Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch. Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch. Trong đó, chủ thể quan trọng của hoạt động du lịch là khách du lịch. Đó là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Hoạt động du lịch là một tồn tại
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm về du lịch
Thuật ngữ "Du lịch" trong tiếp Pháp là "Le Tour" – được hiểu là đi một
vòng và quay về điểm xuất phát ban đầu. Theo nghĩa đen, thuật ngữ này chưa
bao hàm được tính đa dạng, phong phú của các hình thức du lịch cũng như chưa
phản ánh đầy đủ các biểu hiện khác nhau của hoạt động du lịch. Theo tiếng Hy
lạp, thuật ngữ này là "tornos" – cũng có nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ "du
lịch" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán với sự ghép nối giữa "du – đi
chơi, tham quan" và "lịch – ngắm nhìn, xem xét". Hai tác giả người Thuỵ Sỹ là
Hunziker và Krapf đã xây dựng nền móng cho lý thuyết về du lịch với định nghĩa:
Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc
hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương - những người không
có mục đích định cư và không liên quan đến bất cứ hoạt động kiếm tiền nào.
Định nghĩa này đã khái quát một cách chung nhất hoạt động du lịch, cụ thể là
hoạt động đi du lịch của các chủ thể tham gia. Mặc dù chưa bao quát hết những
đặc trưng và các loại hình du lịch nhưng định nghĩa này đặt cơ sở quan trọng cho
các nghiên cứu cơ bản tiếp theo.
Theo Liên Hiệp quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of
official Travel oragnization: IUOTO). Du lịch được hiểu là hành động du hành đến
một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không
phải để làm ăn, một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống [6, tr.1].
Tại Hội nghị Liên Hiệp quốc về du lịch họp tại Roma - Italia (21/8 -
5/9/1963) các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du lịch là tổng
hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ các hành
trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên
9
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Nơi họ đến lưu trú không phải
là nơi làm việc của họ [6, tr.1].
Quốc hội CHDCND Lào số 10/¦², ngày 9/11/2005, điều 2 nêu: Du lịch là
du hành từ nơi sinh sống của mình đi đến nơi khác hay nước khác để thăm viếng,
tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi, sự trao đổi văn hoá, thể thao, y tế, nghiên cứu
giáo dục [21, tr.1].
Du lịch có hai nghĩa: Thứ nhất: du lịch là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời
của con người ở một nơi khác, tức là cách xa nơi ở thường xuyên để nghỉ dưỡng, chữa
bệnh, thoả mãn các nhu cầu về văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, trao đổi công việc. Thứ
hai: du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, thực
hiện tốt mọi nhu cầu của khách du lịch. Nói cách khác, du lịch là tập hợp các hoạt động
giữa cung du lịch và cầu du lịch tạo nên ngành du lịch.
Như vậy, du lịch được nhìn nhận từ rất nhiều góc nhìn khác nhau và do
đó, có nhiều định nghĩa, khái niệm, quan niệm khác nhau và rất khó có thể đưa
ra một định nghĩa bao quát. Trong phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn
thạc sỹ Địa lí học, tác giả cho rằng Du lịch là một hoạt động tương tác giữa con
người với tự nhiên ngoài môi trường sinh sống định cư, nhằm mục đích tham
quan, tìm hiểu, khám phá, trải nghiệm của những người ngoài địa phương -
những người không có mục đích định cư và không liên quan đến bất cứ hoạt
động kiếm tiền nào
Có thể định nghĩa một cách ngắn gọn: Du lịch là hình thức nghỉ ngơi năng
động ngoài môi trường định cư.
- Khái niệm hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức cá nhân kinh
doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan đến
du lịch. Trong đó, chủ thể quan trọng của hoạt động du lịch là khách du lịch. Đó
là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc
hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Hoạt động du lịch là một tồn tại
10
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
khách quan của con người nằm trong nội tại của sự phát triển xã hội loài người.
Hoạt động thông qua du lịch, nhu cầu giao lưu và hưởng thụ vật chất, tinh thần
của con người phát triển cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
vùng, địa phương. Do vậy, hoạt động du lịch luôn được đặt ra và phát triển theo
nhu cầu của con người [4, tr.5].
Dựa vào khái niệm trên có thể hiểu du lịch là ngành kinh tế có tính tổng
hợp, lấy khách du lịch làm đối tượng, cung cấp sản phẩm, du lịch cần thiết cho
khách du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch của họ.
Kinh tế du lịch ở một số nước phát triển mạnh, đây không phải là một sự
ngẫu nhiên, mà do Chính phủ một số nước đã quan tâm phát triển du lịch theo
hướng phát ngành kinh tế mũi nhọn. Do đó, ngành du lịch phát triển rất năng
động trong việc kế hoạch hoá đầu tư thành ngành du lịch quốc gia liên kết chặt
chẽ với ngành thương mại du lịch của các nước trên thế giới.
1.1.2. Đặc điểm của du lịch
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự tiến bộ về văn minh, vật chất, văn
minh tinh thần của loài người, du lịch nghỉ phép, nghỉ ngơi mang tính vui chơi,
giải trí dần dần trở thành thói quen của du lịch hiện nay. Đồng thời các hình thức
du lịch với mục đích khác đó là hoạt động du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu đặc
biệt của mọi người như du lịch văn hoá, du lịch thăm viếng di tích, du lịch điều
dưỡng, du lịch thám hiểm, du lịch khảo sát… ngày càng đa dạng, nội dung của
hoạt động phát triển du lịch ngày càng phong phú. [21, tr.46].
- Du lịch góp phần phát triển kinh tế, vừa bảo tồn giá trị văn hoá tinh thần
Có thể nói, cho đến nay du lịch là ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao cho
mỗi quốc gia (ngành công nghiệp không khói), quốc gia nào biết cách phát triển và
khai thác tốt thì nó đem lại giá trị rất lớn cho nền kinh tế quốc dân của quốc gia đó.
Sản phẩm du lịch gắn liền với thiên nhiên, khí hậu, phong tục tập quán vùng miền
riêng biệt, bởi vậy ta phải biết khai thác những điểm mạnh của từng vùng, miền, có
như vậy mới thu hút được khách tham quan, đem lại hiệu quả kinh tế cho
11
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
vùng, địa phương đó. Điều kiện tự nhiên ở tỉnh Bo Kẹo có rất nhiều điểm du lịch
khác với Việt Nam và cũng có thế mạnh riêng: là một tỉnh có nhiều bộ tộc anh
em chung sống, mang đậm bản sắc dân tộc, mỗi bộ tộc có một phong tục tập
quán, có nét văn hoá riêng. Khách du lịch phương Tây rất thích tìm hiểu nền văn
hoá các dân tộc sinh sống ở đây.
