Cơ sở lý luận về tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng. Tín dụng ngân hàng khác với các loại hình tín dụng khác là ngân hàng cho khách hàng vay từ nguồn vốn nhận gửi từ dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức khác…và hưởng lợi từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy tín dụng ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản.
Cơ sở lý luận về tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người
sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu
Theo quan điểm này, phạm trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu là: tính chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông
qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng
hóa. Quá trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn sau:
Thứ nhất, phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này, giá trị vốn tín
dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận được giá trị và cũng chỉ
một bên nhượng đi giá trị.
Thứ hai, sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi nhận được
giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc
tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được quyền sử dụng trong một khoảng
thời gian nhất định mà không được quyền sở hữu về giá trị đó.
Thứ ba, đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín
dụng đã hoàn thành một chu kì sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được
người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay.
Có nhiều hình thức tín dụng như: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng
nhà nước, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế…Trong đó, tín dụng ngân hàng là hình thức
phổ biến và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt
trong hoạt động của mỗi ngân hàng. “Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền
sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi
phí nhất định”[15].
Như vậy, tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân
hàng một bên là khách hàng, trong đó ngân hàng chuyển tiền hay tài sản cho khách hàng
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
với những thoả thuận hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định. Tín dụng ngân
hàng bao gồm các hoạt động chính là: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
Tín dụng ngân hàng khác với các loại hình tín dụng khác là ngân hàng cho khách
hàng vay từ nguồn vốn nhận gửi từ dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức khác…và hưởng
lợi từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Tín dụng là hoạt động mang lại nhiều
lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy tín
dụng ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cơ bản.
1.1.2. Hình thức tín dụng ngân hàng
Căn cứ thời hạn tín dụng có thể phân chia thành các loại tín dụng sau:
Một là, cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của
loại cho vay này thường là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động
Hai là, cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này là tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Ba là, cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, loại cho vay này
thường nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án lớn.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, có các loại tín dụng sau:
Thứ nhất, cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn
để quyết định cho vay.
Thứ hai, cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay
như thế chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba khác.
Dựa vào phương thức vay, tín dụng có thể chia thành hai loại là: cho vay theo món
vay và cho vay theo hạn mức tín dụng.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả vốn vay, có các loại tín dụng sau:
Một là, cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi
đáo hạn.
Hai là, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp
Ba là, Cho vay trả nợ nhiều lần phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay.
Việc lựa chọn hình thức vay phụ thuộc vào điều kiện sản xuất kinh doanh của khách
hàng và mức độ đáp ứng yêu cầu quy định của ngân hàng đặt ra.
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
không ngừng tăng. Các tiêu chí phân loại cũng thay đổi tỉ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng
quy mô các doanh nghiệp.
Thông thường khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên số lao động được
sử dụng rộng rãi bởi vì nó không dễ dàng chịu sự ảnh hưởng của những khác biệt về mức
thu nhập và những thay đổi trong giá trị của đồng tiền nội địa qua các thời kỳ khác nhau
của mỗi quốc gia.
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa được đưa ra tại điều 3, Nghị định
56/2009/NĐ-CP của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh, độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động hàng năm không
quá 300 người.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà Nước
- Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 78/2015 NĐ- CP ngày
14/09/2015 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Căn cứ tình tình kinh tế cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các
biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và
lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng ở Việt Nam cần phân định doanh nghiệp nhỏ và
vừa theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Đối với lĩnh vực sản xuất: doanh nghiệp có vốn dưới
1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp từ có 1 tỷ
đến 10 tỷ đồng vốn, 100 đến 500 lao động là doanh nghiệp vừa. Đối với lĩnh vực thương
mại và dịch vụ: doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu đồng và dưới 50 lao động là doanh
nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ và lao động từ 50 đến 250 người
là doanh nghiệp vừa.
1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
1.1.4.1. Những đặc điểm thuộc về thế mạnh của DNNVV
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Một là, DNNVV có vốn đầu tư ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh và hiệu quả.
Số vốn đăng ký ban đầu của DNNVV không quá 10 tỷ đồng và chu kỳ sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ngắn nên khả năng thu hồi vốn nhanh, tăng tốc độ quay vòng vốn
để đầu tư vào công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh
hiệu quả.
Hai là, DNNVV tồn tại và phát triển ở hầu hết các lĩnh vực, các thành phần kinh tế,
góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Các DNNVV hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế: thương mại, dịch
vụ, công nghiệp, xây dựng, nông - lâm - ngư nghiệp…và hoạt động dưới nhiều hình thức:
DNNN, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở kinh tế cá thể.
Ba là, DNNVV có tính năng động và linh hoạt cao trước những thay đổi của thị
trường; có khả năng chuyển hướng sản xuất, kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng
nhanh vì vốn đầu tư ít; quy mô nhỏ và thu hồi vốn nhanh. Mặt khác, do DNNVV tồn tại
ở mọi thành phần kinh tế nên khi không thích ứng được với nhu cầu của thị trường, với
loại hình sản xuất - kinh doanh này thì doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển hướng sang
loại hình khác cho phù hợp với thị trường.
