SlideShare a Scribd company logo
1 of 62
Download to read offline
3
BÀN VỀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
HOÀNG THỊ KIM QUẾ *
1. Đặt vấn đề
Hiệu quả hoạt động nhà nước, xã hội và
cá nhân đang là vấn đề được quan tâm đặc
biệt hiện nay. Ở nước ta, việc nghiên cứu,
đánh giá vấn đề hiệu quả các loại hình hoạt
động vẫn còn là những bước đi đầu tiên, đặc
biệt đối với các lĩnh vực pháp luật trong đó
có phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL).
PBGDPL về bản chất sẽ mang lại những lợi
ích to lớn cho xã hội do vậy cần thiết phải
tính đến chất lượng, hiệu quả trên cả bình
diện cá nhân, tổ chức và toàn xã hội.
Nhưng để có hiệu quả và để bàn về hiệu
quả của PBGDPL cần phải đề cập những vấn
đề có liên quan trực tiếp như: chất lượng,
các yếu tố tác động, đảm bảo hiệu quả của
loại hình hoạt động này. Nếu không đảm
bảo chất lượng thì không thể có hiệu quả.
Đồng thời, hiệu quả của PBGDPL không
chỉ phụ thuộc vào chất lượng của PBGDPL.
Hiệu quả PBGDPL là vấn đề quan trọng
song cũng rất khó khăn trong việc đánh giá,
bởi lẽ có khi đo lường được, có khi không
hoặc khó, ví như sự gia tăng hay giảm sút
niềm tin vào pháp luật.
2. PBGDPL trong tương quan với xây
dựng pháp luật và thực hiện pháp luật
Đời sống pháp luật là khái niệm rộng, bao
gồm các lĩnh vực cơ bản như: xây dựng pháp
luật (XDPL), thực hiện pháp luật (THPL), ý
thức pháp luật và văn hóa pháp luật; các thiết
chế pháp luật; giáo dục – đào tạo và nghiên
cứu pháp luật; hệ thống dịch vụ và thông tin
pháp luật v.v. Trên bình diện chung nhất,
PBGDPL có mặt ở tất cả các lĩnh vực cơ bản
nêu trên, hoặc ở dạng trực tiếp, hoặc ở dạng
gián tiếp.
PBGDPL là một trong những hoạt động
đảm bảo chất lượng, hiệu quả của xây dựng
pháp luật và hiệu quả của các hình thức thực
hiện pháp luật trong thực tiễn. Xây dựng
pháp luật và thực hiện pháp luật diễn ra đồng
thời xét trên bình diện hệ thống pháp luật,
vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau.
Chất lượng, hiệu quả của cả ba loại hình hoạt
động này: XDPL, THPL và PBGDPL có mối
quan hệ mật thiết với nhau và đều hướng về
một mục tiêu chung, một cơ sở xã hội chung
đó là hiệu quả xã hội lấy mục tiêu phục vụ
các quyền, tự do và lợi ích chính đáng của
con người.
Hiệu quả của PBGDPL được thể hiện
tập trung ở kết quả hình thành văn hóa pháp
luật trong đời sống xã hội với ba thành tố cấu
thành cơ bản: tri thức - hiểu biết pháp luật;
thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật và hành
vi phù hợp pháp luật của cá nhân, tổ chức.
Điều đó có nghĩa là các quy định pháp luật đã
* GS-TS, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
4 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp
của các chủ thể pháp luật. Chính vì vậy mà
PBGDPL là một trong những điều kiện đặc
biệt quan trọng đảm bảo hiệu quả của thực
hiện pháp luật nói chung, thi hành pháp luật
của các cơ quan nhà nước nói riêng.
Hiệu quả của thực thi pháp luật trong bất
kỳ một lĩnh vực xã hội nào cũng được thể
hiện trên hai phương diện: kết quả đạt được
so với mục đích, yêu cầu ban đầu của quy
định pháp luật tương ứng với những chi phí
thấp nhất; hiệu quả về xã hội của thực hiện
pháp luật - những lợi ích xã hội (của cá nhân,
tổ chức, xã hội) đem lại do kết quả của việc
thực hiện các quy định pháp luật tương ứng.
Trong thực tế, không ít trường hợp, việc thực
hiện các quy định pháp luật không mang lại
lợi ích xã hội nào, thậm chí còn có thể gây
thiệt hại cho lợi ích chính đáng của cá nhân,
tổ chức và xã hội.
Hiệu quả xã hội của PBGDPL về cơ bản
cũng được thể hiện như vậy, tức là tương
ứng với hiệu quả xã hội của chính bản thân
các quy định pháp luật cần được PBGD
cho các đối tượng xã hội nhất định. Nhưng
thông thường, người ta thường giới hạn hiệu
quả của PBGDPL ở phương diện mục đích
là cung cấp kiến thức, nhận thức pháp luật,
hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin đối
với pháp luật và hành vi phù hợp yêu cầu của
pháp luật.
3. Quan niệm về hiệu quả PBGDPL và
các tiêu chí đánh giá hiệu quả PBGDPL
Quan niệm về hiệu quả, các cấp độ của
hiệu quả PBGDPL cũng như bản thân hiệu
quả pháp luật nói chung cũng là vấn đề cần
thiết bàn luận thêm. Khái niệm pháp luật
được đề cập ở đây bao gồm các văn bản pháp
luật, các quyết định áp dụng pháp luật. Từ
phương diện hệ thống, bản thân hoạt động
PBGDPL cũng là một trong những hợp phần
của hệ thống pháp luật hiểu theo nghĩa rộng
của phạm trù này.
Theo lý thuyết chung, hiệu quả pháp luật
được hiểu là kết quả đạt được trong quá trình
pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội,
ý thức xã hội để đạt được mục đích và yêu
cầu của pháp luật đặt ra với những chi phí
vật chất, tinh thần thấp nhất1
. Để đánh giá
hiệu quả của pháp luật cần phải xem xét, tìm
hiểu các mục đích, yêu cầu của pháp luật nói
chung và của các văn bản pháp luật, các quy
phạm pháp luật, các quyết định áp dụng pháp
luật nói riêng. Xét trên bình diện xã hội, cần
tìm hiểu mức độ phù hợp của các mục đích,
yêu cầu, định hướng được ghi nhận trong
pháp luật với các điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa - xã hội, tư tưởng, tâm lý, tình
cảm và những yếu tố khác của xã hội hiện tại
mà trong đó pháp luật tác động. Tiếp đến là
xem xét đối tượng điều chỉnh của pháp luật
(trạng thái các quan hệ xã hội) trước khi pháp
luật điều chỉnh và những thay đổi thực tế của
chúng sau khi pháp luật điều chỉnh. Đồng
thời cũng cần xem xét các kết quả đạt được
do sự tác động, điều chỉnh của pháp luật xét
từ phương diện lợi ích xã hội.
Hiệu quả PBGPL cần được nhận thức,
đánh giá trên cả hai phương diện sau đây:
1. Phương diện kết quả đạt được so với yêu
cầu, mục đích của văn bản pháp luật, các quy
định pháp luật tương ứng;
2. Phương diện hiệu quả xã hội đạt được từ
kết quả thực hiện các quy định pháp luật.
Nếu theo quan điểm này, có thể đề xuất
một quan niệm về hiệu quả của PBGDPL xét
trên cả hai phương diện nêu trên như sau:
hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật
là kết quả đạt được theo đúng yêu cầu, mục
đích của các quy định pháp luật tương ứng
và các lợi ích xã hội được đem lại với chi phí
về vật chất, tinh thần thấp nhất.
Thông thường, khi nói đến hiệu quả
1
Xem: Nguyễn Minh Đoan, Hiệu quả pháp luật:Hiệu quả pháp luật:
Những vấn đề lý luận và thực tiễnNhững vấn đề lý luận và thực tiễn,, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà nội, 1997, tr. 12 - 24.
5
PBGDPL, chúng ta chủ yếu quan tâm đến
phương diện thứ nhất. Còn phương diện thứ
hai thì thường được coi là hiệu quả xã hội
của pháp luật nói chung. Tuy vậy, trong xã
hội hiện đại, vấn đề hiệu quả xã hội luôn
luôn được đặt ra cho mọi hoạt động của con
người, hoạt động PBGDPL cũng không là
ngoại lệ. Quan tâm đến hiệu quả, chất lượng
của PBGDPL là trách nhiệm của cả nhà nước
và xã hội, cả phía người đầu tư và người
thụ hưởng, ranh giới giữa hai loại chủ thể
này chỉ mang tính tương đối. So với các lĩnh
vực đầu tư khác, sự đầu tư trong hoạt động
PBGDPL có nhiều đặc điểm riêng. Theo đó,
nếu phải đầu tư thêm tiền bạc, công sức, thời
gian cho việc thực hiện PBGDPL song đổi
lại, có nhiều lợi ích xã hội đạt được do sự
gia tăng các hành vi hợp pháp và sự giảm
thiểu các hành vi vi phạm pháp luật thì vẫn
là sự lựa chọn đúng đắn, nhất là các lợi ích
xã hội xét từ phương diện quyền con người
liên quan đến sức khỏe, tính mạng và tài
sản trong một số lĩnh vực rất bức xúc hiện
nay, như: giao thông, vệ sinh, an toàn thực
phẩm... Đầu tư trí tuệ, công sức, tiền bạc
thỏa đáng cho việc tìm kiếm các biện pháp
hữu hiệu để cải thiện thực trạng về trật tự,
an toàn giao thông trong đó có việc đổi mới
mạnh mẽ việc phổ biến, giáo dục pháp luật
cần phải được nhận thức, thực thi một cách
quyết liệt hơn.
Những năm gần đây, công tác PBGDPL
đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Người dân hiện nay đã bắt đầu quan tâm
nhiều hơn về sự cần thiết phải “kiểm soát”,
đánh giá đối với công tác PBGDPL, đối với
vấn đề “hậu” PBGDPL sẽ như thế nào hay
chỉ là sự “triển khai” theo chương trình, kế
hoạch đã được thiết kế sẵn. Nói đến hiệu
quả là nói đến đòi hỏi nghiêm ngặt của xã
hội đối với việc đánh giá định lượng, định
tính theo bộ công cụ kiểm định chất lượng
và các tiêu chí, tiêu chuẩn về hiệu quả của
PBGDPL đem lại.
Về hiệu quả PBGDPL xét trên phương
diện thực hiện đúng các yêu cầu, mục đích
của các quy định pháp luật tương ứng:
Hiệu quả PBGDPL cần được đánh giá
trên từng mục đích cơ bản của PBGDPL:
mục đích nhận thức, mục đích thái độ, tình
cảm, niềm tin pháp luật và mục đích hành vi
phù hợp pháp luật. Đây chính là “bộ ba mục
đích“ của PBGDPL. Như vậy mới thật sự
khách quan, toàn diện và công bằng đối với
hoạt động PBGDPL. Theo đó, có các tiêu
chí sau:
Tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức
pháp luật;
Tiêu chí 2: đạt được mục đích thái độ,
tình cảm, niềm tin pháp luật;
Tiêu chí 3: đạt được mục đích hành vi
phù hợp pháp luật.
Nếu như việc PBGDPL đã cung cấp cho
các đối tượng PBGDPL những nhận thức -
hiểu biết cơ bản về pháp luật thì hiệu quả
về mục đích nhận thức coi như đã đạt được.
Như vậy, tiêu chí hiệu quả ở công đoạn này
có thể gọi đó là sự nhận thức, lĩnh hội, hiểu
biết pháp luật (các quy định pháp luật được
phổ biến, giáo dục pháp luật). Tiêu chí tiếp
theo, đó là hiệu quả của mức độ hình thành
thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật. Tiêu
chí về kết quả thực hiện trên thực tế: tiêu
chí về hành vi thực hiện pháp luật được thể
hiện trong các hành vi hợp pháp, trong mức
độ gia tăng các hành vi hợp pháp và giảm
các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện
pháp luật dưới tác động của PBGDPL có
chất lượng còn được thể hiện ở chỉ báo giảm
thiểu các hiện tượng hư vô pháp luật như sự
thờ ơ, sự coi thường; sự “lạng lách” pháp
luật vv...2
2
Xem: Hoàng Thị Kim Quế, Hư vô pháp luật: nhìn
từ phương diện lý luận pháp luật và xã hội học pháp
luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2008, tr.
13 - 18.
LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
6 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
Mỗi một loại tiêu chí đều phải có những
chỉ báo nhất định tương ứng, được chia làm
các mức độ (trình độ) khác nhau.Ví dụ, về
tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức, sẽ
bao gồm nhiều mức độ đạt được, theo đó, có
các mức độ: 1, 2, 3, hoặc: trung bình, khá,
tốt. Điều này là lẽ đương nhiên bởi vì sự
nhận thức, lĩnh hội, hiểu biết nội dung được
PBGDPL không thể hoàn toàn như nhau ở
các đối tượng khác nhau. Như chúng đã biết,
hành vi phù hợp pháp luật của các chủ thể
pháp luật không hoàn toàn phụ thuộc vào
PBGDPL kể cả PBGDPL đạt chất lượng
cao. Hai nữa là cũng cần tính đến từng công
đoạn, từng mục đích cụ thể trong “bộ ba”
mục đích của PBGDPL mà chúng ta quan
niệm lâu nay.
Con đường từ kiến thức – hiểu biết pháp
luật đến thái độ, tình cảm và niềm tin pháp
luật rồi đến hành vi phù hợp pháp luật –
những cái mà chúng ta gọi là mục đích của
PBGDPL, không giản đơn chỉ phụ thuộc
vào chất lượng của PBGDPL. Ngay cả công
thức chung về hiệu quả pháp luật vận dụng
vào trường hợp PBGDPL mà lâu nay chúng
ta quan niệm: tương quan giữa kết quả đạt
được so với mục đích ban đầu đề ra với các
chi phí thấp nhất, cũng chỉ đúng ở mức độ
tương đối. Mà chính xác hơn thì phải nhận
thấy rằng, ở đây mới chủ yếu dừng lại ở
phương diện chủ quan của nhà làm luật và
chủ yếu mới chỉ là hiệu quả của chính bản
thân PBGDPL: quy định pháp luật được
thực thi, trở thành những hành vi thực tế của
các nhân, tổ chức.
Một cách cụ thể hơn, hiệu qủa PBGDPL
được đánh giá thông qua các tiêu chí cơ bản
sau đây:
Tiêu chí thứ nhất: về trạng thái tri thức
ban đầu của đối tượng PBGDPL khi chưa
được phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tiêu chí thứ hai: về trạng thái thái độ,
tình cảm pháp luật ở đối tượng phổ biến,
giáo dục pháp luật trước khi được phổ biến,
giáo dục pháp luật nhằm xây dựng, củng cố
niềm tin vào pháp luật. Điều này thể hiện
tình cảm pháp luật công bằng, sự không
khoan nhượng đối với mọi hành vi vi pháp
luật và tình cảm trách nhiệm là một trong
những chỉ số để đánh giá hiệu quả của hoạt
động PBGDPL.
Tiêu chí thứ ba: về trạng thái của động
cơ và hành vi tích cực pháp luật ở đối tượng
phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiệu quả của
hoạt động PBGDPL được đánh giá thông
qua việc thực hiện các hành vi tích cực
pháp luật ở đối tượng được PBGDPL. Các
đối tượng được PBGDPL sẽ hình thành thói
quen kiềm chế không thực hiện những hành
vi mà pháp luật cấm; thực hiện nghĩa vụ
pháp lý và tích cực sử dụng các quyền của
mình một cách có văn hóa, đạo đức.
Đây là mục đích quan trọng nhất mà hoạt
động PBGDPL cần đạt được. Ngoài ra, tiêu
chí về mức độ chi phí để đạt được kết quả
thực tế cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả
của hoạt động PBGDPL. Tiêu chí này thể
hiện tính kinh tế, tính văn hóa, tính hữu ích
của hoạt động PBGDPL.
Giữa tri thức và tình cảm pháp luật có
mối liên hệ mật thiết. Sự am hiểu pháp luật
đóng vai trò quan trọng cho việc đảm bảo
sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật,
tư duy pháp lý, hình thành hành vi tích cực
pháp luật ở mỗi con người. Điều cần lưu ý là
am hiểu tri thức pháp luật không phải là sự
am hiểu đơn thuần một vài quy phạm pháp
luật nào đó mà là sự am hiểu có hệ thống
thấu đáo về nội dung, ý nghĩa của pháp luật,
biết đánh giá với niềm tin nội tâm các sự
kiện, các hành vi pháp lý là hợp pháp hay
không hợp pháp, hợp lý hay không hợp lý.
Hiểu biết tinh thần pháp luật trên cở sở đạo
đức và văn hóa.
Hành vi hợp pháp, phù hợp với yêu cầu
của pháp luật cũng đa dạng: không vi phạm
7LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
những điều bị cấm, chấp hành các nghĩa
vụ pháp lý, sử dụng các quy định pháp luật
đúng đắn để bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của mình; đấu tranh chống vi phạm
pháp luật v.v. Giáo dục pháp luật là cần thiết
khách quan như chính bản thân pháp luật
vậy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin đã chỉ ra rằng: “Con người vốn là sản
phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó
con người thay đổi vốn là sản phẩm của
hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi”3
. Luật
pháp muốn có hiệu lực, hiệu quả thì ngoài
sức mạnh của công quyền, bằng cưỡng chế
còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng
và của tinh thần, pháp luật phải được con
người nhận thức như là cái cần thiết và có cơ
sở, phải tạo niềm tin và sự kính trọng đối với
pháp luật4
. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng chỉ rõ: “Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn.
Phần nhiều do giáo dục mà nên”5
.
Về hiệu quả xã hội của PBGDPL:
Vấn đề đặt ra ở đây là: liệu có phải bất
kỳ khi nào, bất kỳ ở đâu, “thực hiện đúng”
yêu cầu của các quy định pháp luật cũng
đều đạt được hiệu quả xã hội, nếu xét trên
phương diện tính hợp lý, tính lợi ích, tính
công bằng…? Ví dụ, đối với những quy
định pháp luật bất cập, không phù hợp,
không đảm bảo lợi ích hay sự hài hòa các
loại lợi ích? Hiệu quả xã hội của PBGDPL
về cơ bản phụ thuộc vào hiệu quả xã hội
của chính bản thân các quy định pháp luật
cần được PBGD cho các đối tượng xã hội
nhất định. Đó chính là các lợi ích xã hội đạt
được do thực hiện các quy định pháp luật
của các đối tượng được PBGDPL. Hiệu quả
xã hội của PBGDPL phụ thuộc rất nhiều
3
C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị
quốc gia, 1995, tr. 10.
4
Đavưđốp, Dưới lăng kính triết học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002, bản dịch tiếng Việt, tr. 185-
186.
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995, tr 383.
vào chất lượng của các quy định pháp luật
mà cụ thể là tính hợp lý, công bằng, sự thể
hiện các loại lợi ích của cá nhân, cộng đồng,
xã hội. Hiệu quả xã hội của PBGDPL còn
được thể hiện trên một phạm vi rộng hơn,
lan tỏa ra cả những người xung quanh chứ
không chỉ đối với những người được trực
tiếp PBGDPL. Đây cũng chính là giá trị to
lớn của PBGDPL. Pháp luật chỉ có hiệu lực
thực sự khi được mọi người dân tiếp nhận và
thi hành một cách tự giác.
4. Một số vấn đề về chất lượng, hiệu quả
PBGDPL và nâng cao hiệu quả PBGDPL
trong một số lĩnh vực hoạt động xã hội
hiện nay
Thời gian gần đây dư luận xã hội đặc
biệt quan tâm vấn đề nâng cao hiệu quả
PBGDPL, giáo dục đạo đức trong lĩnh vực
đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh,
an toàn thực phẩm. Đây là những vấn đề vô
cùng khó khăn, phức tạp đang đòi hỏi những
nỗ lực to lớn của toàn xã hội. Chúng tôi có
một số đề xuất sau:
- Cần xây dựng Bộ công cụ Kiểm định
chất lượng PBGDPL.
- Để có hiệu quả, cần đổi mới mạnh mẽ
công tác PBGDPL.
- Ưu tiên đầu tư PBGDPL có hiệu quả
vào những lĩnh vực bức xúc nhất hiện nay,
trước hết là lĩnh vực trật tự, an toàn giao
thông. Cũng như trong lĩnh vực đào tạo,
giáo dục hiện nay, vấn đề chất lượng, hiệu
quả đang bắt đầu được quan tâm đặc biệt
và được nhìn nhận, đánh giá, đo lường theo
những bộ công cụ Kiểm định chất lượng.
Cần phải Kiểm định chất lượng PBGDPL,
xây dựng các Bộ công cụ Kiểm định chất
lượng PBGDPL, xây dựng các trung tâm
đảm bảo chất lượng PBGDPL. Chính
yếu tố chất lượng, hệ thống đảm bảo chất
lượng là điều kiện đặc biệt quan trọng để
nâng cao hiệu quả PBGDPL (tất nhiên, hiệu
quả PBGDPL còn phụ thuộc vào hàng loạt
8 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
yếu tố khách quan và chủ quan khác). Nếu
không, các đánh giá của chúng ta rồi vẫn sẽ
rơi vào chung chung, thiên về định tính và
khó kiểm soát, khó tường minh. Vì vậy, cần
xây dựng hệ tiêu chí, tiêu chuẩn về đánh giá
hiệu quả PBGDPL nói chung và cho từng
loại đối tượng trong các lĩnh vực hoạt động
xã hội tương ứng.
Để nâng cao hiệu quả PBGDPL, phải đổi
mới mạnh mẽ bản thân công tác này so với
cách làm lâu nay, đổi mới về hình thức, nội
dung, phương pháp, phong cách PBGDPL.
Cần phải kết hợp “ba trong một” mới có
thể đạt hiệu quả cao về PBGDPL: kết hợp
giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức và
kỹ năng sống, kỹ năng sử dụng pháp luật
cho các đối tượng xã hội nói chung, những
người tham gia giao thông nói riêng. Kết
hợp các biện pháp đồng bộ theo hướng vừa
xử lý, “chữa trị” các triệu chứng của hành
vi vi phạm pháp luật, vừa khắc phục các
nguyên nhân của chúng.
Đơn cử, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
hành vi vi phạm pháp luật giao thông, kèm
theo những hậu quả thiệt hại là do lỗi của
người tham gia giao thông: ý thức pháp luật
yếu kém, không hiểu biết những quy định
pháp luật liên quan. Thế nhưng, liều thuốc
nào, cách thức nào để chữa trị căn bệnh
“thiếu, kém ý thức pháp luật, ý thức đạo
đức và văn hóa trong tham gia giao thông”,
hiện vẫn đang là bài toán nan giải của chúng
ta. Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao
thông quốc gia thì có đến trên 80 % các vụ vi
phạm gây tai nạn đều do người tham gia giao
thông ở độ tuổi từ 18 đến 35; 90% sinh viên
có giấy phép lái xe không đúng kỹ thuật...6
.
Do đó, cần phân hóa đối tượng và ưu tiên
đầu tư nhiều hơn về PBGDPL, giáo dục đạo
đức và kỹ năng sống, kỹ năng tham gia giao
thông cho thanh, thiếu niên, cho nam giới.
6
http://antg.cand.com.vn/vi-vn/phong-
su/2008/12/70894.cand
Hiệu quả PBGDPL đối với họ sẽ được nâng
cao rất nhiều nếu áp dụng các biện pháp
thiết thực, như: giáo dục tính cách, kỹ năng
ứng xử trong tham gia giao thông, bổn phận,
trách nhiệm đạo đức, pháp luật và văn hóa.
Giáo dục để xây dựng, thực hành ở họ sự từ
tốn, thận trọng, nhường nhịn, trách nhiệm
với chính mình, với những người thân và
những người xung quanh mỗi khi tham gia
giao thông. Điều này, xem ra liên quan trực
tiếp với “mục đích” thứ hai của PBGDPL –