Du lịch đem lại văn hoá, tinh thần cho khách hàng (du khách). Thông qua
việc giới thiệu nét văn hoá đặc trưng khác biệt của đất nước, địa phương cho
khách tham quan làm cho họ hiểu phần nào về giá trị văn hoá tinh thần, bản sắc
riêng của dân tộc. Từ đó, đem lại món ăn tinh thần cho du khách, mà sản phẩm
du lịch là món ăn cho du khách thưởng thức.
Trước đây, một số người cho rằng văn hoá là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế.
Bởi vì, họ quan niệm rằng, văn hoá là lĩnh vực không sinh lợi. Sự phát triển, tăng
trưởng của hàng loạt các nước trên thế giới đã khiến mọi người phải nhận thức
lại vai trò của văn hoá. Năm 1988, Tổ chức Giáo dục văn hoá Liên hiệp quốc
(UNESCO) đã tuyên bố để mở đầu thập kỷ thế giới phát triển văn hoá nhấn mạnh:
“Kinh nghiệm của hai thập kỷ vừa qua cho thấy trong mọi xã hội ngày nay, bất
luận ở trình độ phát triển kinh tế nào, xu hướng chính trị và kinh tế nào, văn hoá
và phát triển là hai mặt gắn liền nhau”.
Xuất phát từ bài học kinh nghiệm của dân tộc, tiếp nhận thành tựu trí tuệ
của thời đại, Đảng và Nhà nước Lào đã có nhận thức mới về vai trò của văn hoá
trong phát triển. “Kinh tế và văn hoá gắn liền với nhau hết sức chặt chẽ, kinh tế
không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng của văn hoá, văn hoá không phải là
sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ sở hài hoà kinh tế và văn hoá
là sự phát triển năng động có hiệu quả và vững chắc nhất”[15].
- Du lịch gắn với điều kiện thiên nhiên, khí hậu, phong tục tập quán.
Điều kiện tự nhiên, khí hậu do thiên nhiên ban tặng cho mỗi vùng, lãnh
thổ du lịch, một thiên nhiên thân thiện ít bị tàn phá của con người, sẽ có nhiều
cơ hội để phát triển du lịch. Một vùng du lịch được thiên nhiên ban tặng có một
12
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
khí hậu mát mẻ, bốn mùa trong xanh, một bầu không khí trong lành, hoang sơ,
sông nước hiền hoà, không bị ô nhiễm sẽ mang lại sự yêu mến của khách du lịch,
khách đến một lần và lại muốn có một ngày được quay lại với môi trường thân
thiện. Du khách muốn tìm hiểu phong tục tập quán riêng của vùng miền mà họ
đến: phong tục tập quán của các bộ tộc như văn hoá cồng chiêng, múa sạp, ném
còn… Ngày nay, phần lớn khách phương Tây cũng như các nước châu Âu rất
thích du lịch thiên nhiên, họ muốn khám phá và tìm hiểu cái hoang sơ, sơ khai
do thiên nhiên ban tặng.
Du lịch gắn liền với phong tục tập quán, là những thói quen được đưa vào
nếp sống hàng ngày. Mọi dân tộc đều có những thói quen cá biệt lúc ban đầu, về
sau do sự tiếp xúc với nhau nên có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Phong tục tập quán
có hai loại: Mỹ tục là những tập tục tốt, như thờ phụng tổ tiên và hủ tục là những
tập tục xấu như mê tín dị đoan, tin vào bùa phép. Thế giới văn minh mỗi ngày
thay đổi, và nếp sống cũng vậy, nhân loại ngày nay đều cố gắng phát huy mỹ tục
và đẩy lùi hủ tục vào bóng tối lãng quên [23].
Từ những khái niệm trên có thể thấy rằng, lịch sử, truyền thống, phong tục
tập quán và văn hoá dân tộc, di tích lịch sử văn hoá, các món ăn, các loại hình
nghệ thuật, lối sống, nếp sống của các dân tộc mang bản sắc độc đáo còn lưu giữ
đến ngày nay. Những nguồn lực ấy được phân loại theo chiều thời gian lịch sử,
những văn hoá cổ được khôi phục lại lưu truyền và phát huy những văn hoá cổ
đại, trung đại, cận đại. Chẳng hạn, nền văn minh Ai Cập cổ đại với kim tự tháp
nổi tiếng, nền văn hoá Hy Lạp cổ đại hoặc phong tục tập quán ở Việt Nam, Lào
như: Các lễ cưới của các dân tộc, các lễ hội, phong tục rước dâu, hay phong tục
trước khi đi lấy vợ chú rể phải về nhà cô dâu ngủ trước vài tháng như dân tộc
Thái của Việt Nam.
Du lịch gắn liền với thiên nhiên, là tài nguyên thiên nhiên ban tặng để cho
con người tiến hành các hoạt động du lịch như nghỉ ngơi, điều dưỡng, du ngoạn,
tham quan bao gồm: sông, núi, hang động, thác, rừng, chim thú quý
13
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hiếm, hoa thơm, cỏ lạ... Tóm lại, có thể chia ra ba nhóm chủ lực là: tài nguyên
du lịch sông núi, tài nguyên du lịch khí hậu và tài nguyên du lịch sinh vật...cụ
thể do thuận lợi về vị trí địa lý, giao thông như đường sông, đường bộ, đường
hàng không... là trung tâm của vùng kinh tế phát triển năng động, trên thế giới.
Đây là một nhân tố cơ bản để phát triển du lịch. Quốc gia nào có nhiều tài nguyên
thiên nhiên thì quốc gia đó có nhiều tiềm năng lớn để thu hút được nhiều khách
du lịch đến thăm quan.
Về địa hình: ở một số nơi thường có cảnh đẹp và sự đa dạng của phong
cảnh ở nơi đó. Đối với du lịch, điều kiện quan trọng nhất là địa phương phải có
địa hình đa dạng và có những đặc điểm tự nhiên như: biển, rừng, sông, hồ, núi...
khách du lịch thường ưa thích những nơi nhiều rừng, đồi, núi, biển, đảo...
Thường không thích những nơi địa hình và phong cảnh đơn điệu mà họ cho là tẻ
nhạt và không thích hợp với du lịch.