Bốn là, DNNVV có khả năng chấp nhận rủi ro, mạo hiểm: xuất phát từ quy mô nhỏ,
vốn đầu tư không lớn nên doanh nghiệp có thể mạnh dạn tham gia vào những ngành mới,
lợi nhuận ban đầu thấp hoặc những ngành sản xuất ra những sản phẩm chỉ đáp ứng những
nhu cầu cá biệt.
Năm là, DNNVV có bộ máy tổ chức sản xuất, quản lý gọn nhẹ: với quy mô nhỏ, số
lượng lao động ít, công tác quản lý điều hành mang tính trực tiếp, quan hệ giữa người quản
lý với người lao động khá chặt chẽ. Các quyết định quản lý được đưa ra và thực hiện nhanh
chóng, không ách tắc và trách nhiệm phiền hà nên có thể tiết kiệm tối đa chi phí quản lý
doanh nghiệp.
1.1.4.2. Những đặc điểm hạn chế của DNNVV
Một là, quy mô vốn và năng lực tài chính còn hạn chế nên DNNVV khó tiếp cận các
kênh huy động vốn. Với đặc trưng quy mô kinh doanh là vừa và nhỏ, vốn điều lệ ban đầu thấp
(dưới 10 tỷ đồng) nên các DNNVV thường không đáp ứng được nhu cầu vốn cho đầu tư.
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nguồn tài chính hạn hẹp, quy mô lợi nhuận nhỏ dẫn đến tỷ lệ vốn từ lợi nhuận đạt được không
cao, tích tụ tập trung để tái sản xuất diễn ra chậm, giá trị tài sản thuần thấp (tổng giá trị tài sản
của doanh nghiệp sau khi trừ đi nợ phải trả), uy tín trên thương trường không cao…nên các
nhà đầu tư coi đây là khu vực nhiều rủi ro. Chính vì vậy DNNVV gặp nhiều trở ngại khi tiếp
cận các kênh huy động vốn trong nền kinh tế.
Hai là, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất kinh doanh còn yếu:
Nguồn tài chính hạn chế đã khiến cho các DNNVV không có điều kiện đầu tư quá
nhiều vào việc nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại,
càng không thể tập trung nhiều vào công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Ba là, thị trường nhỏ hẹp và năng lực cạnh tranh hạn chế.
Do hạn chế về vốn, công nghệ, lao động, nên các DNNVV chỉ hoạt động trong phạm
vi nhỏ, đáp ứng yêu cầu cho một đoạn thị trường nhất định. Việc sử dụng các công nghệ
lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm không cao, tính cạnh tranh trên thị trường kém.
DNNVV cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, thâm nhập thị trường và phân phối
sản phẩm do thiếu thông tin về thị trường, công tác marketing còn kém hiệu quả.
Bốn là, năng lực quản lý còn thấp.
Phần lớn DNNVV mới chỉ hoạt động trong thời gian ngắn nên trình độ, kỹ năng của
chủ doanh nghiệp cũng như của người lao động còn hạn chế. Số lượng DNNVV có chủ
DN, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ
phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về
kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh.
Mặt khác, DNNVV ít có khả năng thu hút được những nhà quản lý và lao động có trình độ,
tay nghề cao do không thể trả lương cao kèm theo các chính sách đãi ngộ hấp dẫn để thu hút
và giữ chân những nhà quản lý và những người lao động giỏi.
Năm là, sự liên kết giữa các DNNVV còn hạn chế
Tuy bước đầu đã có một số hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp ra đời tập hợp các DNNVV
nhưng mới chỉ ở mức độ trao đổi kinh nghiệm, thông tin, cùng đưa ra kiến nghị về chính
sách, pháp luật…Phần lớn các DNNVV chưa có sự liên kết chặt chẽ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh theo hướng tổ chức phân công lao động sản xuất sâu, rộng; hỗ trợ nhau về
vốn, công nghệ, kỹ thuật; cùng nhau giải quyết những vấn đề phát sinh trong các khâu của
quá trình sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh.
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Mặt khác, sự liên hợp tác, liên kết giữa các DNNVV và các doanh nghiệp lớn còn
hạn chế, vì vậy chưa khai thác được lợi thế nhờ quy mô của hai khu vực này.
1.2. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của lẫn nhau trên nguyên tắc hoàn trả
và sự tin tưởng. Thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình
thức tiền tệ hoặc hàng hóa. Quá trình vận động của vốn tín dụng trải qua 3 giai đoạn: đầu
tiên giá trị của vốn tín dụng được chuyển từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn.
Vốn này được sử dụng để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng trong một
khoảng thời gian nhất định. Sau một khoảng thời gian cam kết, có thể khi kết thúc một chu
kỳ sản xuất, vốn tín dụng được người sử dụng hoàn trả cho người sở hữu một lượng giá trị
lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Hoạt động tín dụng có thể diễn ra trực tiếp giữa những người cần bổ sung vốn và
những người thặng dư vốn nhưng do không có sự phù hợp về quy mô, thời gian, không
gian…nên quan hệ này bị hạn chế. Tín dụng ngân hàng đã khắc phục những nhược điểm
của tín dụng trực tiếp, các ngân hàng tập trung các nguồn vốn từ những người thặng dư
vốn, phân phối cho những người cần bổ sung vốn. Hoạt động tín dụng ngân hàng có ý
nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và nền kinh tế nói chung.
