SlideShare a Scribd company logo
1 of 91
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BẢO TÂM
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BẢO TÂM
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm
HÀ NỘI - 2012
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n b¶o ®¶m ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn ThÞ B¶o T©m
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU
LẦN" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
8
1.1. Một số vấn đề về chế định đa tội phạm 8
1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần 10
1.2.1. Khái niệm của tình tiết phạm tội nhiều lần 10
1.2.2. Đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần 12
1.3. Phân biệt phạm tội nhiều lần với một số tình tiết khác có liên
quan (gần) trong pháp luật hình sự
15
1.3.1. Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội 15
1.3.2. Phạm tội nhiều lần và tội liên tục 18
1.3.3. Phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 20
1.3.4. Phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm 23
1.4. Ý nghĩa của việc điều chỉnh về mặt lập pháp tình tiết phạm tội
nhiều lần
25
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG
27
2.1. Những quy định của pháp luật hình sự việt nam về phạm tội
nhiều lần từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
27
5
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
27
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 cho đến
trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
29
2.2. Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
phạm tội nhiều lần
33
2.2.1. Những quy định của Phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999
về phạm tội nhiều lần
33
2.2.2. Những quy định của Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm
1999 về phạm tội nhiều lần
35
2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về phạm tội nhiều lần
43
Chương 3: NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN CỦA VIỆC TIẾP TỤC
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TÌNH TIẾT "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN"
57
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về phạm tội nhiều lần
57
3.2. Nội dung hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về phạm tội nhiều lần
72
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
6
Danh môc c¸c b¶ng
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thống kê số liệu một số tội danh các đối tượng phạm tội
thường bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần
từ năm 2007 đến năm 2011
44
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phạm tội nhiều lần là một tình tiết thuộc chế định đa tội phạm. Tuy
nhiên tình tiết này vẫn chưa được quy định một cách cụ thể trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999. Trong Bộ luật nó được coi là một tình tiết "tăng
nặng trách nhiệm hình sự" hay có thể là một tình tiết "định khung tăng nặng".
Trong các vụ án hình sự đối tượng phạm tội nhiều lần chiếm tỉ lệ rất lớn.
Về mặt pháp lý, phạm tội nhiều lần chưa được các nhà làm luật định
nghĩa một cách chính thức mà ở mỗi một tội danh cụ thể lại có một quy định
riêng. Ví dụ: tại Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-
BNV ngày 2-01-1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự thì:
Tình tiết "Phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 133,
khoản 2 Điều 134a... (đối với một số tội phạm có tính chất tham
nhũng và tội phạm liên quan đến tình dục) được hiểu là đã có tất cả
từ hai lần phạm tội đó trở lên (hai lần phạm tội tham ô trở lên, hai
lần phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản
xã hội chủ nghĩa trở lên...) mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu
thành quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong các
lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và
cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [22].
Về mặt lý luận, dưới góc độ khoa học luật hình sự các nhà nghiên cứu
đã đưa ra khái niệm này như sau: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở
lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một
khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với
những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm
tội vẫn chưa bị xét xử. Đối với những trường hợp phạm từ hai tội trở lên mà
8
những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau của Bộ luật này, chỉ khi nào
do các điều tương ứng trong phần các tội phạm Bộ luật này quy định riêng
mới bị coi hoặc có thể bị coi là phạm tội nhiều lần. Hay có thể được hiểu là:
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần
trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm,
bốn lần tham ô... và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội
phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng
một bản án...; Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần
thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội,
xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố,
xét xử... [26].
Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy tình tiết phạm tội nhiều lần
bao gồm năm nội dung sau: (1) Phạm tội nhiều lần là người phạm tội đã thực
hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc
nhiều đối tượng khác nhau (ví dụ: phạm tội nhiều lần đối với cùng một người
hoặc đối đối với nhiều người - điểm c khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự,
nhiều lần trộm cắp, nhiều lần hiếp dâm...). (2) Nếu tách ra từng hành vi phạm
tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc
lập. (3) Tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một điều luật cụ
thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự (cùng là tội trộm cắp, hiếp dâm...), có
thể cùng một khoản, có thể phạm tội ở các khoản khác nhau của cùng một
điều luật. (4) Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật
(như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án...) và cùng bị đưa ra xét xử một lần
trong cùng một vụ án (được tuyên trong một bản án). (5) Nếu điều luật có quy
định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại [22].
Như vậy, có thể thấy việc hiểu về tình tiết phạm tội nhiều lần khá
phức tạp. Mặt khác để hiểu đúng về tình tiết phạm tội nhiều lần chúng ta cần
9
phải phân biệt nó với các tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm: phạm
nhiều tội, tội liên tục, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm
nguy hiểm. Đây là những tình tiết có nhiều dấu hiệu giống nhau, nếu không
phân biệt được sẽ dẫn đến việc hiểu sai và áp dụng sai.
Từ những lý do trên đây chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài "Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt
Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. T×nh h×nh nghiªn cøu
Phạm tội nhiều lần là một tình tiết được đề cập đến trong luật hình sự
Việt Nam với yếu tố là tình tiết tăng nặng định khung của rất nhiều loại tội và
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết này đã được đề cập đến
trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và tiếp tục được kế thừa trong Bộ luật Hình
sự 1999. Vấn đề này cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham
khảo do các tác giả khác nhau biên soạn như: 1) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do TSKH.PGS. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003 (tái bản); 2) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Tập I, Tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2007; 3) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác
giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2005; 4) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Trường Đại học
Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1995; 5) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần
chung), Tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; 6) Chế
định nhiều tội phạm - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tác giả TS. Lê Văn
Đệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 v.v...
Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam đã dành không ít
công sức cho việc nghiên cứu về đề tài này, đáng chú ý là các công trình
nghiên cứu của TSKH.PGS. Lê Cảm: 1) Chế định đa tội phạm trong Sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
10
(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) Chế định đa (nhiều)
tội phạm và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 6/2001; 3) Lê Cảm, Trịnh Quốc Toản, Định tội danh: lý
luận hướng dẫn mẫu và 350 bài thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004; 4) Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Tập IV,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như: 1)
Bàn về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Phạm tội nhiều lần" quy định
trong Luật Hình sự Việt Nam, của ThS. Lê Văn Luật (Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 4/2006; 2) Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong
giải quyết hình phạt - tồn tại và giải pháp, của Vũ Hồng Thiêm (Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 10, tháng 5/2008); 3) Về việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều
lần, phạm tội đối với nhiều người trong một số tội phạm của Bộ luật Hình sự
năm 1999, của Nguyễn Hải Dũng (Tạp chí Kiểm sát, số 2/2005; 4) Áp dụng
các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết tăng nặng phạm tội có
tổ chức và phạm tội nhiều lần, của Vũ Thành Long (Tạp chí Kiểm sát, số
21/2006); 5) Bàn về phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, của Đỗ Thanh
Huyền (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2007); 6) Các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 1999, của Dương Tuyết
Miên (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2003); 7) Cần hiểu chính xác về tình tiết
tăng nặng chung và tình tiết tăng nặng định khung trong Bộ luật Hình sự, của
Trinh Đình Thể (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/1998); 8) Một số vấn đề cần
chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, của
Đinh Văn Quế (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2010); 9) Những hạn chế trong
các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng trách nhiệm hình sự và hướng khắc phục, của Hồ Sĩ Sơn (Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 16/2008); 10) Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, của Mai
Bộ (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1999) v.v...
11
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề phạm tội
nhiều lần nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó hoặc chừng mực xem
xét qua các trường hợp phạm tội cụ thể hay kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ
thống vấn đề phạm tội nhiều lần vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề phạm tội nhiều
lần cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm tội nhiều lần là một vấn đề tương đối hẹp và phức tạp. Nghiên
cứu về vấn đề này đã có nhiều nghiên cứu chung mà ít có nghiên cứu chuyên
sâu. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết một số
vấn đề cơ bản xung quanh vấn đề phạm tội nhiều lần như: 1) Khái niệm và
đặc điểm của phạm tội nhiều lần; 2) Phân biệt phạm tội nhiều lần và một số
tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm như phạm nhiều tội, phạm tội liên
tục, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; 3)
Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về "Phạm tội nhiều lần".
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của phạm tội nhiều lần, luận
văn đi sâu nghiên cứu tình tiết này trên phương diện lập pháp và việc áp dụng
chế định này trong thực tiễn xét xử để từ đó đưa ra các kiến nghị.
4. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của nó là vấn đề
phạm tội nhiều lần trong luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở này, mục đính nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu
những vấn đề lý luận về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam. Đồng
thời luận văn còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng những quy định của pháp luật hình sự về phạm tội nhiều lần để từ đó,
đưa ra những kiến nghị để việc áp dụng được thống nhất, tránh tình trạng hiểu
sai về tình tiết này.
12
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Để hoàn thành khóa luận, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu bản án điển
hình... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề đã được
nêu ra trong luận văn. Cụ thể đó là:
- Phương pháp phân tích: Luận văn đã phân tích chi tiết các vấn đề có
liên quan đến vấn đề phạm tội nhiều lần, từ đó có thể đánh giá được thực tiễn
áp dụng. Các nội dung cần phân tích bao gồm: Phân tích các vấn đề lý luận về
phạm tội nhiều lần, phân tích các thông số về tình hình phạm tội, người phạm
tội, phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về phạm
tội nhiều lần...
- Phương pháp so sánh: Là việc so sánh các vấn đề có liên quan đến
vấn đề phạm tội nhiều lần, từ đó có thể rút ra các kết luận mang tính đánh giá.
Các nội dung so sánh bao gồm: so sánh giữa phạm tội nhiều lần và phạm
nhiều tội; phạm tội liên tục; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm; tái
phạm nguy hiểm.
- Phương pháp tổng hợp: Đó là việc khái quát hóa toàn bộ các nhận
định độc lập sau khi phân tích, so sánh từng nội dung, từng tiêu chí cụ thể.
Phương pháp tổng hợp giúp cho quá trình đánh giá tránh khỏi sự phân tán, rời
rạc và thiếu trọng tâm. Các nội dung tổng hợp được đặt trong một hệ thống
cấu trúc có mối liên hệ qua lại, trong đó xác định những nội dung cơ bản chi
phối nhận định chung.
- Nghiên cứu các vụ án điển hình: Đây là một phương pháp nghiên
cứu quan trọng của luận văn. Đó là những thực tiễn để chứng minh và làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận mà tác giả đã đưa ra.
6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của luận văn
Cơ sở khoa học của luận văn là các quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 về phạm tội nhiều lần và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự
13
năm 1999, cũng như các công trình khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề này.
Bên cạnh đó, cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn áp dụng các quy
định về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam và qua nghiên cứu các
bản án của Tòa án nhân dân các cấp, những vụ án hình sự do cơ quan công an
điều tra, khởi tố để rút ra những nhận xét, đánh giá.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả
đã làm rõ khái niệm, đặc điểm của vấn đề phạm tội nhiều lần, bản chất pháp
lý của nó. Đồng thời trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng để đưa ra các
kiến nghị phù hợp.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ
cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong
việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo
người phạm tội hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về "Phạm tội nhiều lần" trong pháp
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về "Phạm
tội nhiều lần" và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Những phương hướng cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về "Phạm tội nhiều lần".
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN"
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHẾ ĐỊNH ĐA TỘI PHẠM
Phạm tội nhiều lần là một trong các dạng của chế định đa tội phạm.
Do đó trước khi tìm hiểu về chế định này, chúng ta cần hiểu về chế định đa tội
phạm. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam khi nghiên cứu về chế định đa
tội phạm giữa các nhà nghiên cứu tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có thể
kể đến một số quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh: Chế định đa tội phạm là một
chế định của luật hình sự cần bao hàm tất cả những trường hợp khi một người
thực hiện một số tội phạm với điều kiện nếu như đối với các tội này người đó
vẫn chưa hết án tích hoặc thời hiệu truy tố về hình sự.
Quan điểm khác với quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh là quan điểm
của PGS.TS Lê Văn Đệ: "Nhiều tội phạm là trường hợp một người phạm từ
hai tội trở lên, không phụ thuộc vào việc người đó đã bị xét xử về các tội đã
phạm hay chưa; các tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và
không có những trở ngại về mặt tố tụng hình sự để khởi tố vụ án hình sự" [14].
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm:
Nhiều (đa) tội phạm là một chế định độc lập của luật hình sự
Việt Nam bao gồm bốn dạng (trường hợp): (1) phạm tội nhiều lần;
(2) phạm nhiều tội; (3) tái phạm; (4) phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp, mà trong những điều kiện như nhau nếu so sánh với tội đơn
nhất thì các dạng này thường cho thấy tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn của tội phạm được thực hiện, cũng như
của nhân thân người phạm tội [7, tr 388-389].
15
Như vậy, theo định nghĩa nói trên thì GS.TSKH Lê Văn Cảm đã nêu
rõ các dạng của chế định nhiều (đa) tội phạm. Theo đó, nhiều tội phạm không
chỉ là trường hợp một người phạm từ hai tội trở lên và người phạm tội vẫn
chưa bị xét xử (phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội) mà còn bao gồm cả
trường hợp phạm từ hai tội trở lên và có thể đã bị đưa ra xét xử (tái phạm,
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp). Nếu so sánh đặc điểm của bốn dạng tội
phạm nói trên thì có thể thấy chúng có một đặc điểm chung là người phạm tội
phạm từ hai tội trở lên và vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên ở mỗi dạng lại nổi bật lên một điểm khác biệt để phân biệt giữa các
dạng tội phạm khác nhau.
Ở dạng phạm tội nhiều lần đặc điểm nổi bật là: phạm từ hai tội trở lên
và những tội ấy được quy định tại cùng một điều và người phạm tội vẫn chưa
bị xét xử.
Ở dạng phạm nhiều tội thì người phạm tội cũng phạm từ hai tội trở
lên, những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau và người phạm tội
cũng chưa bị đưa ra xét xử về tội nào trong số những tội ấy.
Ở dạng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì người phạm tội phạm
tội nhiều lần, có tính chất liên tục, có hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập,
nguồn sống chủ yếu của người phạm tội, người phạm tội có thể bị đưa ra xét
xử ở các lần khác nhau.
Ở dạng tái phạm đặc điểm khác biệt của nó là ở chỗ người phạm tội
trước đó đã bị kết án về bất kỳ tội phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội
do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Có thể nói khi nghiên cứu về chế định nhiều (đa) tội phạm ta có thể
thấy được tính phức tạp cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội và những thiệt hại do hành vi này gây ra thường là
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội nhiều lần chính là một trong
các dạng tội phạm có tính chất như vậy.
16
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TÌNH TIẾT PHẠM TỘI
NHIỀU LẦN
1.2.1. Khái niệm của tình tiết phạm tội nhiều lần
Về mặt lập pháp: phạm tội nhiều lần với tính chất là một dạng của chế
định đa tội phạm từ trước đến nay vẫn chưa nhận được sự điều chỉnh chính
thức bằng một quy phạm riêng biệt nào mà mới chỉ được quy định với tính
chất là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm cụ thể và là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật
Hình sự năm 1999.