Về khí hậu: những nơi có khí hậu điều hoà thường được khách du lịch ưa
thích. Nhiều cuộc thăm dò cho thấy khách du lịch thường tránh những nơi quá
lạnh, quá ẩm hoặc quá nóng, quá khô. Những nơi có nhiều gió cũng không thích
hợp cho sự phát triển của du lịch [6, tr.87].
Do ảnh hưởng của nhân tố địa lý tự nhiên và thời tiết, khí hậu nên du lịch
ở hầu hết các nước đều mang tính thời vụ đặc trưng. Đối với một nước nhiệt đới,
gió mùa đông bắc, khí hậu bốn mùa thay đổi (xuân, hạ, thu, đông). Khách du lịch
nội địa, quốc tế đi du lịch tham quan thắng cảnh ai cũng hưởng thụ khí hậu ấm
áp, thời tiết trong sạch, thoáng mát, loại trừ ô nhiễm môi trường, bên cạnh những
tiềm năng du lịch rất lớn và đa dạng, thì tính thời vụ trong du lịch
càng rõ nét.
- Sản phẩm và dịch vụ du lịch được hình thành từ nhiều yếu tố
Khác với các ngành kinh doanh có hàng hoá là những vật phẩm cụ thể,
người tiêu dùng muốn mua chỉ cần trực tiếp đến lựa chọn tại các cửa hàng bán
14
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
buôn hoặc bán lẻ, sau khi ưng ý có thể giao nhận bên mua và bên bán còn việc
giao nhận của ngành du lịch là hết sức đặc biệt. Hàng hoá của ngành du lịch (lữ
hành) là các chương trình du lịch, người mua là khách phải di chuyển theo
chương trình đã mua và thông qua chuyến hành trình du lịch trên thực tế thì mới
hoàn thành việc “giao nhận”. Hoàn thành trách nhiệm của người bán và người
mua. Đặc biệt tính đặc thù của hàng hoá đó là chất lượng công việc của người
hướng dẫn, nó phụ thuộc vào trình độ, năng lực, hành nghề của hướng dẫn viên.
Sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch được cấu thành bởi rất nhiều yếu tố,
trong đó có các yếu tố nền tảng như cơ sở hạ tầng, anh ninh, chính trị ổn định…;
yếu tố chủ yếu, trực tiếp bao gồm: phong cách phục vụ của các tour lữ hành, văn
hoá các điểm đến, các danh lam thắng cảnh, sự thân thiện của địa phương nơi
khách đến, những sản phẩm lưu niệm, những sản phẩm của các làng nghề, văn
hoá cổ, những ngôi làng cổ, cái quan trọng hơn cả là sự thân thiện, mến khách,
sự lôi cuốn thu hút du khách quay trở lại…Cơ sở hạ tầng, khách sạn, nhà hàng,
khu vui chơi giải trí và các dịch vụ khác, tất cả những thứ đó làm cho sản phẩm
du lịch trở nên phong phú, đa dạng.
1.1.3. Vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội
- Về mặt kinh tế
Các nước trên thế giới coi du lịch là ngành công nghiệp không khói, là
“con gà đẻ trứng vàng”, tức là ngành thu hồi vốn nhanh, tạo nhiều công ăn việc
làm, bán hàng, tiếp thị xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, ngoại giao và các quan
hệ kinh tế khác. Ngành công nghiệp du lịch được các nước trên thế giới thừa
nhận là một ngành kinh doanh có lợi nhuận và phát triển với nhịp độ tăng trưởng
cao, là ngành đóng góp chủ yếu cho kinh tế - xã hội. Theo tính toán của các tổ
chức du lịch lớn trên thế giới, thu nhập của du lịch bao gồm cả du lịch quốc tế
và du lịch nội địa năm 2005 là 6,2 nghìn tỷ USD, tăng 5,4% so với năm trước,
chiếm 3,8% GDP của thế giới. Nếu tính cả những đóng góp trực tiếp và
15
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
gián tiếp thì ngành du lịch chiếm 10,6% GDP toàn thế giới. Hàng năm ngành
này tạo ra 74,2 triệu việc làm, chiếm 2,8% lao động trên toàn cầu [26].
Thực tế cho thấy hoạt động du lịch nó tác động rất mạnh đến cơ cấu cán
cân thu, chi của vùng du lịch, của một đất nước. Đối với du lịch quốc tế, việc
mang ngoại tệ đến đổi và chi tiêu ở khu vực du lịch làm tăng tổng số tiền trong
cán cân thu chi của vùng du lịch và của một đất nước. Nguồn thu nhập ngoại tệ
từ khách du lịchh quốc tế của nhiều nước ngày càng tăng. Chẳng hạn
ở Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về du lịch quốc tế: Năm 1990, ngành du lịch
nước này mang lại nguồn thu là 43 tỷ USD thì đến năm 1996 đã lên tới 64,4 tỷ USD,
đến năm 2002 là 80,7 Tỷ USD. Tiếp đến là Tây Ban Nha, năm 1996 thu được 28,4
tỷ USD, năm 2002 con số này lên đến 38,7 tỷ USD. Ở Pháp năm 1996 thu được
28,2 tỷ USD, đến năm 2002 thu được 33,5 tỷ USD [2, tr.11].
Hiện nay du lịch được coi là một thị trường vừa rộng, vừa lớn với nhu cầu
du lịch rất đa dạng và khả năng thanh toán của khách hàng khá cao, vừa mang tính
đặc thù. Thị trường du lịch hoạt động trong không gian lãnh thổ, thị trường lại hoàn
toàn có khả năng “xuất khẩu tại chỗ”, nhiều hàng hoá đặc biệt là hàng hoá mang
tính chất đặc trưng của dân tộc phân bố rải rác khắp mọi miền của đất nước như các
món ăn dân tộc, đồ lưu niệm (hàng thủ công mỹ nghệ...). Hàng hoá này thường có
giá trị sử dụng không đáng kể đối với thị trường nội địa nhưng lại có giá trị cao,
thuận lợi lớn do thoả mãn được sở thích hay thị hiếu nào đó của du khách nước
ngoài. Mặt khác, có rất nhiều loại hàng hoá phục vụ du khách không thể vận chuyển
đi bán ở thị trường thế giới được thì có thể bán với giá cả cao, thu lợi nhuận lớn tại
nước mình như cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn, di tích lịch sử, công trình văn hoá
nổi tiếng, phong tục tập quán đặc sắc...