1.2.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nền kinh tế được tổ chức bằng các doanh nghiệp khác nhau về quy mô, đối tượng,
ngành nghề, có đặc điểm tuần hoàn và lưu chuyển vốn khác nhau. Một số doanh nghiệp đã
bán được hàng có tiền nhưng chưa đến lúc trả lương cho nhân viên, mua nguyên vật liệu,
nộp thuế, đổi mới tài sản cố định… những doanh nghiệp này có tiền nhàn rỗi. Bên cạnh đó
cũng có những doanh nghiệp có tình trạng ngược lại, cần vốn để mua nguyên vật liệu, đầu
tư tài sản cố định, trả lương nhân viên,… Ngân hàng sẽ đáp ứng những nhu cầu khác nhau
về vốn của doanh nghiệp thông qua hoạt động tín dụng. Ngân hàng sẽ huy động lượng vốn
ở các doanh nghiệp tạm thời dư thừa về vốn và cho vay đối với những doanh nghiệp cần
bổ sung vốn. Nhờ vốn tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp có thể đảm bảo quá trình sản
xuất thường xuyên liên tục, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển, đáp ứng kịp
thời nhu cầu của xã hội. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, vai trò của tín dụng thể hiện:
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2.1.1 Tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các ngân hàng thương mại với những ưu thế về khả năng tài chính, tính chuyên
môn hóa nghề nghiệp, phạm vi hoạt động rộng …là trung gian tài chính quan trọng trên thị
trường tài chính. Ở Việt Nam vai trò trung gian tài chính của ngân hàng càng thể hiện rõ.
Thị trường chứng khoán chưa phát triển, số lượng doanh nghiệp niêm yết còn ít, khối lượng
vốn đầu tư thông qua thị trường chứng khoán hầu như không đáng kể. Khi có nhu cầu về
vốn chủ yếu các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn tìm đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Khi sử dụng nguồn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thỏa
mãn những điều kiện tín dụng, chịu sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí vốn. Chính
những sự ràng buộc này là động lực quan trọng để doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động hiệu
quả hơn.
Doanh nghiệp muốn sử dụng vốn vay phải cung cấp các hồ sơ để ngân hàng đánh
giá bao gồm hồ sơ pháp lý, hồ sơ tài chính, hồ sơ tài sản đảm bảo, hồ sơ về phương án vay
vốn hay dự án vay vốn và một số hồ sơ khác. Thông qua những tài liệu này, ngân hàng sẽ
nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các doanh nghiệp đáp ứng
được yêu cầu của ngân hàng mới được nhận tài trợ. Ngân hàng chỉ tài trợ đối với phương
án sản xuất và dự án đầu tư có tính khả thi. Doanh nghiệp phải xây dựng được kế hoạch
kinh doanh cụ thể, có căn cứ xác thực thông qua các hợp đồng đầu vào, đầu ra. Những
phương án, dự án này phải tính đến các chỉ tiêu kinh tế đảm bảo được nguồn trả nợ cho
ngân hàng cũng như lợi nhuận cho chính doanh nghiệp khi vay vốn… Do đó, trong quá
trình thực hiện dự án giảm thiểu rủi ro kinh doanh cho doanh nghiệp.
Sau khi doanh nghiệp nhận tài trợ, ngân hàng sẽ có những biện pháp kiểm soát
được hoạt động liên quan đến khoản vay của doanh nghiệp. Hoạt động kiểm soát của ngân
hàng có thể thực hiện thường kỳ, hoặc bất thường như quá trình nhập hàng hóa, tiêu thụ
hàng hóa, số hàng hóa tồn kho,… Cũng nhờ vậy, thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả, nâng cao khả năng hạch toán kinh doanh, khả năng tổ chức sản xuất, tạo động lực tìm
kiếm đầu vào, đầu ra.
1.2.1.2 Tín dụng ngân hàng hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp liên tục phát sinh các nhu cầu sản
xuất, duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh. Những nhu cầu của doanh nghiệp phát sinh
đều cần đến vốn. Thực tế, nguồn vốn chủ sở hữu chỉ đáp ứng được một phần nhỏ các nhu
cầu này, phần lớn doanh nghiệp phải dựa vào nguồn vốn nợ trong đó có vốn tín dụng ngân
hàng. Tín dụng ngân hàng góp phần cung cấp các yếu tố đầu vào để doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh. Cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng, hoạt động thanh toán diễn ra
nhanh chóng, an toàn nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp có
điều kiện mở rộng thị trường, tiếp nhận các dây chuyền công nghệ, máy móc, thiết bị đẩy
mạnh hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ đến
việc tiêu thụ sản phẩm thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh
cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, mua bán hàng hóa.
1.2.1.3 Tín dụng ngân hàng tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng
dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường. Tín dụng ngân hàng tác
động điều tiết sự chuyển vốn đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn chế
hoặc không đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó, quan hệ cung - cầu
hàng hóa thay đổi và thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Với đặc điểm năng động, nhạy bén với
sự thay đổi của môi trường kinh doanh, khi có sự thay đổi về cung - cầu hàng hóa trên thị
trường, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ nhanh chóng chuyển đổi đầu tư đáp ứng nhu cầu
thị trường.