xây dựng thái độ tôn trọng pháp luật, tình
cảm đúng đắn và niềm tin vào pháp luật giao
thông bởi đó là lợi ích, là nét đẹp của văn
hóa giao thông.
Nếu xét từ góc độ quyền về sức khỏe, tính
mạng, quyền sống của con người thì hoàn
toàn có thể nói rằng, đảm bảo an toàn, trật
tự giao thông còn nóng bỏng hơn, bức xúc
hơn so với tham nhũng. Hiệu quả PBGDPL
trong lĩnh vực này thực sự là vấn đề đặc biệt
cấp bách hiện nay. Không nên tiết kiệm vào
việc huy động trí tuệ, công sức, thời gian
để tìm ra những biện pháp quyết liệt, hợp
lý, khả thi hơn thì mới có thể cải thiện được
tình hình chấp hành pháp luật về trật tự an
toàn giao thông, hạn chế đến mức thấp nhất
những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài
sản của người dân. .
9
1. Khái quát về tư tưởng phân chia
quyền lực nhà nước
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có
từ thời cổ đại ở phương tây. Tư tưởng phân
quyền trong xã hội Hy Lạp cổ đại đã có mầm
mống từ Aristotle. Ông quan niệm rằng trong
bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những
yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách
nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực
thi pháp luật và các tòa án1
. Tuy nhiên, tư
tưởng của Aristotle mới chỉ dừng lại ở việc
phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà
nước.
John Locke (1632 - 1704), nhà triết học
Anh, là người đã khởi thảo học thuyết phân
quyền. Ông cho rằng sự phân biệt các quyền
là điều kiện tiên quyết và quan trọng để đảm
bảo tự do. Trong tác phẩm Hai chuyên luận
về chính phủ, ông phân chia quyền lực nhà
nước thành ba quyền: lập pháp, hành pháp
và liên hợp. Để thực thi ba quyền này, nhà
nước cần phải tổ chức thành ba cành quyền
lực khác nhau. Quyền lập pháp do Quốc hội
đảm nhiệm. Quyền hành pháp thuộc về nhà
vua (nhà vua lãnh đạo việc thực thi pháp luật,
bổ nhiệm các Bộ trưởng và các quan chức
khác). Quyền liên hợp là quyền để xử sự
với các nước khác như tuyên bố chiến tranh,
* ThS, Khoa Luật Hành chính - Trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh.
1
William Ellis (transleted), The Politics of Ari-
totle or a Treaties on Government, London. I.M,
tr. 132.
TƯ TƯỞNG PHÂN CHIA QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC TRONG HIẾN PHÁP 1946
NGUYỄN MẠNH HÙNG*
thực hiện hòa bình2
.
Quan điểm trên của John Locke được nhà
khai sáng vĩ đại người Pháp Montesquieu
phát triển. Trước thực tế lịch sử là nỗi thống
khổ của nhân dân bị đọa đày trong chế độ
phong kiến chỉ có cai trị độc đoán chứ không
có “hương sắc” của tự do, Montesquieu đã
cảm nhận được “sứ mạng ẩn tàng” mà lịch
sử trao cho. Tác phẩm của ông thể hiện tinh
thần chống thế quyền bạo ngược và thần
quyền giáo điều, chống lại sự u tối nhận thức
và bất khoan dung về chính trị. Trong tác
phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu
cho rằng: “khi mà quyền lập pháp và hành
pháp nhập lại trong tay một người hay một
Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do
nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc
viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi
hành một cách độc tài. Cũng không còn gì
là tự do nếu như quyền tư pháp không tách
rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền
tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì
người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền
tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt
ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền
hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của
kẻ đàn áp”3
. Trên cơ sở đó, ông đã phân chia
2
Lê Tuấn Huy - Triết học chính trị Montesquieu
với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam -
Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 74.
3
Montesquieu, The Spirit of the Laws, Transleted
by Thomas Nugent, New York Hafner Publishing
Company 1949, tr. 151.
LUẬT HIẾN PHÁP
10 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
quyền lực nhà nước thành ba quyền. Đó là
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền
lập pháp là quyền làm luật, sửa đổi, hủy bỏ
và giám sát thi hành luật. Quyền hành pháp là
quyền thực thi các văn bản pháp luật, quyền
khai chiến, quyền nghị hòa, phái hoặc tiếp các
sứ thần, thiết lập sự an ninh và đề phòng sự
xâm lược. Quyền tư pháp là quyền trừng trị
các tội phạm hay phân xử các vụ tranh chấp
quyền lợi giữa các tư nhân4
. Như vậy, sự phân
chia của ông đầy đủ và hoàn chỉnh hơn. Quyền
hành pháp bao hàm cả hai lĩnh vực: thực thi
pháp luật và bang giao quốc tế của John Locke.
Sự bổ sung thêm quyền tư pháp chính là điểm
mới của Montesquieu làm cho học thuyết phân
quyền của ông hoàn hảo hơn. Nội dung liên hệ
trong nguyên tắc phân quyền biểu hiện ở sự
phối hợp, sự đan xen và sự chế ước trong hoạt
động và trong quyền lực giữa ba quyền.
- Bản thân sự phân định quyền lực đã là sự
phân định trong phối hợp. Thực tế không có
bất kỳ một hệ thống quyền lực nhà nước nào
khi phân định xong thì mỗi bộ phận quyền
lực lại hoàn toàn tự hoạt động riêng biệt, như
kiểu một bộ máy mà các bánh xe răng cưa rời
rạc nhau, tự quay lấy một mình, mà trái lại
chúng phải khớp với nhau. Các loại cơ quan
không thể tự hoạt động riêng rẽ nhau mà có
sự đan xen, kiềm chế lẫn nhau, buộc phải dựa
vào nhau (hành pháp cần có luật, ngân sách,
quy định thuế từ lập pháp; những gì lập pháp
ban hành cần được thực hiện thông qua hành
pháp và tư pháp; trường hợp cơ quan tư pháp
cũng tương tự như vậy).
- Sự phối hợp còn được thực hiện bằng
quan hệ đan xen quyền lực: hành pháp được
quyền phủ quyết các dự án luật đã được
Quốc hội thông qua, lập pháp được quyền
phê chuẩn các quyết định bổ nhiệm của Tổng
thống và phê chuẩn các hiệp định đã được
4
Montesquieu, The Spirit of the Laws, Transleted
by Thomas Nugent, New York Hafner Publishing
Company 1949, tr. 151.
Tổng thống hoặc Bộ trưởng ký kết; tư pháp
được quyền xét xử các hành vi của hành
pháp, hành pháp được quyền bổ nhiệm các
Thẩm phán của Tòa án tối cao; lập pháp được
quyền quyết định ngân sách hoạt động của
hành pháp và tư pháp, tư pháp được quyền
xét xử các đạo luật vi hiến của lập pháp5
.
- Quan hệ đan xen như vậy, tiến tới một
bước chính là sự kiểm soát và kiềm chế giữa
các loại cơ quan. Không có bất kỳ một loại
cơ quan nào có được quyền hạn tuyệt đối
cuối cùng, là điểm hội tụ quyền lực tuyệt đối
cuối cùng. Sự kiềm chế và đối trọng như vậy
không phải là làm cho bộ máy nhà nước hoạt
động kém hiệu quả, mà trước hết là không để
bất kỳ một loại cơ quan nào có thể tự mình
thâu tóm mọi quyền hành hay đi đến chỗ
lạm quyền trong khi thực hiện quyền lực nhà
nước; là không đưa nhà nước, cơ quan nhà
nước, con người trong bộ máy nhà nước đi
đến chỗ lạm quyền, độc tài, chuyên chế; và
đồng thời như một hệ quả, chính là làm tăng
hiệu năng cho bộ máy nhà nước.
Sự phân chia quyền lực để tiến tới kiểm soát
quyền lực thể hiện tầm vóc lớn lao có ý nghĩa
thời đại trong học thuyết phân chia quyền lực
của Montesquieu. Bởi vì tất cả những tư tưởng
triết học chính trị trước Montesquieu và cả
Rousseau sau này, cơ bản đều đặt vấn đề ở việc
thực hiện quyền lực nhà nước như thế nào mà
không hề nêu vấn đề kiểm soát quyền lực đó
ra sao6
. Từ sự phân tích trên, có thể kết luận
rằng bản chất của phân quyền không có gì khác
hơn chính là sự phân công, phối hợp để tiến
tới sự kiểm soát; dùng quyền lực để giới hạn
quyền lực; nhằm mục đích không để quyền lực
đi đến chỗ lạm quyền. Đằng sau lý thuyết ấy
chính là triết lý về bản chất cũng như mối
quan hệ giữa con người - quyền lực - chính
5
Nguyễn Đăng Dung, Tính nhân bản của Hiến
pháp và bản tính của các cơ quan nhà nước, Nxb Tư
pháp, 2004, tr. 51.
6
Lê Tuấn Huy, Triết học chính trị Montesquieu với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 138.
11
có quyền bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị
quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần; bổ
nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong
các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn; thi
hành luật động viên và mọi phương sách cần
thiết để giữ gìn đất nước; lập dự án ngân sách
hàng năm (Điều 52 Hiến pháp năm 1946).
-QuyềntưphápthuộcvềhệthốngTòaánbao
gồm: Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các
Tòa án đệ nhị cấp và các Tòa án sơ cấp có chức
năng xét xử (Điều 63 Hiến pháp năm 1946).
Từ những quy định trên, có thể nhận thấy
2 vấn đề cốt lõi: một là, Hiến pháp bảo đảm
tính độc lập của quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp; hai là, khẳng định có tính nguyên
tắc là: Nghị viện, Chính phủ và Tòa án đều
là những cơ quan cao nhất của quyền lực
nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước nắm một
bộ phận quyền lực nhà nước. Chính những
quy định này đã thể hiện sự phân công lao
động quyền lực giữa các cơ quan cao nhất
của quyền lực nhà nước khá rạch ròi8
.
2.2 Vấn đề phối hợp quyền lực nhà nước
theo Hiến pháp 1946
Về sự phối hợp trong lĩnh vực làm luật:
theo Hiến pháp năm 1946, để Nghị viện nhân
dân “đặt ra các pháp luật” (Điều 23) và Ban
thường vụ “biểu quyết những dự án sắc luật
khi Nghị viện không họp” (Điều 36), Điều 52
Hiến pháp trao cho Chính phủ quyền “đề nghị
những dự án luật ra trước Nghị viện và những
dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong
lúc Nghị viện không họp”; để Nghị viện nhân
dân “biểu quyết ngân sách”, Điều 52 Hiến
pháp trao cho Chính phủ quyền “lập dự án
ngân sách hàng năm”; và Điều 49 Hiến pháp
trao cho Chủ tịch nước quyền “ký hiệp ước với
các nước” thì Nghị viện nhân dân chính là cơ
quan “chuẩn y các hiệp ước” đó v.v.
Sự phối hợp trong lĩnh vực thi hành luật:
8
Trần Ngọc Đường, Một số vấn đề về phân công,
phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, 2011, tr. 264.
quyền. Sự ra đời của học thuyết phân quyền “đã
đánh dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng quyền
lực dã man trong các xã hội chuyên chế sang
thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân
chủ”7
.
2. Tư tưởng phân chia quyền lực nhà
nước trong Hiến pháp 1946
Hiến pháp 1946 thể hiện tư tưởng phân
quyền tương đối rõ thông qua việc phân công
nhiệm vụ, quyền hạn và có cơ chế kiểm soát
sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước.
2.1 Vấn đề phân công quyền lực nhà
nước theo Hiến pháp 1946
Theo Hiến pháp này, các chức năng lập
pháp, hành pháp và tư pháp do ba cơ quan
là Nghị viện nhân dân, Chính phủ và Tòa án
thực hiện.
- Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền
cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa;
giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc;
đặt ra các pháp luật; biểu quyết ngân sách;
chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với
nước ngoài (Điều 23 Hiến pháp năm 1946);
bầu Chủ tịch nước (Điều 45 Hiến pháp năm
1946); quyết định vấn đề tuyên chiến (Điều
29 Hiến pháp năm 1946) và có thể tuyên bố tự
giải tán (Điều 33 Hiến pháp năm 1946); xem
xét việc bãi miễn của một nghị viên (Điều
41 Hiến pháp năm 1946); phê chuẩn việc lựa
chọn Thủ tướng của Chủ tịch nước, việc lựa
chọn các Bộ trưởng của Thủ tướng (Điều 47
Hiến pháp năm 1946); Nghị viện có quyền
tín nhiệm Chính phủ (Điều 54 Hiến pháp
năm 1946); có quyền yêu cầu sửa đổi Hiến
pháp (Điều 70 Hiến pháp năm 1946).
- Chính phủ là cơ quan hành chính cao
nhất của toàn quốc; thi hành các đạo luật và
quyết nghị của Nghị viện; đề nghị những dự
luật ra trước Nghị viện và những dự án sắc
luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị
viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt;
7
Phạm Thế Lực, Ý nghĩa của lý thuyết phân quyền
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 127/2008.
LUẬT HIẾN PHÁP
12 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
để Chính phủ “thi hành các đạo luật và quyết
nghị của Nghị viện”, Hiến pháp năm 1946
quy định Nghị viện nhân dân phải “đặt ra các
pháp luật” và “trong khi xét xử, các viên thẩm
phán chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 69)…
Sự phối hợp trong lĩnh vực xét xử: Chính
phủ có quyền bổ nhiệm các viên Thẩm phán,
xử các việc hình sự có phụ thẩm nhân dân
tham gia, bị cáo có quyền tự bào chữa lấy
hoặc mượn luật sư,…
2.3 Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
theo Hiến pháp 1946
Kiểm soát và đối trọng giữa lập pháp với
hành pháp: khi quy định thẩm quyền cụ thể
của các cơ quan cao nhất trong bộ máy nhà
nước, Hiến pháp 1946 đã tạo nên cơ chế “cân
bằng quyền lực” hay cơ chế “kiềm chế quyền
lực” giữa các nhánh quyền lực nhà nước,
đặc biệt là giữa lập pháp và hành pháp 9
. Lập
pháp tham gia kiểm soát hành pháp thể hiện
ở chỗ: tham gia thành lập cơ quan hành pháp
qua việc bầu Chủ tịch nước (Điều 45 Hiến
pháp năm 1946); phê chuẩn sự lựa chọn Thủ
tướng của Chủ tịch nước và sự lựa chọn các
Bộ trưởng của Thủ tướng (Điều 47 Hiến pháp
năm 1946); biểu quyết các dự luật, sắc luật và
ngân sách do Chính phủ đệ trình; chuẩn y các
hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài
(Điều 23 Hiến pháp năm 1946); chất vấn
các thành viên của Chính phủ (Điều 55 Hiến
pháp năm 1946); quyết định thành lập một
Tòa án đặc biệt để truy tố và xét xử Chủ tịch
nước, Phó Chủ tịch nước hay một nhân viên
Nội các khi họ phạm tội phản quốc (Điều 51
Hiến pháp năm 1946); thay thế Nội các qua
việc biểu quyết vấn đề tín nhiệm Thủ tướng
và các Bộ trưởng (Điều 54 Hiến pháp năm
1946). Hành pháp đối trọng lại so với lập
pháp thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước có quyền
ban hành những sắc lệnh có giá trị gần như
9
Trần Ngọc Đường, Một số vấn đề về phân công,
phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, 2011, tr. 264.
luật; Chủ tịch nước có thể yêu cầu Nghị viện
thảo luận lại dự luật mà Nghị viện đã thông
qua (Điều 31 Hiến pháp năm 1946); Chủ tịch
nước có quyền đưa vấn đề tín nhiệm Nội các
ra Nghị viện thảo luận lại trong thời hạn 24
giờ (Điều 54 Hiến pháp năm 1946); Chủ tịch
nước không phải chịu một trách nhiệm nào
trước Nghị viện trừ tội phản quốc (Điều 50
Hiến pháp năm 1946); Chính phủ có quyền
bắt giam các Nghị viên khi họ phạm tội quả
tang nhưng Chính phủ phải thông báo cho
Ban thường vụ chậm nhất là sau 24 giờ (Điều
40 Hiến pháp năm 1946).
Kiểm soát và đối trọng giữa tư pháp với lập
pháp: tư pháp tham gia kiểm soát lập pháp thể
hiện ở chỗ: Tòa án có quyền xét xử Nghị viên
(Điều 40 Hiến pháp năm 1946). Lập pháp đối
trọng lại so với tư pháp thể hiện ở chỗ: việc
xét xử Nghị viên phải được sự đồng ý của
Nghị viện hoặc Ban thường vụ khi Nghị viện
không họp (Điều 40 Hiến pháp năm 1946);
Tòa án phải xét xử theo các luật do Nghị viện
ban hành (Điều 69 Hiến pháp năm 1946).
Kiểm soát và đối trọng giữa tư pháp với
hành pháp: tư pháp tham gia kiểm soát hành
pháp thể hiện ở chỗ: có quyền xét xử nhân
viên Nội các về thường tội (Điều 51 Hiến
pháp năm 1946). Hành pháp đối trọng lại so
với tư pháp thể hiện ở chỗ: việc bắt bớ và
truy tố trước Tòa án một nhân viên Nội các
về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội
đồng Chính phủ (Điều 51 Hiến pháp năm
1946); Chính phủ có quyền bổ nhiệm Thẩm
phán (Điều 64 Hiến pháp năm 1946).
2.4 Thông qua cơ chế phân quyền, Hiến
pháp 1946 đã lột tả được bản tính cần phải
có của các cơ quan nhà nước
- Nghị viện theo Hiến pháp 1946 là một
Nghị viện đoàn kết, dân chủ và thận trọng.
Chế định Nghị viện nhân dân được quy định
trong Hiến pháp 1946 thể hiện một hình thức
dân chủ mới của chính thể cộng hòa lần đầu
tiên được thiết lập ở một đất nước nửa phong
13LUẬT HIẾN PHÁP
kiến, nửa thuộc địa. Bản chất, tổ chức và
phương thức hoạt động của Nghị viện nhân
dân là phù hợp với tình hình thực tế của Việt
Nam sau Tổng tuyển cử 1946, với sự tham gia
của nhiều lực lượng chính trị trong một cơ chế
dân chủ nhân dân. Việc bổ sung 70 ghế Đại
biểu Quốc hội cho Việt Nam Quốc dân đảng
(Đảng Việt quốc) và Việt Nam Cách mạng
đồng minh hội (Đảng Việt cách) nhằm tập hợp
các lực lượng chống đối, lôi cuốn họ tham gia
xây dựng đất nước; thực sự là sáng kiến vĩ đại
về một nhà nước của dân tộc Việt Nam10
. Điều
đặc biệt cần nhấn mạnh là Điều 30 Hiến pháp
1946 xác định hình thức hoạt động rất dân chủ
của Nghị viện nhân dân: “Nghị viện họp công
khai, công chúng được nghe”. Quy định này
đã thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước
Việt Nam với tính cách là nhà nước dân chủ
nhân dân. Tính dân chủ của Nghị viện trong
Hiến pháp 1946 còn được thể hiện ở quy định:
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia
sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu 2/3 tổng số
nghị viên đồng ý” (Điều 32). Để giữ cho quyết
định lập pháp của Nghị viện được cẩn trọng
hơn, Điều 31 Hiến pháp 1946 quy định: Chủ
tịch nước được quyền yêu cầu Nghị viện xem
xét lại các dự thảo luật đã được thông qua; hoặc
Điều 54 Hiến pháp 1946 quy định: Chủ tịch
nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại
việc bất tín nhiệm Nội các cũng là nhằm mục
đích đảm bảo cho quyết định bất tín nhiệm Nội
các của Nghị viện được thận trọng hơn.
- Chính phủ theo Hiến pháp 1946 là một
Chính phủ mạnh và dám chịu trách nhiệm.
Thông qua việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch nước và Chính phủ theo Hiến
pháp 1946, có thể nhận thấy rằng, Chủ tịch
nước vừa là người đứng đầu Nhà nước, vừa
trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của Chính phủ.
Chức năng nguyên thủ quốc gia nhập lại với
chức năng hành pháp và Chủ tịch nước thực sự
10
Nguyễn Văn Thảo, Xây dựng nhà nước pháp
quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nxb Tư pháp,
2006, tr. 35.
nắm quyền hành pháp. Chính phủ thực sự “là
cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc”.
Theo nhà nghiên cứu Việt Phương, “Trong sự
phân quyền ấy, mối quan tâm suốt đời của Hồ
Chí Minh, theo tôi hiểu, là xây dựng một nền
hành pháp rất mạnh, rất, rất mạnh, và điều này
là một kinh nghiệm lớn của loài người. Hồ Chí
Minh đã nhận rõ kinh nghiệm ấy”11
. Giống
với một số nước khác, trong mỗi sắc lệnh
của Chính phủ bên cạnh chữ ký của Chủ tịch
nước phải có chữ ký “phó thự” của một Bộ
trưởng và chính người trực tiếp ký ấy mới phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện về hậu quả
pháp lý của văn bản đó12
. Bộ trưởng chỉ chịu
trách nhiệm cá nhân mà không phải chịu trách
nhiệm liên đới trước Nghị viện nên chỉ Bộ
trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm
thì mới phải từ chức và Nội các không phải
từ chức tập thể trong trường hợp Bộ trưởng bị
mất tín nhiệm. Thủ tướng là người đứng đầu,
điều hành Nội các và chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động của Nội các trước Nghị viện: “Thủ
tướng phải chịu trách nhiệm về con đường
chính trị của Nội các”. Thủ tướng và Nội các
có thể bị đặt vấn đề tín nhiệm trước Nghị viện
khi Ban thường vụ hoặc ¼ tổng số Nghị viên
đặt vấn đề ấy. Trong vòng 24 giờ sau khi Nghị
viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì
Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề đó ra thảo
luận lại. Sau cuộc biểu quyết lần hai mà vẫn
bị mất tín nhiệm thì Nội các phải từ chức.
Các Bộ trưởng phải trả lời chất vấn của Nghị
viện hoặc Ban thường vụ.
- Tòa án theo Hiến pháp 1946 là một Tòa
án độc lập. Tòa án được xem “là một cơ quan
trọng yếu của chính quyền”, có vị trí độc lập
trong tổ chức bộ máy nhà nước. Tòa án độc
lập đối với hành chính, chỉ có Tòa án mới có
11
Việt Phương, Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước , Viện nghiên cứu Khoa học Pháp
lý của Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1993, tr. 68.
12
Việt Phương, Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước, Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý
Hà Nội, 1993 tr. 68-69.
14 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
