SlideShare a Scribd company logo
1 of 69
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................................... 13
Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY NƯỚC PHÁP ỦNG HỘ CÁCH
MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 ............................................................ 13
1.1. Khái quát về tình hình nước Pháp ........................................................................... 13
1.2. Những mâu thuẫn giữa Anh và Pháp trong quan hệ quốc tế .................................. 15
1.3. Chiến tranh giành độc lập của cư dân Mỹ............................................................... 21
1.4. Cách mạng Mỹ với việc tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế ....................................... 29
Chương 2. SỰ ỦNG HỘ CỦA NƯỚC PHÁP ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG MỸ TỪ
NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 ........................................................................................ 38
2.1. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm
1777 ............................................................................................................................. 38
2.1.1. Mối quan tâm của triều đình Versailles đối với tình hình cách mạng Mỹ ........... 38
2.1.2. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ ................................... 44
2.2. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1778 đến năm
1783 ............................................................................................................................. 52
2.2.1. Con đường dẫn tới liên minh Pháp – Mỹ ............................................................. 52
2.2.2. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ ................................... 57
2.2.2.1. Về chính trị - ngoại giao.................................................................................... 57
2.2.2.2. Về tài chính, quân sự ......................................................................................... 60
P1
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG VỀ SỰ ỦNG HỘ CỦA NƯỚC PHÁP
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783............................. 69
3.1. Đặc điểm ................................................................................................................ 69
3.2. Tác động................................................................................................................. 78
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 90
P2
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ quốc tế ở châu Âu vào thế kỷ XVIII với đầy rẫy những mối quan hệ
phức tạp, chằng chéo bởi mỗi chủ thể liên quan khi tham gia vào ván bài quyền lực
quốc tế đều không chỉ quán xuyến mục tiêu cốt lõi quyền lợi quốc gia, dân tộc mà còn
muốn áp đặt ý chí, sức mạnh của họ đối với bên còn lại. Trong sự vận động của những
mối quan hệ phức tạp đó nổi lên sự ganh đua giữa hai thế lực: nước Anh và nước Pháp.
Trong khi nước Pháp phong kiến tìm cách phô diễn sức mạnh trên lục địa thì nước Anh
sau khi hoàn thành cuộc cách mạng tư sản đang hừng hực khí thế với việc triển khai
sức mạnh ra bên ngoài bao gồm cả trên đất liền lẫn trên biển. Điều tất yếu của tình hình
này là sự va chạm giữa hai thế lực diễn ra. Trong hơn nửa đầu thế kỷ XVIII, châu Âu
trở thành bãi chiến trường chính cho hai bên phô trương tiềm lực, sức mạnh của bản
thân. Kết quả, nước Pháp luôn là người cầm cờ trắng, chấp nhận thua thiệt trước những
đòi hỏi do nước Anh đưa ra. Chính vì lẽ đó, sự uất hận tràn ngập trong lòng chính giới
nước Pháp và họ chờ đợi cơ hội thuận tiện để phục thù.
Tình hình quốc tế diễn ra theo chiều hướng thuận lợi cho ý định của nước Pháp
khi cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ nổ ra. Dưới nhãn
quan của nước Pháp, đây chính là “cơ hội vàng ngọc” không thể bỏ qua. Từ sự dẫn dắt
tư duy như vậy, nước Pháp đã ủng hộ, trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh giành
độc lập của cư dân Mỹ trong cuộc chiến chống lại nước Anh. Mỗi bước tiến của sự
nghiệp tiến bộ của nhân dân Mỹ đều mang dấu ấn hết sức đậm nét của nước Pháp. Sự
thắng lợi của cách mạng Mỹ gắn liền với vai trò không hề nhỏ của nước Pháp. Ngược
lại, chính việc tham gia ủng hộ cách mạng Mỹ đã đẩy nước Pháp trượt dài trên bờ vực
của cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến, khiến cho quốc gia này đứng trước một
cuộc cách mạng xã hội sâu rộng, diễn ra không lâu sau khi nước Mỹ giành được độc
lập. Không những vậy, những kỳ vọng đạt được của chính giới Pháp thông qua việc
ủng hộ cách mạng Mỹ vẫn còn dang dỡ, chưa tương xứng với những khoản đóng góp
mà nước Pháp đã đánh đổi.
P3
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Cho tới nay việc làm rõ vai trò của nước Pháp trong cuộc cách mạng Mỹ vẫn
còn là khoảng trống nhận thức của giới nghiên cứu sử học Việt Nam. Sự tìm hiểu một
cách thấu triệt vấn đề đặt ra vẫn còn là khoảng mở cần thiết để tác giả luận văn có cơ
hội thực hiện. Chính vì lẽ đó, việc tìm hiểu chủ đề “Sự ủng hộ của nước Pháp đối với
cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783” vừa có ý nghĩa cả về mặt khoa học lẫn ý
nghĩa thực tiễn:
Về ý nghĩa khoa học, thông qua việc nghiên cứu đề tài giúp hiểu rõ những mâu
thuẫn giữa Anh và Pháp trong quan hệ quốc tế; hiểu rõ những cuộc vận động ngoại
giao của nước Mỹ nhằm lôi kéo nước Pháp đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến với nước
Anh; hiểu rõ những hoạt động ủng hộ của nước Pháp, bao gồm các lĩnh vực chính trị -
ngoại giao, tài chính và quân sự đối với sự nghiệp tiến bộ của cư dân Mỹ; hiểu rõ
những đặc điểm của mối quan hệ Pháp – Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập của
nhân dân Mỹ; hiểu rõ những tác động đối với hai chủ thể khi tham gia cùng một chiến
tuyến cũng như trên bình diện quốc tế.
Về ý nghĩa thực tiễn, ngày nay đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc
tế trong đó có việc đẩy mạnh quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp và Mỹ là
hai quốc gia mà Đảng và Nhà nước ta đang tăng cường quan hệ, hợp tác với nhau trên
nhiều lĩnh vực. Do đó, những dữ kiện lịch sử của hai quốc gia này cũng mối quan hệ
giữa họ trở thành nguồn tham khảo quý giá cho mọi cơ quan nhà nước trong việc
hoạch định, thực thi quan hệ với hai đối tác. Hơn nữa, những vấn đề trình bày trong
luận văn sẽ trở thành bài học cho việc phân biệt đối tác/đối tượng (tùy theo hoàn cảnh)
để từ đó giúp chúng ta có thể chọn lựa đúng đắn trong quá trình thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một trong những mối quan hệ đặc biệt của lịch sử quan hệ quốc tế thời cận
đại, quan hệ Pháp – Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập của người Mỹ da trắng đã
thu hút sự quan tâm, chú ý không ít của các nhà nghiên cứu, học giả với nhiều công
trình được xuất bản, nhiều ấn phẩm khác nhau được ra đời.
2.1. Ở trong nước, tức Việt Nam, vấn đề này ít nhiều được đề cập trong các
nhóm công trình sau:
P4
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nhóm thứ nhất là những công trình mang tính chất giáo trình, như: “Lịch sử
thế giới cận đại” và “Lịch sử quan hệ quốc tế, Tập 1” do Vũ Dương Ninh chủ biên
(Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002 & 2005); “Lịch sử thế giới cận đại, Tập 1” do Phan
Ngọc Liên chủ biên (Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008). Trong các công trình này
khi trình bày cuộc đấu tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ vào cuối
thế kỷ XVIII, các tác giả đề cập tới liên minh Pháp – Mỹ năm 1778. Sự kiện này được
các tác giả xâu chuỗi trong tiến trình của cách mạng Mỹ.
Trên phương diện rộng lớn hơn, sự ra đời của liên minh Pháp – Mỹ được đề cập
trong các công trình thông sử nước Mỹ, như: “Lịch sử Hoa Kỳ từ độc lập đến chiến
tranh Nam Bắc” của Nguyễn Thế Anh (Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn, 1969); “Lịch sử
nước Mỹ” của Nguyễn Nghị, Lê Minh Đức (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1994);
“Lịch sử Hoa Kỳ: giai đoạn lập quốc đến thế kỷ XIX” của Nguyễn Thái Yên Hương
(Nxb Giáo dục Việt Nam, 2015) đã bước đầu phân tích bối cảnh dẫn tới nước Pháp
dính líu vào cuộc đấu tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ thuộc Anh.
Nhìn chung, trong nhóm công trình này mới chỉ dừng lại trong việc trình bày
các sự kiện tiêu biểu liên quan tới vấn đề mà tác giả quan tâm, nghiên cứu.
Nhóm thứ hai là những công trình dưới dạng chuyên khảo. Tiêu biểu cho thể
loại này là: “Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội và văn hóa” của Nguyễn Thái Yên
Hương (Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005); “Hoa Kỳ và văn hóa
chính sách đối ngoại” do Nguyễn Thái Yên Hương chủ biên (Nxb Thế giới, Hà Nội,
2008); “Nước Mỹ với quá trình Tây tiến: chính sách ngoại giao mở rộng lãnh thổ
(1787-1861)” của Lê Thành Nam (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016) đã
trình bày quan hệ ngoại giao của các thuộc địa Bắc Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc
lập và chính sách đối ngoại của nhà nước cộng hòa non trẻ trong buổi đầu vừa mới ra
đời. Là một quốc gia đối trọng với nước Anh trong sự kiện cuộc chiến tranh do các
thuộc địa Bắc Mỹ tiến hành, nước Pháp nhận được mối lưu tâm từ phía cư dân ở đây,
bởi họ nhận thấy rằng khả năng ủng hộ của chính giới Pháp cho sự nghiệp của cư dân
thuộc địa lớn hơn nhiều so với các quốc gia châu Âu khác.
Bên cạnh các các công trình chuyên khảo là các luận văn Thạc sĩ được hoàn
thành và bảo vệ trong gần một thập kỷ trở lại đây, trong đó đáng chú ý: “Chính sách
P5
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đối ngoại của Hoa Kỳ từ khi lập quốc (1776) đến trước cuộc Nội chiến (1861-1865)”
của Lê Thành Nam (Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm – Đại học
Huế, 2007). Ở công trình này, tác dành hẳn một mục nhỏ trong chương thứ nhất:
“Ngoại giao vì mục tiêu độc lập” để phân tích sự vận động ngoại giao của những đại
diện các thuộc địa Bắc Mỹ tại nước Pháp nhằm thuyết phục chính giới và dư luận quốc
gia này ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của họ. Một luận văn Thạc sĩ khác cũng đề cập ít
nhiều tới chủ đề mà tác giả nghiên cứu là: “Sự tham gia của các cường quốc châu Âu
trong cách mạng Mỹ từ năm 1775 đến năm 1783)” của Trịnh Nam Giang (Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, 2008). Trong công trình này, tác giả trình bày sự tham gia, góp
mặt và ủng hộ của các cường quốc châu Âu cho cả từ hai phía trong cuộc chiến tranh
giành độc lập Bắc Mỹ. Điều này có nghĩa là, các cường quốc châu Âu có sự phân định
rõ nét thành hai chiến tuyến. Một bên ủng hộ cư dân thuộc địa Bắc Mỹ đấu tranh thoát
khỏi ách áp bức của thực dân Anh, bao gồm: Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, Thụy Điển
và Đan Mạch. Bên còn lại ủng hộ chính quyền London theo đuổi chính sách đàn áp
cuộc nổi dậy của cư dân Bắc Mỹ, trong đó nhiệt tình nhất là các tiểu quốc Đức và
vương quốc Phổ. Bên cạnh đó, luận văn còn đề cập đến thái độ trung lập của một số
cường quốc châu Âu trước sự kiện cách mạng diễn ra ở phía bên kia bờ Đại Tây
Dương. Sa hoàng Nga và Áo hoàng là những nhân vật thể hiện quan điểm này rõ rệt
nhất. Dĩ nhiên, sự trung lập của hai thế lực phong kiến này có tác động theo chiều
hướng thuận nghịch cho cả Anh và cư dân Bắc Mỹ. Do trình bày dàn trải thái độ của
từng cường quốc châu Âu trong cách mạng Mỹ nên khi đề cập tới nước Pháp, luận văn
chỉ dành dung lượng số trang vừa phải.
Nói tóm lại, trong chừng mực nhất định, các chuyên khảo trong nhóm công trình
này đề cập khá cụ thể thái độ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ.
Nhóm thứ ba là các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành của Viện Nghiên cứu châu Mỹ, chẳng hạn như: “Ngoại giao Hoa Kỳ trong cuộc
chiến tranh giành độc lập (1773-1783)” và “Nước Pháp với cuộc chiến tranh giành
độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775-1783)” của Lê Thành Nam (Châu Mỹ
ngày nay, số 3(108)2007 và số 8(137)2009). Trong bài viết đầu tiên, tác giả trình bày
nghệ thuật ngoại giao của phái đoàn ngoại giao do Đại hội lục địa gửi sang các triều
P6
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đình phong kiến châu Âu (Pháp, Nga, Phổ) để lôi cuốn chính giới ở đây lưu tâm tới sự
nghiệp chính nghĩa của nhân dân Bắc Mỹ. Mục đích của những phái đoàn này nhằm cô
lập kẻ thù, tức nước Anh, đồng thời mở rộng sự liên kết với các quốc gia ở Cựu lục địa.
Bài viết còn lại phân tích nỗ lực của triều đình nước Pháp trong việc ủng hộ nhân dân
Bắc Mỹ chiến đấu chống lại thực dân Anh. Sự chiến đấu đó không chỉ dừng lại trên
chiến trường mà còn biểu hiện thông quan sự vận động ngoại giao của triều đình Pháp
đối với một số triều đình phong kiến các nước châu Âu. Có thể nói, bài viết này nói
tương đối rõ sự ủng hộ của Pháp trên các lĩnh vực, như: chính trị - ngoại giao, tài chính
và quân sự.
2.1. Ở nước ngoài, các công trình liên quan tới chủ đề nghiên cứu khá phong
phú. Có thể phân chia thành những nhóm sau:
Nhóm thứ nhất là các công trình liên quan trực tiếp tới đề tài, như: “France in
the American Revolution” (Nước Pháp trong cách mạng Mỹ) của James Breck Perkins
(Houghton Mifflin, 1911). Đây là công trình bàn về những sự kiện xảy ra bên trong
nước Pháp cũng như chính kiến của nhân dân sở tại khi cuộc chiến tranh giành độc lập
của cư dân Bắc Mỹ đang tiến hành. Điều cần lưu ý là, tác giả chú ý tới việc phân tích
cả hai chiều hướng trái ngược nhau trong chính giới và nhân dân Pháp khi cách mạng
Mỹ xảy ra. Đại diện tiêu biểu cho hai chiều hướng này là Bộ trưởng Ngoại giao -
Vergennes với quan điểm ủng hộ cách mạng Mỹ, ngược lại là Bộ trưởng Tài chính –
Turgot. Sự đấu tranh giữa hai luồng quan điểm này chi phối nước Pháp trong toàn bộ
tiến trình cách mạng Mỹ. Một công trình khác: “The French Army in the American
War of Independence” (Quân đội Pháp trong cuộc chiến tranh độc lập của người Mỹ)
của René Chartrand và Francis Back (Osprey Publishing Ltd, United Kingdom, 1998)
đã phân tích những cải cách quân sự của triều đình phong kiến Pháp sau thất bại trước
Anh trong cuộc chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Chính nhờ những cuộc cải tổ này,
quân đội Pháp có sự thay đổi về chất, nhất là lực lượng hải quân. Điều đó khiến cho
một bộ phận không nhỏ cận thần trong triều đình đủ tự tin hoạch định sự tham chiến
của lực lượng hải quân Pháp trong cuộc đối đầu với hải quân Anh, qua đó gián tiếp
giúp đỡ quân đội Bắc Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập.
P7
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nhóm thứ hai, là công trình liên quan tới lịch sử ngoại giao nước Mỹ từ khi
quốc gia này còn là một phần của đế chế Anh cho tới thời hiện đại. Mặc dù các tác
phẩm này trình bày ngoại giao của nước Mỹ theo tiến trình lịch sử nhưng trong nội
dung ngoại giao thời kỳ cách mạng, các tác giả chú ý tới việc làm rõ những toan tính,
hoạt động của nước Pháp khi can thiệp trực tiếp vào cách mạng Mỹ. Có thể tìm thấy
nội dung này trong các tác phẩm như: “A Diplomatic History of the United States”
(Lịch sử ngoại giao của nước Mỹ) của Samuel Bemiss (Henry Holt and Company, New
York, 1951); "A Diplomatic History of the American People” (Lịch sử ngoại giao của
nhân dân Mỹ) của Thomas A. Bailey (Appleton-Century-Crofts, Inc, New York, 1958);
“American Diplomacy A History” (Lịch sử ngoại giao Mỹ) của Robert H. Ferrell
(W.W Norton & Company Inc, New York 1975); “A History of American Foreign
Policy, Vol 1 (Growth to World Power 1700-1914)” (Lịch sử chính sách đối ngoại Mỹ,
Tập 1 (Sự phát triển tới cường quốc thế giới 1700 – 1914) của Alexander DeConde
(Charles Scribner’s Sons, New York, 1978); “A Companion to American Foreign
Relations” (Sự đồng hành quan hệ đối ngoại Mỹ) của Robert D. Schulzinger
(Blackwell Publishing Ltd).v.v…
Nhóm thứ ba là các công trình liên quan tới lịch sử nước Mỹ, như: “The
Reinterpretation of the American Revolution 1763-1789” (Diễn giải lại cách mạng Mỹ
1763-1789) của Jack P. Greene (Harper & Row Publisher, 1968); “The American
Republic to 1865, Vol 1” (Cộng hòa Mỹ tới năm 1865) của Richard Hofstadter
(Prentice-Hall Inc, Englewood Cliffs, New Jersey, 1959); “The American
Reconstruction through the 20th
century” (Tái xây dựng nước Mỹ trong suốt thế kỷ
XX) của Gerald A. Danzer… (McDouglas Little Inc, A Houghton Miffin Company,
1999); “American History A Survey” (Khái quát lịch sử Mỹ) của Alan Brinkley
(McGraw-Hill Higher Education, 2003) v.v.. Đây là những công trình thông sử nước
Mỹ trình bày tất cả các lĩnh vực của quốc gia này từ khi còn là thuộc địa của thực dân
Anh cho tới hiện nay. Vấn đề ngoại giao trong thời kỳ cuộc chiến tranh độc lập được
đề cập tương đối chừng mực với những sự kiện tiêu biểu, song chưa lý giải được bản
chất hiện tượng của vấn đề đối ngoại của nước Mỹ thời cận đại.
P8
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nhóm thứ tư là các công trình của tác giả nước ngoài được dịch sang tiếng Việt
bàn về lịch sử nước Mỹ, như: “Lịch sử Hoa Kỳ” của Franck L. Schoell (Việt Nam
khảo dịch xã, 1972); “Lịch sử Hoa Kỳ những vấn đề quá khứ” của Irwin Unger (Nxb
Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2009); “Lịch sử dân tộc Mỹ” của Howard Zinn (Nxb Thế
giới, Hà Nội, 2010) đã trình bày các sự kiện liên quan tới nước Mỹ. Vấn đề của tác giả
đang tìm hiểu chỉ được nêu một cách sơ lược.
Tóm lại, qua việc điểm qua những công trình mà chúng tôi tiếp cận được có thể
rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, tại Việt Nam, chủ đề của luận văn được xâu chuỗi trong các công
trình mang tính giáo trình hoặc phần nào được trình bày trong các chuyên khảo. Các
công trình này bước đầu đề cập đến sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ.
Một công trình với tên gọi như đề tài luận văn hầu như vắng bóng trong các tác phẩm
chuyên biệt.
Thứ hai, tại nước ngoài, nhất là Mỹ, chủ đề này được thể hiện hết sức phong
phú với các nguồn sử liệu hết sức có giá trị. Có tác phẩm đề cập một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp tới vấn đề đặt ra. Do tiếp cận cả hai chiều hướng, tức khuynh hướng ủng
hộ và khuynh hướng phản đối nước Pháp can dự vào cuộc chiến tranh giành độc lập
của cư dân Bắc Mỹ nên có sự chằng chéo nhau trong cách trình bày cũng như cách giải
thích các sự kiện. Mặt khác, nhiều sự kiện do cách nhìn nhận chưa thực sự khách quan
nên đánh giá cao về ngoại giao của nước Mỹ.
Mặc dù vậy, các công trình nêu trên đã cung cấp cho tác giả luận văn nhiều tư
liệu có giá trị, giúp người viết có thể hoàn thành công việc đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là khôi phục một cách hệ thống về sự ủng hộ của nước
Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783. Trên cơ sở đó, luận văn làm
rõ các hoạt động nổi bật về chính trị - ngoại giao, tài chính và quân sự từ phía nước
Pháp nhằm giúp đỡ các thuộc địa Bắc Mỹ trong cuộc chiến chống lại thực dân Anh.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, đề tài luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ như sau:
P9
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thứ nhất, hệ thống hóa quá trình nước Pháp ủng hộ cuộc chiến tranh giành độc
lập của cư dân Bắc Mỹ trên cơ sở tư liệu hiện có.
Thứ hai, phân tích những nhân tố bên trong và bên ngoài thúc đẩy nước Pháp
can dự vào cách mạng Mỹ.
Thứ ba, rút ra nhận xét, đánh giá về sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách
mạng Mỹ trong khung thời gian đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu là hoạt động ủng hộ, giúp đỡ của nước Pháp đối với
cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, được thể hiện trên các
lĩnh vực: chính trị - ngoại giao, tài chính và quân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, địa bàn trọng tâm mà luận văn tập trung chủ yếu là Bắc Mỹ và
châu Âu – những nơi thể hiện sự tương tác, kết quả của nước Pháp trong việc tham gia
ủng hộ cách mạng Mỹ. Ngoài ra, khi làm rõ nội dung nghiên cứu, không gian nghiên
cứu còn được mở rộng sang các khu vực khác như: châu Á, quần đảo Antilles thuộc
vùng biển Caribbean.
Về thời gian, mốc mở đầu là năm 1776, cụ thể là 2-5-1776, triều đình nước Pháp
do Louis XVI đứng đầu đã phê chuẩn việc ủng hộ, giúp đỡ cho các thuộc địa Bắc Mỹ;
mốc kết thúc là năm 1783, cụ thể tháng 3-9-1783, nước Mỹ kí kết hòa ước Paris chấm
dứt chiến tranh với Anh. Sự kiện này đồng thời cũng chấm dứt luôn sự ủng hộ của
nước Pháp đối với cách mạng Mỹ. Hai mốc thời gian nêu trên cố nhiên không phải là
sự phân định máy móc, tùy tiện mà không cho phép luận văn đẩy về phía trước hoặc lùi
dần về phía sau khi làm rõ chủ đề nghiên cứu.
5. Các nguồn tư liệu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, luận văn tập trung khai thác và
sử dụng của nguồn tư liệu chủ yếu sau đây:
- Các hiệp ước, công hàm ngoại giao, thư từ trao đổi, hồi ký của Bộ trưởng
Ngoại giao, công sứ của nước Pháp, các đại diện ngoại giao Mỹ ở châu Âu, nhất là tại
Paris và London, thậm chí những bức thư của mật thám Anh mô tả sự ủng hộ của triều
đình Versaille đối với cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Bắc Mỹ. Đây là
P10
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
những tư liệu gốc được in trong các công trình, như: “American Revolution: Primary
Sources” của L. Schmittroth – 2000; “The American Revolution: A History in
Documents” của S.C. Bullock – 2003; “Milestone Documents in American History
(Exploring the Primary Source that Shaped America)” của P. Finkelman, B. A. Lesh –
2008 .v.v…
- Các công trình có phản ánh trực tiếp tới việc ủng hộ của nước Pháp đối với
cách mạng Mỹ, như: “France in the American Revolution” của J.B. Perkins – 1911;
“The French Army in the American War of Independence” của R. Chartrand, F. Back –
1998.
- Các công trình có nội dung phản ánh trực tiếp đến lịch sử ngoại giao của Mỹ,
như: “A Diplomatic History of The United States” của Samuel Bemiss – 1951; “A
History of American Foreign Policy, Vol 1 (Growth to World Power 1700 – 1914)” của
Alexander DeConde – 1979; “The History of American Foreign Policy” của Jerald
Combs và Athur Combs – 1986 và “The Cambridge History of American Foreign
Relations, Vol 1: The Creation of a Republican Empire 1776 – 1865” của Bradford
Perkins – 1993 .v.v...
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình chuyên khảo về lịch sử thế giới,
lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử ngoại giao và các bài nghiên cứu liên quan đến nội
dung đề tài công bố trên các tạp chí chuyên ngành.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Về phương pháp luận: luận văn quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nghiên cứu
khoa học lịch sử. Những quan điểm này được xem là kim chỉ nam trong quá trình xử
lý, hệ thống tư liệu và hình thành luận văn.
- Về phương pháp nghiên cứu: phương pháp nghiên cứu lịch sử là phương pháp
cơ bản để thực hiện đề tài. Theo đó, luận văn vận dụng linh hoạt các phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành: sưu tầm, chọn lọc, phân loại, tổng hợp, so sánh, đối chiếu…
Bên cạnh đó, phương pháp logic cũng được vận dụng. Là đề tài thuộc chuyên ngành
Lịch sử Thế giới nên tác giả còn chú ý tới phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế khi
phân tích và khái quát những vấn đề đặt ra.
P11
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
7. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất, luận văn là công trình đầu tiên ở Việt Nam hệ thống hóa các tài liệu
liên quan tới sự can dự, giúp đỡ trực tiếp của triều đình phong kiến Versailles cho cuộc
đấu tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ.
Thứ hai, luận văn là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên ngành lịch
sử, quốc tế học và học viên cao học chuyên ngành lịch sử thế giới, đồng thời đối với
những ai quan tâm tới vấn đề này.
Cuối cùng, luận văn trong chừng mực nhất định góp thêm dữ liệu, khuyến nghị
cho các cơ quan ban ngành trong việc hoạch định, thực thi đường lối đối ngoại trong
quá trình hội nhập một cách sâu rộng quan hệ quốc tế đương đại.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận (3 trang), tài liệu tham khảo (5 trang) và
phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu trong 3 chương:
Chương 1. Những nhân tố thúc đẩy nước Pháp ủng hộ cách mạng Mỹ từ năm
1776 đến năm 1783 (25 trang)
Chương 2. Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến
năm 1783 (31 trang)
Chương 3. Đặc điểm và tác động về sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách
mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783 (18 trang)
P12
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY NƯỚC PHÁP ỦNG HỘ
CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783
1.1. Khái quát về tình hình nước Pháp
Sau thời kỳ phát triển đỉnh cao của chế độ quân chủ chuyên chế dưới thời vua
Louis XIV (cầm quyền 1661-1715), nước Pháp từng bước lún sâu vào cuộc khủng
hoảng triền miên. Biểu hiện của tình trạng này, trước hết xuất phát từ cung đình.
Người kế vị vua “Mặt trời”, Louis XV (cầm quyền 1715-1774) không mấy
quan tâm tới việc triều chính. Quyền lực trong cung đình, nhà vua phó mặc cho công
