SlideShare a Scribd company logo
1 of 1796
Download to read offline
PHONG THẦN DIỄN NGHĨA
Tác giả: Hứa Trọng Lâm
Tạo file: VDREA
Hồi 1
Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi
cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt .
Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành , liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng . Quả nhiên vì nuốt
trứng , bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết .
Khiết lớn lên phò vua Nghiêu , rồi đến vua Thuấn , được phong làm chức Tư Ðồ .
Vì có công dạy dân , về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp , và làm chúa một xứ .
Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất , tức là Thành Thang .
Thành Thang là người nhân đức và trung hậu , nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí , thất thời ẩn
cư cày ruộng nơi Sằn Dã , liền đến rước về , dâng cho vua Kiệt , nhà Hạ dùng .
Ấy là vì lòng trung , Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình .
Ai ngờ vua Kiệt bất trí , không biết dùng người tài , nghe lời dua mị , không trọng dụng Y Doãn
.
Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang .
Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc . Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có
công với nước , nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa .
Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn .
Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can .
Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về
.
Trong lúc vua Kiệt ham dâm , độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là
một người nhân hậu có tiếng .
Một hôm , ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía , và vái :
-Trên trời sa xuống , dưới đất chun lên , tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới .
Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm :
-Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì ?
Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra , rồi khiến các thợ săn vái rằng :
Muốn lại thì lại , muốn qua thì qua
Ở trên trời sa xuống , có cánh bay xa
Ở dưới đất chun lên , có chân chạy ra
Con nào liều mạng , thì vào lưới ta
Cầm thú đều ra khỏi lưới hết . Bởi vậy đời sau người ta thường nói : "Mở lưới Thành Thang " tức
là ý muốn nhắc đến tích ấy .
Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt , chừa chổ cho con thịt thoát ra thì
lòng nhân còn gì hơn . Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam , thiên hạ đều khen Thành Thang đức
lớn , hơn bốn mươi nước đều theo .
Ðến sau , vua Kiệt vô đạo , hại dân gần chết , ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt
qua đất Nam Sào .
Các chư hầu hội đũ mặt , tôn Thành Thang lên làm Thiên tử , Thành Thang vẫn từ chối , chỉ
muốn nhận bổn phận chư hầu thôi , nhưng vì các chư hầu khác ép buộc , Thành Thang cực chẳng
đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương
.
Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt , đặt ra những việc dân ưa , dân mến ,
lấy đức trị dân , nên ai nấy đều theo về cả .
Trong thời gian đầu , vì vua Kiệt bất nhân , nên trời hạn hán suốt bảy năm , vua Thành Thang
mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống .
Vua trị dân nhân đức , dân coi vua như cha mẹ , trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến
luật pháp nữa .
Vua Thành Thang trị vì được 13 năm , thọ được 100 tuổi , rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời ,
tổng cộng là 564 năm , đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất .
Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau :
1- Thành Thang
2- Thái Giáp
3- Óc Ðinh
4- Thái Canh
5- Tiển Giáp
6- Ứng Kỷ
7- Thái Hậu
8- Trọng Ðỉnh
9- Ngoại Nhâm
10- Hà Ðản Giáp
11- Tổ Ất
12- Tổ Tân
13- Óc Giáp
14- Tổ Ðinh
15- Nam Canh
16- Ðương Giáp
17- Bàn Canh
18- Tiểu Tân
19- Tiểu Ất
20- Võ Ðinh
21- Tổ Canh
22- Tổ Giáp
23- Lâm Tân
24- Canh Ðịnh
25- Thái Ðỉnh
27- Ðế Ất
28- Ân Thọ (Trụ Vương).
Truyện này nói về cuối đời nhà Thương , lúc Trụ Vương mất nước , và nhà Châu lên kế vị .
Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất .
Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải , Vi Tử Ðiển và Ân Thọ .
Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan , thấy lầu Phi Vân gảy mất
một kèo , liền truyền các quan thay cây kèo ấy . Các quan xúm lại đở không nổi .
Bấy giờ có Ân Thọ đi theo , thấy vậy một mình xốc lại , một tay đở cây kèo , một tay nhổ cột lên
thay .
Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng .
Thừa Tướng Thương Dung vá quan Ðại Phu Mai Bá , Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất :
-Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này , xin
Bệ hạ phong làm Thái Tử , để nối ngôi .
Ðế Ất bằng lòng , lập Ân Thọ lên làm Thái Tử .
Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà . Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho
Thái Sư Văn Trọng , nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương , đóng đô tại
Triều Ca .
Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi , song vẫn một lòng hiếu thuận , không hiềm
khích , hoặc có ý ganh tỵ . Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc .
Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đũ tài trị nước , võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi
Hổ đũ tài trấn áp các nước chư hầu .
Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu , Tây Cung Hoàng Thị (em
Hoàng Phi Hổ) , Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh , trinh chính , hòa nhả , hiền lành
.
Vua Trụ ngồi hưởng thái bình , muôn dân lạc nghiệp , mưa hòa gió thuận , tưởng không có gì
sung sướng hơn .
Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư
hầu lớn thay mặt nhà thương điều khiễn .
Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có :
1- Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).
2- Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ
3-Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)
4- Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ .
Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ , cộng bảy trăm Trấn chư hầu .
Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước
Thông cầm đầu nổi loạn .
Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp .
Văn Trọng ra đi , việc triều chính thiếu người định đoạt , nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu
Hồn và Bí trọng , là hai tên xu nịnh , trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần
hai tên ấy .
Một hôm vào tiết tháng ba , vua Trụ ngự triều , Thừa Tướng Thương Dung tâu :
-Ngày mai là ngày rằm , nhằm vía bà Nữ Oa , xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước .
Vua Trụ hỏi :
-Bà Nữ Oa là người thế nào đến nổi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương ?
Thương Dung tâu :
-Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy , hiện là một vị thần linh hiển lắm . Trước kia Cung Công
làm phản , đụng đầu vào núi Bất Châu , đất bị nghiêng sụp , bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời
.
Bởi có công với đời như vậy , nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ .
nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa , mối nước được yên , dân gian khõe mạnh.
Xin bệ hạ đến đó dâng hương , chẳng nên khinh dễ .
Vua Trụ nhận lời :
-Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước , sẳn diệp du ngoạn một chuyến .
Hôm sau , vua trụ truyền long giá ra đi , các quan đi theo phò tá rất đông .
Ba ngàn binh kỵ mã , tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển , trước sau đông
nghẹt .
Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái .
Khi đến trước đền thần Nữ Oa , vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm , và
các quan đồng lạy .
Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm , những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng
hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng , những tượng con gái chạm bằng ngọc
đứng dâng hương . Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe , rồng bay phượng lộn , đèn chưng
như sao mọc , khói tỏa như mây mờ , uy nghiêm chẳng khác gì đền vua .
Trụ Vương đang say mê , thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua , vua trông
thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ , hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên , hương
trời sắc nước không đâu bì kịp .
Lời xưa thường nói :
-Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra .
Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng :
-Ta tuy làm vua giàu có bốn biển , nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được
cái nhan sắc như vậy .
Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến , và đề một bài thơ ngay trên vách tường :
Lạnh lùng trướng phủ xỏa màn loan
Bóng sắc khen ai khéo điểm trang
Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục
Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng
Hải đường sương đượm màu tươi tốt
Thược dưọc mưa nhuần bóng vẽ vang
Ðem về cung điện dựa thiên nhan
Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu :
-Bá Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ . Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa
thuận gió hòa , sóng trong biển lặng . Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên . Xin bệ
hạ truyền lấy nước rữa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh .
Vua Trụ nói :
-Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp , đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác . Vả lại Trẫm
là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà , và chiêm ngưỡng
vần thơ của Trẫm chứ ?
Dứt lời truyền hồi loan . Các quan không ai dám nói lời nào nữa . Về đến đền Long Ðức , các
quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy .
Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là : Phục Hy , Thần Nông , và
Hoàng Ðế .
Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền , lên ngồi nơi chánh điện . Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ ,
bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ , nỗi giận nói :
-Ân Thọ hôn quân ! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy , không sợ luật trời . Thật
đáng ghét !
Trước khi vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ , hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần
thời đã hết . Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh .
Nói rồi liền đằng văn bay vào triều , cố vật chết vua Trụ để rữa hờn . nhưng vừa lướt đến phía
ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại .
Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai ,
người anh là Ân Hồng , người em là Ân Giao , sau này đều được phong thần , nên mới có hào
quang như vậy .). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ . Bà Nữ Oa bị hào quang cản
trở , tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số , nên đằng vân trở về miễu .
Tuy nhiên , lòng vẫn căm tức không nguôi , bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để
giữa sân giở nút , rồi đưa tay chỉ một cái , tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau
như giải lụa , dài hơn năm trượng .
Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng .
Phướng này gọi là phướng chiếu yêu .
Trong giây phút sa mù bao phủ , gió lộng áo ào , các yêu đều hiện đến .
Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết , chỉ chừa lại ba con yêu tại
mã Huỳnh Ðế và cho vào ra mắt .
Ba yêu vâng lệnh , vào quỳ lạy xưng ;
-Chúng tôi là hồ ly ngàn năm , chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương
nương .
Bà Nữ Oa nói :
-Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn , vua Trụ sắp đến ngày mất nước . Núi Kỳ Sơn phụng
gáy nhà Tây Châu , người đó là khí số do trời định . Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái , trà
trộn vào cung điện , làm cho Trụ vương điêu đứng . Ðợi cho Võ vương đánh trụ thành công , ta
cho chúng bay thành thần . Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh , chỉ trả thù Trụ
Vương thôi .
Ba yêu vâng lệnh lui ra , đằng vân về động .
Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về , mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không
ngon , ngày ăn không được , coi ba cung sáu viện như cỏ rác , chẳng đoái hoài đến .
Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa .
Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh , có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã , Trụ
Vương sực nhớ đến Vưu Hồn , Bí Trọng , hai tên này thường nói nhiều điều vui tai , vua có thể
nhờ hai người này tìm cách giải khuây được , bèn cho đòi Bí Trọng đến .
Bí Trọng lúc này là Trung Gián Ðại Phu , nghe vua đòi liền ứng hầu ngay , và tâu :
-Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần ?
Trụ vương buồn bã nói :
-Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nổi trong tam cung
lục viện của Trẫm cũng không có kẽ nào bằng . Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì
dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện . Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không ?
Bí Trọng tâu :
-Bệ hạ giàu có bốn biển , đức sánh Thuấn , Nghiêu .
Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết , có gì mà bệ hạ không toại nguyện ?
Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển
bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẽ tuyệt sắc .
Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ , phán :
-À , thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra . Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy .
Rồi Trụ Vương trở về triều .
Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi
cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt .
Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành , liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng . Quả nhiên vì nuốt
trứng , bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết .
Khiết lớn lên phò vua Nghiêu , rồi đến vua Thuấn , được phong làm chức Tư Ðồ .
Vì có công dạy dân , về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp , và làm chúa một xứ .
Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất , tức là Thành Thang .
Thành Thang là người nhân đức và trung hậu , nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí , thất thời ẩn
cư cày ruộng nơi Sằn Dã , liền đến rước về , dâng cho vua Kiệt , nhà Hạ dùng .
Ấy là vì lòng trung , Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình .
Ai ngờ vua Kiệt bất trí , không biết dùng người tài , nghe lời dua mị , không trọng dụng Y Doãn .
Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang .
Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc . Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có
công với nước , nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa .
Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn .
Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can .
Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về
.
Trong lúc vua Kiệt ham dâm , độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là
một người nhân hậu có tiếng .
Một hôm , ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía , và vái :
-Trên trời sa xuống , dưới đất chun lên , tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới .
Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm :
-Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì ?
Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra , rồi khiến các thợ săn vái rằng :
Muốn lại thì lại , muốn qua thì qua
Ở trên trời sa xuống , có cánh bay xa
Ở dưới đất chun lên , có chân chạy ra
Con nào liều mạng , thì vào lưới ta
Cầm thú đều ra khỏi lưới hết . Bởi vậy đời sau người ta thường nói : "Mở lưới Thành Thang " tức
là ý muốn nhắc đến tích ấy .
Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt , chừa chổ cho con thịt thoát ra thì
lòng nhân còn gì hơn . Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam , thiên hạ đều khen Thành Thang đức
lớn , hơn bốn mươi nước đều theo .
Ðến sau , vua Kiệt vô đạo , hại dân gần chết , ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt
qua đất Nam Sào .
Các chư hầu hội đũ mặt , tôn Thành Thang lên làm Thiên tử , Thành Thang vẫn từ chối , chỉ
muốn nhận bổn phận chư hầu thôi , nhưng vì các chư hầu khác ép buộc , Thành Thang cực chẳng
đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương
.
Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt , đặt ra những việc dân ưa , dân mến ,
lấy đức trị dân , nên ai nấy đều theo về cả .
Trong thời gian đầu , vì vua Kiệt bất nhân , nên trời hạn hán suốt bảy năm , vua Thành Thang
mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống .
Vua trị dân nhân đức , dân coi vua như cha mẹ , trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến
luật pháp nữa .
Vua Thành Thang trị vì được 13 năm , thọ được 100 tuổi , rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời ,
tổng cộng là 564 năm , đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất .
Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau :
1- Thành Thang
2- Thái Giáp
3- Óc Ðinh
4- Thái Canh
5- Tiển Giáp
6- Ứng Kỷ
7- Thái Hậu
8- Trọng Ðỉnh
9- Ngoại Nhâm
10- Hà Ðản Giáp
11- Tổ Ất
12- Tổ Tân
13- Óc Giáp
14- Tổ Ðinh
15- Nam Canh
16- Ðương Giáp
17- Bàn Canh
18- Tiểu Tân
19- Tiểu Ất
20- Võ Ðinh
21- Tổ Canh
22- Tổ Giáp
23- Lâm Tân
24- Canh Ðịnh
25- Thái Ðỉnh
27- Ðế Ất
28- Ân Thọ (Trụ Vương).
Truyện này nói về cuối đời nhà Thương , lúc Trụ Vương mất nước , và nhà Châu lên kế vị .
Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất .
Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải , Vi Tử Ðiển và Ân Thọ .
Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan , thấy lầu Phi Vân gảy mất
một kèo , liền truyền các quan thay cây kèo ấy . Các quan xúm lại đở không nổi .
Bấy giờ có Ân Thọ đi theo , thấy vậy một mình xốc lại , một tay đở cây kèo , một tay nhổ cột lên
thay .
Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng .
Thừa Tướng Thương Dung vá quan Ðại Phu Mai Bá , Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất :
-Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này , xin
Bệ hạ phong làm Thái Tử , để nối ngôi .
Ðế Ất bằng lòng , lập Ân Thọ lên làm Thái Tử .
Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà . Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho
Thái Sư Văn Trọng , nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương , đóng đô tại
Triều Ca .
Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi , song vẫn một lòng hiếu thuận , không hiềm
khích , hoặc có ý ganh tỵ . Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc .
Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đũ tài trị nước , võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi
Hổ đũ tài trấn áp các nước chư hầu .
Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu , Tây Cung Hoàng Thị (em
Hoàng Phi Hổ) , Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh , trinh chính , hòa nhả , hiền lành
.
Vua Trụ ngồi hưởng thái bình , muôn dân lạc nghiệp , mưa hòa gió thuận , tưởng không có gì
sung sướng hơn .
Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư
hầu lớn thay mặt nhà thương điều khiễn .
Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có :
1- Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).
2- Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ
3-Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)
4- Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ .
Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ , cộng bảy trăm Trấn chư hầu .
Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước
Thông cầm đầu nổi loạn .
Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp .
Văn Trọng ra đi , việc triều chính thiếu người định đoạt , nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu
Hồn và Bí trọng , là hai tên xu nịnh , trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần
hai tên ấy .
Một hôm vào tiết tháng ba , vua Trụ ngự triều , Thừa Tướng Thương Dung tâu :
-Ngày mai là ngày rằm , nhằm vía bà Nữ Oa , xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước .
Vua Trụ hỏi :
-Bà Nữ Oa là người thế nào đến nổi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương ?
Thương Dung tâu :
-Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy , hiện là một vị thần linh hiển lắm . Trước kia Cung Công
làm phản , đụng đầu vào núi Bất Châu , đất bị nghiêng sụp , bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời
.
Bởi có công với đời như vậy , nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ .
nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa , mối nước được yên , dân gian khõe mạnh.
Xin bệ hạ đến đó dâng hương , chẳng nên khinh dễ .
Vua Trụ nhận lời :
-Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước , sẳn diệp du ngoạn một chuyến .
Hôm sau , vua trụ truyền long giá ra đi , các quan đi theo phò tá rất đông .
Ba ngàn binh kỵ mã , tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển , trước sau đông
nghẹt .
Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái .
Khi đến trước đền thần Nữ Oa , vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm , và
các quan đồng lạy .
Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm , những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng
hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng , những tượng con gái chạm bằng ngọc
đứng dâng hương . Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe , rồng bay phượng lộn , đèn chưng
như sao mọc , khói tỏa như mây mờ , uy nghiêm chẳng khác gì đền vua .
Trụ Vương đang say mê , thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua , vua trông
thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ , hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên , hương
trời sắc nước không đâu bì kịp .
Lời xưa thường nói :
-Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra .
Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng :
-Ta tuy làm vua giàu có bốn biển , nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được
cái nhan sắc như vậy .
Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến , và đề một bài thơ ngay trên vách tường :
Lạnh lùng trướng phủ xỏa màn loan
Bóng sắc khen ai khéo điểm trang
Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục
Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng
Hải đường sương đượm màu tươi tốt
Thược dưọc mưa nhuần bóng vẽ vang
Ðem về cung điện dựa thiên nhan
Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu :
-Bá Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ . Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa
thuận gió hòa , sóng trong biển lặng . Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên . Xin bệ
hạ truyền lấy nước rữa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh .
Vua Trụ nói :
-Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp , đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác . Vả lại Trẫm
là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà , và chiêm ngưỡng
vần thơ của Trẫm chứ ?
Dứt lời truyền hồi loan . Các quan không ai dám nói lời nào nữa . Về đến đền Long Ðức , các
quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy .
Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là : Phục Hy , Thần Nông , và
Hoàng Ðế .
Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền , lên ngồi nơi chánh điện . Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ ,
bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ , nỗi giận nói :
-Ân Thọ hôn quân ! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy , không sợ luật trời . Thật
đáng ghét !
Trước khi vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ , hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần
thời đã hết . Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh .
Nói rồi liền đằng văn bay vào triều , cố vật chết vua Trụ để rữa hờn . nhưng vừa lướt đến phía
ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại .
Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai ,
người anh là Ân Hồng , người em là Ân Giao , sau này đều được phong thần , nên mới có hào
quang như vậy .). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ . Bà Nữ Oa bị hào quang cản
trở , tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số , nên đằng vân trở về miễu .
Tuy nhiên , lòng vẫn căm tức không nguôi , bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để
giữa sân giở nút , rồi đưa tay chỉ một cái , tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau
như giải lụa , dài hơn năm trượng .
Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng .
Phướng này gọi là phướng chiếu yêu .
Trong giây phút sa mù bao phủ , gió lộng áo ào , các yêu đều hiện đến .
Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết , chỉ chừa lại ba con yêu tại
mã Huỳnh Ðế và cho vào ra mắt .
Ba yêu vâng lệnh , vào quỳ lạy xưng ;
-Chúng tôi là hồ ly ngàn năm , chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương
nương .
Bà Nữ Oa nói :
-Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn , vua Trụ sắp đến ngày mất nước . Núi Kỳ Sơn phụng
gáy nhà Tây Châu , người đó là khí số do trời định . Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái , trà
trộn vào cung điện , làm cho Trụ vương điêu đứng . Ðợi cho Võ vương đánh trụ thành công , ta
cho chúng bay thành thần . Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh , chỉ trả thù Trụ
Vương thôi .
Ba yêu vâng lệnh lui ra , đằng vân về động .
Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về , mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không
ngon , ngày ăn không được , coi ba cung sáu viện như cỏ rác , chẳng đoái hoài đến .
Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa .
Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh , có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã , Trụ
Vương sực nhớ đến Vưu Hồn , Bí Trọng , hai tên này thường nói nhiều điều vui tai , vua có thể
nhờ hai người này tìm cách giải khuây được , bèn cho đòi Bí Trọng đến .
Bí Trọng lúc này là Trung Gián Ðại Phu , nghe vua đòi liền ứng hầu ngay , và tâu :
-Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần ?
Trụ vương buồn bã nói :
-Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nổi trong tam cung
lục viện của Trẫm cũng không có kẽ nào bằng . Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì
dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện . Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không ?
Bí Trọng tâu :
-Bệ hạ giàu có bốn biển , đức sánh Thuấn , Nghiêu .
Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết , có gì mà bệ hạ không toại nguyện ?
Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển
bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẽ tuyệt sắc .
Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ , phán :
-À , thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra . Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy .
Rồi Trụ Vương trở về triều .
Hồi 2
Vua Trụ nghe Bí Trọng tâu mừng lắm , lập tức về cung . Sáng hôm sau lâm triều , Trụ Vương
phán :
-Nay Trẫm muốn ra chỉ dụ cho bốn trấn chư hầu kén chọn mỗi trấn một trăm mỹ nữ , chẳng luận
giàu sang , quí tộc , miễn là dung nhan đẹp đẻ , cốt cách dịu dàng , ăn nói khuôn phép để sung
vào cung sai khiến .
Quan Tể Tướng Thương Dung quỳ tâu :
-Xưa nay , hễ vua phải đạo thì muôn dân noi gương , không cần dạy dổ , nước vẫn yên vui , dân
vẫn tùng phục . Hiện trong cung bệ hạ đã có dư ngàn cung nữ , hậu phi lại hiền đức không ai
bằng , nếu bệ hạ còn kén thêm nữa , thần e rằng dân gian không phục . Thần có nghe nói , đạo
làm vua nên vui cái vui của dân , nên lo cái lo của dân . Hiện nay trời đang hạn hán , bệ hạ không
lo cái khổ của dân , lại chọn nữ sắc , hạ thần thấy không phải lẻ . Ðời Nghiêu , Thuấn dạy thiên
hạ không cần khí giới , không dùng hình pháp , khiến cho trời xuống điềm lành , sao Kiêu chiếu
sáng trời , chim phụng đổ nơi sân , cỏ chỉ mọc đầy nội , người đi lại đầy đường , chó không tiếng
sủa , ngày nắng , đêm mưa , lúa trổ hai gié , ấy là điềm thạnh trị .
Trụ Vưong nói :
-Ta kế vị nhà Thương mấy năm nay , tuy không được như đời Nghiêu , Thuấn , nhưng trăm họ
yên vui , bốn phương quy thuận , há không phải là đời thuận sao ?
Tể Tướng Thương Dung tâu :
-Nay phương Bắc đang có giặc , mọi miền dân chúng đang khốn đang khốn đốn vì nạn binh đao .
Thái sư phải bỏ việc triều đình đi dẹp loạn , nếu bệ hạ lo cái lo của dân thì phải dùng người hiền ,
đuổi kẻ nịnh , lấy nhân đức làm đầu , tự nhiên thiên hạ thái bình , khí hòa rải khắp thiên hạ . Còn
bệ hạ phải ưa nhìn tà sắc , tai ưa nghe tiếng dâm , săn thú dục vườn , vui riêng cái vui của sắc dục
, tất nhiên không tránh khỏi loạn ly . Theo ý hạ thần , bệ hạ không nên tuyển mỹ nữ vào cung
trong lúc này , xin bệ hạ xét lại .
Vua Trụ , nồi suy nghĩ hồi lâu , mặt buồn bả nói :
-Lời của khanh rất phải ! Thôi Trẫm bải bỏ ý định chọn mỹ nữ vào cung .
Dứt lời , Trụ Vương truyền bãi chầu .
Qua năm thứ tám , vào tiết tháng tư , bốn trấn chư hầu lớn đưa mấy trăm chư hầu nhỏ về Triều
Ca để chầu nhà Thương theo thể thức hàng năm .
Bấy giờ các chu hầu đều biết Thái Sư Văn Trọng đi dẹp loạn chưa về , quyền binh trong triều do
Bí Trọng , Vưu Hồn , hai tên nịnh thần ấy gần gủi vua xúi giục , muốn cho vua Trụ khỏi quở
trách , ai cũng đem ít nhiều lễ vật hối lộ nơi tư dinh của hai tên gian thần ấy .
Duy có một mình Tô Hộ , làm Ký Châu Hầu , tánh tình cương trực không chịu dua mị ai , việc
phải trái đều nói thẳng trước mặt , nên không đem lễ vật riêng đút lót cho Bí Trọng và Vưu Hồn .
Hai tên gian thần này đem lòng oán trách Tô Hộ , chờ dịp để trả thù .
Ðến ngày mồng một là ngày lành . Trụ Vương lâm triều , các quan ứng hầu đủ mặt . Huỳnh Môn
Quan vào tâu :
-Năm nay nhầm lễ chung , chư hầu lớn nhỏ đều tề tựu đến chầu bệ hạ để nghe dạy việc . Tất cả
đang đứng ở ngoài chờ lệnh .
Trụ Vương hỏi Thương Dung :
-Thừa Tướng định tiếp đón chư hầu như thế nào cho tiện ?
Thương Dung tâu :
-Bệ hạ chỉ cần đòi bốn trấn chư hầu lớn vào chầu để hỏi thăm dân tình mọi nơi và nếp sống ra sao
thôi . Bệ hạ nên dùng lời giả ơn họ . Còn các trấn chư hầu nhỏ thì để họ đứng chầu ngoài ngọ
môn cũng được .
Trụ Vương nghe theo , liền sai Huỳnh Môn Quan đòi các trấn chư hầu lớn vào đền ra mắt .
Bốn trấn chư hầu tuân lịnh , qua khỏi cửa Cửu Long , đến quỳ trước sân . Vua Trụ bước xuống
ngai , đứng nơi thềm rồng phủ dụ :
-Các khanh giúp Trẫm vổ an dân thứ , trấn ải dẹp loạn , đánh xa trị gần , có công khó nhọc như
vậy Trẫm rất hài lòng .
Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở tâu :
-Chúng tôi đội ơn trên ban chức tổng trấn , hằng ngày ráng lo nhiệm vụ , sợ không tròn trách
nhiệm bệ hạ giao phó , nếu có nhọc sức ngựa trâu đôi chút bất quá cũng chỉ mong đền bổn phận
làm tôi . Nay được bệ hạ ra ơn vổ về , thật chúng tôi vạn hạnh .
Trụ Vương rất vui mừng , truyền Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can khiến quân dọn
tiệc tại đền Hiển Thánh , đải đằng bốn vị tổng trấn cho tử tế .
Bốn trấn chư hầu lạy tạ rồi theo Thương Dung và Tỉ Can đến dự tiệc . Trụ Vương bãi triều vào
hậu cung đòi Bí Trọng và Vưu Hồn đến hỏi :
-Năm ngoái các khanh khuyên ta xuống chiếu nhờ bốn trấn chư hầu kén chọn mỹ nữ , nhưng bị
Tể Tướng Thương Dung cản ngăn . Năm nay sẳn dịp bốn trấn chư hầu về đủ mặt , Trẫm có nên
phán truy ền lệnh ấy hay không ?
Bí Trọng tâu :
-Thừa Tướng trước kia can việc kén mỹ nữ , bệ hạ đã nghe theo , bây giờ lại truyền kén nữa , tôi
e các chư hầu hay được mất uy tín của bệ hạ chăng ? Tôi có nghe đồn con gái Ký Châu Hầu Tô
Hộ quốc sắc khuynh thành , huê nhường nguyệt thẹn , nếu bệ hạ chọn vào cung cấm chắc được
toại nguyện . Vả lại đòi một người vào cung không làm cho dân chúng xôn xao , và cũng không
có gì .
Vua Trụ khen :
-Khanh thật là kẻ đa mưu túc trí . Như vậy mới đủ sức giúp Trẫm trong lúc này .
Nói rồi khiến nôi thị ra ngoài đòi Tô Hộ vào ra mắt .
Nội thị tuân lệnh ra đến nhà trạm truyền :
-Thiên Tử cho mời Ký Châu Hầu vào thương nghị việc nước .
Tô Hộ theo nội thị vào thẳng đến Long Ðức , làm lễ tung hô rồi quỳ nghe lệnh . Trụ vương hỏi :
-Trẫm nghe khanh có một người con gái nết na dịu dàng , tánh tình thuần hậu , Trẫm muốn chọn
vào hậu cung để được gần Trẫm , nếu được vậy khanh sẽ là quốc thích , ăn lộc trời , hưởng ngôi
lớn , yên trấn nơi Ký Châu , danh vang bốn biển . Ðời người được vinh hiển , giàu sang như vậy
ai lại không thích , chẳng biết ý khanh nư thế nào ?
Tô Hộ nghe Trụ Vương nói mặt lạnh như tiền , tâu :
-Bệ hạ có tam cung lục viện , cung nữ hơn ngàn người thì thiếu gì kẻ mặt liễu mày hoa ? Bệ hạ
còn chưa thỏa mãn sao ? Xin Bệ hạ chớ nghe lời kẻ dua mị nghĩ điều dục vọng . Vả lại con tôi
còn thơ dại , lễ phép chưa biết gì , đức hạnh và nhan sắc đều thiếu , bệ hạ nhọc lòng tưởng đến
làm chi . Xin hảy bền lòng lo việc chánh , để thiên hạ mến đức như vậy không rạng rỡ đức trị dân
sao ?
Vua Trụ cười lớn nói :
-Xưa nay ai cũng muốn cho con gái mình làm rạng rỡ tông môn , đáp đền hiếunthảo . Nay con
gái của khanh vào làm Phi hậu sánh vai với Trẫm , còn khanh thì lên hàng Quốc thích , vinh hiển
nhất đời còn gì hơn ? Sao khanh không nghĩ chuyện ấy , cố chấp làm gì ?
Tô Hộ đón biết do Vưu Hồn , Bí Trọng mất ăn , bày chuyện trả thù , nên giận nói lớn :
-Tôi nghe nói : Vua làm điều có đức thì muôn dân mến phục , bốn phương quy thuận , muôn dân
kính vì , lộc trời trọn hưởng . Xưa Vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc dục , làm lắm điều ác , còn
nhà Thương thì không màn của lợi , đức lớn ân nhiều , nên thiên hạ theo về , dựng lên đại nghiệp
. Nay Bệ hạ không bắt chước tổ tông , lại noi theo gương nhà Hạ , dẫm chân lên bước đường
vong quốc , hạ thần lấy làm tiếc . Hễ Hoàng đế ham sắc thì mất xã tắc , Ðại phu ham sắc thì mất
cơ nghiệp , thứ dân tham sắc thì lụy thân . Vua là tấm gương của bầy tôi , hễ Vua lổi đạo thì tôi
lăng loàn , lập phe tụ đảng , mối nước rối ren . Tôi chỉ sợ cơ nghiệp nhà Thương gầy dựng sáu
trăm năm nay , vì bệ hạ mà sụp đổ .
Trụ Vương nghe Tô Hộ nói xúc phạm , giận đỏ mặt mắng :
-Xưa nay hễ đạo làm tôi phải gìn lòng trung nghĩa , vua cho hầu thì lật đật đến hầu chẳng dám
đợi xe , Vua khiến chết chẳng dám từ chối . Nay Trẫm chỉ cần kén một đức con gái vào làm Hậu
Phi mà ngươi dám buông lời chống trả , mắng nhiếc Trẫm , lại sánh Trẫm với vua kiệt là một ông
vua mất nước . Có ai dám vô lễ như thế không ?
Liền truyền cho nội thị bắt Tô Hộ đem đến tòa pháp ti kết tội khi quân . Nội thị tuân lệnh bắt Tô
Hộ trói lại .
Vưu Hồn , Bí Trọng vội quỳ tâu :
-Tội khi quân của của Tô Hộ đáng xử phạt lắm , nhưng vì Bệ hạ nuốn kén con gái của Tô Hộ rồi
lại làm tội Tô Hộ e thiên hạ không hiểu sự tình nghĩ lầm rằng Bệ hạ trọng sắc khinh hiền . Xin Bệ
hạ ra ân tha tội cho Tô Hộ về nước . Tô hộ sẽ cảm đức bệ hạ , đem ái nữ dâng vào cung . Như
vậy Bệ hạ sẽ tránh được tiếng thị phi , mà tỏ mình có lòng nhân nữa .
Vua Trụ nghe nói bớt giận , truyền tha tội cho Tô Hộ , bảo phải về nước , không được nấn ná ở
triều ca ngày nào nữa .
Lệnh vua vừa ban xuống , nội thị liền mở trói đuổi Tô Hộ ra lập tức .
Tô Hộ trở về trạm dịch . Các tướng xúm lại nghênh tiếp , và hỏi thăm :
-Chẳng hay Thiên tử mời Chúa công vào triều bàn chuyện cơ mật gì vậy ?
Tô Hộ hơi giận chưa nguôi , thốt lời mắng Trụ Vương :
-Hôn quân vô đạo chẳng tiếc sự nghiệp của tổ ông để lại , nghe lời nịnh thần buộc ta phải tiến
dâng con gái để sung vào Hậu Phi . Ta đoán chắc việc này do Bí Trọng , Vưu Hồn xúi giục ,
muốn đem sắc đẹp mê hoặc lòng vua để tranh uy thế ? Ta can vua nhưng vua không nghe , lại
bảo ta nghịch mạng truyền dẩn đến pháp ti bắt tội .
Các tướng thở dài , hỏi :
-Nếu vậy Chúa công làm thế nào về được ?
Tô Hộ nói :
-Hai đứa gian nịnh ấy lại tâu xin với hôn quân tha tội cho ta trở về để cải hối , và dâng ái nữ cho
hôn quân . Việc này nếu Thái Sư Văn Trọng có ở triều , hai đứa gian thần ấy đâu dám lộng hành
như vậy ? Hôn quân đã sa vào tội lỗi , tiếc thay cơ nghiệp Thành Thang sớm tối phải tan tành .
Các tướng hỏi :
-Vậy chúa công có ý định thế nào đối với việc này ?
Tô Hộ nói :
-Nếu không dâng Ðắc Kỷ vào cung thế nào hôn quân cũng đem quân đánh phá nước ta , bằng
dâng Ðắc Kỷ vào đó sau này hôn quân thiếu đức làm hư xả tắc , thiên hạ sẽ cho ta là kẻ bất trí .
Các tướng có mưu nào gở rối chăng ?
Các tướng đồng nói :
-Hễ vua bất chánh thì tôi không phục , nay Thiên tử trọng sắc khinh hiền , Chúa công cũng cần gì
phải tôn thờ . Cứ trở về giử lấy nước mình an vui một cỏi .
Tô Hộ đang giận nghe mấy lời của các tướng chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu , mặt giận
phừng phừng nói :
-Ðấng trượng phu chẳng bao giờ thèm làm lén , đi ở phân minh .
Nói rồi khiến quân đem bút mựt ra , đề bốn câu thơ trên vách tường trước cửa đền , để thiên hạ rõ
ý mình không tùng phục nhà Thương nữa :
Quân loạn thần cương
Hữu bại ngũ thường
Ký Châu Tô Hộ
Vĩnh bất triều Thương
Có nghĩa là :
Vua chẳng kỹ cương
Lổi đạo luân thường
Ký Châu Tô Hộ
Chẳng chầu nhà Thương
Sau khi đề ra bài phản thi Tô Hộ dẫn các tướng ra khỏi Triều Ca trở về nước .
Còn vua Trụ tuy nghe lời Vưu Hồn , Bí Trọng tha Tô Hộ nhưng sợ Tô Hộ trở về không chắc chịu
dâng Ðắc Kỹ , nên lòng vẫn buồn bực không an . Tiếp đến có Huỳnh Môn Quan vào tâu :
-Tô Hộ đề phản thi trước ngõ , hạ thần chẳng dám dấu , xin phép vào trình bệ hạ rõ .
Nói rồi trải tấm giấy trên long án . Vua Trụ xem xong nổi giận mắng :
-Trẫm thuận theo lòng người ưa dung tha những kẻ có tội không giết loài chuột , mới cho về xứ .
Thế mà nó không biết xét thấy thân phận , lại đề phản thi trước đền , lăng nhục triều đình . Ta
không thể bỏ qua hành động ấy được .
Liền cho lệnh đòi ba viên đại tướng là Ân Phú Bại , Triều Ðiển ,và Lổ Hùng vào phán :
-Tô Hộ bất trung , làm phản thi đề ngoài ngọ môn nhục mạ thiên triều . Các khanh hãy điểm hai
mươi muôn binh đi tiên phuông , Trẫm sẽ dẫn các quan theo sau hậu tập .
Lổ Hùng cuối đầu nghĩ thầm :
-Tô Hộ là người trung nghĩa thưở nay , tánh tình ngay thẳng , chẳng biết vì sao lại có hành động
như vậy . Hay kẻ nào thù oán phao vu chăng ? Tội trạng còn chưa rõ ràng , nếu để nhà vua thân
chinh thì Ký Châu còn gì ?
Nghĩ như vậy , Lổ Hùng quỳ tâu :
-Tô Hộ có tội , cần gì Bệ hạ thân chinh cho nhọc . Nay bốn trấn chư hầu còn đó , nếu muốn bắt
Tô Hộ , Bệ hạ chỉ cần sai một trong bốn chư hầu ấy đem quân vấn tội cũng đủ .
Trụ vương hỏi :
-Bốn trấn chư hầu ấy Trẫm nên sai ai đi bắt Tô Hộ ?
Bí Trọng quỳ tâu :
-Ký Châu thuộc phần đất Bắc Bá Hầu điều khiển , xin Bệ hạ sai Sùng Hầu Hổ đem binh bắt Tô
Hộ là phải lẻ .
Trụ Vương y lời , Lổ Hùng lại nghĩ thầm :
-Sùng Hầu hổ là người tham lam hung dữ , nếu lấy oai thiên tử đi chinh phạt , dân Ký Châu sẽ bị
thảm họa không ít . Sẳn đây có Tây Bá Hầu là người nhân đức , nếu tiến cử Tây Bá Hầu thì lưỡng
toàn .
Nghĩ như vậy , Lổ Hùng tâu :
-Sùng Hầu Hổ tuy làm tổng trấn cỏi Bắc , nhưng ân đức chưa có bao nhiêu , nếu thay Bệ hạ đi
chinh phạt e không thắng , chi bằng sai Tây Bá Hầu là Cơ Xương , lâu nay nổi tiếng nhân nghĩa ,
may ra không tốn tên đạn mà bắt Tô Hộ dễ hơn .
Trụ Vương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói :
-Thôi để Trẫm sai cả hai trấn chư hầu ấy cùng hợp sức đem binh vấn tội thì tiện hơn .
Tiếp đó , Trụ Vương thảo chiếu sai nội thị truyền đạt .
Bấy giờ , bốn trấn chư hầu đang dự tiệc với Thừa tướng Thương Dung và Tỉ Can tại đền hiển