chức năng xét xử; các viên Thẩm phán đều
do Chính phủ bổ nhiệm nhưng trong khi xét
xử, các Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật,
các cơ quan khác không được phép can thiệp.
Kết luận: Phân quyền là cơ chế ngăn ngừa
sự độc đoán, chuyên quyền bằng một cơ chế
được quy định công khai trong Hiến pháp
chứ không “ngấm ngầm” tự nguyện bởi đạo
đức, trong một xã hội pháp quyền chứ không
phải xã hội của đức quyền, giáo quyền, cực
quyền. Phân quyền đem lại sự phân công
cụ thể phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của
mỗi nhánh quyền lực trong tổng thể quyền
lực nhà nước và chịu sự kiểm soát thường
trực của những định chế quyền lực cùng cấp
khác. Do đó, mỗi nhánh quyền lực phải tự
thân nâng cao năng lực và trách nhiệm chính
trị trong hành động. Điều này sẽ nâng cao
và khẳng định tính chuyên nghiệp của các
nhánh quyền lực trên nền tảng Hiến pháp và
pháp luật; không trông chờ, dựa dẫm vào một
nhánh quyền lực khác có tính tối cao để được
ban phát, cho phép, hướng dẫn. Thay vào đó,
từ sự chuyên nghiệp trong phân quyền, các
nhánh quyền lực sẽ năng động, luôn tự hoàn
thiện để tương xứng với vị trí, chức năng của
mình. Sự chủ động đó đóng vai trò như một
xung lực thúc đẩy các nhánh quyền lực thăng
tiến, qua đó thúc đẩy sự thăng tiến của cả hệ
thống. Từ đó, mỗi nhánh quyền lực sẽ chủ
động trong sự thăng tiến xã hội công dân, dân
chủ và pháp quyền, tránh tình trạng thụ động
hay bảo thủ của cả hệ thống. Tất cả sẽ tạo nên
sự năng động cần thiết trong bối cảnh kinh tế
ngày càng tăng tốc, xã hội công dân không
ngừng tiến những bước mới, dân chủ tiếp tục
được khai triển sâu rộng… Kết quả chung sẽ
là sự hình thành và thăng tiến của nhà nước
pháp quyền và xã hội công dân. Không hẳn là
nhân tố duy nhất, nhưng phân quyền là nhân
tố cần có trước nhất và nền tảng nhất về mặt
pháp lý nhằm bảo đảm cho sự phi chuyên
chế chính trị, bảo đảm cho dân chủ và xã hội
công dân. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của
nhà nghiên cứu Việt Phương rằng: “Hồ Chí
Minh chấp nhận sự phân quyền ấy. Gọi sự
phân quyền ấy là phân công cũng được thôi,
nhưng theo tôi, Hồ Chí Minh đã chấp nhận sự
phân quyền và đã khéo kết hợp hài hòa quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp… Cách tổ chức
nhà nước sinh thời Hồ Chí Minh qua Hiến
pháp 1946 là rất Việt Nam, mang đậm dấu ấn
dân tộc và sắc thái phương Đông, đồng thời
có vận dụng nhiều kinh nghiệm của Pháp,
có một phần của Mỹ về tổ chức nhà nước và
các mối quan hệ quyền hạn giữa các bộ phận
chính quyền với nhau, đằng sau đó là kinh
nghiệm của Anh, vì Anh đã một thời làm mẫu
cho các nền dân chủ phương tây”13
.
Ở nước ta hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền
lực vì hướng đến mục tiêu thống nhất quyền
lực nên chỉ được thiết kế theo chiều dọc từ
trên xuống, không có chiều ngang. Ngành
lập pháp có quyền kiểm soát quyền lực của
ngành hành pháp và tư pháp. Nhưng hai
ngành này không được kiểm soát quyền lực
của nhau và càng không thể kiểm soát quyền
lực của lập pháp: Tòa án không được quyền
kiểm soát văn bản không hợp hiến, không
hợp pháp của Chính phủ và càng không thể
xét xử các luật vi hiến của Quốc hội; Chính
phủ không được quyền phủ quyết luật, không
được đề nghị giải tán Quốc hội, không được
đặt vấn đề bất tín nhiệm trước Quốc hội,… Do
đó, việc nghiên cứu cơ chế phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp
1946 có ý nghĩa quan trọng để hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay, nhất là trong bối cảnh Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chính
thức khẳng định quyền lực nhà nước không
chỉ có “sự phân công, phối hợp” mà còn có sự
“kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”..
13
Trần Ngọc Đường, Một số vấn đề về phân công,
phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, 2011, tr. 440.
15LUẬT HÌNH SỰ
T
hị trường chứng khoán (TTCK)
là thị trường tập chung các nguồn
vốn cho đầu tư và phát triển kinh
tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường
đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung.
TTCK còn được gọi là phong vũ biểu của
nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế
vĩ mô. Nhằm đảm bảo thực thi pháp luật về
chứng khoán (CK) và TTCK đồng thời bảo
vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia TTCK,
Nhà nước ta sử dụng nhiều biện pháp pháp lý
trong đó có pháp luật hình sự để xử lý những
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong hoạt động CK và TTCK. Với mục tiêu
đã được đặt ra tại Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020: “Hoàn thiện
chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù
hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân;”, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự
năm 1999 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010)
đã qui định 3 tội danh mới trong lĩnh vực CK
và TTCK: tội cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che dấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội
bộ để mua bán chứng khoán ( Điều 181b);
tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c).
Đây là lần đầu tiên tội phạm trong lĩnh vực
CK và TTCK được quy định trong Bộ luật
hình sự. Đây cũng là một bước tiến quan
trọng trong việc hoàn thiện dần khung pháp
lý chung đảm bảo cho TTCK hoạt động một
cách minh bạch, hiệu quả.
1. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán (Điều 181a)
“1. Người nào cố ý công bố thông tin sai
lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc
chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh
doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng
ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng
khoán gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt
tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm
triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến
năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính lớn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm.”
CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨNG KHOÁN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY
PHAN ANH TUẤN *
* ThS, Khoa Luật Hình sự - Trường Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh.
16 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
Về mặt khách thể của tội phạm, tội phạm
xâm phạm chế độ quản lý kinh tế nhà nước
trong lĩnh vực CK và TTCK. Ngoài ra, tội
phạm còn xâm phạm quyền lợi và gây thiệt
hại cho cho các chủ thể khác trên thị trường.
Có thể thấy, thông tin có vị trí đặc biệt
quan trọng đối với TTCK – bởi vì với đặc
trưng là tính trung gian, nhà đầu tư khi đầu tư
CK không thể trực tiếp kiểm tra chất lượng
hàng hóa như các loại hàng hóa thông thường
khác mà phải dựa trên cơ sở thông tin có liên
quan. Pháp luật quy định nhà đầu tư có quyền
được nhận những thông tin chính xác, kịp
thời và trung thực từ những chủ thể có nghĩa
vụ công bố thông tin. Khi nhận được thông
tin liên quan đến CK từ những chủ thể trên
mà những thông tin này lại không đúng sự
thật hoặc đã bị che giấu một phần quan trọng
thì khả năng nhận diện quy luật thị trường
của các nhà đầu tư đã bị làm sai lệch và quyết
định đầu tư sai lầm là điều khó tránh khỏi.
Điều này không chỉ xâm phạm quyền được
thông tin của các nhà đầu tư mà còn gây ra
các thiệt hại về tài sản cho họ.
Hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc
che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
có đối tượng tác động là các thông tin, sự thật
về việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt
động kinh doanh CK, tổ chức thị trường,
đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK.
Người phạm tội thực hiện tội phạm thông
qua việc tác động tới những thông tin về số
liệu, tình hình tài chính, quyết định của Hội
đồng cổ đông thông qua phương án phát hành
CK…Có thể thấy rằng đây là những thông tin
có thể ảnh hưởng đến giá CK hoặc đến chiều
hướng phát triển của TTCK.
Về mặt khách quan của tội phạm, tội
phạm bao gồm hai dạng hành vi sau:
+ Cố ý công bố thông tin sai lệch liên quan
đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt
động kinh doanh CK, tổ chức thị trường,
đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK.
+ Che giấu sự thật liên quan đến việc chào
bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh
doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu
ký, bù trừ hoặc thanh toán CK.
Cố ý công bố thông tin sai lệch liên quan
đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt
động kinh doanh CK, tổ chức thị trường,
đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK
là việc các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông
tin đã cố ý công bố thông tin không đúng với
sự thật so với thực tế của doanh nghiệp. Dạng
hành vi này có thể được biểu hiện như: công
bố thông tin không chính xác, không đầy đủ
các nội dung về việc mua lại cổ phiếu, bán
cổ phiếu quỹ, về kết quả giao dịch theo quy
định; hồ sơ niêm yết tại sở giao dịch CK hoặc
trung tâm giao dịch chứng khoán có những
thông tin sai lệch, gây hiểu lầm hoặc không
đủ thông tin theo qui định; tổ chức thông báo
phát hành CK trên các phương tiện thông
tin đại chúng không đúng nội dung theo quy
định…
Việc công bố thông tin trên TTCK hiện
nay được thực hiện theo quy định tại Thông
tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/1/2010 của
Bộ Tài chính Hướng dẫn về việc công bố
thông tin trên TTCK.
Che giấu sự thật liên quan đến việc chào
bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh
doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu
ký, bù trừ hoặc thanh toán CK là việc các chủ
thể không thông báo những sự thật cần phải
thông báo liên quan đến hoạt động CK. Những
sự thật này cần được thông báo cho các nhà
đầu tư biết để các họ điều chỉnh kế hoạch đầu
tư của mình. Dạng hành vi này có các biểu
hiện như: không thông báo những thông tin,
sự kiện ảnh hưởng tới giá CK mà khi những
sự kiện diễn ra có thể làm cho giá CK có thể
tăng lên hoặc giảm xuống (ví dụ như việc
ký kết một hợp đồng hoặc hủy bỏ một hợp
đồng kinh tế, hoặc việc tách, sáp nhập công
ty …); không thực hiện công bố thông tin
17LUẬT HÌNH SỰ
theo quy định về việc chào mua công khai;
tổ chức, cá nhân, nhóm người có liên quan
nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền
biểu quyết của một công ty đại chúng thực
hiện giao dịch hoặc không thực hiện giao
dịch nhưng có thay đổi về số lượng cổ phiếu
sở hữu vượt quá 1% số lượng cổ phiếu cùng
loại đang lưu hành nhưng không báo cáo, báo
cáo không đúng thời hạn quy định cho công
ty đại chúng, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
và Sở giao dịch chứng khoán…
Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc
che giấu sự thật trong hoạt động CK là tội
phạm có cấu thành vật chất nên hậu quả là
dấu hiệu bắt buộc. Tội phạm được coi là
hoàn thành khi người phạm tội gây hậu quả
nghiêm trọng.
Tuy nhiên như thế nào là “hậu quả nghiêm
trọng” thì hiện nay chưa có văn bản hướng
dẫn cụ thể. Theo tác giả Dương Tuyết Miên,
hậu quả nghiêm trọng ở đây được hiểu là
“hành vi đó gây lũng đoạn TTCK hoặc gây
thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư hoặc
gây thiệt hại đến quyền lợi của doanh nghiệp
bị thông tin sai sự thật …”1
Chúng tôi cho rằng, cách hiểu “hậu quả
nghiêm trọng” trong tội phạm này của tác giả
Dương Tuyết Miên chủ yếu mang tính định
tính, chưa mang tính định lượng nên việc
xác định “hậu quả nghiêm trọng” trên thực
tế rất khó khăn và dấu hiệu “hậu quả nghiêm
trọng”, theo chúng tôi, cũng không cần đến
mức độ “gây lũng đoạn TTCK”.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách
quan và hậu quả do hành vi gây ra là dấu hiệu
bắt buộc của tội này. Người thực hiện hành
vi phạm tội chỉ có thể chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi của mình nếu cơ quan tố tụng
chứng minh được hậu quả nghiêm trọng xảy
ra là kết quả tất yếu của hành vi đó.
1
TS. Dương Tuyết Miên (2010), “Về các tội phạm
chứng khoán trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 2 năm 2010, tr.19.
Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan
của tội phạm như thời gian, địa điểm phạm
tội… không phải là dấu hiệu định tội của tội
“Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu
sự thật trong hoạt động chứng khoán”.
Về mặt chủ quan của tội phạm, tội phạm
được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người
phạm tội nhận thức hành vi công bố thông tin
sai lệch hoặc không công bố thông tin quan
trọng liên quan đến chào bán, niêm yết, giao
dịch, hoạt động kinh doanh CK, tổ chức thị
trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh
toán CK của mình có thể gây hậu quả nghiêm
trọng nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành
vi đó.
Về chủ thể của tội phạm, hiện nay trong
khoa học pháp lý hình sự có 2 quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Chủ thể của
tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi luật định”2
. Quan điểm
thứ hai cho rằng chủ thể của tội phạm này
người có nghĩa vụ công bố thông tin.
Điều 181a) BLHS năm 1999 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2009) không đề cập việc
chủ thể của tội phạm có phải là chủ thể đặc
biệt hay không mà chỉ nêu “người nào…công
bố thông tin”. Tuy nhiên xuất phát từ thuật
ngữ “công bố thông tin” và các quy định
của pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ công
bố thông tin thì có thể khẳng định chỉ những
người có trách nhiệm, thẩm quyền công bố
thông tin mới có khả năng phạm tội này.
Pháp luật quy định nghĩa vụ công bố thông
tin của một số chủ thể đặc biệt bởi chức năng,
vai trò và tầm ảnh hưởng của các tổ chức, cá
nhân này đối với hoạt động của TTCK. Người
có nghĩa vụ công bố thông tin cũng được quy
định trong Luật Chứng khoán, và theo hướng
dẫn cụ thể tại Thông tư số 09/2010/TT-BTC
ngày 15/10/2010 của Bộ Tài chính về việc
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình
Luật Hình sự Việt Nam, Tập 2, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, tr. 147.
18 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
công bố thông tin trên TTCK, gồm: công ty
đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào
bán trái phiếu ra công chúng, tổ chức niêm
yết, đăng ký giao dịch, công ty CK, công ty
quản lý quỹ, công ty đầu tư CK, Sở giao dịch
chứng khoán và người có liên quan. Việc
công bố thông tin phải do người đại diện theo
pháp luật của công ty hoặc người được ủy
quyền công bố thông tin thực hiện. Người
đại diện theo pháp luật của công ty phải chịu
trách nhiệm về nội dung thông tin do người
được uỷ quyền công bố thông tin công bố
(Mục I.2.2 Thông tư 09).
Như vậy, người đại diện theo pháp luật của
công ty hoặc người được ủy quyền công bố
thông tin, nếu cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che dấu sự thật, thì được coi là người
trực tiếp thực hiện tội phạm.
2. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua
bán chứng khoán (Điều 181b)
“1. Người nào biết được thông tin liên
quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại
chúng chưa được công bố mà nếu được công
bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán
của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó
mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng
khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này
hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng
khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính
lớn, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng
đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt
lớn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm.”
Theo qui định tại Điều 181b) BLHS, chúng
ta có thể hiểu tội sử dụng thông tin nội bộ để
mua bán chứng khoán là hành vi của người
biết được thông tin liên quan đến công ty đại
chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công
bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng
lớn đến giá CK của công ty đại chúng hoặc
quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này
để mua bán CK hoặc tiết lộ, cung cấp thông
tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán
CK, trên cơ sở đó thu lợi bất chính lớn.
Về khách thể của tội phạm, tội phạm xâm
phạm chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực
CK và TTCK.
Thông qua việc sử dụng thông tin nội bộ
để mua bán CK hành vi này đã phá vỡ nguyên
tắc công bằng trên thị trường, được ghi nhận
tại Điều 4 Luật chứng khoán, đồng thời vi
phạm quy định của Nhà nước về những hành
vi bị cấm trong hoạt động CK được ghi nhận
tại Điều 9 Luật chứng khoán. Do đó, khi thực
hiện tội phạm này, người phạm tội đã xâm
phạm chế độ quản lý kinh tế nhà nước trong
lĩnh vực CK và TTCK.
Bên cạnh đó, hành vi sử dụng thông tin
nội bộ để mua bán CK đã gây thiệt hại cho
các nhà đầu tư khác. Các nhà đầu tư khác đã
trở nên bất lợi hơn rất nhiều so với những
người nội bộ, hoặc các chủ thể khác được tiếp
cận thông tin nội bộ. Từ đó, khác với những
người không có được lợi thế về thông tin như
mình, họ bắt đầu tính toán, xác định phương
thức mua hoặc bán CK như thế nào để thu
được lợi nhuận hoặc tránh những khoản lỗ có
thể xảy ra. Vì vậy, hành vi giao dịch nội bộ
đã phương hại đến quyền lợi của các nhà đầu
khác trên thị trường.
Về mặt khách quan của tội phạm, tội
phạm bao gồm ba dạng hành vi sau:
+ Sử dụng thông tin mà mình biết liên
quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại
19LUẬT HÌNH SỰ
chúng chưa được công bố mà nếu được công
bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công
ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng để mua bán
CK thu lợi bất chính lớn;
+ Tiết lộ, cung cấp thông tin mà mình biết
liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại
chúng chưa được công bố mà nếu được công
bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công
ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng cho người
khác mua bán CK trên cơ sở thông tin đó thu
lợi bất chính lớn;
+ Tư vấn cho người khác mua bán CK trên
cơ sở thông tin mà mình biết liên quan đến
công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa
được công bố mà nếu được công bố có thể
ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại
chúng hoặc quỹ đại chúng thu lợi bất chính
lớn.
Để có thể hiểu rõ hơn hành vi khách quan
của tội phạm, chúng ta cần tìm hiểu về một số
thuật ngữ liên quan. “Quỹ đại chúng” là quỹ
đầu tư CK thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ
ra công chúng (Điều 6 Luật Chứng khoán).
“Công ty đại chúng” là công ty cổ phần thuộc
một trong ba loại hình sau đây: a) Công ty đã
thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng;
b) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở
giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao
dịch chứng khoán; c) Công ty có cổ phiếu
được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu,
không kể nhà đầu tư CK chuyên nghiệp và có
vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam
trở lên (Điều 25 Luật Chứng khoán). “Thông
tin nội bộ” là thông tin liên quan đến công
ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được
công bố, mà nếu được công bố có thể ảnh
hưởng lớn đến giá CK của công ty đại chúng
hoặc quỹ đại chúng đó (Điều 6 Luật chứng
khoán).
Như vậy, tội phạm này được hiểu là dựa
trên những thông tin nội bộ có được, người
biết thông tin nội bộ mua, bán CK cho chính
mình hoặc mua, bán CK cho người khác
(thường là những người thân thiết trong gia
đình, bạn bè…). Một người biết thông tin nội
bộ có thể tiết lộ thông tin đó cho những người
thân thuộc, hoặc cung cấp cho những chủ thể
cần thông tin đó trên thị trường, hoặc dựa
trên những thông tin có được mà tư vấn cho