Về mặt thực tiễn, lần đầu tiên bằng giải thích thống nhất có tính chất chỉ
đạo trong Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT ngày 02/01/1998 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985 đã đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần
đối với riêng một số tội phạm có tính chất tham nhũng và tình dục được đề
cập trong Luật đã nêu mà theo đó, khái niệm phạm tội nhiều lần đối với một tội
nào đó trong số các tội phạm có tính chất tham nhũng được thực tiễn xét xử
của nước ta hiểu là: Bị cáo đã phạm tội ấy từ hai lần trở lên mà mỗi lần phạm
tội có đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1) trong điều
luật tương ứng và người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình dự và tội
ấy cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [7, tr. 391]. Cụ thể
như sau:
Đối với tội phạm về ma túy: Tại điểm b khoản 3 Phần II quy định: Tình
tiết "phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 185b, khoản 2 Điều 185c,
khoản 2 điều 185d, khoản 2 Điều 185e, khoản 2 Điều 185g, khoản 2 Điều 185h,
khoản 2 Điều 185i, khoản 2 Điều 185k, khoản 2 Điều 185m, khoản 2 Điều 185n
được hiểu là đã có tất cả từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép
chất ma túy trở lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên…) mà mỗi
17
lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy định tại khoản 1 Điều luật tương
ứng; đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội đó chưa có lần nào bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu
Điều luật có quy định về số lượng chất ma túy được định khung hình phạt.
Người nào tổ chức, cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng chất ma túy
từ hai lần trở lên dù chỉ đối với một người cũng được coi là phạm tội nhiều lần.
Đối với tội phạm hiếp dâm, cưỡng dâm: Tại điểm c khoản 1 Phần III:
Tình tiết "phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 3 Điều 112a, khoản 3
Điều 113a, khoản 2 Điều 114, khoản 2 Điều 201, khoản 2 Điều 137 được hiểu
là đã có tất cả từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần hiếp dâm trở lên, hai lần
cưỡng dâm trở lên…) và mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy
định tại khoản 1 Điều luật tương ứng, đồng thời trong các lần phạm tội đó
chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cũng được coi là phạm tội nhiều lần người nào hiếp dâm, cưỡng dâm
giao cấu… từ hai lần trở lên đối với một người.
Về mặt lý luận: Dưới góc độ khoa học luật hình sự chúng ta thấy có
hai quan điểm về khái niệm phạm tội nhiều lần. Một là:
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những
tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản
của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời
với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và
người phạm tội vẫn chưa bị xét xử [7].
Hai là:
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần
trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm,
bốn lần tham ô… và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội
18
phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng
một bản án. Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực
hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội, xâm
phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét
xử…[26].
1.2.2. Đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần
Từ khái niệm nói trên tình tiết phạm tội nhiều lần có những đặc điểm
cơ bản như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Có thể hiểu hành vi nguy hiểm cho xã
hội là hành vi đe dọa xâm phạm hoặc xâm phạm đến những quan hệ xã hội
được pháp luật hình sự bảo vệ.
Đặc điểm thứ hai: Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực
hiện bao giờ cũng phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
độc lập.
Các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm bao gồm bốn yếu tố: khách
thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Đây là một đặc điểm quan
trọng để xác định có phải người phạm tội đã thực hiện từ hai lần hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm hay không. Nếu hành vi không có đầy đủ
các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập thì không thể xác định được
đó là tình tiết phạm tội nhiều lần.
Đặc điểm thứ ba: Tội phạm do một điều hoặc một khoản của điều
tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự quy định.
Đây là một đặc điểm đặc trưng của tình tiết phạm tội nhiều lần và dùng
để phân biệt với tình tiết phạm nhiều tội. Người phạm tội thực hiện từ hai lần
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mỗi lần thực hiện hành vi
phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập và tội phạm
đó do cùng một điều hoặc một khoản tương ứng quy định tại Bộ luật Hình sự.
19
Đặc điểm thứ tư: Tội phạm này vẫn phải còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 23 Bộ
luật Hình sự năm 1999. Nếu hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì
người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Do đó, hành vi
nói trên không bị tính là một lần phạm tội.
Đặc điểm "người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần" có
nghĩa là các hành vi phạm tội trước đó chưa bị đưa ra xét xử lần nào. Đây là
một đặc điểm để phân biệt giữa tình tiết phạm tội nhiều lần và tình tiết tái
phạm, tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, đây là bốn đặc điểm cần và đủ để có thể đánh giá thế nào là
phạm tội nhiều lần. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm hay còn gọi là dấu hiệu
nói trên thì khó có thể coi đó là tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần. Để
phân tích rõ hơn bốn đặc điểm nêu trên của tình tiết phạm tội nhiều lần, chúng
ta cùng nghiên cứu một ví dụ thực tế như sau:
Ngày 28/09/2010 Nguyễn Văn Thêm (chưa có tiền án, tiền sự) sang
nhà cháu Trần Thị H sinh ngày 04/08/1996, trú quán: Thôn Cựu, xã Vân Từ,
Phú Xuyên, Hà Nội (gọi Thêm là ông trẻ ở gần nhà), Nguyễn Văn Thêm có
hành vi sờ ngực, bộ phận sinh dục của cháu Trần Thị H sau đó định giao cấu với
cháu H thì bị anh Trần Thế Hưng (bố cháu H) trên gác chạy xuống cầm đòn
gánh đuổi đánh và hô hoán mọi người đến bắt quả tang Nguyễn Văn Thêm.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn Thêm khai nhận: Khoảng tháng 05/2009
nhà cháu H đang sửa chữa công trình phụ nên H thường mang bát đĩa sang
nhà Thêm rửa nhờ. Thêm thấy cháu H phát triển sớm nên Thêm đã nhiều lần
có hành vi dùng tay sờ ngực cháu H và nảy sinh ý muốn giao cấu với cháu H.
Một hôm cháu H sang nhà Thêm chơi thấy không có ai ở nhà nên cháu đã lấy
chiếc điện thoại di động Trung Quốc màu đen của Thêm mang về nhà. Sau đó
Thêm phát hiện ra cháu H lấy chiếc điện thoại nên đã nhắn cháu H phải đem
20
điện thoại sang trả nếu không sẽ nói cho bố mẹ biết. Ngày hôm sau cháu H
sang nhà Thêm để nói chuyện với Thêm về chiếc điện thoại H đã lấy của
Thêm, lúc này không có ai ở nhà. Thêm bảo cho cháu H chiếc điện thoại đó
rồi Thêm ôm cháu H, sờ bộ phận sinh dục của cháu H, cháu H không đồng ý,
Thêm dọa sẽ mách bố mẹ cháu về việc cháu H lấy chiếc điện thoại, sau đó
Thêm Thêm cởi quần của cháu H và thực hiện hành vi giao cấu.
Thêm còn khai từ tháng 05/2009 đến đầu năm 2010 Thêm đã nhiều
lần giao cấu với cháu H ở tại nhà Thêm và có lần ở nhà cháu H, cứ khoảng
một tuần, 1 đến 2 lần thêm lại giao cấu với cháu H nhưng không cho vào sâu
vì cháu H kêu đau và xuất tinh ra ngoài. Trong suốt thời gian quan hệ với
cháu H, Thêm đã mua chuộc cháu H bằng cách thỉnh thoảng cho tiền và mua
điện thoại di động cho cháu H, khi cháu H không muốn tiếp tục giao cấu thì
Thêm dọa sẽ nhắn tin cho các bạn của H biết. Vì vậy cháu H sợ buộc phải cho
Thêm tiếp tục hành vi giao cấu. Vào ngày 28/09/2010 Thêm thấy cháu H chỉ
có một mình ở nhà liền đi vào ôm lấy cháu H và định thực hiện hành vi giao
cấu thì bất ngờ bố cháu H ở trên gác chạy xuống cầm đòn gánh đuổi đánh và
hô mọi người đến bắt quả tang.
Tại bản giám định số 2480 ngày 26/10/2010 của Viện khoa học hình
sự, Bộ Công an kết luận: Trên cơ thể của cháu H không có dấu vết thương
tích, màng trinh không bị rách. Sức khỏe của cháu H hiện bình thường.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử Nguyễn Văn Thêm phạm tội
"Hiếp dâm trẻ em". Áp dụng khoản 4 Điều 112, điểm g khoản 1 Điều 48
(phạm tội nhiều lần) của Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt Nguyễn Văn
Thêm 15 năm tù.
Phân tích vụ án nói trên ta thấy được rõ bốn đặc điểm của tình tiết
phạm tội nhiều lần là:
- Nguyễn Văn Thêm đã thực hiện từ hai lần trở lên hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm đó là hành vi xâm hại đến quyền tự do và bất
21
khả xâm phạm về tình dục trẻ em (cháu H chưa đủ 13 tuổi), xâm phạm đến
quá trình phát triển bình thường, sức khỏe và tinh thần của trẻ em.
- Hành vi nói trên của Thêm được thực hiện nhiều lần và mỗi lần đều
có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập bao gồm 04 yếu tố
là khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan). Thêm đã xâm hại
đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là quyền tự do và bất khả xâm
phạm về tình dục trẻ em, sức khỏe và tinh thần của trẻ em (khách thể). Nguyễn
Văn Thêm đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự (chủ thể). Hành vi của Thêm đã gây ra hậu quả là ảnh hưởng đến sự phát
triển bình thường của cháu H cả về sức khỏe lẫn tinh thần (mặt khách quan).
Thêm thực hiện hành vi hoàn toàn với lỗi cố ý trực tiếp. Tức là Thêm nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (mặt chủ quan).
- Những lần phạm tội nói trên của Nguyễn Văn Thêm do Điều 112 Bộ
luật Hình sự (Tội hiếp dâm trẻ em) quy định.
- Và Nguyễn Văn Thêm chưa bị đưa ra xét xử lần nào.
Tóm lại, nghiên cứu về những đặc điểm nói trên là để giúp chúng ta
phân biệt giữa tình tiết phạm tội nhiều lần với các tình tiết tương đồng khác
để tránh nhầm lẫn khi áp dụng trên thực tiễn.
1.3. PHÂN BIỆT PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VỚI MỘT SỐ TÌNH TIẾT
KHÁC CÓ LIÊN QUAN (GẦN) TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.3.1. Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội
Cũng như tình tiết phạm tội nhiều lần, tình tiết phạm nhiều tội chưa
nhận được sự điều chỉnh chính thức bằng một quy phạm riêng biệt nào trong
pháp luật hình sự Việt Nam. Thuật ngữ "phạm nhiều tội" chỉ được đề cập đến
trong tên gọi của một điều luật "Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội" (Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1985 trước đây và Điều 50 Bộ luật
Hình sự năm 1999 hiện hành).
22
Vì vậy, để phân biệt hai tình tiết này chúng ta có thể dựa vào các khái
niệm, các đặc điểm của nó dưới góc độ khoa học luật hình sự.
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những
tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản
của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời
đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử.
Phạm nhiều tội là phạm tội từ hai lần trở lên hoặc khi hành
vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những
tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản
khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác
nhau) trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy
vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội
chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy [7, tr. 396].
Từ hai khái niệm nói trên, có thể thấy đặc điểm duy nhất để phân biệt
hai tình tiết này là: số lần phạm tội từ hai lần trở lên nhưng ở tình tiết phạm
tội nhiều lần thì những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc một
khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, còn ở tình tiết
phạm nhiều tội thì những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc
tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm
khác nhau) trong Phần riêng của Bộ luật Hình sự.
Ví dụ: Khoảng 11 giờ ngày 27/10/2010, Nguyễn Quang Huy (không
có tiền án, tiền sự) đi xe máy Nouvo màu đen, không đeo biển kiểm soát trên
đường Thái Hà - Huỳnh Thúc Kháng tìm người có tài sản để cướp giật. Khoảng
12 giờ, Huy phát hiện chị Trần Thu Hoài, sinh năm 1970, trú tại Phòng 401
nhà 24T1 Trung Hòa, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội ngồi sau xe
máy ôm theo một túi xách để trước bụng. Huy liền bám theo để giật túi xách
của chị Hoài. Khi chị Hoài đi đến ngã tư Huỳnh Thúc Kháng với đường
Nguyên Hồng thì Huy áp sát bên phải xe của chị Hoài, dùng tay trái giật lấy
23
chiếc túi xách của chị Hoài rồi nhanh chóng tẩu thoát. Sau đó, Huy lục túi
xách thấy có 12 triệu đồng, một số giấy tờ mang tên chị Hoài và một điện
thoại di động Nokia 6500 màu đen. Quá trình bắt giữ Huy cơ quan điều tra đã
thu giữ được chiếc máy điện thoại di động tang vật nêu trên và thu giữ trong
người Huy một gói nilon đựng chất bột màu trắng. Huy khai là chất heroin (đã
được cơ quan giám định xác định đó là chất ma túy: hêroin, trọng lượng 0,416g).
Huy khai nhận về nguồn gốc chất ma túy như sau: khoảng 10 giờ ngày
3/11/2010, Huy mua một gói nhỏ heroin từ Trần Anh Tuấn trên phố Lò Đúc -
Hà Nội với giá 400.000 (bốn trăm nghìn đồng). Huy đã sử dụng một ít hêroin,
số còn lại cất trong người cho đến khi bị bắt giữ. Huy đã mua của Tuấn 04 lần
vào các thời điểm khác nhau với số lượng như trên.
Có thể thấy rằng: Huy đã thực hiện hai lần hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị luật hình sự cấm là hành vi cướp giật tài sản (Huy không dùng vũ lực
mà chỉ nhanh chóng cướp tài sản rồi tẩu thoát nên hành vi của Huy cấu thành
tội cướp giật tài sản) và hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hai hành vi
nói trên của Huy cấu thành hai tội là tội cướp giật tài sản theo Điều 136 Bộ
luật Hình sự năm 1999 và tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 Bộ
luật Hình sự. Như vậy, trường hợp phạm tội của đối tượng Huy chính là
trường hợp phạm nhiều tội tức là Huy đã phạm hai tội mà những tội ấy được
quy định tại các điều khác nhau (Điều 136 và Điều 194) trong Phần riêng Bộ
luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và Huy chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.
Bên cạnh đó, do nhiều lần Huy thực hiện hành vi mua bán trái phép
chất ma túy nên Huy sẽ bị truy tố theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình
sự năm 1999 với tình tiết tăng nặng định khung phạm tội nhiều lần. Bởi vì
Huy đã bốn lần phạm tội mua bán trái phép chất ma túy mà những tội ấy
được quy định tại cùng một điều (Điều 194) tương ứng trong Phần riêng Bộ
luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và Huy vẫn chưa bị xét xử.
24
1.3.2. Phạm tội nhiều lần và tội liên tục
Hai tình tiết phạm tội nhiều lần và tội liên tục nếu xét về thuật ngữ
"nhiều lần" và thuật ngữ "liên tục" ta thấy chúng dường như là tương đồng
nhưng thực ra về bản chất là rất khác nhau. Có thể hiểu tội liên tục là khi tội
phạm được hình thành từ một loạt hành vi nguy hiểm cho xã hội giống nhau,
mà các hành vi đó có cùng một mục đích chung, được thực hiện với một ý
định phạm tội thống nhất, cùng xâm hại đến một khách thể và trong sự tổng
hợp của những hành vi đó thì cấu thành một tội độc lập [7, tr. 389].