1.2.2 Các hình thức tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hoạt động tín dụng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng
thương mại nhưng đồng thời cũng đem đến nhiều lợi nhuận nhất trong hoạt động của ngân
hàng thương mại. Để sử dụng và quản lý hoạt động này có hiệu quả, cũng như đảm bảo an
toàn cho hoạt động của toàn ngân hàng, các ngân hàng thường tiến hành phân loại tín dụng
theo các tiêu thức các nhau.
1.2.2.1 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Chiết khấu thương phiếu:
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thương phiếu là công cụ tín dụng thương mại dùng để xác nhận cho người thụ
hưởng một trái quyền ngắn hạn về tiền đối với người phải trả. Thương phiếu ra đời và tồn
tại từ hàng trăm năm trước đây, và trở thành công cụ tài chính phổ biến, mang tính thống
nhất, khuyến khích các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ hàng hóa, thúc đẩy quá trình sản
xuất kinh doanh.
Người thụ hưởng thương phiếu có thể giữ thương phiếu đến hạn đòi tiền người
phải trả, hoặc mang đến ngân hàng xin chiết khấu. Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng
của ngân hàng trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu
chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi
lợi tức và hoa hồng phí.
Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ khá đơn giản ít phiền phức đến ngân hàng.
Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho khách hàng nên độ an toàn của thương phiếu
tương đối cao. Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu
ngắn, ngân hàng có thể tái chiết khấu tại ngân hàng trung ương để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản với chi phí thấp. Nghiệp vụ này có rủi ro khi ngân hàng nhận phải những thương
phiếu giả mạo, hoặc người chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu mất khả năng thanh
toán trước khi thương phiếu đến hạn.
Cho vay
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử
dụng một khoản tiền nhất định để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi1
Hoạt động cho vay chiếm phần lớn tổng tài sản và nguồn thu của ngân hàng,
đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân hàng chủ yếu tập trung vào danh mục các
khoản vay. Nghiệp vụ cho vay cũng bao gồm nhiều loại khác nhau trong đó có:
Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ qua đó ngân hàng cho phép người vay chi trội trên
số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và khoảng thời gian nhất
1
Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
định. Hình thức này chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn
và kỳ thu nhập ngắn, phần lớn không có đảm bảo.
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến đối với khách hàng
không có nhu cầu thường xuyên, vốn vay ngân hàng chỉ tham gia một giai đoạn nhất định
của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải làm thủ tục vay
vốn cần thiết. Ngân hàng sẽ xác định quy mô cho vay, thời hạn trả nợ, thời hạn giải ngân,
lãi suất và yêu cầu các điều kiện khác nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt thành các hồ
sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát tách biệt từng hồ sơ đó.
Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách
hàng một hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời hạn nhất định. Trong
kỳ, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, cung cấp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ phù hợp với yêu cầu vay. Ngân hàng sẽ
dựa trên tính chất hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu này để phát tiền cho khách hàng. Đây
là hình thức cho vay thuận tiện đối với những khách hàng thường xuyên, vốn vay tham gia
thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không
ấn định thời hạn trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ
động trong quản lý ngân quỹ của khách hàng. Nhưng do các lần vay không tách biệt thành
các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng trong từng lần vay.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng
hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho vay để mua hàng và sẽ
thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm, hoặc đầu quý doanh nghiệp làm đơn xin vay
luân chuyển và thỏa thuận với ngân hàng về hình thức, hạn mức tín dụng, các nguồn cung
cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Ngân hàng và doanh nghiệp phải nghiên cứu kế hoạch
lưu chuyển hàng hóa để dự đoán ngân quỹ trong thời gian tới. Đối tượng ngân hàng cho
vay là giá trị hàng hóa mua vào và nguồn chi trả là thu nhập bán hàng. Khi vay, doanh
nghiệp gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng
sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ của doanh nghiệp.
Các khoản hàng hóa trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay. Hình thức này, thường
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ
ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian, áp
dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Ngân
hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian. Tổ
chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên vay vốn. Cho vay qua
trung gian tiết kiệm được chi phí cho vay, giảm bớt rủi ro cho ngân hàng.
Bảo lãnh
Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ
như đã cam kết.
Đây là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không xuất tiền ngay khi bảo
lãnh mà chỉ khi khách hàng không thực hiện cam kết thì ngân hàng có trách nhiệm chi trả
cho bên thứ ba. Hình thức tài trợ này tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro
cho các bên liên quan. Đối với đối tượng được bảo lãnh thì có thể tìm kiếm được nguồn tài
trợ mới, thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Đối với ngân hàng,
có thể tăng thu nhập thông qua việc thu phí bảo lãnh, mở rộng dịch vụ khác của ngân hàng.
Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại cho bên thứ ba khi có tổn thất xảy ra.
Hình thức bảo lãnh cũng đa dạng tùy thuộc vào mục tiêu bảo lãnh bao gồm: bảo
lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm.
Cho thuê
Hoạt động cho vay là hoạt động tài trợ chủ yếu của ngân hàng cho khách hàng,
nhưng trong một số trường hợp khách hàng không đủ điều kiện vay vốn. Để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê lại.