tước Philippe d’ Orléans – một cận thần bất tài và vô dụng. Mối quan tâm có tính
thường xuyên của Louis XV là săn bắn và những cô gái mĩ miều.
Để thỏa mãn thú tiêu khiển của mình, nhà vua thường xuyên tổ chức những
cuộc săn bắn dài ngày. Những cuộc vui này tiêu tốn khoản kinh phí lớn trong ngân khố
triều đình. Là một người háo sắc, Louis XV luôn nâng đỡ, sủng ái những người đẹp,
điển hình là hoàng hậu Pompadour và Dubarry. Để mua vui cho các người đẹp, Louis
XV thường tổ chức dạ hội, yến tiệc linh đình và không tiếc tiền của mua sắm những
món quá hậu hĩnh nhằm ban tặng cho họ với món trang sức đắt tiền, nước hoa xa xĩ.
Giá trị những món quà thường lên tới hàng triệu livres. Lối sống đó của nhà vua ảnh
hưởng nhiều tới quần thần bên dưới. Họ là“lũ quần thần dâm dật, xa xĩ, tham ô lãng
phí tiền của nhà nước” [30, tr. 78].
Tình trạng nêu trên khiến cho nền tài chính nước Pháp ngày càng hao hụt dần.
Để khắc phục tình hình đó, một số cận thần trong triều đình kiến nghị cải cách, khuyên
nhủ nhà vua giảm bớt hoạt động ăn chơi, tập trung vào chính sự. Thế nhưng, Louis XV
không thèm đếm xỉa tới. Trong hồi ký của một cận thần phụ trách về Ngoại vụ đã ghi
chép về thái độ của Louis XV như sau: “Khi anh nói với nhà vua về kinh tế và tiết kiệm
trong cung đình, nhà vua liền quay đầu nói chuyện phiếm với quần thần khác” [30, tr.
P13
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
78]. Trái ngược với thái độ bên trong nước Pháp, thực hiện quan điểm của vị vua tiền
nhiệm, Louis XV quan tâm xúc tiến việc nâng cao vị thế của dòng họ Bourbon trên
trường quốc tế mà bằng chứng là can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia
châu Âu phong kiến 1
. Điều đó đẩy nước Pháp lao vào các cuộc chiến tranh không cần
thiết, khiến cho vị thế quốc gia bị suy giảm ở châu Âu lục địa
Năm 1774, Louis XV băng hà. Cháu nội của nhà vua lên ngôi lấy niên hiệu là
Louis XVI (cầm quyền 1774-1793). Thừa hưởng di sản đổ nát từ ông nội, Louis XVI
dưới sự cố vấn của Turgot – Tổng thanh tra tài chính, đã tiến hành một loạt cải cách
với trọng tâm giải quyết nạn thiếu hụt ngân sách 2
. Các nỗ lực đó trong chừng mực
nhất định mang lại hiệu quả tức thời, kích thích sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa
của quốc gia. Thế nhưng, mọi nỗ lực cải cách không thể giải cứu một cách căn cơ mà
ngược lại đẩy nước Pháp rơi vào vòng luẩn quẫn của những mâu thuẫn nội tại giữa quý
tộc – tăng lữ với quần chúng nhân dân – đẳng cấp thứ ba, chiếm đến 90% dân số.
“Tăng lữ phục vụ nhà vua bằng kinh cầu nguyện, quý tộc phục vụ nhà vua bằng cung
kiếm, đẳng cấp thứ ba phục vụ nhà vua bằng tài sản” [16, tr. 22].
Do phải phục vụ nhà vua bằng tài sản thông qua hệ thống thuế má chằng chéo,
dày đặc, quần chúng nhân dân ngày càng trở nên cùng cực. Tình cảnh này diễn ra phổ
biến trong giai cấp nông dân – lực lượng lao động chính của xã hội nước Pháp thời bấy
giờ. Thân phận của họ được mô tả trong đoạn văn nổi tiếng sau đây: “Người ta thấy
một số thú vật dữ tợn, đực và cái, rải khắp các làng xóm, sạm đen, hốc hác và rám
nắng, gắn chặt vào mảnh đất mà chúng đào xới một cách cực kỳ nhẫn nại; hình như
chúng cũng có một giọng nói, và khi chúng đứng lên, người ta thấy chúng có bộ mặt
người; và quả thực chúng là người. Đêm đến chúng rúc vào hang, sống bằng bánh mì
đen, nước lã và rễ cây, nhờ chúng, những người khác khỏi phải gieo, cày và gặt để
sống, và do đó chúng xứng đáng được hưởng thứ bánh mà họ gieo trồng” [16, tr. 30-
1
Vấn đề này sẽ trình bày trong mục 1.2.
2
Năm 1774, nhà vua ban bố cho phép tự do lưu thông lương thực trong cả nước. Năm sau (1775), sắc
lệnh ban hành thay thế lao dịch làm đường thành thuế đường xá, và tất cả các đẳng cấp đều phải đóng
thuế. Năm 1776, nhà vua thủ tiêu chế độ độc quyền rượu, cho tự do mua bán rượu v.v…
P14
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
31]. Điều không phải ngạc nhiên, với tình cảnh như vậy, khắp nơi nông dân đã nổi dậy
đấu tranh. Tâm trạng đó còn lây lan sang cả giai cấp tư sản do việc chính quyền phong
kiến áp đặt những điều phi lý, phá hoại hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
Trong khi chế độ chính trị khủng hoảng thì xã hội của nước Pháp chứng kiến sự
lưu hành, truyền bá của trào lưu tư tưởng mới. Trào lưu Triết học Ánh sáng với những
đại biểu xuất chúng, như: Montesquieu (1689-1755), Voltaire (1694-1778), Jeans
Jacques Rousseau (1712-1778), Denis Diderot (1713-1784) v.v… Hạt nhân của Trào
lưu này dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy lý, lý tính, đề cao tư tưởng trần thế của con
người. Điều quan trọng, những tư tưởng này bắt nguồn từ những thành tựu khoa học kỹ
thuật tiên tiến và tư tưởng triết học tiến bộ của châu Âu thời cận đại. Trào lưu Triết
học Ánh sáng đã lật tẩy những kẻ ngự trị trong ngai vàng, xóa bỏ vầng hào quang thần
thánh của Giáo hội vốn cầm tù nhân dân về mặt trí tuệ trong một thời gian khá dài
trước đó và vạch ra một xã hội tương lai mà con người hướng tới, trong đó nhấn mạnh
triết lý “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”.
Sự thâm nhập của trào lưu Triết học Ánh sáng trong quần chúng nhân dân đang
tràn ngập tư tưởng bất mãn. Tâm trạng của họ được đẩy lên khi cuộc khủng hoảng kinh
tế trong nước, hạn hán, đói, rét… phổ biến khắp nơi. Tất cả dẫn đến cuộc khủng hoảng
xã hội sâu rộng, những cuộc bạo động ở thành thị… là tình cảnh tiêu biểu của nước
Pháp trong thập niên 60-70 của thế kỷ XVIII. Nước Pháp đứng bên bờ vực của một
cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát
triển.
Lịch sử diễn ra đúng theo quy luật của nó.
1.2. Những mâu thuẫn giữa Anh và Pháp trong quan hệ quốc tế
Ngay từ thời điểm giao thời giữa hai thế kỷ XVII - XVIII, chính trường châu Âu
trở nên vô cùng sôi động với ván bài cạnh tranh quyền lực hết sức quyết liệt giữa hai
cường quốc hàng đầu Cựu lục địa: nước Pháp và nước Anh. Mọi diễn biến ngoại giao
tại lục địa châu Âu đều bị cuốn vào dòng xoáy của những giằng co hai bên.
Nước Pháp dưới thời Louis XIV đạt tới trạng thái cực thịnh của chế độ phong
kiến, tìm mọi cách phô diễn sức mạnh ra bên ngoài quốc gia. Mục tiêu cốt lõi của
Louis XIV nhằm nâng cao địa vị của hoàng đế cùng với nước Pháp trên trường quốc tế.
P15
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Để đạt mục tiêu đó, vị “Vua Mặt trời” thi hành chính sách sáp nhập những lãnh thổ
của những quốc gia láng giềng theo nguyên tắc “đường biên giới tự nhiên”. Cơ sở của
nguyên tắc này dựa vào quan điểm của Louis XIV cho rằng, bất kỳ đất đai nào xưa kia
người Franks và người Gaul từng sinh sống đều phải đều phải sáp nhập vào lãnh thổ
nước Pháp [7, tr. 144]. Quan điểm này nhanh chóng được Louis XIV cụ thể hóa bằng
các cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha (1665) và Hà Lan (1688). Kết quả, nước Pháp
chỉ giành lấy những vùng đất lân cận với diện tích nhỏ nằm xung quanh mình 3
. Những
hành động hiếu chiến của Louis XIV không những đụng chạm tới quyền lợi trực tiếp
của vua chúa châu Âu mà còn xung đột một cách căn bản lợi ích của một thế lực đang
lên – nước Anh tư sản.
Trong khi đó, sau cuộc Cách mạng “quang vinh” (1689) dẫn tới sự thiết lập
vững chắc chế độ chính trị phục vụ cho lực lượng lãnh đạo cách mạng – tư sản và quý
tộc mới, nước Anh đang hừng hực quyết tâm “thực hiện một chính sách có hệ thống
nhằm khuyếch trương thương mại và hệ thống thuộc địa” [25, tr. 108] ra toàn bộ châu
Âu và thế giới. Sự vươn ra bên ngoài của chính quyền London tất yếu dẫn tới đụng độ
với triều đình Versaille.
Sự va chạm đầu tiên giữa hai bên thực sự diễn ra trong cuộc Chiến tranh Thừa
kế Tây Ban Nha (1701-1714). Nguyên nhân của cuộc chiến tranh này bắt nguồn từ việc
hoàng đế Tây Ban Nha – Charles II, không có con nối dõi nên nhiều đấng quân vương
ở châu Âu lấy lý do có quan hệ huyết thống hay hôn nhân để đòi thừa kế vương vị.
Trước lúc băng hà, Charles II để lại bản di chúc đề cử cháu nội của Louis XIV là công
tước Philippe d’ Anjou kế thừa ngai vàng nhưng với điều kiện Tây Ban Nha không
được hợp nhất với Pháp. Tháng 11-1700, Charles II lâm chung, công tước d’ Anjou lên
ngôi với niên hiệu Philip V. Đầu năm 1701, Louis XIV tuyên bố Philip V cũng sẽ là
người thừa kế ngôi báu của vương triều Pháp [30, tr. 75]. Do đó, nước Pháp đứng trước
khả năng sẽ sáp nhập Tây Ban Nha vào lãnh thổ quốc gia theo nguyên tắc “đường biên
giới tự nhiên”. Một khi kịch bản này xảy ra cũng đồng nghĩa với việc toàn bộ hệ thống
3
Nước Pháp thu được vùng đồng bằng Frash – Kontai, một số thành phố miền Nam của Netherland và
Strasbourg.
P16
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Âu (các tiểu quốc ở Italia, vùng đất phía Nam
Nederland), khu vực Mỹ latinh và một số phần đất đai nhỏ bé ở châu Phi nằm trong
biên giới nước Pháp.
Dưới nhãn quan của các quốc gia phong kiến châu Âu, nếu kịch bản đó trở
thành hiện thực sẽ phá vỡ thế cân bằng quyền lực – một học thuyết cho rằng bất kỳ một
sự thay đổi nào tại vùng đất châu Âu cũng đe dọa đến sự ổn định của toàn bộ Cựu lục
địa cũng như các vùng đất khác đang phụ thuộc vào nó. Còn với nước Anh tư sản,
nguy cơ đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động thương mại, xuất khẩu hàng hóa sang
các nước khác trong lục địa do vấp phải hàng rào thuế quan của người Pháp đặt ra. Xa
hơn, nước Anh sẽ mất dần việc kiểm soát các đại dương vốn được xác lập từ sau cách
mạng tư sản, từ đó các thuộc địa của Anh dễ dàng rơi vào thế cô lập.
Để chống lại ý đồ của Louis XIV, liên minh các nước châu Âu, bao gồm Anh,
Hà Lan, Áo, Bồ Đào Nha và các tiểu quốc Đức lôi kéo nước Pháp vào cuộc chiến.
Tháng 3-1701, chiến sự giữa hai bên bắt đầu nổ ra và kéo dài tới năm 1714. Cuộc chiến
này theo cách hiểu một số sử gia phương Tây là “chiến tranh thế giới đầu tiên” [3, tr.
613]. Một điều chú ý trong cuộc chiến này, với tư cách một cường quốc tham gia liên
minh chống Pháp nhưng nước Anh không trực tiếp dính líu, không tham gia chiến sự
mà để quân đội của các quốc gia khác trong liên minh chiến đấu hộ mình. Nói cách
khác, chính quyền London muốn “mượn tay” của kẻ khác để hạ gục đối thủ. Nhờ vậy,
nước Anh một mặt đỡ tốn kém chi phí; mặt khác thoải mái hoành hành trên mặt biển
và tạo điều kiện cho kiều dân của họ chiếm cứ các vùng lãnh thổ của nước Pháp nằm
phía bên kia bờ Đại Tây Dương. Về mặt này, thủ tướng Đức – O. Bismarck từng nhìn
nhận: “Chính sách của Anh lúc nào cũng chỉ nhằm tìm ở châu Âu một kẻ ngu ngốc nào
đó chịu chìa lưng ra che chở cho những lợi ích của nước Anh” [25, tr. 108]. Đó là
chính sách thuê “bạn bè” và xúi giục họ đánh kẻ thù của nước Anh. Hay theo nhận
định của Hans Morgenthau – sử gia Mỹ nghiên cứu về quan hệ quốc tế thời cận đại:
“Nước Anh, nước giữ thế cân bằng giỏi nhất… luôn để cho các quốc gia khác chiến
đấu hộ mình, luôn giữ cho châu Âu bị chia rẽ để thống trị lục địa châu Âu và tính chất
bất định trong chính sách nước này làm cho liên minh với Anh là điều không thể” [21,
tr. 24-25].
P17
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Do chiến tranh kéo dài khiến cho các bên tham chiến mệt mỏi. Cuối cùng, các
bên chấp nhận ký hiệp ước hòa bình Utrecht (1713). Theo đó, Philip V vẫn giữ ngôi
vua Tây Ban Nha nhưng phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Pháp. Điều này có nghĩa, sự
sáp nhập lãnh thổ Tây Ban Nha vào nước Pháp sẽ không xảy ra. Nước Pháp buộc thừa
nhận một số vùng đất ở châu Âu nằm dưới sự chiếm đóng của Áo (Bỉ, Milan, Naples,
v.v…) và Anh (Minorque và Gibraltar). Ngoài ra, tại Bắc Mỹ, nước Pháp phải nhượng
cho Anh các vùng đất nằm xung quanh vịnh Hudson, Newfoundland và Acadia [15, tr.
242]. Đây là tổn thất lớn nhất của nước Pháp trong cuộc chiến tranh Thừa kế Tây Ban
Nha và là “đoạn mở đầu cho quá trình thủ tiêu của các lãnh địa Pháp ở Bắc Mỹ” [25,
tr. 105]. Ngược lại, đối với Anh, cuộc chiến đã mở ra thời kỳ quốc gia này “chiếm ưu
thế hoàn toàn trên mặt biển” [25, tr. 105].
Bị thua thiệt so với Anh, đồng thời không thể xác lập trật tự tại châu Âu theo ý
muốn, nhất là danh dự và uy tín giảm sút, triều đình Versaille kể từ sau khi vua Louis
XIV băng hà (1715) vẫn tiếp tục nuôi tham vọng “lật ngược tình thế”. Tham vọng này
được nước Pháp thể hiện vừa trên lục địa vừa trên mặt biển.
Tại lục địa châu Âu, Louis XV - người kế vị Louis XIV, tập hợp lực lượng để
tìm mọi cách cô lập nước Anh. Bằng chứng là, nước Pháp bắt đầu kết thân với nước
Áo – đối thủ truyền kiếp của họ trong quá khứ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đây là
“sự đảo lộn khối đồng minh”. Để đảm bảo cho liên minh này bền chặt, Louis XV ủng
hộ Nữ hoàng Maria Theresa trong việc đòi lại vùng Silesia giàu có vốn bị mất vào tay
Phổ trong cuộc Chiến tranh Thừa kế Áo (1740-1748). Lo sợ liên minh Pháp – Áo đánh
mình, hoàng đế Phổ - Frederick II ký hiệp ước liên minh với vua nước Anh - George II
(1-1756). Hiệp ước quy định, Phổ có trách nhiệm bảo vệ các lãnh địa của vua Anh ở
Hanover, đồng thời cả Anh và Phổ “cam kết sẽ duy trì nền hòa bình ở Đức và sẽ cầm
vũ khí chống lại bất kỳ cường quốc nào vi phạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ của nước
Đức” [25, tr. 115]. Ngoài ra, hiệp định nêu rõ, Anh hổ trợ vũ khí cho Phổ trong trường
hợp bị Pháp – Áo tấn công.
Hành động của Phổ gây nên sự căm phẫn đối với Nữ hoàng Áo và hoàng đế
Pháp. Quan hệ giữa Pháp – Áo với Phổ - Anh ngày càng căng thẳng, bên bờ vực chiến
P18
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tranh. Đây được xem là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiến tranh Bảy năm
(1756-1763).
Cùng với việc triển khai tập hợp lực lượng trên lục địa, nước Pháp ra sức phát
triển tiềm lực trên mặt biển với việc tăng cường nâng đỡ ngành hàng hải, xây dựng các
hạm đội mạnh và phát triển kho vũ khí (năm 1756, hạm đội của Pháp gần như ngang
sức với hạm đội Anh [24, tr. 109]). Mỗi bước phát triển trên mặt biển của người Pháp
cũng đồng thời với việc mở rộng xâm chiếm thuộc địa. Tại châu Mỹ, trên cơ sở các
khu định cư được thiết lập ở Canada vào thế kỷ XVI, người Pháp bắt đầu đẩy nhanh
quá trình thuộc địa hóa khu vực Bắc Mỹ. Từ những chuyến thám hiểm của Joliet và La
Salle cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII, người Pháp xác lập chủ quyền của họ ở các
thảo nguyên miền Tây và thung lũng sông Mississippi. Vùng lãnh thổ này sau đó được
đặt tên là Louisiana để tỏ lòng tôn kính đối với vua Louis XIV. Năm 1718, New
Orleans được thành lập và nhanh chóng trở thành một đầu mút quan trọng của tuyến
đường chiến lược phía Nam từ vịnh Mexico tiến dọc theo sông Mississippi đi vào sâu
các vùng lãnh thổ nội địa Bắc Mỹ. Cũng trong thời gian này, người Pháp còn tuyên bố
quyền sở hữu của họ trên toàn bộ vùng phía Tây dãy Appalachian. Có thể nói rằng, vào
nửa đầu thể kỷ XVIII, “nước Pháp mới” (New France) ở Bắc Mỹ là một vùng hết sức
rộng lớn, trong đó bao gồm nhiều lãnh thổ màu mỡ ở phía Tây dãy Appalachian.
Sự phát triển quá nhanh chóng về diện tích của các thuộc địa Pháp khiến cho
người Anh vô cùng nghi kỵ, bởi họ cũng đang trong quá trình mở rộng đất đai ở Bắc
Mỹ. Cho đến nửa đầu thế kỷ XVIII, người Anh đã thiết lập ở đây được 13 thuộc địa.
Những tuyên bố sở hữu ngày càng nhiều của người Pháp đối với các vùng đất dọc theo
sông Mississippi và các vùng lân cận đã gần như tạo ra vành đai kiềm chế quá trình mở
rộng đất đai của các thuộc địa Anh về phía Tây. Mặt khác, mối quan hệ tốt đẹp giữa
nước Pháp với người Mỹ bản địa thực sự là mối đe dọa trực tiếp đến sự an toàn của tất
cả thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ.
Tại Ấn Độ, Công ty Đông Ấn Pháp được sự hậu thuẫn của các thủ lĩnh địa
phương tìm cách bành trướng lãnh thổ. Kết quả, Pondichery, Calicut đặt dưới sự quản
lý của Pháp. Sự bành trướng của Pháp tại tiểu lục địa này khiến cho các thương điếm
P19
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
của Anh ở Madras, Calcutta và Bombay thuộc quyền quản lý của Công ty Đông Ấn
Anh bị đặt trong tình trạng mất an ninh, có nguy cơ bị xóa sổ.
Trước sự bành trướng mạnh mẽ của Pháp ở thuộc địa cũng như đòn ngoại giao
khiêu khích, gây hấn một cách chủ động nhằm vào đồng minh của mình (Phổ) tại lục
địa châu Âu, chính quyền London bắt đầu có những động thái đáp trả, bởi dưới quan
điểm của họ “thời buổi quan hệ hữu hảo với kẻ láng giềng hay quấy nhiễu đã qua”
[25, tr. 108]. Nước Anh dưới thời thủ tướng William Pitt (cầm quyền 1756-1761) đã
tiến hành cổ xúy, quyết đấu không khoan nhượng chống lại nước Pháp. Là người đại
diện cho lợi ích thương nghiệp, W. Pitt chủ trương bành trướng hải ngoại, phản đối
việc trói buộc lợi ích nước Anh vào bất kỳ quyền lợi của các quốc gia châu Âu lục địa
nào, mở rộng thuộc địa, xây dựng đế quốc hải ngoại [6, tr. 174].
Vốn đã ra mặt gây chiến chống Pháp từ sau Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha,
từ giữa thập niên 50 của thế kỷ XVIII, chiến hạm Anh công khai săn đuổi tàu buôn
Pháp. Năm 1755, chỉ trong vòng một tháng, tàu chiến Anh đã bắt 300 tàu buôn Pháp
cùng 8.000 thủy thủ [25, tr. 114]. Trước hành động của Anh, Louis XV lên tiếng phản
đối và đòi trừng phạt những kẻ phạm tội. Không những đáp ứng theo yêu cầu của
Louis XV, nước Anh còn bắt giữ thêm 2 chiến hạm của Pháp. Để trả đũa, năm 1756,
nước Pháp tuyên chiến với Anh. Chiến tranh kéo dài từ năm 1756 tới năm 1763, lịch sử
gọi đây là Chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Cuộc chiến này nhanh chóng lôi kéo
đồng minh của mỗi bên vào cuộc. Một bên là Pháp – Áo, bên kia là Anh – Phổ. Chiến
trường chính diễn ra ở châu Âu, Bắc Mỹ, Ấn Độ và trên các đại dương.
Giống như trong cuộc Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha (1701-1714), tại chiến
trường châu Âu, chính quyền London tiếp tục chính sách “thuê bạn” để làm suy yếu
nước Pháp. Bằng cách chu cấp tiền bạc hậu hĩnh và vũ khí cho Phổ, nước Anh để tiểu
quốc này chống chọi với quân đội Pháp trên đất liền. Để phần nào hạn chế sức mạnh
đối phương, nước Anh còn tiến hành phong tỏa bờ biển nước Pháp, thả mìn các hải
cảng và phá các cầu tàu. Những việc làm của Anh có tác dụng kìm hãm chân nước
Pháp trên các chiến trường châu Âu để từ đó người Anh hoàn toàn rãnh tay tập trung
vào các mục tiêu chính của mình là các thuộc địa. Năm 1759, người Anh chiếm trọn
Canada và một số vùng đất ở Ấn Độ vào năm 1761.
P20
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Do vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Anh trên khắp các mặt trận, quân
đội Pháp nhanh chóng bị thất bại. Đến đầu năm 1763, chiến sự chấm dứt với sự thất bại
hoàn toàn của nước Pháp. Nguyên nhân của tình trạng này, xuất phát từ “tổ chức yếu
kém, kỷ luật vô nguyên tắc và sự lạm dụng khiếm nhã dẫn đến một loạt thất bại trong
cuộc chiến tranh Bảy năm” [25, tr.14]. Tháng 2-1763, hiệp ước Paris được ký kết.
Theo đó, tại Bắc Mỹ, nước Pháp nhượng Canada, Nova Scotia, Cape Breton, Florida
cho Anh. Ngoài ra, Pháp buộc phải chuyển giao Louisiana cho Tây Ban Nha theo yêu
cầu của Anh (xem phụ lục 1). Tại tiểu lục địa Ấn Độ, hiệp ước Paris cũng quy định,
nước Pháp không có quân đội và pháo đài ở Bengal, đồng thời thừa nhận sự ủng hộ của
người Anh đối với các bộ lạc ở Carnatic và Deccan [58, tr. 164].
Có thể khẳng định rằng, hiệp ước Paris đánh dấu sự kết thúc, “dấu chấm hết”
cho quá trình xóa sổ quyền sở hữu thuộc địa của Pháp ở Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nước Pháp
lặng lẽ rời khỏi “cuộc chơi” với tâm trạng đầy cay đắng, tủi nhục, nhường lại quyền
đạo diễn sân khấu quyền lực cho nước Anh. Không những vậy, sau năm 1763, nước
Pháp bị đẩy xuống địa vị cường quốc hạng hai [30, tr.79]. Vai trò chi phối chính
trường châu Âu không còn nằm trong tay người Pháp. Bằng chứng là, một số nước
quân chủ châu Âu (Phổ, Áo và Nga) không tham khảo ý kiến của nước Pháp trong việc
phân chia Ba Lan [19, tr. 61]. Quyền “minh chủ” của Pháp trên lục địa châu Âu không
có ý nghĩa đối với những quốc gia khác. Chính vì điều này, sự uất hận của chính giới
Pháp dành cho người Anh mãi mãi trở thành ký ức sâu thẳm, không bao giờ phôi phai.
Một cơ hội phục thù người Anh luôn được người Pháp trông chờ. Điều cần phải nói
thêm rằng, những cuộc chiến tranh giữa Anh – Pháp trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ
XVIII kết thúc với “những thủ đắc lãnh thổ được xem như những thẻ nhựa dùng thay
tiền trong các sòng bạc mà các nhà lãnh đạo phải thu hoặc gom được tùy theo may rủi
của chiến tranh, không chút quan tâm đến lợi ích của người dân” [3, tr. 569].
1.3. Chiến tranh giành độc lập của cư dân Mỹ
Việc Columbus phát hiện ra châu Mỹ (1492) đã mở ra quá trình di dân ồ ạt từ
châu Âu sang Bắc Mỹ trong suốt 3 thế kỷ (XVI – XVIII). Trong khi người Tây Ban
Nha sớm hoàn thành việc định cư ở Trung và Nam Mỹ, thì những di dân người Anh lại
đặt chân lên vùng đất Bắc Mỹ vào những thập niên đầu thế kỷ XVII, thiết lập khu định
P21
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cư đầu tiên ở Jamestown (Virginia). Năm 1607 có khoảng 100 người, đến năm 1624 có
14.000 người di trú ở vùng Bắc Mỹ [24, tr. 18]. Số người Anh đến định cư ngày càng
đông và lan rộng ra nhiều vùng đất ven bờ Đại Tây Dương. Đến năm 1752, chính
quyền Anh đã thành lập ở đây được 13 thuộc địa 4
với dân số 1.171.000 người 5
[37,
tr. 67]. Các cộng đồng cư dân từng bước hình thành bao gồm người bản địa – Indian,
người Âu da trắng, người Phi da đen. Họ sinh sống trên cùng một vùng lãnh thổ, có sự
giao lưu về kinh tế và văn hóa dần dần dẫn đến có tâm lí chung của những người đi
khai phá lập nghiệp ở những miền xa xôi, gian khổ, song người Anh chiếm đa số nên
cộng đồng cư dân đã lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính. Một điều dễ dàng nhận thấy
rằng, các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ mặc dù chịu sự quản lý của mẫu quốc nhưng
vẫn ngày càng lớn mạnh, nhất là trên phương diện kinh tế. Điều này khiến cho cư dân
ở đây nhận thức rằng “sức mạnh và sự thịnh vượng của đế chế Anh phụ thuộc đáng kể
vào việc nước Anh sở hữu vùng đất ở Bắc Mỹ và ngày càng to lớn hơn trong tương
lai” [34, tr. 61].
Những yếu tố trên gắn kết những thế hệ cư dân tiếp nối thành một cộng đồng
mang tính dân tộc, ngày càng xa rời quê hương ban đầu của cha ông họ. Điều quan
trọng hơn là những lợi ích về chính trị và kinh tế càng thúc đẩy họ gắn bó với nhau và
càng khát khao tách khỏi sự ràng buộc với nước Anh, bởi họ chỉ được xem như công
dân thuộc địa của Vương quốc. “Sự tự nhận là thuộc địa của đế chế Anh có lẽ được
xem như bằng chứng cho ý thức chậm phát triển của cư dân Mỹ” [34, tr.61].
Cho đến giữa thế kỷ XVIII, quan hệ giữa chính quốc với thuộc địa không còn
“xuôi chèo mát mái” như trước. Về phía các thuộc địa Bắc Mỹ, sau thắng lợi của Anh
trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756-1763), Pháp buộc phải từ bỏ chủ quyền đất đai
tại Bắc Mỹ. Mối đe dọa của Pháp đối với cư dân Bắc Mỹ bị đẩy lùi, họ thấy không còn
4
Bao gồm các thuộc địa: Connecticut, Delaware, Georgia, Maryland, Massachusetts, New Jersey, New
York, New Hamphsire, North Carolina, Pennsylvania, Rhode Island, South Carolina, Virginia.
5
Quá trình di cư của người Anh sang Bắc Mỹ trong các thế kỷ XVII - XVIII là hệ quả của những biến
động kinh tế - xã hội. Thứ nhất, việc tước đoạt đất đai của người nông dân diễn ra hàng loạt trước,
trong và sau cách mạng tư sản Anh; thứ hai, thứ hai, sự bất đồng chính kiến giữa nhà vua với một bộ
phận quý tộc mới và tư sản; thứ ba, sự đàn áp tôn giáo của vua Anh đối với các tín đồ Thanh giáo.
P22
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cần đến sự giúp đỡ của chính quốc. Mặt khác, trong cuộc chiến tranh giữa Anh với
Pháp, các thuộc địa đã thành lập các đội dân quân. Các đội dân quân này đã thực sự
trưởng thành qua chiến đấu bên cạnh quân Anh. Do vậy, các thuộc địa cho rằng họ đủ
khả năng tự vệ mà không cần đến sự hiện diện của quân đội mẫu quốc.
Về phía nước Anh, thời điểm Chiến tranh Bảy năm kết thúc cũng là lúc chính
quyền London từ bỏ chính sách “sao lãng” đối với các thuộc địa Bắc Mỹ vốn duy trì
một thời gian dài trước đó (chính sách này được các thuộc địa gọi là “chính sách sao
lãng có lợi” (the policy of salutary neglect) [55, tr. 21]. Sự thay đổi này trong chính
sách cai trị thuộc địa của chính quyền London xuất phát từ hai lý do sau:
Thứ nhất, với Hiệp ước Paris 1763, diện tích thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ đã được
mở rộng rất nhiều, vấn đề đặt ra là đòi hỏi mẫu quốc cần phải hoạch định một chính
sách thuộc địa cẩn thận, rõ ràng hơn để đảm bảo những vùng đất mới sáp nhập có thể
nhanh chóng ổn định về mặt quản lí và phát triển theo đúng quỹ đạo của đế quốc Anh.
Thứ hai, dù cho với tư cách là người thắng trận trong cuộc chiến với Pháp,
nhưng Anh vẫn gặp phải nhiều khó khăn, nhất là về mặt kinh tế. Các khoản tiền vay nợ
của chính phủ đối với người dân trong nước để có kinh phí tham chiến với Pháp ngày
càng chồng chất, đè nặng lên vai họ. Theo thống kê, một năm trước lúc chiến tranh Bảy
năm nổ ra (1755), số tiền nợ là 72.289.673 bảng Anh; năm 1764, một năm sau khi
chiến tranh kết thúc, số tiền nợ đã lên tới 129.586.789 bảng Anh [66, tr. 31]. Để bù đắp
di sản của chiến tranh, chính quyền London xiết chặt cai trị ở các thuộc địa Bắc Mỹ.
Chính quyền Anh, một mặt biến các thuộc địa thành thị trường dành riêng cho các chế