Ngày nay, ở nhiều nước công nghiệp, thu nhập từ du lịch thường chiếm
20% hoặc cao hơn trong tổng sản phẩm quốc gia (GDP). Hoạt động du lịch tác
động đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông, xây dựng các nghề thủ công truyền thống, mở rộng thị trường tiêu thụ
16
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hàng hoá, quảng bá sản phẩm của quê hương đất nước mình làm ra đến với bạn
bè thế giới, là kênh quảng cáo hữu hiệu ra nước ngoài, giải quyết việc làm cho
người lao động làm tăng thêm cơ hội đầu tư…tạo điều kiện thúc đẩy các ngành
kinh tế phát triển.
- Về mặt xã hội
Du lịch phát triển sẽ góp phần tạo được nhiều công ăn việc làm cho người
lao động, làm giảm thất nghiệp đáng kể, thu hút một số lượng lao động rất lớn,
nâng cao mức sống của người dân. Đối với nhiều người, du lịch nhìn nhận như
một ngành kinh doanh sinh lợi cao. Vì vậy, xu hướng chuyển đổi hay chuyển
hướng sang kinh doanh du lịch là một động cơ tốt để mọi người trao đổi, bổ sung
các kiến thức cần thiết như ngôn ngữ giao tiếp văn hoá, lịch sử...
Du lịch làm cho con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm
xúc mới, mở mang kiến thức. Hoạt động du lịch là một yếu tố đòi hỏi nhiều lao
động dịch vụ với nhiều ngành nhiều trình độ khác nhau, do đó du lịch càng phát
triển thì càng có nhiều cơ hội tạo việc làm cho xã hội, góp phần giải quyết vấn
đề bức xúc nhất hiện nay.
Du lịch phát triển, tạo điều kiện để mở rộng giao lưu văn hoá, tăng cường
sự hiểu biết và mở rộng tầm nhìn, học hỏi thêm kinh nghiệm làm ăn buôn bán
của nhiều nước, nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, thông qua đó góp phần
quan trọng nâng cao dân trí. Tuy những mặt này được tiến hành một cách không
chính thức, nhưng thường có hiệu quả cao.
Thông qua sự tiếp xúc trực tiếp và rộng rãi với du khách trong nước và ngoài
nước, mà nhân dân ở vùng sở tại, nước sở tại có điều kiện tiếp thu những tinh hoa
văn hoá, những lối sống tốt đẹp, phong cách giao tiếp lịch sự văn minh của văn hoá
nói chung, ngày càng mở rộng ra những lĩnh vực mang tính nhân văn cao mà trước
đây chúng ta thường xem nhẹ như sự hiểu biết và thái độ ứng xử đối với việc bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống, đối với các công trình văn hoá nghệ
thuật của dân tộc, đối với môi trường sinh thái... Thông
17
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
qua đó, để giáo dục truyền thống dân tộc, lòng tự hào về lịch sử văn hoá đất nước
mình, biết bảo vệ các di sản văn hoá, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ danh
lam thắng cảnh, bảo vệ môi trường sống của đất nước… Từ đó, tuyên truyền giáo
dục cho các thế hệ trong xã hội. Phát triển du lịch góp phần nâng cao dân trí, làm
phong phú thêm nhận thức, đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đồng thời
góp phần mở rộng và củng cố mối quan hệ hợp tác, ngoại giao, giao lưu kinh tế,
văn hoá khoa học, kỹ thuật, tạo mối quan hệ thân thiện, hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc, giữa các quốc gia. Phát triển du lịch góp phần xoá đói giảm nghèo,
làm thay đổi diện mạo của một vùng, một quốc gia ngày càng văn minh và tốt
đẹp hơn.
Tuy nhiên, hạn chế đầu tiên về mặt xã hội khi phát triển du lịch có thể làm
phát sinh và gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, ma tuý. Thậm chí,
ở một số nước còn tổ chức nhà chứa phục vụ khách. Nguy hiểm hơn, giờ đây còn
xuất hiện ngày càng gia tăng nhiều tội phạm về giết người, con cái hư hỏng, đua
đòi học theo những thói hư thật xấu, ăn chơi xa đoạ, tha hoá nhân phẩm, nhất là
phụ nữ, không đúng với phong tục tập quán của con người Á Châu, dịch vụ
karaoke xuất hiện không tuân thủ theo các quy định của Nhà nước… Đây là một
số vấn đề biểu hiện xấu của xã hội ngày nay.
1.1.4. Các nhân tố tác động đến phát triển du lịch
1.1.4.1.Vị trí địa lý
Đây là một nhân tố có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển du
lịch. Vị trí địa lý bao gồm vị trí địa lý về mặt tự nhiên (các chỉ tiêu về giới hạn
tọa độ, giới hạn lãnh thổ…) và vị trí địa lý kinh tế - xã hội, chính trị. Đối với hoạt
động du lịch, có hai yếu tố về vị trí cần xét đến là điểm đến nằm trong khu vực
phát triển về du lịch ở mức độ nào và khoảng cách từ điểm đến tới nơi phát sinh
cầu du lịch ngắn hay dài.
1.1.4.2. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa - lịch sử cùng các thành
phần của chúng có sức hấp dẫn du khách đã, đang và sẽ được khai
18
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
thác, cũng như bảo vệ nhằm đáp ứng nhu cầu của du lịch một cách hiệu quả và
bền vững.
- Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các đối tượng, hiện tượng tự nhiên
và mối liên hệ giữa chúng được lôi cuốn vào để phục vụ cho mục đích du lịch.
Các yếu tố tự nhiên bao gồm: địa hình, nguồn nước, khí hậu, sinh vật là các yếu
tố có ảnh hưởng nhất đến hoạt động du lịch. Trong tài nguyên du lịch tự nhiên
thì các di sản thiên nhiên thế giới, công viên địa chất có ý nghĩa quan trong trong
phát triển du lịch.
- Tài nguyên du lịch nhân văn do con người tạo ra, hay nói cách khác, nó
là đối tượng và hiện tượng được tạo ra một cách nhân tạo. Đây cũng là nguyên
nhân khiến cho tài nguyên du lịch nhân tạo có những đặc điểm khác biệt nhiều
so với nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên.
Theo Luật du lịch Việt Nam (2005) quy định tại điều 13, chương II: “Tài
nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ
dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động
sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể
được sử dụng phục vụ mục đích du lịch”.
Trong tài nguyên du lịch nhân văn thì các di sản văn hóa vật chất và phi
vật thể được UNESSCO công nhận, bảo tồn có ý nghĩa quan trọng trong việc
phát triển du lịch.