Đây là phương thức vay tài sản thông qua hợp đồng cho thuê, kèm theo lời hứa đơn phương
bán cho người thuê một giá nhất định có tính đến những số tiền thuê đã trả. Trong nghiệp
vụ này, ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng và sau một thời gian nhất
định phải thu đủ gốc và lãi, tài sản cho thuê thường là các tài sản cố định. Hoạt động tài trợ
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
này chứa đựng nhiều rủi ro, khách hàng có thể kinh doanh không hiệu quả, tài sản cho thuê
mang tính đặc chủng, khó bán hay cho thuê lại…
1.2.2.2 Phân theo thời hạn
Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm. Xuất phát từ đặc trưng
của hoạt động kinh doanh ngân hàng là kinh doanh tiền gửi, trong đó chủ yếu là tiền gửi
ngắn hạn nên các khoản tín dụng ngân hàng thường tài trợ ngắn hạn để đảm bảo khả năng
thanh toán. Đối với tín dụng ngắn hạn, nguồn vốn của ngân hàng gắn liền với quá trình
luân chuyển vốn của doanh nghiệp, đây cũng là cơ sở để ngân hàng xác định thời hạn cho
vay hợp lý.
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, góp phần phân tán rủi ro và tăng cường khả
năng cạnh tranh, các ngân hàng không ngừng phát triển đa dạng hóa các hình thức tín dụng
ngắn hạn: cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, cho vay theo món, cho vay hạn mức,
…Doanh nghiệp là đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng, thông thường các khoản
tín dụng đều có tài sản đảm bảo.
Tín dụng trung và dài hạn
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần một nguồn vốn lớn với
thời gian dài để mở rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị, công nghệ, nhằm tăng cường sức
sản xuất và cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp thường tìm đến các ngân hàng
tìm kiếm tài trợ thông qua tín dụng trung và dài hạn, đó là những khoản tín dụng có thời
hạn trên 1 năm. Những khoản tín dụng từ trên 1 năm đến 5 năm được coi là tín dụng trung
hạn, trên 5 năm được coi là tín dụng dài hạn. Cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu vốn
trung và dài hạn ngày càng tăng, nên hình thức tín dụng này được các doanh nghiệp ưa
dùng.
Tín dụng trung và dài hạn tạo ra một năng lực sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực
hiện tại của doanh nghiệp. Đối tượng chủ yếu của nó là vốn cố định của doanh nghiệp, các
chi phí hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh nghiệp nên giá trị của khoản tín dụng
thường lớn, thời gian hoàn vốn chậm, mức độ rủi ro cao. Các ngân hàng thường tài trợ cho
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
doanh nghiệp thông qua các dự án, ngân hàng phải phân tích dự án kỹ lưỡng trước khi
quyết định tài trợ.
1.2.2.3 Phân theo mức độ đảm bảo
Tín dụng có đảm bảo
Thông thường các khoản tín dụng của ngân hàng đều có tài sản đảm bảo, đó là
những tài sản của người nhận tín dụng hay tài sản, uy tín của người thứ ba. Tài sản đảm
bảo gắn trách nhiệm vật chất của người nhận tín dụng trong việc sử dụng vốn của ngân
hàng, ngăn ngừa hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng trong trường hợp
khách hàng không trả được nợ.
Tín dụng không có đảm bảo
Hình thức tín dụng này chiếm tỷ lệ không nhiều trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Đây là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Đối tượng
chủ yếu là những khách hàng thực hiện những dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc
biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế xã hội. Khoản
vay đối với công ty lớn, khoản vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng kiểm
soát việc bán hàng cũng có thể không cần sử dụng tài sản đảm bảo.
Ngoài ra, ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng có uy tín thường là khách
hàng có quan hệ truyền thống với ngân hàng, làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài
chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn chủ
sở hữu…
1.2.3 Mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1 Phân loại
Mở rộng về đối tượng
Mở rộng về phạm vi
Mở rộng về phương thức
Mở rộng về qui mô
Nâng cao chất lượng hiệu quả
1.2.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá
a. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng về phía ngân hàng
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ĐÓ đánh giá hiệu quả tín dụng trong nội bộ NHTM, người ta sử dụng “Hệ số chênh
lệch lãi ròng” là tỷ số giữa thu nhập lãi ròng với số tài sản có hoặc tài sản sinh lêi.
Hệ số chênh lệch
lãi ròng (%)
=
Thu nhập lãi ròng
x 100
Tài sản sinh lời
Công thức trên đã chỉ rõ các tiêu thức chủ yếu liên quan trực tiếp đến khả năng sinh
lời của hoạt động tín dụng là thu nhập lãi ròng và tài sản sinh lời. Trong đó nhân tố thu
nhập lãi ròng của tài sản sinh lời giữ vai trò trọng yếu.
Thêm vào đó, để đánh giá đầy đủ hiệu quả tín dụng trong năm tài chính, người ta
còn tính đến hệ số:
Giá trị tín dụng tæn thất thực tế
x 100
Tài sản sinh lời
Tóm lại, khả năng sinh lợi của các khoản cho vay và đầu tư phụ thuộc vào chi phí
của các khoản cho vay, đầu tư; tæn thất tín dụng và lãi suất ngân hàng áp dụng.
