung cho các nước trong quan hệ thương mại
quốc tế” đã đặt ra yêu cầu các quốc gia phải có sự đối xử bình đẳng và không
phân biệt lẫn nhau trong các chính sách pháp luật, các họat động áp dụng luật
của mình. Tòa án với tư cách thiết chế trung tâm thực hiện quyền tư pháp ở
nước ta nên Tòa án chính là cơ quan có vai trò quan trọng nhất thực hiện
những quy định của WTO. Vì chỉ có Tòa án mới đảm bảo được những yêu
cầu về tính minh bạch, công khai và bình đẳng đã được chuẩn mực hóa trong
các hiệp định khung của WTO. Đồng thời, thông qua con đường Tòa án sẽ
phù hợp với tâm lý và tư duy về công bằng, bình đẳng của đa số các nước.
Như vậy, Tòa án là cơ quan đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện, cũng như thúc đẩy các cơ quan Nhà nước, tổ chức cá nhân thực hiện các
cam kết quốc tế mà nước ta là thành viên đặc biệt là những hiệp định có liên
quan đến lĩnh vực tư pháp, các hiệp định của WTO.
- Giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn có yếu tố nước ngoài.
Theo quy của Điều 127, Hiến pháp năm 1992, Điều 405 về "nguyên tắc
áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005", Điều 410 "Quy
định chung về thẩm quyền xét xử toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài" Điều 411 "Về thẩm quyền riêng biệt của toà án Việt
Nam" thì các tranh chấp, mâu thuẫn có yếu tố nước ngoài diễn ra ở nước ta
hoặc đối tượng tranh chấp ở trên lãnh thổ Việt Nam hoặc bị đơn đang cư trú,
làm việc ở Việt Nam hoặc có trụ sở ở Việt Nam hoặc các bên tranh chấp là
người Việt Nam đều do toà án thực hiện khi có yêu cầu của cá nhân, tổ chức
trong nước hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài. Toà án nước ta không giải
29
33. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp được quy định
tại Điều 413 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, gồm:
“1. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ
giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong trường hợp đã có bản
án, quyết định của toà án nước ngoài giải quyết vụ việc dân sự đó và nước có
toà án ra bản án, quyết định dân sự đó và Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập
điều ước quốc tế quy định việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự;
2. Toà án Việt Nam trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc đình chỉ
giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nếu có toà án nước ngoài đã
thụ lý vụ việc dân sự đó và bản án, quyết định của toà án nước ngoài về vụ
việc dân sự đó được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.”
Như vậy, cũng như các tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, toà án là
chủ thể đóng vai trò đặc biệt quan trọng thực hiện việc giải quyết các tranh
chấp mâu thuẫn có yếu tố nước ngoài ở nước ta.
- Xét xử hành vi phạm tội có yếu tố nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật Hình sự năm 1999, thì
ngoài những người được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi
và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam mà thực hiện hành vi phạm
tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều bị áp dụng Bộ
luật hình sự để truy tố và xét xử; và "Công dân Việt Nam phạm tội ở ngoài
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự tại Việt Nam theo Bộ luật này”. Quy định này cũng được áp
dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở nước Cộng hòa xã hội chủ
30
34. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nghĩa Việt Nam; Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ
luật hình sự Việt Nam trong những trường hợp được quy định trong các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham
gia". Trên cơ sở quy định về hiệu lực áp dụng của Bộ luật Hình sự và Quy
định về thẩm quyền của Toà án (Điều 2 Luật tổ chức Tòa án năm 2002), thì
toà án Việt Nam có quyền xét xử các hành vi phạm tội có yếu tố nước ngoài
được thực hiện trên lãnh thổ nước ta (trừ người hưởng quyền ngoại giao),
hành vi phạm tội có yếu tố nước ngoài do công dân Việt Nam, người không
quốc tịch thường trụ tại nước ta được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy, Toà án Việt Nam có thẩm quyền xét xử tất cả các hành vi
phạm tội có yếu tố nước ngoài là người nước ngoài hoặc hành vi phạm tội của
công dân Việt Nam thực hiện ở nước ngoài trừ trường hợp người phạm tội
được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao, quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự.