Như vậy, tội liên tục cũng là tội được hình thành từ nhiều hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, nhưng khác với phạm tội nhiều lần một
loạt hành vi nguy hiểm của tội liên tục mới cấu thành nên một tội vì mỗi hành
vi chưa đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập, còn với tình tiết
phạm tội nhiều lần thì hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện
bao giờ cũng có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Mặt
khác, xét về hậu quả cũng như thiệt hại cho xã hội do hành vi gây ra thì phạm
tội nhiều lần gây ra thiệt hại lớn hơn rất nhiều so với tội liên tục. Về mức độ
trách nhiệm hình sự, phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự còn phạm tội liên tục chỉ để chỉ tội đó do một loạt hành vi cấu thành
nên nó chỉ là tình tiết định tội mà thôi.
Ví dụ: Chị Nguyễn Thị Lưu sinh 1976 kết hôn với Nguyễn Văn Doanh
sinh 1975, trú tại thôn Đạo Thượng, Tân Hưng, Sóc Sơn, Hà Nội. Cuộc hôn
nhân kéo dài 15 năm, hai người đã có hai mặt con. Thế nhưng chị Lưu thường
xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ dã man. Từ cán cuốc, đòn gánh, mũ cối, dây
cu roa... đến tuýp nước, tất cả những vật dụng Doanh vớ được đều trở thành
hung khí hành hạ vợ. Nhiều lần, chị Lưu phải đi cấp cứu tại trạm xá do những
trận đòn của chồng. Người phụ nữ lam lũ sống ở làng quê vẫn cắn răng chịu
đựng cảnh bị chồng hành hạ nhiều năm mà không dám giải thoát cho mình.
Ngày 31/5/2009, chị gái của Doanh bị ốm có nhờ chị Lưu đến gặt lúa
hộ. Chị Lưu đến làm và còn biếu chị gái của Doanh 200 ngàn đồng để bồi
25
dưỡng, thuốc men. Khi về nhà, chị thật thà kể cho chồng nghe thì liền bị
Doanh chửi mắng vì đã đi gặt hộ lại còn cho những 200 nghìn đồng.
Sau khi dùng dây cu roa trói vợ và mặc sức đánh đập tàn nhẫn, được
người hàng xóm can ngăn thì Doanh mới chịu thả vợ ra. Người chồng vũ phu
này bắt vợ phải cùng lên nhà bố mẹ vợ để kể tội. Trước mặt mọi người trong
gia đình nhà vợ, Doanh ra sức thóa mạ vợ mình. Sau đó, hai vợ chồng lại dắt
nhau về nhà.
Khoảng 23h cùng ngày, gia đình chị Lưu chưa hết tâm trạng lo lắng
chị sẽ tiếp tục bị Doanh hành hạ khi về tới nhà thì nhận tin dữ chị Lưu chết vì
tự tử bằng bả chó.
Trước khi chết, lá thư của chị Nguyễn Thị Lưu (thôn Đạo Thượng, xã
Tân Hưng, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) gửi đến các cơ quan chức năng ngày
7/6/2007 với những lời lẽ thống thiết: "Tôi không hiểu tại sao gần đây chồng
tôi lại hay đánh đập, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, thể xác của tôi bằng
những hành động quá tàn bạo".
Chị Lưu tố cáo anh Nguyễn Văn Doanh, chồng chị, đã có những hành
vi bạo hành tàn bạo như sau:
Lần 1, khi đi chăn vịt, anh Doanh đã ném mũ cối vào mặt chị Lưu rồi
đấm đá túi bụi.
Lần 2, anh Doanh cầm chuôi cuốc thúc mạnh vào cổ chị Lưu khiến chị
phải đi viện. Lần thứ 3, chỉ vì thời tiết mưa bão nhiều khiến lúa bị bọ dầy phá
hoại, anh Doanh đổ lỗi cho chị Lưu làm hỏng lúa và đã đi mua xăng về đốt
lúa rồi lấy dây cô loa đánh túi bụi vào người chị Lưu ở bờ ruộng.
Vào khoảng tháng 4/2004, do ghen tuông, Doanh đã chửi mắng chị
Lưu vì khi chị Lưu đi bán hoa quả ở chợ đã có một thanh niên đến mua hoa
quả và bắt tay chị. "Những lời nhiếc móc, những trận đòn phũ phàng, những
sự tra tấn tàn bạo có thể ập đến với tôi bất cứ lúc nào khiến tôi luôn sống
trong tâm trạng sợ hãi giữa sự sống và cái chết. Nửa đêm, anh ta bắt tôi ngồi
26
dậy và ký vào đơn ly dị. Anh ta chửi mắng tôi là ngu như chó, "mày có chết đi
thì tao cũng chỉ mất với mày một cỗ ván với mấy triệu là xong, nửa tháng sau
là tao lại có vợ mới"…
Sau khi xem xét vụ án, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn tuyên Nguyễn
Văn Doanh phạm tội Hành hạ người khác theo Điều 151 Bộ luật Hình sự năm
1999 và phạt Doanh mức án 24 tháng tù treo, bồi thường gần 20 triệu đồng.
Vụ án trên cho thấy Doanh đã thực hiện rất nhiều hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm như hành vi đánh, nhiếc móc vợ xâm phạm đến
sức khỏe và tinh thần của người phụ nữ. Tuy nhiên mỗi một hành vi của
Doanh chưa đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập mà tổng hợp các
hành vi nguy hiểm cho xã hội nói trên của Doanh mới cấu thành nên một tội
là tội Hành hạ người khác. Đây chính là một trong những tội điển hình của
loại tội liên tục nói trên.
1.3.3. Phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp được hiểu là phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục và nhằm mục
đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm tội đã trở thành hệ
thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người
phạm tội.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/05/2006 hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Bộ luật Hình sự thì tình tiết phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp được hướng dẫn như sau:
5.1 Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm
không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy
27
cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;
b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh
sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Ví dụ: A là một người không nghề nghiệp, chuyên sống bằng
nguồn thu thập từ việc phạm tội. Trong một thời gian, A liên tiếp
thực hiện năm vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong
mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên). Trong trường hợp
này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng tình tiết
định khung hình phạt "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
5.2. Khi áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp",
cần phân biệt:
a. Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong
đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng
trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình
tiết là "phạm tội nhiều lần", "tái phạm" (hoặc "tái phạm nguy hiểm")
và "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp".
Ví dụ: B đã bị kết án về tội "trộm cắp tài sản", nhưng chưa
chấp hành hình phạt hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt, trong
một thời gian, B lại liên tiếp thực hiện bốn vụ trộm cắp tài sản (tài
sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng
trở lên). Trong trường hợp này, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự và phải bị áp dụng ba tình tiết tăng nặng là "phạm tội nhiều lần",
"tái phạm" (hoặc "tái phạm nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp".
b. Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết
"phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" là tình tiết định khung hình
phạt thì không được áp dụng tình tiết đó là tình tiết tăng nặng tương
28
ứng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp điều luật
không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì
phải áp dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48
của Bộ luật Hình sự [37].
Như vậy, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thể hiện tính nguy hiểm
và mang cấp độ cao hơn so với tình tiết phạm tội nhiều lần. Phạm tội nhiều
lần chỉ để chỉ người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị luật hình sự cấm. Còn đối với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì
các hành vi phạm tội có tính chất liên tục nghĩa là người phạm tội liên tiếp
thực hiện loại tội phạm cùng nhóm trong khoảng thời gian nhất định và ít nhất
phải từ năm lần trở lên. Các hành vi phạm tội đã trở thành hoạt động phạm tội
có hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của
người phạm tội.
Mặt khác, nếu ở tình tiết phạm tội nhiều lần các lần người tội phạm
thực hiện hành vi phạm tội chưa bị đưa ra xét xử lần nào thì ở tình tiết phạm
tội có tính chất chuyên nghiệp người phạm tội có thể bị đưa ra xét xử ở các
lần khác nhau. Bởi vì có thể ngay sau khi được xóa án tích người phạm tội lại
tiếp tục thực hiện một loạt tội phạm cùng nhóm.
Điểm khác nhau cuối cùng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách
nhiệm hình sự còn ở phạm tội nhiều lần thì các lần phạm tội phải chưa bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Nguyễn Vi Vương là đối tượng không có công ăn việc làm. Do
cần tiền để ăn tiêu nên trong khoảng thời gian từ giữa năm 2008 đến tháng
9/2009 Nguyễn Vi Vương đã một mình dùng xe máy Yamaha Exciter - biển
kiểm soát 29Z7-4382 đi trên các đường phố Hà Nội, khi thấy có các chị phụ
nữ đi xe máy, có đeo túi xách thì ép sát xe vào phía bên phải và tay phải giữ
tay ga, tay trái giật túi của họ, sau đó phóng xe chạy vào chỗ vắng lục túi lấy
29
các tài sản có giá trị, còn túi, giấy tờ không có giá trị Vương vứt đi. Tại cơ
quan điều tra Vương đã khai nhận gây ra 19 vụ cướp giật tài sản với tổng giá
trị tài sản và tiền Nguyễn Vi Vương cướp giật được trong 19 vụ án nói trên
ước tính khoảng gần 500.000.000 (năm trăm triệu đồng).
Nhìn chung hành vi của Vương bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
cướp giật tài sản với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp. Bởi vì lý do Vương phạm tội là để có tiền tiêu xài, là
nguồn sống chính vì Vương không có công ăn việc làm. Số vụ cướp giật
Vương gây ra là 19 vụ và tổng trị giá tài sản mà Vương cướp giật được là rất
lớn. Nên có thể khẳng định đây chính là nguồn sống chính của Vương.
1.3.4. Phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm
So với tình tiết phạm tội nhiều lần, tái phạm được quy định bằng một
chế định độc lập tại Điều 49 Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo đó tái phạm, tái
phạm nguy hiểm được quy định như sau: "Tái phạm là trường hợp đã bị kết
án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý" [30].
Tái phạm nguy hiểm bao gồm các trường hợp:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do
cố ý [30].
Cũng giống như tình tiết phạm tội nhiều lần, tái phạm cũng là thực
hiện từ hai lần trở lên hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm.
Nhưng tái phạm, tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết
án và chưa được xóa án tích còn phạm tội nhiều lần thì người phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội nhiều lần nhưng chưa lần nào bị đưa ra xét xử nên chưa
bị kết án và chưa có án tích.
30
Ở tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm tội phạm trước và tội phạm
mới không cần thiết phải cùng là một tội được quy định trong cùng một điều
luật còn ở tình tiết phạm tội nhiều lần thì bắt buộc tất cả các hành vi phạm tội
đó đều được quy định tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự tình tiết tái phạm và tái phạm nguy
hiểm có những dấu hiệu đặc trưng đó là dấu hiệu về hình thức lỗi và tính chất
nghiêm trọng của hành vi phạm tội còn tình tiết phạm tội nhiều lần không đặt
ra dấu hiệu này.
Ví dụ: Hồi 14h30’ ngày 29/03/2009, Đội 8 - Phòng cảnh sát điều tra
tội phạm trật tự xã hội bắt quả tang 02 đối tượng Nguyễn Bá Long (có 3 tiền
án) và Phạm Tuấn Anh (có 01 tiền án, 01 tiền sự) đi xe máy Repson, không
biển kiểm soát dừng ở đầu xe ô tô Honda Accord, biển kiểm soát 30N-9601
đang đỗ trước số nhà 29 Hàng Bài. Đối tượng Long ngồi sau xe máy đang
dùng tay cậy mặt gương chiếu hậu của xe ô tô còn Phạm Tuấn Anh là người
lái xe. Tại cơ quan điều tra, đối tượng Long và Tuấn Anh đã khai nhận toàn
bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai nhận trong ngày 29/03/2009
Long cùng Tuấn Anh còn gây ra 2 vụ trộm cắp mặt gương xe ô tô như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 12h Long rủ Tuấn Anh đi trộm cắp mặt gương
xe ô tô để đem bán lấy tiền ăn tiêu. Bọn chúng đi đến đường Kim Liên mới
phát hiện 1 chiếc xe Azuza để bên lề đường, không có người trông giữ. Tuấn
Anh điều khiển xe máy áp sát và đỗ ngay trước đầu xe ô tô, Long ngồi sau
đưa tay cậy mặt gương chiếu hậu bên lái của xe ô tô rồi cả hai tiếp tục đi về
hướng Tây Sơn để trộm cắp tiếp.
Vụ thứ hai: Sau khi thực hiện vụ trộm cắp tài sản nêu trên, Tuấn Anh chở
Long đi đến đường Yên Hòa phát hiện 1 chiếc xe Accord không có người trông
giữ để ven đường. Tuấn Anh liền áp sát đầu xe ô tô và dừng lại để Long cậy mặt
gương xe. Sau đó cả hai đi về ngõ Đê Tô Hoàng. Tại đây Long bán 2 chiếc gương
xe ô tô vừa trộm cắp được cho 1 đối tượng tên là Tùng lấy 1.000.000 đồng.
31
Hành vi trên của Long và Tuấn Anh đã cấu thành tội trộm cắp tài sản
theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Long và Tuấn Anh đều là những
đối tượng đã có tiền án, tiền sự chưa được xóa án tích mà lại phạm phải tội
mới do cố ý là tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó Long và Tuấn Anh đã có 03
lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, lần nào cũng đủ dấu hiệu cấu thành tội
trộm cắp tài sản và chưa lần nào bị đưa ra xét xử. Vì vậy Long và Tuấn Anh
bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng là tái phạm và phạm tội
nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Như vậy, cùng là tội trộm cắp tài sản nhưng Long và Tuấn Anh bị áp dụng hai
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm và phạm tội nhiều lần. Tái
phạm vì phạm tội mới mà chưa được xóa án tích. Phạm tội nhiều lần là vì có
nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp và chưa lần nào bị đưa ra xét xử mặc dù
mỗi lần thực hiện hành vi đã đủ để cấu thành tội trộm cắp tài sản.
1.4. Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐIỀU CHỈNH VỀ MẶT LẬP PHÁP TÌNH TIẾT
PHẠM TỘI NHIỀU LẦN
Phạm tội nhiều lần là một tình tiết cần phải được điều chỉnh về mặt
lập pháp bằng các quy phạm trong một chương độc lập của Bộ luật Hình sự.
Đây là điều cần thiết và quan trọng trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm ở nước ta trong những năm qua đã
cho thấy một cách xác đáng và đảm bảo sức thuyết phục là nếu như trong
pháp luật hình sự không có sự ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng định nghĩa
pháp lý của khái niệm "phạm tội nhiều lân" thì các cơ quan điều tra, truy tố và
xét xử khó đạt được sự thống nhất và đồng bộ trong việc nhận thức khoa học
và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tình tiết này.
Việc ghi nhận những dấu hiệu đặc trưng cơ bản, điển hình và riêng
biệt trong định nghĩa pháp lý của khái niệm phạm tội nhiều lần sẽ thể hiện rõ
32
được tính nguy hiểm cho xã hội của nó và giúp chúng ta hiểu đúng, phân biệt
được bản chất pháp lý của dạng nhiều tội phạm trên.
Bên cạnh đó việc được ghi nhận chính thức với tính chất là các căn cứ
pháp lý cho Tòa án áp dụng có ý nghĩa và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định
của Tòa án, đến quyền và lợi ích thiết thân của chính bản thân người phạm
tội. Theo cấu trúc xây dựng điều luật thì bất kỳ điều luật cụ thể nào trong
Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, nhà làm luật nước ta đều quy định mức
hình phạt tối thiểu và mức hình phạt tối đa tùy theo tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội tương ứng. Đường lối xử lý chung
trong pháp luật nước ta là tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với
những trường hợp phạm tội nhiều lần.