Thánh , bổng có sứ đến dạy Tây và Bắc Bá Hầu nghe truyền chiếu chỉ .
Hai trấn chư hầu thấy có chiếu Thiên tử vội quỳ mọp dưới đất , Sứ thần tuyên đọc như sau :
"Trẫm nghe : Mão đội trên đầu , dép đi dưới chân , không thể làm trái ngược được . Chúa trị dân
tôi thờ chúa , ấy là do đạo trời . Nay Tô Hộ chẳng biết đạo nghĩa , không kể phận vua tôi , khinh
lờn phép nước , Trẫm vì lòng nhân tha cho về nước , nhưng lại không biết hốc cải ăn năn , đề
phẩn thơ có ý nghịch mạng trời , nay Trẫm ban bùa việt , cờ mao , uy quyền cho Tây và Bắc Bá
Hầu thay mặt Trẫm , đem binh đến Ký Châu vấn tội . Nếu ai vì tình riêng dung tha kẻ tôi loàn sẽ
bị liên can "
Thiên sứ đọc chiếu xong , hai vị tổng trấn đều lạy tạ , vâng mạng .
Ðoạn Tây Bá Hầu nói với Thừa Tướng Thương Dung và ba vị tổng trấn kia :
-Tô Hộ đến chầu Thiên tử chưa vào đền ra mắt , sao trong chiếu lại nói không kể phận vua tôi ,
khinh lờn phép nước ? Việc này chưa hiễu nguyên nhân ra sao . Vả chăng Tô Hộ là người trung
nghĩa thuở nay , hằng có công với triều đình . Còn việc đề thơ ngoài ngỏ phản đối thiên triều , tôi
e không xác đáng . Nếu Bệ hạ nghe theo lời kẻ quấy , sai chinh phạt tôi trung , e không hợp với
lòng dân . Xin Thừa Tướng và Á Tướng ngày mai vào chầu , hỏi xem tội Tô Hộ là tội gì cho biết
. Nếu đáng trừng phạt thì trừng phạt , còn không đáng thì phải can vua kẻo tội nghiệp Ký Châu
Hầu .
Tỉ Can nói :
-Lời Tây Bá Hầu luận rất phải . Phàm trị một người nào cũng nên nêu rõ tội trạng cho minh bạch
đã .
Sùng Hầu Hổ nói :
-Dù sao lệnh thiên tữ đã ban , chúng ta không nên làm trái . Tôi chắc Tô Hộ có ý phản Thương ,
nếu không lẽ nào thiên tử kết tội ?
Tây Bá Hầu Cơ Xương nói :
-Lời ông luận chỉ đúng theo lẻ thường . Còn ở đây Tô Hộ là người quân tử , lòng thẳng dạ ngay .
Tận trung phò chúa . Một người như vậy đâu thể phản phúc một cách dễ dàng . Nếu chúng ta
không dè đặt . Thiên tử đã nghe lời sàm tấu , chúng ta cứ tuân theo mệnh lệnh thiên triều , chẳng
hóa ra chúng ta cùng một lũ vô dụng , không biết gì phải trái sao ?
Sùng Hầu Hổ to tiếng :
-Ông nói sao lạ vậy ? Không cần biết lệnh vua phải hay trái , chúng ta là tôi thần , vua sai gì
chúng ta không thể không tuân . Kẻ nào trái mệnh vua tự nhiên đã mang tội khi quân rồi .
Tây Bá Hầu cười nhạt :
-Nếu vậy ông hưng binh đi trước . Tôi sẽ theo sau .
Sùng Hầu Hổ lập tức từ giả về nước . Tây Bá Hầu còn nán lại nói với Thừa Tướng Thương Dung
:
-Tôi sẽ về Tây kỳ cất binh theo sau .
Tiệc mãn , các trấn chư hầu ai về nước nấy .
Khi Tô Hộ về đến Ký Châu , con trai lớn là Tô Toàn Trung đem các tướng ra khỏi thành nghênh
tiếp . Cha con mừng rỡ , kéo nhau vào thành . Các tướng quỳ lạy chúc mừng và hỏi :
-Chúa công vào triều thiên tử năm nay có điều gì khác lạ không ?
Tô Hộ buồn bả nói :
-Nay thiên tử từ bỏ hết các việc chánh , nghe lời nịnh thần làm điều phi nghĩa , bắt ta dâng con
gái vào triều làm Hậu Phi . Ta dùng lời ngay can gián . Thiên tử cho ta phản nghịch . Ðang cơn
giận dữ ta đề phản thi vào ngọ môn rồi bỏ về đây . Sớm tối chắc có binh chư hầu tuân lệnh hôn
quân kéo đến đây vấn tội . Vậy các tướng lo chỉnh đốn binh mã , trên thành dự bị cung tên trí thủ
đâu đó sẳn sàng , chờ ngày đối phó .
Các tướng tuân lệnh ngày đêm canh phòng cẩn mật .
Ngay lúc đó , Sùng hầu hổ về nước lập tức điểm năm vạn quân , người ngựa rộn ràng , kéo đến
Ký Châu đánh Tô Hộ . Khi đến nơi Sùng Hầu Hổ truyền lệnh an dinh hạ trại xong cho các tướng
nghĩ ngơi một bữa , rồi mới ra binh .
Quân thám thính trong thành hay được vào báo với Tô Hộ .
Tô Hộ hỏi :
-Chư Hầu nào hưng binh vậy ?
Quân sĩ thưa :
-Thấy hiệu cờ đề Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ .
Tô Hộ giận nói :
-Nếu người khác thì dùng phải trái tỏ bày được , chớ Sùng Hầu Hổ là kẻ bất chấp nhơn nghĩa , có
nói cũng uổng lời thôi . Chi bằng sẳn dịp này ta xua binh đánh nó một trận cho nó thấy cái oai
của ta .
Nói rồi điềm binh ra ngoài thành khiêu chiến . Các tướng theo hầu rất đông . Tô Hộ cho ngựa
lướt đến trước trại Sùng Hầu Hổ , nói :
-Ta là Ký Châu Hầu muốn mời Bắc bá hầu ra nói chuyện .
Sùng Hầu Hổ được tin liền dàn quân bố trận , trước mặt dựng hai cây cờ thêu rồng , sau lưng có
người con trai lớn là Sùng Ứng Bưu theo phò tá . Còn Sùng Hầu Hổ thì mặc giáp vàng , đầu đội
kim lhôi sáng chói , lưng buộc đai ngọc , tay cầm đại đao uy phong lẩm liệt . Tô Hộ thấy vậy xá
Sùng Hầu Hổ một cái và nói :
-Ngài vẫn mạnh giỏi chứ ? Tôi vì mặt giáp trụ trong người không được trọn lễ xin ngài miễn chấp
. Chẳng biết ngài kéo binh tới Ký Châu này để làm gì ?
Sùng Hầu Hổ nói :
-Ngươi đề thơ phản thiên triều , nghịch mạng thiên tử , nên thiên tử sai ta đem binh đến vấn tội .
Tô Hộ nói :
-Hễ vua bất minh tôi phải loạn . Nay thiên tử vô đạo , trọng nịnh khinh hiền , không lo việc nước
lại nghĩ đến điều sắc dục , khiến kén Hậu Phi . Như thế chẳng bao lâu nhà Thương sẽ ly loạn .
Còn tôi là tay chân của ngài , đem thân bảo vệ bờ cỏi , sao ngài lại không bênh vực . Nghe lời
hôn quân chinh phạt làm gì ?
Sùng Hầu Hổ nạt lớn :
-Ngươi là đứa phản thần , tội đáng tru lục . Nay ta vâng lệnh đem binh hỏi tội , lẻ ra ngươi phải
bó tay nạp mình , còn cầm đao lên ngựa ra đây đối diện với ta sao ?
Dứt lời Hầu Hổ đưa mắt nhìn sang một bên , hỏi lớn :
-Có ai dám ra bắt tên phản tặc đó cho ta không ?
Phía tả có một tướng đầu đội kim khôi , mình mang giáp vàng , cởi ngựa ô , lách ngựa đến trước
nói :
-Xin Chúa công để tôi bắt nó cho .
Bên kia , Tô Toàn Trung thấy vậy vổ ngựa tới hét lớn :
-Ðừng phách lối ! Ngươi là Mai Võ ta đã biết tài ngươi rồi , chớ hợm hĩnh mà mất mạng .
Mai Võ thấy Toàn Trung cản lại , mặt đỏ ngầu , hét :
-Cha con bây đã phạm tội phản nghịch còn liều lĩnh chống lại binh trời . Ta chắc chắn sẽ không
tránh khỏi nạn diệt tộc đó .
Tô Toàn Trung vỗ nhựa múa kích đâm ngang hông . Mai Võ đưa búa ra đở . Hai bên đánh nhau
được hai mươi hiệp . Mai Võ bị Toàn Trung đâm một kích trúng ngay yết hầu nhào xuống ngựa .
Tô Hộ thấy con mình đã giết được tướng địch , thừa thắng giống trống lên . Những viên dõng
tướng Ký Châu là : Triệu Bính , Trần Qui Trinh đồng giục ngựa múa đao lướt tới đốc quân hãm
chiến . Quân Sùng Hầu Hổ túng thế bỏ chạy , quân Ký Châu chạy theo đâm chém tơi bời .
Rượt quân giặc trên hai mươi dậm , Tô Hộ mới giống kiển thu quân , kéo vào thành khao thưởng
tướng sĩ , và hỏi :
-Hôm nay chúng ta thắng trận đầu , thế nào Sùng Hầu Hổ cũng sẽ củng cố lực lượng báo thù .
Nếu Sùng Hầu Hổ tăng cường các tướng ở các trấn áp đảo Ký Châu ta thì liệu làm sao ?
Phó tướng Triệu Bình thưa :
-Việc chinh chiến thắng bại là thường . Vả lại thế chiến không phải một trận là hết . Ngày trước
Chúa công đã đề phản thi bất khuất thiên thư , nay lại ra binh giết hại chư hầu , ấy là thế cởi cọp ,
không thể xuống được . Theo ngu ý của tôi đã hành động phải dứt khoát , không nên lưỡng lự .
Sùng Hầu Hổ vừa thua một trận binh tướng xiểng liểng , ta nên thừa cơ truy kích , đánh cho Sùng
Hầu Hổ một trận nữa không còn manh giáp , tiếp đó phải giao thiệp với các trấn chư hầu , lấy
nhân nghĩa đối đải , thu những chư hầu nào có cảm tình với ta dựa thế để làm hậu viện , như vậy
mới giử được Ký Châu này .
Tô Hộ nghe nói khen :
-Ý kiến ngươi rất hay . Vậy phải thực hiện gấp phương pháp đó .
Nói rồi liền sai Toàn Trung lãnh ba ngàn binh ra mai phục nơi trấn Ngủ Cang , cách Tây môn
mười dậm để chờ lịnh .
Toàn Trung vội kéo binh ra đi , Tô Hộ lại khiến Trần Qui Trinh làm Tả Chi , Triệu Bính làm Hữu
Dực , còn mình lãnh đạo trung quân , đang lúc hoàng hôn cuốn cờ giấu trống người ngậm thẻ ,
ngựa cất lạc , kéo đi , đọi nghe tiếng súng lệnh thì ba mặt áp vào cướp trại địch .
Còn Sùng Hầu Hổ ỷ mạnh , đem quân chinh phạt xứ xa , chẳng ngờ mới ra trận đầu đã hao binh
tổn tướng , lòng hổ thẹn , dẫn một số tàn quân đóng trại nghĩ ngơi , suốt đêm ngồi than thở với
các tướng :
-Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều , chưa thua trận nào nhục như trận này , đã mất một
tướng , lại hao binh quá sức , nay liệu làm sao ?
Ðại tướng Huỳnh Nguyên Tuế thưa :
-Binh gia thắng bại là chuyện thường , Chúa công chớ lấy thế mà buồn rầu . Tôi dám chắc binh
của Tây Bá Hầu nay mai sẽ kéo đến đây , chừng ấy chúng ta hợp binh hai mặt đánh một trận trả
thù , lấy Ký Châu rất dễ .
Sùng Hầu Hổ bày tiệc ăn uống giải khuây , rồi vào trướng an nghĩ .
Tô Hộ kéo binh tới , cho quân thám thính dọ xét địch tình , thấy trong dinh quân sĩ đều mỏi mệt
ngủ say hết , liền ra lệnh đốt ba tiếng pháo , ba ngả binh xông vào một lượt đánh giết tưng bừng .
Quân Sùng Hầu Hổ loạn lên , đạp nhau mà chạy , người không kịp mặc giáp , ngựa không ki5p
gác yên , túa ra các cửa trại bị giáo đâm , gươm chém , chết thôi vô số .
Tô Hộ cầm thuơng cởi ngựa đi lộn trong quân tìm Sùng Hầu Hổ . Còn Sùng Hầu Hổ lúc ấy đang
ngủ say , nghe quân ó vội ngồi dậy , mang giáp cầm đao , vừa lên ngựa ra khỏi cửa trại đã gặp Tô
Hộ lướt tới mắng lớn :
-Hầu Hổ ! Ngươi chạy đi đâu ? Mau xuống ngựa chịu trói cho rồi .
Dứt lời đâm liền một giáo . Hầu Hổ thất kinh đưa đao ra đỡ , thời may có Sùng Ứng Bưu , Kim
Quỳnh và Huỳnh Nguyên Tuế tiếp đến bảo vệ . Bên Tô Hộ cũng có Triệu Bình , Trần Qui Trinh
vừa dùa binh đánh đến nơi , trông thấy liền chận ba tướng của Sùng Hầu Hổ lại giáp chiến .
Các tướng đánh nhầu với nhau một lúc , Kim Quỳnh bị Triếu Bính chém đầu . Sùng Hầu Hổ thất
kinh không dám cự với Tô Hộ nữa , vừa đánh vừa chạy , nhờ có con là Sùng Ứng Bưu ra sức bảo
vệ mới khỏi chết .
Tuy vậy thân xác Hầu Hổ chẳng khác chó nhà hoang , cá lọt lưới chạy thôi giáp mão tơi bời .
Thương hại mấy mươi vạn binh của Hầu Hổ chết như rạ , máu chảy thành sông , thây phơi như
núi .
Tô Hộ đuổi theo được mười dậm rồi thu binh trở lại . Cha con Hầu Hổ chạy mãi không dám dừng
chân . Tiếp đó có Huỳnh nguyên Tuế và tôn Tử võ kéo một mớ tàn quân chạy theo kịp , Cha con
Hầu Hổ mới vững bụng thu góp binh thua , kiểm điểm lại thấy mười phần hao hết phân nữa .
Hầu Hổ than :
-Ta cầm binh tự bấy lâu nay chưa thua trận nào như vậy . Bởi ta khinh Ký Châu là tiểu trấn ,
không phòng bị nên mới lầm mưu địch . Còn Tây Bá Hầu Cơ Xương thì chắc là không tuân lệnh
thiên tử , ngồi ở nhà xem thắng bại thôi . Thật là nhục ! Thù này biết bao giờ mới nguôi được ?
Sùng Ứng Bưu thưa :
-Quân ta mới thua , uy thế đã nhục lắm rồi . Chi bằng cứ tạm đồn binh nơi đây rồi cho người sang
thôi thúc Tây Bá Hầu xem người có ý định như thế nào rồi sẽ tính .
Hầu Hổ nói :
-Con nói như vậy cũng phải . Thôi , cứ để trời sáng sẽ cho người đến Tây Bá Hầu đôn đốc .
Cha con đang đàm luận , bổng nghe tiếng quân ó vang trời , xa xa có một tướng nhỏ , đội mão
vàng , giắt hai chiếc lông trĩ , mặc giáp đỏ , cỡi ngựa kim , tay cầm cây kích , mặt tròn tự trăng
rằm , môi đỏ như son , bay ngựa tới nạt lớn :
-Sùng Hầu Hổ , ta vâng lệnh phụ thân ta mai phục nơi đây đợi ngươi đã lâu lắm , ngươi không
không xuống ngựa bó tay còn đợi đến chừng nào nữa ?
Sùng Hầu hổ thấy viên tiểu tướng ấy là Tô Toàn Trung , nỗi giận mắng lớn :
-Cha con bay làm phản , Nghịch mạng triều đình , tội chết tày non , dẩu có bầm thây chúng bây
đến tan nát cũng chưa đền tội . Ta vô ý nên mắc mưu , chưa phải thắng một trận mà nên công
được , chúng bây chớ có vô lễ đón đường chận ngỏ , ta e nay mai binh triều kéo đến đây , cha con
bây dầu có cánh lên trời cũng chẳng kịp .
Tô Toàn Trung cười ngất :
-Thôi thôi , chớ nhiều lời vô ích , hãy nói chuyện với cây kích của ta đây .
Vừa nói , Toàn Trung vừa vung kích đâm tới . Bên kia Huỳnh Nguyên Tuế lướt ngựa tới cản mũi
kích . Toàn Trung lại bảo vệ Sùng Hầu Hổ .
Hai tướng đánh nhau chừng vài hiệp , Tôn Tử Võ giục ngựa ra múa chỉa ba đánh giúp với Huỳnh
Nguyên Tuế , quyết hạ cho kỳ được Tô Toàn trung . Ai ngờ Tô Toàn trung võ nghệ siêu quần ,
một mình chấp hai tướng , đánh vùi như mưa Bấc . Ðánh chừng hai chục hiệp , Toàn Trung ra
miệng hét lên một tiếng , đâm Tôn Tử Võ một kích nhào xuống ngựa . Huỳnh Nguyên Tuế cả
giận , vung thương đâm chém rất dữ , nhưng Toàn Trung không thèm đánh với Huỳnh Nguyên
Tuế , lướt ngựa tới đâm Sùng Hầu Hổ .
Sùng Hầu Hổ sợ hãi lui ngựa ra sau . Sùng Ứng Bưu vội lướt tới đở cây kích của Toàn Trung rồi
hiệp lực với Huỳnh Nguyên Tuế cự chiến . Toàn Trung lúc này đánh với ba tướng , nhưng càng
đánh càng hăng , không biết mệt , múa kích như mưa bay gió táp .
Ðánh được một lúc , Sùng Hầu Hổ bị Toàn Trung chém toẹt một đường đứt nữa áo giáp . Hầu Hổ
mất vía quất ngựa chạy dài . Ứng Bưu lúng túng bị Toàn Trung đâm một kích nhắm cánh tay ,
gần nhào xuống ngựa , may nhờ có Huỳnh Nguyên Tuế bảo vệ mới chạy khỏi .
Tô Toàn Trung đắc thắng , rượt đám tàn quân của Sùng Hầu Hổ chém giết môt hồi , thấy trời còn
khuya chẳng dám đuổi theo , vội thâu binh về .
Khi Toàn Trung về đến chân thành , trời mới rựng sáng , vội kêu quân mở cửa vào ra mắt Tô Hộ
thưa :
-Con vâng lệnh thân phụ mai phục tại Ngủ Cang , đến nữa đêm địch quân chạy đến đó , một
mình con chém đứt vạt giáp của Sùng Hầu Hổ , đâm chết Tôn Tử Võ và đánh Sùng Ứng Bưu gần
sa xuống ngựa , vì trời tối , sợ có điều gì sơ xuất con không dám đuổi theo , xin phụ thân miễn tội
.
Tô Hộ nói :
-Con đã làm chúng nó khiếp vía rồi , như thế cũng đũ , khỏi cần truy kích nữa .