phẩm của chính quốc; mặt khác lại áp dụng một loạt các loại thuế đi ngược lại quyền
lợi của cư dân Bắc Mỹ. Các loại thuế này được biết dưới cái tên “Thuế không cần đại
diện” 6
, gồm “Đạo luật đường” (1764);“Đạo luật tiền tệ” (1764); “Đạo luật Binh bị”
(1765) và “Đạo luật thuế tem” (1765).
6
“Thuế không cần đại diện” (Taxation without the representation) là khái niệm do các thuộc địa Bắc
Mỹ đưa ra vì các khoản thuế được chính phủ Anh thông qua mà không có sự tham khảo hoặc không có
sự đồng ý của các đại biểu tham gia trong hội đồng đại diện các thuộc địa. Trước thời điểm loại thuế
này ra đời, bất kỳ đạo luật nào chính phủ London thi hành tại các thuộc địa Bắc Mỹ đều phải được Hội
đồng đại diện các thuộc địa phê chuẩn.
P23
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Bằng phương pháp đánh “Thuế không cần đại diện”, chính quyền Anh “nhanh
chóng thu được một khoản thu nhập gấp mười lần từ các thuộc địa so với trước năm
1763” [10, tr. 135]. Ngược lại, đối với các thuộc địa, việc chấp hành các đạo luật nêu
trên trở thành áp lực đối với cư dân Bắc Mỹ. Giới thương nhân miền Bắc phải chịu
đựng những hạn chế đối với hoạt động thương mại, như: việc cấm không được tiếp tục
khai thác các khu đất miền Tây và buôn bán lông thú hoặc việc hạn chế các cơ hội mở
rộng các ngành chế biến. Với món nợ nặng lãi với các thương nhân Anh, các điền trang
miền Nam không có khả năng làm giảm các khoản nợ của mình bằng việc khai khẩn
các vùng đất miền Tây. Tầng lớp tiểu nông, một lực lượng khá đông đảo tại các thuộc
địa phải chịu hậu quả nặng nề của việc cấm phát hành tiền giấy – vốn là nguồn cung
cấp các khoản vay chính của họ. Công nhân thì phải đương đầu với cơ hội việc làm
ngày càng hạn chế do chính quốc không cho phép phát triển các ngành công nghiệp
chế biến.
Nhìn chung, tất cả tầng lớp nhân dân thuộc địa đều phải chịu đựng các đạo luật
về thuế mà chính quốc ban hành. Mặc dù, hầu hết cư dân thuộc địa cố gắng tìm cách
thích ứng với những đạo luật mới nhưng sự bất bình về chính trị của họ rất lớn. Những
cư dân thuộc địa vốn đã quen với sự tự do mà họ có được từ các cơ quan đại diện địa
phương. Họ tin rằng các hội đồng đại diện của các thuộc địa có đầy đủ quyền để quản
lý các khoản ngân sách dành cho chi phí của Chính phủ thuộc phạm vi các thuộc địa.
Vì vậy, với việc tìm cách bỏ qua các hội đồng đại diện chung và tăng mức thu trực tiếp
từ người dân, Chính phủ Anh đã tạo nên một thách thức lớn đối với quyền lực chính
trị. Bởi dưới nhãn quan của cư dân thuộc địa, việc một Nghị viện không phải của họ
thông qua một cách không công khai các quyết định về quyền lợi và của cải của họ là
điều không chấp nhận được. Trong tất cả các đạo luật thì “đạo luật thuế tem đã trở
thành điểm mấu chốt trong mâu thuẫn lớn dẫn đến việc các thuộc địa Mỹ tự tách khỏi
Anh quốc” [10, tr.135].
“Đạo luật thuế tem” gây ra phản ứng dữ dội của nhân dân thuộc địa. Một phong
trào chống đối diễn ra đồng loạt ở 13 thuộc địa Bắc Mỹ. Các hội kín của quần chúng ra
đời nhằm liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng. Điển hình nhất là “Hội những
P24
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
người con tự do”. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, chính quyền Anh bãi bỏ
đạo luật Thuế tem vào năm 1766.
Tuy vậy, một năm sau, tức năm 1767, Bộ trưởng Ngân khố Anh – Charles
Yownshend, chủ trương xây dựng chương trình thuế khóa mới nhằm giảm gánh nặng
thuế ở trong nước bằng việc phát triển thu thuế từ ngành thương mại tại các thuộc địa.
Theo đó, các đại luật Townshend được ban hành với nội dung áp đặt lên các thuộc địa
những thứ thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng của Anh như giấy, thủy tinh, chì, chè.
Phong trào tẩy chay (sử dụng các sản phẩm khác thay thế sản phẩm nhập khẩu) rộng
rãi và hiệu quả cùng những vụ phản đối bằng bạo lực thường xuyên diễn ra ở các thuộc
địa đã khiến cho Nghị viện Anh năm 1770 buộc phải lùi bước và quyết định hủy bỏ các
đạo luật thuế Towshend. Phong trào ở thuộc địa sau đó có vẻ đã lắng xuống nhưng sự
bất bình với chính quốc không vì thế mà mất đi bởi tâm trạng này không chỉ xuất hiện
trong vấn đề thương mại mà còn xuất hiện trong những vấn đề khác nữa.
Cùng với đạo luật thuế, chính sách của thực dân Anh đã đẩy sự bất mãn của cư
dân thuộc địa lên thêm một bước trong vấn đề mở rộng vùng khai hoang phía Tây dãy
Appalachian. Rõ ràng khi tham gia chiến tranh chống Pháp cùng với chính quốc Anh,
các thuộc địa kỳ vọng sẽ gặt hái được nhiều quyền lợi nhất, trong đó quyền lợi mở rộng
vùng định cư về phía Tây được hết sức quan tâm bởi dân số thuộc địa phát triển nhanh
khiến nhu cầu về đất đai sinh sống ngày càng lớn (trong thập niên 60 của thế kỷ XVIII,
tổng số dân thuộc địa khoảng 1.594.000 người – gấp hơn 6 lần kể từ năm 1700) [37, tr.
67]. Thế nhưng ngay sau khi giành thắng lợi, năm 1763, người Anh lại ban hành đạo
luật cấm dân thuộc địa không được tự do di dân và chiếm đất đai ở phía Tây dãy
Appalachian. Điều này có nghĩa, chính phủ Anh đã đi ngược lại hoàn toàn lợi ích sinh
tồn của các thuộc địa ở không gian phía Tây.
Những biện pháp nêu trên đã khơi sâu mâu thuẫn giữa nhân dân các thuộc địa
Bắc Mỹ với nhà nước thực dân Anh, đồng thời phản ánh nguyện vọng của nhân dân
Bắc Mỹ muốn thoát khỏi chế độ cai trị thực dân Anh để tuyên bố thành lập một quốc
gia độc lập.
Điều cần phải nói thêm rằng, tâm lý muốn li khai của các thuộc địa Bắc Mỹ diễn
ra trong bối cảnh các trào lưu tư tưởng Khai sáng vốn có nguồn gốc từ châu Âu, đang
P25
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thịnh hành trong dân chúng. Tư tưởng Khai sáng được chấp nhận rộng rãi nhất là học
thuyết của John Locke, thể hiện rõ trong tập sách “Khảo luận về chính phủ” xuất bản
năm 1690. Hạt nhân của học thuyết J. Locke là khái niệm chính phủ 7
. Tư tưởng này
được cư dân thuộc địa tiếp thu và biến nó trở thành vũ khí lý luận chống lại vua Anh.
Để chống lại chính quyền Anh, đêm 16-12-1773, khi ba chiếc tàu Anh chở chè
đang bỏ neo ở cảng Boston, một nhóm người do Sammuel Adams dẫn đầu, cải trang
thành người da đỏ leo lên tàu, đổ toàn bộ 343 thùng chè trị giá 100.000 bảng Anh
xuống biển. Hành động này đã nhận được sự tán thưởng của nhân dân các thuộc địa.
“Sự kiện chè Boston” đã trở thành ngòi nổ làm bùng phát cuộc Chiến tranh giành độc
lập của nhân dân Bắc Mỹ.
Phản ứng “Sự kiện chè Boston”, Quốc hội Anh lập tức thông qua các đạo luật
Đạo luật Bất khoan dung (Intolerable Acts) 8
nhằm trừng trị cư dân Bắc Mỹ. Động thái
cứng rắn của chính quyền London đã làm cho mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa
trở nên hết sức căng thẳng.
Theo đề nghị của thuộc địa Massachusetts, từ ngày ngày 5-9 đến 26-10-1774,
Đại hội lục địa lần thứ nhất diễn ra ở Philadelphia. Mục đích Đại hội là nhằm biểu lộ ý
chí cách mạng của cư dân thuộc địa. Tại Đại hội, 56 đại biểu của 12 thuộc địa (trừ
Georgia) ra Nghị quyết “Về quyền của người dân lập nghiệp ở thuộc địa; về sự sống,
tự do và tài sản; về quyền của cơ quan lập pháp địa phương được xác định toàn bộ các
trường hợp đánh thuế và hình thức nhà nước nội bộ; thành lập Hiệp hội lục địa đóng
vai trò của tổ chức lãnh đạo các thuộc địa xóa bỏ những tàn dư của chính quyền
Hoàng gia” [24, tr. 19]. Nghị quyết lập tức nhận được sự hưởng ứng của các tầng lớp
7
Theo J. Locke, nhà nước có nhiệm vụ cao cả trong việc bảo vệ sự sống, tự do và quyền tư hữu của
công dân. Quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân và nhân dân ủy quyền cho chính phủ đứng ra
bảo vệ quyền lợi của họ. Trong trường hợp chính phủ vi phạm các quyền tự nhiên của người dân, họ sẽ
là người có quyền bãi nhiệm chính quyền đã được bầu chọn.
8
Hải cảng Boston bị phong toả và chỉ hoạt động trở lại khi hoàn lại đủ giá trị thùng chè bị phá huỷ;
hiến chương xứ Massachusetts được sửa đổi để tăng cường quyền hạn của thống đốc; tướng Thomas
Gage – Tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ, được cử làm Thống đốc xứ Massachusetts và được toàn
quyền thi hành các đạo luật [1, tr. 27].
P26
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhân dân 13 thuộc địa, từ những người nghèo, các nhà doanh nghiệp, các chủ đồn điền
cho đến trại chủ và giới trí thức. Đại hội lục địa lần thứ nhất được xem như là biểu
tượng cho khát vọng độc lập và thống nhất của các thuộc địa trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung là thoát khỏi sự thống trị của thực dân Anh.
Quốc hội Anh không đáp ứng một yêu cầu nào của Đại hội lục địa, trái lại càng
gia tăng ách áp bức hơn trước bằng việc ban hành một loạt các đạo luật mới, như cấm
các thuộc địa Bắc Mỹ buôn bán trực tiếp với các nước khác, cấm ngư dân đánh cá ở
ven biển, cấm sản xuất hàng công nghiệp, cấm xây dựng nhà máy luyện sắt, cấm mở
doanh nghiệp v.v... Chính sách của chính quyền Anh đã làm cho quan hệ giữa chính
quốc và thuộc địa trở nên căng thẳng. Chính phủ Anh tăng cường quân đội sang Bắc
Mỹ và thi hành nhiều chính sách nghiêm ngặt. Ở các thuộc địa Bắc Mỹ, nhân dân với
khí thế sôi sục, họ quyết tâm đấu tranh đòi tách khỏi sự khống chế của Anh.
Ngày 19-4-1775, quân Anh tiến đánh chiếm kho vũ khí của nhân dân ở
Lexington, xả súng bắn vào 70 chiến sĩ thuộc tổ chức “Những người Một phút” và
“tiếng súng vang khắp hành tinh này” (theo cách gọi của nhà thơ Ralph Waldo
Emerson) đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến đấu ở Massachusetts và sau đó lan rộng đến
các thuộc địa khác. Lần đầu tiên, cuộc đấu tranh của nhân dân Bắc Mỹ chống Anh đã
đổ máu.
Với trận Lexington, các thuộc địa hiểu rằng chiến tranh đã bắt đầu. Trong vòng
20 ngày, một tinh thần ái quốc và đoàn kết của các thuộc địa trỗi dậy mạnh mẽ. Trong
bối cảnh đó, ngày 10-5-1775, Đại hội lục địa lần thứ hai được triệu tập tại Philadelphia.
Tham dự đại hội có một số nhân vật nổi tiếng, như: John Hancock, Thomas Jefferson,
Benjamin Franklin v.v... Đại hội quyết định thành lập quân đội lục địa do Đại tá
George Washington làm Tổng tư lệnh. Quân đội thuộc địa với tên gọi “Những kẻ nổi
loạn”.
Ngày 17-6-1775, tại Boston, trận giao chiến xảy ra giữa quân Anh và quân đội
thuộc địa Bắc Mỹ. Kết quả là bộ binh Anh bị tổn thất đến 1.000 người. Ngày 4-7-1776,
trong lúc chiến sự diễn ra ác liệt, Đại hội lục địa lần thứ hai đã thông qua bản Tuyên
ngôn độc lập.
P27
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tuyên ngôn lên án các tội ác của chế độ thực dân Anh mà kẻ đại diện là nhà vua
và “trịnh trọng công khai và tuyên bố rằng các thuộc địa liên minh với nhau này đã và
có quyền phải là Quốc gia Tự do và Độc lập” [24, tr.21]. “Quốc gia Tự do và Độc
lập” này từ bỏ mọi sự trung thành với nhà vua Anh, xóa bỏ những liên hệ chính trị với
nước Anh, có quyền tiến hành chiến tranh, kí kết hiệp ước hòa bình, xây dựng liên
minh, thiết lập quan hệ thương mại và thực thi mọi công việc của một quốc gia có chủ
quyền. Cùng với bản Tuyên ngôn độc lập là sự ra đời một quốc gia mới ở lục địa châu
Mỹ với tên gọi “The United States of America” (thường gọi là Hoa Kỳ hoặc Mỹ). Có
thể khẳng định rằng Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện tiến bộ không chỉ có ý nghĩa
khai sinh ra một quốc gia độc lập mới mà còn bày tỏ những triết lí sâu sắc về quyền tự
do của con người. Bản Tuyên ngôn đã cũng cố cho mỗi người dân Mỹ một niềm tin
mãnh liệt rằng sự tranh đấu vì nền độc lập của nước Mỹ cũng là sự tranh đấu vì quyền
tự nhiên của mỗi con người. Mặt khác, với Tuyên ngôn độc lập, người Mỹ đã có một cơ
sở rõ ràng hơn để tìm kiếm nguồn viện trợ cũng như đồng minh chiến đấu từ bên ngoài
mà chủ yếu là các quốc gia châu Âu lục địa, bởi dưới nhãn quan của các lãnh đạo cách
mạng Mỹ thì “không một nước nào ở châu Âu sẽ chịu ký hiệp ước hay buôn bán với
chúng ta (nước Mỹ - TG chú thích) chừng nào chúng ta còn nhận mình là thần dân của
nước Anh” [55, tr. 19].
Sau khi tuyên bố lập quốc, nhân dân Mỹ phải tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh
quyết liệt giành độc lập trong một hoàn cảnh không thuận lợi. Chiến tranh kéo dài thêm
sáu năm nữa với một số thất bại trong giai đoạn đầu nhưng cuối cùng quân đội thuộc
địa đã giành được thắng lợi lớn ở trận Yorktown (19-11-1781). Với chiến thắng này,
quân Anh buộc phải hạ khí giới, chấp nhận đầu hàng. Hai năm sau, tức năm 1783, Hiệp
ước Paris được ký giữa Anh và Mỹ. Anh buộc phải thừa nhận nền độc lập của nhân
dân Bắc Mỹ.
Như vậy, cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Bắc Mỹ đã buộc nhà
cầm quyền Anh thừa nhận nền độc lập của Hợp Chúng quốc Mỹ như đã nêu rõ trong
bản Tuyên ngôn độc lập (4-7-1776). Đây là cuộc cách mạng tư sản với mục tiêu giải
phóng dân tộc. Thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh giành độc lập nhân dân Bắc Mỹ
có ý nghĩa lớn trong lịch sử. Theo C. Mác, “cuộc Chiến tranh giành độc lập của nhân
P28
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
dân Bắc Mỹ là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với giai cấp tư sản châu Âu, trước hết đã
góp phần thúc đẩy cuộc Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ vào cuối thế kỷ XVIII” [7, tr.
109]. Mặt khác, nó có tác dụng cổ vũ phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ latinh
chống lại ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong thời gian tiếp
theo.
1.4. Cách mạng Mỹ với việc tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế
Một thực tế cần bàn, thời điểm chiến sự nổ ra giữa cư dân Bắc Mỹ với quân đội
Anh (4-1775), phần lớn các thuộc địa ở đây vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối
đầu với mẫu quốc. Tâm trạng dè dặt, chưa muốn ly khai khỏi chính quốc vẫn lưu hành
khá rộng rãi trong cư dân cũng như đối với các đại biểu tham gia Đại hội lục địa. Mặt
khác, một bộ phận dân cư vẫn còn nặng tư tưởng bi quan về cuộc chiến với nước Anh,
bởi họ nhận thức rằng việc đối đầu với thế lực có tiềm lực quân sự hùng mạnh nhất thế
giới lúc bấy giờ chẳng khác nào đẩy các thuộc địa lâm vào tình thế “trứng chọi với
đá”. Điều tất yếu, sự thất bại nằm trong dự báo của họ. Chính vì những quan điểm như
vậy khiến cho các đại biểu tham gia Đại hội lục địa lần thứ hai chưa tính đến việc kêu
gọi sự giúp đỡ, viện trợ bên ngoài cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của họ, bởi điều
này sẽ dẫn tới khả năng phá vỡ mọi nỗ lực đàm phán, thương lượng với chính quyền
London.
Mặt khác, những đại biểu tham dự Đại hội lục địa lần thứ hai vốn có gốc gác, tổ
tiên từ Cựu lục địa nên chính họ cũng thấu hiểu phần nào tâm lý nghi ngại, khéo léo
che dấu bằng hành động một cách lạnh lùng của các triều đình phong kiến châu Âu
trước thực tế của một cuộc đấu tranh diễn ra trong nội bộ đế chế Anh. Đó là chưa kể tới
những nhà ngoại giao châu Âu có tư tưởng giảo hoạt, dễ dàng thay đổi trong mọi tình
huống. Do đó, Đại hội lục địa không mấy hào hứng trong việc tìm kiếm viện trợ đến từ
phía bên kia Đại Tây Dương. Không một ai trong Đại hội lục địa có thể khẳng định
chắc chắn rằng những quốc gia phong kiến châu Âu trước kia vốn thù địch với cư dân
Bắc Mỹ (với tư cách thuộc địa của đế chế Anh) lại giúp đỡ các thuộc địa của Anh ở
Tây bán cầu một cách vô tư, không vị lợi, tính toán thiệt hơn cho bản thân họ. Tâm
trạng này của Đại hội lục địa được thể hiện qua quan điểm của John Adams khi nói về
sự khác biệt giữa cư dân Bắc Mỹ và châu Âu: “Sự xảo quyệt, tài sáng chế bịa đặt, tính
P29
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cách hết sức kín đáo và sự yên lặng tuyệt đối của những triều đình châu Âu này sẽ là
quá nhiều cho những công sứ hấp tấp, nóng nảy và những người lơ đễnh, lười biếng
của chúng ta mặc dù cũng yên lặng như họ” [55, tr. 23].
Thế nhưng, trước những chính sách hết sức hà khắc cùng với sự phong tỏa
thuộc địa Bắc Mỹ từ chính quốc đã đẩy nền kinh tế - chính trị của 13 thuộc địa rơi vào
tình trạng hỗn loạn, vô cùng bi đát. Tình cảnh đó tác động tới những người tham gia
quân đội cách mạng. Đồng tiền do các thuộc địa phát hành bị mất giá nghiêm trọng:
“Một xe ngựa chở đầy tiền khó mua nổi một xe ngựa chở đầy lương thực, thực phẩm”
[56, tr. 7] và do đó, “không có gì lạ khi những người lính ở thung lũng Forge đã đi bộ
bằng chân không trong tuyết và những trung đoàn của New Jersey và Pennsylvannia
trốn khỏi hàng ngũ mà ở đó họ đang chết đói” [56, tr. 7]. Tháng 7-1775, Ủy ban An
toàn New York (The New York Committee of Safety) đã phàn nàn rằng: “Chúng tôi
(cư dân Bắc Mỹ - TG chú thích) không có vũ khí, chúng tôi không có thuốc súng,
chúng tôi không có quân trang; Ơn Chúa, hãy gửi cho chúng tôi tiền, khí giới và đạn
dược” [45, tr. 23]. Hay như vị Tổng tư lệnh quân đội thuộc địa, G. Washington thừa
nhận trong dịp lễ Nôen (12-1775): “Sự túng thiếu thuốc súng là không thể tưởng tượng
được, sự lãng phí một ngày và không có nguồn cung cấp là viễn cảnh ảm đạm” [48, tr.
33]. Hiện tượng đào ngũ không chỉ diễn trong quân đội do G. Washington chỉ huy mà
ngay cả đối với dân quân địa phương. Đây được xem là tình trạng phổ biến khắp nơi ở
thuộc địa Bắc Mỹ.
Giống như bất cứ cuộc chiến tranh nào, những người Mỹ cách mạng cũng
không thể chiến đấu mãi và đi tới chiến thắng chỉ bằng mỗi lòng nhiệt tình, yêu tự do
mà không có thuốc súng, không trang bị quân sự… Trải qua một mùa đông 1777-1778
khắc nghiệt ở thung lũng Forge trong tình trạng thiếu thốn mọi thứ, chính G.
Washington cũng phải thừa nhận rằng: “Sự nghiệp của chúng ta đang ở trong một điều
kiện kiệt quệ, đổ nát và tệ hại hơn nhiều so với lúc bắt đầu cuộc chiến tranh… Những
lợi ích chung của nước Mỹ đang tan dần và đắm chìm dần vào sự tan vỡ không thể cứu
vãn nổi nếu như không có một phương thuốc nào được áp dụng sớm” [56, tr. 8].
Phương thuốc mà G. Washington và các nhà cách mạng nghĩ tới chính là tìm kiếm sự
ủng hộ, viện trợ từ phía bên ngoài.
P30
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Sự cần kíp trong việc tìm kiếm ủng hộ, viện trợ từ bên ngoài cần phải được đẩy
nhanh hơn trong bối cảnh ở Bắc Mỹ đang tràn ngập tin đồn về việc nước Anh đang đề
nghị với Pháp và Tây Ban Nha tiến hành phân chia lục địa Bắc Mỹ, đổi lại các quốc gia
này hổ trợ nước Anh đàn áp cuộc nổi dậy của cư dân ở đây. Và chắc chắn, nước Pháp
sẽ bị hấp dẫn bởi đề nghị của nước Anh nhằm phân chia các vùng đất Bắc Mỹ tại Paris
[34, tr. 66-67]. Tin tức này nhanh chóng lan tới Đại hội lục địa lần thứ hai khiến cho
các đại biểu lo lắng. Bóng ma của một hiệp ước phân chia Bắc Mỹ do nước Anh khởi
xướng khiến những nhà ái quốc cách mạng nhận thức rằng, “trong khi chúng ta đang
lưỡng lự về sự thiết lập liên minh [nước ngoài], nước Anh có lẽ ký ấn triện phá vỡ
chúng ta bằng cách ký hiệp ước phân chia Bắc Mỹ với hai hoặc ba cường quốc giàu
tham vọng” [34, tr. 66]. Vấn đề đặt ra, Đại hội lục địa cần có quan điểm dứt khoát hơn
về con đường đi tới độc lập, tách khỏi đế chế Anh cũng như sự cần thiết trong việc thiết
lập một liên minh với một quốc gia bên ngoài nhằm đấu tranh chống lại quân đội Anh.
Trong bản “Tuyên ngôn về những nguyên nhân khởi nghĩa vũ trang” (Declaration of
the causes of taking up arms), Đại hội lục địa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ủng
hộ quốc tế với sự nghiệp cách mạng: “Sự nghiệp của chúng ta là chính đáng, liên minh
của chúng ta là hoàn hảo. Nguồn lực của chúng ta là to lớn và trong trường hợp cần
thiết, sự ủng hộ quốc tế sẽ đạt được một cách chắc chắn” [34, tr. 64].
Với quan điểm như vậy, ngày 29-11-1775, tức bảy tháng sau sự kiện Lexington,
Đại hội lục địa lần thứ hai quyết định thành lập “Ủy ban liên lạc bí mật” (Committee
of Secret Correspondence) 9
nhằm “mục đích duy nhất là kết thân những người bạn
của chúng ta ở Anh, Ai Len và các quốc gia khác trên thế giới” [36, tr. 22]. Cơ quan
này nhanh chóng cử Arthur Lee, một người Virginia đang sinh sống ở London, cải
trang thành phóng viên với mục đích thăm dò thái độ dư luận của Anh cũng như các vị
đại sứ của các nước châu Âu đang có mặt tại đây.
Lúc đầu, “Ủy ban liên lạc bí mật” tỏ ra khá thận trọng, chủ yếu tập trung nhiều
hơn vào khả năng tiếp cận trong phạm vi đế quốc Anh: “Những người bạn của chúng
9
Đây là cơ quan tiền thân của Bộ Ngoại giao Mỹ. Những thành viên đầu tiên của cơ quan này gồm
John Dickson, Benjamin Franklin, Benjamin Harrison, John Jay và Thomas Johnson.
P31
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ta ở nước Anh, Ai len và những nơi khác trên thế giới” [55, tr. 19]. Những người Mỹ
yêu nước mong đợi “tình huynh đệ trong nội bộ đế chế Anh mà chia sẽ một di sản
chính trị chung sẽ kề vai sát cánh với sự nghiệp của cư dân Bắc Mỹ” [34, tr. 70]. Di
sản chính trị bao gồm quyền được sống, tự do và tài sản. Họ kỳ vọng dư luận tiến bộ ở
nước Anh sẽ gây áp lực để lật đổ nội các có tư tưởng thù địch với sự nghiệp của nhân
dân Bắc Mỹ. Thế nhưng, sự trông chờ này nhanh chóng trở nên ảo tưởng, vô vọng.
Trong bối cảnh đó, Đại hội lục địa lần thứ hai quyết định tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài
từ những cường quốc có thái độ đồng cảm với sự nghiệp chính nghĩa của họ để tiến
hành cách mạng.
Một vấn đề đáng lưu ý trong Đại hội lục địa lần thứ hai là các đại biểu luôn đặt
sự xung đột của Anh với các thuộc địa Bắc Mỹ trong mối tương quan quyền lực của
quan hệ quốc tế ở châu Âu, bởi họ cho rằng, mẫu quốc - nước Anh tạo ra không ít sự
hiềm khích, thù địch với nhiều quốc gia khác. Là một người từng sinh sống, làm việc
nhiều năm ở nước Anh và các triều đình phong kiến châu Âu, Benjamin Franklin –
thành viên của Đại hội lục địa, đã viết rằng: “Tất cả các quốc gia châu Âu (ngoại trừ
Anh) luôn đứng bên cạnh vấn đề của chúng ta. Song châu Âu có lý do riêng của nó.
Các quốc gia đó tự cho rằng đang đối mặt với tình trạng nguy hiểm trước sự lớn mạnh
của nước Anh và sẽ thú vị chứng kiến đế chế Anh bị tan rã” [34, tr. 63]. Hàng loạt vấn
đề liên quan đến thái độ của các quốc gia ở Cựu lục địa được các đại biểu đưa ra:
“Nước Pháp ở đâu, Tây Ban Nha ở đâu ? Hà Lan ở đâu ? những kẻ thù tự nhiên của
nước Anh – họ đang ở đâu trong thời điểm này ? Bạn có nghĩ rằng, các quốc gia này
sẽ ủng hộ chúng ta với sự thờ ơ và vô ích hay không ? Có phải Louis XVI (vua nước
Pháp – TG chú thích) ngủ quên trong thời điểm này hay không ? Hãy tin tôi, Câu trả
lời là Không?” [34, tr. 63]. “Hãy tin tôi, câu trả lời là Không”, có nghĩa rằng, các
cường quốc châu Âu sẽ không đứng ngoài cuộc đấu tranh của cư dân Bắc Mỹ. Với
nhận thức như vậy đã giúp các nhà cách mạng Mỹ chuẩn bị trước cho một tâm lý ít
nghi ngại hơn trong việc vận động sự giúp đỡ từ phía châu Âu lục địa.
Có một niềm tin chung tồn tại trong những nhà ái quốc Mỹ rằng sự mâu thuẫn
gay gắt giữa Anh với cường quốc hàng hải đang lên – nước Pháp, là cơ hội cho người
Mỹ giải quyết quan hệ với Anh. Dưới nhãn quan của họ, nước Pháp là quốc gia lục địa
P32
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
châu Âu hùng mạnh, giàu có và có khả năng giúp đỡ cư dân Bắc Mỹ nhiều nhất vì có
mối thâm thù truyền kiếp với nước Anh.
Cuối năm 1775, “Ủy ban liên lạc bí mật” bắt đầu thực hiện những cuộc tiếp xúc
hết sức kín đáo với những đặc vụ Pháp ngay trên đất Mỹ. Tháng 3-1776, Đại hội lục
địa quyết định cử Silas Dean dưới danh nghĩa một thương gia Connecticutt đang tìm
kiếm việc làm, tới Paris nhằm thăm dò thái độ của chính giới Pháp về tình hình Bắc
Mỹ, đồng thời “yêu cầu sự giúp đỡ về quân trang, vũ khí, đồ dự phòng, tiền bạc và bất
cứ phương tiện nào mà nước Pháp có thể đáp ứng cho cuộc đấu tranh chính nghĩa
này” [56, tr. 29].
Mặc dù có những động thái nhằm xích lại gần với nước Pháp nhưng trong Đại
hội lục địa vẫn tồn tại nhiều quan điểm hoài nghi về động cơ, mục đích thực sự của
nước Pháp trong trường hợp quốc gia này can dự vào cuộc chiến tranh giữa Anh và các
thuộc địa Bắc Mỹ. Trong suốt tháng 3 và 4-1776, chủ đề này thường xuyên chi phối
trong các cuộc tranh biện của các đại biểu. Trong nhật ký của mình, John Adams đã
phản ánh không khí này như sau: “Quyền lợi của Pháp ảnh hưởng như thế nào trong
cuộc xung đột giữa Anh và thuộc địa Bắc Mỹ ? Nước Pháp sẽ đứng trung lập hay tham
gia cùng với Anh hoặc với các thuộc địa Bắc Mỹ ? Có phải mối lưu tâm của Pháp
muốn phân chia đế chế Anh hay không ? Các thuộc địa của Pháp vẫn an toàn hay
không trong trường hợp Anh và thuộc địa Bắc Mỹ giữ vững quan hệ ? Nước Pháp có
thể bảo vệ các thuộc địa của nó hay không ? Hiện tại nước Pháp đang sở hữu
Martinique, Guadeloupe và một nửa lãnh thổ Hispaniola. Trường hợp hòa giải giữa
Anh và thuộc địa Bắc Mỹ diễn ra, và cuộc chiến tranh Anh và Pháp nổ ra, nước Pháp
có giữ được các lãnh thổ đó trong vòng 6 tháng hay không ?” [34, tr. 65].
Những tranh cãi về mục đích, động cơ của nước Pháp trong cuộc chiến tranh ở
Bắc Mỹ dù cho tạo ra những quan điểm khác nhau nhưng phần lớn các đại biểu trong
Đại hội lục địa đều thống nhất hướng tới nước Pháp. “Chúng ta (các đại biểu – TG chú
thích) hãy thông báo chính thức tới triều đại Bourbon, tối thiểu của Pháp, rằng chúng
ta trông đợi duy nhất sự kiên định của nước Pháp để tuyên bố độc lập của chúng ta.
Chúng ta sẽ không phải nói chuyện với tất cả các cường quốc bên ngoài nhưng chỉ một
trong số đó mà chúng ta đang mong đợi ủng hộ sự nghiệp chúng ta… Hãy để nước
P33
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc
Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc

More Related Content

Similar to Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc

5 duong mon ho chi minh
5 duong mon ho chi minh5 duong mon ho chi minh
5 duong mon ho chi minh
vnu_du
 
đề Thi thử đại học môn sử 2013
đề Thi thử đại học môn sử 2013đề Thi thử đại học môn sử 2013
đề Thi thử đại học môn sử 2013
adminseo
 

Similar to Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc (20)

Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...
Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...
Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...
 
Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống MỹPhong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviiiChính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
 
Tiểu Luận Môn Lịch Sử Việt Nam Tìm Hiểu Về Đội Quân Tóc Dài.docx
Tiểu Luận Môn Lịch Sử Việt Nam Tìm Hiểu Về Đội Quân Tóc Dài.docxTiểu Luận Môn Lịch Sử Việt Nam Tìm Hiểu Về Đội Quân Tóc Dài.docx
Tiểu Luận Môn Lịch Sử Việt Nam Tìm Hiểu Về Đội Quân Tóc Dài.docx
 
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại gi...
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại gi...Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại gi...
Báo Nhân Dân với các vấn đề đối ngoại, vận động quốc tế và đấu tranh ngoại gi...
 
Ảnh Hưởng Của Di Sản Quá Khứ Đối Với Quan Hệ Hàn Quốc - Nhật Bản.docx
Ảnh Hưởng Của Di Sản Quá Khứ  Đối Với Quan Hệ Hàn Quốc - Nhật Bản.docxẢnh Hưởng Của Di Sản Quá Khứ  Đối Với Quan Hệ Hàn Quốc - Nhật Bản.docx
Ảnh Hưởng Của Di Sản Quá Khứ Đối Với Quan Hệ Hàn Quốc - Nhật Bản.docx
 
Trật tự hai cực Ianta và tác động của nó đến khu vực Trung Cận Đông trong thờ...
Trật tự hai cực Ianta và tác động của nó đến khu vực Trung Cận Đông trong thờ...Trật tự hai cực Ianta và tác động của nó đến khu vực Trung Cận Đông trong thờ...
Trật tự hai cực Ianta và tác động của nó đến khu vực Trung Cận Đông trong thờ...
 