Tóm lại việc điều chỉnh về mặt lập pháp tình tiết phạm tội nhiều lần
có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, góp phần
đồng bộ hóa các quy định của pháp luật về tình tiết này.
33
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
PHẠM TỘI NHIỀU LẦN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 CHO ĐẾN
TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời với chính quyền non trẻ. Chúng ta phải thực hiện ba
nhiệm vụ lớn là tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vì vậy, sau
ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước đã ban hành một
loạt các văn bản pháp luật hình sự để tạo cơ sở cho việc trấn áp tội phạm. Tuy
vậy, trong thời kỳ đầu của chính quyền cho đến những năm 1950 với muôn
vàn khó khăn, thử thách, kinh nghiệm lập pháp chưa có nhiều nên những quy
định của pháp luật hình sự chưa hoàn chỉnh. Thời kỳ này, các chế định của
luật hình sự được thể hiện dưới dạng các Sắc lệnh. Mỗi tội phạm cụ thể lại
được điều chỉnh bằng một Sắc lệnh mà không quy định chung trong một Sắc
lệnh. Nghiên cứu các văn bản quy định trong thời kỳ này có thể thấy tình tiết
phạm tội nhiều lần chưa được đề cập đến.
Tiếp theo, từ những năm 1960 đến năm 1975, Nhà nước ta phải thực
hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, đó là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những
quy định chung trong luật hình sự cũng đã có những bước phát triển để bảo vệ
sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa, chống lại những âm mưu, hành động
phá hoại, làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước, tập thể và công dân, trấn áp kẻ
thù của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời bảo vệ cơ sở vật chất và kỹ thuật, bảo vệ
34
nên kinh tế kế hoạch, chống mọi âm mưu và hành động phản cách mạng, lật
đổ chính quyền nhân dân. Trong thời kỳ này các quy định của pháp luật hình
sự cũng chưa có được sự thống nhất, tập trung mà vẫn quy định ở nhiều văn
bản khác nhau. Nghiên cứu các văn bản quy định trong thời kỳ này, có thể
thấy tình tiết phạm tội nhiều lần cũng chưa được đề cập đến mà pháp luật chỉ
quy định về các tình tiết tăng nặng khác như tái phạm, phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp hoặc phạm tội có tổ chức.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Tuy
vậy, ngay sau khi giải phóng, tạm thời hai miền Nam, Bắc vẫn tồn tại hai hệ
thống pháp luật khác nhau. Ngày 25/04/1976, nhân dân ta tiến hành tổng
tuyển cử bầu ra Quốc hội chung trong cả nước. Ngày 02/07/1976, Quốc Hội
chính thức đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
pháp luật được áp dụng chung cho cả nước. Những năm đầu đất nước thống
nhất, pháp luật hình sự đã bắt đầu đề cập đến tình tiết phạm tội nhiều lần với ý
nghĩa là một trong những trường hợp cần xử lý nghiêm khắc.
Ví dụ: Tại Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ ngày 20/05/1981 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội có quy định: Tội hối lộ bao gồm nhận hối lộ, đưa hối lộ
và môi giới hối lộ. Người nào nhận hối lộ thì bị phạt tù từ 1 năm đến 10 năm.
Người nào đưa hối lộ, môi giới hối lộ thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
Phạm tội trong trường hợp phạm tội nhiều lần thì bị phạt tù đến 15 năm:
Điều 5: Những trường hợp cần xử nặng.
Người nhận hối lộ, đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ trong
những trường hợp sau đây thì bị phạt tù đến 15 năm:
a) Phạm tội hối lộ có tổ chức,
b) Phạm tội hối lộ nhiều lần,
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt để thực hành hối lộ,
d) Của hối lộ có giá trị lớn,
35
đ) Lợi dụng chức vụ cao để nhận hối lộ,
e) Phạm tội hối lộ gây hậu quả nghiêm trọng [43].
Tóm lại, những quy định của pháp luật hình sự về tình tiết phạm tội
nhiều lần trong giai đoạn này chưa được đề cập nhiều và nó chỉ mang tính
chất là một tình tiết tăng nặng hình phạt.
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 cho
đến trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Đáp ứng yêu cầu tăng cường kỷ cương, pháp luật và thực hiện đầy đủ,
toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, ngày 27/06/1985, tại kỳ
họp thứ 9, Quốc hội khóa VII, Quốc hội đã thông qua toàn văn Bộ luật Hình sự,
có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1986 (gọi là Bộ luật Hình sự 1985). Bộ luật Hình
sự năm 1985 ra đời dựa trên cơ sở sự kế thừa và phát triển những thành tựu của
pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đây là bước ngoặt rất quan trọng trong lịch sử pháp luật nước ta. Các quy định
về hình sự đã được tập trung lại thành một bộ luật hoàn chỉnh. Bộ luật Hình
sự năm 1985 được chia làm hai phần: phần chung và phần riêng. Tại phần
chung của Bộ luật Hình sự năm 1985 lần đầu tiên tình tiết phạm tội nhiều lần
chính thức được quy định là một tình tiết tăng nặng chung. Cụ thể như sau:
Điều 39. Những tình tiết tăng nặng.
1- Những tình tiết sau đây mới được coi là tình tiết tăng nặng:
a) Phạm tội có tổ chức; xúi giục người chưa thành niên
phạm tội;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc
những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
c) Phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác trong khi phạm tội hoặc
thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
36
đ) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người
ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc
mình về vật chất, công tác hay các mặt khác;
e) Phạm tội vì động cơ đê hèn; cố tình thực hiện tội phạm
đến cùng;
g) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng;
h) Phạm tội nhiều lần; tái phạm; tái phạm nguy hiểm;
i) Sau khi phạm tội, đã có những hành động xảo quyệt, hung
hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm [28].
Tại Phần riêng của Bộ luật tình tiết phạm tội nhiều lần được xét đến
như là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng trong một số tội phạm khác
nhau được quy định tại các điều tương ứng trong bộ luật. Cụ thể:
1) Khoản 2 Điều 88: Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước
ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép.
2) Điểm đ khoản 2 Điều 97: Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
3) Khoản 2 Điều 170: Tội lừa dối khách hàng.
4) Điểm đ khoản 2 Điều 226: Tội nhận hối lộ.
5) Điểm đ khoản 2 Điều 227: Tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ.
6) Điểm c khoản 2 Điều 272: Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm.
Trong khoảng 15 năm tồn tại, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã được sửa
đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Qua bốn lần sửa đổi,
bổ sung có trên 100 lượt điều luật được sửa đổi hoặc bổ sung. Với những sửa
đổi, bổ sung này luật hình sự đã có sự phát triển đáp ứng được phần nào đòi hỏi
của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện đổi mới. Tại Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985 ngày 10/05/1997,
37
quy định phạm tội nhiều lần là tình tiết định khung hình phạt cao ở các tội
phạm cụ thể đã được tăng lên rất nhiều so với Bộ luật Hình sự năm 1985 (từ 6
tội lên đến 28 tội). Cụ thể các tội nói sau được bổ sung thêm tình tiết tăng
nặng định khung phạm tội nhiều lần:
1) Tội Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa
2) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội
chủ nghĩa
3) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội
chủ nghĩa
4) Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân
5) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
6) Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
7) Tội giả mạo trong công tác
8) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để
trục lợi
9) Tội sản xuất trái phép chất ma túy
10) Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
11) Tội vận chuyển trái phép chất ma túy
12) Tội mua bán trái phép chất ma túy
13) Tội chiếm đoạt chất ma túy
14) Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
15) Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng
cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy
16) Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
38
17) Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy
18) Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy
19) Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc
các chất ma túy khác
20) Tội hiếp dâm trẻ em
21) Tội cưỡng dâm người chưa thành niên
22) Tội giao cấu với trẻ em
23) Tội chứa mãi dâm, tội môi giới mãi dâm
24) Tội mua dâm người chưa thành niên
25) Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa
26) Tội hiếp dâm
27) Tội cưỡng dâm
28) Tội dâm ô đối với trẻ em
Bên cạnh đó về mặt thực tiễn, lần đầu tiên tình tiết phạm tội nhiều lần
đã được các cơ quan chức năng hướng dẫn áp dụng tại Thông tư liên tịch số
01/1998/TTLT ngày 02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm
1985. Thông tư đã đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần đối với riêng một số
tội phạm có tính chất tham nhũng và tình dục được đề cập trong Bộ luật
Hình sự.
Như vậy, tình tiết phạm tội nhiều lần đã được chính thức ghi nhận là
một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung hoặc là một tình tiết định
khung hình phạt tăng nặng trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Việc
ghi nhận nói trên đồng thời cũng là một căn cứ pháp lý quan trọng cho việc
tòa án xem xét trong vấn đề quyết định khung và mức hình phạt.
39
2.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN
2.2.1. Những quy định của Phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999
về phạm tội nhiều lần
Kế thừa những quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình
sự năm 1999 quy định tình tiết phạm tội nhiều lần là một trong các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm g khoản 1 Điều 48):
1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Phạm tội có tính chất côn đồ;
đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
g) Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm;
h) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người
ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc
mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
i) Xâm phạm tài sản của Nhà nước;
k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên
tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để
phạm tội;
40
m) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn,
phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
n) Xúi giục người chưa thành niên phạm tội;
o) Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che
giấu tội phạm.
2. Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình
phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng [30].
Tình tiết phạm tội nhiều lần dưới góc độ là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa trách nhiệm
hình sự và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn
trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này.
Một mức hình phạt cụ thể là ba năm, bảy năm, mười lăm năm, hai mươi năm,
thậm chí là sự lựa chọn giữa hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình một
phần phụ thuộc vào việc người phạm tội có hay không có tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, có một hay nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự,
để từ đó Tòa án quyết định quyền sống hay chết của người phạm tội. Do đó,
tình tiết phạm tội nhiều lần nhìn từ góc độ này có ý nghĩa và ảnh hưởng trực
tiếp đến quyết định của Tòa án, đến quyền và lợi ích thiết thân của chính bản
thân người phạm tội.
Tuy nhiên, trong một vụ án hình sự có thể có một tội phạm hoặc nhiều
tội phạm, một người phạm tội hoặc nhiều người phạm tội, nên việc xác định
tình tiết định tội và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ trong phạm vi
một tội phạm cụ thể mà không được sử dụng tình tiết định tội của tội phạm
này làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội phạm khác cũng như
tình tiết tăng nặng của người phạm tội này làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự cho người phạm tội khác vì "những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc
định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng".
41
2.2.2. Những quy định của Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự
năm 1999 về phạm tội nhiều lần
Theo quy định tại Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 1999, tình
tiết phạm tội nhiều lần được quy định là tình tiết định khung hình phạt trong
rất nhiều tội phạm quy định tại các điều của các chương khác nhau. Tổng số
điều luật có tình tiết định khung hình phạt tăng nặng phạm tội nhiều lần tại Bộ
luật Hình sự năm 1999 là 48 điều. Cụ thể:
1) Điểm c khoản 1 Điều 104: Tội cố ý gây thương tích
2) Điểm d khoản 2 Điều 111: Tội hiếp dâm
3) Điểm c khoản 3 Điều 112: Tội hiếp dâm trẻ em
4) Điểm b khoản 2 Điều 113: Tội cưỡng dâm
5) Điểm b khoản 3 Điều 114: Tội cưỡng dâm trẻ em
6) Điểm a khoản 3 Điều 115: Tội giao cấu với trẻ em
7) Điểm a khoản 2 Điều 116: Tội dâm ô với trẻ em
8) Điểm e khoản 2 Điều 119: Tội mua bán phụ nữ (nay đổi là Tội mua
bán người)
9) Điểm b khoản 2 Điều 121: Tội làm nhục người khác
10) Điểm b khoản 2 Điều 123: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
11) Điểm c khoản 2 Điều 125: Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư
tín, điện thoại, điện tín của người khác
12) Điểm b khoản 2 Điều 131: Tội xâm phạm quyền tác giả
13) Điểm a khoản 2 Điều 142: Tội sử dụng trái phép tài sản
14) Điểm k khoản 2 Điều 153: Tội buôn lậu
15) Điểm đ khoản 2 Điều 154: Tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới
42
16) Khoản 2 Điều 162: Tội lừa dối khách hàng
17) Điểm b khoản Điều 169: Tội cố ý làm trái quy định về phân phối
tiền, hàng cứu trợ
18) Điểm b khoản 2 Điều 170: Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
19) Điểm b khoản 2 Điều 171: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
20) Điểm b khoản 2 Điều 173: Tội vi phạm các quy định về sử dụng
đất đai
21) Điểm b khoản 2 Điều 176: Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng
22) Điểm b khoản 2 Điều 193: Tội sản xuất trái phép chất ma túy
23) Điểm b khoản 2 Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
24) Điểm b khoản 2 Điều 195: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
25) Điểm b khoản 2 Điều 196: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán các
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy
26) Điểm a khoản 2 Điều 197: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
27) Điểm b khoản 2 Điều 198: Tội chứa chấp sử dụng trái phép chất
ma túy
28) Điểm b khoản 2 Điều 200: Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử
dụng trái phép chất ma túy
29) Điểm b khoản 2 Điều 201: Tội vi phạm quy định về quản lý sử
dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác
30) Điểm a khoản 2 Điều 228: Tội vi phạm quy định về sử dụng lao
động trẻ em
43
31) Điểm c khoản 2 Điều 251: Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có (nay gọi là Tội rửa tiền)
32) Điểm c khoản 2 Điều 254: Tội chứa mại dâm
33) Điểm d khoản 2 Điều 255: Tội môi giới mại dâm
34) Điểm a khoản 2 Điều 256: Tội mua dâm người chưa thành niên
35) Điểm b khoản 2 Điều 257: Tội chống người thi hành công vụ
36) Điểm b khoản 2 Điều 266: Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận
và các tài liệu của cơ quan, tổ chức
37) Điểm b khoản 2 Điều 267: Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ
quan, tổ chức
38) Khoản 2 Điều 275: Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước
ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép
39) Điểm c khoản 2 Điều 278: Tội tham ô tài sản
40) Điểm c khoản 2 Điều 279: Tội nhận hối lộ
41) Điểm c khoản 2 Điều 280: Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản
42) Điểm b khoản 2 Điều 281: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ
43) Điểm b khoản 2 Điều 282: Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ
44) Điểm b khoản 2 Điều 283: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây
ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
45) Điểm c khoản 2 Điều 284: Tội giả mạo trong công tác
46) Điểm d khoản 2 Điều 289: Tội đưa hối lộ
47) Điểm d khoản 2 Điều 290: Tội làm môi giới hối lộ
48) Điểm a khoản 2 Điều 291: Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người
có chức vụ quyền hạn để trục lợi
44
Như vậy, so với Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999
đã bổ sung thêm nhiều tội mới với tình tiết định khung tăng nặng phạm tội
nhiều lần như: Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, tội lợi dụng
ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi, tội vi phạm quy
định về sử dụng lao động trẻ em, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tội
vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp…
Về mặt thực tiễn, việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần vào các
trường hợp cụ thể không phải giống nhau mà tùy theo các tội phạm khác nhau
thì nội dung hướng dẫn lại khác nhau.