Vua Trụ nghe Bí Trọng tâu mừng lắm , lập tức về cung . Sáng hôm sau lâm triều , Trụ Vương
phán :
-Nay Trẫm muốn ra chỉ dụ cho bốn trấn chư hầu kén chọn mỗi trấn một trăm mỹ nữ , chẳng luận
giàu sang , quí tộc , miễn là dung nhan đẹp đẻ , cốt cách dịu dàng , ăn nói khuôn phép để sung
vào cung sai khiến .
Quan Tể Tướng Thương Dung quỳ tâu :
-Xưa nay , hễ vua phải đạo thì muôn dân noi gương , không cần dạy dổ , nước vẫn yên vui , dân
vẫn tùng phục . Hiện trong cung bệ hạ đã có dư ngàn cung nữ , hậu phi lại hiền đức không ai
bằng , nếu bệ hạ còn kén thêm nữa , thần e rằng dân gian không phục . Thần có nghe nói , đạo
làm vua nên vui cái vui của dân , nên lo cái lo của dân . Hiện nay trời đang hạn hán , bệ hạ không
lo cái khổ của dân , lại chọn nữ sắc , hạ thần thấy không phải lẻ . Ðời Nghiêu , Thuấn dạy thiên
hạ không cần khí giới , không dùng hình pháp , khiến cho trời xuống điềm lành , sao Kiêu chiếu
sáng trời , chim phụng đổ nơi sân , cỏ chỉ mọc đầy nội , người đi lại đầy đường , chó không tiếng
sủa , ngày nắng , đêm mưa , lúa trổ hai gié , ấy là điềm thạnh trị .
Trụ Vưong nói :
-Ta kế vị nhà Thương mấy năm nay , tuy không được như đời Nghiêu , Thuấn , nhưng trăm họ
yên vui , bốn phương quy thuận , há không phải là đời thuận sao ?
Tể Tướng Thương Dung tâu :
-Nay phương Bắc đang có giặc , mọi miền dân chúng đang khốn đang khốn đốn vì nạn binh đao .
Thái sư phải bỏ việc triều đình đi dẹp loạn , nếu bệ hạ lo cái lo của dân thì phải dùng người hiền ,
đuổi kẻ nịnh , lấy nhân đức làm đầu , tự nhiên thiên hạ thái bình , khí hòa rải khắp thiên hạ . Còn
bệ hạ phải ưa nhìn tà sắc , tai ưa nghe tiếng dâm , săn thú dục vườn , vui riêng cái vui của sắc dục
, tất nhiên không tránh khỏi loạn ly . Theo ý hạ thần , bệ hạ không nên tuyển mỹ nữ vào cung
trong lúc này , xin bệ hạ xét lại .
Vua Trụ , nồi suy nghĩ hồi lâu , mặt buồn bả nói :
-Lời của khanh rất phải ! Thôi Trẫm bải bỏ ý định chọn mỹ nữ vào cung .
Dứt lời , Trụ Vương truyền bãi chầu .
Qua năm thứ tám , vào tiết tháng tư , bốn trấn chư hầu lớn đưa mấy trăm chư hầu nhỏ về Triều
Ca để chầu nhà Thương theo thể thức hàng năm .
Bấy giờ các chu hầu đều biết Thái Sư Văn Trọng đi dẹp loạn chưa về , quyền binh trong triều do
Bí Trọng , Vưu Hồn , hai tên nịnh thần ấy gần gủi vua xúi giục , muốn cho vua Trụ khỏi quở
trách , ai cũng đem ít nhiều lễ vật hối lộ nơi tư dinh của hai tên gian thần ấy .
Duy có một mình Tô Hộ , làm Ký Châu Hầu , tánh tình cương trực không chịu dua mị ai , việc
phải trái đều nói thẳng trước mặt , nên không đem lễ vật riêng đút lót cho Bí Trọng và Vưu Hồn .
Hai tên gian thần này đem lòng oán trách Tô Hộ , chờ dịp để trả thù .
Ðến ngày mồng một là ngày lành . Trụ Vương lâm triều , các quan ứng hầu đủ mặt . Huỳnh Môn
Quan vào tâu :
-Năm nay nhầm lễ chung , chư hầu lớn nhỏ đều tề tựu đến chầu bệ hạ để nghe dạy việc . Tất cả
đang đứng ở ngoài chờ lệnh .
Trụ Vương hỏi Thương Dung :
-Thừa Tướng định tiếp đón chư hầu như thế nào cho tiện ?
Thương Dung tâu :
-Bệ hạ chỉ cần đòi bốn trấn chư hầu lớn vào chầu để hỏi thăm dân tình mọi nơi và nếp sống ra sao
thôi . Bệ hạ nên dùng lời giả ơn họ . Còn các trấn chư hầu nhỏ thì để họ đứng chầu ngoài ngọ
môn cũng được .
Trụ Vương nghe theo , liền sai Huỳnh Môn Quan đòi các trấn chư hầu lớn vào đền ra mắt .
Bốn trấn chư hầu tuân lịnh , qua khỏi cửa Cửu Long , đến quỳ trước sân . Vua Trụ bước xuống
ngai , đứng nơi thềm rồng phủ dụ :
-Các khanh giúp Trẫm vổ an dân thứ , trấn ải dẹp loạn , đánh xa trị gần , có công khó nhọc như
vậy Trẫm rất hài lòng .
Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở tâu :
-Chúng tôi đội ơn trên ban chức tổng trấn , hằng ngày ráng lo nhiệm vụ , sợ không tròn trách
nhiệm bệ hạ giao phó , nếu có nhọc sức ngựa trâu đôi chút bất quá cũng chỉ mong đền bổn phận
làm tôi . Nay được bệ hạ ra ơn vổ về , thật chúng tôi vạn hạnh .
Trụ Vương rất vui mừng , truyền Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can khiến quân dọn
tiệc tại đền Hiển Thánh , đải đằng bốn vị tổng trấn cho tử tế .
Bốn trấn chư hầu lạy tạ rồi theo Thương Dung và Tỉ Can đến dự tiệc . Trụ Vương bãi triều vào
hậu cung đòi Bí Trọng và Vưu Hồn đến hỏi :
-Năm ngoái các khanh khuyên ta xuống chiếu nhờ bốn trấn chư hầu kén chọn mỹ nữ , nhưng bị
Tể Tướng Thương Dung cản ngăn . Năm nay sẳn dịp bốn trấn chư hầu về đủ mặt , Trẫm có nên
phán truy ền lệnh ấy hay không ?
Bí Trọng tâu :
-Thừa Tướng trước kia can việc kén mỹ nữ , bệ hạ đã nghe theo , bây giờ lại truyền kén nữa , tôi
e các chư hầu hay được mất uy tín của bệ hạ chăng ? Tôi có nghe đồn con gái Ký Châu Hầu Tô
Hộ quốc sắc khuynh thành , huê nhường nguyệt thẹn , nếu bệ hạ chọn vào cung cấm chắc được
toại nguyện . Vả lại đòi một người vào cung không làm cho dân chúng xôn xao , và cũng không
có gì .
Vua Trụ khen :
-Khanh thật là kẻ đa mưu túc trí . Như vậy mới đủ sức giúp Trẫm trong lúc này .
Nói rồi khiến nôi thị ra ngoài đòi Tô Hộ vào ra mắt .
Nội thị tuân lệnh ra đến nhà trạm truyền :
-Thiên Tử cho mời Ký Châu Hầu vào thương nghị việc nước .
Tô Hộ theo nội thị vào thẳng đến Long Ðức , làm lễ tung hô rồi quỳ nghe lệnh . Trụ vương hỏi :
-Trẫm nghe khanh có một người con gái nết na dịu dàng , tánh tình thuần hậu , Trẫm muốn chọn
vào hậu cung để được gần Trẫm , nếu được vậy khanh sẽ là quốc thích , ăn lộc trời , hưởng ngôi
lớn , yên trấn nơi Ký Châu , danh vang bốn biển . Ðời người được vinh hiển , giàu sang như vậy
ai lại không thích , chẳng biết ý khanh nư thế nào ?
Tô Hộ nghe Trụ Vương nói mặt lạnh như tiền , tâu :
-Bệ hạ có tam cung lục viện , cung nữ hơn ngàn người thì thiếu gì kẻ mặt liễu mày hoa ? Bệ hạ
còn chưa thỏa mãn sao ? Xin Bệ hạ chớ nghe lời kẻ dua mị nghĩ điều dục vọng . Vả lại con tôi
còn thơ dại , lễ phép chưa biết gì , đức hạnh và nhan sắc đều thiếu , bệ hạ nhọc lòng tưởng đến
làm chi . Xin hảy bền lòng lo việc chánh , để thiên hạ mến đức như vậy không rạng rỡ đức trị dân
sao ?
Vua Trụ cười lớn nói :
-Xưa nay ai cũng muốn cho con gái mình làm rạng rỡ tông môn , đáp đền hiếunthảo . Nay con
gái của khanh vào làm Phi hậu sánh vai với Trẫm , còn khanh thì lên hàng Quốc thích , vinh hiển
nhất đời còn gì hơn ? Sao khanh không nghĩ chuyện ấy , cố chấp làm gì ?
Tô Hộ đón biết do Vưu Hồn , Bí Trọng mất ăn , bày chuyện trả thù , nên giận nói lớn :
-Tôi nghe nói : Vua làm điều có đức thì muôn dân mến phục , bốn phương quy thuận , muôn dân
kính vì , lộc trời trọn hưởng . Xưa Vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc dục , làm lắm điều ác , còn
nhà Thương thì không màn của lợi , đức lớn ân nhiều , nên thiên hạ theo về , dựng lên đại nghiệp
. Nay Bệ hạ không bắt chước tổ tông , lại noi theo gương nhà Hạ , dẫm chân lên bước đường
vong quốc , hạ thần lấy làm tiếc . Hễ Hoàng đế ham sắc thì mất xã tắc , Ðại phu ham sắc thì mất
cơ nghiệp , thứ dân tham sắc thì lụy thân . Vua là tấm gương của bầy tôi , hễ Vua lổi đạo thì tôi
lăng loàn , lập phe tụ đảng , mối nước rối ren . Tôi chỉ sợ cơ nghiệp nhà Thương gầy dựng sáu
trăm năm nay , vì bệ hạ mà sụp đổ .
Trụ Vương nghe Tô Hộ nói xúc phạm , giận đỏ mặt mắng :
-Xưa nay hễ đạo làm tôi phải gìn lòng trung nghĩa , vua cho hầu thì lật đật đến hầu chẳng dám
đợi xe , Vua khiến chết chẳng dám từ chối . Nay Trẫm chỉ cần kén một đức con gái vào làm Hậu
Phi mà ngươi dám buông lời chống trả , mắng nhiếc Trẫm , lại sánh Trẫm với vua kiệt là một ông
vua mất nước . Có ai dám vô lễ như thế không ?
Liền truyền cho nội thị bắt Tô Hộ đem đến tòa pháp ti kết tội khi quân . Nội thị tuân lệnh bắt Tô
Hộ trói lại .
Vưu Hồn , Bí Trọng vội quỳ tâu :
-Tội khi quân của của Tô Hộ đáng xử phạt lắm , nhưng vì Bệ hạ nuốn kén con gái của Tô Hộ rồi
lại làm tội Tô Hộ e thiên hạ không hiểu sự tình nghĩ lầm rằng Bệ hạ trọng sắc khinh hiền . Xin Bệ
hạ ra ân tha tội cho Tô Hộ về nước . Tô hộ sẽ cảm đức bệ hạ , đem ái nữ dâng vào cung . Như
vậy Bệ hạ sẽ tránh được tiếng thị phi , mà tỏ mình có lòng nhân nữa .
Vua Trụ nghe nói bớt giận , truyền tha tội cho Tô Hộ , bảo phải về nước , không được nấn ná ở
triều ca ngày nào nữa .
Lệnh vua vừa ban xuống , nội thị liền mở trói đuổi Tô Hộ ra lập tức .
Tô Hộ trở về trạm dịch . Các tướng xúm lại nghênh tiếp , và hỏi thăm :
-Chẳng hay Thiên tử mời Chúa công vào triều bàn chuyện cơ mật gì vậy ?
Tô Hộ hơi giận chưa nguôi , thốt lời mắng Trụ Vương :
-Hôn quân vô đạo chẳng tiếc sự nghiệp của tổ ông để lại , nghe lời nịnh thần buộc ta phải tiến
dâng con gái để sung vào Hậu Phi . Ta đoán chắc việc này do Bí Trọng , Vưu Hồn xúi giục ,
muốn đem sắc đẹp mê hoặc lòng vua để tranh uy thế ? Ta can vua nhưng vua không nghe , lại
bảo ta nghịch mạng truyền dẩn đến pháp ti bắt tội .
Các tướng thở dài , hỏi :
-Nếu vậy Chúa công làm thế nào về được ?
Tô Hộ nói :
-Hai đứa gian nịnh ấy lại tâu xin với hôn quân tha tội cho ta trở về để cải hối , và dâng ái nữ cho
hôn quân . Việc này nếu Thái Sư Văn Trọng có ở triều , hai đứa gian thần ấy đâu dám lộng hành
như vậy ? Hôn quân đã sa vào tội lỗi , tiếc thay cơ nghiệp Thành Thang sớm tối phải tan tành .
Các tướng hỏi :
-Vậy chúa công có ý định thế nào đối với việc này ?
Tô Hộ nói :
-Nếu không dâng Ðắc Kỷ vào cung thế nào hôn quân cũng đem quân đánh phá nước ta , bằng
dâng Ðắc Kỷ vào đó sau này hôn quân thiếu đức làm hư xả tắc , thiên hạ sẽ cho ta là kẻ bất trí .
Các tướng có mưu nào gở rối chăng ?
Các tướng đồng nói :
-Hễ vua bất chánh thì tôi không phục , nay Thiên tử trọng sắc khinh hiền , Chúa công cũng cần gì
phải tôn thờ . Cứ trở về giử lấy nước mình an vui một cỏi .
Tô Hộ đang giận nghe mấy lời của các tướng chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu , mặt giận
phừng phừng nói :
-Ðấng trượng phu chẳng bao giờ thèm làm lén , đi ở phân minh .
Nói rồi khiến quân đem bút mựt ra , đề bốn câu thơ trên vách tường trước cửa đền , để thiên hạ rõ
ý mình không tùng phục nhà Thương nữa :
Quân loạn thần cương
Hữu bại ngũ thường
Ký Châu Tô Hộ
Vĩnh bất triều Thương
Có nghĩa là :
Vua chẳng kỹ cương
Lổi đạo luân thường
Ký Châu Tô Hộ
Chẳng chầu nhà Thương
Sau khi đề ra bài phản thi Tô Hộ dẫn các tướng ra khỏi Triều Ca trở về nước .
Còn vua Trụ tuy nghe lời Vưu Hồn , Bí Trọng tha Tô Hộ nhưng sợ Tô Hộ trở về không chắc chịu
dâng Ðắc Kỹ , nên lòng vẫn buồn bực không an . Tiếp đến có Huỳnh Môn Quan vào tâu :
-Tô Hộ đề phản thi trước ngõ , hạ thần chẳng dám dấu , xin phép vào trình bệ hạ rõ .
Nói rồi trải tấm giấy trên long án . Vua Trụ xem xong nổi giận mắng :
-Trẫm thuận theo lòng người ưa dung tha những kẻ có tội không giết loài chuột , mới cho về xứ .
Thế mà nó không biết xét thấy thân phận , lại đề phản thi trước đền , lăng nhục triều đình . Ta
không thể bỏ qua hành động ấy được .
Liền cho lệnh đòi ba viên đại tướng là Ân Phú Bại , Triều Ðiển ,và Lổ Hùng vào phán :
-Tô Hộ bất trung , làm phản thi đề ngoài ngọ môn nhục mạ thiên triều . Các khanh hãy điểm hai
mươi muôn binh đi tiên phuông , Trẫm sẽ dẫn các quan theo sau hậu tập .
Lổ Hùng cuối đầu nghĩ thầm :
-Tô Hộ là người trung nghĩa thưở nay , tánh tình ngay thẳng , chẳng biết vì sao lại có hành động
như vậy . Hay kẻ nào thù oán phao vu chăng ? Tội trạng còn chưa rõ ràng , nếu để nhà vua thân
chinh thì Ký Châu còn gì ?
Nghĩ như vậy , Lổ Hùng quỳ tâu :
-Tô Hộ có tội , cần gì Bệ hạ thân chinh cho nhọc . Nay bốn trấn chư hầu còn đó , nếu muốn bắt
Tô Hộ , Bệ hạ chỉ cần sai một trong bốn chư hầu ấy đem quân vấn tội cũng đủ .
Trụ vương hỏi :
-Bốn trấn chư hầu ấy Trẫm nên sai ai đi bắt Tô Hộ ?
Bí Trọng quỳ tâu :
-Ký Châu thuộc phần đất Bắc Bá Hầu điều khiển , xin Bệ hạ sai Sùng Hầu Hổ đem binh bắt Tô
Hộ là phải lẻ .
Trụ Vương y lời , Lổ Hùng lại nghĩ thầm :
-Sùng Hầu hổ là người tham lam hung dữ , nếu lấy oai thiên tử đi chinh phạt , dân Ký Châu sẽ bị
thảm họa không ít . Sẳn đây có Tây Bá Hầu là người nhân đức , nếu tiến cử Tây Bá Hầu thì lưỡng
toàn .
Nghĩ như vậy , Lổ Hùng tâu :
-Sùng Hầu Hổ tuy làm tổng trấn cỏi Bắc , nhưng ân đức chưa có bao nhiêu , nếu thay Bệ hạ đi
chinh phạt e không thắng , chi bằng sai Tây Bá Hầu là Cơ Xương , lâu nay nổi tiếng nhân nghĩa ,
may ra không tốn tên đạn mà bắt Tô Hộ dễ hơn .
Trụ Vương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói :
-Thôi để Trẫm sai cả hai trấn chư hầu ấy cùng hợp sức đem binh vấn tội thì tiện hơn .
Tiếp đó , Trụ Vương thảo chiếu sai nội thị truyền đạt .
Bấy giờ , bốn trấn chư hầu đang dự tiệc với Thừa tướng Thương Dung và Tỉ Can tại đền hiển
Thánh , bổng có sứ đến dạy Tây và Bắc Bá Hầu nghe truyền chiếu chỉ .
Hai trấn chư hầu thấy có chiếu Thiên tử vội quỳ mọp dưới đất , Sứ thần tuyên đọc như sau :
"Trẫm nghe : Mão đội trên đầu , dép đi dưới chân , không thể làm trái ngược được . Chúa trị dân
tôi thờ chúa , ấy là do đạo trời . Nay Tô Hộ chẳng biết đạo nghĩa , không kể phận vua tôi , khinh
lờn phép nước , Trẫm vì lòng nhân tha cho về nước , nhưng lại không biết hốc cải ăn năn , đề
phẩn thơ có ý nghịch mạng trời , nay Trẫm ban bùa việt , cờ mao , uy quyền cho Tây và Bắc Bá
Hầu thay mặt Trẫm , đem binh đến Ký Châu vấn tội . Nếu ai vì tình riêng dung tha kẻ tôi loàn sẽ
bị liên can "
Thiên sứ đọc chiếu xong , hai vị tổng trấn đều lạy tạ , vâng mạng .