1.1.4.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội và chính
trị a) Dân cư và lao động
Dân cư và lao động là nguồn lực quan trọng của nền sản xuất xã hội. Cùng
với hoạt động lao động, dân cư còn có nhu cầu nghỉ ngơi và du lịch. Số dân càng
đông thì số người tham gia vào các hoạt động du lịch càng nhiều. Việc nắm vững
số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, sự phân bố và mật độ dân có có
ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch. Ngoài ra, cần nghiên cứu cơ cấu dân
cư theo nghề nghiệp, lứa tuổi để xác định nhu cầu nghỉ ngơi du lịch.
19
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
b) Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất
hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Nền sản
xuất xã hội càng phát triển thì nhu cầu về du lịch của dân cư càng lớn, chất lượng
dịch vụ càng đa dạng.
c) Điều kiện an ninh chính trị và an toàn xã hội
Du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng chỉ có thể phát triển được
trong bầu không khí hòa bình, ổn định trong tình hữu nghĩ giữa các dân tộc.
Ngược lại, du lịch có tác dụng ngược trở lại đến việc củng cố hòa bình. Thông
qua du lịch quốc tế, con người thể hiện nguyện vọng của mình được sống, lao
động trong hòa bình và tình hữu nghị. Điều kiện đảm bảo về y tế trước các dịch
bệnh cũng ảnh hưởng lớn đến tâm lý và nhu cầu của du khách. Bên cạnh đó, các
tai biến thiên nhiên (động đất, sóng thần…) gây mất an toàn cũng là những yếu
tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách du lịch của cac quốc gia, vùng lãnh
thổ.
d) Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch
Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không
gian trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra
đời và phát triển du lịch. Nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch mang tính chất kinh tế - xã
hội và là sản phẩm của sự phát triển xã hội, đó là nhu cầu của con người về khôi
phục sức khỏe và khả năng lao động, thể chất và tinh thần bị hao phí trong quá
trình sống.
e) Cách mạng khoa học – công nghệ và xu hướng hội nhập quốc tế
Những tiến bộ tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trong
thế kỷ XX và sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa là những yếu
tố trực tiếp làm nảy sinh nhu cầu và hoạt động du lịch.
f) Đô thị hóa
Trong quá trình đô thị hóa, bên cạnh những đóng góp tích cực, còn rất
nhiều mặt trái làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người như tiếng ồn, lao động
20
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
căng thẳng… Từ những mặt trái đó, nghỉ ngơi, giải trí trở thành một trong những
nhu cầu không thể thay thế được của người dân thành phố. Nhu cầu này đã làm
xuất hiện một loạt các loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch ngắn ngày đã trở nên
phổ biến.
g) Điều kiện sống
Du lịch chỉ có thể phát triển khi mức sống của con người đạt tới trình độ
nhất định. Một trong những yếu tố then chốt là mức thu nhập thực tế của mỗi
người trong xã hội. Không có mức thu nhập cao thì khó có thể nghĩ đến việc nghỉ
ngơi, du lịch. Nhìn chung, ở các nước phát triển có mức thu nhập bình quân trên
đầu người cao, nhu cầu và hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ.
h) Thời gian rỗi
Du lịch trong nước và quốc tế không thể phát triển được nếu con người
thiếu thời gian rỗi. Nó thực sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc
đẩy hoạt động du lịch. Thời gian rỗi là thời gian cần thiết để con ngưuời nâng
cao học vấn, phát triển trí tuệ, hoàn thành các chức năng xã hội, tiếp xúc với bạn
bè và vui chơi giải trí.
1.1.4.4. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là tiền đề cần thiết cho sự phát triển của bất cứ ngành kinh
tế nào, du lịch cũng không ngoại lệ bởi nó cần phải có các nền tảng thuận lợi để
phục vụ du khách, bao gồm:
- Hệ thống giao thông vận tải
- Hệ thống thông tin liên lạc
- Hệ thống điện và cấp thoát nước
1.1.5. Các hình thức tổ chức lãnh thổ du lịch
Hệ thống phân vị trong phân vùng du lịch được sử dụng rất khác nhau giữa
các nước. Đối với nước ta, trong Báo cáo Quy hoạch tổng thể Du lịch Việt Nam
đến năm 2010, các nhà khoa học đã đưa ra 5 cấp phân vị trên quy mô lãnh thổ
quốc gia bao gồm: điểm du lịch - trung tâm du lịch - tiểu vùng du lịch - á
21
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
vùng du lịch - vùng du lịch. Điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005) còn
đưa thêm khu du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch trong thực tế ở quy mô nhỏ
hơn như cấp tỉnh.
1.1.5.1. Điểm du lịch
“Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham
quan của khách du lịch” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Điểm du lịch có thể
phân thành hai loại: điểm tài nguyên và điểm chức năng. Điểm du lịch quốc gia
phải đủ các điều kiện sau: có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu
tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có
khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 100 nghìn lượt khách tham quan một năm.
Điểm du lịch địa phương phải đủ các điều kiện: có tài nguyên du lịch hấp dẫn
đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du
lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất 10 nghìn lượt khách tham
quan một năm.
1.1.5.2. Tuyến du lịch
“Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở liên
kết dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường
thủy, đường hàng không” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Như vậy, để phát triển
các tuyến du lịch thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống giao thông và xây dựng
các điểm nhấn là các điểm du lịch có sức thu hút. Tuyến du lịch về mặt không
gian lãnh thổ có thể chia làm nhiều loại như: tuyến du lịch quốc gia nối các điểm,
các khu du lịch có ý nghĩa quốc gia, với các cửa khẩu quốc tế; tuyến du lịch nội
vùng; tuyến du lịch liên vùng; các tuyến du lịch địa phương, nội tỉnh…[19]
1.1.5.3. Khu du lịch
“Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên
du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi
22
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
trường”. (Luật Du lịch Việt Nam, 2005) Hiện nay, ở nước ta phổ biến các khu
du lịch được xây dựng trên nền tảng các cảnh quan tự nhiên hấp dẫn, các di tích
hoặc cụm di tích văn hóa - lịch sử, nơi có các danh lam thắng cảnh… và xây
dựng thêm các công trình nhân tạo khác để phục vụ nhu cầu ăn, nghỉ và vui chơi
của du khách.
1.1.5.4. Trung tâm du lịch
Đây là một cấp hết sức quan trọng. Đặc trưng của trung tâm du lịch là
nguồn tài nguyên du lịch tương đối tập trung và được khai thác một cách cao độ.