Tại điểm 3.3 khoản 3 Mục I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/04/2003 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự hướng dẫn xem xét trách nhiệm
hình sự của người có hành vi phạm tội nhiều lần làm tiền giả như sau:
Đối với người nhiều lần làm hoặc tàng trữ hoặc vận chuyển
hoặc lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả thì cần phải lấy
tổng số lượng tiền giả của tất cả các lần phạm tội cộng lại để xem
xét trách nhiệm hình sự đối với họ; nếu trong các lần phạm tội đó
có trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì
không xem xét trách nhiệm hình sự đối với trường hợp đó (không
cộng số lượng tiền giả của lần phạm tội đó); nếu có hai lần phạm tội
làm hoặc tàng trữ hoặc vận chuyển hoặc lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả trở lên thì ngoài việc cộng số lượng tiền giả
của các lần phạm tội để xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ,
còn phải áp dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định
tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự [35].
Tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng
thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Hình sự đã hướng dẫn việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần đối
với tội cố ý gây thương tích, tội chứa mại dâm, tội đánh bạc.
45
Điểm c khoản 1 Điều 104 (Tội cố ý gây thương tích) Bộ luật Hình sự
năm 1999: "phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều
người" được hướng dẫn áp dụng như sau:
"Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với
nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của Bộ luật
Hình sự được hiểu là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của một người từ hai lần trở lên hoặc của hai
người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người)
và trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ
luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu xử lý
hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự [37].
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 15/06/2005 của Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các trường hợp
xét xử bị cáo theo các khoản khác nhau của Điều 104. Cụ thể:
Tại mục b điểm 3.2 áp dụng đối với xét xử bị cáo với tình tiết tăng
nặng phạm tội nhiều lần theo khoản 1 Điều 104:
b. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với cùng
một người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
Điều 104 của Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều
104 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây:
b.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
một người từ hai lần trở lên mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%,
nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả lần từ 11% trở lên. Trường
hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến
30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo
cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự.
b.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi
46
người) mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ
thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên. Trường hợp trong các
lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%,
còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ
bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự [36].
Tại điểm c mục 3.2 áp dụng đối với xét xử bị cáo với tình tiết tăng
nặng phạm tội nhiều lần theo khoản 2 Điều 104:
c. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với cùng
một người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
Điều 104 của Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều
104 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây:
c.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ
11% đến 30%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều
dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của
Bộ luật Hình sự.
c.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi
người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có
một người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần
khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chị bị xét xử
theo khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự [36].
Tại điểm d - mục 3.2 áp dụng đối với xét xử bị cáo với tình tiết tăng
nặng phạm tội nhiều lần theo khoản 3 Điều 104:
d. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với cùng
một người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
47
Điều 104 của Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều
104 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây:
d.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ
31% đến 60%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều
dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của
Bộ luật Hình sự.
d.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi
người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có
một người một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác
tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo
khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự [36].
Đối với tội chứa mại dâm, việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần
được hướng dẫn như sau: (mục 4)
4.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần" đối với người
chứa mại dâm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại
các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác
nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không
phân biệt thời gian dài hay ngắn);
b. Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với
nhau trong cùng một khoảng thời gian;
c. Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở
lên trong các khoảng thời gian khác nhau.
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sựĐề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
Luận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAYLuận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
Luận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT

Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...HanaTiti
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luậtLuận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đLuận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOT
Tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOTTội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOT
Tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt tài sản, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
 
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
 
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOTDấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOTLuận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật, HOT
 
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật hình ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ BẢO TÂM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ BẢO TÂM MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm HÀ NỘI - 2012
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n b¶o ®¶m ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ B¶o T©m
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1. Một số vấn đề về chế định đa tội phạm 8 1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần 10 1.2.1. Khái niệm của tình tiết phạm tội nhiều lần 10 1.2.2. Đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần 12 1.3. Phân biệt phạm tội nhiều lần với một số tình tiết khác có liên quan (gần) trong pháp luật hình sự 15 1.3.1. Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội 15 1.3.2. Phạm tội nhiều lần và tội liên tục 18 1.3.3. Phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 20 1.3.4. Phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm 23 1.4. Ý nghĩa của việc điều chỉnh về mặt lập pháp tình tiết phạm tội nhiều lần 25 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 27 2.1. Những quy định của pháp luật hình sự việt nam về phạm tội nhiều lần từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 27
  • 5. 5 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 27 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 cho đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 29 2.2. Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về phạm tội nhiều lần 33 2.2.1. Những quy định của Phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999 về phạm tội nhiều lần 33 2.2.2. Những quy định của Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 1999 về phạm tội nhiều lần 35 2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội nhiều lần 43 Chương 3: NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN CỦA VIỆC TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TÌNH TIẾT "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN" 57 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội nhiều lần 57 3.2. Nội dung hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội nhiều lần 72 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
  • 6. 6 Danh môc c¸c b¶ng Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Thống kê số liệu một số tội danh các đối tượng phạm tội thường bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần từ năm 2007 đến năm 2011 44
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phạm tội nhiều lần là một tình tiết thuộc chế định đa tội phạm. Tuy nhiên tình tiết này vẫn chưa được quy định một cách cụ thể trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999. Trong Bộ luật nó được coi là một tình tiết "tăng nặng trách nhiệm hình sự" hay có thể là một tình tiết "định khung tăng nặng". Trong các vụ án hình sự đối tượng phạm tội nhiều lần chiếm tỉ lệ rất lớn. Về mặt pháp lý, phạm tội nhiều lần chưa được các nhà làm luật định nghĩa một cách chính thức mà ở mỗi một tội danh cụ thể lại có một quy định riêng. Ví dụ: tại Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC- BNV ngày 2-01-1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự thì: Tình tiết "Phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 133, khoản 2 Điều 134a... (đối với một số tội phạm có tính chất tham nhũng và tội phạm liên quan đến tình dục) được hiểu là đã có tất cả từ hai lần phạm tội đó trở lên (hai lần phạm tội tham ô trở lên, hai lần phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa trở lên...) mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [22]. Về mặt lý luận, dưới góc độ khoa học luật hình sự các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm này như sau: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử. Đối với những trường hợp phạm từ hai tội trở lên mà
  • 8. 8 những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau của Bộ luật này, chỉ khi nào do các điều tương ứng trong phần các tội phạm Bộ luật này quy định riêng mới bị coi hoặc có thể bị coi là phạm tội nhiều lần. Hay có thể được hiểu là: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm, bốn lần tham ô... và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng một bản án...; Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội, xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét xử... [26]. Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy tình tiết phạm tội nhiều lần bao gồm năm nội dung sau: (1) Phạm tội nhiều lần là người phạm tội đã thực hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc nhiều đối tượng khác nhau (ví dụ: phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối đối với nhiều người - điểm c khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự, nhiều lần trộm cắp, nhiều lần hiếp dâm...). (2) Nếu tách ra từng hành vi phạm tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc lập. (3) Tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự (cùng là tội trộm cắp, hiếp dâm...), có thể cùng một khoản, có thể phạm tội ở các khoản khác nhau của cùng một điều luật. (4) Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án...) và cùng bị đưa ra xét xử một lần trong cùng một vụ án (được tuyên trong một bản án). (5) Nếu điều luật có quy định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại [22]. Như vậy, có thể thấy việc hiểu về tình tiết phạm tội nhiều lần khá phức tạp. Mặt khác để hiểu đúng về tình tiết phạm tội nhiều lần chúng ta cần
  • 9. 9 phải phân biệt nó với các tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm: phạm nhiều tội, tội liên tục, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Đây là những tình tiết có nhiều dấu hiệu giống nhau, nếu không phân biệt được sẽ dẫn đến việc hiểu sai và áp dụng sai. Từ những lý do trên đây chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. T×nh h×nh nghiªn cøu Phạm tội nhiều lần là một tình tiết được đề cập đến trong luật hình sự Việt Nam với yếu tố là tình tiết tăng nặng định khung của rất nhiều loại tội và là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết này đã được đề cập đến trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và tiếp tục được kế thừa trong Bộ luật Hình sự 1999. Vấn đề này cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác nhau biên soạn như: 1) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do TSKH.PGS. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003 (tái bản); 2) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; 3) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1995; 5) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần chung), Tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; 6) Chế định nhiều tội phạm - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tác giả TS. Lê Văn Đệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 v.v... Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam đã dành không ít công sức cho việc nghiên cứu về đề tài này, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của TSKH.PGS. Lê Cảm: 1) Chế định đa tội phạm trong Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
  • 10. 10 (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) Chế định đa (nhiều) tội phạm và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2001; 3) Lê Cảm, Trịnh Quốc Toản, Định tội danh: lý luận hướng dẫn mẫu và 350 bài thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; 4) Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Tập IV, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002. Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như: 1) Bàn về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Phạm tội nhiều lần" quy định trong Luật Hình sự Việt Nam, của ThS. Lê Văn Luật (Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2006; 2) Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong giải quyết hình phạt - tồn tại và giải pháp, của Vũ Hồng Thiêm (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5/2008); 3) Về việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần, phạm tội đối với nhiều người trong một số tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 1999, của Nguyễn Hải Dũng (Tạp chí Kiểm sát, số 2/2005; 4) Áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết tăng nặng phạm tội có tổ chức và phạm tội nhiều lần, của Vũ Thành Long (Tạp chí Kiểm sát, số 21/2006); 5) Bàn về phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, của Đỗ Thanh Huyền (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2007); 6) Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 1999, của Dương Tuyết Miên (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2003); 7) Cần hiểu chính xác về tình tiết tăng nặng chung và tình tiết tăng nặng định khung trong Bộ luật Hình sự, của Trinh Đình Thể (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/1998); 8) Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, của Đinh Văn Quế (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2010); 9) Những hạn chế trong các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và hướng khắc phục, của Hồ Sĩ Sơn (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16/2008); 10) Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, của Mai Bộ (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1999) v.v...
  • 11. 11 Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề phạm tội nhiều lần nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó hoặc chừng mực xem xét qua các trường hợp phạm tội cụ thể hay kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn đề phạm tội nhiều lần vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề phạm tội nhiều lần cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm tội nhiều lần là một vấn đề tương đối hẹp và phức tạp. Nghiên cứu về vấn đề này đã có nhiều nghiên cứu chung mà ít có nghiên cứu chuyên sâu. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết một số vấn đề cơ bản xung quanh vấn đề phạm tội nhiều lần như: 1) Khái niệm và đặc điểm của phạm tội nhiều lần; 2) Phân biệt phạm tội nhiều lần và một số tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm như phạm nhiều tội, phạm tội liên tục, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; 3) Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về "Phạm tội nhiều lần". Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của phạm tội nhiều lần, luận văn đi sâu nghiên cứu tình tiết này trên phương diện lập pháp và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn xét xử để từ đó đưa ra các kiến nghị. 4. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của nó là vấn đề phạm tội nhiều lần trong luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở này, mục đính nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam. Đồng thời luận văn còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về phạm tội nhiều lần để từ đó, đưa ra những kiến nghị để việc áp dụng được thống nhất, tránh tình trạng hiểu sai về tình tiết này.
  • 12. 12 5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Để hoàn thành khóa luận, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu bản án điển hình... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề đã được nêu ra trong luận văn. Cụ thể đó là: - Phương pháp phân tích: Luận văn đã phân tích chi tiết các vấn đề có liên quan đến vấn đề phạm tội nhiều lần, từ đó có thể đánh giá được thực tiễn áp dụng. Các nội dung cần phân tích bao gồm: Phân tích các vấn đề lý luận về phạm tội nhiều lần, phân tích các thông số về tình hình phạm tội, người phạm tội, phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về phạm tội nhiều lần... - Phương pháp so sánh: Là việc so sánh các vấn đề có liên quan đến vấn đề phạm tội nhiều lần, từ đó có thể rút ra các kết luận mang tính đánh giá. Các nội dung so sánh bao gồm: so sánh giữa phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội; phạm tội liên tục; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm; tái phạm nguy hiểm. - Phương pháp tổng hợp: Đó là việc khái quát hóa toàn bộ các nhận định độc lập sau khi phân tích, so sánh từng nội dung, từng tiêu chí cụ thể. Phương pháp tổng hợp giúp cho quá trình đánh giá tránh khỏi sự phân tán, rời rạc và thiếu trọng tâm. Các nội dung tổng hợp được đặt trong một hệ thống cấu trúc có mối liên hệ qua lại, trong đó xác định những nội dung cơ bản chi phối nhận định chung. - Nghiên cứu các vụ án điển hình: Đây là một phương pháp nghiên cứu quan trọng của luận văn. Đó là những thực tiễn để chứng minh và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận mà tác giả đã đưa ra. 6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của luận văn Cơ sở khoa học của luận văn là các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về phạm tội nhiều lần và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự
  • 13. 13 năm 1999, cũng như các công trình khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề này. Bên cạnh đó, cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn áp dụng các quy định về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam và qua nghiên cứu các bản án của Tòa án nhân dân các cấp, những vụ án hình sự do cơ quan công an điều tra, khởi tố để rút ra những nhận xét, đánh giá. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm của vấn đề phạm tội nhiều lần, bản chất pháp lý của nó. Đồng thời trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng để đưa ra các kiến nghị phù hợp. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội hiện nay ở nước ta. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về "Phạm tội nhiều lần" trong pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về "Phạm tội nhiều lần" và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Những phương hướng cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về "Phạm tội nhiều lần".
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHẾ ĐỊNH ĐA TỘI PHẠM Phạm tội nhiều lần là một trong các dạng của chế định đa tội phạm. Do đó trước khi tìm hiểu về chế định này, chúng ta cần hiểu về chế định đa tội phạm. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam khi nghiên cứu về chế định đa tội phạm giữa các nhà nghiên cứu tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có thể kể đến một số quan điểm khác nhau như sau: Quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh: Chế định đa tội phạm là một chế định của luật hình sự cần bao hàm tất cả những trường hợp khi một người thực hiện một số tội phạm với điều kiện nếu như đối với các tội này người đó vẫn chưa hết án tích hoặc thời hiệu truy tố về hình sự. Quan điểm khác với quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh là quan điểm của PGS.TS Lê Văn Đệ: "Nhiều tội phạm là trường hợp một người phạm từ hai tội trở lên, không phụ thuộc vào việc người đó đã bị xét xử về các tội đã phạm hay chưa; các tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và không có những trở ngại về mặt tố tụng hình sự để khởi tố vụ án hình sự" [14]. Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm: Nhiều (đa) tội phạm là một chế định độc lập của luật hình sự Việt Nam bao gồm bốn dạng (trường hợp): (1) phạm tội nhiều lần; (2) phạm nhiều tội; (3) tái phạm; (4) phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà trong những điều kiện như nhau nếu so sánh với tội đơn nhất thì các dạng này thường cho thấy tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn của tội phạm được thực hiện, cũng như của nhân thân người phạm tội [7, tr 388-389].