người khác nên mua hoặc bán một loại CK
nào đó thu lợi bất chính. Việc tiết lộ, cung cấp
thông tin hoặc tư vấn dựa trên thông tin nội
bộ phải dẫn đến kết quả là người được tiết lộ,
cung cấp, tư vấn tiến hành mua bán CK thu
lợi bất chính lớn. Vì nếu chỉ dừng lại ở việc
cung cấp, tiết lộ, tư vấn cho bên thứ ba và bên
thứ ba này không tiến hành bất kỳ giao dịch
CK nào sau khi có thông tin nội bộ thì không
cấu thành tội này.
Hành vi phạm tội nêu trên đòi hỏi phải có
thêm dấu hiệu “thu lợi bất chính lớn”. Tuy
nhiên, cách hiểu dấu hiệu “thu lợi bất chính
lớn” hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn chi
tiết.
Về mặt chủ quan của tội phạm, lỗi của
người phạm tội là cố ý trực tiếp. Người phạm
tội biết rõ nếu thông tin được công bố có thể
ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại
chúng hoặc quỹ đại chúng nhưng vì trục lợi
nên vẫn thực hiện hành vi nói trên.
Về chủ thể của tội phạm, dựa vào qui
định tại Điều 181b BLHS: “Người nào biết
được thông tin liên quan đến công ty đại
chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công
bố…”, thì chủ thể của tội là người năng lực
trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và
biết được thông tin nội bộ.
Theo qui định tại Điều 6 Luật chứng
khoán, những người biết được thông tin nội
bộ có thể là những người sau: “a) Thành viên
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó
Tổng giám đốc của công ty đại chúng; thành
viên Ban đại diện quỹ đại chúng; b) Cổ đông
lớn của công ty đại chúng, quỹ đại chúng; c)
Người kiểm toán báo cáo tài chính của công
20 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
ty đại chúng, quỹ đại chúng; d) Người khác
tiếp cận được thông tin nội bộ trong công ty
đại chúng, quỹ đại chúng; đ) Công ty CK,
công ty quản lý quỹ đầu tư CK và người hành
nghề CK của công ty; e) Tổ chức, cá nhân có
quan hệ hợp tác kinh doanh, cung cấp dịch vụ
với công ty đại chúng, quỹ đại chúng và cá
nhân làm việc trong tổ chức đó; g) Tổ chức,
cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp có được thông
tin nội bộ từ những đối tượng quy định tại các
điểm a, b, c, d, đ và e khoản này.”
Như vậy, người biết được thông tin nội bộ
theo qui định của Điều 181b) BLHS và Luật
chứng khoán là người biết được thông tin nội
bộ một cách hợp pháp theo qui định của pháp
luật. Trên thực tế, có những người biết được
thông tin nội bộ có thể không phải là những
người được qui định tại Điều 6 Luật chứng
khoán mà họ biết được thông tin nội bộ bằng
cách thu thập bất hợp pháp (chẳng hạn: mua
thông tin nội bộ, chiếm đoạt tài liệu chứa thông
tin nội bộ, xem trộm thông tin nội bộ …) và họ
sử dụng thông tin đó để mua bán CK thì không
thể xử lý hình sự đối với họ được, đây là điều
bất hợp lý. Chính vì vậy, chúng tôi kiến nghị
bổ sung cụm từ “hoặc thu thập bất hợp pháp
thông tin đó” vào Điều 185b) BLHS.
Cũng theo qui định tại Điều 181b) BLHS
thì hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua
bán CK chỉ cấu thành tội phạm khi có dấu
hiệu “thu lợi bất chính lớn”. Quy định này là
hợp lý trong điều kiện TTCK nước ta còn non
trẻ và những hành vi nguy hiểm phải gây một
thiệt hại đáng kể cho xã hội thì mới qui định
là tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động
trên TTCK cho thấy, việc sử dụng thông tin
nội bộ để mua bán CK không chỉ nhằm tìm
kiếm lợi nhuận mà đôi khi còn để tránh hoặc
hạn chế thiệt hại cho người biết thông tin nội
bộ. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty gặp
khó khăn trong hoạt động (ví dụ như vướng
vào một vụ kiện tụng về luật pháp), những
người nội bộ sẽ bán cổ phiếu của mình trước
khi những thông tin kịp công bố. Tất nhiên,
khi doanh nghiệp tiến hành công bố thông tin
theo luật định, giá CK của doanh nghiệp sẽ
giảm. Lúc này, những người nội bộ đã kịp
bán CK nhờ thông tin nội bộ, nên họ tránh
được một khoản lỗ đáng kể. Với lợi thế biết
thông tin nội bộ của Công ty đại chúng mà
thông tin đó khi công bố có thể làm giảm giá
CK một cách nghiêm trọng, chủ thể sẽ tìm
mọi cách bán tháo CK nhằm đẩy rủi ro sang
người khác. Lúc này, tuy chủ thể không thu
được lợi nhuận nhưng rõ ràng đã gây thiệt hại
cho các nhà đầu tư khác không nắm bắt được
thông tin nội bộ. Nguyên tắc công bằng, công
khai trong hoạt động của TTCK bị phá vỡ,
với lợi thế nghiêng về phía người biết được
thông tin nội bộ.
Trên cơ sở phân tích trên, chúng tôi đề
xuất bổ sung thêm cụm từ “hoặc gây hậu
quả nghiêm trọng” là dấu hiệu định tội của
tội danh này. Dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm
trọng” có thể được xác định dựa trên lợi ích
bất hợp pháp mà chủ thể thực hiện tội phạm
có được (ví dụ như khoản lỗ thực tế họ tránh
hoặc hạn chế được do biết thông tin nội bộ),
thiệt hại của tội phạm gây ra cho chủ thể khác
và cho hoạt động của TTCK.
Tóm lại, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản
1 Điều 181b) qui định về tội sử dụng thông tin
nội bộ để mua bán chứng khoán lại như sau:
“1. Người nào biết được thông tin liên
quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại
chúng chưa được công bố mà nếu được công
bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán
của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng
đó hoặc thu thập bất hợp pháp thông tin đó
mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng
khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này
hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng
khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất
chính lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng,
thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến
năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
ba năm.”
21
3. Tội thao túng giá chứng khoán (Điều
181c)
“1. Người nào thực hiện một trong các
hành vi thao túng giá chứng khoán sau đây
gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ
một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng,
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Thông đồng để thực hiện việc mua bán
chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo;
b) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức
cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy
năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính lớn;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm.”
Về mặt khách thể của tội phạm, tội thao
túng giá chứng khoán xâm phạm chế độ quản
lý nhà nước trong lĩnh vực CK và TTCK.
Ngoài ra tội phạm này còn xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức niêm yết và
người đầu tư CK.
Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội
là lỗi cố ý trực tiếp.
Chủ thể của tội phạm là người có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
định.
Về mặt khách quan của tội phạm, hành
vi khách quan của tội danh này là hành vi
thao túng giá CK. Hành vi này có thể thể hiện
dưới các hình thức sau: thông đồng trong
giao dịch CK nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo;
hoặc giao dịch CK bằng hình thức cấu kết, lôi
kéo người khác liên tục đặt lệnh mua, bán CK
gây ảnh hưởng lớn đến cung cầu và giá CK,
thao túng giá CK;
Trên thực tế hành vi khách quan của tội
phạm có thể gồm các trường hợp sau đây3
:
a) Thông đồng với nhau sử dụng nhiều tài
khoản liên tục mua, bán CK nhằm tạo ra cung,
cầu giả tạo; b) Một nhóm người thông đồng
với nhau đặt lệnh mua và bán cùng loại CK
trong cùng ngày giao dịch hoặc thông đồng
với nhau giao dịch mua bán CK mà không
dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở
hữu hoặc quyền sở hữu chỉ luân chuyển giữa
các thành viên trong nhóm nhằm tạo giá CK,
cung cầu giả tạo; c) Thông đồng với nhau
liên tục mua hoặc bán CK với khối lượng chi
phối vào thời điểm mở cửa hoặc đóng cửa
thị trường nhằm tạo ra mức giá đóng cửa
hoặc giá mở cửa mới cho loại CK đó trên thị
trường; d) Giao dịch CK bằng hình thức cấu
kết, lôi kéo người khác liên tục đặt lệnh mua,
bán CK gây ảnh hưởng lớn đến cung cầu và
giá CK, thao túng giá CK.
Tội thao túng giá CK là tội phạm có cấu
thành vật chất. Tội phạm được coi là hoàn
thành khi người phạm tội có một trong các
hành vi trên gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã liệt kê ra hai
dạng hành vi mà các đối tượng có thể thực
hiện để thao túng giá CK, tuy nhiên điều này
sẽ làm tạo ra giới hạn của cấu thành tội phạm
trên. Trên thực tế các đối tượng thực hiện
những hành vi hoặc thủ đoạn để thao túng giá
CK ta rất đa dạng vì vậy việc quy định một
cấu thành “đóng” với hai trường hợp thực
hiện hành vi nêu trên là không phù hợp với
thực tiễn. Ví dụ, trong việc thao túng giá CK
các đối tượng có thể thực hiện hành vi sau: tự
coi mình là bên giao dịch duy nhất, họ mua đi
bán lại CK với nhiều tài khoản nhưng không
3
Xem: Thông tư 37/2011/TT-BTC hướng dẫn thi
hành Nghị định 85/2010/NĐ-CP ngày 2/8/2010 về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK và TTCK.
LUẬT HÌNH SỰ
22 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
có sự chuyển quyền sở hữu và điều này có
thể gây tác động đến khối lượng và giá cả
CK; mục đích của họ có thể là làm rối loạn
sự phán đoán của các nhà đầu tư trên cơ đó để
trục lợi. Như vậy hành vi trên không thể quy
vào một trong hai trường hợp mà luật đã quy
định trong Điều 181c) BLHS.
Tham khảo qui định Bộ luật hình sự của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, chúng
tôi nhận thấy rằng hành vi thao túng giá CK
có nội hàm rộng hơn so với hành vi thao túng
giá CK được qui định tại Điều 181c) BLHS
Việt Nam. Cụ thể Điều 182 của Bộ luật hình
sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
qui định như sau4
:
“ Người nào thao túng giá cả giao dịch
chứng khoán để thu lợi bất chính hoặc đẩy
rủi ro cho người khác, thuộc một trong các
trường hợp sau đây, nếu với tình tiết nghiêm
trọng thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao
động và bị phạt tiền hoặc chỉ bị phạt tiền từ 1
đến 5 lần số tiền lời bất chính:
1. Một mình hoặc hợp sức với người khác
dùng lợi thế tập trung tài chính hoặc ưu thế
cổ phần của mình hoặc lợi dụng ưu thế thông
tin nắm được, liên kết hoặc liên tục mua bán,
thao túng giá cả thị trường chứng khoán;
2. Thông đồng với người khác để tiến
hành giai dịch chứng khoán với nhau hoặc
mua bán mà không nắm giữ chứng khoán
vào thời gian, theo giá cả và phương thức đã
định trước làm ảnh hưởng đến giá cả và khối
lượng giao dịch chứng khoán;
3. Tự coi mình là bên giao dịch duy nhất,
tự mình mua bán với mình không có sự
chuyển quyền sở hữu chứng khoán gây ảnh
hưởng đến giá cả hoặc khối lượng giao dịch
chứng khoán;
4. Dùng các thủ đoạn khác để thao túng
giá giao dịch chứng khoán.
Đơn vị, pháp nhân nào phạm tội nói trên
4
Đinh Bích Hà (Dịch và giới thiệu), Bộ luật hình
sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2007), Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
thì phạt tiền; đối với người trực tiếp phụ trách
hoặc người chịu trách nhiệm trực tiếp khác thì
bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động”
Như vậy, xuất phát từ thực tiễn xử lý hành
vi thao túng giá CK, tham khảo Bộ luật hình
sự Cộng hòa nhân dân Trung hoa về tội thao
túng giá chứng khoán, chúng tôi kiến nghị
nên mở rộng trường hợp phạm tội của hành
vi thao túng giá CK bằng cách thêm vào các
dấu hiệu:
“a) Tự mình hoặc thông đồng với người
khác để thực hiện việc mua bán chứng khoán
nhằm tạo ra cung cầu giả tạo;
b) Kết hợp hoặc sử dụng các phương thức
khác để thao túng giá chứng khoán.”
Tóm lại, chúng tôi kiến nghị sửa đổi
Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c
BLHS) lại như sau:
“Người nào thực hiện một trong các hành
vi thao túng giá chứng khoán sau đây gây hậu
quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm
triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm:
“a) Tự mình hoặc thông đồng với người
khác để thực hiện việc mua bán chứng khoán
nhằm tạo ra cung cầu giả tạo;
b) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức
cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán
c) Kết hợp hoặc sử dụng các phương thức
khác để thao túng giá chứng khoán.”
Việc hoàn thiện các qui định của pháp luật
hình sự Việt Nam về các tội về CK là một yêu
cầu cấp thiết bắt nguồn từ thực tế hoạt động
của TTCK Việt Nam. Xu hướng chủ đạo để
hoàn thiện các qui định của pháp luật hình
sự Việt Nam về các tội phạm về CK, theo
chúng tôi là tiếp tục tội phạm hóa các hành vi
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh
vực CK và TTCK có tính nguy hiểm đáng kể
cho xã hội, có tính phổ biến mà Luật Chứng
khoán qui định có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự..
23
giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm
quyền có NBC. Trong đó có thể kể đến Dự
án nghiên cứu Quyền bào chữa hiệu quả
ở Liên minh Châu Âu và tiếp cận công lý:
điều tra và xúc tiến hành động2
. Mục đích
của dự án này là điều tra hiệu quả của việc
thực hiện quyền tiếp cận với NBC trong
tố tụng hình sự của 9 quốc gia Châu Âu,
đồng thời thiết lập việc thực thi có hiệu
quả các quyền của người bị tình nghi, của
bị cáo, đặc biệt là những người thiếu thốn
khả năng trả chi phí cho NBC. Ở phạm
vi quốc gia, giới luật sư ở Mỹ không thể
không biết đến Báo cáo mới nhất của Ủy
ban quốc gia về quyền bào chữa3
(National
Right to Counsel Committee) vào tháng
4/2009. Bản báo cáo này là kết quả của
cuộc nghiên cứu công phu nhằm đánh giá
thực trạng bảo đảm quyền có NBC trong
TTHS đồng thời đề xuất những giải pháp
hoàn thiện, mà chủ chốt là những kiến nghị
2
Dự án khởi động vào năm 2007 với sự tài trợ
của Tư pháp liên minh châu âu (EU Justice), Ban
giám đốc Tự do và An ninh (Freedom and Security
Directorate) và Viện Xã hội mở (Open Society In-
stitute). Một trong những sản phẩm của Dự án này
là việc phát hành quyển sách “Bào chữa hiệu quả ở
Châu Âu” (Effective Defense Counsel in Europe) vào
cuối năm 2010.
Xem:www.soros.org/initiative/justice/focus/
criminal_justice/article_publications/publications/
criminal-defense-europe-20100623/criminal-de-
fense-europe-summary.pdf
3
Được thành lập năm 2004 trong khuôn khổ Dự án
Hiến pháp.
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Q
uyền có người bào chữa (NBC)
trong vụ án hình sự là một quyền
cơ bản của người bị buộc tội
được ghi nhận trong hầu hết các văn bản
pháp lý quốc tế về quyền con người1
. Ở
pháp luật quốc gia, quyền có NBC được
đảm bảo trong rất nhiều Hiến pháp của các
nước trên thế giới. Trong hầu hết quy định
của các nước, quyền này được thực hiện
dưới hai hình thức: NBC do người bị buộc
tội thuê; NBC do cơ quan tiến hành tố tụng
chỉ định. Việc thực hiện quyền, dù dưới
hình thức nào cũng nhằm đảm bảo cho
người bị buộc tội được hỗ trợ bởi NBC,
người được coi là có đủ trình độ và năng
lực để bảo vệ thân chủ trước những cáo
buộc của nhà nước.
Tìm hiểu thực tiễn xây dựng pháp luật
ở nhiều quốc gia cho thấy, quyền có NBC
được coi là một trong những quyền tố tụng
cơ bản của công dân cần được bảo đảm
và hoàn thiện. Bảo đảm quyền này là bảo
đảm tính công bằng của pháp luật, một nền
tảng quan trọng trong việc bảo đảm quyền
con người – tiêu chí tiến bộ của một xã hội
văn minh. Ngày càng có nhiều những công
trình, dự án nghiên cứu nhằm đề xuất những
* ThS, Khoa Luật Hình sự Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh
1
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công
ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Công ước
Châu Âu về quyền con người,Công ước Châu Mỹ về
quyền con người, Công ước Châu Phi về quyền con
người và quyền công dân.
ĐẢM BẢO QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỸ
LƯƠNG THỊ MỸ QUỲNH *
24 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011
cho một cuộc cải cách tư pháp ở Mỹ.4
Trong tiến trình cải cách tư pháp5
, Việt
Nam cũng đã tổ chức nhiều Hội thảo với quy
mô quốc tế liên quan đến quyền bào chữa của
người bị buộc tội để lấy ý kiến của những nhà
chuyên môn, những chuyên gia hoạt động
thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn
thiện Bộ luật TTHS sửa đổi bổ sung sẽ được
Quốc hội thông qua vào cuối năm 2011.
Thực tiễn trên cho thấy, vấn đề bảo đảm
quyền tố tụng nói chung và đảm bảo quyền
có NBC nói riêng không chỉ là mối quan tâm
của từng quốc gia mà là vấn đề của toàn cầu.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới thiệu
những nội dung cơ bản về đảm bảo quyền có
NBC trong TTHS Mỹ, một hệ thống đại diện
cho mô hình tố tụng tranh tụng (adversarial
model) với việc coi trọng vai trò chủ động
của NBC. Những thông tin này sẽ được giới
thiệu qua việc phân tích các khía cạnh bảo
đảm quyền có NBC dưới góc độ lịch sử phát
triển quyền trong TTHS Mỹ. Ngoài ra, để
giúp người đọc hiểu rõ hơn về những nội
dung nền tảng của việc bảo đảm quyền có
NBC trong TTHS Mỹ, những thông tin về
nguồn luật áp dụng và bản chất của hệ thống
tư pháp đối tụng cũng được tác giả đề cập
trong bài viết.
I. Nguồn luật
Tại Mỹ tồn tại hai hệ thống pháp luật song
song : pháp luật liên bang và pháp luật các
bang. Hai hệ thống này tồn tại độc lập và tách
rời. Ở cấp liên bang, các quyền của người bị
buộc tội được bảo đảm bởi Hiến pháp. Những
quyền này được ghi nhận trong những điều
4
Báo cáo được thực hiện với sự hỗ trợ của Viện
Xã hội mở (Open Society Institute) và Wallace Global
Fund.
Báo cáo này nằm trong khuôn khổ của Chương
trình Dự án Hiến pháp.
Xem: http://www.constitutionproject.org/cjp/right-
tocounsel.php
5
Mở rộng hoạt động tranh tụng là tinh thần chủ
đạo trong cải cách tư pháp được nhấn mạnh trong
Nghị quyết 08/NQ/TW năm 2002 và Nghị quyết 49/
NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính Trị.
khoản cụ thể của Đạo luật Nhân quyền (Bill
of rights) bao gồm Tu chính pháp thứ IV, V,
VI VIII và tu chính pháp thứ XIV về Tố tụng
công bằng (Due process) và điều khoản Bảo
đảm công bằng (Equal Protection Clauses).
Bên cạnh đó, quyền của bị cáo còn được bảo
đảm bởi Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang
(Federal Code of Criminal Procedure) và Bộ
luật cơ bản Hoa Kỳ (United States Code, cụm
18, Phần II về Tội phạm và thủ tục TTHS).
Ở cấp bang, quyền lợi của người bị buộc
tội được bảo đảm bởi Hiến pháp và các đạo
luật của bang. Tuy nhiên, người bị buộc tội
cũng có quyền viện dẫn đến những bảo đảm
được ghi nhận trong Hiến pháp liên bang.
Hầu hết các quy định trong Hiến pháp của
các bang đều giống với những bảo đảm của
Đạo luật nhân quyền. Tòa án tối cao liên bang
có nhiệm vụ giải thích các phán quyết của
tòa án tối cao cấp bang về những vấn đề liên
quan đến những quyền được ghi nhận trong
Đạo luật nhân quyền, đồng thời có quyền bác
bỏ những nhận định của tòa án tối cao cấp
bang nhằm đưa ra những bảo đảm tốt hơn
cho người bị buộc tội6
. Tuy nhiên các Tòa án
tối cao của bang cũng có quyền độc lập trong
việc đưa ra những chuẩn mực của bang mình.
Việc đại diện cho người bị buộc tội trong một
vụ việc cụ thể ở cấp bang đòi hỏi phải có đầy
đủ kiến thức nền tảng về Hiến pháp và các
đạo luật của bang, để từ đó có thể đệ trình
tất cả các vấn đề liên quan đến pháp luật của
bang dựa trên những lập luận của hiến pháp
liên bang7
. Mối liên hệ này thể hiện một điểm
rất đặc trưng trong pháp luật Mỹ nói chung
đó là vai trò làm luật của thẩm phán. Các luật
sư ở Mỹ dựa trên nhiều nguồn luật khi hành
nghề, nhưng chủ yếu là những phán quyết
được thể hiện trong bản án của Tòa án tối
6
Russell L. Weaver, Leslie W. Abramson, John
M Burkott, Catherine Hancok, Principle of Criminal
Procedure (Nguyên tắc của Tố tụng hình sự), Thomp-
son West, 2004, tr. 2.
7
Russell L. Weaver, Leslie W. Abramson, John M
Burkott, Catherine Hancok, Tlđd, tr. 1.
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac
Binh luan an   lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac

More Related Content

What's hot

Câu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chính
Câu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chínhCâu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chính
Câu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chính
Học Huỳnh Bá
 
Luật xử lý vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chínhLuật xử lý vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chính
baoxehoi
 
Doko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chin
Doko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chinDoko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chin
Doko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chin
Nhut Yen Dang
 

What's hot (15)

Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Quảng Ngãi, HOT
 
Câu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chính
Câu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chínhCâu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chính
Câu hỏi và đáp án kiểm tra môn luật hành chính
 
Pháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sách
Pháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sáchPháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sách
Pháp luật về trợ giúp cho người nghèo và đối tượng chính sách
 
Luật xử lý vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chínhLuật xử lý vi phạm hành chính
Luật xử lý vi phạm hành chính
 
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOTPháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
 
Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chínhVi phạm hành chính
Vi phạm hành chính
 
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAYPháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
Pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong quyền hành pháp, HAY
 
Thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên...
Thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên...Thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên...
Thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên...
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
Hanh chinhhocdaicuong
Hanh chinhhocdaicuongHanh chinhhocdaicuong
Hanh chinhhocdaicuong
 
Luật hành chính
Luật hành chínhLuật hành chính
Luật hành chính
 
Doko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chin
Doko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chinDoko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chin
Doko.vn 210116-180-cau-hoi-va-dap-an-mon-luat-hanh-chin
 
A4
A4A4
A4
 
Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
Luận văn: Hình sự hóa trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Gửi miễn phí q...
 

Viewers also liked

Viewers also liked (16)

Tai lieu sở hữu trí tuệ
Tai lieu sở hữu trí tuệTai lieu sở hữu trí tuệ
Tai lieu sở hữu trí tuệ
 
Giao trinh luat ngan sach nha nuoc
Giao trinh luat ngan sach nha nuocGiao trinh luat ngan sach nha nuoc
Giao trinh luat ngan sach nha nuoc
 
Luat quan ly von nha nuoc dau tu vao doanh nghiep 2014
Luat quan ly von nha nuoc dau tu vao doanh nghiep 2014Luat quan ly von nha nuoc dau tu vao doanh nghiep 2014
Luat quan ly von nha nuoc dau tu vao doanh nghiep 2014
 
Giao trinh luat hanh chinh viet nam
Giao trinh luat hanh chinh viet namGiao trinh luat hanh chinh viet nam
Giao trinh luat hanh chinh viet nam
 
Phap luat ve cong ty (luat su ton that quynh bang)
Phap luat ve cong ty (luat su ton that quynh bang)Phap luat ve cong ty (luat su ton that quynh bang)
Phap luat ve cong ty (luat su ton that quynh bang)
 
Du thao bo luat hinh su 2015
Du thao bo luat hinh su 2015Du thao bo luat hinh su 2015
Du thao bo luat hinh su 2015
 
Luat si quan quan doi 2000 sua doi 2008
Luat si quan quan doi 2000   sua doi 2008Luat si quan quan doi 2000   sua doi 2008
Luat si quan quan doi 2000 sua doi 2008
 
Incoterms 2010 english
Incoterms 2010 englishIncoterms 2010 english
Incoterms 2010 english
 
Mien trach nhiem hinh su
Mien trach nhiem hinh suMien trach nhiem hinh su
Mien trach nhiem hinh su
 
Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi
Luật sở hữu trí tuệ sửa đổiLuật sở hữu trí tuệ sửa đổi
Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi
 
Luat hang khong dan dung sua doi 2014
Luat hang khong dan dung sua doi 2014Luat hang khong dan dung sua doi 2014
Luat hang khong dan dung sua doi 2014
 
Tuyen ngon quoc te nhan quyen 1948
Tuyen ngon quoc te nhan quyen 1948Tuyen ngon quoc te nhan quyen 1948
Tuyen ngon quoc te nhan quyen 1948
 
Luat an toan va sinh lao dong 2015
Luat an toan va sinh lao dong 2015Luat an toan va sinh lao dong 2015
Luat an toan va sinh lao dong 2015
 
luật sư và nghề luật sư
luật sư và nghề luật sưluật sư và nghề luật sư
luật sư và nghề luật sư
 
Giao trinh luat to tung hinh su
Giao trinh luat to tung hinh suGiao trinh luat to tung hinh su
Giao trinh luat to tung hinh su
 
Luat dau tu 2014
Luat dau tu 2014Luat dau tu 2014
Luat dau tu 2014
 

Similar to Binh luan an lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac

Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤
 
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docx
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docxCơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docx
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤
 
Pháp luật đạo đức
Pháp luật đạo đứcPháp luật đạo đức
Pháp luật đạo đức
TrinhPhanYen
 
Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...
Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...
Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 

Similar to Binh luan an lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac (20)

Luận văn: Theo dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, hOT
Luận văn: Theo dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, hOTLuận văn: Theo dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, hOT
Luận văn: Theo dõi thi hành pháp luật từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, hOT
 
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
Cơ sở lý luận và lịch sử chính sác pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ...
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Hình Sự Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Ở ...
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chínhPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính
 
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOTPháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
Pháp luật về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính, HOT
 
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docx
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docxCơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docx
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.docx
 
Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay
Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện NayĐề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay
Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay
 
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAYLuận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
 
Bài Tập Lớn Học Phần Môn Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật.docx
Bài Tập Lớn Học Phần Môn Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật.docxBài Tập Lớn Học Phần Môn Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật.docx
Bài Tập Lớn Học Phần Môn Xây Dựng Văn Bản Pháp Luật.docx
 
Pháp luật đạo đức
Pháp luật đạo đứcPháp luật đạo đức
Pháp luật đạo đức
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
 
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
Cơ Sở Lý Luận Chính Sách Pháp Luật Hình Sự Việt Nam Đối Với Các Tội Phạm V...
 
Bài Tiểu Luận Môn Lý Luận Chung Về Nhà Nước Và Pháp Luật.doc
Bài Tiểu Luận Môn Lý Luận Chung Về Nhà Nước Và Pháp Luật.docBài Tiểu Luận Môn Lý Luận Chung Về Nhà Nước Và Pháp Luật.doc
Bài Tiểu Luận Môn Lý Luận Chung Về Nhà Nước Và Pháp Luật.doc
 
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luậtTiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
Tiểu luận pháp luật đại cương về giáo dục pháp luật
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Xử phạt vi phạm pháp luật lao động, HOTLuận văn: Xử phạt vi phạm pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Xử phạt vi phạm pháp luật lao động, HOT
 
Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...
Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...
Cơ sở lý luận và pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao th...
 