5 duong mon ho chi minh
5 duong mon ho chi minh5 duong mon ho chi minh
5 duong mon ho chi minh
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nướcLuận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
 
đề Thi thử đại học môn sử 2013
đề Thi thử đại học môn sử 2013đề Thi thử đại học môn sử 2013
đề Thi thử đại học môn sử 2013
 
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcTiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
 
Cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh...
Cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh...Cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh...
Cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh...
 
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến (1865 - 1918)
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến (1865 - 1918)Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến (1865 - 1918)
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến (1865 - 1918)
 
Luận văn: Chính sách kinh tế chỉ huy ở Nam Kỳ thời Pháp – Nhật
Luận văn: Chính sách kinh tế chỉ huy ở Nam Kỳ thời Pháp – NhậtLuận văn: Chính sách kinh tế chỉ huy ở Nam Kỳ thời Pháp – Nhật
Luận văn: Chính sách kinh tế chỉ huy ở Nam Kỳ thời Pháp – Nhật
 
Luận văn thạc sĩ lịch sử: Chính sách “kinh tế chỉ huy” ở nam kỳ thời Pháp – Nhật
Luận văn thạc sĩ lịch sử: Chính sách “kinh tế chỉ huy” ở nam kỳ thời Pháp – NhậtLuận văn thạc sĩ lịch sử: Chính sách “kinh tế chỉ huy” ở nam kỳ thời Pháp – Nhật
Luận văn thạc sĩ lịch sử: Chính sách “kinh tế chỉ huy” ở nam kỳ thời Pháp – Nhật
 
BÀI MÂU Luận văn lịch sử văn hóa Việt Nam, 9 ĐIỂM, HAY
BÀI MÂU Luận văn lịch sử văn hóa Việt Nam, 9 ĐIỂM, HAYBÀI MÂU Luận văn lịch sử văn hóa Việt Nam, 9 ĐIỂM, HAY
BÀI MÂU Luận văn lịch sử văn hóa Việt Nam, 9 ĐIỂM, HAY
 
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥰🥰 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥰🥰 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤ (20)

Kho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docxKho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Giảm Nghèo Đa Chiều, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docxTop 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Tiếng Anh, Mới Nhất.docx
 
Đừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docx
Đừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docxĐừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docx
Đừng bỏ qua 220 Đề Tài Luận Văn Du Học, 9 Điểm.docx
 
200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx
200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx
200 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Cộng Đồng, Từ Trường Đại Học.docx
 
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docxList 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin, 9 Điểm.docx
 
Xem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docx
Xem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docxXem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docx
Xem Ngay 170 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Hcmue, Mới Nhất.docx
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docxKho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Quản Lý Giáo Dục,Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Top 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docx
Top 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docxTop 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docx
Top 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Oxford, Điểm Cao.docx
 
Hơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docx
Hơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docxHơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docx
Hơn 200 đề tài luận văn thạc sĩ sư phạm kỹ thuật, 9 điểm.docx
 
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docxTop 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
Top 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Báo Chí, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Top 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docx
Top 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docxTop 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docx
Top 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về Chứng Thực, 9 Điểm.docx
 
201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx
201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx
201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Quản Lý Đất Đai, Mới Nhất.docx
 
200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx
200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx
200 đề tài luận văn thạc sĩ giảm nghèo bền vững, để làm bài tốt nhất.docx
 
Top 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docx
Top 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docxTop 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docx
Top 200 đề tài luận văn thạc sĩ về công chứng, mới nhất.docx
 
Kho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docx
Kho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docxKho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docx
Kho 200 đề tài luận văn thạc sĩ về giáo dục, mới nhất.docx
 
201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx
201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx
201 đề tài luận văn thạc sĩ về công tác dân vận, điểm cao.docx
 
Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.docNghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
Nghiên cứu thành phần loài nấm lớn ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
 
Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...
Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...
Nghiên cứu biến động tài nguyên rừng ở lưu vực sông Hương, tỉnh Thừa Thiên Hu...
 
Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...
Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...
Nghiên cứu đặc điểm sinh học, năng suất và phẩm chất một số giống lúa chịu hạ...
 
Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...
Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...
Luận văn thạc sĩ hóa học - Nghiên cứu tổng hợp vật liệu Ag-Fe3O4-Graphene oxi...
 

Recently uploaded

Recently uploaded (20)

cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 

Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783.doc

  • 1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 3 NỘI DUNG ................................................................................................................... 13 Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY NƯỚC PHÁP ỦNG HỘ CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 ............................................................ 13 1.1. Khái quát về tình hình nước Pháp ........................................................................... 13 1.2. Những mâu thuẫn giữa Anh và Pháp trong quan hệ quốc tế .................................. 15 1.3. Chiến tranh giành độc lập của cư dân Mỹ............................................................... 21 1.4. Cách mạng Mỹ với việc tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế ....................................... 29 Chương 2. SỰ ỦNG HỘ CỦA NƯỚC PHÁP ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 ........................................................................................ 38 2.1. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1777 ............................................................................................................................. 38 2.1.1. Mối quan tâm của triều đình Versailles đối với tình hình cách mạng Mỹ ........... 38 2.1.2. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ ................................... 44 2.2. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1778 đến năm 1783 ............................................................................................................................. 52 2.2.1. Con đường dẫn tới liên minh Pháp – Mỹ ............................................................. 52 2.2.2. Hoạt động ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ ................................... 57 2.2.2.1. Về chính trị - ngoại giao.................................................................................... 57 2.2.2.2. Về tài chính, quân sự ......................................................................................... 60 P1
  • 2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG VỀ SỰ ỦNG HỘ CỦA NƯỚC PHÁP ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783............................. 69 3.1. Đặc điểm ................................................................................................................ 69 3.2. Tác động................................................................................................................. 78 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 90 P2
  • 3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quan hệ quốc tế ở châu Âu vào thế kỷ XVIII với đầy rẫy những mối quan hệ phức tạp, chằng chéo bởi mỗi chủ thể liên quan khi tham gia vào ván bài quyền lực quốc tế đều không chỉ quán xuyến mục tiêu cốt lõi quyền lợi quốc gia, dân tộc mà còn muốn áp đặt ý chí, sức mạnh của họ đối với bên còn lại. Trong sự vận động của những mối quan hệ phức tạp đó nổi lên sự ganh đua giữa hai thế lực: nước Anh và nước Pháp. Trong khi nước Pháp phong kiến tìm cách phô diễn sức mạnh trên lục địa thì nước Anh sau khi hoàn thành cuộc cách mạng tư sản đang hừng hực khí thế với việc triển khai sức mạnh ra bên ngoài bao gồm cả trên đất liền lẫn trên biển. Điều tất yếu của tình hình này là sự va chạm giữa hai thế lực diễn ra. Trong hơn nửa đầu thế kỷ XVIII, châu Âu trở thành bãi chiến trường chính cho hai bên phô trương tiềm lực, sức mạnh của bản thân. Kết quả, nước Pháp luôn là người cầm cờ trắng, chấp nhận thua thiệt trước những đòi hỏi do nước Anh đưa ra. Chính vì lẽ đó, sự uất hận tràn ngập trong lòng chính giới nước Pháp và họ chờ đợi cơ hội thuận tiện để phục thù. Tình hình quốc tế diễn ra theo chiều hướng thuận lợi cho ý định của nước Pháp khi cuộc chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ nổ ra. Dưới nhãn quan của nước Pháp, đây chính là “cơ hội vàng ngọc” không thể bỏ qua. Từ sự dẫn dắt tư duy như vậy, nước Pháp đã ủng hộ, trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh giành độc lập của cư dân Mỹ trong cuộc chiến chống lại nước Anh. Mỗi bước tiến của sự nghiệp tiến bộ của nhân dân Mỹ đều mang dấu ấn hết sức đậm nét của nước Pháp. Sự thắng lợi của cách mạng Mỹ gắn liền với vai trò không hề nhỏ của nước Pháp. Ngược lại, chính việc tham gia ủng hộ cách mạng Mỹ đã đẩy nước Pháp trượt dài trên bờ vực của cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến, khiến cho quốc gia này đứng trước một cuộc cách mạng xã hội sâu rộng, diễn ra không lâu sau khi nước Mỹ giành được độc lập. Không những vậy, những kỳ vọng đạt được của chính giới Pháp thông qua việc ủng hộ cách mạng Mỹ vẫn còn dang dỡ, chưa tương xứng với những khoản đóng góp mà nước Pháp đã đánh đổi. P3
  • 4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Cho tới nay việc làm rõ vai trò của nước Pháp trong cuộc cách mạng Mỹ vẫn còn là khoảng trống nhận thức của giới nghiên cứu sử học Việt Nam. Sự tìm hiểu một cách thấu triệt vấn đề đặt ra vẫn còn là khoảng mở cần thiết để tác giả luận văn có cơ hội thực hiện. Chính vì lẽ đó, việc tìm hiểu chủ đề “Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783” vừa có ý nghĩa cả về mặt khoa học lẫn ý nghĩa thực tiễn: Về ý nghĩa khoa học, thông qua việc nghiên cứu đề tài giúp hiểu rõ những mâu thuẫn giữa Anh và Pháp trong quan hệ quốc tế; hiểu rõ những cuộc vận động ngoại giao của nước Mỹ nhằm lôi kéo nước Pháp đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến với nước Anh; hiểu rõ những hoạt động ủng hộ của nước Pháp, bao gồm các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, tài chính và quân sự đối với sự nghiệp tiến bộ của cư dân Mỹ; hiểu rõ những đặc điểm của mối quan hệ Pháp – Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ; hiểu rõ những tác động đối với hai chủ thể khi tham gia cùng một chiến tuyến cũng như trên bình diện quốc tế. Về ý nghĩa thực tiễn, ngày nay đất nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế trong đó có việc đẩy mạnh quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp và Mỹ là hai quốc gia mà Đảng và Nhà nước ta đang tăng cường quan hệ, hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực. Do đó, những dữ kiện lịch sử của hai quốc gia này cũng mối quan hệ giữa họ trở thành nguồn tham khảo quý giá cho mọi cơ quan nhà nước trong việc hoạch định, thực thi quan hệ với hai đối tác. Hơn nữa, những vấn đề trình bày trong luận văn sẽ trở thành bài học cho việc phân biệt đối tác/đối tượng (tùy theo hoàn cảnh) để từ đó giúp chúng ta có thể chọn lựa đúng đắn trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Là một trong những mối quan hệ đặc biệt của lịch sử quan hệ quốc tế thời cận đại, quan hệ Pháp – Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập của người Mỹ da trắng đã thu hút sự quan tâm, chú ý không ít của các nhà nghiên cứu, học giả với nhiều công trình được xuất bản, nhiều ấn phẩm khác nhau được ra đời. 2.1. Ở trong nước, tức Việt Nam, vấn đề này ít nhiều được đề cập trong các nhóm công trình sau: P4
  • 5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Nhóm thứ nhất là những công trình mang tính chất giáo trình, như: “Lịch sử thế giới cận đại” và “Lịch sử quan hệ quốc tế, Tập 1” do Vũ Dương Ninh chủ biên (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002 & 2005); “Lịch sử thế giới cận đại, Tập 1” do Phan Ngọc Liên chủ biên (Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008). Trong các công trình này khi trình bày cuộc đấu tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII, các tác giả đề cập tới liên minh Pháp – Mỹ năm 1778. Sự kiện này được các tác giả xâu chuỗi trong tiến trình của cách mạng Mỹ. Trên phương diện rộng lớn hơn, sự ra đời của liên minh Pháp – Mỹ được đề cập trong các công trình thông sử nước Mỹ, như: “Lịch sử Hoa Kỳ từ độc lập đến chiến tranh Nam Bắc” của Nguyễn Thế Anh (Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn, 1969); “Lịch sử nước Mỹ” của Nguyễn Nghị, Lê Minh Đức (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1994); “Lịch sử Hoa Kỳ: giai đoạn lập quốc đến thế kỷ XIX” của Nguyễn Thái Yên Hương (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2015) đã bước đầu phân tích bối cảnh dẫn tới nước Pháp dính líu vào cuộc đấu tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ thuộc Anh. Nhìn chung, trong nhóm công trình này mới chỉ dừng lại trong việc trình bày các sự kiện tiêu biểu liên quan tới vấn đề mà tác giả quan tâm, nghiên cứu. Nhóm thứ hai là những công trình dưới dạng chuyên khảo. Tiêu biểu cho thể loại này là: “Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội và văn hóa” của Nguyễn Thái Yên Hương (Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005); “Hoa Kỳ và văn hóa chính sách đối ngoại” do Nguyễn Thái Yên Hương chủ biên (Nxb Thế giới, Hà Nội, 2008); “Nước Mỹ với quá trình Tây tiến: chính sách ngoại giao mở rộng lãnh thổ (1787-1861)” của Lê Thành Nam (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016) đã trình bày quan hệ ngoại giao của các thuộc địa Bắc Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc lập và chính sách đối ngoại của nhà nước cộng hòa non trẻ trong buổi đầu vừa mới ra đời. Là một quốc gia đối trọng với nước Anh trong sự kiện cuộc chiến tranh do các thuộc địa Bắc Mỹ tiến hành, nước Pháp nhận được mối lưu tâm từ phía cư dân ở đây, bởi họ nhận thấy rằng khả năng ủng hộ của chính giới Pháp cho sự nghiệp của cư dân thuộc địa lớn hơn nhiều so với các quốc gia châu Âu khác. Bên cạnh các các công trình chuyên khảo là các luận văn Thạc sĩ được hoàn thành và bảo vệ trong gần một thập kỷ trở lại đây, trong đó đáng chú ý: “Chính sách P5
  • 6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 đối ngoại của Hoa Kỳ từ khi lập quốc (1776) đến trước cuộc Nội chiến (1861-1865)” của Lê Thành Nam (Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, 2007). Ở công trình này, tác dành hẳn một mục nhỏ trong chương thứ nhất: “Ngoại giao vì mục tiêu độc lập” để phân tích sự vận động ngoại giao của những đại diện các thuộc địa Bắc Mỹ tại nước Pháp nhằm thuyết phục chính giới và dư luận quốc gia này ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của họ. Một luận văn Thạc sĩ khác cũng đề cập ít nhiều tới chủ đề mà tác giả nghiên cứu là: “Sự tham gia của các cường quốc châu Âu trong cách mạng Mỹ từ năm 1775 đến năm 1783)” của Trịnh Nam Giang (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008). Trong công trình này, tác giả trình bày sự tham gia, góp mặt và ủng hộ của các cường quốc châu Âu cho cả từ hai phía trong cuộc chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ. Điều này có nghĩa là, các cường quốc châu Âu có sự phân định rõ nét thành hai chiến tuyến. Một bên ủng hộ cư dân thuộc địa Bắc Mỹ đấu tranh thoát khỏi ách áp bức của thực dân Anh, bao gồm: Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, Thụy Điển và Đan Mạch. Bên còn lại ủng hộ chính quyền London theo đuổi chính sách đàn áp cuộc nổi dậy của cư dân Bắc Mỹ, trong đó nhiệt tình nhất là các tiểu quốc Đức và vương quốc Phổ. Bên cạnh đó, luận văn còn đề cập đến thái độ trung lập của một số cường quốc châu Âu trước sự kiện cách mạng diễn ra ở phía bên kia bờ Đại Tây Dương. Sa hoàng Nga và Áo hoàng là những nhân vật thể hiện quan điểm này rõ rệt nhất. Dĩ nhiên, sự trung lập của hai thế lực phong kiến này có tác động theo chiều hướng thuận nghịch cho cả Anh và cư dân Bắc Mỹ. Do trình bày dàn trải thái độ của từng cường quốc châu Âu trong cách mạng Mỹ nên khi đề cập tới nước Pháp, luận văn chỉ dành dung lượng số trang vừa phải. Nói tóm lại, trong chừng mực nhất định, các chuyên khảo trong nhóm công trình này đề cập khá cụ thể thái độ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ. Nhóm thứ ba là các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành của Viện Nghiên cứu châu Mỹ, chẳng hạn như: “Ngoại giao Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1773-1783)” và “Nước Pháp với cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775-1783)” của Lê Thành Nam (Châu Mỹ ngày nay, số 3(108)2007 và số 8(137)2009). Trong bài viết đầu tiên, tác giả trình bày nghệ thuật ngoại giao của phái đoàn ngoại giao do Đại hội lục địa gửi sang các triều P6
  • 7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 đình phong kiến châu Âu (Pháp, Nga, Phổ) để lôi cuốn chính giới ở đây lưu tâm tới sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Bắc Mỹ. Mục đích của những phái đoàn này nhằm cô lập kẻ thù, tức nước Anh, đồng thời mở rộng sự liên kết với các quốc gia ở Cựu lục địa. Bài viết còn lại phân tích nỗ lực của triều đình nước Pháp trong việc ủng hộ nhân dân Bắc Mỹ chiến đấu chống lại thực dân Anh. Sự chiến đấu đó không chỉ dừng lại trên chiến trường mà còn biểu hiện thông quan sự vận động ngoại giao của triều đình Pháp đối với một số triều đình phong kiến các nước châu Âu. Có thể nói, bài viết này nói tương đối rõ sự ủng hộ của Pháp trên các lĩnh vực, như: chính trị - ngoại giao, tài chính và quân sự. 2.1. Ở nước ngoài, các công trình liên quan tới chủ đề nghiên cứu khá phong phú. Có thể phân chia thành những nhóm sau: Nhóm thứ nhất là các công trình liên quan trực tiếp tới đề tài, như: “France in the American Revolution” (Nước Pháp trong cách mạng Mỹ) của James Breck Perkins (Houghton Mifflin, 1911). Đây là công trình bàn về những sự kiện xảy ra bên trong nước Pháp cũng như chính kiến của nhân dân sở tại khi cuộc chiến tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ đang tiến hành. Điều cần lưu ý là, tác giả chú ý tới việc phân tích cả hai chiều hướng trái ngược nhau trong chính giới và nhân dân Pháp khi cách mạng Mỹ xảy ra. Đại diện tiêu biểu cho hai chiều hướng này là Bộ trưởng Ngoại giao - Vergennes với quan điểm ủng hộ cách mạng Mỹ, ngược lại là Bộ trưởng Tài chính – Turgot. Sự đấu tranh giữa hai luồng quan điểm này chi phối nước Pháp trong toàn bộ tiến trình cách mạng Mỹ. Một công trình khác: “The French Army in the American War of Independence” (Quân đội Pháp trong cuộc chiến tranh độc lập của người Mỹ) của René Chartrand và Francis Back (Osprey Publishing Ltd, United Kingdom, 1998) đã phân tích những cải cách quân sự của triều đình phong kiến Pháp sau thất bại trước Anh trong cuộc chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Chính nhờ những cuộc cải tổ này, quân đội Pháp có sự thay đổi về chất, nhất là lực lượng hải quân. Điều đó khiến cho một bộ phận không nhỏ cận thần trong triều đình đủ tự tin hoạch định sự tham chiến của lực lượng hải quân Pháp trong cuộc đối đầu với hải quân Anh, qua đó gián tiếp giúp đỡ quân đội Bắc Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập. P7
  • 8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Nhóm thứ hai, là công trình liên quan tới lịch sử ngoại giao nước Mỹ từ khi quốc gia này còn là một phần của đế chế Anh cho tới thời hiện đại. Mặc dù các tác phẩm này trình bày ngoại giao của nước Mỹ theo tiến trình lịch sử nhưng trong nội dung ngoại giao thời kỳ cách mạng, các tác giả chú ý tới việc làm rõ những toan tính, hoạt động của nước Pháp khi can thiệp trực tiếp vào cách mạng Mỹ. Có thể tìm thấy nội dung này trong các tác phẩm như: “A Diplomatic History of the United States” (Lịch sử ngoại giao của nước Mỹ) của Samuel Bemiss (Henry Holt and Company, New York, 1951); "A Diplomatic History of the American People” (Lịch sử ngoại giao của nhân dân Mỹ) của Thomas A. Bailey (Appleton-Century-Crofts, Inc, New York, 1958); “American Diplomacy A History” (Lịch sử ngoại giao Mỹ) của Robert H. Ferrell (W.W Norton & Company Inc, New York 1975); “A History of American Foreign Policy, Vol 1 (Growth to World Power 1700-1914)” (Lịch sử chính sách đối ngoại Mỹ, Tập 1 (Sự phát triển tới cường quốc thế giới 1700 – 1914) của Alexander DeConde (Charles Scribner’s Sons, New York, 1978); “A Companion to American Foreign Relations” (Sự đồng hành quan hệ đối ngoại Mỹ) của Robert D. Schulzinger (Blackwell Publishing Ltd).v.v… Nhóm thứ ba là các công trình liên quan tới lịch sử nước Mỹ, như: “The Reinterpretation of the American Revolution 1763-1789” (Diễn giải lại cách mạng Mỹ 1763-1789) của Jack P. Greene (Harper & Row Publisher, 1968); “The American Republic to 1865, Vol 1” (Cộng hòa Mỹ tới năm 1865) của Richard Hofstadter (Prentice-Hall Inc, Englewood Cliffs, New Jersey, 1959); “The American Reconstruction through the 20th century” (Tái xây dựng nước Mỹ trong suốt thế kỷ XX) của Gerald A. Danzer… (McDouglas Little Inc, A Houghton Miffin Company, 1999); “American History A Survey” (Khái quát lịch sử Mỹ) của Alan Brinkley (McGraw-Hill Higher Education, 2003) v.v.. Đây là những công trình thông sử nước Mỹ trình bày tất cả các lĩnh vực của quốc gia này từ khi còn là thuộc địa của thực dân Anh cho tới hiện nay. Vấn đề ngoại giao trong thời kỳ cuộc chiến tranh độc lập được đề cập tương đối chừng mực với những sự kiện tiêu biểu, song chưa lý giải được bản chất hiện tượng của vấn đề đối ngoại của nước Mỹ thời cận đại. P8
  • 9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Nhóm thứ tư là các công trình của tác giả nước ngoài được dịch sang tiếng Việt bàn về lịch sử nước Mỹ, như: “Lịch sử Hoa Kỳ” của Franck L. Schoell (Việt Nam khảo dịch xã, 1972); “Lịch sử Hoa Kỳ những vấn đề quá khứ” của Irwin Unger (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2009); “Lịch sử dân tộc Mỹ” của Howard Zinn (Nxb Thế giới, Hà Nội, 2010) đã trình bày các sự kiện liên quan tới nước Mỹ. Vấn đề của tác giả đang tìm hiểu chỉ được nêu một cách sơ lược. Tóm lại, qua việc điểm qua những công trình mà chúng tôi tiếp cận được có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, tại Việt Nam, chủ đề của luận văn được xâu chuỗi trong các công trình mang tính giáo trình hoặc phần nào được trình bày trong các chuyên khảo. Các công trình này bước đầu đề cập đến sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ. Một công trình với tên gọi như đề tài luận văn hầu như vắng bóng trong các tác phẩm chuyên biệt. Thứ hai, tại nước ngoài, nhất là Mỹ, chủ đề này được thể hiện hết sức phong phú với các nguồn sử liệu hết sức có giá trị. Có tác phẩm đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề đặt ra. Do tiếp cận cả hai chiều hướng, tức khuynh hướng ủng hộ và khuynh hướng phản đối nước Pháp can dự vào cuộc chiến tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ nên có sự chằng chéo nhau trong cách trình bày cũng như cách giải thích các sự kiện. Mặt khác, nhiều sự kiện do cách nhìn nhận chưa thực sự khách quan nên đánh giá cao về ngoại giao của nước Mỹ. Mặc dù vậy, các công trình nêu trên đã cung cấp cho tác giả luận văn nhiều tư liệu có giá trị, giúp người viết có thể hoàn thành công việc đặt ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là khôi phục một cách hệ thống về sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783. Trên cơ sở đó, luận văn làm rõ các hoạt động nổi bật về chính trị - ngoại giao, tài chính và quân sự từ phía nước Pháp nhằm giúp đỡ các thuộc địa Bắc Mỹ trong cuộc chiến chống lại thực dân Anh. Để thực hiện mục tiêu nêu trên, đề tài luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ như sau: P9
  • 10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Thứ nhất, hệ thống hóa quá trình nước Pháp ủng hộ cuộc chiến tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ trên cơ sở tư liệu hiện có. Thứ hai, phân tích những nhân tố bên trong và bên ngoài thúc đẩy nước Pháp can dự vào cách mạng Mỹ. Thứ ba, rút ra nhận xét, đánh giá về sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ trong khung thời gian đặt ra. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu là hoạt động ủng hộ, giúp đỡ của nước Pháp đối với cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, được thể hiện trên các lĩnh vực: chính trị - ngoại giao, tài chính và quân sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian, địa bàn trọng tâm mà luận văn tập trung chủ yếu là Bắc Mỹ và châu Âu – những nơi thể hiện sự tương tác, kết quả của nước Pháp trong việc tham gia ủng hộ cách mạng Mỹ. Ngoài ra, khi làm rõ nội dung nghiên cứu, không gian nghiên cứu còn được mở rộng sang các khu vực khác như: châu Á, quần đảo Antilles thuộc vùng biển Caribbean. Về thời gian, mốc mở đầu là năm 1776, cụ thể là 2-5-1776, triều đình nước Pháp do Louis XVI đứng đầu đã phê chuẩn việc ủng hộ, giúp đỡ cho các thuộc địa Bắc Mỹ; mốc kết thúc là năm 1783, cụ thể tháng 3-9-1783, nước Mỹ kí kết hòa ước Paris chấm dứt chiến tranh với Anh. Sự kiện này đồng thời cũng chấm dứt luôn sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ. Hai mốc thời gian nêu trên cố nhiên không phải là sự phân định máy móc, tùy tiện mà không cho phép luận văn đẩy về phía trước hoặc lùi dần về phía sau khi làm rõ chủ đề nghiên cứu. 5. Các nguồn tư liệu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, luận văn tập trung khai thác và sử dụng của nguồn tư liệu chủ yếu sau đây: - Các hiệp ước, công hàm ngoại giao, thư từ trao đổi, hồi ký của Bộ trưởng Ngoại giao, công sứ của nước Pháp, các đại diện ngoại giao Mỹ ở châu Âu, nhất là tại Paris và London, thậm chí những bức thư của mật thám Anh mô tả sự ủng hộ của triều đình Versaille đối với cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Bắc Mỹ. Đây là P10
  • 11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 những tư liệu gốc được in trong các công trình, như: “American Revolution: Primary Sources” của L. Schmittroth – 2000; “The American Revolution: A History in Documents” của S.C. Bullock – 2003; “Milestone Documents in American History (Exploring the Primary Source that Shaped America)” của P. Finkelman, B. A. Lesh – 2008 .v.v… - Các công trình có phản ánh trực tiếp tới việc ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ, như: “France in the American Revolution” của J.B. Perkins – 1911; “The French Army in the American War of Independence” của R. Chartrand, F. Back – 1998. - Các công trình có nội dung phản ánh trực tiếp đến lịch sử ngoại giao của Mỹ, như: “A Diplomatic History of The United States” của Samuel Bemiss – 1951; “A History of American Foreign Policy, Vol 1 (Growth to World Power 1700 – 1914)” của Alexander DeConde – 1979; “The History of American Foreign Policy” của Jerald Combs và Athur Combs – 1986 và “The Cambridge History of American Foreign Relations, Vol 1: The Creation of a Republican Empire 1776 – 1865” của Bradford Perkins – 1993 .v.v... - Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình chuyên khảo về lịch sử thế giới, lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử ngoại giao và các bài nghiên cứu liên quan đến nội dung đề tài công bố trên các tạp chí chuyên ngành. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Về phương pháp luận: luận văn quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nghiên cứu khoa học lịch sử. Những quan điểm này được xem là kim chỉ nam trong quá trình xử lý, hệ thống tư liệu và hình thành luận văn. - Về phương pháp nghiên cứu: phương pháp nghiên cứu lịch sử là phương pháp cơ bản để thực hiện đề tài. Theo đó, luận văn vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành: sưu tầm, chọn lọc, phân loại, tổng hợp, so sánh, đối chiếu… Bên cạnh đó, phương pháp logic cũng được vận dụng. Là đề tài thuộc chuyên ngành Lịch sử Thế giới nên tác giả còn chú ý tới phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế khi phân tích và khái quát những vấn đề đặt ra. P11
  • 12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 7. Đóng góp của luận văn Thứ nhất, luận văn là công trình đầu tiên ở Việt Nam hệ thống hóa các tài liệu liên quan tới sự can dự, giúp đỡ trực tiếp của triều đình phong kiến Versailles cho cuộc đấu tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ. Thứ hai, luận văn là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên ngành lịch sử, quốc tế học và học viên cao học chuyên ngành lịch sử thế giới, đồng thời đối với những ai quan tâm tới vấn đề này. Cuối cùng, luận văn trong chừng mực nhất định góp thêm dữ liệu, khuyến nghị cho các cơ quan ban ngành trong việc hoạch định, thực thi đường lối đối ngoại trong quá trình hội nhập một cách sâu rộng quan hệ quốc tế đương đại. 8. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận (3 trang), tài liệu tham khảo (5 trang) và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu trong 3 chương: Chương 1. Những nhân tố thúc đẩy nước Pháp ủng hộ cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783 (25 trang) Chương 2. Sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783 (31 trang) Chương 3. Đặc điểm và tác động về sự ủng hộ của nước Pháp đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783 (18 trang) P12