  • 15. 15 Như vậy, theo định nghĩa nói trên thì GS.TSKH Lê Văn Cảm đã nêu rõ các dạng của chế định nhiều (đa) tội phạm. Theo đó, nhiều tội phạm không chỉ là trường hợp một người phạm từ hai tội trở lên và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử (phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội) mà còn bao gồm cả trường hợp phạm từ hai tội trở lên và có thể đã bị đưa ra xét xử (tái phạm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp). Nếu so sánh đặc điểm của bốn dạng tội phạm nói trên thì có thể thấy chúng có một đặc điểm chung là người phạm tội phạm từ hai tội trở lên và vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên ở mỗi dạng lại nổi bật lên một điểm khác biệt để phân biệt giữa các dạng tội phạm khác nhau. Ở dạng phạm tội nhiều lần đặc điểm nổi bật là: phạm từ hai tội trở lên và những tội ấy được quy định tại cùng một điều và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử. Ở dạng phạm nhiều tội thì người phạm tội cũng phạm từ hai tội trở lên, những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau và người phạm tội cũng chưa bị đưa ra xét xử về tội nào trong số những tội ấy. Ở dạng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì người phạm tội phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục, có hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập, nguồn sống chủ yếu của người phạm tội, người phạm tội có thể bị đưa ra xét xử ở các lần khác nhau. Ở dạng tái phạm đặc điểm khác biệt của nó là ở chỗ người phạm tội trước đó đã bị kết án về bất kỳ tội phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Có thể nói khi nghiên cứu về chế định nhiều (đa) tội phạm ta có thể thấy được tính phức tạp cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và những thiệt hại do hành vi này gây ra thường là nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội nhiều lần chính là một trong các dạng tội phạm có tính chất như vậy.
  • 16. 16 1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TÌNH TIẾT PHẠM TỘI NHIỀU LẦN 1.2.1. Khái niệm của tình tiết phạm tội nhiều lần Về mặt lập pháp: phạm tội nhiều lần với tính chất là một dạng của chế định đa tội phạm từ trước đến nay vẫn chưa nhận được sự điều chỉnh chính thức bằng một quy phạm riêng biệt nào mà mới chỉ được quy định với tính chất là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm cụ thể và là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Về mặt thực tiễn, lần đầu tiên bằng giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo trong Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT ngày 02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985 đã đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần đối với riêng một số tội phạm có tính chất tham nhũng và tình dục được đề cập trong Luật đã nêu mà theo đó, khái niệm phạm tội nhiều lần đối với một tội nào đó trong số các tội phạm có tính chất tham nhũng được thực tiễn xét xử của nước ta hiểu là: Bị cáo đã phạm tội ấy từ hai lần trở lên mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1) trong điều luật tương ứng và người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình dự và tội ấy cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [7, tr. 391]. Cụ thể như sau: Đối với tội phạm về ma túy: Tại điểm b khoản 3 Phần II quy định: Tình tiết "phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 185b, khoản 2 Điều 185c, khoản 2 điều 185d, khoản 2 Điều 185e, khoản 2 Điều 185g, khoản 2 Điều 185h, khoản 2 Điều 185i, khoản 2 Điều 185k, khoản 2 Điều 185m, khoản 2 Điều 185n được hiểu là đã có tất cả từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép chất ma túy trở lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên…) mà mỗi
  • 17. 17 lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy định tại khoản 1 Điều luật tương ứng; đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu Điều luật có quy định về số lượng chất ma túy được định khung hình phạt. Người nào tổ chức, cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng chất ma túy từ hai lần trở lên dù chỉ đối với một người cũng được coi là phạm tội nhiều lần. Đối với tội phạm hiếp dâm, cưỡng dâm: Tại điểm c khoản 1 Phần III: Tình tiết "phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 3 Điều 112a, khoản 3 Điều 113a, khoản 2 Điều 114, khoản 2 Điều 201, khoản 2 Điều 137 được hiểu là đã có tất cả từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần hiếp dâm trở lên, hai lần cưỡng dâm trở lên…) và mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy định tại khoản 1 Điều luật tương ứng, đồng thời trong các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cũng được coi là phạm tội nhiều lần người nào hiếp dâm, cưỡng dâm giao cấu… từ hai lần trở lên đối với một người. Về mặt lý luận: Dưới góc độ khoa học luật hình sự chúng ta thấy có hai quan điểm về khái niệm phạm tội nhiều lần. Một là: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử [7]. Hai là: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm, bốn lần tham ô… và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội
  • 18. 18 phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng một bản án. Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội, xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét xử…[26]. 1.2.2. Đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần Từ khái niệm nói trên tình tiết phạm tội nhiều lần có những đặc điểm cơ bản như sau: Đặc điểm thứ nhất: Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Có thể hiểu hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đe dọa xâm phạm hoặc xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Đặc điểm thứ hai: Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện bao giờ cũng phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm bao gồm bốn yếu tố: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Đây là một đặc điểm quan trọng để xác định có phải người phạm tội đã thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm hay không. Nếu hành vi không có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập thì không thể xác định được đó là tình tiết phạm tội nhiều lần. Đặc điểm thứ ba: Tội phạm do một điều hoặc một khoản của điều tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự quy định. Đây là một đặc điểm đặc trưng của tình tiết phạm tội nhiều lần và dùng để phân biệt với tình tiết phạm nhiều tội. Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mỗi lần thực hiện hành vi phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập và tội phạm đó do cùng một điều hoặc một khoản tương ứng quy định tại Bộ luật Hình sự.
  • 19. 19 Đặc điểm thứ tư: Tội phạm này vẫn phải còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 1999. Nếu hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Do đó, hành vi nói trên không bị tính là một lần phạm tội. Đặc điểm "người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần" có nghĩa là các hành vi phạm tội trước đó chưa bị đưa ra xét xử lần nào. Đây là một đặc điểm để phân biệt giữa tình tiết phạm tội nhiều lần và tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Như vậy, đây là bốn đặc điểm cần và đủ để có thể đánh giá thế nào là phạm tội nhiều lần. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm hay còn gọi là dấu hiệu nói trên thì khó có thể coi đó là tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần. Để phân tích rõ hơn bốn đặc điểm nêu trên của tình tiết phạm tội nhiều lần, chúng ta cùng nghiên cứu một ví dụ thực tế như sau: Ngày 28/09/2010 Nguyễn Văn Thêm (chưa có tiền án, tiền sự) sang nhà cháu Trần Thị H sinh ngày 04/08/1996, trú quán: Thôn Cựu, xã Vân Từ, Phú Xuyên, Hà Nội (gọi Thêm là ông trẻ ở gần nhà), Nguyễn Văn Thêm có hành vi sờ ngực, bộ phận sinh dục của cháu Trần Thị H sau đó định giao cấu với cháu H thì bị anh Trần Thế Hưng (bố cháu H) trên gác chạy xuống cầm đòn gánh đuổi đánh và hô hoán mọi người đến bắt quả tang Nguyễn Văn Thêm. Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn Thêm khai nhận: Khoảng tháng 05/2009 nhà cháu H đang sửa chữa công trình phụ nên H thường mang bát đĩa sang nhà Thêm rửa nhờ. Thêm thấy cháu H phát triển sớm nên Thêm đã nhiều lần có hành vi dùng tay sờ ngực cháu H và nảy sinh ý muốn giao cấu với cháu H. Một hôm cháu H sang nhà Thêm chơi thấy không có ai ở nhà nên cháu đã lấy chiếc điện thoại di động Trung Quốc màu đen của Thêm mang về nhà. Sau đó Thêm phát hiện ra cháu H lấy chiếc điện thoại nên đã nhắn cháu H phải đem
  • 20. 20 điện thoại sang trả nếu không sẽ nói cho bố mẹ biết. Ngày hôm sau cháu H sang nhà Thêm để nói chuyện với Thêm về chiếc điện thoại H đã lấy của Thêm, lúc này không có ai ở nhà. Thêm bảo cho cháu H chiếc điện thoại đó rồi Thêm ôm cháu H, sờ bộ phận sinh dục của cháu H, cháu H không đồng ý, Thêm dọa sẽ mách bố mẹ cháu về việc cháu H lấy chiếc điện thoại, sau đó Thêm Thêm cởi quần của cháu H và thực hiện hành vi giao cấu. Thêm còn khai từ tháng 05/2009 đến đầu năm 2010 Thêm đã nhiều lần giao cấu với cháu H ở tại nhà Thêm và có lần ở nhà cháu H, cứ khoảng một tuần, 1 đến 2 lần thêm lại giao cấu với cháu H nhưng không cho vào sâu vì cháu H kêu đau và xuất tinh ra ngoài. Trong suốt thời gian quan hệ với cháu H, Thêm đã mua chuộc cháu H bằng cách thỉnh thoảng cho tiền và mua điện thoại di động cho cháu H, khi cháu H không muốn tiếp tục giao cấu thì Thêm dọa sẽ nhắn tin cho các bạn của H biết. Vì vậy cháu H sợ buộc phải cho Thêm tiếp tục hành vi giao cấu. Vào ngày 28/09/2010 Thêm thấy cháu H chỉ có một mình ở nhà liền đi vào ôm lấy cháu H và định thực hiện hành vi giao cấu thì bất ngờ bố cháu H ở trên gác chạy xuống cầm đòn gánh đuổi đánh và hô mọi người đến bắt quả tang. Tại bản giám định số 2480 ngày 26/10/2010 của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an kết luận: Trên cơ thể của cháu H không có dấu vết thương tích, màng trinh không bị rách. Sức khỏe của cháu H hiện bình thường. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử Nguyễn Văn Thêm phạm tội "Hiếp dâm trẻ em". Áp dụng khoản 4 Điều 112, điểm g khoản 1 Điều 48 (phạm tội nhiều lần) của Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt Nguyễn Văn Thêm 15 năm tù. Phân tích vụ án nói trên ta thấy được rõ bốn đặc điểm của tình tiết phạm tội nhiều lần là: - Nguyễn Văn Thêm đã thực hiện từ hai lần trở lên hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đó là hành vi xâm hại đến quyền tự do và bất
  • 21. 21 khả xâm phạm về tình dục trẻ em (cháu H chưa đủ 13 tuổi), xâm phạm đến quá trình phát triển bình thường, sức khỏe và tinh thần của trẻ em. - Hành vi nói trên của Thêm được thực hiện nhiều lần và mỗi lần đều có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập bao gồm 04 yếu tố là khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan). Thêm đã xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là quyền tự do và bất khả xâm phạm về tình dục trẻ em, sức khỏe và tinh thần của trẻ em (khách thể). Nguyễn Văn Thêm đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự (chủ thể). Hành vi của Thêm đã gây ra hậu quả là ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của cháu H cả về sức khỏe lẫn tinh thần (mặt khách quan). Thêm thực hiện hành vi hoàn toàn với lỗi cố ý trực tiếp. Tức là Thêm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (mặt chủ quan). - Những lần phạm tội nói trên của Nguyễn Văn Thêm do Điều 112 Bộ luật Hình sự (Tội hiếp dâm trẻ em) quy định. - Và Nguyễn Văn Thêm chưa bị đưa ra xét xử lần nào. Tóm lại, nghiên cứu về những đặc điểm nói trên là để giúp chúng ta phân biệt giữa tình tiết phạm tội nhiều lần với các tình tiết tương đồng khác để tránh nhầm lẫn khi áp dụng trên thực tiễn. 1.3. PHÂN BIỆT PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VỚI MỘT SỐ TÌNH TIẾT KHÁC CÓ LIÊN QUAN (GẦN) TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1.3.1. Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội Cũng như tình tiết phạm tội nhiều lần, tình tiết phạm nhiều tội chưa nhận được sự điều chỉnh chính thức bằng một quy phạm riêng biệt nào trong pháp luật hình sự Việt Nam. Thuật ngữ "phạm nhiều tội" chỉ được đề cập đến trong tên gọi của một điều luật "Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội" (Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1985 trước đây và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999 hiện hành).
  • 22. 22 Vì vậy, để phân biệt hai tình tiết này chúng ta có thể dựa vào các khái niệm, các đặc điểm của nó dưới góc độ khoa học luật hình sự. Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử. Phạm nhiều tội là phạm tội từ hai lần trở lên hoặc khi hành vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy [7, tr. 396]. Từ hai khái niệm nói trên, có thể thấy đặc điểm duy nhất để phân biệt hai tình tiết này là: số lần phạm tội từ hai lần trở lên nhưng ở tình tiết phạm tội nhiều lần thì những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, còn ở tình tiết phạm nhiều tội thì những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong Phần riêng của Bộ luật Hình sự. Ví dụ: Khoảng 11 giờ ngày 27/10/2010, Nguyễn Quang Huy (không có tiền án, tiền sự) đi xe máy Nouvo màu đen, không đeo biển kiểm soát trên đường Thái Hà - Huỳnh Thúc Kháng tìm người có tài sản để cướp giật. Khoảng 12 giờ, Huy phát hiện chị Trần Thu Hoài, sinh năm 1970, trú tại Phòng 401 nhà 24T1 Trung Hòa, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội ngồi sau xe máy ôm theo một túi xách để trước bụng. Huy liền bám theo để giật túi xách của chị Hoài. Khi chị Hoài đi đến ngã tư Huỳnh Thúc Kháng với đường Nguyên Hồng thì Huy áp sát bên phải xe của chị Hoài, dùng tay trái giật lấy
  • 23. 23 chiếc túi xách của chị Hoài rồi nhanh chóng tẩu thoát. Sau đó, Huy lục túi xách thấy có 12 triệu đồng, một số giấy tờ mang tên chị Hoài và một điện thoại di động Nokia 6500 màu đen. Quá trình bắt giữ Huy cơ quan điều tra đã thu giữ được chiếc máy điện thoại di động tang vật nêu trên và thu giữ trong người Huy một gói nilon đựng chất bột màu trắng. Huy khai là chất heroin (đã được cơ quan giám định xác định đó là chất ma túy: hêroin, trọng lượng 0,416g). Huy khai nhận về nguồn gốc chất ma túy như sau: khoảng 10 giờ ngày 3/11/2010, Huy mua một gói nhỏ heroin từ Trần Anh Tuấn trên phố Lò Đúc - Hà Nội với giá 400.000 (bốn trăm nghìn đồng). Huy đã sử dụng một ít hêroin, số còn lại cất trong người cho đến khi bị bắt giữ. Huy đã mua của Tuấn 04 lần vào các thời điểm khác nhau với số lượng như trên. Có thể thấy rằng: Huy đã thực hiện hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm là hành vi cướp giật tài sản (Huy không dùng vũ lực mà chỉ nhanh chóng cướp tài sản rồi tẩu thoát nên hành vi của Huy cấu thành tội cướp giật tài sản) và hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hai hành vi nói trên của Huy cấu thành hai tội là tội cướp giật tài sản theo Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999 và tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 Bộ luật Hình sự. Như vậy, trường hợp phạm tội của đối tượng Huy chính là trường hợp phạm nhiều tội tức là Huy đã phạm hai tội mà những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (Điều 136 và Điều 194) trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và Huy chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy. Bên cạnh đó, do nhiều lần Huy thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên Huy sẽ bị truy tố theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 với tình tiết tăng nặng định khung phạm tội nhiều lần. Bởi vì Huy đã bốn lần phạm tội mua bán trái phép chất ma túy mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (Điều 194) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và Huy vẫn chưa bị xét xử.