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ở năm tài chính nói trên, người ta còn
sử dụng đến một số chỉ tiêu khác khi xem xét mặt hoạt động này trong một quá trình nhiều
năm đến thời điÓm nghiên cứu, cụ thÓ là:
Phân tích tình hình nợ quá hạn đÓ biết chất lượng tín dụng, khả năng rủi ro, hiệu
quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng, từ đó có biện pháp khắc phục trong tương lai.
Tỷ lệ nợ quá hạn( % ) =
Nợ quá hạn
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ khó đòi( % ) =
Nợ khó đòi
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ tổn thất( % ) =
Nợ được xếp loại tổn thất
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi
ro( % )
=
Quỹ dự phòng rủi ro
x 100
Tổng dư nợ
= Quỹ dự phòng rủi ro x 100
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi
ro với nợ được xếp loại
tæn thất( % )
Nợ được xếp loại tổn thất
Nợ được xếp loại tổn
thất
= Nợ xoá từ chủ trương của Chính phủ
Trên đây là những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng về phía ngân hàng.
Hiệu quả do hoạt động tín dụng mang lại phải bù đắp chi phí cho vay, rủi ro trong tín dụng,
có lợi nhuận không chỉ đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, không ngừng tăng
cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc, phục vụ khách hàng theo hướng ngày
càng hiện đại, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước mà còn có tích luỹ để tăng vốn tự có.
b. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng đối với khách hàng
ĐÓ đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với khách hàng, người ta thường sử
dụng những chỉ tiêu phản ánh về lợi nhuận, hiệu quả sử dụng vốn, sử dụng lao động… của
khách hàng, cụ thÓ là:
+ Về các chỉ tiêu lợi nhuận:
Hệ số lợi nhuận (%) =
Lợi nhuận thu được
x 100
Doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận (%) =
Lợi nhuận thu được
x 100
Tổng chi phí sản xuất
Tỷ suất doanh lợi (%) =
Lợi nhuận thu được
x 100
Vốn sản xuất
Vốn sản xất = Vốn cố định + Vốn lưu động
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn:
= Tổng thu nhập
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Hiệu quả sử dụng vốn cố
định
Vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn lưu
động
=
Tổng thu nhập
Vốn lưu động
+Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động:
Năng suất lao động =
Giá trị thực tế tổng giá trị hàng hoá
Số lao động bình quân
Hiệu quả sử dụng lao
động
=
Tổng thu nhập
Số lao động bình quân
Vì vậy, về phía khách hàng, hiệu quả tín dụng thÓ hiện ở sự thành đạt qua quá trình sử
dụng vốn vay đÓ tæ chức thực hiện các phương án, dự án sản xuất, kinh doanh đã thoả
thuận với ngân hàng khi đến quan hệ vay vốn.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.3.1 Các nhân tố chủ quan
Chính sách tín dụng của ngân hàng
Đó là toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung như: quy mô, lãi
suất, kỳ hạn, đảm bảo, phạm vi …Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của
một ngân hàng, là hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các bộ phận liên quan, tăng
cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động
tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách khách hàng: Mỗi một ngân hàng đều tiến hành phân loại khách hàng
và lựa chọn đối tượng khách hàng mục tiêu. Đối với những khách hàng mục tiêu ngân
hàng thường có những chính sách ưu đãi tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể và lịch sử
quan hệ của khách hàng với ngân hàng,… Đối với những ngành đang phát triển ổn định,
bền vững và được Nhà nước khuyến khích phát triển thường có những chính sách ưu đãi
về lãi suất, phí suất tín dụng, nới lỏng những điều kiện về đảm bảo tín dụng.
Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng: Mức độ tài trợ của ngân hàng dựa trên
nhu cầu của khách hàng và sự tính toán của ngân hàng về sự phù hợp, mức độ rủi ro, sinh
lời. Các ngân hàng khi tài trợ thường quan tâm đến tình hình tài chính của khách hàng vì
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
đây là cơ sở quan trọng đảm bảo hoàn trả các khoản nợ cho ngân hàng. Đối với những
khách hàng có tiềm lực tài chính không tốt, ngân hàng ít muốn tài trợ. Ngoài ra, ngân
hàng cũng có những quy định về quy mô và giới hạn tín dụng như quy mô tín dụng tối
đa mà giám đốc được duyệt, quy mô tín dụng dựa trên các loại tài sản đảm bảo khác
nhau,... Những quy định có tính thời kỳ và đảm bảo quy mô và tính chất nguồn vốn của
mỗi ngân hàng.
Giới hạn tín dụng đối với một khách hàng phụ thuộc vào khối lượng vốn tự có
của ngân hàng và khách hàng, ngoài ra còn phụ thuộc vào giá trị tài sản đảm bảo. Hoạt
động tín dụng luôn chứa đựng nhiều rủi ro mà ngân hàng và khách hàng không lường trước
được. Do đó khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng phải thực hiện các đảm bảo tín
dụng như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với những khách hàng không thể
đảm bảo tín dụng dưới các hình thức này thì ngân hàng tài trợ không có tài sản đảm bảo.