Binh luan an lao dong nuoc ngoai khong co giay phep va cac nghien cuu khac

  • 1. 3 BÀN VỀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY HOÀNG THỊ KIM QUẾ * 1. Đặt vấn đề Hiệu quả hoạt động nhà nước, xã hội và cá nhân đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt hiện nay. Ở nước ta, việc nghiên cứu, đánh giá vấn đề hiệu quả các loại hình hoạt động vẫn còn là những bước đi đầu tiên, đặc biệt đối với các lĩnh vực pháp luật trong đó có phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL). PBGDPL về bản chất sẽ mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội do vậy cần thiết phải tính đến chất lượng, hiệu quả trên cả bình diện cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Nhưng để có hiệu quả và để bàn về hiệu quả của PBGDPL cần phải đề cập những vấn đề có liên quan trực tiếp như: chất lượng, các yếu tố tác động, đảm bảo hiệu quả của loại hình hoạt động này. Nếu không đảm bảo chất lượng thì không thể có hiệu quả. Đồng thời, hiệu quả của PBGDPL không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của PBGDPL. Hiệu quả PBGDPL là vấn đề quan trọng song cũng rất khó khăn trong việc đánh giá, bởi lẽ có khi đo lường được, có khi không hoặc khó, ví như sự gia tăng hay giảm sút niềm tin vào pháp luật. 2. PBGDPL trong tương quan với xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật Đời sống pháp luật là khái niệm rộng, bao gồm các lĩnh vực cơ bản như: xây dựng pháp luật (XDPL), thực hiện pháp luật (THPL), ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật; các thiết chế pháp luật; giáo dục – đào tạo và nghiên cứu pháp luật; hệ thống dịch vụ và thông tin pháp luật v.v. Trên bình diện chung nhất, PBGDPL có mặt ở tất cả các lĩnh vực cơ bản nêu trên, hoặc ở dạng trực tiếp, hoặc ở dạng gián tiếp. PBGDPL là một trong những hoạt động đảm bảo chất lượng, hiệu quả của xây dựng pháp luật và hiệu quả của các hình thức thực hiện pháp luật trong thực tiễn. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật diễn ra đồng thời xét trên bình diện hệ thống pháp luật, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Chất lượng, hiệu quả của cả ba loại hình hoạt động này: XDPL, THPL và PBGDPL có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều hướng về một mục tiêu chung, một cơ sở xã hội chung đó là hiệu quả xã hội lấy mục tiêu phục vụ các quyền, tự do và lợi ích chính đáng của con người. Hiệu quả của PBGDPL được thể hiện tập trung ở kết quả hình thành văn hóa pháp luật trong đời sống xã hội với ba thành tố cấu thành cơ bản: tri thức - hiểu biết pháp luật; thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật và hành vi phù hợp pháp luật của cá nhân, tổ chức. Điều đó có nghĩa là các quy định pháp luật đã * GS-TS, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
  • 2. 4 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Chính vì vậy mà PBGDPL là một trong những điều kiện đặc biệt quan trọng đảm bảo hiệu quả của thực hiện pháp luật nói chung, thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước nói riêng. Hiệu quả của thực thi pháp luật trong bất kỳ một lĩnh vực xã hội nào cũng được thể hiện trên hai phương diện: kết quả đạt được so với mục đích, yêu cầu ban đầu của quy định pháp luật tương ứng với những chi phí thấp nhất; hiệu quả về xã hội của thực hiện pháp luật - những lợi ích xã hội (của cá nhân, tổ chức, xã hội) đem lại do kết quả của việc thực hiện các quy định pháp luật tương ứng. Trong thực tế, không ít trường hợp, việc thực hiện các quy định pháp luật không mang lại lợi ích xã hội nào, thậm chí còn có thể gây thiệt hại cho lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức và xã hội. Hiệu quả xã hội của PBGDPL về cơ bản cũng được thể hiện như vậy, tức là tương ứng với hiệu quả xã hội của chính bản thân các quy định pháp luật cần được PBGD cho các đối tượng xã hội nhất định. Nhưng thông thường, người ta thường giới hạn hiệu quả của PBGDPL ở phương diện mục đích là cung cấp kiến thức, nhận thức pháp luật, hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi phù hợp yêu cầu của pháp luật. 3. Quan niệm về hiệu quả PBGDPL và các tiêu chí đánh giá hiệu quả PBGDPL Quan niệm về hiệu quả, các cấp độ của hiệu quả PBGDPL cũng như bản thân hiệu quả pháp luật nói chung cũng là vấn đề cần thiết bàn luận thêm. Khái niệm pháp luật được đề cập ở đây bao gồm các văn bản pháp luật, các quyết định áp dụng pháp luật. Từ phương diện hệ thống, bản thân hoạt động PBGDPL cũng là một trong những hợp phần của hệ thống pháp luật hiểu theo nghĩa rộng của phạm trù này. Theo lý thuyết chung, hiệu quả pháp luật được hiểu là kết quả đạt được trong quá trình pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội, ý thức xã hội để đạt được mục đích và yêu cầu của pháp luật đặt ra với những chi phí vật chất, tinh thần thấp nhất1 . Để đánh giá hiệu quả của pháp luật cần phải xem xét, tìm hiểu các mục đích, yêu cầu của pháp luật nói chung và của các văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật, các quyết định áp dụng pháp luật nói riêng. Xét trên bình diện xã hội, cần tìm hiểu mức độ phù hợp của các mục đích, yêu cầu, định hướng được ghi nhận trong pháp luật với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, tư tưởng, tâm lý, tình cảm và những yếu tố khác của xã hội hiện tại mà trong đó pháp luật tác động. Tiếp đến là xem xét đối tượng điều chỉnh của pháp luật (trạng thái các quan hệ xã hội) trước khi pháp luật điều chỉnh và những thay đổi thực tế của chúng sau khi pháp luật điều chỉnh. Đồng thời cũng cần xem xét các kết quả đạt được do sự tác động, điều chỉnh của pháp luật xét từ phương diện lợi ích xã hội. Hiệu quả PBGPL cần được nhận thức, đánh giá trên cả hai phương diện sau đây: 1. Phương diện kết quả đạt được so với yêu cầu, mục đích của văn bản pháp luật, các quy định pháp luật tương ứng; 2. Phương diện hiệu quả xã hội đạt được từ kết quả thực hiện các quy định pháp luật. Nếu theo quan điểm này, có thể đề xuất một quan niệm về hiệu quả của PBGDPL xét trên cả hai phương diện nêu trên như sau: hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật là kết quả đạt được theo đúng yêu cầu, mục đích của các quy định pháp luật tương ứng và các lợi ích xã hội được đem lại với chi phí về vật chất, tinh thần thấp nhất. Thông thường, khi nói đến hiệu quả 1 Xem: Nguyễn Minh Đoan, Hiệu quả pháp luật:Hiệu quả pháp luật: Những vấn đề lý luận và thực tiễnNhững vấn đề lý luận và thực tiễn,, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1997, tr. 12 - 24.
  • 3. 5 PBGDPL, chúng ta chủ yếu quan tâm đến phương diện thứ nhất. Còn phương diện thứ hai thì thường được coi là hiệu quả xã hội của pháp luật nói chung. Tuy vậy, trong xã hội hiện đại, vấn đề hiệu quả xã hội luôn luôn được đặt ra cho mọi hoạt động của con người, hoạt động PBGDPL cũng không là ngoại lệ. Quan tâm đến hiệu quả, chất lượng của PBGDPL là trách nhiệm của cả nhà nước và xã hội, cả phía người đầu tư và người thụ hưởng, ranh giới giữa hai loại chủ thể này chỉ mang tính tương đối. So với các lĩnh vực đầu tư khác, sự đầu tư trong hoạt động PBGDPL có nhiều đặc điểm riêng. Theo đó, nếu phải đầu tư thêm tiền bạc, công sức, thời gian cho việc thực hiện PBGDPL song đổi lại, có nhiều lợi ích xã hội đạt được do sự gia tăng các hành vi hợp pháp và sự giảm thiểu các hành vi vi phạm pháp luật thì vẫn là sự lựa chọn đúng đắn, nhất là các lợi ích xã hội xét từ phương diện quyền con người liên quan đến sức khỏe, tính mạng và tài sản trong một số lĩnh vực rất bức xúc hiện nay, như: giao thông, vệ sinh, an toàn thực phẩm... Đầu tư trí tuệ, công sức, tiền bạc thỏa đáng cho việc tìm kiếm các biện pháp hữu hiệu để cải thiện thực trạng về trật tự, an toàn giao thông trong đó có việc đổi mới mạnh mẽ việc phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải được nhận thức, thực thi một cách quyết liệt hơn. Những năm gần đây, công tác PBGDPL đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Người dân hiện nay đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn về sự cần thiết phải “kiểm soát”, đánh giá đối với công tác PBGDPL, đối với vấn đề “hậu” PBGDPL sẽ như thế nào hay chỉ là sự “triển khai” theo chương trình, kế hoạch đã được thiết kế sẵn. Nói đến hiệu quả là nói đến đòi hỏi nghiêm ngặt của xã hội đối với việc đánh giá định lượng, định tính theo bộ công cụ kiểm định chất lượng và các tiêu chí, tiêu chuẩn về hiệu quả của PBGDPL đem lại. Về hiệu quả PBGDPL xét trên phương diện thực hiện đúng các yêu cầu, mục đích của các quy định pháp luật tương ứng: Hiệu quả PBGDPL cần được đánh giá trên từng mục đích cơ bản của PBGDPL: mục đích nhận thức, mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật và mục đích hành vi phù hợp pháp luật. Đây chính là “bộ ba mục đích“ của PBGDPL. Như vậy mới thật sự khách quan, toàn diện và công bằng đối với hoạt động PBGDPL. Theo đó, có các tiêu chí sau: Tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức pháp luật; Tiêu chí 2: đạt được mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật; Tiêu chí 3: đạt được mục đích hành vi phù hợp pháp luật. Nếu như việc PBGDPL đã cung cấp cho các đối tượng PBGDPL những nhận thức - hiểu biết cơ bản về pháp luật thì hiệu quả về mục đích nhận thức coi như đã đạt được. Như vậy, tiêu chí hiệu quả ở công đoạn này có thể gọi đó là sự nhận thức, lĩnh hội, hiểu biết pháp luật (các quy định pháp luật được phổ biến, giáo dục pháp luật). Tiêu chí tiếp theo, đó là hiệu quả của mức độ hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật. Tiêu chí về kết quả thực hiện trên thực tế: tiêu chí về hành vi thực hiện pháp luật được thể hiện trong các hành vi hợp pháp, trong mức độ gia tăng các hành vi hợp pháp và giảm các hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện pháp luật dưới tác động của PBGDPL có chất lượng còn được thể hiện ở chỉ báo giảm thiểu các hiện tượng hư vô pháp luật như sự thờ ơ, sự coi thường; sự “lạng lách” pháp luật vv...2 2 Xem: Hoàng Thị Kim Quế, Hư vô pháp luật: nhìn từ phương diện lý luận pháp luật và xã hội học pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2008, tr. 13 - 18. LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
  • 4. 6 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 Mỗi một loại tiêu chí đều phải có những chỉ báo nhất định tương ứng, được chia làm các mức độ (trình độ) khác nhau.Ví dụ, về tiêu chí 1: đạt được mục đích nhận thức, sẽ bao gồm nhiều mức độ đạt được, theo đó, có các mức độ: 1, 2, 3, hoặc: trung bình, khá, tốt. Điều này là lẽ đương nhiên bởi vì sự nhận thức, lĩnh hội, hiểu biết nội dung được PBGDPL không thể hoàn toàn như nhau ở các đối tượng khác nhau. Như chúng đã biết, hành vi phù hợp pháp luật của các chủ thể pháp luật không hoàn toàn phụ thuộc vào PBGDPL kể cả PBGDPL đạt chất lượng cao. Hai nữa là cũng cần tính đến từng công đoạn, từng mục đích cụ thể trong “bộ ba” mục đích của PBGDPL mà chúng ta quan niệm lâu nay. Con đường từ kiến thức – hiểu biết pháp luật đến thái độ, tình cảm và niềm tin pháp luật rồi đến hành vi phù hợp pháp luật – những cái mà chúng ta gọi là mục đích của PBGDPL, không giản đơn chỉ phụ thuộc vào chất lượng của PBGDPL. Ngay cả công thức chung về hiệu quả pháp luật vận dụng vào trường hợp PBGDPL mà lâu nay chúng ta quan niệm: tương quan giữa kết quả đạt được so với mục đích ban đầu đề ra với các chi phí thấp nhất, cũng chỉ đúng ở mức độ tương đối. Mà chính xác hơn thì phải nhận thấy rằng, ở đây mới chủ yếu dừng lại ở phương diện chủ quan của nhà làm luật và chủ yếu mới chỉ là hiệu quả của chính bản thân PBGDPL: quy định pháp luật được thực thi, trở thành những hành vi thực tế của các nhân, tổ chức. Một cách cụ thể hơn, hiệu qủa PBGDPL được đánh giá thông qua các tiêu chí cơ bản sau đây: Tiêu chí thứ nhất: về trạng thái tri thức ban đầu của đối tượng PBGDPL khi chưa được phổ biến, giáo dục pháp luật. Tiêu chí thứ hai: về trạng thái thái độ, tình cảm pháp luật ở đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật trước khi được phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm xây dựng, củng cố niềm tin vào pháp luật. Điều này thể hiện tình cảm pháp luật công bằng, sự không khoan nhượng đối với mọi hành vi vi pháp luật và tình cảm trách nhiệm là một trong những chỉ số để đánh giá hiệu quả của hoạt động PBGDPL. Tiêu chí thứ ba: về trạng thái của động cơ và hành vi tích cực pháp luật ở đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiệu quả của hoạt động PBGDPL được đánh giá thông qua việc thực hiện các hành vi tích cực pháp luật ở đối tượng được PBGDPL. Các đối tượng được PBGDPL sẽ hình thành thói quen kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm; thực hiện nghĩa vụ pháp lý và tích cực sử dụng các quyền của mình một cách có văn hóa, đạo đức. Đây là mục đích quan trọng nhất mà hoạt động PBGDPL cần đạt được. Ngoài ra, tiêu chí về mức độ chi phí để đạt được kết quả thực tế cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả của hoạt động PBGDPL. Tiêu chí này thể hiện tính kinh tế, tính văn hóa, tính hữu ích của hoạt động PBGDPL. Giữa tri thức và tình cảm pháp luật có mối liên hệ mật thiết. Sự am hiểu pháp luật đóng vai trò quan trọng cho việc đảm bảo sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật, tư duy pháp lý, hình thành hành vi tích cực pháp luật ở mỗi con người. Điều cần lưu ý là am hiểu tri thức pháp luật không phải là sự am hiểu đơn thuần một vài quy phạm pháp luật nào đó mà là sự am hiểu có hệ thống thấu đáo về nội dung, ý nghĩa của pháp luật, biết đánh giá với niềm tin nội tâm các sự kiện, các hành vi pháp lý là hợp pháp hay không hợp pháp, hợp lý hay không hợp lý. Hiểu biết tinh thần pháp luật trên cở sở đạo đức và văn hóa. Hành vi hợp pháp, phù hợp với yêu cầu của pháp luật cũng đa dạng: không vi phạm
  • 5. 7LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT những điều bị cấm, chấp hành các nghĩa vụ pháp lý, sử dụng các quy định pháp luật đúng đắn để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình; đấu tranh chống vi phạm pháp luật v.v. Giáo dục pháp luật là cần thiết khách quan như chính bản thân pháp luật vậy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng: “Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi”3 . Luật pháp muốn có hiệu lực, hiệu quả thì ngoài sức mạnh của công quyền, bằng cưỡng chế còn cần huy động cả sức mạnh của tư tưởng và của tinh thần, pháp luật phải được con người nhận thức như là cái cần thiết và có cơ sở, phải tạo niềm tin và sự kính trọng đối với pháp luật4 . Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”5 . Về hiệu quả xã hội của PBGDPL: Vấn đề đặt ra ở đây là: liệu có phải bất kỳ khi nào, bất kỳ ở đâu, “thực hiện đúng” yêu cầu của các quy định pháp luật cũng đều đạt được hiệu quả xã hội, nếu xét trên phương diện tính hợp lý, tính lợi ích, tính công bằng…? Ví dụ, đối với những quy định pháp luật bất cập, không phù hợp, không đảm bảo lợi ích hay sự hài hòa các loại lợi ích? Hiệu quả xã hội của PBGDPL về cơ bản phụ thuộc vào hiệu quả xã hội của chính bản thân các quy định pháp luật cần được PBGD cho các đối tượng xã hội nhất định. Đó chính là các lợi ích xã hội đạt được do thực hiện các quy định pháp luật của các đối tượng được PBGDPL. Hiệu quả xã hội của PBGDPL phụ thuộc rất nhiều 3 C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, 1995, tr. 10. 4 Đavưđốp, Dưới lăng kính triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, bản dịch tiếng Việt, tr. 185- 186. 5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 383. vào chất lượng của các quy định pháp luật mà cụ thể là tính hợp lý, công bằng, sự thể hiện các loại lợi ích của cá nhân, cộng đồng, xã hội. Hiệu quả xã hội của PBGDPL còn được thể hiện trên một phạm vi rộng hơn, lan tỏa ra cả những người xung quanh chứ không chỉ đối với những người được trực tiếp PBGDPL. Đây cũng chính là giá trị to lớn của PBGDPL. Pháp luật chỉ có hiệu lực thực sự khi được mọi người dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. 4. Một số vấn đề về chất lượng, hiệu quả PBGDPL và nâng cao hiệu quả PBGDPL trong một số lĩnh vực hoạt động xã hội hiện nay Thời gian gần đây dư luận xã hội đặc biệt quan tâm vấn đề nâng cao hiệu quả PBGDPL, giáo dục đạo đức trong lĩnh vực đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đây là những vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp đang đòi hỏi những nỗ lực to lớn của toàn xã hội. Chúng tôi có một số đề xuất sau: - Cần xây dựng Bộ công cụ Kiểm định chất lượng PBGDPL. - Để có hiệu quả, cần đổi mới mạnh mẽ công tác PBGDPL. - Ưu tiên đầu tư PBGDPL có hiệu quả vào những lĩnh vực bức xúc nhất hiện nay, trước hết là lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông. Cũng như trong lĩnh vực đào tạo, giáo dục hiện nay, vấn đề chất lượng, hiệu quả đang bắt đầu được quan tâm đặc biệt và được nhìn nhận, đánh giá, đo lường theo những bộ công cụ Kiểm định chất lượng. Cần phải Kiểm định chất lượng PBGDPL, xây dựng các Bộ công cụ Kiểm định chất lượng PBGDPL, xây dựng các trung tâm đảm bảo chất lượng PBGDPL. Chính yếu tố chất lượng, hệ thống đảm bảo chất lượng là điều kiện đặc biệt quan trọng để nâng cao hiệu quả PBGDPL (tất nhiên, hiệu quả PBGDPL còn phụ thuộc vào hàng loạt
  • 6. 8 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 yếu tố khách quan và chủ quan khác). Nếu không, các đánh giá của chúng ta rồi vẫn sẽ rơi vào chung chung, thiên về định tính và khó kiểm soát, khó tường minh. Vì vậy, cần xây dựng hệ tiêu chí, tiêu chuẩn về đánh giá hiệu quả PBGDPL nói chung và cho từng loại đối tượng trong các lĩnh vực hoạt động xã hội tương ứng. Để nâng cao hiệu quả PBGDPL, phải đổi mới mạnh mẽ bản thân công tác này so với cách làm lâu nay, đổi mới về hình thức, nội dung, phương pháp, phong cách PBGDPL. Cần phải kết hợp “ba trong một” mới có thể đạt hiệu quả cao về PBGDPL: kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức và kỹ năng sống, kỹ năng sử dụng pháp luật cho các đối tượng xã hội nói chung, những người tham gia giao thông nói riêng. Kết hợp các biện pháp đồng bộ theo hướng vừa xử lý, “chữa trị” các triệu chứng của hành vi vi phạm pháp luật, vừa khắc phục các nguyên nhân của chúng. Đơn cử, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật giao thông, kèm theo những hậu quả thiệt hại là do lỗi của người tham gia giao thông: ý thức pháp luật yếu kém, không hiểu biết những quy định pháp luật liên quan. Thế nhưng, liều thuốc nào, cách thức nào để chữa trị căn bệnh “thiếu, kém ý thức pháp luật, ý thức đạo đức và văn hóa trong tham gia giao thông”, hiện vẫn đang là bài toán nan giải của chúng ta. Theo thống kê của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia thì có đến trên 80 % các vụ vi phạm gây tai nạn đều do người tham gia giao thông ở độ tuổi từ 18 đến 35; 90% sinh viên có giấy phép lái xe không đúng kỹ thuật...6 . Do đó, cần phân hóa đối tượng và ưu tiên đầu tư nhiều hơn về PBGDPL, giáo dục đạo đức và kỹ năng sống, kỹ năng tham gia giao thông cho thanh, thiếu niên, cho nam giới. 6 http://antg.cand.com.vn/vi-vn/phong- su/2008/12/70894.cand Hiệu quả PBGDPL đối với họ sẽ được nâng cao rất nhiều nếu áp dụng các biện pháp thiết thực, như: giáo dục tính cách, kỹ năng ứng xử trong tham gia giao thông, bổn phận, trách nhiệm đạo đức, pháp luật và văn hóa. Giáo dục để xây dựng, thực hành ở họ sự từ tốn, thận trọng, nhường nhịn, trách nhiệm với chính mình, với những người thân và những người xung quanh mỗi khi tham gia giao thông. Điều này, xem ra liên quan trực tiếp với “mục đích” thứ hai của PBGDPL – xây dựng thái độ tôn trọng pháp luật, tình cảm đúng đắn và niềm tin vào pháp luật giao thông bởi đó là lợi ích, là nét đẹp của văn hóa giao thông. Nếu xét từ góc độ quyền về sức khỏe, tính mạng, quyền sống của con người thì hoàn toàn có thể nói rằng, đảm bảo an toàn, trật tự giao thông còn nóng bỏng hơn, bức xúc hơn so với tham nhũng. Hiệu quả PBGDPL trong lĩnh vực này thực sự là vấn đề đặc biệt cấp bách hiện nay. Không nên tiết kiệm vào việc huy động trí tuệ, công sức, thời gian để tìm ra những biện pháp quyết liệt, hợp lý, khả thi hơn thì mới có thể cải thiện được tình hình chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tài sản của người dân. .
  • 7. 9 1. Khái quát về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở phương tây. Tư tưởng phân quyền trong xã hội Hy Lạp cổ đại đã có mầm mống từ Aristotle. Ông quan niệm rằng trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các tòa án1 . Tuy nhiên, tư tưởng của Aristotle mới chỉ dừng lại ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà nước. John Locke (1632 - 1704), nhà triết học Anh, là người đã khởi thảo học thuyết phân quyền. Ông cho rằng sự phân biệt các quyền là điều kiện tiên quyết và quan trọng để đảm bảo tự do. Trong tác phẩm Hai chuyên luận về chính phủ, ông phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và liên hợp. Để thực thi ba quyền này, nhà nước cần phải tổ chức thành ba cành quyền lực khác nhau. Quyền lập pháp do Quốc hội đảm nhiệm. Quyền hành pháp thuộc về nhà vua (nhà vua lãnh đạo việc thực thi pháp luật, bổ nhiệm các Bộ trưởng và các quan chức khác). Quyền liên hợp là quyền để xử sự với các nước khác như tuyên bố chiến tranh, * ThS, Khoa Luật Hành chính - Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. 1 William Ellis (transleted), The Politics of Ari- totle or a Treaties on Government, London. I.M, tr. 132. TƯ TƯỞNG PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG HIẾN PHÁP 1946 NGUYỄN MẠNH HÙNG* thực hiện hòa bình2 . Quan điểm trên của John Locke được nhà khai sáng vĩ đại người Pháp Montesquieu phát triển. Trước thực tế lịch sử là nỗi thống khổ của nhân dân bị đọa đày trong chế độ phong kiến chỉ có cai trị độc đoán chứ không có “hương sắc” của tự do, Montesquieu đã cảm nhận được “sứ mạng ẩn tàng” mà lịch sử trao cho. Tác phẩm của ông thể hiện tinh thần chống thế quyền bạo ngược và thần quyền giáo điều, chống lại sự u tối nhận thức và bất khoan dung về chính trị. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu cho rằng: “khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không còn gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp”3 . Trên cơ sở đó, ông đã phân chia 2 Lê Tuấn Huy - Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam - Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 74. 3 Montesquieu, The Spirit of the Laws, Transleted by Thomas Nugent, New York Hafner Publishing Company 1949, tr. 151. LUẬT HIẾN PHÁP