Ðoạn Tây Bá Hầu nói với Thừa Tướng Thương Dung và ba vị tổng trấn kia :
-Tô Hộ đến chầu Thiên tử chưa vào đền ra mắt , sao trong chiếu lại nói không kể phận vua tôi ,
khinh lờn phép nước ? Việc này chưa hiễu nguyên nhân ra sao . Vả chăng Tô Hộ là người trung
nghĩa thuở nay , hằng có công với triều đình . Còn việc đề thơ ngoài ngỏ phản đối thiên triều , tôi
e không xác đáng . Nếu Bệ hạ nghe theo lời kẻ quấy , sai chinh phạt tôi trung , e không hợp với
lòng dân . Xin Thừa Tướng và Á Tướng ngày mai vào chầu , hỏi xem tội Tô Hộ là tội gì cho biết
. Nếu đáng trừng phạt thì trừng phạt , còn không đáng thì phải can vua kẻo tội nghiệp Ký Châu
Hầu .
Tỉ Can nói :
-Lời Tây Bá Hầu luận rất phải . Phàm trị một người nào cũng nên nêu rõ tội trạng cho minh bạch
đã .
Sùng Hầu Hổ nói :
-Dù sao lệnh thiên tữ đã ban , chúng ta không nên làm trái . Tôi chắc Tô Hộ có ý phản Thương ,
nếu không lẽ nào thiên tử kết tội ?
Tây Bá Hầu Cơ Xương nói :
-Lời ông luận chỉ đúng theo lẻ thường . Còn ở đây Tô Hộ là người quân tử , lòng thẳng dạ ngay .
Tận trung phò chúa . Một người như vậy đâu thể phản phúc một cách dễ dàng . Nếu chúng ta
không dè đặt . Thiên tử đã nghe lời sàm tấu , chúng ta cứ tuân theo mệnh lệnh thiên triều , chẳng
hóa ra chúng ta cùng một lũ vô dụng , không biết gì phải trái sao ?
Sùng Hầu Hổ to tiếng :
-Ông nói sao lạ vậy ? Không cần biết lệnh vua phải hay trái , chúng ta là tôi thần , vua sai gì
chúng ta không thể không tuân . Kẻ nào trái mệnh vua tự nhiên đã mang tội khi quân rồi .
Tây Bá Hầu cười nhạt :
-Nếu vậy ông hưng binh đi trước . Tôi sẽ theo sau .
Sùng Hầu Hổ lập tức từ giả về nước . Tây Bá Hầu còn nán lại nói với Thừa Tướng Thương Dung
:
-Tôi sẽ về Tây kỳ cất binh theo sau .
Tiệc mãn , các trấn chư hầu ai về nước nấy .
Khi Tô Hộ về đến Ký Châu , con trai lớn là Tô Toàn Trung đem các tướng ra khỏi thành nghênh
tiếp . Cha con mừng rỡ , kéo nhau vào thành . Các tướng quỳ lạy chúc mừng và hỏi :
-Chúa công vào triều thiên tử năm nay có điều gì khác lạ không ?
Tô Hộ buồn bả nói :
-Nay thiên tử từ bỏ hết các việc chánh , nghe lời nịnh thần làm điều phi nghĩa , bắt ta dâng con
gái vào triều làm Hậu Phi . Ta dùng lời ngay can gián . Thiên tử cho ta phản nghịch . Ðang cơn
giận dữ ta đề phản thi vào ngọ môn rồi bỏ về đây . Sớm tối chắc có binh chư hầu tuân lệnh hôn
quân kéo đến đây vấn tội . Vậy các tướng lo chỉnh đốn binh mã , trên thành dự bị cung tên trí thủ
đâu đó sẳn sàng , chờ ngày đối phó .
Các tướng tuân lệnh ngày đêm canh phòng cẩn mật .
Ngay lúc đó , Sùng hầu hổ về nước lập tức điểm năm vạn quân , người ngựa rộn ràng , kéo đến
Ký Châu đánh Tô Hộ . Khi đến nơi Sùng Hầu Hổ truyền lệnh an dinh hạ trại xong cho các tướng
nghĩ ngơi một bữa , rồi mới ra binh .
Quân thám thính trong thành hay được vào báo với Tô Hộ .
Tô Hộ hỏi :
-Chư Hầu nào hưng binh vậy ?
Quân sĩ thưa :
-Thấy hiệu cờ đề Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ .
Tô Hộ giận nói :
-Nếu người khác thì dùng phải trái tỏ bày được , chớ Sùng Hầu Hổ là kẻ bất chấp nhơn nghĩa , có
nói cũng uổng lời thôi . Chi bằng sẳn dịp này ta xua binh đánh nó một trận cho nó thấy cái oai
của ta .
Nói rồi điềm binh ra ngoài thành khiêu chiến . Các tướng theo hầu rất đông . Tô Hộ cho ngựa
lướt đến trước trại Sùng Hầu Hổ , nói :
-Ta là Ký Châu Hầu muốn mời Bắc bá hầu ra nói chuyện .
Sùng Hầu Hổ được tin liền dàn quân bố trận , trước mặt dựng hai cây cờ thêu rồng , sau lưng có
người con trai lớn là Sùng Ứng Bưu theo phò tá . Còn Sùng Hầu Hổ thì mặc giáp vàng , đầu đội
kim lhôi sáng chói , lưng buộc đai ngọc , tay cầm đại đao uy phong lẩm liệt . Tô Hộ thấy vậy xá
Sùng Hầu Hổ một cái và nói :
-Ngài vẫn mạnh giỏi chứ ? Tôi vì mặt giáp trụ trong người không được trọn lễ xin ngài miễn chấp
. Chẳng biết ngài kéo binh tới Ký Châu này để làm gì ?
Sùng Hầu Hổ nói :
-Ngươi đề thơ phản thiên triều , nghịch mạng thiên tử , nên thiên tử sai ta đem binh đến vấn tội .
Tô Hộ nói :
-Hễ vua bất minh tôi phải loạn . Nay thiên tử vô đạo , trọng nịnh khinh hiền , không lo việc nước
lại nghĩ đến điều sắc dục , khiến kén Hậu Phi . Như thế chẳng bao lâu nhà Thương sẽ ly loạn .
Còn tôi là tay chân của ngài , đem thân bảo vệ bờ cỏi , sao ngài lại không bênh vực . Nghe lời
hôn quân chinh phạt làm gì ?
Sùng Hầu Hổ nạt lớn :
-Ngươi là đứa phản thần , tội đáng tru lục . Nay ta vâng lệnh đem binh hỏi tội , lẻ ra ngươi phải
bó tay nạp mình , còn cầm đao lên ngựa ra đây đối diện với ta sao ?
Dứt lời Hầu Hổ đưa mắt nhìn sang một bên , hỏi lớn :
-Có ai dám ra bắt tên phản tặc đó cho ta không ?
Phía tả có một tướng đầu đội kim khôi , mình mang giáp vàng , cởi ngựa ô , lách ngựa đến trước
nói :
-Xin Chúa công để tôi bắt nó cho .
Bên kia , Tô Toàn Trung thấy vậy vổ ngựa tới hét lớn :
-Ðừng phách lối ! Ngươi là Mai Võ ta đã biết tài ngươi rồi , chớ hợm hĩnh mà mất mạng .
Mai Võ thấy Toàn Trung cản lại , mặt đỏ ngầu , hét :
-Cha con bây đã phạm tội phản nghịch còn liều lĩnh chống lại binh trời . Ta chắc chắn sẽ không
tránh khỏi nạn diệt tộc đó .
Tô Toàn Trung vỗ nhựa múa kích đâm ngang hông . Mai Võ đưa búa ra đở . Hai bên đánh nhau
được hai mươi hiệp . Mai Võ bị Toàn Trung đâm một kích trúng ngay yết hầu nhào xuống ngựa .
Tô Hộ thấy con mình đã giết được tướng địch , thừa thắng giống trống lên . Những viên dõng
tướng Ký Châu là : Triệu Bính , Trần Qui Trinh đồng giục ngựa múa đao lướt tới đốc quân hãm
chiến . Quân Sùng Hầu Hổ túng thế bỏ chạy , quân Ký Châu chạy theo đâm chém tơi bời .
Rượt quân giặc trên hai mươi dậm , Tô Hộ mới giống kiển thu quân , kéo vào thành khao thưởng
tướng sĩ , và hỏi :
-Hôm nay chúng ta thắng trận đầu , thế nào Sùng Hầu Hổ cũng sẽ củng cố lực lượng báo thù .
Nếu Sùng Hầu Hổ tăng cường các tướng ở các trấn áp đảo Ký Châu ta thì liệu làm sao ?
Phó tướng Triệu Bình thưa :
-Việc chinh chiến thắng bại là thường . Vả lại thế chiến không phải một trận là hết . Ngày trước
Chúa công đã đề phản thi bất khuất thiên thư , nay lại ra binh giết hại chư hầu , ấy là thế cởi cọp ,
không thể xuống được . Theo ngu ý của tôi đã hành động phải dứt khoát , không nên lưỡng lự .
Sùng Hầu Hổ vừa thua một trận binh tướng xiểng liểng , ta nên thừa cơ truy kích , đánh cho Sùng
Hầu Hổ một trận nữa không còn manh giáp , tiếp đó phải giao thiệp với các trấn chư hầu , lấy
nhân nghĩa đối đải , thu những chư hầu nào có cảm tình với ta dựa thế để làm hậu viện , như vậy
mới giử được Ký Châu này .
Tô Hộ nghe nói khen :
-Ý kiến ngươi rất hay . Vậy phải thực hiện gấp phương pháp đó .
Nói rồi liền sai Toàn Trung lãnh ba ngàn binh ra mai phục nơi trấn Ngủ Cang , cách Tây môn
mười dậm để chờ lịnh .
Toàn Trung vội kéo binh ra đi , Tô Hộ lại khiến Trần Qui Trinh làm Tả Chi , Triệu Bính làm Hữu
Dực , còn mình lãnh đạo trung quân , đang lúc hoàng hôn cuốn cờ giấu trống người ngậm thẻ ,
ngựa cất lạc , kéo đi , đọi nghe tiếng súng lệnh thì ba mặt áp vào cướp trại địch .
Còn Sùng Hầu Hổ ỷ mạnh , đem quân chinh phạt xứ xa , chẳng ngờ mới ra trận đầu đã hao binh
tổn tướng , lòng hổ thẹn , dẫn một số tàn quân đóng trại nghĩ ngơi , suốt đêm ngồi than thở với
các tướng :
-Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều , chưa thua trận nào nhục như trận này , đã mất một
tướng , lại hao binh quá sức , nay liệu làm sao ?
Ðại tướng Huỳnh Nguyên Tuế thưa :
-Binh gia thắng bại là chuyện thường , Chúa công chớ lấy thế mà buồn rầu . Tôi dám chắc binh
của Tây Bá Hầu nay mai sẽ kéo đến đây , chừng ấy chúng ta hợp binh hai mặt đánh một trận trả
thù , lấy Ký Châu rất dễ .
Sùng Hầu Hổ bày tiệc ăn uống giải khuây , rồi vào trướng an nghĩ .
Tô Hộ kéo binh tới , cho quân thám thính dọ xét địch tình , thấy trong dinh quân sĩ đều mỏi mệt
ngủ say hết , liền ra lệnh đốt ba tiếng pháo , ba ngả binh xông vào một lượt đánh giết tưng bừng .
Quân Sùng Hầu Hổ loạn lên , đạp nhau mà chạy , người không kịp mặc giáp , ngựa không ki5p
gác yên , túa ra các cửa trại bị giáo đâm , gươm chém , chết thôi vô số .
Tô Hộ cầm thuơng cởi ngựa đi lộn trong quân tìm Sùng Hầu Hổ . Còn Sùng Hầu Hổ lúc ấy đang
ngủ say , nghe quân ó vội ngồi dậy , mang giáp cầm đao , vừa lên ngựa ra khỏi cửa trại đã gặp Tô
Hộ lướt tới mắng lớn :
-Hầu Hổ ! Ngươi chạy đi đâu ? Mau xuống ngựa chịu trói cho rồi .
Dứt lời đâm liền một giáo . Hầu Hổ thất kinh đưa đao ra đỡ , thời may có Sùng Ứng Bưu , Kim
Quỳnh và Huỳnh Nguyên Tuế tiếp đến bảo vệ . Bên Tô Hộ cũng có Triệu Bình , Trần Qui Trinh
vừa dùa binh đánh đến nơi , trông thấy liền chận ba tướng của Sùng Hầu Hổ lại giáp chiến .
Các tướng đánh nhầu với nhau một lúc , Kim Quỳnh bị Triếu Bính chém đầu . Sùng Hầu Hổ thất
kinh không dám cự với Tô Hộ nữa , vừa đánh vừa chạy , nhờ có con là Sùng Ứng Bưu ra sức bảo
vệ mới khỏi chết .
Tuy vậy thân xác Hầu Hổ chẳng khác chó nhà hoang , cá lọt lưới chạy thôi giáp mão tơi bời .
Thương hại mấy mươi vạn binh của Hầu Hổ chết như rạ , máu chảy thành sông , thây phơi như
núi .
Tô Hộ đuổi theo được mười dậm rồi thu binh trở lại . Cha con Hầu Hổ chạy mãi không dám dừng
chân . Tiếp đó có Huỳnh nguyên Tuế và tôn Tử võ kéo một mớ tàn quân chạy theo kịp , Cha con
Hầu Hổ mới vững bụng thu góp binh thua , kiểm điểm lại thấy mười phần hao hết phân nữa .
Hầu Hổ than :
-Ta cầm binh tự bấy lâu nay chưa thua trận nào như vậy . Bởi ta khinh Ký Châu là tiểu trấn ,
không phòng bị nên mới lầm mưu địch . Còn Tây Bá Hầu Cơ Xương thì chắc là không tuân lệnh
thiên tử , ngồi ở nhà xem thắng bại thôi . Thật là nhục ! Thù này biết bao giờ mới nguôi được ?
Sùng Ứng Bưu thưa :
-Quân ta mới thua , uy thế đã nhục lắm rồi . Chi bằng cứ tạm đồn binh nơi đây rồi cho người sang
thôi thúc Tây Bá Hầu xem người có ý định như thế nào rồi sẽ tính .
Hầu Hổ nói :
-Con nói như vậy cũng phải . Thôi , cứ để trời sáng sẽ cho người đến Tây Bá Hầu đôn đốc .
Cha con đang đàm luận , bổng nghe tiếng quân ó vang trời , xa xa có một tướng nhỏ , đội mão
vàng , giắt hai chiếc lông trĩ , mặc giáp đỏ , cỡi ngựa kim , tay cầm cây kích , mặt tròn tự trăng
rằm , môi đỏ như son , bay ngựa tới nạt lớn :
-Sùng Hầu Hổ , ta vâng lệnh phụ thân ta mai phục nơi đây đợi ngươi đã lâu lắm , ngươi không
không xuống ngựa bó tay còn đợi đến chừng nào nữa ?
Sùng Hầu hổ thấy viên tiểu tướng ấy là Tô Toàn Trung , nỗi giận mắng lớn :
-Cha con bay làm phản , Nghịch mạng triều đình , tội chết tày non , dẩu có bầm thây chúng bây
đến tan nát cũng chưa đền tội . Ta vô ý nên mắc mưu , chưa phải thắng một trận mà nên công
được , chúng bây chớ có vô lễ đón đường chận ngỏ , ta e nay mai binh triều kéo đến đây , cha con
bây dầu có cánh lên trời cũng chẳng kịp .
Tô Toàn Trung cười ngất :
-Thôi thôi , chớ nhiều lời vô ích , hãy nói chuyện với cây kích của ta đây .
Vừa nói , Toàn Trung vừa vung kích đâm tới . Bên kia Huỳnh Nguyên Tuế lướt ngựa tới cản mũi
kích . Toàn Trung lại bảo vệ Sùng Hầu Hổ .
Hai tướng đánh nhau chừng vài hiệp , Tôn Tử Võ giục ngựa ra múa chỉa ba đánh giúp với Huỳnh
Nguyên Tuế , quyết hạ cho kỳ được Tô Toàn trung . Ai ngờ Tô Toàn trung võ nghệ siêu quần ,
một mình chấp hai tướng , đánh vùi như mưa Bấc . Ðánh chừng hai chục hiệp , Toàn Trung ra
miệng hét lên một tiếng , đâm Tôn Tử Võ một kích nhào xuống ngựa . Huỳnh Nguyên Tuế cả
giận , vung thương đâm chém rất dữ , nhưng Toàn Trung không thèm đánh với Huỳnh Nguyên
Tuế , lướt ngựa tới đâm Sùng Hầu Hổ .
Sùng Hầu Hổ sợ hãi lui ngựa ra sau . Sùng Ứng Bưu vội lướt tới đở cây kích của Toàn Trung rồi
hiệp lực với Huỳnh Nguyên Tuế cự chiến . Toàn Trung lúc này đánh với ba tướng , nhưng càng
đánh càng hăng , không biết mệt , múa kích như mưa bay gió táp .
Ðánh được một lúc , Sùng Hầu Hổ bị Toàn Trung chém toẹt một đường đứt nữa áo giáp . Hầu Hổ
mất vía quất ngựa chạy dài . Ứng Bưu lúng túng bị Toàn Trung đâm một kích nhắm cánh tay ,
gần nhào xuống ngựa , may nhờ có Huỳnh Nguyên Tuế bảo vệ mới chạy khỏi .
Tô Toàn Trung đắc thắng , rượt đám tàn quân của Sùng Hầu Hổ chém giết môt hồi , thấy trời còn
khuya chẳng dám đuổi theo , vội thâu binh về .
Khi Toàn Trung về đến chân thành , trời mới rựng sáng , vội kêu quân mở cửa vào ra mắt Tô Hộ
thưa :
-Con vâng lệnh thân phụ mai phục tại Ngủ Cang , đến nữa đêm địch quân chạy đến đó , một
mình con chém đứt vạt giáp của Sùng Hầu Hổ , đâm chết Tôn Tử Võ và đánh Sùng Ứng Bưu gần
sa xuống ngựa , vì trời tối , sợ có điều gì sơ xuất con không dám đuổi theo , xin phụ thân miễn tội
.
Tô Hộ nói :
-Con đã làm chúng nó khiếp vía rồi , như thế cũng đũ , khỏi cần truy kích nữa .
Hồi 3
Cha con Sùng Hầu Hổ bị thương chạy riết cho đến sáng mới dám dừng lại , kiểm điểm binh mã
thấy trong đám tàn quân người nào cũng bị lổ đầu chảy máu , người thì rách áo cụt tay , không
một tên quân nào còn nguyên vẹn .
Binh tướng một đoàn trở thành vô dụng . Nhìn thảm trạng ấy Hầu Hổ thấy lòng đau đớn vô cùng
, ngồi than thở mãi .
Huỳnh Nguyên Tuế nói :
-Chúa công hơi đâu than thở ? Việc binh thắng bại là thường . Bởi ta sơ ý nên nhằm mưu địch .
Vậy Chúa công dừng binh nơi đây , viết thơ thôi thúc Tây Bá Hầu đem binh đến rửa hận . Ký
Châu chẳng qua chỉ là một trấn nhỏ , dẫu hùng mạnh đến đâu cũng không chống nỗi binh của
thiên triều .
Sùng Hầu Hổ nói lảm nhảm :
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.
Phong thần diễn nghĩa.