Mức tài trợ xác định trên cơ sở quy mô về vốn tự có của khách hàng, vị thế uy tín của
khách hàng trên thị trường và ngân hàng.
Lãi suất và phí suất tín dụng: Lãi suất tín dụng là giá cả của khoản tín dụng đó, ảnh
hưởng đến chi phí vốn của khách hàng. Ngân hàng có thể áp dụng các hình thức và mức
lãi suất khác nhau để đảm bảo được khả năng sinh lời và khả năng cạnh tranh của ngân
hàng, ngoài ra còn cân nhắc đến mức độ rủi ro.
Thời hạn tín dụng và kỳ trả nợ: Thời hạn tín dụng là khoảng thời gian kể từ khi
ngân hàng bắt đầu tài trợ đến khi ngân hàng thu hết nợ. Thời hạn tín dụng càng dài thì mức
độ rủi ro của ngân hàng càng lớn và chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao. Kỳ
hạn trả nợ liên quan đến những tính toán các nguồn thu của khách hàng có thể dùng để trả
nợ. Số lần trả nợ trong kỳ càng tăng làm tăng mật độ luồng tiền vào, giảm kỳ hạn trung
bình nhưng sẽ làm tăng chi phí thu nợ cho ngân hàng nếu khách hàng không có tài khoản
tại ngân hàng.
Các khoản đảm bảo: Ngân hàng chấp nhận những tài sản có khả năng bán được
làm đảm bảo. Ngân hàng đưa ra mức phán quyết tín dụng thích hợp thông qua định giá tài
sản đảm bảo. Tỷ lệ tài trợ trên tài sản đảm bảo phụ thuộc vào khả năng bán, khả năng thay
đổi giá trị thị trường của vật đảm bảo. Trường hợp tài trợ dựa trên uy tín của khách hàng,
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ngân hàng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo. Một nguyên nhân làm hạn chế khả
năng vay vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa là thủ tục về kiểm tra, đánh giá tài sản đảm bảo
vẫn còn phức tạp. Một số doanh nghiệp có tài sản thế chấp nhưng không vay được vốn vì
cán bộ ngân hàng định giá quá thấp so với giá trị tài sản thực tế mà họ đem thế chấp. Doanh
nghiệp nhỏ và vừa được vay tín chấp rất ít, tỷ lệ tín chấp thấp.
Quy trình phân tích tín dụng:
Khi tài trợ cho khách hàng, cán bộ tín dụng, các bộ phận liên quan phải thực hiện
các bước trong quy trình phân tích tín dụng. Quy trình tín dụng là quá trình tiếp xúc, phân
tích, cho vay thu nợ với khách hàng được chuẩn hóa nhằm xác định rủi ro và các biện pháp
hạn chế rủi ro. Quy trình tín dụng càng nhanh, tiết kiệm chi phí sẽ đảm bảo được tính cạnh
tranh cho ngân hàng vì như vậy sẽ đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.
Trong quy trình phân tích tín dụng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa như: khả năng thẩm định của cán bộ tín dụng, hiệu
quả của hệ thống công nghệ, cung cấp thông tin, quy trình xét duyệt, …Cán bộ tín dụng có
trình độ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp cao thì khả năng thẩm định sẽ hạn chế được
mức độ rủi ro cho ngân hàng. Hệ thống công nghệ thông tin không những ảnh hưởng đến
hoạt động tín dụng mà còn ảnh hưởng đến chất lượng của tất cả hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Hệ thống công nghệ càng tiên tiến, phù hợp với xu thế thị trường thì hiệu quả
kinh doanh càng tăng, thu hút được nhiều khách hàng.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
Năng lực tài chính
Năng lực tài chính là cơ sở đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh, khả
năng cạnh tranh trên thị trường và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương
lai. Ngân hàng thường dựa vào các chỉ tiêu phân tích tài chính để đánh giá năng lực tài
chính của doanh nghiệp. Thông qua, các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp cung cấp, ngân
hàng tiến hành tính toán các chỉ tiêu và so sánh các chỉ tiêu giữa các năm, giữa các doanh
nghiệp trong ngành để nắm bắt tình hình nội tại của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có mức vốn thấp, năng lực tài chính thấp, hiện nay tỷ
lệ doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm 90% thì cơ hội tiếp cận các nguồn vốn
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
càng thấp hơn. Khi phân tích các chỉ số tài chính, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường không
đáp ứng được yêu cầu của Ngân hàng.
Tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo là một trong những căn cứ quan trọng để để ngân hàng xác định
mức tín dụng cho khách hàng. Ngân hàng dựa trên giá trị và tỷ lệ tài trợ của tài sản đảm
bảo, để quyết định mức tài trợ phù hợp. Với những loại tài sản khác nhau có tỷ lệ tài trợ
khác nhau tùy thuộc tính thanh khoản, sự biến động giá, độ an toàn…khi nắm ngân hàng
giữ.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường ít có tài sản có giá trị cao để làm tài sản đảm
bảo. Tài sản pháp nhân và cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch gây khó khăn trong thẩm định
đánh giá năng lực của doanh nghiệp. Trong khi đó, họ lại không có uy tín đối với các ngân
hàng trong hiệu quả kinh doanh, ý chí và khả năng trả nợ đúng hạn để được vay tín chấp.