  • 8. 10 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 quyền lực nhà nước thành ba quyền. Đó là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp là quyền làm luật, sửa đổi, hủy bỏ và giám sát thi hành luật. Quyền hành pháp là quyền thực thi các văn bản pháp luật, quyền khai chiến, quyền nghị hòa, phái hoặc tiếp các sứ thần, thiết lập sự an ninh và đề phòng sự xâm lược. Quyền tư pháp là quyền trừng trị các tội phạm hay phân xử các vụ tranh chấp quyền lợi giữa các tư nhân4 . Như vậy, sự phân chia của ông đầy đủ và hoàn chỉnh hơn. Quyền hành pháp bao hàm cả hai lĩnh vực: thực thi pháp luật và bang giao quốc tế của John Locke. Sự bổ sung thêm quyền tư pháp chính là điểm mới của Montesquieu làm cho học thuyết phân quyền của ông hoàn hảo hơn. Nội dung liên hệ trong nguyên tắc phân quyền biểu hiện ở sự phối hợp, sự đan xen và sự chế ước trong hoạt động và trong quyền lực giữa ba quyền. - Bản thân sự phân định quyền lực đã là sự phân định trong phối hợp. Thực tế không có bất kỳ một hệ thống quyền lực nhà nước nào khi phân định xong thì mỗi bộ phận quyền lực lại hoàn toàn tự hoạt động riêng biệt, như kiểu một bộ máy mà các bánh xe răng cưa rời rạc nhau, tự quay lấy một mình, mà trái lại chúng phải khớp với nhau. Các loại cơ quan không thể tự hoạt động riêng rẽ nhau mà có sự đan xen, kiềm chế lẫn nhau, buộc phải dựa vào nhau (hành pháp cần có luật, ngân sách, quy định thuế từ lập pháp; những gì lập pháp ban hành cần được thực hiện thông qua hành pháp và tư pháp; trường hợp cơ quan tư pháp cũng tương tự như vậy). - Sự phối hợp còn được thực hiện bằng quan hệ đan xen quyền lực: hành pháp được quyền phủ quyết các dự án luật đã được Quốc hội thông qua, lập pháp được quyền phê chuẩn các quyết định bổ nhiệm của Tổng thống và phê chuẩn các hiệp định đã được 4 Montesquieu, The Spirit of the Laws, Transleted by Thomas Nugent, New York Hafner Publishing Company 1949, tr. 151. Tổng thống hoặc Bộ trưởng ký kết; tư pháp được quyền xét xử các hành vi của hành pháp, hành pháp được quyền bổ nhiệm các Thẩm phán của Tòa án tối cao; lập pháp được quyền quyết định ngân sách hoạt động của hành pháp và tư pháp, tư pháp được quyền xét xử các đạo luật vi hiến của lập pháp5 . - Quan hệ đan xen như vậy, tiến tới một bước chính là sự kiểm soát và kiềm chế giữa các loại cơ quan. Không có bất kỳ một loại cơ quan nào có được quyền hạn tuyệt đối cuối cùng, là điểm hội tụ quyền lực tuyệt đối cuối cùng. Sự kiềm chế và đối trọng như vậy không phải là làm cho bộ máy nhà nước hoạt động kém hiệu quả, mà trước hết là không để bất kỳ một loại cơ quan nào có thể tự mình thâu tóm mọi quyền hành hay đi đến chỗ lạm quyền trong khi thực hiện quyền lực nhà nước; là không đưa nhà nước, cơ quan nhà nước, con người trong bộ máy nhà nước đi đến chỗ lạm quyền, độc tài, chuyên chế; và đồng thời như một hệ quả, chính là làm tăng hiệu năng cho bộ máy nhà nước. Sự phân chia quyền lực để tiến tới kiểm soát quyền lực thể hiện tầm vóc lớn lao có ý nghĩa thời đại trong học thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu. Bởi vì tất cả những tư tưởng triết học chính trị trước Montesquieu và cả Rousseau sau này, cơ bản đều đặt vấn đề ở việc thực hiện quyền lực nhà nước như thế nào mà không hề nêu vấn đề kiểm soát quyền lực đó ra sao6 . Từ sự phân tích trên, có thể kết luận rằng bản chất của phân quyền không có gì khác hơn chính là sự phân công, phối hợp để tiến tới sự kiểm soát; dùng quyền lực để giới hạn quyền lực; nhằm mục đích không để quyền lực đi đến chỗ lạm quyền. Đằng sau lý thuyết ấy chính là triết lý về bản chất cũng như mối quan hệ giữa con người - quyền lực - chính 5 Nguyễn Đăng Dung, Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ quan nhà nước, Nxb Tư pháp, 2004, tr. 51. 6 Lê Tuấn Huy, Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 138.
  • 9. 11 có quyền bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần; bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn; thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước; lập dự án ngân sách hàng năm (Điều 52 Hiến pháp năm 1946). -QuyềntưphápthuộcvềhệthốngTòaánbao gồm: Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và các Tòa án sơ cấp có chức năng xét xử (Điều 63 Hiến pháp năm 1946). Từ những quy định trên, có thể nhận thấy 2 vấn đề cốt lõi: một là, Hiến pháp bảo đảm tính độc lập của quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hai là, khẳng định có tính nguyên tắc là: Nghị viện, Chính phủ và Tòa án đều là những cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước nắm một bộ phận quyền lực nhà nước. Chính những quy định này đã thể hiện sự phân công lao động quyền lực giữa các cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước khá rạch ròi8 . 2.2 Vấn đề phối hợp quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 1946 Về sự phối hợp trong lĩnh vực làm luật: theo Hiến pháp năm 1946, để Nghị viện nhân dân “đặt ra các pháp luật” (Điều 23) và Ban thường vụ “biểu quyết những dự án sắc luật khi Nghị viện không họp” (Điều 36), Điều 52 Hiến pháp trao cho Chính phủ quyền “đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện và những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp”; để Nghị viện nhân dân “biểu quyết ngân sách”, Điều 52 Hiến pháp trao cho Chính phủ quyền “lập dự án ngân sách hàng năm”; và Điều 49 Hiến pháp trao cho Chủ tịch nước quyền “ký hiệp ước với các nước” thì Nghị viện nhân dân chính là cơ quan “chuẩn y các hiệp ước” đó v.v. Sự phối hợp trong lĩnh vực thi hành luật: 8 Trần Ngọc Đường, Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr. 264. quyền. Sự ra đời của học thuyết phân quyền “đã đánh dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng quyền lực dã man trong các xã hội chuyên chế sang thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ”7 . 2. Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946 Hiến pháp 1946 thể hiện tư tưởng phân quyền tương đối rõ thông qua việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn và có cơ chế kiểm soát sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước. 2.1 Vấn đề phân công quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 1946 Theo Hiến pháp này, các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp do ba cơ quan là Nghị viện nhân dân, Chính phủ và Tòa án thực hiện. - Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc; đặt ra các pháp luật; biểu quyết ngân sách; chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài (Điều 23 Hiến pháp năm 1946); bầu Chủ tịch nước (Điều 45 Hiến pháp năm 1946); quyết định vấn đề tuyên chiến (Điều 29 Hiến pháp năm 1946) và có thể tuyên bố tự giải tán (Điều 33 Hiến pháp năm 1946); xem xét việc bãi miễn của một nghị viên (Điều 41 Hiến pháp năm 1946); phê chuẩn việc lựa chọn Thủ tướng của Chủ tịch nước, việc lựa chọn các Bộ trưởng của Thủ tướng (Điều 47 Hiến pháp năm 1946); Nghị viện có quyền tín nhiệm Chính phủ (Điều 54 Hiến pháp năm 1946); có quyền yêu cầu sửa đổi Hiến pháp (Điều 70 Hiến pháp năm 1946). - Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc; thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện; đề nghị những dự luật ra trước Nghị viện và những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt; 7 Phạm Thế Lực, Ý nghĩa của lý thuyết phân quyền trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 127/2008. LUẬT HIẾN PHÁP
  • 10. 12 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 để Chính phủ “thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện”, Hiến pháp năm 1946 quy định Nghị viện nhân dân phải “đặt ra các pháp luật” và “trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 69)… Sự phối hợp trong lĩnh vực xét xử: Chính phủ có quyền bổ nhiệm các viên Thẩm phán, xử các việc hình sự có phụ thẩm nhân dân tham gia, bị cáo có quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư,… 2.3 Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 1946 Kiểm soát và đối trọng giữa lập pháp với hành pháp: khi quy định thẩm quyền cụ thể của các cơ quan cao nhất trong bộ máy nhà nước, Hiến pháp 1946 đã tạo nên cơ chế “cân bằng quyền lực” hay cơ chế “kiềm chế quyền lực” giữa các nhánh quyền lực nhà nước, đặc biệt là giữa lập pháp và hành pháp 9 . Lập pháp tham gia kiểm soát hành pháp thể hiện ở chỗ: tham gia thành lập cơ quan hành pháp qua việc bầu Chủ tịch nước (Điều 45 Hiến pháp năm 1946); phê chuẩn sự lựa chọn Thủ tướng của Chủ tịch nước và sự lựa chọn các Bộ trưởng của Thủ tướng (Điều 47 Hiến pháp năm 1946); biểu quyết các dự luật, sắc luật và ngân sách do Chính phủ đệ trình; chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài (Điều 23 Hiến pháp năm 1946); chất vấn các thành viên của Chính phủ (Điều 55 Hiến pháp năm 1946); quyết định thành lập một Tòa án đặc biệt để truy tố và xét xử Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước hay một nhân viên Nội các khi họ phạm tội phản quốc (Điều 51 Hiến pháp năm 1946); thay thế Nội các qua việc biểu quyết vấn đề tín nhiệm Thủ tướng và các Bộ trưởng (Điều 54 Hiến pháp năm 1946). Hành pháp đối trọng lại so với lập pháp thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước có quyền ban hành những sắc lệnh có giá trị gần như 9 Trần Ngọc Đường, Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr. 264. luật; Chủ tịch nước có thể yêu cầu Nghị viện thảo luận lại dự luật mà Nghị viện đã thông qua (Điều 31 Hiến pháp năm 1946); Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề tín nhiệm Nội các ra Nghị viện thảo luận lại trong thời hạn 24 giờ (Điều 54 Hiến pháp năm 1946); Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trước Nghị viện trừ tội phản quốc (Điều 50 Hiến pháp năm 1946); Chính phủ có quyền bắt giam các Nghị viên khi họ phạm tội quả tang nhưng Chính phủ phải thông báo cho Ban thường vụ chậm nhất là sau 24 giờ (Điều 40 Hiến pháp năm 1946). Kiểm soát và đối trọng giữa tư pháp với lập pháp: tư pháp tham gia kiểm soát lập pháp thể hiện ở chỗ: Tòa án có quyền xét xử Nghị viên (Điều 40 Hiến pháp năm 1946). Lập pháp đối trọng lại so với tư pháp thể hiện ở chỗ: việc xét xử Nghị viên phải được sự đồng ý của Nghị viện hoặc Ban thường vụ khi Nghị viện không họp (Điều 40 Hiến pháp năm 1946); Tòa án phải xét xử theo các luật do Nghị viện ban hành (Điều 69 Hiến pháp năm 1946). Kiểm soát và đối trọng giữa tư pháp với hành pháp: tư pháp tham gia kiểm soát hành pháp thể hiện ở chỗ: có quyền xét xử nhân viên Nội các về thường tội (Điều 51 Hiến pháp năm 1946). Hành pháp đối trọng lại so với tư pháp thể hiện ở chỗ: việc bắt bớ và truy tố trước Tòa án một nhân viên Nội các về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính phủ (Điều 51 Hiến pháp năm 1946); Chính phủ có quyền bổ nhiệm Thẩm phán (Điều 64 Hiến pháp năm 1946). 2.4 Thông qua cơ chế phân quyền, Hiến pháp 1946 đã lột tả được bản tính cần phải có của các cơ quan nhà nước - Nghị viện theo Hiến pháp 1946 là một Nghị viện đoàn kết, dân chủ và thận trọng. Chế định Nghị viện nhân dân được quy định trong Hiến pháp 1946 thể hiện một hình thức dân chủ mới của chính thể cộng hòa lần đầu tiên được thiết lập ở một đất nước nửa phong
  • 11. 13LUẬT HIẾN PHÁP kiến, nửa thuộc địa. Bản chất, tổ chức và phương thức hoạt động của Nghị viện nhân dân là phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam sau Tổng tuyển cử 1946, với sự tham gia của nhiều lực lượng chính trị trong một cơ chế dân chủ nhân dân. Việc bổ sung 70 ghế Đại biểu Quốc hội cho Việt Nam Quốc dân đảng (Đảng Việt quốc) và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Đảng Việt cách) nhằm tập hợp các lực lượng chống đối, lôi cuốn họ tham gia xây dựng đất nước; thực sự là sáng kiến vĩ đại về một nhà nước của dân tộc Việt Nam10 . Điều đặc biệt cần nhấn mạnh là Điều 30 Hiến pháp 1946 xác định hình thức hoạt động rất dân chủ của Nghị viện nhân dân: “Nghị viện họp công khai, công chúng được nghe”. Quy định này đã thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước Việt Nam với tính cách là nhà nước dân chủ nhân dân. Tính dân chủ của Nghị viện trong Hiến pháp 1946 còn được thể hiện ở quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu 2/3 tổng số nghị viên đồng ý” (Điều 32). Để giữ cho quyết định lập pháp của Nghị viện được cẩn trọng hơn, Điều 31 Hiến pháp 1946 quy định: Chủ tịch nước được quyền yêu cầu Nghị viện xem xét lại các dự thảo luật đã được thông qua; hoặc Điều 54 Hiến pháp 1946 quy định: Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại việc bất tín nhiệm Nội các cũng là nhằm mục đích đảm bảo cho quyết định bất tín nhiệm Nội các của Nghị viện được thận trọng hơn. - Chính phủ theo Hiến pháp 1946 là một Chính phủ mạnh và dám chịu trách nhiệm. Thông qua việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước và Chính phủ theo Hiến pháp 1946, có thể nhận thấy rằng, Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu Nhà nước, vừa trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của Chính phủ. Chức năng nguyên thủ quốc gia nhập lại với chức năng hành pháp và Chủ tịch nước thực sự 10 Nguyễn Văn Thảo, Xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nxb Tư pháp, 2006, tr. 35. nắm quyền hành pháp. Chính phủ thực sự “là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc”. Theo nhà nghiên cứu Việt Phương, “Trong sự phân quyền ấy, mối quan tâm suốt đời của Hồ Chí Minh, theo tôi hiểu, là xây dựng một nền hành pháp rất mạnh, rất, rất mạnh, và điều này là một kinh nghiệm lớn của loài người. Hồ Chí Minh đã nhận rõ kinh nghiệm ấy”11 . Giống với một số nước khác, trong mỗi sắc lệnh của Chính phủ bên cạnh chữ ký của Chủ tịch nước phải có chữ ký “phó thự” của một Bộ trưởng và chính người trực tiếp ký ấy mới phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện về hậu quả pháp lý của văn bản đó12 . Bộ trưởng chỉ chịu trách nhiệm cá nhân mà không phải chịu trách nhiệm liên đới trước Nghị viện nên chỉ Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì mới phải từ chức và Nội các không phải từ chức tập thể trong trường hợp Bộ trưởng bị mất tín nhiệm. Thủ tướng là người đứng đầu, điều hành Nội các và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Nội các trước Nghị viện: “Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các”. Thủ tướng và Nội các có thể bị đặt vấn đề tín nhiệm trước Nghị viện khi Ban thường vụ hoặc ¼ tổng số Nghị viên đặt vấn đề ấy. Trong vòng 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước có quyền đưa vấn đề đó ra thảo luận lại. Sau cuộc biểu quyết lần hai mà vẫn bị mất tín nhiệm thì Nội các phải từ chức. Các Bộ trưởng phải trả lời chất vấn của Nghị viện hoặc Ban thường vụ. - Tòa án theo Hiến pháp 1946 là một Tòa án độc lập. Tòa án được xem “là một cơ quan trọng yếu của chính quyền”, có vị trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước. Tòa án độc lập đối với hành chính, chỉ có Tòa án mới có 11 Việt Phương, Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước , Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý của Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1993, tr. 68. 12 Việt Phương, Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý Hà Nội, 1993 tr. 68-69.
  • 12. 14 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 chức năng xét xử; các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm nhưng trong khi xét xử, các Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được phép can thiệp. Kết luận: Phân quyền là cơ chế ngăn ngừa sự độc đoán, chuyên quyền bằng một cơ chế được quy định công khai trong Hiến pháp chứ không “ngấm ngầm” tự nguyện bởi đạo đức, trong một xã hội pháp quyền chứ không phải xã hội của đức quyền, giáo quyền, cực quyền. Phân quyền đem lại sự phân công cụ thể phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mỗi nhánh quyền lực trong tổng thể quyền lực nhà nước và chịu sự kiểm soát thường trực của những định chế quyền lực cùng cấp khác. Do đó, mỗi nhánh quyền lực phải tự thân nâng cao năng lực và trách nhiệm chính trị trong hành động. Điều này sẽ nâng cao và khẳng định tính chuyên nghiệp của các nhánh quyền lực trên nền tảng Hiến pháp và pháp luật; không trông chờ, dựa dẫm vào một nhánh quyền lực khác có tính tối cao để được ban phát, cho phép, hướng dẫn. Thay vào đó, từ sự chuyên nghiệp trong phân quyền, các nhánh quyền lực sẽ năng động, luôn tự hoàn thiện để tương xứng với vị trí, chức năng của mình. Sự chủ động đó đóng vai trò như một xung lực thúc đẩy các nhánh quyền lực thăng tiến, qua đó thúc đẩy sự thăng tiến của cả hệ thống. Từ đó, mỗi nhánh quyền lực sẽ chủ động trong sự thăng tiến xã hội công dân, dân chủ và pháp quyền, tránh tình trạng thụ động hay bảo thủ của cả hệ thống. Tất cả sẽ tạo nên sự năng động cần thiết trong bối cảnh kinh tế ngày càng tăng tốc, xã hội công dân không ngừng tiến những bước mới, dân chủ tiếp tục được khai triển sâu rộng… Kết quả chung sẽ là sự hình thành và thăng tiến của nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Không hẳn là nhân tố duy nhất, nhưng phân quyền là nhân tố cần có trước nhất và nền tảng nhất về mặt pháp lý nhằm bảo đảm cho sự phi chuyên chế chính trị, bảo đảm cho dân chủ và xã hội công dân. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của nhà nghiên cứu Việt Phương rằng: “Hồ Chí Minh chấp nhận sự phân quyền ấy. Gọi sự phân quyền ấy là phân công cũng được thôi, nhưng theo tôi, Hồ Chí Minh đã chấp nhận sự phân quyền và đã khéo kết hợp hài hòa quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp… Cách tổ chức nhà nước sinh thời Hồ Chí Minh qua Hiến pháp 1946 là rất Việt Nam, mang đậm dấu ấn dân tộc và sắc thái phương Đông, đồng thời có vận dụng nhiều kinh nghiệm của Pháp, có một phần của Mỹ về tổ chức nhà nước và các mối quan hệ quyền hạn giữa các bộ phận chính quyền với nhau, đằng sau đó là kinh nghiệm của Anh, vì Anh đã một thời làm mẫu cho các nền dân chủ phương tây”13 . Ở nước ta hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền lực vì hướng đến mục tiêu thống nhất quyền lực nên chỉ được thiết kế theo chiều dọc từ trên xuống, không có chiều ngang. Ngành lập pháp có quyền kiểm soát quyền lực của ngành hành pháp và tư pháp. Nhưng hai ngành này không được kiểm soát quyền lực của nhau và càng không thể kiểm soát quyền lực của lập pháp: Tòa án không được quyền kiểm soát văn bản không hợp hiến, không hợp pháp của Chính phủ và càng không thể xét xử các luật vi hiến của Quốc hội; Chính phủ không được quyền phủ quyết luật, không được đề nghị giải tán Quốc hội, không được đặt vấn đề bất tín nhiệm trước Quốc hội,… Do đó, việc nghiên cứu cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp 1946 có ý nghĩa quan trọng để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, nhất là trong bối cảnh Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chính thức khẳng định quyền lực nhà nước không chỉ có “sự phân công, phối hợp” mà còn có sự “kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”.. 13 Trần Ngọc Đường, Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr. 440.
  • 13. 15LUẬT HÌNH SỰ T hị trường chứng khoán (TTCK) là thị trường tập chung các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. TTCK còn được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Nhằm đảm bảo thực thi pháp luật về chứng khoán (CK) và TTCK đồng thời bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia TTCK, Nhà nước ta sử dụng nhiều biện pháp pháp lý trong đó có pháp luật hình sự để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động CK và TTCK. Với mục tiêu đã được đặt ra tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;”, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010) đã qui định 3 tội danh mới trong lĩnh vực CK và TTCK: tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán ( Điều 181b); tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c). Đây là lần đầu tiên tội phạm trong lĩnh vực CK và TTCK được quy định trong Bộ luật hình sự. Đây cũng là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện dần khung pháp lý chung đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách minh bạch, hiệu quả. 1. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a) “1. Người nào cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Có tổ chức; b) Thu lợi bất chính lớn; c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨNG KHOÁN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI PHẠM NÀY PHAN ANH TUẤN * * ThS, Khoa Luật Hình sự - Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
  • 14. 16 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 Về mặt khách thể của tội phạm, tội phạm xâm phạm chế độ quản lý kinh tế nhà nước trong lĩnh vực CK và TTCK. Ngoài ra, tội phạm còn xâm phạm quyền lợi và gây thiệt hại cho cho các chủ thể khác trên thị trường. Có thể thấy, thông tin có vị trí đặc biệt quan trọng đối với TTCK – bởi vì với đặc trưng là tính trung gian, nhà đầu tư khi đầu tư CK không thể trực tiếp kiểm tra chất lượng hàng hóa như các loại hàng hóa thông thường khác mà phải dựa trên cơ sở thông tin có liên quan. Pháp luật quy định nhà đầu tư có quyền được nhận những thông tin chính xác, kịp thời và trung thực từ những chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin. Khi nhận được thông tin liên quan đến CK từ những chủ thể trên mà những thông tin này lại không đúng sự thật hoặc đã bị che giấu một phần quan trọng thì khả năng nhận diện quy luật thị trường của các nhà đầu tư đã bị làm sai lệch và quyết định đầu tư sai lầm là điều khó tránh khỏi. Điều này không chỉ xâm phạm quyền được thông tin của các nhà đầu tư mà còn gây ra các thiệt hại về tài sản cho họ. Hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán có đối tượng tác động là các thông tin, sự thật về việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK. Người phạm tội thực hiện tội phạm thông qua việc tác động tới những thông tin về số liệu, tình hình tài chính, quyết định của Hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành CK…Có thể thấy rằng đây là những thông tin có thể ảnh hưởng đến giá CK hoặc đến chiều hướng phát triển của TTCK. Về mặt khách quan của tội phạm, tội phạm bao gồm hai dạng hành vi sau: + Cố ý công bố thông tin sai lệch liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK. + Che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK. Cố ý công bố thông tin sai lệch liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK là việc các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin đã cố ý công bố thông tin không đúng với sự thật so với thực tế của doanh nghiệp. Dạng hành vi này có thể được biểu hiện như: công bố thông tin không chính xác, không đầy đủ các nội dung về việc mua lại cổ phiếu, bán cổ phiếu quỹ, về kết quả giao dịch theo quy định; hồ sơ niêm yết tại sở giao dịch CK hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán có những thông tin sai lệch, gây hiểu lầm hoặc không đủ thông tin theo qui định; tổ chức thông báo phát hành CK trên các phương tiện thông tin đại chúng không đúng nội dung theo quy định… Việc công bố thông tin trên TTCK hiện nay được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/1/2010 của Bộ Tài chính Hướng dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK. Che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK là việc các chủ thể không thông báo những sự thật cần phải thông báo liên quan đến hoạt động CK. Những sự thật này cần được thông báo cho các nhà đầu tư biết để các họ điều chỉnh kế hoạch đầu tư của mình. Dạng hành vi này có các biểu hiện như: không thông báo những thông tin, sự kiện ảnh hưởng tới giá CK mà khi những sự kiện diễn ra có thể làm cho giá CK có thể tăng lên hoặc giảm xuống (ví dụ như việc ký kết một hợp đồng hoặc hủy bỏ một hợp đồng kinh tế, hoặc việc tách, sáp nhập công ty …); không thực hiện công bố thông tin
  • 15. 17LUẬT HÌNH SỰ theo quy định về việc chào mua công khai; tổ chức, cá nhân, nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng thực hiện giao dịch hoặc không thực hiện giao dịch nhưng có thay đổi về số lượng cổ phiếu sở hữu vượt quá 1% số lượng cổ phiếu cùng loại đang lưu hành nhưng không báo cáo, báo cáo không đúng thời hạn quy định cho công ty đại chúng, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Sở giao dịch chứng khoán… Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động CK là tội phạm có cấu thành vật chất nên hậu quả là dấu hiệu bắt buộc. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên như thế nào là “hậu quả nghiêm trọng” thì hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Theo tác giả Dương Tuyết Miên, hậu quả nghiêm trọng ở đây được hiểu là “hành vi đó gây lũng đoạn TTCK hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của doanh nghiệp bị thông tin sai sự thật …”1 Chúng tôi cho rằng, cách hiểu “hậu quả nghiêm trọng” trong tội phạm này của tác giả Dương Tuyết Miên chủ yếu mang tính định tính, chưa mang tính định lượng nên việc xác định “hậu quả nghiêm trọng” trên thực tế rất khó khăn và dấu hiệu “hậu quả nghiêm trọng”, theo chúng tôi, cũng không cần đến mức độ “gây lũng đoạn TTCK”. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả do hành vi gây ra là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Người thực hiện hành vi phạm tội chỉ có thể chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình nếu cơ quan tố tụng chứng minh được hậu quả nghiêm trọng xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi đó. 1 TS. Dương Tuyết Miên (2010), “Về các tội phạm chứng khoán trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2 năm 2010, tr.19. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm như thời gian, địa điểm phạm tội… không phải là dấu hiệu định tội của tội “Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu sự thật trong hoạt động chứng khoán”. Về mặt chủ quan của tội phạm, tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc không công bố thông tin quan trọng liên quan đến chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh CK, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán CK của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. Về chủ thể của tội phạm, hiện nay trong khoa học pháp lý hình sự có 2 quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định”2 . Quan điểm thứ hai cho rằng chủ thể của tội phạm này người có nghĩa vụ công bố thông tin. Điều 181a) BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) không đề cập việc chủ thể của tội phạm có phải là chủ thể đặc biệt hay không mà chỉ nêu “người nào…công bố thông tin”. Tuy nhiên xuất phát từ thuật ngữ “công bố thông tin” và các quy định của pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin thì có thể khẳng định chỉ những người có trách nhiệm, thẩm quyền công bố thông tin mới có khả năng phạm tội này. Pháp luật quy định nghĩa vụ công bố thông tin của một số chủ thể đặc biệt bởi chức năng, vai trò và tầm ảnh hưởng của các tổ chức, cá nhân này đối với hoạt động của TTCK. Người có nghĩa vụ công bố thông tin cũng được quy định trong Luật Chứng khoán, và theo hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 09/2010/TT-BTC ngày 15/10/2010 của Bộ Tài chính về việc 2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 147.