  • 24. 24 1.3.2. Phạm tội nhiều lần và tội liên tục Hai tình tiết phạm tội nhiều lần và tội liên tục nếu xét về thuật ngữ "nhiều lần" và thuật ngữ "liên tục" ta thấy chúng dường như là tương đồng nhưng thực ra về bản chất là rất khác nhau. Có thể hiểu tội liên tục là khi tội phạm được hình thành từ một loạt hành vi nguy hiểm cho xã hội giống nhau, mà các hành vi đó có cùng một mục đích chung, được thực hiện với một ý định phạm tội thống nhất, cùng xâm hại đến một khách thể và trong sự tổng hợp của những hành vi đó thì cấu thành một tội độc lập [7, tr. 389]. Như vậy, tội liên tục cũng là tội được hình thành từ nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, nhưng khác với phạm tội nhiều lần một loạt hành vi nguy hiểm của tội liên tục mới cấu thành nên một tội vì mỗi hành vi chưa đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập, còn với tình tiết phạm tội nhiều lần thì hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện bao giờ cũng có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Mặt khác, xét về hậu quả cũng như thiệt hại cho xã hội do hành vi gây ra thì phạm tội nhiều lần gây ra thiệt hại lớn hơn rất nhiều so với tội liên tục. Về mức độ trách nhiệm hình sự, phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự còn phạm tội liên tục chỉ để chỉ tội đó do một loạt hành vi cấu thành nên nó chỉ là tình tiết định tội mà thôi. Ví dụ: Chị Nguyễn Thị Lưu sinh 1976 kết hôn với Nguyễn Văn Doanh sinh 1975, trú tại thôn Đạo Thượng, Tân Hưng, Sóc Sơn, Hà Nội. Cuộc hôn nhân kéo dài 15 năm, hai người đã có hai mặt con. Thế nhưng chị Lưu thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ dã man. Từ cán cuốc, đòn gánh, mũ cối, dây cu roa... đến tuýp nước, tất cả những vật dụng Doanh vớ được đều trở thành hung khí hành hạ vợ. Nhiều lần, chị Lưu phải đi cấp cứu tại trạm xá do những trận đòn của chồng. Người phụ nữ lam lũ sống ở làng quê vẫn cắn răng chịu đựng cảnh bị chồng hành hạ nhiều năm mà không dám giải thoát cho mình. Ngày 31/5/2009, chị gái của Doanh bị ốm có nhờ chị Lưu đến gặt lúa hộ. Chị Lưu đến làm và còn biếu chị gái của Doanh 200 ngàn đồng để bồi
  • 25. 25 dưỡng, thuốc men. Khi về nhà, chị thật thà kể cho chồng nghe thì liền bị Doanh chửi mắng vì đã đi gặt hộ lại còn cho những 200 nghìn đồng. Sau khi dùng dây cu roa trói vợ và mặc sức đánh đập tàn nhẫn, được người hàng xóm can ngăn thì Doanh mới chịu thả vợ ra. Người chồng vũ phu này bắt vợ phải cùng lên nhà bố mẹ vợ để kể tội. Trước mặt mọi người trong gia đình nhà vợ, Doanh ra sức thóa mạ vợ mình. Sau đó, hai vợ chồng lại dắt nhau về nhà. Khoảng 23h cùng ngày, gia đình chị Lưu chưa hết tâm trạng lo lắng chị sẽ tiếp tục bị Doanh hành hạ khi về tới nhà thì nhận tin dữ chị Lưu chết vì tự tử bằng bả chó. Trước khi chết, lá thư của chị Nguyễn Thị Lưu (thôn Đạo Thượng, xã Tân Hưng, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) gửi đến các cơ quan chức năng ngày 7/6/2007 với những lời lẽ thống thiết: "Tôi không hiểu tại sao gần đây chồng tôi lại hay đánh đập, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, thể xác của tôi bằng những hành động quá tàn bạo". Chị Lưu tố cáo anh Nguyễn Văn Doanh, chồng chị, đã có những hành vi bạo hành tàn bạo như sau: Lần 1, khi đi chăn vịt, anh Doanh đã ném mũ cối vào mặt chị Lưu rồi đấm đá túi bụi. Lần 2, anh Doanh cầm chuôi cuốc thúc mạnh vào cổ chị Lưu khiến chị phải đi viện. Lần thứ 3, chỉ vì thời tiết mưa bão nhiều khiến lúa bị bọ dầy phá hoại, anh Doanh đổ lỗi cho chị Lưu làm hỏng lúa và đã đi mua xăng về đốt lúa rồi lấy dây cô loa đánh túi bụi vào người chị Lưu ở bờ ruộng. Vào khoảng tháng 4/2004, do ghen tuông, Doanh đã chửi mắng chị Lưu vì khi chị Lưu đi bán hoa quả ở chợ đã có một thanh niên đến mua hoa quả và bắt tay chị. "Những lời nhiếc móc, những trận đòn phũ phàng, những sự tra tấn tàn bạo có thể ập đến với tôi bất cứ lúc nào khiến tôi luôn sống trong tâm trạng sợ hãi giữa sự sống và cái chết. Nửa đêm, anh ta bắt tôi ngồi
  • 26. 26 dậy và ký vào đơn ly dị. Anh ta chửi mắng tôi là ngu như chó, "mày có chết đi thì tao cũng chỉ mất với mày một cỗ ván với mấy triệu là xong, nửa tháng sau là tao lại có vợ mới"… Sau khi xem xét vụ án, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn tuyên Nguyễn Văn Doanh phạm tội Hành hạ người khác theo Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 1999 và phạt Doanh mức án 24 tháng tù treo, bồi thường gần 20 triệu đồng. Vụ án trên cho thấy Doanh đã thực hiện rất nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm như hành vi đánh, nhiếc móc vợ xâm phạm đến sức khỏe và tinh thần của người phụ nữ. Tuy nhiên mỗi một hành vi của Doanh chưa đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập mà tổng hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội nói trên của Doanh mới cấu thành nên một tội là tội Hành hạ người khác. Đây chính là một trong những tội điển hình của loại tội liên tục nói trên. 1.3.3. Phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Dưới góc độ khoa học luật hình sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp được hiểu là phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục và nhằm mục đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm tội đã trở thành hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/05/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự thì tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp được hướng dẫn như sau: 5.1 Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy
  • 27. 27 cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Ví dụ: A là một người không nghề nghiệp, chuyên sống bằng nguồn thu thập từ việc phạm tội. Trong một thời gian, A liên tiếp thực hiện năm vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên). Trong trường hợp này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp". 5.2. Khi áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp", cần phân biệt: a. Đối với trường hợp phạm tội từ năm lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là "phạm tội nhiều lần", "tái phạm" (hoặc "tái phạm nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp". Ví dụ: B đã bị kết án về tội "trộm cắp tài sản", nhưng chưa chấp hành hình phạt hoặc sau khi chấp hành xong hình phạt, trong một thời gian, B lại liên tiếp thực hiện bốn vụ trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt được trong mỗi vụ có giá trị từ năm trăm ngàn đồng trở lên). Trong trường hợp này, B phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bị áp dụng ba tình tiết tăng nặng là "phạm tội nhiều lần", "tái phạm" (hoặc "tái phạm nguy hiểm") và "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp". b. Đối với tội phạm mà trong điều luật có quy định tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" là tình tiết định khung hình phạt thì không được áp dụng tình tiết đó là tình tiết tăng nặng tương
  • 28. 28 ứng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp điều luật không có quy định tình tiết này là tình tiết định khung hình phạt thì phải áp dụng là tình tiết tăng nặng tương ứng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự [37]. Như vậy, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thể hiện tính nguy hiểm và mang cấp độ cao hơn so với tình tiết phạm tội nhiều lần. Phạm tội nhiều lần chỉ để chỉ người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Còn đối với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì các hành vi phạm tội có tính chất liên tục nghĩa là người phạm tội liên tiếp thực hiện loại tội phạm cùng nhóm trong khoảng thời gian nhất định và ít nhất phải từ năm lần trở lên. Các hành vi phạm tội đã trở thành hoạt động phạm tội có hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội. Mặt khác, nếu ở tình tiết phạm tội nhiều lần các lần người tội phạm thực hiện hành vi phạm tội chưa bị đưa ra xét xử lần nào thì ở tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp người phạm tội có thể bị đưa ra xét xử ở các lần khác nhau. Bởi vì có thể ngay sau khi được xóa án tích người phạm tội lại tiếp tục thực hiện một loạt tội phạm cùng nhóm. Điểm khác nhau cuối cùng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở phạm tội nhiều lần thì các lần phạm tội phải chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Nguyễn Vi Vương là đối tượng không có công ăn việc làm. Do cần tiền để ăn tiêu nên trong khoảng thời gian từ giữa năm 2008 đến tháng 9/2009 Nguyễn Vi Vương đã một mình dùng xe máy Yamaha Exciter - biển kiểm soát 29Z7-4382 đi trên các đường phố Hà Nội, khi thấy có các chị phụ nữ đi xe máy, có đeo túi xách thì ép sát xe vào phía bên phải và tay phải giữ tay ga, tay trái giật túi của họ, sau đó phóng xe chạy vào chỗ vắng lục túi lấy
  • 29. 29 các tài sản có giá trị, còn túi, giấy tờ không có giá trị Vương vứt đi. Tại cơ quan điều tra Vương đã khai nhận gây ra 19 vụ cướp giật tài sản với tổng giá trị tài sản và tiền Nguyễn Vi Vương cướp giật được trong 19 vụ án nói trên ước tính khoảng gần 500.000.000 (năm trăm triệu đồng). Nhìn chung hành vi của Vương bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp giật tài sản với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Bởi vì lý do Vương phạm tội là để có tiền tiêu xài, là nguồn sống chính vì Vương không có công ăn việc làm. Số vụ cướp giật Vương gây ra là 19 vụ và tổng trị giá tài sản mà Vương cướp giật được là rất lớn. Nên có thể khẳng định đây chính là nguồn sống chính của Vương. 1.3.4. Phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm So với tình tiết phạm tội nhiều lần, tái phạm được quy định bằng một chế định độc lập tại Điều 49 Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo đó tái phạm, tái phạm nguy hiểm được quy định như sau: "Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý" [30]. Tái phạm nguy hiểm bao gồm các trường hợp: a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý [30]. Cũng giống như tình tiết phạm tội nhiều lần, tái phạm cũng là thực hiện từ hai lần trở lên hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Nhưng tái phạm, tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết án và chưa được xóa án tích còn phạm tội nhiều lần thì người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nhưng chưa lần nào bị đưa ra xét xử nên chưa bị kết án và chưa có án tích.
  • 30. 30 Ở tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm tội phạm trước và tội phạm mới không cần thiết phải cùng là một tội được quy định trong cùng một điều luật còn ở tình tiết phạm tội nhiều lần thì bắt buộc tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một điều luật cụ thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự. Theo quy định của Bộ luật Hình sự tình tiết tái phạm và tái phạm nguy hiểm có những dấu hiệu đặc trưng đó là dấu hiệu về hình thức lỗi và tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội còn tình tiết phạm tội nhiều lần không đặt ra dấu hiệu này. Ví dụ: Hồi 14h30’ ngày 29/03/2009, Đội 8 - Phòng cảnh sát điều tra tội phạm trật tự xã hội bắt quả tang 02 đối tượng Nguyễn Bá Long (có 3 tiền án) và Phạm Tuấn Anh (có 01 tiền án, 01 tiền sự) đi xe máy Repson, không biển kiểm soát dừng ở đầu xe ô tô Honda Accord, biển kiểm soát 30N-9601 đang đỗ trước số nhà 29 Hàng Bài. Đối tượng Long ngồi sau xe máy đang dùng tay cậy mặt gương chiếu hậu của xe ô tô còn Phạm Tuấn Anh là người lái xe. Tại cơ quan điều tra, đối tượng Long và Tuấn Anh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai nhận trong ngày 29/03/2009 Long cùng Tuấn Anh còn gây ra 2 vụ trộm cắp mặt gương xe ô tô như sau: Vụ thứ nhất: Khoảng 12h Long rủ Tuấn Anh đi trộm cắp mặt gương xe ô tô để đem bán lấy tiền ăn tiêu. Bọn chúng đi đến đường Kim Liên mới phát hiện 1 chiếc xe Azuza để bên lề đường, không có người trông giữ. Tuấn Anh điều khiển xe máy áp sát và đỗ ngay trước đầu xe ô tô, Long ngồi sau đưa tay cậy mặt gương chiếu hậu bên lái của xe ô tô rồi cả hai tiếp tục đi về hướng Tây Sơn để trộm cắp tiếp. Vụ thứ hai: Sau khi thực hiện vụ trộm cắp tài sản nêu trên, Tuấn Anh chở Long đi đến đường Yên Hòa phát hiện 1 chiếc xe Accord không có người trông giữ để ven đường. Tuấn Anh liền áp sát đầu xe ô tô và dừng lại để Long cậy mặt gương xe. Sau đó cả hai đi về ngõ Đê Tô Hoàng. Tại đây Long bán 2 chiếc gương xe ô tô vừa trộm cắp được cho 1 đối tượng tên là Tùng lấy 1.000.000 đồng.
  • 31. 31 Hành vi trên của Long và Tuấn Anh đã cấu thành tội trộm cắp tài sản theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Long và Tuấn Anh đều là những đối tượng đã có tiền án, tiền sự chưa được xóa án tích mà lại phạm phải tội mới do cố ý là tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó Long và Tuấn Anh đã có 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, lần nào cũng đủ dấu hiệu cấu thành tội trộm cắp tài sản và chưa lần nào bị đưa ra xét xử. Vì vậy Long và Tuấn Anh bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng là tái phạm và phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Như vậy, cùng là tội trộm cắp tài sản nhưng Long và Tuấn Anh bị áp dụng hai tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm và phạm tội nhiều lần. Tái phạm vì phạm tội mới mà chưa được xóa án tích. Phạm tội nhiều lần là vì có nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp và chưa lần nào bị đưa ra xét xử mặc dù mỗi lần thực hiện hành vi đã đủ để cấu thành tội trộm cắp tài sản. 1.4. Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐIỀU CHỈNH VỀ MẶT LẬP PHÁP TÌNH TIẾT PHẠM TỘI NHIỀU LẦN Phạm tội nhiều lần là một tình tiết cần phải được điều chỉnh về mặt lập pháp bằng các quy phạm trong một chương độc lập của Bộ luật Hình sự. Đây là điều cần thiết và quan trọng trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm ở nước ta trong những năm qua đã cho thấy một cách xác đáng và đảm bảo sức thuyết phục là nếu như trong pháp luật hình sự không có sự ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng định nghĩa pháp lý của khái niệm "phạm tội nhiều lân" thì các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử khó đạt được sự thống nhất và đồng bộ trong việc nhận thức khoa học và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tình tiết này. Việc ghi nhận những dấu hiệu đặc trưng cơ bản, điển hình và riêng biệt trong định nghĩa pháp lý của khái niệm phạm tội nhiều lần sẽ thể hiện rõ
  • 32. 32 được tính nguy hiểm cho xã hội của nó và giúp chúng ta hiểu đúng, phân biệt được bản chất pháp lý của dạng nhiều tội phạm trên. Bên cạnh đó việc được ghi nhận chính thức với tính chất là các căn cứ pháp lý cho Tòa án áp dụng có ý nghĩa và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của Tòa án, đến quyền và lợi ích thiết thân của chính bản thân người phạm tội. Theo cấu trúc xây dựng điều luật thì bất kỳ điều luật cụ thể nào trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, nhà làm luật nước ta đều quy định mức hình phạt tối thiểu và mức hình phạt tối đa tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội tương ứng. Đường lối xử lý chung trong pháp luật nước ta là tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với những trường hợp phạm tội nhiều lần. Tóm lại việc điều chỉnh về mặt lập pháp tình tiết phạm tội nhiều lần có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, góp phần đồng bộ hóa các quy định của pháp luật về tình tiết này.