Trung tâm du lịch có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật tương đối đầy đủ
về số lượng, đảm bảo về chất lượng để đón, phục vụ và lưu khách lại trong một
thời gian dài. Trung tâm du lịch có quy mô nhất định về mặt diện tích, có thể
tương đương với lãnh thổ cấp tỉnh hay một thành phố trực thuộc tỉnh. Có hai loại
trung tâm du lịch, đó là trung tâm có ý nghĩa quốc gia (Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Huế, Đà Nẵng) và trung tâm có ý nghĩa địa phương (như Cần Thơ…).
[19]
1.1.6. Tiêu chí đánh giá
- Số lượng khách du lịch: Về cơ cấu nguồn khách cụ thể số lượng khách
nội địa, khách quốc tế đến với địa phương, thời gian lưu trú cụ thể. Về cơ cấu thị
trường, phân tích cụ thể khách nội địa chủ yếu ở thị trường nào, khách quốc tế ở
thị trường nào.
- Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch: Cơ sở lưu trú gồm có nhà hàng,
khách sạn, nhà nghỉ với số lượng phòng, chất lượng phòng ở. Cơ sở ăn uống như
số lượng nhà hàng, quán bar.. Cơ sở vui chơi, giải trí, mua sắm gồm các phân
tích cụ thể về số lượng chợ, siêu thị, trung tâm mua sắm, sản phẩm đặc trưg của
khu vực…
- Doanh thu du lịch: Giá trị đóng góp của du lịch trong GDP cho ngành
và cho địa phương…
23
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
- Lao động: Số lượng hướng dẫn viên, nhân viên nhà hàng, khách sạn…
Các tiêu chí trên góp phần phản ánh bức tranh về hiện trạng phát triển du lịch một
địa phương cụ thể sao cho phù hợp thế mạnh riêng của từng địa phương. Với địa
bàn nghiên cứu là tỉnh Bo Kẹo, đề tài tập trung phân tích tiêu chí số lượng khách,
cơ sở vật chất kỹ thuật, số lao động hoạt động trong ngành du lịch…
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát phát triển du lịch của một số tỉnh ở Lào
- Kinh nghiệm của tỉnh Luang Pa Bang (di sản thế giới)
Tỉnh Luang Pra Bang là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá và trung
tâm du lịch lớn của miền Bắc nước CHDCND Lào. Với những tiềm năng về tự
nhiên, văn hoá, kinh tế - xã hội, vừa là thành phố cố đô ngàn năm lịch sử lâu đời, là
di sản văn hoá thế giới được UNESCO công nhận, tỉnh Luang Pra Bang có đầy đủ
điều kiện tốt để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Tỉnh Luang Pra Bang nằm ở vị trí địa lý Bắc Lào của châu thổ sông Nằm Khan và
sông Mê Kông. Tỉnh Luang Pra Bang còn là cổng thành của 8 tỉnh miền Bắc, phía
Bắc giáp tỉnh Phông Xa Ly và tỉnh Sơn La (CHXHCN Việt Nam), phía Tây giáp
tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Hua Phăn, phía Nam giáp tỉnh U Đôm Xay và tỉnh Xay
Nha Bu Ly, phía Đông giáp tỉnh Viêng Chăn.
Với điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đã nêu trên, tỉnh Luang
Pra Bang có điều kiện rất thuận lợi cho khách du lịch nghỉ mát.
Về điều kiện kinh tế - xã hội, tỉnh Luang Pra Bang có dân số đứng thứ 3
trên cả nước tốc độ tăng khá nhanh, từ năm 2000 trở lại đây tăng 1,65 lần và tốc
độ tăng bình quân 3,35%. Kinh tế tỉnh Luang Pra Bang đã đạt được tăng trưởng
khá và liên tục, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7%/ năm. Qua các số liệu của
các năm tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định và tăng trưởng liên tục là cơ sở
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, nông nghiệp, công nghiệp.
Phát triển du lịch là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, vùng. Đây là cơ sở
để nâng cao đời sống vật chất cho người dân.
24
17. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Ngoài các tài nguyên thiên nhiên nêu trên, còn có những tài nguyên hấp
dẫn thu hút khách như: Chi nhánh Bảo tàng Vua Xỉ Xa Vang Vắt Tha Na và bức
tượng Xỉ Xa Vang vông nơi lưu giữ và trưng bày các hiện vật hình ảnh cuộc đời
sinh sống của Vua Luang Pra Bang. Các hoạt động lễ hội, các điểm đến du lịch
như: Du lịch thắng cảnh Tạt Quang Xi, Thăm Pha Thoc, Mương Ngoi câu những
căn cứ cách mạng, Thăm Tinh Mương Pác U, các loại hình nghệ thuật sân khấu
hiện đại và truyền thống mà có thể thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế
đến Luang Pra Bang hàng năm. Riêng năm 2007, khách quốc tế là 186.819 lượt
khách thăm quan với chi tiêu bình quân một ngày là 100USD, và khách nội địa
(trong nước) là 124.826 lượt khách thăm quan với chi tiêu bình quân một ngày
là 150.000 kip. Đồng thời tỉnh Luang Pra Bang không chỉ là điểm đến cho khách
du lịch mà còn là điểm trung tâm xuất phát cho chuyến đi du lịch các tỉnh miền
Bắc, miền trung, đó chính là cổng vào, ra của du khách trong nước và quốc tế.
[22]
- Kinh nghiệm phát triển du lịch Cánh đồng chum Xiêng Khoảng
Tỉnh Xiêng Khoảng là một tỉnh có tài nguyên thiên nhiên rất đẹp, có khí
hậu trong lạnh mát mẻ và có truyền thống lịch sử, văn hoá, thiên nhiên, có nhiều
dân tộc cùng sinh sống, với vị trí địa lý phù hợp như: Phía Đông giáp Công hoà
xã hội chủ nghĩa Việt nam. phía Bắc giáp tỉnh Hoà Phăn, phía Nam giáp tỉnh Bo
Li Khăm Xay, phía tây giáp tỉnh Luang Pra Bang và tỉnh Viêng Chăn. Các tỉnh
đã nêu trên có nền kinh tế du lịch phát triển nhanh, đồng thời cũng có sự liên kết
phát triển du lịch với nhau và hợp tác liên kết phát triển du lịch với các tỉnh trong
nước và nước láng giềng.
Tỉnh xiêng Khoảng có đường quốc gia chạy qua như: Đường số 1D, đường
số 7(m 13), đường 1c và đường số 5 và có 2 bến xe trong tỉnh, 1 bến xe đi các tỉnh,
có 1 sân bay. Tỉnh có mạng lưới điện, nước sạch, bưu chính, viễn thông khá thuận
lợi có thể đáp ứng cho việc phụ vụ khách du lịch đến tham quan.