  • 16. 18 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 công bố thông tin trên TTCK, gồm: công ty đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch, công ty CK, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư CK, Sở giao dịch chứng khoán và người có liên quan. Việc công bố thông tin phải do người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc người được ủy quyền công bố thông tin thực hiện. Người đại diện theo pháp luật của công ty phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do người được uỷ quyền công bố thông tin công bố (Mục I.2.2 Thông tư 09). Như vậy, người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc người được ủy quyền công bố thông tin, nếu cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu sự thật, thì được coi là người trực tiếp thực hiện tội phạm. 2. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b) “1. Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn; c) Gây hậu quả nghiêm trọng; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” Theo qui định tại Điều 181b) BLHS, chúng ta có thể hiểu tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán là hành vi của người biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua bán CK hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán CK, trên cơ sở đó thu lợi bất chính lớn. Về khách thể của tội phạm, tội phạm xâm phạm chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực CK và TTCK. Thông qua việc sử dụng thông tin nội bộ để mua bán CK hành vi này đã phá vỡ nguyên tắc công bằng trên thị trường, được ghi nhận tại Điều 4 Luật chứng khoán, đồng thời vi phạm quy định của Nhà nước về những hành vi bị cấm trong hoạt động CK được ghi nhận tại Điều 9 Luật chứng khoán. Do đó, khi thực hiện tội phạm này, người phạm tội đã xâm phạm chế độ quản lý kinh tế nhà nước trong lĩnh vực CK và TTCK. Bên cạnh đó, hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua bán CK đã gây thiệt hại cho các nhà đầu tư khác. Các nhà đầu tư khác đã trở nên bất lợi hơn rất nhiều so với những người nội bộ, hoặc các chủ thể khác được tiếp cận thông tin nội bộ. Từ đó, khác với những người không có được lợi thế về thông tin như mình, họ bắt đầu tính toán, xác định phương thức mua hoặc bán CK như thế nào để thu được lợi nhuận hoặc tránh những khoản lỗ có thể xảy ra. Vì vậy, hành vi giao dịch nội bộ đã phương hại đến quyền lợi của các nhà đầu khác trên thị trường. Về mặt khách quan của tội phạm, tội phạm bao gồm ba dạng hành vi sau: + Sử dụng thông tin mà mình biết liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại
  • 17. 19LUẬT HÌNH SỰ chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng để mua bán CK thu lợi bất chính lớn; + Tiết lộ, cung cấp thông tin mà mình biết liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng cho người khác mua bán CK trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn; + Tư vấn cho người khác mua bán CK trên cơ sở thông tin mà mình biết liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng thu lợi bất chính lớn. Để có thể hiểu rõ hơn hành vi khách quan của tội phạm, chúng ta cần tìm hiểu về một số thuật ngữ liên quan. “Quỹ đại chúng” là quỹ đầu tư CK thực hiện chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng (Điều 6 Luật Chứng khoán). “Công ty đại chúng” là công ty cổ phần thuộc một trong ba loại hình sau đây: a) Công ty đã thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng; b) Công ty có cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán; c) Công ty có cổ phiếu được ít nhất một trăm nhà đầu tư sở hữu, không kể nhà đầu tư CK chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên (Điều 25 Luật Chứng khoán). “Thông tin nội bộ” là thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố, mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó (Điều 6 Luật chứng khoán). Như vậy, tội phạm này được hiểu là dựa trên những thông tin nội bộ có được, người biết thông tin nội bộ mua, bán CK cho chính mình hoặc mua, bán CK cho người khác (thường là những người thân thiết trong gia đình, bạn bè…). Một người biết thông tin nội bộ có thể tiết lộ thông tin đó cho những người thân thuộc, hoặc cung cấp cho những chủ thể cần thông tin đó trên thị trường, hoặc dựa trên những thông tin có được mà tư vấn cho người khác nên mua hoặc bán một loại CK nào đó thu lợi bất chính. Việc tiết lộ, cung cấp thông tin hoặc tư vấn dựa trên thông tin nội bộ phải dẫn đến kết quả là người được tiết lộ, cung cấp, tư vấn tiến hành mua bán CK thu lợi bất chính lớn. Vì nếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp, tiết lộ, tư vấn cho bên thứ ba và bên thứ ba này không tiến hành bất kỳ giao dịch CK nào sau khi có thông tin nội bộ thì không cấu thành tội này. Hành vi phạm tội nêu trên đòi hỏi phải có thêm dấu hiệu “thu lợi bất chính lớn”. Tuy nhiên, cách hiểu dấu hiệu “thu lợi bất chính lớn” hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết. Về mặt chủ quan của tội phạm, lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ nếu thông tin được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá CK của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng nhưng vì trục lợi nên vẫn thực hiện hành vi nói trên. Về chủ thể của tội phạm, dựa vào qui định tại Điều 181b BLHS: “Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố…”, thì chủ thể của tội là người năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và biết được thông tin nội bộ. Theo qui định tại Điều 6 Luật chứng khoán, những người biết được thông tin nội bộ có thể là những người sau: “a) Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc của công ty đại chúng; thành viên Ban đại diện quỹ đại chúng; b) Cổ đông lớn của công ty đại chúng, quỹ đại chúng; c) Người kiểm toán báo cáo tài chính của công
  • 18. 20 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 ty đại chúng, quỹ đại chúng; d) Người khác tiếp cận được thông tin nội bộ trong công ty đại chúng, quỹ đại chúng; đ) Công ty CK, công ty quản lý quỹ đầu tư CK và người hành nghề CK của công ty; e) Tổ chức, cá nhân có quan hệ hợp tác kinh doanh, cung cấp dịch vụ với công ty đại chúng, quỹ đại chúng và cá nhân làm việc trong tổ chức đó; g) Tổ chức, cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp có được thông tin nội bộ từ những đối tượng quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này.” Như vậy, người biết được thông tin nội bộ theo qui định của Điều 181b) BLHS và Luật chứng khoán là người biết được thông tin nội bộ một cách hợp pháp theo qui định của pháp luật. Trên thực tế, có những người biết được thông tin nội bộ có thể không phải là những người được qui định tại Điều 6 Luật chứng khoán mà họ biết được thông tin nội bộ bằng cách thu thập bất hợp pháp (chẳng hạn: mua thông tin nội bộ, chiếm đoạt tài liệu chứa thông tin nội bộ, xem trộm thông tin nội bộ …) và họ sử dụng thông tin đó để mua bán CK thì không thể xử lý hình sự đối với họ được, đây là điều bất hợp lý. Chính vì vậy, chúng tôi kiến nghị bổ sung cụm từ “hoặc thu thập bất hợp pháp thông tin đó” vào Điều 185b) BLHS. Cũng theo qui định tại Điều 181b) BLHS thì hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua bán CK chỉ cấu thành tội phạm khi có dấu hiệu “thu lợi bất chính lớn”. Quy định này là hợp lý trong điều kiện TTCK nước ta còn non trẻ và những hành vi nguy hiểm phải gây một thiệt hại đáng kể cho xã hội thì mới qui định là tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động trên TTCK cho thấy, việc sử dụng thông tin nội bộ để mua bán CK không chỉ nhằm tìm kiếm lợi nhuận mà đôi khi còn để tránh hoặc hạn chế thiệt hại cho người biết thông tin nội bộ. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty gặp khó khăn trong hoạt động (ví dụ như vướng vào một vụ kiện tụng về luật pháp), những người nội bộ sẽ bán cổ phiếu của mình trước khi những thông tin kịp công bố. Tất nhiên, khi doanh nghiệp tiến hành công bố thông tin theo luật định, giá CK của doanh nghiệp sẽ giảm. Lúc này, những người nội bộ đã kịp bán CK nhờ thông tin nội bộ, nên họ tránh được một khoản lỗ đáng kể. Với lợi thế biết thông tin nội bộ của Công ty đại chúng mà thông tin đó khi công bố có thể làm giảm giá CK một cách nghiêm trọng, chủ thể sẽ tìm mọi cách bán tháo CK nhằm đẩy rủi ro sang người khác. Lúc này, tuy chủ thể không thu được lợi nhuận nhưng rõ ràng đã gây thiệt hại cho các nhà đầu tư khác không nắm bắt được thông tin nội bộ. Nguyên tắc công bằng, công khai trong hoạt động của TTCK bị phá vỡ, với lợi thế nghiêng về phía người biết được thông tin nội bộ. Trên cơ sở phân tích trên, chúng tôi đề xuất bổ sung thêm cụm từ “hoặc gây hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu định tội của tội danh này. Dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” có thể được xác định dựa trên lợi ích bất hợp pháp mà chủ thể thực hiện tội phạm có được (ví dụ như khoản lỗ thực tế họ tránh hoặc hạn chế được do biết thông tin nội bộ), thiệt hại của tội phạm gây ra cho chủ thể khác và cho hoạt động của TTCK. Tóm lại, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 181b) qui định về tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán lại như sau: “1. Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó hoặc thu thập bất hợp pháp thông tin đó mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
  • 19. 21 3. Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c) “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi thao túng giá chứng khoán sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo; b) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Thu lợi bất chính lớn; c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” Về mặt khách thể của tội phạm, tội thao túng giá chứng khoán xâm phạm chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực CK và TTCK. Ngoài ra tội phạm này còn xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức niêm yết và người đầu tư CK. Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Về mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan của tội danh này là hành vi thao túng giá CK. Hành vi này có thể thể hiện dưới các hình thức sau: thông đồng trong giao dịch CK nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; hoặc giao dịch CK bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục đặt lệnh mua, bán CK gây ảnh hưởng lớn đến cung cầu và giá CK, thao túng giá CK; Trên thực tế hành vi khách quan của tội phạm có thể gồm các trường hợp sau đây3 : a) Thông đồng với nhau sử dụng nhiều tài khoản liên tục mua, bán CK nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; b) Một nhóm người thông đồng với nhau đặt lệnh mua và bán cùng loại CK trong cùng ngày giao dịch hoặc thông đồng với nhau giao dịch mua bán CK mà không dẫn đến chuyển nhượng thực sự quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu chỉ luân chuyển giữa các thành viên trong nhóm nhằm tạo giá CK, cung cầu giả tạo; c) Thông đồng với nhau liên tục mua hoặc bán CK với khối lượng chi phối vào thời điểm mở cửa hoặc đóng cửa thị trường nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hoặc giá mở cửa mới cho loại CK đó trên thị trường; d) Giao dịch CK bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục đặt lệnh mua, bán CK gây ảnh hưởng lớn đến cung cầu và giá CK, thao túng giá CK. Tội thao túng giá CK là tội phạm có cấu thành vật chất. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội có một trong các hành vi trên gây ra hậu quả nghiêm trọng. Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã liệt kê ra hai dạng hành vi mà các đối tượng có thể thực hiện để thao túng giá CK, tuy nhiên điều này sẽ làm tạo ra giới hạn của cấu thành tội phạm trên. Trên thực tế các đối tượng thực hiện những hành vi hoặc thủ đoạn để thao túng giá CK ta rất đa dạng vì vậy việc quy định một cấu thành “đóng” với hai trường hợp thực hiện hành vi nêu trên là không phù hợp với thực tiễn. Ví dụ, trong việc thao túng giá CK các đối tượng có thể thực hiện hành vi sau: tự coi mình là bên giao dịch duy nhất, họ mua đi bán lại CK với nhiều tài khoản nhưng không 3 Xem: Thông tư 37/2011/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 85/2010/NĐ-CP ngày 2/8/2010 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK và TTCK. LUẬT HÌNH SỰ
  • 20. 22 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 có sự chuyển quyền sở hữu và điều này có thể gây tác động đến khối lượng và giá cả CK; mục đích của họ có thể là làm rối loạn sự phán đoán của các nhà đầu tư trên cơ đó để trục lợi. Như vậy hành vi trên không thể quy vào một trong hai trường hợp mà luật đã quy định trong Điều 181c) BLHS. Tham khảo qui định Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, chúng tôi nhận thấy rằng hành vi thao túng giá CK có nội hàm rộng hơn so với hành vi thao túng giá CK được qui định tại Điều 181c) BLHS Việt Nam. Cụ thể Điều 182 của Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa qui định như sau4 : “ Người nào thao túng giá cả giao dịch chứng khoán để thu lợi bất chính hoặc đẩy rủi ro cho người khác, thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu với tình tiết nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động và bị phạt tiền hoặc chỉ bị phạt tiền từ 1 đến 5 lần số tiền lời bất chính: 1. Một mình hoặc hợp sức với người khác dùng lợi thế tập trung tài chính hoặc ưu thế cổ phần của mình hoặc lợi dụng ưu thế thông tin nắm được, liên kết hoặc liên tục mua bán, thao túng giá cả thị trường chứng khoán; 2. Thông đồng với người khác để tiến hành giai dịch chứng khoán với nhau hoặc mua bán mà không nắm giữ chứng khoán vào thời gian, theo giá cả và phương thức đã định trước làm ảnh hưởng đến giá cả và khối lượng giao dịch chứng khoán; 3. Tự coi mình là bên giao dịch duy nhất, tự mình mua bán với mình không có sự chuyển quyền sở hữu chứng khoán gây ảnh hưởng đến giá cả hoặc khối lượng giao dịch chứng khoán; 4. Dùng các thủ đoạn khác để thao túng giá giao dịch chứng khoán. Đơn vị, pháp nhân nào phạm tội nói trên 4 Đinh Bích Hà (Dịch và giới thiệu), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2007), Nxb Tư pháp, Hà Nội. thì phạt tiền; đối với người trực tiếp phụ trách hoặc người chịu trách nhiệm trực tiếp khác thì bị phạt tù đến 5 năm hoặc cải tạo lao động” Như vậy, xuất phát từ thực tiễn xử lý hành vi thao túng giá CK, tham khảo Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung hoa về tội thao túng giá chứng khoán, chúng tôi kiến nghị nên mở rộng trường hợp phạm tội của hành vi thao túng giá CK bằng cách thêm vào các dấu hiệu: “a) Tự mình hoặc thông đồng với người khác để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo; b) Kết hợp hoặc sử dụng các phương thức khác để thao túng giá chứng khoán.” Tóm lại, chúng tôi kiến nghị sửa đổi Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c BLHS) lại như sau: “Người nào thực hiện một trong các hành vi thao túng giá chứng khoán sau đây gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: “a) Tự mình hoặc thông đồng với người khác để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo; b) Giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán c) Kết hợp hoặc sử dụng các phương thức khác để thao túng giá chứng khoán.” Việc hoàn thiện các qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội về CK là một yêu cầu cấp thiết bắt nguồn từ thực tế hoạt động của TTCK Việt Nam. Xu hướng chủ đạo để hoàn thiện các qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về CK, theo chúng tôi là tiếp tục tội phạm hóa các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực CK và TTCK có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có tính phổ biến mà Luật Chứng khoán qui định có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự..
  • 21. 23 giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền có NBC. Trong đó có thể kể đến Dự án nghiên cứu Quyền bào chữa hiệu quả ở Liên minh Châu Âu và tiếp cận công lý: điều tra và xúc tiến hành động2 . Mục đích của dự án này là điều tra hiệu quả của việc thực hiện quyền tiếp cận với NBC trong tố tụng hình sự của 9 quốc gia Châu Âu, đồng thời thiết lập việc thực thi có hiệu quả các quyền của người bị tình nghi, của bị cáo, đặc biệt là những người thiếu thốn khả năng trả chi phí cho NBC. Ở phạm vi quốc gia, giới luật sư ở Mỹ không thể không biết đến Báo cáo mới nhất của Ủy ban quốc gia về quyền bào chữa3 (National Right to Counsel Committee) vào tháng 4/2009. Bản báo cáo này là kết quả của cuộc nghiên cứu công phu nhằm đánh giá thực trạng bảo đảm quyền có NBC trong TTHS đồng thời đề xuất những giải pháp hoàn thiện, mà chủ chốt là những kiến nghị 2 Dự án khởi động vào năm 2007 với sự tài trợ của Tư pháp liên minh châu âu (EU Justice), Ban giám đốc Tự do và An ninh (Freedom and Security Directorate) và Viện Xã hội mở (Open Society In- stitute). Một trong những sản phẩm của Dự án này là việc phát hành quyển sách “Bào chữa hiệu quả ở Châu Âu” (Effective Defense Counsel in Europe) vào cuối năm 2010. Xem:www.soros.org/initiative/justice/focus/ criminal_justice/article_publications/publications/ criminal-defense-europe-20100623/criminal-de- fense-europe-summary.pdf 3 Được thành lập năm 2004 trong khuôn khổ Dự án Hiến pháp. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Q uyền có người bào chữa (NBC) trong vụ án hình sự là một quyền cơ bản của người bị buộc tội được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người1 . Ở pháp luật quốc gia, quyền có NBC được đảm bảo trong rất nhiều Hiến pháp của các nước trên thế giới. Trong hầu hết quy định của các nước, quyền này được thực hiện dưới hai hình thức: NBC do người bị buộc tội thuê; NBC do cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định. Việc thực hiện quyền, dù dưới hình thức nào cũng nhằm đảm bảo cho người bị buộc tội được hỗ trợ bởi NBC, người được coi là có đủ trình độ và năng lực để bảo vệ thân chủ trước những cáo buộc của nhà nước. Tìm hiểu thực tiễn xây dựng pháp luật ở nhiều quốc gia cho thấy, quyền có NBC được coi là một trong những quyền tố tụng cơ bản của công dân cần được bảo đảm và hoàn thiện. Bảo đảm quyền này là bảo đảm tính công bằng của pháp luật, một nền tảng quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người – tiêu chí tiến bộ của một xã hội văn minh. Ngày càng có nhiều những công trình, dự án nghiên cứu nhằm đề xuất những * ThS, Khoa Luật Hình sự Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh 1 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Công ước Châu Âu về quyền con người,Công ước Châu Mỹ về quyền con người, Công ước Châu Phi về quyền con người và quyền công dân. ĐẢM BẢO QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỸ LƯƠNG THỊ MỸ QUỲNH *
  • 22. 24 TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2011 cho một cuộc cải cách tư pháp ở Mỹ.4 Trong tiến trình cải cách tư pháp5 , Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều Hội thảo với quy mô quốc tế liên quan đến quyền bào chữa của người bị buộc tội để lấy ý kiến của những nhà chuyên môn, những chuyên gia hoạt động thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện Bộ luật TTHS sửa đổi bổ sung sẽ được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2011. Thực tiễn trên cho thấy, vấn đề bảo đảm quyền tố tụng nói chung và đảm bảo quyền có NBC nói riêng không chỉ là mối quan tâm của từng quốc gia mà là vấn đề của toàn cầu. Trong phạm vi bài viết này, tác giả giới thiệu những nội dung cơ bản về đảm bảo quyền có NBC trong TTHS Mỹ, một hệ thống đại diện cho mô hình tố tụng tranh tụng (adversarial model) với việc coi trọng vai trò chủ động của NBC. Những thông tin này sẽ được giới thiệu qua việc phân tích các khía cạnh bảo đảm quyền có NBC dưới góc độ lịch sử phát triển quyền trong TTHS Mỹ. Ngoài ra, để giúp người đọc hiểu rõ hơn về những nội dung nền tảng của việc bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ, những thông tin về nguồn luật áp dụng và bản chất của hệ thống tư pháp đối tụng cũng được tác giả đề cập trong bài viết. I. Nguồn luật Tại Mỹ tồn tại hai hệ thống pháp luật song song : pháp luật liên bang và pháp luật các bang. Hai hệ thống này tồn tại độc lập và tách rời. Ở cấp liên bang, các quyền của người bị buộc tội được bảo đảm bởi Hiến pháp. Những quyền này được ghi nhận trong những điều 4 Báo cáo được thực hiện với sự hỗ trợ của Viện Xã hội mở (Open Society Institute) và Wallace Global Fund. Báo cáo này nằm trong khuôn khổ của Chương trình Dự án Hiến pháp. Xem: http://www.constitutionproject.org/cjp/right- tocounsel.php 5 Mở rộng hoạt động tranh tụng là tinh thần chủ đạo trong cải cách tư pháp được nhấn mạnh trong Nghị quyết 08/NQ/TW năm 2002 và Nghị quyết 49/ NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính Trị. khoản cụ thể của Đạo luật Nhân quyền (Bill of rights) bao gồm Tu chính pháp thứ IV, V, VI VIII và tu chính pháp thứ XIV về Tố tụng công bằng (Due process) và điều khoản Bảo đảm công bằng (Equal Protection Clauses). Bên cạnh đó, quyền của bị cáo còn được bảo đảm bởi Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang (Federal Code of Criminal Procedure) và Bộ luật cơ bản Hoa Kỳ (United States Code, cụm 18, Phần II về Tội phạm và thủ tục TTHS). Ở cấp bang, quyền lợi của người bị buộc tội được bảo đảm bởi Hiến pháp và các đạo luật của bang. Tuy nhiên, người bị buộc tội cũng có quyền viện dẫn đến những bảo đảm được ghi nhận trong Hiến pháp liên bang. Hầu hết các quy định trong Hiến pháp của các bang đều giống với những bảo đảm của Đạo luật nhân quyền. Tòa án tối cao liên bang có nhiệm vụ giải thích các phán quyết của tòa án tối cao cấp bang về những vấn đề liên quan đến những quyền được ghi nhận trong Đạo luật nhân quyền, đồng thời có quyền bác bỏ những nhận định của tòa án tối cao cấp bang nhằm đưa ra những bảo đảm tốt hơn cho người bị buộc tội6 . Tuy nhiên các Tòa án tối cao của bang cũng có quyền độc lập trong việc đưa ra những chuẩn mực của bang mình. Việc đại diện cho người bị buộc tội trong một vụ việc cụ thể ở cấp bang đòi hỏi phải có đầy đủ kiến thức nền tảng về Hiến pháp và các đạo luật của bang, để từ đó có thể đệ trình tất cả các vấn đề liên quan đến pháp luật của bang dựa trên những lập luận của hiến pháp liên bang7 . Mối liên hệ này thể hiện một điểm rất đặc trưng trong pháp luật Mỹ nói chung đó là vai trò làm luật của thẩm phán. Các luật sư ở Mỹ dựa trên nhiều nguồn luật khi hành nghề, nhưng chủ yếu là những phán quyết được thể hiện trong bản án của Tòa án tối 6 Russell L. Weaver, Leslie W. Abramson, John M Burkott, Catherine Hancok, Principle of Criminal Procedure (Nguyên tắc của Tố tụng hình sự), Thomp- son West, 2004, tr. 2. 7 Russell L. Weaver, Leslie W. Abramson, John M Burkott, Catherine Hancok, Tlđd, tr. 1.