  • 33. 33 Chương 2 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 CHO ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 Năm 1945, Cách mạng Tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời với chính quyền non trẻ. Chúng ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn là tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vì vậy, sau ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật hình sự để tạo cơ sở cho việc trấn áp tội phạm. Tuy vậy, trong thời kỳ đầu của chính quyền cho đến những năm 1950 với muôn vàn khó khăn, thử thách, kinh nghiệm lập pháp chưa có nhiều nên những quy định của pháp luật hình sự chưa hoàn chỉnh. Thời kỳ này, các chế định của luật hình sự được thể hiện dưới dạng các Sắc lệnh. Mỗi tội phạm cụ thể lại được điều chỉnh bằng một Sắc lệnh mà không quy định chung trong một Sắc lệnh. Nghiên cứu các văn bản quy định trong thời kỳ này có thể thấy tình tiết phạm tội nhiều lần chưa được đề cập đến. Tiếp theo, từ những năm 1960 đến năm 1975, Nhà nước ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, đó là: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những quy định chung trong luật hình sự cũng đã có những bước phát triển để bảo vệ sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa, chống lại những âm mưu, hành động phá hoại, làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước, tập thể và công dân, trấn áp kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời bảo vệ cơ sở vật chất và kỹ thuật, bảo vệ
  • 34. 34 nên kinh tế kế hoạch, chống mọi âm mưu và hành động phản cách mạng, lật đổ chính quyền nhân dân. Trong thời kỳ này các quy định của pháp luật hình sự cũng chưa có được sự thống nhất, tập trung mà vẫn quy định ở nhiều văn bản khác nhau. Nghiên cứu các văn bản quy định trong thời kỳ này, có thể thấy tình tiết phạm tội nhiều lần cũng chưa được đề cập đến mà pháp luật chỉ quy định về các tình tiết tăng nặng khác như tái phạm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hoặc phạm tội có tổ chức. Với đại thắng mùa xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Tuy vậy, ngay sau khi giải phóng, tạm thời hai miền Nam, Bắc vẫn tồn tại hai hệ thống pháp luật khác nhau. Ngày 25/04/1976, nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung trong cả nước. Ngày 02/07/1976, Quốc Hội chính thức đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật được áp dụng chung cho cả nước. Những năm đầu đất nước thống nhất, pháp luật hình sự đã bắt đầu đề cập đến tình tiết phạm tội nhiều lần với ý nghĩa là một trong những trường hợp cần xử lý nghiêm khắc. Ví dụ: Tại Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ ngày 20/05/1981 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quy định: Tội hối lộ bao gồm nhận hối lộ, đưa hối lộ và môi giới hối lộ. Người nào nhận hối lộ thì bị phạt tù từ 1 năm đến 10 năm. Người nào đưa hối lộ, môi giới hối lộ thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm. Phạm tội trong trường hợp phạm tội nhiều lần thì bị phạt tù đến 15 năm: Điều 5: Những trường hợp cần xử nặng. Người nhận hối lộ, đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù đến 15 năm: a) Phạm tội hối lộ có tổ chức, b) Phạm tội hối lộ nhiều lần, c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt để thực hành hối lộ, d) Của hối lộ có giá trị lớn,
  • 35. 35 đ) Lợi dụng chức vụ cao để nhận hối lộ, e) Phạm tội hối lộ gây hậu quả nghiêm trọng [43]. Tóm lại, những quy định của pháp luật hình sự về tình tiết phạm tội nhiều lần trong giai đoạn này chưa được đề cập nhiều và nó chỉ mang tính chất là một tình tiết tăng nặng hình phạt. 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 cho đến trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 Đáp ứng yêu cầu tăng cường kỷ cương, pháp luật và thực hiện đầy đủ, toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, ngày 27/06/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII, Quốc hội đã thông qua toàn văn Bộ luật Hình sự, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1986 (gọi là Bộ luật Hình sự 1985). Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời dựa trên cơ sở sự kế thừa và phát triển những thành tựu của pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây là bước ngoặt rất quan trọng trong lịch sử pháp luật nước ta. Các quy định về hình sự đã được tập trung lại thành một bộ luật hoàn chỉnh. Bộ luật Hình sự năm 1985 được chia làm hai phần: phần chung và phần riêng. Tại phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1985 lần đầu tiên tình tiết phạm tội nhiều lần chính thức được quy định là một tình tiết tăng nặng chung. Cụ thể như sau: Điều 39. Những tình tiết tăng nặng. 1- Những tình tiết sau đây mới được coi là tình tiết tăng nặng: a) Phạm tội có tổ chức; xúi giục người chưa thành niên phạm tội; b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh thiên tai hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; c) Phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác trong khi phạm tội hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
  • 36. 36 đ) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về vật chất, công tác hay các mặt khác; e) Phạm tội vì động cơ đê hèn; cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; g) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng; h) Phạm tội nhiều lần; tái phạm; tái phạm nguy hiểm; i) Sau khi phạm tội, đã có những hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm [28]. Tại Phần riêng của Bộ luật tình tiết phạm tội nhiều lần được xét đến như là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng trong một số tội phạm khác nhau được quy định tại các điều tương ứng trong bộ luật. Cụ thể: 1) Khoản 2 Điều 88: Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép. 2) Điểm đ khoản 2 Điều 97: Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. 3) Khoản 2 Điều 170: Tội lừa dối khách hàng. 4) Điểm đ khoản 2 Điều 226: Tội nhận hối lộ. 5) Điểm đ khoản 2 Điều 227: Tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ. 6) Điểm c khoản 2 Điều 272: Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại chiến lợi phẩm. Trong khoảng 15 năm tồn tại, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Qua bốn lần sửa đổi, bổ sung có trên 100 lượt điều luật được sửa đổi hoặc bổ sung. Với những sửa đổi, bổ sung này luật hình sự đã có sự phát triển đáp ứng được phần nào đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện đổi mới. Tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985 ngày 10/05/1997,
  • 37. 37 quy định phạm tội nhiều lần là tình tiết định khung hình phạt cao ở các tội phạm cụ thể đã được tăng lên rất nhiều so với Bộ luật Hình sự năm 1985 (từ 6 tội lên đến 28 tội). Cụ thể các tội nói sau được bổ sung thêm tình tiết tăng nặng định khung phạm tội nhiều lần: 1) Tội Tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa 2) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa 3) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa 4) Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân 5) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ 6) Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ 7) Tội giả mạo trong công tác 8) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi 9) Tội sản xuất trái phép chất ma túy 10) Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 11) Tội vận chuyển trái phép chất ma túy 12) Tội mua bán trái phép chất ma túy 13) Tội chiếm đoạt chất ma túy 14) Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy 15) Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy 16) Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
  • 38. 38 17) Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy 18) Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy 19) Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác 20) Tội hiếp dâm trẻ em 21) Tội cưỡng dâm người chưa thành niên 22) Tội giao cấu với trẻ em 23) Tội chứa mãi dâm, tội môi giới mãi dâm 24) Tội mua dâm người chưa thành niên 25) Tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa 26) Tội hiếp dâm 27) Tội cưỡng dâm 28) Tội dâm ô đối với trẻ em Bên cạnh đó về mặt thực tiễn, lần đầu tiên tình tiết phạm tội nhiều lần đã được các cơ quan chức năng hướng dẫn áp dụng tại Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT ngày 02/01/1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985. Thông tư đã đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần đối với riêng một số tội phạm có tính chất tham nhũng và tình dục được đề cập trong Bộ luật Hình sự. Như vậy, tình tiết phạm tội nhiều lần đã được chính thức ghi nhận là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung hoặc là một tình tiết định khung hình phạt tăng nặng trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Việc ghi nhận nói trên đồng thời cũng là một căn cứ pháp lý quan trọng cho việc tòa án xem xét trong vấn đề quyết định khung và mức hình phạt.
  • 39. 39 2.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN 2.2.1. Những quy định của Phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999 về phạm tội nhiều lần Kế thừa những quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tình tiết phạm tội nhiều lần là một trong các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm g khoản 1 Điều 48): 1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: a) Phạm tội có tổ chức; b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; d) Phạm tội có tính chất côn đồ; đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn; e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; g) Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; h) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; i) Xâm phạm tài sản của Nhà nước; k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
  • 40. 40 m) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; n) Xúi giục người chưa thành niên phạm tội; o) Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm. 2. Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng [30]. Tình tiết phạm tội nhiều lần dưới góc độ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này. Một mức hình phạt cụ thể là ba năm, bảy năm, mười lăm năm, hai mươi năm, thậm chí là sự lựa chọn giữa hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình một phần phụ thuộc vào việc người phạm tội có hay không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có một hay nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, để từ đó Tòa án quyết định quyền sống hay chết của người phạm tội. Do đó, tình tiết phạm tội nhiều lần nhìn từ góc độ này có ý nghĩa và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của Tòa án, đến quyền và lợi ích thiết thân của chính bản thân người phạm tội. Tuy nhiên, trong một vụ án hình sự có thể có một tội phạm hoặc nhiều tội phạm, một người phạm tội hoặc nhiều người phạm tội, nên việc xác định tình tiết định tội và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ trong phạm vi một tội phạm cụ thể mà không được sử dụng tình tiết định tội của tội phạm này làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội phạm khác cũng như tình tiết tăng nặng của người phạm tội này làm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khác vì "những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng".
  • 41. 41 2.2.2. Những quy định của Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 1999 về phạm tội nhiều lần Theo quy định tại Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 1999, tình tiết phạm tội nhiều lần được quy định là tình tiết định khung hình phạt trong rất nhiều tội phạm quy định tại các điều của các chương khác nhau. Tổng số điều luật có tình tiết định khung hình phạt tăng nặng phạm tội nhiều lần tại Bộ luật Hình sự năm 1999 là 48 điều. Cụ thể: 1) Điểm c khoản 1 Điều 104: Tội cố ý gây thương tích 2) Điểm d khoản 2 Điều 111: Tội hiếp dâm 3) Điểm c khoản 3 Điều 112: Tội hiếp dâm trẻ em 4) Điểm b khoản 2 Điều 113: Tội cưỡng dâm 5) Điểm b khoản 3 Điều 114: Tội cưỡng dâm trẻ em 6) Điểm a khoản 3 Điều 115: Tội giao cấu với trẻ em 7) Điểm a khoản 2 Điều 116: Tội dâm ô với trẻ em 8) Điểm e khoản 2 Điều 119: Tội mua bán phụ nữ (nay đổi là Tội mua bán người) 9) Điểm b khoản 2 Điều 121: Tội làm nhục người khác 10) Điểm b khoản 2 Điều 123: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật 11) Điểm c khoản 2 Điều 125: Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác 12) Điểm b khoản 2 Điều 131: Tội xâm phạm quyền tác giả 13) Điểm a khoản 2 Điều 142: Tội sử dụng trái phép tài sản 14) Điểm k khoản 2 Điều 153: Tội buôn lậu 15) Điểm đ khoản 2 Điều 154: Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
  • 42. 42 16) Khoản 2 Điều 162: Tội lừa dối khách hàng 17) Điểm b khoản Điều 169: Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ 18) Điểm b khoản 2 Điều 170: Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 19) Điểm b khoản 2 Điều 171: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 20) Điểm b khoản 2 Điều 173: Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai 21) Điểm b khoản 2 Điều 176: Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng 22) Điểm b khoản 2 Điều 193: Tội sản xuất trái phép chất ma túy 23) Điểm b khoản 2 Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy 24) Điểm b khoản 2 Điều 195: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy 25) Điểm b khoản 2 Điều 196: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy 26) Điểm a khoản 2 Điều 197: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 27) Điểm b khoản 2 Điều 198: Tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy 28) Điểm b khoản 2 Điều 200: Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy 29) Điểm b khoản 2 Điều 201: Tội vi phạm quy định về quản lý sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác 30) Điểm a khoản 2 Điều 228: Tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em
  • 43. 43 31) Điểm c khoản 2 Điều 251: Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có (nay gọi là Tội rửa tiền) 32) Điểm c khoản 2 Điều 254: Tội chứa mại dâm 33) Điểm d khoản 2 Điều 255: Tội môi giới mại dâm 34) Điểm a khoản 2 Điều 256: Tội mua dâm người chưa thành niên 35) Điểm b khoản 2 Điều 257: Tội chống người thi hành công vụ 36) Điểm b khoản 2 Điều 266: Tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức 37) Điểm b khoản 2 Điều 267: Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức 38) Khoản 2 Điều 275: Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép 39) Điểm c khoản 2 Điều 278: Tội tham ô tài sản 40) Điểm c khoản 2 Điều 279: Tội nhận hối lộ 41) Điểm c khoản 2 Điều 280: Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản 42) Điểm b khoản 2 Điều 281: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ 43) Điểm b khoản 2 Điều 282: Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ 44) Điểm b khoản 2 Điều 283: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi 45) Điểm c khoản 2 Điều 284: Tội giả mạo trong công tác 46) Điểm d khoản 2 Điều 289: Tội đưa hối lộ 47) Điểm d khoản 2 Điều 290: Tội làm môi giới hối lộ 48) Điểm a khoản 2 Điều 291: Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi
  • 44. 44 Như vậy, so với Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bổ sung thêm nhiều tội mới với tình tiết định khung tăng nặng phạm tội nhiều lần như: Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi, tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp… Về mặt thực tiễn, việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần vào các trường hợp cụ thể không phải giống nhau mà tùy theo các tội phạm khác nhau thì nội dung hướng dẫn lại khác nhau. Tại điểm 3.3 khoản 3 Mục I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự hướng dẫn xem xét trách nhiệm hình sự của người có hành vi phạm tội nhiều lần làm tiền giả như sau: Đối với người nhiều lần làm hoặc tàng trữ hoặc vận chuyển hoặc lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả thì cần phải lấy tổng số lượng tiền giả của tất cả các lần phạm tội cộng lại để xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ; nếu trong các lần phạm tội đó có trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không xem xét trách nhiệm hình sự đối với trường hợp đó (không cộng số lượng tiền giả của lần phạm tội đó); nếu có hai lần phạm tội làm hoặc tàng trữ hoặc vận chuyển hoặc lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trở lên thì ngoài việc cộng số lượng tiền giả của các lần phạm tội để xem xét trách nhiệm hình sự đối với họ, còn phải áp dụng tình tiết tăng nặng "phạm tội nhiều lần" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự [35]. Tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự đã hướng dẫn việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần đối với tội cố ý gây thương tích, tội chứa mại dâm, tội đánh bạc.
  • 45. 45 Điểm c khoản 1 Điều 104 (Tội cố ý gây thương tích) Bộ luật Hình sự năm 1999: "phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" được hướng dẫn áp dụng như sau: "Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự được hiểu là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người từ hai lần trở lên hoặc của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) và trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự [37]. Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 15/06/2005 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể việc áp dụng các trường hợp xét xử bị cáo theo các khoản khác nhau của Điều 104. Cụ thể: Tại mục b điểm 3.2 áp dụng đối với xét xử bị cáo với tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần theo khoản 1 Điều 104: b. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây: b.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người từ hai lần trở lên mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả lần từ 11% trở lên. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự. b.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi
  • 46. 46 người) mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự [36]. Tại điểm c mục 3.2 áp dụng đối với xét xử bị cáo với tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần theo khoản 2 Điều 104: c. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây: c.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự. c.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chị bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự [36]. Tại điểm d - mục 3.2 áp dụng đối với xét xử bị cáo với tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần theo khoản 3 Điều 104: d. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" quy định tại điểm c khoản 1
  • 47. 47 Điều 104 của Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây: d.1. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự. d.2. Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự [36]. Đối với tội chứa mại dâm, việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần được hướng dẫn như sau: (mục 4) 4.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần" đối với người chứa mại dâm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a. Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn); b. Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian; c. Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.