Ở Việt Nam cũng như các nhà nước khác, Toà án là cơ quan Nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện và thúc đẩy các cơ quan Nhà
nước khác thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng
thời, Toà án là cơ quan duy nhất và có vị trí tối cao tiến hành xét xử các hành
vi phạm tội có yếu tố nước ngoài; nhân danh Nhà nước giải quyết các tranh
chấp dân sự có yếu tố nước ngoài theo thủ tục tố tụng tư pháp. Do đó, hiệu
quả và chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án có ý nghĩa đặc biệt trong việc
thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tòa án chính là một thể
chế không thể thiếu phải trực tiếp thực hiện những cam kết quy định trong các
Công ước quốc tế, các Hiệp định thương mại song phương và đa phương, các
hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết họăc tham gia; Tòa án là
người trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân và doanh nghiệp
31
35. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Việt Nam trong quan hệ thương mại, giao lưu dân sự với các đối tác nước
ngoài; Tòa án là thể chế trung tâm bảo vệ quyền và lợi ích của người nước
ngoài trong quá trình đầu tư, kinh doanh và cư trú ở Việt Nam. Chính quyết
định của Tòa án là dẫn chứng trực tiếp nhất khẳng định những giá trị cao đẹp
của Nhà nước Việt Nam trong nhận thức của người nước ngoài về đất nước
Việt Nam. Vì thế Tòa án có vai trò đặc biệt trong việc khẳng định bản chất
Nhà nước Việt Nam dân chủ, công bằng, bình đẳng đến các dân tộc khác trên
thế giới thông qua những quyết định của mình khi tiến hành giải quyết các
tranh chấp thương mại, tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài và các bản án
xét xử hành vi tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ nước ta.
Đây là tiền đề rất quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của chúng
ta ngày càng phát triển nhanh và bền vững. Trong giai đoạn hiện nay, những
yêu cầu đặt ra cho nền Tư pháp nói chung, toà án nói riêng đã được đồng chí
Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam khái quát như sau: "Khi xây dựng chiến
lược CCTP đến năm 2020, Ban Chỉ đạo CCTP đã tính đến những thay đổi
định hướng nền Tư pháp Việt Nam có tính hội nhập nhiều hơn với khu vực và
thế giới. Nhiều định hướng, chủ trương lớn như tăng cường tính độc lập của
các cơ quan Tư pháp, tăng cường trách nhiệm của cán bộ có chức danh tư
pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng, thành lập Viện Công tố, toà án khu
vực… đã phù hợp hơn, mang tính phổ quát hơn, hội nhập hơn với các nền tư
pháp tiên tiến trên thế giới. Do vậy, xét về tổng thể, chiến lược CCTP sẽ
không bị ảnh hưởng lớn về lộ trình và các nhiệm vụ chính trong điều kiện
chúng ta gia nhập WTO.
Tuy nhiên, đối với những công việc cụ thể thì sẽ có những thay đổi để
đáp ứng yêu cầu của WTO, nhất là những yêu cầu liên quan đến giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực thương mại… Một loạt các vấn đề về giải quyết
32
36. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
tranh chấp thương mại thông qua cơ chế hoà giải, thành lập toà án thương
mại quốc tế hoặc toà án sở hữu trí tuệ… chưa được đề cập cụ thể nhưng tôi
tin rằng đó sẽ là vấn đề mà tiến trình cải cách tư pháp của Việt Nam sẽ tiếp
tục xem xét, nghiên cứu. Nếu việc nghiên cứu các cơ chế, kinh nghiệm của
nước ngoài phù hợp với thực tiễn Việt Nam thì những vấn đề này trước hết
phải được pháp luật điển hoá thông qua việc xây dựng mới, hoặc sửa đổi, bổ
sung các dự án luật. Do vậy, lộ trình CCTP sẽ có những thay đổi theo hướng
tích cực ở từng công việc cụ thể, mà trước hết là ở công tác xây dựng thể chế.
Ngoài ra, để hội nhập WTO, CCTP ở Việt Nam cũng đã chú trọng tới
việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, luật sư không chỉ giỏi nghề mà còn
giỏi ngoại ngữ nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu tham gia giải quyết các
tranh chấp quốc tế; công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp cũng sẽ
được tăng cường và mở rộng nhằm có nhiều hơn những hiệp định song
phương và đa phương liên quan để tương trợ tư pháp, dẫn độ, hợp tác pháp
luật… Như vậy, có thể khẳng định rằng, để hội nhập WTO, lộ trình CCTP sẽ
có những thay đổi ở những công đoạn, những nhiệm vụ cụ thể nhằm đẩy
nhanh việc hoàn thành mục tiêu CCTP đến năm 2020 mà Chiến lược CCTP
đã đề ra".
3. Yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân
đối với Toà án.
Toà án giữ vai trò trung tâm thực hiện quyền tư pháp trong tổng thể
quyền lực Nhà nước thống nhất nên tổ chức và hoạt động xét xử của toà án
trong Nhà nước pháp quyền phải mang đầy đủ bản chất và những nguyên tắc
cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN, đó là:
Bảo đảm tính độc lập của toà án.
Nguyên lý tổ chức nhà nước pháp quyền là chính quyền phải chịu sự
kiềm chế của pháp luật, mỗi hành vi của Nhà nước phải có cơ sở pháp lý.
33
37. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Trong Nhà nước pháp quyền, không chỉ công dân mà các cơ quan Nhà nước
đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh, trung thực. Pháp luật có
vai trò tối cao trong việc điều chỉnh các hoạt động trong đời sống xã hội. Thế
nhưng một điều hiển nhiên là cho dù pháp luật có được định nghĩa như thế
nào đi nữa thì đã có pháp luật tất yếu sẽ có vi phạm pháp luật. Toà án là người
trọng tài cao nhất bảo đảm cho hiệu lực thực thi của pháp luật trong thực tiễn.
Vì toà án có vai trò đặc biệt thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên,
khi thực hiện chức năng này thì hiệu quả của nó phải đối diện với một số
thách thức thực sự. Do bản chất, đặc thù của từng nhánh quyền lực nên hệ
thống toà án là cành quyền lực „yếu” nhất so với hai cành quyền lực lập pháp
và hành pháp. Quyền tư pháp luôn có nguy cơ bị hai cành quyền lực còn lại
gây ảnh hưởng. Vì thế để bảo đảm tính độc lập thực sự của nhánh quyền tư
pháp thì đòi hỏi là: Phải bảo đảm độc lập cho toà án đối với lập pháp và hành
pháp và sự tác động của các nguồn lực xã hội khác là bảo đảm cuối cùng cho
nguyên tắc Nhà nước pháp quyền đuợc tôn trọng. Độc lập của toà án có địa vị
như là một điều kiện của Nhà nước pháp quyền. Không có cái thứ nhất thì
cũng không có cái thứ hai được.
Bảo đảm độc lập của toà án là một trong những nguyên tắc, điều kiện
của Nhà nước pháp quyền. Yêu cầu đặt ra là là các Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử. Thực
tế cho thấy rằng Thẩm phán độc lập chừng nào thì công lý được bảo đảm
chừng ấy. Để bảo đảm nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong khi
xét xử, cần có nhiều điều kiện, trong đó có việc tổ chức toà án theo hai cấp xét
xử, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh
chính trị là những điều kiện có tác động trực tiếp đến khả năng Thẩm phán
độc lập ra phán quyết đúng quy định của pháp luật và công bằng.
34
38. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Giới hạn duy nhất đối với tính độc lập của thẩm phán là sự ràng buộc
phải tuân theo pháp luật trong khi thực hiện họat động xét xử. Vì vậy, yêu cầu
về tính độc lập, khách quan phải được cụ thể hóa thành các quy định pháp
luật; về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của thẩm phán trong các quan hệ tố
tụng. Nội dung và phương thức chỉ đạo, điều hành giữa lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng đối với Tòa án, thẩm phán; nội dung, phương thức chỉ đạo điều hành
giữa lãnh đạo Tòa án với thẩm phán đều phải được thể chế hóa theo hướng
phân biệt rõ ràng quan hệ hành chính với quan hệ tố tụng, đảm bảo quan hệ tố
tụng được đề cao và cơ chế pháp lý thuận lợi để thẩm phán thực hiện tốt nhất
quyền xét xử của mình. Hành chính hóa quan hệ tố tụng trong các quan hệ nội
bộ Tòa án là đi ngược lại với nguyên tắc độc lập của tố tụng Tòa án. Tăng
quyền hạn và trách nhiệm của thẩm phán trong xét xử là đảm bảo đầu tiên cho
tính độc lập của thẩm phán.
Toà án phải thể hiện bản chất của Nhà nước Việt nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo đảm thực sự chủ quyền thuộc về
nhân dân.