  • 13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY NƯỚC PHÁP ỦNG HỘ CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 1.1. Khái quát về tình hình nước Pháp Sau thời kỳ phát triển đỉnh cao của chế độ quân chủ chuyên chế dưới thời vua Louis XIV (cầm quyền 1661-1715), nước Pháp từng bước lún sâu vào cuộc khủng hoảng triền miên. Biểu hiện của tình trạng này, trước hết xuất phát từ cung đình. Người kế vị vua “Mặt trời”, Louis XV (cầm quyền 1715-1774) không mấy quan tâm tới việc triều chính. Quyền lực trong cung đình, nhà vua phó mặc cho công tước Philippe d’ Orléans – một cận thần bất tài và vô dụng. Mối quan tâm có tính thường xuyên của Louis XV là săn bắn và những cô gái mĩ miều. Để thỏa mãn thú tiêu khiển của mình, nhà vua thường xuyên tổ chức những cuộc săn bắn dài ngày. Những cuộc vui này tiêu tốn khoản kinh phí lớn trong ngân khố triều đình. Là một người háo sắc, Louis XV luôn nâng đỡ, sủng ái những người đẹp, điển hình là hoàng hậu Pompadour và Dubarry. Để mua vui cho các người đẹp, Louis XV thường tổ chức dạ hội, yến tiệc linh đình và không tiếc tiền của mua sắm những món quá hậu hĩnh nhằm ban tặng cho họ với món trang sức đắt tiền, nước hoa xa xĩ. Giá trị những món quà thường lên tới hàng triệu livres. Lối sống đó của nhà vua ảnh hưởng nhiều tới quần thần bên dưới. Họ là“lũ quần thần dâm dật, xa xĩ, tham ô lãng phí tiền của nhà nước” [30, tr. 78]. Tình trạng nêu trên khiến cho nền tài chính nước Pháp ngày càng hao hụt dần. Để khắc phục tình hình đó, một số cận thần trong triều đình kiến nghị cải cách, khuyên nhủ nhà vua giảm bớt hoạt động ăn chơi, tập trung vào chính sự. Thế nhưng, Louis XV không thèm đếm xỉa tới. Trong hồi ký của một cận thần phụ trách về Ngoại vụ đã ghi chép về thái độ của Louis XV như sau: “Khi anh nói với nhà vua về kinh tế và tiết kiệm trong cung đình, nhà vua liền quay đầu nói chuyện phiếm với quần thần khác” [30, tr. P13
  • 14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 78]. Trái ngược với thái độ bên trong nước Pháp, thực hiện quan điểm của vị vua tiền nhiệm, Louis XV quan tâm xúc tiến việc nâng cao vị thế của dòng họ Bourbon trên trường quốc tế mà bằng chứng là can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia châu Âu phong kiến 1 . Điều đó đẩy nước Pháp lao vào các cuộc chiến tranh không cần thiết, khiến cho vị thế quốc gia bị suy giảm ở châu Âu lục địa Năm 1774, Louis XV băng hà. Cháu nội của nhà vua lên ngôi lấy niên hiệu là Louis XVI (cầm quyền 1774-1793). Thừa hưởng di sản đổ nát từ ông nội, Louis XVI dưới sự cố vấn của Turgot – Tổng thanh tra tài chính, đã tiến hành một loạt cải cách với trọng tâm giải quyết nạn thiếu hụt ngân sách 2 . Các nỗ lực đó trong chừng mực nhất định mang lại hiệu quả tức thời, kích thích sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa của quốc gia. Thế nhưng, mọi nỗ lực cải cách không thể giải cứu một cách căn cơ mà ngược lại đẩy nước Pháp rơi vào vòng luẩn quẫn của những mâu thuẫn nội tại giữa quý tộc – tăng lữ với quần chúng nhân dân – đẳng cấp thứ ba, chiếm đến 90% dân số. “Tăng lữ phục vụ nhà vua bằng kinh cầu nguyện, quý tộc phục vụ nhà vua bằng cung kiếm, đẳng cấp thứ ba phục vụ nhà vua bằng tài sản” [16, tr. 22]. Do phải phục vụ nhà vua bằng tài sản thông qua hệ thống thuế má chằng chéo, dày đặc, quần chúng nhân dân ngày càng trở nên cùng cực. Tình cảnh này diễn ra phổ biến trong giai cấp nông dân – lực lượng lao động chính của xã hội nước Pháp thời bấy giờ. Thân phận của họ được mô tả trong đoạn văn nổi tiếng sau đây: “Người ta thấy một số thú vật dữ tợn, đực và cái, rải khắp các làng xóm, sạm đen, hốc hác và rám nắng, gắn chặt vào mảnh đất mà chúng đào xới một cách cực kỳ nhẫn nại; hình như chúng cũng có một giọng nói, và khi chúng đứng lên, người ta thấy chúng có bộ mặt người; và quả thực chúng là người. Đêm đến chúng rúc vào hang, sống bằng bánh mì đen, nước lã và rễ cây, nhờ chúng, những người khác khỏi phải gieo, cày và gặt để sống, và do đó chúng xứng đáng được hưởng thứ bánh mà họ gieo trồng” [16, tr. 30- 1 Vấn đề này sẽ trình bày trong mục 1.2. 2 Năm 1774, nhà vua ban bố cho phép tự do lưu thông lương thực trong cả nước. Năm sau (1775), sắc lệnh ban hành thay thế lao dịch làm đường thành thuế đường xá, và tất cả các đẳng cấp đều phải đóng thuế. Năm 1776, nhà vua thủ tiêu chế độ độc quyền rượu, cho tự do mua bán rượu v.v… P14
  • 15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 31]. Điều không phải ngạc nhiên, với tình cảnh như vậy, khắp nơi nông dân đã nổi dậy đấu tranh. Tâm trạng đó còn lây lan sang cả giai cấp tư sản do việc chính quyền phong kiến áp đặt những điều phi lý, phá hoại hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong khi chế độ chính trị khủng hoảng thì xã hội của nước Pháp chứng kiến sự lưu hành, truyền bá của trào lưu tư tưởng mới. Trào lưu Triết học Ánh sáng với những đại biểu xuất chúng, như: Montesquieu (1689-1755), Voltaire (1694-1778), Jeans Jacques Rousseau (1712-1778), Denis Diderot (1713-1784) v.v… Hạt nhân của Trào lưu này dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy lý, lý tính, đề cao tư tưởng trần thế của con người. Điều quan trọng, những tư tưởng này bắt nguồn từ những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến và tư tưởng triết học tiến bộ của châu Âu thời cận đại. Trào lưu Triết học Ánh sáng đã lật tẩy những kẻ ngự trị trong ngai vàng, xóa bỏ vầng hào quang thần thánh của Giáo hội vốn cầm tù nhân dân về mặt trí tuệ trong một thời gian khá dài trước đó và vạch ra một xã hội tương lai mà con người hướng tới, trong đó nhấn mạnh triết lý “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Sự thâm nhập của trào lưu Triết học Ánh sáng trong quần chúng nhân dân đang tràn ngập tư tưởng bất mãn. Tâm trạng của họ được đẩy lên khi cuộc khủng hoảng kinh tế trong nước, hạn hán, đói, rét… phổ biến khắp nơi. Tất cả dẫn đến cuộc khủng hoảng xã hội sâu rộng, những cuộc bạo động ở thành thị… là tình cảnh tiêu biểu của nước Pháp trong thập niên 60-70 của thế kỷ XVIII. Nước Pháp đứng bên bờ vực của một cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Lịch sử diễn ra đúng theo quy luật của nó. 1.2. Những mâu thuẫn giữa Anh và Pháp trong quan hệ quốc tế Ngay từ thời điểm giao thời giữa hai thế kỷ XVII - XVIII, chính trường châu Âu trở nên vô cùng sôi động với ván bài cạnh tranh quyền lực hết sức quyết liệt giữa hai cường quốc hàng đầu Cựu lục địa: nước Pháp và nước Anh. Mọi diễn biến ngoại giao tại lục địa châu Âu đều bị cuốn vào dòng xoáy của những giằng co hai bên. Nước Pháp dưới thời Louis XIV đạt tới trạng thái cực thịnh của chế độ phong kiến, tìm mọi cách phô diễn sức mạnh ra bên ngoài quốc gia. Mục tiêu cốt lõi của Louis XIV nhằm nâng cao địa vị của hoàng đế cùng với nước Pháp trên trường quốc tế. P15
  • 16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Để đạt mục tiêu đó, vị “Vua Mặt trời” thi hành chính sách sáp nhập những lãnh thổ của những quốc gia láng giềng theo nguyên tắc “đường biên giới tự nhiên”. Cơ sở của nguyên tắc này dựa vào quan điểm của Louis XIV cho rằng, bất kỳ đất đai nào xưa kia người Franks và người Gaul từng sinh sống đều phải đều phải sáp nhập vào lãnh thổ nước Pháp [7, tr. 144]. Quan điểm này nhanh chóng được Louis XIV cụ thể hóa bằng các cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha (1665) và Hà Lan (1688). Kết quả, nước Pháp chỉ giành lấy những vùng đất lân cận với diện tích nhỏ nằm xung quanh mình 3 . Những hành động hiếu chiến của Louis XIV không những đụng chạm tới quyền lợi trực tiếp của vua chúa châu Âu mà còn xung đột một cách căn bản lợi ích của một thế lực đang lên – nước Anh tư sản. Trong khi đó, sau cuộc Cách mạng “quang vinh” (1689) dẫn tới sự thiết lập vững chắc chế độ chính trị phục vụ cho lực lượng lãnh đạo cách mạng – tư sản và quý tộc mới, nước Anh đang hừng hực quyết tâm “thực hiện một chính sách có hệ thống nhằm khuyếch trương thương mại và hệ thống thuộc địa” [25, tr. 108] ra toàn bộ châu Âu và thế giới. Sự vươn ra bên ngoài của chính quyền London tất yếu dẫn tới đụng độ với triều đình Versaille. Sự va chạm đầu tiên giữa hai bên thực sự diễn ra trong cuộc Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha (1701-1714). Nguyên nhân của cuộc chiến tranh này bắt nguồn từ việc hoàng đế Tây Ban Nha – Charles II, không có con nối dõi nên nhiều đấng quân vương ở châu Âu lấy lý do có quan hệ huyết thống hay hôn nhân để đòi thừa kế vương vị. Trước lúc băng hà, Charles II để lại bản di chúc đề cử cháu nội của Louis XIV là công tước Philippe d’ Anjou kế thừa ngai vàng nhưng với điều kiện Tây Ban Nha không được hợp nhất với Pháp. Tháng 11-1700, Charles II lâm chung, công tước d’ Anjou lên ngôi với niên hiệu Philip V. Đầu năm 1701, Louis XIV tuyên bố Philip V cũng sẽ là người thừa kế ngôi báu của vương triều Pháp [30, tr. 75]. Do đó, nước Pháp đứng trước khả năng sẽ sáp nhập Tây Ban Nha vào lãnh thổ quốc gia theo nguyên tắc “đường biên giới tự nhiên”. Một khi kịch bản này xảy ra cũng đồng nghĩa với việc toàn bộ hệ thống 3 Nước Pháp thu được vùng đồng bằng Frash – Kontai, một số thành phố miền Nam của Netherland và Strasbourg. P16
  • 17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Âu (các tiểu quốc ở Italia, vùng đất phía Nam Nederland), khu vực Mỹ latinh và một số phần đất đai nhỏ bé ở châu Phi nằm trong biên giới nước Pháp. Dưới nhãn quan của các quốc gia phong kiến châu Âu, nếu kịch bản đó trở thành hiện thực sẽ phá vỡ thế cân bằng quyền lực – một học thuyết cho rằng bất kỳ một sự thay đổi nào tại vùng đất châu Âu cũng đe dọa đến sự ổn định của toàn bộ Cựu lục địa cũng như các vùng đất khác đang phụ thuộc vào nó. Còn với nước Anh tư sản, nguy cơ đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động thương mại, xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác trong lục địa do vấp phải hàng rào thuế quan của người Pháp đặt ra. Xa hơn, nước Anh sẽ mất dần việc kiểm soát các đại dương vốn được xác lập từ sau cách mạng tư sản, từ đó các thuộc địa của Anh dễ dàng rơi vào thế cô lập. Để chống lại ý đồ của Louis XIV, liên minh các nước châu Âu, bao gồm Anh, Hà Lan, Áo, Bồ Đào Nha và các tiểu quốc Đức lôi kéo nước Pháp vào cuộc chiến. Tháng 3-1701, chiến sự giữa hai bên bắt đầu nổ ra và kéo dài tới năm 1714. Cuộc chiến này theo cách hiểu một số sử gia phương Tây là “chiến tranh thế giới đầu tiên” [3, tr. 613]. Một điều chú ý trong cuộc chiến này, với tư cách một cường quốc tham gia liên minh chống Pháp nhưng nước Anh không trực tiếp dính líu, không tham gia chiến sự mà để quân đội của các quốc gia khác trong liên minh chiến đấu hộ mình. Nói cách khác, chính quyền London muốn “mượn tay” của kẻ khác để hạ gục đối thủ. Nhờ vậy, nước Anh một mặt đỡ tốn kém chi phí; mặt khác thoải mái hoành hành trên mặt biển và tạo điều kiện cho kiều dân của họ chiếm cứ các vùng lãnh thổ của nước Pháp nằm phía bên kia bờ Đại Tây Dương. Về mặt này, thủ tướng Đức – O. Bismarck từng nhìn nhận: “Chính sách của Anh lúc nào cũng chỉ nhằm tìm ở châu Âu một kẻ ngu ngốc nào đó chịu chìa lưng ra che chở cho những lợi ích của nước Anh” [25, tr. 108]. Đó là chính sách thuê “bạn bè” và xúi giục họ đánh kẻ thù của nước Anh. Hay theo nhận định của Hans Morgenthau – sử gia Mỹ nghiên cứu về quan hệ quốc tế thời cận đại: “Nước Anh, nước giữ thế cân bằng giỏi nhất… luôn để cho các quốc gia khác chiến đấu hộ mình, luôn giữ cho châu Âu bị chia rẽ để thống trị lục địa châu Âu và tính chất bất định trong chính sách nước này làm cho liên minh với Anh là điều không thể” [21, tr. 24-25]. P17
  • 18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Do chiến tranh kéo dài khiến cho các bên tham chiến mệt mỏi. Cuối cùng, các bên chấp nhận ký hiệp ước hòa bình Utrecht (1713). Theo đó, Philip V vẫn giữ ngôi vua Tây Ban Nha nhưng phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Pháp. Điều này có nghĩa, sự sáp nhập lãnh thổ Tây Ban Nha vào nước Pháp sẽ không xảy ra. Nước Pháp buộc thừa nhận một số vùng đất ở châu Âu nằm dưới sự chiếm đóng của Áo (Bỉ, Milan, Naples, v.v…) và Anh (Minorque và Gibraltar). Ngoài ra, tại Bắc Mỹ, nước Pháp phải nhượng cho Anh các vùng đất nằm xung quanh vịnh Hudson, Newfoundland và Acadia [15, tr. 242]. Đây là tổn thất lớn nhất của nước Pháp trong cuộc chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha và là “đoạn mở đầu cho quá trình thủ tiêu của các lãnh địa Pháp ở Bắc Mỹ” [25, tr. 105]. Ngược lại, đối với Anh, cuộc chiến đã mở ra thời kỳ quốc gia này “chiếm ưu thế hoàn toàn trên mặt biển” [25, tr. 105]. Bị thua thiệt so với Anh, đồng thời không thể xác lập trật tự tại châu Âu theo ý muốn, nhất là danh dự và uy tín giảm sút, triều đình Versaille kể từ sau khi vua Louis XIV băng hà (1715) vẫn tiếp tục nuôi tham vọng “lật ngược tình thế”. Tham vọng này được nước Pháp thể hiện vừa trên lục địa vừa trên mặt biển. Tại lục địa châu Âu, Louis XV - người kế vị Louis XIV, tập hợp lực lượng để tìm mọi cách cô lập nước Anh. Bằng chứng là, nước Pháp bắt đầu kết thân với nước Áo – đối thủ truyền kiếp của họ trong quá khứ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đây là “sự đảo lộn khối đồng minh”. Để đảm bảo cho liên minh này bền chặt, Louis XV ủng hộ Nữ hoàng Maria Theresa trong việc đòi lại vùng Silesia giàu có vốn bị mất vào tay Phổ trong cuộc Chiến tranh Thừa kế Áo (1740-1748). Lo sợ liên minh Pháp – Áo đánh mình, hoàng đế Phổ - Frederick II ký hiệp ước liên minh với vua nước Anh - George II (1-1756). Hiệp ước quy định, Phổ có trách nhiệm bảo vệ các lãnh địa của vua Anh ở Hanover, đồng thời cả Anh và Phổ “cam kết sẽ duy trì nền hòa bình ở Đức và sẽ cầm vũ khí chống lại bất kỳ cường quốc nào vi phạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Đức” [25, tr. 115]. Ngoài ra, hiệp định nêu rõ, Anh hổ trợ vũ khí cho Phổ trong trường hợp bị Pháp – Áo tấn công. Hành động của Phổ gây nên sự căm phẫn đối với Nữ hoàng Áo và hoàng đế Pháp. Quan hệ giữa Pháp – Áo với Phổ - Anh ngày càng căng thẳng, bên bờ vực chiến P18
  • 19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 tranh. Đây được xem là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Cùng với việc triển khai tập hợp lực lượng trên lục địa, nước Pháp ra sức phát triển tiềm lực trên mặt biển với việc tăng cường nâng đỡ ngành hàng hải, xây dựng các hạm đội mạnh và phát triển kho vũ khí (năm 1756, hạm đội của Pháp gần như ngang sức với hạm đội Anh [24, tr. 109]). Mỗi bước phát triển trên mặt biển của người Pháp cũng đồng thời với việc mở rộng xâm chiếm thuộc địa. Tại châu Mỹ, trên cơ sở các khu định cư được thiết lập ở Canada vào thế kỷ XVI, người Pháp bắt đầu đẩy nhanh quá trình thuộc địa hóa khu vực Bắc Mỹ. Từ những chuyến thám hiểm của Joliet và La Salle cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII, người Pháp xác lập chủ quyền của họ ở các thảo nguyên miền Tây và thung lũng sông Mississippi. Vùng lãnh thổ này sau đó được đặt tên là Louisiana để tỏ lòng tôn kính đối với vua Louis XIV. Năm 1718, New Orleans được thành lập và nhanh chóng trở thành một đầu mút quan trọng của tuyến đường chiến lược phía Nam từ vịnh Mexico tiến dọc theo sông Mississippi đi vào sâu các vùng lãnh thổ nội địa Bắc Mỹ. Cũng trong thời gian này, người Pháp còn tuyên bố quyền sở hữu của họ trên toàn bộ vùng phía Tây dãy Appalachian. Có thể nói rằng, vào nửa đầu thể kỷ XVIII, “nước Pháp mới” (New France) ở Bắc Mỹ là một vùng hết sức rộng lớn, trong đó bao gồm nhiều lãnh thổ màu mỡ ở phía Tây dãy Appalachian. Sự phát triển quá nhanh chóng về diện tích của các thuộc địa Pháp khiến cho người Anh vô cùng nghi kỵ, bởi họ cũng đang trong quá trình mở rộng đất đai ở Bắc Mỹ. Cho đến nửa đầu thế kỷ XVIII, người Anh đã thiết lập ở đây được 13 thuộc địa. Những tuyên bố sở hữu ngày càng nhiều của người Pháp đối với các vùng đất dọc theo sông Mississippi và các vùng lân cận đã gần như tạo ra vành đai kiềm chế quá trình mở rộng đất đai của các thuộc địa Anh về phía Tây. Mặt khác, mối quan hệ tốt đẹp giữa nước Pháp với người Mỹ bản địa thực sự là mối đe dọa trực tiếp đến sự an toàn của tất cả thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ. Tại Ấn Độ, Công ty Đông Ấn Pháp được sự hậu thuẫn của các thủ lĩnh địa phương tìm cách bành trướng lãnh thổ. Kết quả, Pondichery, Calicut đặt dưới sự quản lý của Pháp. Sự bành trướng của Pháp tại tiểu lục địa này khiến cho các thương điếm P19
  • 20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 của Anh ở Madras, Calcutta và Bombay thuộc quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh bị đặt trong tình trạng mất an ninh, có nguy cơ bị xóa sổ. Trước sự bành trướng mạnh mẽ của Pháp ở thuộc địa cũng như đòn ngoại giao khiêu khích, gây hấn một cách chủ động nhằm vào đồng minh của mình (Phổ) tại lục địa châu Âu, chính quyền London bắt đầu có những động thái đáp trả, bởi dưới quan điểm của họ “thời buổi quan hệ hữu hảo với kẻ láng giềng hay quấy nhiễu đã qua” [25, tr. 108]. Nước Anh dưới thời thủ tướng William Pitt (cầm quyền 1756-1761) đã tiến hành cổ xúy, quyết đấu không khoan nhượng chống lại nước Pháp. Là người đại diện cho lợi ích thương nghiệp, W. Pitt chủ trương bành trướng hải ngoại, phản đối việc trói buộc lợi ích nước Anh vào bất kỳ quyền lợi của các quốc gia châu Âu lục địa nào, mở rộng thuộc địa, xây dựng đế quốc hải ngoại [6, tr. 174]. Vốn đã ra mặt gây chiến chống Pháp từ sau Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha, từ giữa thập niên 50 của thế kỷ XVIII, chiến hạm Anh công khai săn đuổi tàu buôn Pháp. Năm 1755, chỉ trong vòng một tháng, tàu chiến Anh đã bắt 300 tàu buôn Pháp cùng 8.000 thủy thủ [25, tr. 114]. Trước hành động của Anh, Louis XV lên tiếng phản đối và đòi trừng phạt những kẻ phạm tội. Không những đáp ứng theo yêu cầu của Louis XV, nước Anh còn bắt giữ thêm 2 chiến hạm của Pháp. Để trả đũa, năm 1756, nước Pháp tuyên chiến với Anh. Chiến tranh kéo dài từ năm 1756 tới năm 1763, lịch sử gọi đây là Chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Cuộc chiến này nhanh chóng lôi kéo đồng minh của mỗi bên vào cuộc. Một bên là Pháp – Áo, bên kia là Anh – Phổ. Chiến trường chính diễn ra ở châu Âu, Bắc Mỹ, Ấn Độ và trên các đại dương. Giống như trong cuộc Chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha (1701-1714), tại chiến trường châu Âu, chính quyền London tiếp tục chính sách “thuê bạn” để làm suy yếu nước Pháp. Bằng cách chu cấp tiền bạc hậu hĩnh và vũ khí cho Phổ, nước Anh để tiểu quốc này chống chọi với quân đội Pháp trên đất liền. Để phần nào hạn chế sức mạnh đối phương, nước Anh còn tiến hành phong tỏa bờ biển nước Pháp, thả mìn các hải cảng và phá các cầu tàu. Những việc làm của Anh có tác dụng kìm hãm chân nước Pháp trên các chiến trường châu Âu để từ đó người Anh hoàn toàn rãnh tay tập trung vào các mục tiêu chính của mình là các thuộc địa. Năm 1759, người Anh chiếm trọn Canada và một số vùng đất ở Ấn Độ vào năm 1761. P20
  • 21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Do vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Anh trên khắp các mặt trận, quân đội Pháp nhanh chóng bị thất bại. Đến đầu năm 1763, chiến sự chấm dứt với sự thất bại hoàn toàn của nước Pháp. Nguyên nhân của tình trạng này, xuất phát từ “tổ chức yếu kém, kỷ luật vô nguyên tắc và sự lạm dụng khiếm nhã dẫn đến một loạt thất bại trong cuộc chiến tranh Bảy năm” [25, tr.14]. Tháng 2-1763, hiệp ước Paris được ký kết. Theo đó, tại Bắc Mỹ, nước Pháp nhượng Canada, Nova Scotia, Cape Breton, Florida cho Anh. Ngoài ra, Pháp buộc phải chuyển giao Louisiana cho Tây Ban Nha theo yêu cầu của Anh (xem phụ lục 1). Tại tiểu lục địa Ấn Độ, hiệp ước Paris cũng quy định, nước Pháp không có quân đội và pháo đài ở Bengal, đồng thời thừa nhận sự ủng hộ của người Anh đối với các bộ lạc ở Carnatic và Deccan [58, tr. 164]. Có thể khẳng định rằng, hiệp ước Paris đánh dấu sự kết thúc, “dấu chấm hết” cho quá trình xóa sổ quyền sở hữu thuộc địa của Pháp ở Bắc Mỹ và Ấn Độ. Nước Pháp lặng lẽ rời khỏi “cuộc chơi” với tâm trạng đầy cay đắng, tủi nhục, nhường lại quyền đạo diễn sân khấu quyền lực cho nước Anh. Không những vậy, sau năm 1763, nước Pháp bị đẩy xuống địa vị cường quốc hạng hai [30, tr.79]. Vai trò chi phối chính trường châu Âu không còn nằm trong tay người Pháp. Bằng chứng là, một số nước quân chủ châu Âu (Phổ, Áo và Nga) không tham khảo ý kiến của nước Pháp trong việc phân chia Ba Lan [19, tr. 61]. Quyền “minh chủ” của Pháp trên lục địa châu Âu không có ý nghĩa đối với những quốc gia khác. Chính vì điều này, sự uất hận của chính giới Pháp dành cho người Anh mãi mãi trở thành ký ức sâu thẳm, không bao giờ phôi phai. Một cơ hội phục thù người Anh luôn được người Pháp trông chờ. Điều cần phải nói thêm rằng, những cuộc chiến tranh giữa Anh – Pháp trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ XVIII kết thúc với “những thủ đắc lãnh thổ được xem như những thẻ nhựa dùng thay tiền trong các sòng bạc mà các nhà lãnh đạo phải thu hoặc gom được tùy theo may rủi của chiến tranh, không chút quan tâm đến lợi ích của người dân” [3, tr. 569]. 1.3. Chiến tranh giành độc lập của cư dân Mỹ Việc Columbus phát hiện ra châu Mỹ (1492) đã mở ra quá trình di dân ồ ạt từ châu Âu sang Bắc Mỹ trong suốt 3 thế kỷ (XVI – XVIII). Trong khi người Tây Ban Nha sớm hoàn thành việc định cư ở Trung và Nam Mỹ, thì những di dân người Anh lại đặt chân lên vùng đất Bắc Mỹ vào những thập niên đầu thế kỷ XVII, thiết lập khu định P21
  • 22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cư đầu tiên ở Jamestown (Virginia). Năm 1607 có khoảng 100 người, đến năm 1624 có 14.000 người di trú ở vùng Bắc Mỹ [24, tr. 18]. Số người Anh đến định cư ngày càng đông và lan rộng ra nhiều vùng đất ven bờ Đại Tây Dương. Đến năm 1752, chính quyền Anh đã thành lập ở đây được 13 thuộc địa 4 với dân số 1.171.000 người 5 [37, tr. 67]. Các cộng đồng cư dân từng bước hình thành bao gồm người bản địa – Indian, người Âu da trắng, người Phi da đen. Họ sinh sống trên cùng một vùng lãnh thổ, có sự giao lưu về kinh tế và văn hóa dần dần dẫn đến có tâm lí chung của những người đi khai phá lập nghiệp ở những miền xa xôi, gian khổ, song người Anh chiếm đa số nên cộng đồng cư dân đã lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính. Một điều dễ dàng nhận thấy rằng, các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ mặc dù chịu sự quản lý của mẫu quốc nhưng vẫn ngày càng lớn mạnh, nhất là trên phương diện kinh tế. Điều này khiến cho cư dân ở đây nhận thức rằng “sức mạnh và sự thịnh vượng của đế chế Anh phụ thuộc đáng kể vào việc nước Anh sở hữu vùng đất ở Bắc Mỹ và ngày càng to lớn hơn trong tương lai” [34, tr. 61]. Những yếu tố trên gắn kết những thế hệ cư dân tiếp nối thành một cộng đồng mang tính dân tộc, ngày càng xa rời quê hương ban đầu của cha ông họ. Điều quan trọng hơn là những lợi ích về chính trị và kinh tế càng thúc đẩy họ gắn bó với nhau và càng khát khao tách khỏi sự ràng buộc với nước Anh, bởi họ chỉ được xem như công dân thuộc địa của Vương quốc. “Sự tự nhận là thuộc địa của đế chế Anh có lẽ được xem như bằng chứng cho ý thức chậm phát triển của cư dân Mỹ” [34, tr.61]. Cho đến giữa thế kỷ XVIII, quan hệ giữa chính quốc với thuộc địa không còn “xuôi chèo mát mái” như trước. Về phía các thuộc địa Bắc Mỹ, sau thắng lợi của Anh trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756-1763), Pháp buộc phải từ bỏ chủ quyền đất đai tại Bắc Mỹ. Mối đe dọa của Pháp đối với cư dân Bắc Mỹ bị đẩy lùi, họ thấy không còn 4 Bao gồm các thuộc địa: Connecticut, Delaware, Georgia, Maryland, Massachusetts, New Jersey, New York, New Hamphsire, North Carolina, Pennsylvania, Rhode Island, South Carolina, Virginia. 5 Quá trình di cư của người Anh sang Bắc Mỹ trong các thế kỷ XVII - XVIII là hệ quả của những biến động kinh tế - xã hội. Thứ nhất, việc tước đoạt đất đai của người nông dân diễn ra hàng loạt trước, trong và sau cách mạng tư sản Anh; thứ hai, thứ hai, sự bất đồng chính kiến giữa nhà vua với một bộ phận quý tộc mới và tư sản; thứ ba, sự đàn áp tôn giáo của vua Anh đối với các tín đồ Thanh giáo. P22
  • 23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cần đến sự giúp đỡ của chính quốc. Mặt khác, trong cuộc chiến tranh giữa Anh với Pháp, các thuộc địa đã thành lập các đội dân quân. Các đội dân quân này đã thực sự trưởng thành qua chiến đấu bên cạnh quân Anh. Do vậy, các thuộc địa cho rằng họ đủ khả năng tự vệ mà không cần đến sự hiện diện của quân đội mẫu quốc. Về phía nước Anh, thời điểm Chiến tranh Bảy năm kết thúc cũng là lúc chính quyền London từ bỏ chính sách “sao lãng” đối với các thuộc địa Bắc Mỹ vốn duy trì một thời gian dài trước đó (chính sách này được các thuộc địa gọi là “chính sách sao lãng có lợi” (the policy of salutary neglect) [55, tr. 21]. Sự thay đổi này trong chính sách cai trị thuộc địa của chính quyền London xuất phát từ hai lý do sau: Thứ nhất, với Hiệp ước Paris 1763, diện tích thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ đã được mở rộng rất nhiều, vấn đề đặt ra là đòi hỏi mẫu quốc cần phải hoạch định một chính sách thuộc địa cẩn thận, rõ ràng hơn để đảm bảo những vùng đất mới sáp nhập có thể nhanh chóng ổn định về mặt quản lí và phát triển theo đúng quỹ đạo của đế quốc Anh. Thứ hai, dù cho với tư cách là người thắng trận trong cuộc chiến với Pháp, nhưng Anh vẫn gặp phải nhiều khó khăn, nhất là về mặt kinh tế. Các khoản tiền vay nợ của chính phủ đối với người dân trong nước để có kinh phí tham chiến với Pháp ngày càng chồng chất, đè nặng lên vai họ. Theo thống kê, một năm trước lúc chiến tranh Bảy năm nổ ra (1755), số tiền nợ là 72.289.673 bảng Anh; năm 1764, một năm sau khi chiến tranh kết thúc, số tiền nợ đã lên tới 129.586.789 bảng Anh [66, tr. 31]. Để bù đắp di sản của chiến tranh, chính quyền London xiết chặt cai trị ở các thuộc địa Bắc Mỹ. Chính quyền Anh, một mặt biến các thuộc địa thành thị trường dành riêng cho các chế phẩm của chính quốc; mặt khác lại áp dụng một loạt các loại thuế đi ngược lại quyền lợi của cư dân Bắc Mỹ. Các loại thuế này được biết dưới cái tên “Thuế không cần đại diện” 6 , gồm “Đạo luật đường” (1764);“Đạo luật tiền tệ” (1764); “Đạo luật Binh bị” (1765) và “Đạo luật thuế tem” (1765). 6 “Thuế không cần đại diện” (Taxation without the representation) là khái niệm do các thuộc địa Bắc Mỹ đưa ra vì các khoản thuế được chính phủ Anh thông qua mà không có sự tham khảo hoặc không có sự đồng ý của các đại biểu tham gia trong hội đồng đại diện các thuộc địa. Trước thời điểm loại thuế này ra đời, bất kỳ đạo luật nào chính phủ London thi hành tại các thuộc địa Bắc Mỹ đều phải được Hội đồng đại diện các thuộc địa phê chuẩn. P23