25
18. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Thời gian qua Sở Du lịch tỉnh đã tranh thủ sự chỉ đạo Tổng cục Du lịch
quốc gia, của UBND tỉnh, phối hợp tốt với các sở, ngành liên quan trong việc
thống nhất quản lý nhà nước về du lịch nên du lịch của tỉnh phát triển khá vững
mạnh và hiệu quả.
Các công việc quản lý du lịch, phát triển du lịch của tỉnh đều có kế hoạch
sát thực với thực tiễn. Đồng thời, trong tổ chức thực hiện phát triển du lịch đều
có sự hợp tác của quần chúng nhân dân. Do đó, tỉnh đã đánh giá đúng hiệu quả
và tồn tại của việc phát triển du lịch trên địa bàn. Ngoài ra, các công việc đều
được, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, theo dõi đánh giá , báo cáo thường xuyên
cho cấp trên.
Hiện tại, du lịch Tỉnh Xiêng Khoảng được coi là một ngành công nghiệp
phát triển nhanh, là một trong ba ngành kinh tế chủ yếu của tỉnh.
+ Ngoài những chính sách chung mang tính vĩ mô như ở tỉnh Luang Pra
Bang đã nói ở trên, du lịch Cánh Đồng Chum tỉnh Xiêng Khoảng được chính
quyền sở tại đi sâu vào khai thác như du lịch sinh thái, du lịch khám phá.
+ Mở rộng sự hợp tác với các địa phương lân cận để tạo thành cụm du
lịch sinh thái hài hoà tạo lên những tour du lịch thực sự hấp dẫn.
+ Giáo dục tuyên truyền người dân nhận thức về tiềm năng lợi nhuận kinh
tế du lịch mang lại để người dân hiểu được và giữ gìn những danh lam thắng
cảnh, không tàn phá nó, coi đó như là nguồn mưu sinh của họ, họ là những người
hướng dẫn viên du lịch thực thụ của địa phương mình.
+ Ngoài ra trong tâm trí mỗi người dân cần coi trọng giữ gìn vệ sinh công
cộng, vì đây là điều mà những khách nước ngoài rất quan tâm, nhất là trong các
bữa ăn, điều này hầu hết các địa phương chưa làm được.
1.2.2. Khái quát phát triển du lịch một số tỉnh của Việt Nam
- Kinh nghiệm của tỉnh Sơn La (Giáp CHDCND Lào)
Sơn La có mạng lưới sông suối dày đặc, nguồn nước dồi dào. Đến với Sơn
La, du khách sẽ được chiêm ngưỡng nhiều hoạt động văn hoá, lễ hội rất cuốn cút
26
19. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
của đồng bào Thái, H’mông, Khơ Mú... và để hưởng thức hương vị men rượu
cần thơm của lá cây rừng, cùng với những làn điệu dân ca mời rượu làm say đắm
lòng người.
Sơn La là một tỉnh miền núi thuộc phía Bắc Việt Nam nhưng giao thông
cũng khá thuận lợi, có đường bộ với quốc lộ số 6, đường hàng không với sân bay
Nà Sản. Với điều kiện thuận lợi như vậy, Sơn La còn có nhiều tiềm năng về thắng
cảnh, thành phố Sơn La là một vùng lòng chảo, xung quanh bao bọc bởi những
ngọn núi đá vôi, nơi có nhiều hang động kỳ vĩ. Thành phố Sơn La ở độ cao 600
m so với mực nước biển, có sông Nậm Na chạy qua. Giữa lòng thị xã nổi lên một
ngọn đồi cao. Trên đó, năm 1908 thực dân Pháp cho xây một nhà tù kiên cố để
giam cầm các chiến sĩ cộng sản và các nhà yêu nước Việt Nam, các công ty lữ
hành ở đây biết khai thác những di tích lịch sử, những di vật sống như hệ thống
nhà tù, khơi lại nơi đây một thời mà các chiến sĩ cách mạng Việt Nam phải chịu
đựng.
Quy hoạch ở đây tạo nên một quần thể du lịch thực sự thu hút khách tham
quan với việc kết nối tuor giữa khu di tích lịch sử thời kỳ chống Pháp với các di
tích khác như chùa Chiền Viện, Tháp Mường …
Chính quyền tỉnh Sơn La thực sự quan tâm đến ngành du lịch, họ chú trọng
đầu tư vào cơ sở hạ tầng như đường giao thông, khu vui chơi giải trí, chú trọng
phát triển tổng thể khu du lịch như ở Mộc Châu với những cách đồng bạt ngàn
chè, vừa là nguyên liệu cho ngành sản xuất chè, vừa tạo cảnh quan cho một vùng
du lịch, ở đây được thiên nhiên ban tặng cho khí hậu quanh năm mát mẻ.
Sơn La có nhiều phong tục tập quán khác nhau, bởi vì có nhiều dân tộc
sinh sống mỗi dân tộc có lễ hội riêng của mình như: lễ hội Hoa Ban (xên Bản,
Xên Mường) của người Thái. Lễ hội Tung Còn, Tìm Bạn của dân tộc Tày Tây
Bắc. Tết Cơm Mới của người Khơ Mú.
Ngoài những tiềm năng du lịch phong phú sẵn có của tỉnh Sơn La, Chính
quyền còn xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng được ưu tiên phát triển
cho tỉnh miền núi Tây Bắc này.