Về mặt bản chất, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phúc đáp một cách
đầy đủ nhất quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực Nhà nước. Nhà
nước pháp quyền bảo đảm tất cả chủ quyền thuộc về nhân dân. Là nội dung
quan trọng nhất của quyền lực tư pháp nên quyền xét xử phải thực sự trở
thành cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc tuân theo pháp luật; giải
quyết các tranh chấp, xử lý các vi phạm và tội phạm nhanh chóng, kịp thời; là
công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của
tập thể và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực và
hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải xây dựng nền tư pháp nhân dân, mở
rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền tư pháp, trong đó
35
39. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
có hoạt động xét xử để từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước (trong đó có quyền xét xử) thuộc về nhân
dân và bảo đảm các quyền dân chủ của công dân trong lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội được Hiến pháp ghi nhận. Thực hiện nguyên tắc xây dựng
Nhà nước pháp quyền yêu cầu Toà án phải phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn xã hội tham gia hoạt động của toà án, hoạt động xét xử phải bảo đảm tính
minh bạch và công khai. Việc tham gia của nhân dân vào hoạt động xét xử,
thực hiện xét xử tập thể theo nguyên tắc tranh tụng công khai, bảo đảm quyền
đại diện, bào chữa của bị can, bị cáo.v.v. là những hình thức bảo đảm tính dân
chủ trong hoạt động xét xử.
Hoạt động của toà án phải đảm bảo nguyên tắc: "Quyền lực Nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Đây là nguyên tắc
cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền được Hiến pháp
1992 quy định tại Điều 2. Bản chất pháp lý của nguyên tắc phân công quyền
lực trong Nhà nước pháp quyền là sự thể hiện quyền lực Nhà nước thống nhất,
không phân chia vì nó bắt nguồn từ chủ quyền của nhân dân, thể hiện đầy đủ
nhất ý chí của nhân dân trong việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Nguyên tắc
phân công quyền lực Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thực chất là sự phân công lao động một cách khoa học, hợp lý giữa các cơ
quan Nhà nước để tạo ra cơ chế pháp lý hữu hiệu, bảo đảm sự ràng buộc, phối
hợp, hợp tác và giám sát lẫn nhau giữa cơ quan lập pháp đối với cơ quan hành
pháp, tư pháp và quyền kiểm tra của toà án đối với quyền lập pháp và quyền
hành pháp, tạo điều kiện cho toà án hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật nhằm bảo đảm cho quyền lực Nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân,
bảo đảm ý chí và quyền lực của nhân dân được thực hiện. Sự phân công và
phối hợp sẽ tạo nên cơ chế hợp lý để loại trừ những nguyên
36
40. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nhân chủ yếu dẫn đến sự lạm quyền, tiếm quyền và độc tài. Nguyên tắc này là
nền tảng để bảo đảm cho việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước
pháp quyền, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân được Hiến
pháp ghi nhận, tránh được sự vi phạm quyền công dân từ phía bộ máy Nhà
nước. Trong mối quan hệ giữa các nhành quyền lực thì quyền tư pháp luôn
gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong thực thể quyền
lực Nhà nước thống nhất. Bởi lẽ, hoạt động của Toà án thể hiện nền công lý,
sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật, đồng thời thể hiện
chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống các cơ quan tư pháp nói riêng của
toàn bộ quyền lực Nhà nước nói chung. Thực hiện nguyên tắc này, Nhà nước
pháp quyền đòi hỏi tổ chức và hoạt động của Tòa án phải bảo đảm quyền lực
Nhà nước thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi Toà án phải là cơ quan giữ vị trí trung
tâm thức hiện vai trò đảm bảo pháp luật có địa vị thống trị thực sự trong đời
sống xã hội, Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội chủ yếu bằng pháp
luật. Bằng hoạt động xét xử, toà án phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý
nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật; giải quyết nhanh chóng,
kịp thời, khách quan, công bằng, bình đẳng, đúng pháp luật các xung đột, mâu
thuẫn trong xã hội, bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân
chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Xét xử không đúng
pháp luật, vi phạm các nguyên tắc của thủ tục tố tụng, gây oan sai là không
phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với hoạt động của
Toà án. Nhà nước pháp quyền yêu cầu hoạt động xét xử của Toà án phải bảo
đảm công bằng, bình đẳng và dân chủ. Công bằng, bình đẳng trong hoạt động
xét xử thể hiện ở chỗ Toà án phải tạo điều kiện và bảo đảm cho mọi cơ quan,
tổ chức và công dân thực hiện bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm mọi vi
37