Phương án sản xuất kinh doanh và dự án vay vốn
Một trong những nguyên tắc của tín dụng, là tiến hành tài trợ dựa trên phương án
(dự án) hiệu quả. Phương án (dự án) có hiệu quả sẽ đảm bảo nguồn trả nợ cho doanh
nghiệp trong tương lai. Ngân hàng thẩm định tính khả thi của dự án dựa trên phân tích các
yếu tố đầu vào, đầu ra, thị trường, đối thủ cạnh tranh…Dựa trên phương án (dự án) vay
vốn, ngân hàng xác định được nhu cầu vốn đầu tư, thời hạn tín dụng, kế hoạch trả nợ.
Phương án (dự án) kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa thường được thiết
lập sơ sài, thiếu tính thuyết phục và thiếu căn cứ để ngân hàng thẩm định. Một số còn mang
nặng tính chủ quan, dựa trên kinh nghiệm thuần túy.
Cách thức điều hành và quản lý doanh nghiệp
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều và năng lực
điều hành và quản lý doanh nghiệp. Năng lực này phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm, uy tín của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp. Đội ngũ lãnh đạo có chuyên môn, năng
lực và kinh nghiệm quản lý thì việc sắp xếp, điều hành doanh nghiệp hoạt động hiệu quả
cao, nhạy bén trong việc ra quyết định khi có sự thay đổi thị trường, hạn chế những ảnh
hưởng bất lợi đến doanh nghiệp.
Cạnh tranh và hợp tác
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Cạnh tranh và hợp tác có tác động khá lớn đến hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa
và nhỏ của Ngân hàng. Trong nền kinh tế hiện nay, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng rất
lớn, đặc biệt là trong khối Ngân hàng Thương mại Cổ phần.
1.3.2 Các nhân tố khách quan.
Cơ chế và chính sách của Nhà nước
Ngân hàng và các doanh nghiệp nhỏ và vừa điều chịu sự quản lý của Nhà nước
bằng hệ thống pháp luật, chính sách, tổ chức, các thể chế về kinh tế- tài chính và các công
cụ quản lý. Hệ thống chính sách và cơ chế quản lý phù hợp với thực tế thị trường, tạo môi
trường kinh doanh và những điều kiện cần và đủ cho để giúp đỡ khuyến khích các doanh
nghiệp, ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn.
Những cơ chế chính sách tác động tới hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa bao gồm: hệ thống pháp luật đảm bảo hoạt động của thị trường nói chung và
tín dụng ngân hàng cũng như doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng. Ví dụ như: các văn bản liên
quan đến hoạt động cho vay đối với các tổ chức tín dụng, quy định về đảm bảo tiền vay, văn bản
liên quan đến những chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Sự phát triển của nền kinh tế
Sự phát triển hệ thống ngân hàng và nền kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Quá trình phát triển nền kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân
hàng, sự phát triển của hệ thống ngân hàng là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Nền
kinh tế phát triển sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhu cầu của thị trường cũng tăng lên khi nền kinh tế phát
triển kéo theo nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, thay đổi thiết bị công nghệ, nâng cao
chất lượng sản phẩm…của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vốn
tín dụng ngân hàng, thúc đẩy hoạt động ngân hàng phát triển hơn.
Ngoài ra còn phải kể đến các nhân tố khác như: tình hình chính trị, sự phát triển
của thị trường tài chính, sự phù hợp của chính sách, quy định đối với thông lệ và chuẩn
mực quốc tế….
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tóm tắt chương 1
Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan
trọng: cơ cấu kinh tế có chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng trưởng ổn định trong một
thời gian khá dài. Kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ của các DNNVV thuộc các thành
phần kinh tế ở nước ta. DNNVV trong thời gian qua có bước phát triển nhanh về số lượng,
tham gia vào các loại hình kinh tế và đóng góp vào sự tăng trưởng GDP của nước ta ngày
càng cao và quan trọng, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Theo dự tính trong
tương lai thì nhu cầu vốn của các DNNVV ngày càng tăng nhằm đáp ứng yêu cầu của sản
xuất để tạo ra năng lực mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DN. Để hoạt động kinh
doanh phát triển hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường, các DN cần phải có một lượng
vốn không nhỏ, mà vốn tự có của DN chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn của họ. Đặc
biệt là đối với DNNVV do vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất cấp thiết. Vì vậy ngân
hàng chính là nơi mà các DN này tìm đến để giải quyết các khâu về vốn. Tín dụng của các
ngân hàng là một trong những hình thức sử dụng vốn đối với các DN nói chung và các
DNNVV nói riêng. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các DNNVV
gặp không ít những khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng, hiệu quả... đặc biệt là
vấn đề chất lượng của các khoản tín dụng đối với các DNNVV còn gặp nhiều bất cập và
chưa đạt hiệu quả cao. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trong đó có Sài
Gòn bank. Nâng cao chất lượng tín dụng luôn là một vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với
các ngân hàng, vì chất lượng tín dụng liên quan trực tiếp đến quá trình hoạt động kinh
doanh của ngân hàng