  • 24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Bằng phương pháp đánh “Thuế không cần đại diện”, chính quyền Anh “nhanh chóng thu được một khoản thu nhập gấp mười lần từ các thuộc địa so với trước năm 1763” [10, tr. 135]. Ngược lại, đối với các thuộc địa, việc chấp hành các đạo luật nêu trên trở thành áp lực đối với cư dân Bắc Mỹ. Giới thương nhân miền Bắc phải chịu đựng những hạn chế đối với hoạt động thương mại, như: việc cấm không được tiếp tục khai thác các khu đất miền Tây và buôn bán lông thú hoặc việc hạn chế các cơ hội mở rộng các ngành chế biến. Với món nợ nặng lãi với các thương nhân Anh, các điền trang miền Nam không có khả năng làm giảm các khoản nợ của mình bằng việc khai khẩn các vùng đất miền Tây. Tầng lớp tiểu nông, một lực lượng khá đông đảo tại các thuộc địa phải chịu hậu quả nặng nề của việc cấm phát hành tiền giấy – vốn là nguồn cung cấp các khoản vay chính của họ. Công nhân thì phải đương đầu với cơ hội việc làm ngày càng hạn chế do chính quốc không cho phép phát triển các ngành công nghiệp chế biến. Nhìn chung, tất cả tầng lớp nhân dân thuộc địa đều phải chịu đựng các đạo luật về thuế mà chính quốc ban hành. Mặc dù, hầu hết cư dân thuộc địa cố gắng tìm cách thích ứng với những đạo luật mới nhưng sự bất bình về chính trị của họ rất lớn. Những cư dân thuộc địa vốn đã quen với sự tự do mà họ có được từ các cơ quan đại diện địa phương. Họ tin rằng các hội đồng đại diện của các thuộc địa có đầy đủ quyền để quản lý các khoản ngân sách dành cho chi phí của Chính phủ thuộc phạm vi các thuộc địa. Vì vậy, với việc tìm cách bỏ qua các hội đồng đại diện chung và tăng mức thu trực tiếp từ người dân, Chính phủ Anh đã tạo nên một thách thức lớn đối với quyền lực chính trị. Bởi dưới nhãn quan của cư dân thuộc địa, việc một Nghị viện không phải của họ thông qua một cách không công khai các quyết định về quyền lợi và của cải của họ là điều không chấp nhận được. Trong tất cả các đạo luật thì “đạo luật thuế tem đã trở thành điểm mấu chốt trong mâu thuẫn lớn dẫn đến việc các thuộc địa Mỹ tự tách khỏi Anh quốc” [10, tr.135]. “Đạo luật thuế tem” gây ra phản ứng dữ dội của nhân dân thuộc địa. Một phong trào chống đối diễn ra đồng loạt ở 13 thuộc địa Bắc Mỹ. Các hội kín của quần chúng ra đời nhằm liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng. Điển hình nhất là “Hội những P24
  • 25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 người con tự do”. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, chính quyền Anh bãi bỏ đạo luật Thuế tem vào năm 1766. Tuy vậy, một năm sau, tức năm 1767, Bộ trưởng Ngân khố Anh – Charles Yownshend, chủ trương xây dựng chương trình thuế khóa mới nhằm giảm gánh nặng thuế ở trong nước bằng việc phát triển thu thuế từ ngành thương mại tại các thuộc địa. Theo đó, các đại luật Townshend được ban hành với nội dung áp đặt lên các thuộc địa những thứ thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng của Anh như giấy, thủy tinh, chì, chè. Phong trào tẩy chay (sử dụng các sản phẩm khác thay thế sản phẩm nhập khẩu) rộng rãi và hiệu quả cùng những vụ phản đối bằng bạo lực thường xuyên diễn ra ở các thuộc địa đã khiến cho Nghị viện Anh năm 1770 buộc phải lùi bước và quyết định hủy bỏ các đạo luật thuế Towshend. Phong trào ở thuộc địa sau đó có vẻ đã lắng xuống nhưng sự bất bình với chính quốc không vì thế mà mất đi bởi tâm trạng này không chỉ xuất hiện trong vấn đề thương mại mà còn xuất hiện trong những vấn đề khác nữa. Cùng với đạo luật thuế, chính sách của thực dân Anh đã đẩy sự bất mãn của cư dân thuộc địa lên thêm một bước trong vấn đề mở rộng vùng khai hoang phía Tây dãy Appalachian. Rõ ràng khi tham gia chiến tranh chống Pháp cùng với chính quốc Anh, các thuộc địa kỳ vọng sẽ gặt hái được nhiều quyền lợi nhất, trong đó quyền lợi mở rộng vùng định cư về phía Tây được hết sức quan tâm bởi dân số thuộc địa phát triển nhanh khiến nhu cầu về đất đai sinh sống ngày càng lớn (trong thập niên 60 của thế kỷ XVIII, tổng số dân thuộc địa khoảng 1.594.000 người – gấp hơn 6 lần kể từ năm 1700) [37, tr. 67]. Thế nhưng ngay sau khi giành thắng lợi, năm 1763, người Anh lại ban hành đạo luật cấm dân thuộc địa không được tự do di dân và chiếm đất đai ở phía Tây dãy Appalachian. Điều này có nghĩa, chính phủ Anh đã đi ngược lại hoàn toàn lợi ích sinh tồn của các thuộc địa ở không gian phía Tây. Những biện pháp nêu trên đã khơi sâu mâu thuẫn giữa nhân dân các thuộc địa Bắc Mỹ với nhà nước thực dân Anh, đồng thời phản ánh nguyện vọng của nhân dân Bắc Mỹ muốn thoát khỏi chế độ cai trị thực dân Anh để tuyên bố thành lập một quốc gia độc lập. Điều cần phải nói thêm rằng, tâm lý muốn li khai của các thuộc địa Bắc Mỹ diễn ra trong bối cảnh các trào lưu tư tưởng Khai sáng vốn có nguồn gốc từ châu Âu, đang P25
  • 26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 thịnh hành trong dân chúng. Tư tưởng Khai sáng được chấp nhận rộng rãi nhất là học thuyết của John Locke, thể hiện rõ trong tập sách “Khảo luận về chính phủ” xuất bản năm 1690. Hạt nhân của học thuyết J. Locke là khái niệm chính phủ 7 . Tư tưởng này được cư dân thuộc địa tiếp thu và biến nó trở thành vũ khí lý luận chống lại vua Anh. Để chống lại chính quyền Anh, đêm 16-12-1773, khi ba chiếc tàu Anh chở chè đang bỏ neo ở cảng Boston, một nhóm người do Sammuel Adams dẫn đầu, cải trang thành người da đỏ leo lên tàu, đổ toàn bộ 343 thùng chè trị giá 100.000 bảng Anh xuống biển. Hành động này đã nhận được sự tán thưởng của nhân dân các thuộc địa. “Sự kiện chè Boston” đã trở thành ngòi nổ làm bùng phát cuộc Chiến tranh giành độc lập của nhân dân Bắc Mỹ. Phản ứng “Sự kiện chè Boston”, Quốc hội Anh lập tức thông qua các đạo luật Đạo luật Bất khoan dung (Intolerable Acts) 8 nhằm trừng trị cư dân Bắc Mỹ. Động thái cứng rắn của chính quyền London đã làm cho mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa trở nên hết sức căng thẳng. Theo đề nghị của thuộc địa Massachusetts, từ ngày ngày 5-9 đến 26-10-1774, Đại hội lục địa lần thứ nhất diễn ra ở Philadelphia. Mục đích Đại hội là nhằm biểu lộ ý chí cách mạng của cư dân thuộc địa. Tại Đại hội, 56 đại biểu của 12 thuộc địa (trừ Georgia) ra Nghị quyết “Về quyền của người dân lập nghiệp ở thuộc địa; về sự sống, tự do và tài sản; về quyền của cơ quan lập pháp địa phương được xác định toàn bộ các trường hợp đánh thuế và hình thức nhà nước nội bộ; thành lập Hiệp hội lục địa đóng vai trò của tổ chức lãnh đạo các thuộc địa xóa bỏ những tàn dư của chính quyền Hoàng gia” [24, tr. 19]. Nghị quyết lập tức nhận được sự hưởng ứng của các tầng lớp 7 Theo J. Locke, nhà nước có nhiệm vụ cao cả trong việc bảo vệ sự sống, tự do và quyền tư hữu của công dân. Quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân và nhân dân ủy quyền cho chính phủ đứng ra bảo vệ quyền lợi của họ. Trong trường hợp chính phủ vi phạm các quyền tự nhiên của người dân, họ sẽ là người có quyền bãi nhiệm chính quyền đã được bầu chọn. 8 Hải cảng Boston bị phong toả và chỉ hoạt động trở lại khi hoàn lại đủ giá trị thùng chè bị phá huỷ; hiến chương xứ Massachusetts được sửa đổi để tăng cường quyền hạn của thống đốc; tướng Thomas Gage – Tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ, được cử làm Thống đốc xứ Massachusetts và được toàn quyền thi hành các đạo luật [1, tr. 27]. P26
  • 27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhân dân 13 thuộc địa, từ những người nghèo, các nhà doanh nghiệp, các chủ đồn điền cho đến trại chủ và giới trí thức. Đại hội lục địa lần thứ nhất được xem như là biểu tượng cho khát vọng độc lập và thống nhất của các thuộc địa trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung là thoát khỏi sự thống trị của thực dân Anh. Quốc hội Anh không đáp ứng một yêu cầu nào của Đại hội lục địa, trái lại càng gia tăng ách áp bức hơn trước bằng việc ban hành một loạt các đạo luật mới, như cấm các thuộc địa Bắc Mỹ buôn bán trực tiếp với các nước khác, cấm ngư dân đánh cá ở ven biển, cấm sản xuất hàng công nghiệp, cấm xây dựng nhà máy luyện sắt, cấm mở doanh nghiệp v.v... Chính sách của chính quyền Anh đã làm cho quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa trở nên căng thẳng. Chính phủ Anh tăng cường quân đội sang Bắc Mỹ và thi hành nhiều chính sách nghiêm ngặt. Ở các thuộc địa Bắc Mỹ, nhân dân với khí thế sôi sục, họ quyết tâm đấu tranh đòi tách khỏi sự khống chế của Anh. Ngày 19-4-1775, quân Anh tiến đánh chiếm kho vũ khí của nhân dân ở Lexington, xả súng bắn vào 70 chiến sĩ thuộc tổ chức “Những người Một phút” và “tiếng súng vang khắp hành tinh này” (theo cách gọi của nhà thơ Ralph Waldo Emerson) đã thổi bùng lên ngọn lửa chiến đấu ở Massachusetts và sau đó lan rộng đến các thuộc địa khác. Lần đầu tiên, cuộc đấu tranh của nhân dân Bắc Mỹ chống Anh đã đổ máu. Với trận Lexington, các thuộc địa hiểu rằng chiến tranh đã bắt đầu. Trong vòng 20 ngày, một tinh thần ái quốc và đoàn kết của các thuộc địa trỗi dậy mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, ngày 10-5-1775, Đại hội lục địa lần thứ hai được triệu tập tại Philadelphia. Tham dự đại hội có một số nhân vật nổi tiếng, như: John Hancock, Thomas Jefferson, Benjamin Franklin v.v... Đại hội quyết định thành lập quân đội lục địa do Đại tá George Washington làm Tổng tư lệnh. Quân đội thuộc địa với tên gọi “Những kẻ nổi loạn”. Ngày 17-6-1775, tại Boston, trận giao chiến xảy ra giữa quân Anh và quân đội thuộc địa Bắc Mỹ. Kết quả là bộ binh Anh bị tổn thất đến 1.000 người. Ngày 4-7-1776, trong lúc chiến sự diễn ra ác liệt, Đại hội lục địa lần thứ hai đã thông qua bản Tuyên ngôn độc lập. P27
  • 28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Tuyên ngôn lên án các tội ác của chế độ thực dân Anh mà kẻ đại diện là nhà vua và “trịnh trọng công khai và tuyên bố rằng các thuộc địa liên minh với nhau này đã và có quyền phải là Quốc gia Tự do và Độc lập” [24, tr.21]. “Quốc gia Tự do và Độc lập” này từ bỏ mọi sự trung thành với nhà vua Anh, xóa bỏ những liên hệ chính trị với nước Anh, có quyền tiến hành chiến tranh, kí kết hiệp ước hòa bình, xây dựng liên minh, thiết lập quan hệ thương mại và thực thi mọi công việc của một quốc gia có chủ quyền. Cùng với bản Tuyên ngôn độc lập là sự ra đời một quốc gia mới ở lục địa châu Mỹ với tên gọi “The United States of America” (thường gọi là Hoa Kỳ hoặc Mỹ). Có thể khẳng định rằng Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện tiến bộ không chỉ có ý nghĩa khai sinh ra một quốc gia độc lập mới mà còn bày tỏ những triết lí sâu sắc về quyền tự do của con người. Bản Tuyên ngôn đã cũng cố cho mỗi người dân Mỹ một niềm tin mãnh liệt rằng sự tranh đấu vì nền độc lập của nước Mỹ cũng là sự tranh đấu vì quyền tự nhiên của mỗi con người. Mặt khác, với Tuyên ngôn độc lập, người Mỹ đã có một cơ sở rõ ràng hơn để tìm kiếm nguồn viện trợ cũng như đồng minh chiến đấu từ bên ngoài mà chủ yếu là các quốc gia châu Âu lục địa, bởi dưới nhãn quan của các lãnh đạo cách mạng Mỹ thì “không một nước nào ở châu Âu sẽ chịu ký hiệp ước hay buôn bán với chúng ta (nước Mỹ - TG chú thích) chừng nào chúng ta còn nhận mình là thần dân của nước Anh” [55, tr. 19]. Sau khi tuyên bố lập quốc, nhân dân Mỹ phải tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt giành độc lập trong một hoàn cảnh không thuận lợi. Chiến tranh kéo dài thêm sáu năm nữa với một số thất bại trong giai đoạn đầu nhưng cuối cùng quân đội thuộc địa đã giành được thắng lợi lớn ở trận Yorktown (19-11-1781). Với chiến thắng này, quân Anh buộc phải hạ khí giới, chấp nhận đầu hàng. Hai năm sau, tức năm 1783, Hiệp ước Paris được ký giữa Anh và Mỹ. Anh buộc phải thừa nhận nền độc lập của nhân dân Bắc Mỹ. Như vậy, cuộc Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc địa Bắc Mỹ đã buộc nhà cầm quyền Anh thừa nhận nền độc lập của Hợp Chúng quốc Mỹ như đã nêu rõ trong bản Tuyên ngôn độc lập (4-7-1776). Đây là cuộc cách mạng tư sản với mục tiêu giải phóng dân tộc. Thắng lợi vẻ vang của cuộc chiến tranh giành độc lập nhân dân Bắc Mỹ có ý nghĩa lớn trong lịch sử. Theo C. Mác, “cuộc Chiến tranh giành độc lập của nhân P28
  • 29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 dân Bắc Mỹ là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với giai cấp tư sản châu Âu, trước hết đã góp phần thúc đẩy cuộc Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ vào cuối thế kỷ XVIII” [7, tr. 109]. Mặt khác, nó có tác dụng cổ vũ phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ latinh chống lại ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong thời gian tiếp theo. 1.4. Cách mạng Mỹ với việc tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế Một thực tế cần bàn, thời điểm chiến sự nổ ra giữa cư dân Bắc Mỹ với quân đội Anh (4-1775), phần lớn các thuộc địa ở đây vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối đầu với mẫu quốc. Tâm trạng dè dặt, chưa muốn ly khai khỏi chính quốc vẫn lưu hành khá rộng rãi trong cư dân cũng như đối với các đại biểu tham gia Đại hội lục địa. Mặt khác, một bộ phận dân cư vẫn còn nặng tư tưởng bi quan về cuộc chiến với nước Anh, bởi họ nhận thức rằng việc đối đầu với thế lực có tiềm lực quân sự hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ chẳng khác nào đẩy các thuộc địa lâm vào tình thế “trứng chọi với đá”. Điều tất yếu, sự thất bại nằm trong dự báo của họ. Chính vì những quan điểm như vậy khiến cho các đại biểu tham gia Đại hội lục địa lần thứ hai chưa tính đến việc kêu gọi sự giúp đỡ, viện trợ bên ngoài cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của họ, bởi điều này sẽ dẫn tới khả năng phá vỡ mọi nỗ lực đàm phán, thương lượng với chính quyền London. Mặt khác, những đại biểu tham dự Đại hội lục địa lần thứ hai vốn có gốc gác, tổ tiên từ Cựu lục địa nên chính họ cũng thấu hiểu phần nào tâm lý nghi ngại, khéo léo che dấu bằng hành động một cách lạnh lùng của các triều đình phong kiến châu Âu trước thực tế của một cuộc đấu tranh diễn ra trong nội bộ đế chế Anh. Đó là chưa kể tới những nhà ngoại giao châu Âu có tư tưởng giảo hoạt, dễ dàng thay đổi trong mọi tình huống. Do đó, Đại hội lục địa không mấy hào hứng trong việc tìm kiếm viện trợ đến từ phía bên kia Đại Tây Dương. Không một ai trong Đại hội lục địa có thể khẳng định chắc chắn rằng những quốc gia phong kiến châu Âu trước kia vốn thù địch với cư dân Bắc Mỹ (với tư cách thuộc địa của đế chế Anh) lại giúp đỡ các thuộc địa của Anh ở Tây bán cầu một cách vô tư, không vị lợi, tính toán thiệt hơn cho bản thân họ. Tâm trạng này của Đại hội lục địa được thể hiện qua quan điểm của John Adams khi nói về sự khác biệt giữa cư dân Bắc Mỹ và châu Âu: “Sự xảo quyệt, tài sáng chế bịa đặt, tính P29
  • 30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cách hết sức kín đáo và sự yên lặng tuyệt đối của những triều đình châu Âu này sẽ là quá nhiều cho những công sứ hấp tấp, nóng nảy và những người lơ đễnh, lười biếng của chúng ta mặc dù cũng yên lặng như họ” [55, tr. 23]. Thế nhưng, trước những chính sách hết sức hà khắc cùng với sự phong tỏa thuộc địa Bắc Mỹ từ chính quốc đã đẩy nền kinh tế - chính trị của 13 thuộc địa rơi vào tình trạng hỗn loạn, vô cùng bi đát. Tình cảnh đó tác động tới những người tham gia quân đội cách mạng. Đồng tiền do các thuộc địa phát hành bị mất giá nghiêm trọng: “Một xe ngựa chở đầy tiền khó mua nổi một xe ngựa chở đầy lương thực, thực phẩm” [56, tr. 7] và do đó, “không có gì lạ khi những người lính ở thung lũng Forge đã đi bộ bằng chân không trong tuyết và những trung đoàn của New Jersey và Pennsylvannia trốn khỏi hàng ngũ mà ở đó họ đang chết đói” [56, tr. 7]. Tháng 7-1775, Ủy ban An toàn New York (The New York Committee of Safety) đã phàn nàn rằng: “Chúng tôi (cư dân Bắc Mỹ - TG chú thích) không có vũ khí, chúng tôi không có thuốc súng, chúng tôi không có quân trang; Ơn Chúa, hãy gửi cho chúng tôi tiền, khí giới và đạn dược” [45, tr. 23]. Hay như vị Tổng tư lệnh quân đội thuộc địa, G. Washington thừa nhận trong dịp lễ Nôen (12-1775): “Sự túng thiếu thuốc súng là không thể tưởng tượng được, sự lãng phí một ngày và không có nguồn cung cấp là viễn cảnh ảm đạm” [48, tr. 33]. Hiện tượng đào ngũ không chỉ diễn trong quân đội do G. Washington chỉ huy mà ngay cả đối với dân quân địa phương. Đây được xem là tình trạng phổ biến khắp nơi ở thuộc địa Bắc Mỹ. Giống như bất cứ cuộc chiến tranh nào, những người Mỹ cách mạng cũng không thể chiến đấu mãi và đi tới chiến thắng chỉ bằng mỗi lòng nhiệt tình, yêu tự do mà không có thuốc súng, không trang bị quân sự… Trải qua một mùa đông 1777-1778 khắc nghiệt ở thung lũng Forge trong tình trạng thiếu thốn mọi thứ, chính G. Washington cũng phải thừa nhận rằng: “Sự nghiệp của chúng ta đang ở trong một điều kiện kiệt quệ, đổ nát và tệ hại hơn nhiều so với lúc bắt đầu cuộc chiến tranh… Những lợi ích chung của nước Mỹ đang tan dần và đắm chìm dần vào sự tan vỡ không thể cứu vãn nổi nếu như không có một phương thuốc nào được áp dụng sớm” [56, tr. 8]. Phương thuốc mà G. Washington và các nhà cách mạng nghĩ tới chính là tìm kiếm sự ủng hộ, viện trợ từ phía bên ngoài. P30
  • 31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Sự cần kíp trong việc tìm kiếm ủng hộ, viện trợ từ bên ngoài cần phải được đẩy nhanh hơn trong bối cảnh ở Bắc Mỹ đang tràn ngập tin đồn về việc nước Anh đang đề nghị với Pháp và Tây Ban Nha tiến hành phân chia lục địa Bắc Mỹ, đổi lại các quốc gia này hổ trợ nước Anh đàn áp cuộc nổi dậy của cư dân ở đây. Và chắc chắn, nước Pháp sẽ bị hấp dẫn bởi đề nghị của nước Anh nhằm phân chia các vùng đất Bắc Mỹ tại Paris [34, tr. 66-67]. Tin tức này nhanh chóng lan tới Đại hội lục địa lần thứ hai khiến cho các đại biểu lo lắng. Bóng ma của một hiệp ước phân chia Bắc Mỹ do nước Anh khởi xướng khiến những nhà ái quốc cách mạng nhận thức rằng, “trong khi chúng ta đang lưỡng lự về sự thiết lập liên minh [nước ngoài], nước Anh có lẽ ký ấn triện phá vỡ chúng ta bằng cách ký hiệp ước phân chia Bắc Mỹ với hai hoặc ba cường quốc giàu tham vọng” [34, tr. 66]. Vấn đề đặt ra, Đại hội lục địa cần có quan điểm dứt khoát hơn về con đường đi tới độc lập, tách khỏi đế chế Anh cũng như sự cần thiết trong việc thiết lập một liên minh với một quốc gia bên ngoài nhằm đấu tranh chống lại quân đội Anh. Trong bản “Tuyên ngôn về những nguyên nhân khởi nghĩa vũ trang” (Declaration of the causes of taking up arms), Đại hội lục địa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ủng hộ quốc tế với sự nghiệp cách mạng: “Sự nghiệp của chúng ta là chính đáng, liên minh của chúng ta là hoàn hảo. Nguồn lực của chúng ta là to lớn và trong trường hợp cần thiết, sự ủng hộ quốc tế sẽ đạt được một cách chắc chắn” [34, tr. 64]. Với quan điểm như vậy, ngày 29-11-1775, tức bảy tháng sau sự kiện Lexington, Đại hội lục địa lần thứ hai quyết định thành lập “Ủy ban liên lạc bí mật” (Committee of Secret Correspondence) 9 nhằm “mục đích duy nhất là kết thân những người bạn của chúng ta ở Anh, Ai Len và các quốc gia khác trên thế giới” [36, tr. 22]. Cơ quan này nhanh chóng cử Arthur Lee, một người Virginia đang sinh sống ở London, cải trang thành phóng viên với mục đích thăm dò thái độ dư luận của Anh cũng như các vị đại sứ của các nước châu Âu đang có mặt tại đây. Lúc đầu, “Ủy ban liên lạc bí mật” tỏ ra khá thận trọng, chủ yếu tập trung nhiều hơn vào khả năng tiếp cận trong phạm vi đế quốc Anh: “Những người bạn của chúng 9 Đây là cơ quan tiền thân của Bộ Ngoại giao Mỹ. Những thành viên đầu tiên của cơ quan này gồm John Dickson, Benjamin Franklin, Benjamin Harrison, John Jay và Thomas Johnson. P31
  • 32. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 ta ở nước Anh, Ai len và những nơi khác trên thế giới” [55, tr. 19]. Những người Mỹ yêu nước mong đợi “tình huynh đệ trong nội bộ đế chế Anh mà chia sẽ một di sản chính trị chung sẽ kề vai sát cánh với sự nghiệp của cư dân Bắc Mỹ” [34, tr. 70]. Di sản chính trị bao gồm quyền được sống, tự do và tài sản. Họ kỳ vọng dư luận tiến bộ ở nước Anh sẽ gây áp lực để lật đổ nội các có tư tưởng thù địch với sự nghiệp của nhân dân Bắc Mỹ. Thế nhưng, sự trông chờ này nhanh chóng trở nên ảo tưởng, vô vọng. Trong bối cảnh đó, Đại hội lục địa lần thứ hai quyết định tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài từ những cường quốc có thái độ đồng cảm với sự nghiệp chính nghĩa của họ để tiến hành cách mạng. Một vấn đề đáng lưu ý trong Đại hội lục địa lần thứ hai là các đại biểu luôn đặt sự xung đột của Anh với các thuộc địa Bắc Mỹ trong mối tương quan quyền lực của quan hệ quốc tế ở châu Âu, bởi họ cho rằng, mẫu quốc - nước Anh tạo ra không ít sự hiềm khích, thù địch với nhiều quốc gia khác. Là một người từng sinh sống, làm việc nhiều năm ở nước Anh và các triều đình phong kiến châu Âu, Benjamin Franklin – thành viên của Đại hội lục địa, đã viết rằng: “Tất cả các quốc gia châu Âu (ngoại trừ Anh) luôn đứng bên cạnh vấn đề của chúng ta. Song châu Âu có lý do riêng của nó. Các quốc gia đó tự cho rằng đang đối mặt với tình trạng nguy hiểm trước sự lớn mạnh của nước Anh và sẽ thú vị chứng kiến đế chế Anh bị tan rã” [34, tr. 63]. Hàng loạt vấn đề liên quan đến thái độ của các quốc gia ở Cựu lục địa được các đại biểu đưa ra: “Nước Pháp ở đâu, Tây Ban Nha ở đâu ? Hà Lan ở đâu ? những kẻ thù tự nhiên của nước Anh – họ đang ở đâu trong thời điểm này ? Bạn có nghĩ rằng, các quốc gia này sẽ ủng hộ chúng ta với sự thờ ơ và vô ích hay không ? Có phải Louis XVI (vua nước Pháp – TG chú thích) ngủ quên trong thời điểm này hay không ? Hãy tin tôi, Câu trả lời là Không?” [34, tr. 63]. “Hãy tin tôi, câu trả lời là Không”, có nghĩa rằng, các cường quốc châu Âu sẽ không đứng ngoài cuộc đấu tranh của cư dân Bắc Mỹ. Với nhận thức như vậy đã giúp các nhà cách mạng Mỹ chuẩn bị trước cho một tâm lý ít nghi ngại hơn trong việc vận động sự giúp đỡ từ phía châu Âu lục địa. Có một niềm tin chung tồn tại trong những nhà ái quốc Mỹ rằng sự mâu thuẫn gay gắt giữa Anh với cường quốc hàng hải đang lên – nước Pháp, là cơ hội cho người Mỹ giải quyết quan hệ với Anh. Dưới nhãn quan của họ, nước Pháp là quốc gia lục địa P32
  • 33. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 châu Âu hùng mạnh, giàu có và có khả năng giúp đỡ cư dân Bắc Mỹ nhiều nhất vì có mối thâm thù truyền kiếp với nước Anh. Cuối năm 1775, “Ủy ban liên lạc bí mật” bắt đầu thực hiện những cuộc tiếp xúc hết sức kín đáo với những đặc vụ Pháp ngay trên đất Mỹ. Tháng 3-1776, Đại hội lục địa quyết định cử Silas Dean dưới danh nghĩa một thương gia Connecticutt đang tìm kiếm việc làm, tới Paris nhằm thăm dò thái độ của chính giới Pháp về tình hình Bắc Mỹ, đồng thời “yêu cầu sự giúp đỡ về quân trang, vũ khí, đồ dự phòng, tiền bạc và bất cứ phương tiện nào mà nước Pháp có thể đáp ứng cho cuộc đấu tranh chính nghĩa này” [56, tr. 29]. Mặc dù có những động thái nhằm xích lại gần với nước Pháp nhưng trong Đại hội lục địa vẫn tồn tại nhiều quan điểm hoài nghi về động cơ, mục đích thực sự của nước Pháp trong trường hợp quốc gia này can dự vào cuộc chiến tranh giữa Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ. Trong suốt tháng 3 và 4-1776, chủ đề này thường xuyên chi phối trong các cuộc tranh biện của các đại biểu. Trong nhật ký của mình, John Adams đã phản ánh không khí này như sau: “Quyền lợi của Pháp ảnh hưởng như thế nào trong cuộc xung đột giữa Anh và thuộc địa Bắc Mỹ ? Nước Pháp sẽ đứng trung lập hay tham gia cùng với Anh hoặc với các thuộc địa Bắc Mỹ ? Có phải mối lưu tâm của Pháp muốn phân chia đế chế Anh hay không ? Các thuộc địa của Pháp vẫn an toàn hay không trong trường hợp Anh và thuộc địa Bắc Mỹ giữ vững quan hệ ? Nước Pháp có thể bảo vệ các thuộc địa của nó hay không ? Hiện tại nước Pháp đang sở hữu Martinique, Guadeloupe và một nửa lãnh thổ Hispaniola. Trường hợp hòa giải giữa Anh và thuộc địa Bắc Mỹ diễn ra, và cuộc chiến tranh Anh và Pháp nổ ra, nước Pháp có giữ được các lãnh thổ đó trong vòng 6 tháng hay không ?” [34, tr. 65]. Những tranh cãi về mục đích, động cơ của nước Pháp trong cuộc chiến tranh ở Bắc Mỹ dù cho tạo ra những quan điểm khác nhau nhưng phần lớn các đại biểu trong Đại hội lục địa đều thống nhất hướng tới nước Pháp. “Chúng ta (các đại biểu – TG chú thích) hãy thông báo chính thức tới triều đại Bourbon, tối thiểu của Pháp, rằng chúng ta trông đợi duy nhất sự kiên định của nước Pháp để tuyên bố độc lập của chúng ta. Chúng ta sẽ không phải nói chuyện với tất cả các cường quốc bên ngoài nhưng chỉ một trong số đó mà chúng ta đang mong đợi ủng hộ sự nghiệp chúng ta… Hãy để nước P33