27
20. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
- Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An (tiếp giáp CHDCND Lào)
Nghệ An cũng là tỉnh tiếp giáp với Lào như Sơn La. Về tài nguyên du lịch,
Nghệ An có nguồn tài nguyên rất phong phú với hệ sinh thái rừng đa dạng, nhiều
thảm thực vật, hệ động vật. Cấu tạo địa chất phức tạp với nhiều núi cao, vực sâu
tạo cho Nghệ An có nhiều thác nước đẹp như ở Pù Mát, thác Sao Va, Ba Cảnh,
Thác Đũa... Nghệ An cũng có nhiều suối nước nóng do vết nứt địa tầng kiến tạo
nên. Tài nguyên du lịch văn hóa, lịch sử cũng rất phong phú, được thừa hưởng
bề dày phát triển. Tính đến năm 2008, Nghệ An có khoảng 1.000 di tích lịch sử
đã được nhận biết, trong đó có 131 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia. Một
số di tích nổi bật có thể kể đến như khu Kim Liên, thành cổ Nghệ An, Làng Vạc,
khu Mai Hắc Đế, Đền Cuông – An Dương Vương. Ngoài ra, Nghệ An còn có
nguồn tài nguyên văn hóa phi vật thể tiêu biểu và phong phú với khoảng 24 lễ
hội trong năm. Làng nghề truyền thống ở Nghệ An cũng khá phát triển với nhiều
địa điểm có thể phát triển du lịch như làng đan nứa ở Xuân Nha, làng dệt thổ cẩm
của người Thái
ở Quỳ Châu, làng nghề trạm đá ở Diễn Châu... Với những tiềm năng to lớn đó,
trong thời gian qua, Nghệ An đã có những biện pháp tích cực nhằm khai thác,
phát triển tiềm năng, thu hút đông đảo du khách.[25]
1.2.3. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Bo Kẹo
Từ kinh nghiệm của các tỉnh trên như: tỉnh Luang Pra Bang, tỉnh Xiêng
Khoảng CHDCND Lào, tỉnh Xiêng khoảng, hay hai tỉnh của Việt Nam giáp với
Lào là tỉnh Sơn La và tỉnh Nghệ An, một số bài học về phát triển du lịch có thể
rút ra cho tỉnh Bo Kẹo, đó là:
- Thứ nhất, cần có chiến lược dựa trên tầm nhìn dài hạn và quy hoạch
phát triển cụ thể về du lịch của tỉnh
Cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch một cách tổng thể và chi
tiết. Xây dựng các chính sách phù hợp để thúc đẩy du lịch phát triển. Chiến lược
phát triển du lịch cần có tầm nhìn dài hạn, trên cơ sở đó, ngành du lịch và các
ngành liên quan sẽ xây dựng kế hoạch hành động cụ thể. Nếu thiếu chiến lược
dài hạn, các quy hoạch sẽ chồng chéo, vụn vặt, phá vỡ quy hoạch tổng thể
28
21. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
và để lại hậu quả khó khắc phục trong tương lai dài. Quy hoạch phát triển cụ thể,
chi tiết cũng rất quan trọng, nó vừa khẳng định cam kết của chính quyền địa
phương, vừa cho thấy những biện pháp phát triển trong tương lai. Trên cơ sở đó,
các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm cơ hội dựa trên hệ thống thông tin minh bạch, quy
hoạch rõ ràng.
Thứ hai, vai trò của chính quyền địa phương, của sở chuyên ngành đặc
biệt quan trọng trong việc tạo lập những tiền đề cần thiết cho phát triển du
lịch.
Chính quyền địa phương cần có những biện pháp đồng bộ để xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh. Hệ thống kết cấu hạ tầng cần được thực hiện
trước một bước. Về đầu tư kết cấu hạ tầng, kinh nghiệm của một số địa phương
nêu trên cho thấy, chính quyền cấp tỉnh cần đảm nhận các lĩnh vực đầu tư không
sinh lời, ít hoặc không có khả năng thu hồi vốn, quy mô vốn lớn (những lĩnh vực
này tư nhân không thể hoặc không muốn làm) như điện, nước, hạ tầng viễn thông,
hạ tầng giao thông...
Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cùng với việc ban hành các
chính sách phù hợp là tiền đề cần thiết, thể hiện cam kết nghiêm túc của chính
quyền địa phương đối với các nhà đầu tư.
Ngoài ra, đào tạo nhân lực tại chỗ nhằm phục vụ du lịch được xem là điều kiện
cần thiết để thu hút đầu tư, đáp ứng yêu cầu của phát triển du lịch địa phương.
Đối với du khách, lao động trong ngành du lịch là cầu nối giữa họ với cảnh
quan thiên nhiên, văn hóa, tập quán, ẩm thực địa phương, và trong nhiều trường
hợp, cảm tình của du khách đối với một điểm du lịch, một địa phương chịu sự chi
phối mang tính quyết định của đội ngũ lao động trong ngành du lịch.
Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước đối với du lịch.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch không những đảm
bảo sự bền vững cho ngành du lịch của mỗi địa phương, mỗi quốc gia mà còn là
điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển các loại hình du lịch, các sản phẩm du
lịch cũng như đảm bảo môi trường cho hoạt động du lịch. Tăng cường
29
22. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
công tác quản lý nhằm mang lại một kỳ nghỉ thú vị, an toàn, tạo sự thoải mái đối
với du khách vừa là nội dung cấp bách trước mắt, vừa là điều kiện đảm bảo để
tăng lượng khách trong tương lai. Giữ gìn, bảo vệ môi trường, tôn tạo các khu di
tích, các danh lam thắng cảnh, bảo tồn và phát huy các giá trị vật chất, tinh thần
của địa phương cũng là những kinh nghiệm quý trong phát triển du lịch ở địa
phương. Việc quản lý giá phòng nghỉ, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí.... chính
quyền địa phương cần phải có cơ chế, biện pháp quản lý nhằm đảm
bảo quyền lợi cho du khách, nghiêm cấm việc chèo kéo khách, nâng giá, kinh
doanh kiểu chụp giựt. Kinh nghiệm cho thấy, ngoài các tài nguyên du lịch sẵn có
(tài nguyên tự nhiên và nhân văn), yếu tố đảm bảo cho một điểm đến an toàn có
sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách. Do vậy, tăng cường quản lý nhà nước nói
chung, giữ gìn và bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh trật tự tại các điểm đến là
những kinh nghiệm cần được tham khảo và phát huy.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Có thể nói, cho đến nay du lịch là ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao
cho mỗi quốc gia (ngành công nghiệp không khói), quốc gia nào biết cách phát
triển và khai thác tốt thì nó đem lại giá trị rất lớn cho nền kinh tế quốc dân của
quốc gia đó. Sản phẩm du lịch gắn liền với thiên nhiên, khí hậu, phong tục tập
quán vùng miền riêng biệt, bởi vậy ta phải biết khai thác những điểm mạnh của
từng vùng, miền, có như vậy mới thu hút được khách tham quan, đem lại hiệu
quả kinh tế cho vùng, địa phương đó. Điều kiện tự nhiên ở tỉnh Bo Kẹo có rất
nhiều điểm du lịch khác với Việt Nam và cũng có thế mạnh riêng: là một tỉnh có
nhiều bộ tộc anh em chung sống, mang đậm bản sắc dân tộc, mỗi bộ tộc có một
phong tục tập quán, có nét văn hoá riêng. Khách du lịch phương Tây rất thích tìm
hiểu nền văn hoá các dân tộc sinh sống ở đây.