More Related Content

What's hot

Rối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân Phúc
Rối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân PhúcRối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân Phúc
Rối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân PhúcPhiều Phơ Tơ Ráp
 
Huyết học - Nhi Y4
Huyết học - Nhi Y4Huyết học - Nhi Y4
Huyết học - Nhi Y4Update Y học
 
THẬN VÀ NƯỚC TIỂU
THẬN VÀ NƯỚC TIỂUTHẬN VÀ NƯỚC TIỂU
THẬN VÀ NƯỚC TIỂUSoM
 
Sinh ly thận sính lý thận sinh ly than
Sinh ly thận sính lý thận sinh ly thanSinh ly thận sính lý thận sinh ly than
Sinh ly thận sính lý thận sinh ly thanThanh Nguyen
 
Dai cuong ve trat khop
Dai cuong ve trat khopDai cuong ve trat khop
Dai cuong ve trat khopTran Quang
 
đIều trị xơ gan y6 2017 2018
đIều trị xơ gan y6 2017 2018đIều trị xơ gan y6 2017 2018
đIều trị xơ gan y6 2017 2018Nguyễn Như
 
Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.
Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.
Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.hungnguyenthien
 
TƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINH
TƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINHTƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINH
TƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINHSoM
 
• Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...
•	Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...•	Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...
• Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...Nguyên Võ
 
ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁT
ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁTĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁT
ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁTSoM
 
Nghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan
Nghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư ganNghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan
Nghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư ganTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
ĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNG
ĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNGĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNG
ĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNGSoM
 
Chuyển hóa glucid
Chuyển hóa glucidChuyển hóa glucid
Chuyển hóa glucidLunar-duong
 
Hoi chung thanh nguc mang phoi
Hoi chung thanh nguc mang phoiHoi chung thanh nguc mang phoi
Hoi chung thanh nguc mang phoiMichel Phuong
 
Viêm tuỵ cấp
Viêm tuỵ cấpViêm tuỵ cấp
Viêm tuỵ cấpHùng Lê
 

What's hot (20)

Rối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân Phúc
Rối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân PhúcRối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân Phúc
Rối loạn thăng bằng toan kiềm - Ths.Bs. Bùi Xuân Phúc
 
Huyết học - Nhi Y4
Huyết học - Nhi Y4Huyết học - Nhi Y4
Huyết học - Nhi Y4
 
THẬN VÀ NƯỚC TIỂU
THẬN VÀ NƯỚC TIỂUTHẬN VÀ NƯỚC TIỂU
THẬN VÀ NƯỚC TIỂU
 
Sinh ly thận sính lý thận sinh ly than
Sinh ly thận sính lý thận sinh ly thanSinh ly thận sính lý thận sinh ly than
Sinh ly thận sính lý thận sinh ly than
 
Dai cuong ve trat khop
Dai cuong ve trat khopDai cuong ve trat khop
Dai cuong ve trat khop
 
đIều trị xơ gan y6 2017 2018
đIều trị xơ gan y6 2017 2018đIều trị xơ gan y6 2017 2018
đIều trị xơ gan y6 2017 2018
 
Benh than man y4
Benh than man y4Benh than man y4
Benh than man y4
 
Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.
Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.
Nghiên cứu chỉ số FIB- 4 trong chẩn đoán xơ hóa gan: So sánh với FibroScan.
 
TƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINH
TƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINHTƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINH
TƯ VẤN DI TRUYỀN TRƯỚC SINH
 
• Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...
•	Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...•	Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...
• Heme là một sắc tố đỏ. Mỗi heme gồm một vòng porphyrin và một Fe2+ ở chính ...
 
Bệnh thận mạn và suy thận mạn
Bệnh thận mạn và suy thận mạnBệnh thận mạn và suy thận mạn
Bệnh thận mạn và suy thận mạn
 
ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁT
ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁTĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁT
ĐIỀU TRỊ VIÊM PHÚC MẠC NHIỄM KHUẨN NGUYÊN PHÁT
 
Nghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan
Nghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư ganNghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan
Nghiên cứu thực trạng bệnh viêm gan mạn tính, xơ gan, ung thư gan
 
Điều trị bổ trợ ung thư biểu mô tuyến đại tràng bằng phác đồ XELOX
Điều trị bổ trợ ung thư biểu mô tuyến đại tràng bằng phác đồ XELOXĐiều trị bổ trợ ung thư biểu mô tuyến đại tràng bằng phác đồ XELOX
Điều trị bổ trợ ung thư biểu mô tuyến đại tràng bằng phác đồ XELOX
 
Giáo trình sinh học phân tử - Nguyễn Hoàng Lộc (Chủ biên)
Giáo trình sinh học phân tử - Nguyễn Hoàng Lộc (Chủ biên)Giáo trình sinh học phân tử - Nguyễn Hoàng Lộc (Chủ biên)
Giáo trình sinh học phân tử - Nguyễn Hoàng Lộc (Chủ biên)
 
ĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNG
ĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNGĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNG
ĐIỀU TRỊ LOÉT DẠ DÀY/ TÁ TRÀNG
 
Chuyển hóa glucid
Chuyển hóa glucidChuyển hóa glucid
Chuyển hóa glucid
 
Viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấpViêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp
 
Hoi chung thanh nguc mang phoi
Hoi chung thanh nguc mang phoiHoi chung thanh nguc mang phoi
Hoi chung thanh nguc mang phoi
 
Viêm tuỵ cấp
Viêm tuỵ cấpViêm tuỵ cấp
Viêm tuỵ cấp
 

Viewers also liked

BrandsEye - 4th Interactive Marketing Summit
BrandsEye - 4th Interactive Marketing SummitBrandsEye - 4th Interactive Marketing Summit
BrandsEye - 4th Interactive Marketing SummitBrandsEye
 
Wamh ag lmnt 2013
Wamh ag lmnt 2013Wamh ag lmnt 2013
Wamh ag lmnt 2013CherisseC
 
10 правил, щоб комунікації працювали на вас
10 правил, щоб комунікації працювали на вас10 правил, щоб комунікації працювали на вас
10 правил, щоб комунікації працювали на васAnastasiya Nurzhynska
 
Urban_Airship_Total_Economic_Impact
Urban_Airship_Total_Economic_ImpactUrban_Airship_Total_Economic_Impact
Urban_Airship_Total_Economic_ImpactChris Osman
 
Micah Sunday 2009
Micah Sunday 2009Micah Sunday 2009
Micah Sunday 2009CEDAR Fund
 
Consejos para Ahorrar Dinero
Consejos para Ahorrar DineroConsejos para Ahorrar Dinero
Consejos para Ahorrar DineroAna Iris Torres
 
Lugares turisticos de la región insular ecuatoriana
Lugares turisticos de la región insular ecuatorianaLugares turisticos de la región insular ecuatoriana
Lugares turisticos de la región insular ecuatoriana0926393851
 
Lugares turisticos de la Amazonia
Lugares turisticos de la AmazoniaLugares turisticos de la Amazonia
Lugares turisticos de la AmazoniaPaul Cerda
 
Rpt kssm 2017 f1
Rpt kssm 2017 f1Rpt kssm 2017 f1
Rpt kssm 2017 f1nur eleeza
 
Finanzas personales - Qué es un plan de vida financiera
Finanzas personales - Qué es un plan de vida financieraFinanzas personales - Qué es un plan de vida financiera
Finanzas personales - Qué es un plan de vida financieraValortis
 
ORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOS
ORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOSORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOS
ORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOSgizzbebe
 

Viewers also liked (16)

BrandsEye - 4th Interactive Marketing Summit
BrandsEye - 4th Interactive Marketing SummitBrandsEye - 4th Interactive Marketing Summit
BrandsEye - 4th Interactive Marketing Summit
 
Wamh ag lmnt 2013
Wamh ag lmnt 2013Wamh ag lmnt 2013
Wamh ag lmnt 2013
 
10 правил, щоб комунікації працювали на вас
10 правил, щоб комунікації працювали на вас10 правил, щоб комунікації працювали на вас
10 правил, щоб комунікації працювали на вас
 
Julia Jamanca
Julia JamancaJulia Jamanca
Julia Jamanca
 
Urban_Airship_Total_Economic_Impact
Urban_Airship_Total_Economic_ImpactUrban_Airship_Total_Economic_Impact
Urban_Airship_Total_Economic_Impact
 
Kinh Đại thừa chơn giáo.
Kinh Đại thừa chơn giáo.Kinh Đại thừa chơn giáo.
Kinh Đại thừa chơn giáo.
 
Micah Sunday 2009
Micah Sunday 2009Micah Sunday 2009
Micah Sunday 2009
 
Presentacion clase hoy laboratorio
Presentacion clase hoy laboratorioPresentacion clase hoy laboratorio
Presentacion clase hoy laboratorio
 
Consejos para Ahorrar Dinero
Consejos para Ahorrar DineroConsejos para Ahorrar Dinero
Consejos para Ahorrar Dinero
 
Lugares turisticos de la región insular ecuatoriana
Lugares turisticos de la región insular ecuatorianaLugares turisticos de la región insular ecuatoriana
Lugares turisticos de la región insular ecuatoriana
 
Effect of Raj Yoga Meditation on Affective & Cognitive Functions
Effect of Raj Yoga Meditation on Affective & Cognitive FunctionsEffect of Raj Yoga Meditation on Affective & Cognitive Functions
Effect of Raj Yoga Meditation on Affective & Cognitive Functions
 
Lugares turisticos de la Amazonia
Lugares turisticos de la AmazoniaLugares turisticos de la Amazonia
Lugares turisticos de la Amazonia
 
Rpt kssm 2017 f1
Rpt kssm 2017 f1Rpt kssm 2017 f1
Rpt kssm 2017 f1
 
Finanzas personales - Qué es un plan de vida financiera
Finanzas personales - Qué es un plan de vida financieraFinanzas personales - Qué es un plan de vida financiera
Finanzas personales - Qué es un plan de vida financiera
 
ORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOS
ORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOSORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOS
ORIGEN DE LAS ISLAS GALAPAGOS
 
Dualidad y conocimiento del ser
Dualidad y conocimiento del serDualidad y conocimiento del ser
Dualidad y conocimiento del ser
 

Similar to Phong thần diễn nghĩa.

CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20vinhbinh2010
 
Hoang lenhatthongchi[1]
Hoang lenhatthongchi[1]Hoang lenhatthongchi[1]
Hoang lenhatthongchi[1]Hoa Bien
 
Dai viet su ky toan thu (le van huu)
Dai viet su ky toan thu (le van huu)Dai viet su ky toan thu (le van huu)
Dai viet su ky toan thu (le van huu)Hung Nguyen
 
Thơ Lý Bạch
Thơ Lý BạchThơ Lý Bạch
Thơ Lý BạchDam Nguyen
 
Lop5 10-22-2011
Lop5 10-22-2011Lop5 10-22-2011
Lop5 10-22-2011cdanaheim
 
THANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP I
THANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP ITHANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP I
THANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP Ivinhbinh2010
 
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKelsi Luist
 
Hoang le nhat thong chi ngo gia van phai
Hoang le nhat thong chi ngo gia van phaiHoang le nhat thong chi ngo gia van phai
Hoang le nhat thong chi ngo gia van phainhatthai1969
 
QIANLING MAUSOLEUM - CHINA
QIANLING MAUSOLEUM - CHINAQIANLING MAUSOLEUM - CHINA
QIANLING MAUSOLEUM - CHINAvinhbinh2010
 
Cao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soan
Cao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soanCao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soan
Cao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soanHung Duong
 
Mặt trái của kỳ quan vhn
Mặt trái của kỳ quan vhnMặt trái của kỳ quan vhn
Mặt trái của kỳ quan vhnVo Hieu Nghia
 
Luoc su duc phat thich nu hue ngan core- da chuyen
Luoc su duc phat   thich nu hue ngan core- da chuyenLuoc su duc phat   thich nu hue ngan core- da chuyen
Luoc su duc phat thich nu hue ngan core- da chuyenナム-Nam Nguyễn
 
Di sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt namDi sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt namkeomut_dang90
 
Tây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdfTây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdfNuioKila
 

Similar to Phong thần diễn nghĩa. (20)

CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
CÀN LONG DU GIANG NAM_ phần 1_hồi 1-hồi 20
 
Hoang lenhatthongchi[1]
Hoang lenhatthongchi[1]Hoang lenhatthongchi[1]
Hoang lenhatthongchi[1]
 
Dai viet su ky toan thu
Dai viet su ky toan thuDai viet su ky toan thu
Dai viet su ky toan thu
 
Dai viet su ky toan thu (le van huu)
Dai viet su ky toan thu (le van huu)Dai viet su ky toan thu (le van huu)
Dai viet su ky toan thu (le van huu)
 
Dai viet su ky toan thu
Dai viet su ky toan thuDai viet su ky toan thu
Dai viet su ky toan thu
 
Dai viet su ki toan thu
Dai viet su ki toan thuDai viet su ki toan thu
Dai viet su ki toan thu
 
Thơ Lý Bạch
Thơ Lý BạchThơ Lý Bạch
Thơ Lý Bạch
 
Lop5 10-22-2011
Lop5 10-22-2011Lop5 10-22-2011
Lop5 10-22-2011
 
THANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP I
THANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP ITHANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP I
THANH CUNG MƯỜI BA TRIỀU-TẬP I
 
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơnKỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
Kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa lam sơn
 
Hoang le nhat thong chi ngo gia van phai
Hoang le nhat thong chi ngo gia van phaiHoang le nhat thong chi ngo gia van phai
Hoang le nhat thong chi ngo gia van phai
 
QIANLING MAUSOLEUM - CHINA
QIANLING MAUSOLEUM - CHINAQIANLING MAUSOLEUM - CHINA
QIANLING MAUSOLEUM - CHINA
 
Sukytumathien
SukytumathienSukytumathien
Sukytumathien
 
Lich su giai thoai
Lich su   giai thoaiLich su   giai thoai
Lich su giai thoai
 
Cao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soan
Cao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soanCao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soan
Cao tang-di-truyen-hanh-hue-bien-soan
 
Mặt trái của kỳ quan vhn
Mặt trái của kỳ quan vhnMặt trái của kỳ quan vhn
Mặt trái của kỳ quan vhn
 
Luoc su duc phat thich nu hue ngan core- da chuyen
Luoc su duc phat   thich nu hue ngan core- da chuyenLuoc su duc phat   thich nu hue ngan core- da chuyen
Luoc su duc phat thich nu hue ngan core- da chuyen
 
Danhnhan
DanhnhanDanhnhan
Danhnhan
 
Di sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt namDi sản mỹ thuật cung đình việt nam
Di sản mỹ thuật cung đình việt nam
 
Tây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdfTây Sơn bi hùng truyện.pdf
Tây Sơn bi hùng truyện.pdf
 

More from Chiến Thắng Bản Thân

THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾTHẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾChiến Thắng Bản Thân
 
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân LoạiĐường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân LoạiChiến Thắng Bản Thân
 
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành MạnhNhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành MạnhChiến Thắng Bản Thân
 
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chúKinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chúChiến Thắng Bản Thân
 

More from Chiến Thắng Bản Thân (20)

Vô thừa chơn giáo.
Vô thừa chơn giáo.Vô thừa chơn giáo.
Vô thừa chơn giáo.
 
Milarepa Con Người Siêu Việt
Milarepa Con Người Siêu ViệtMilarepa Con Người Siêu Việt
Milarepa Con Người Siêu Việt
 
Đại giác thánh kinh
Đại giác thánh kinhĐại giác thánh kinh
Đại giác thánh kinh
 
Vo vi meditation
Vo vi meditationVo vi meditation
Vo vi meditation
 
Con Đường Chuyển Hóa
Con Đường Chuyển HóaCon Đường Chuyển Hóa
Con Đường Chuyển Hóa
 
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾTHẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
THẾ-HỆ-PHỔ CỦA ĐỨC QUANG-THÁNH-ĐẠI ĐẾ
 
AMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAO
AMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAOAMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAO
AMI CẬU BÉ CỦA CÁC VÌ SAO
 
Sống để trao tặng
Sống để trao tặngSống để trao tặng
Sống để trao tặng
 
LĂNG KÍNH CỦA LYRA
LĂNG KÍNH CỦA LYRALĂNG KÍNH CỦA LYRA
LĂNG KÍNH CỦA LYRA
 
THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.
THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.
THIỀN Tự do đầu tiên và cuối cùng.
 
Bách Hiếu Kinh .
Bách Hiếu Kinh .Bách Hiếu Kinh .
Bách Hiếu Kinh .
 
Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.Thất Chân Nhân Quả.
Thất Chân Nhân Quả.
 
NỘI LỰC TỰ SINH.
NỘI LỰC TỰ SINH.NỘI LỰC TỰ SINH.
NỘI LỰC TỰ SINH.
 
Kinh Cúng Tứ Thời.
Kinh Cúng Tứ Thời.Kinh Cúng Tứ Thời.
Kinh Cúng Tứ Thời.
 
Huỳnh Đình Kinh.
Huỳnh Đình Kinh. Huỳnh Đình Kinh.
Huỳnh Đình Kinh.
 
Cõi vô hình Vô vi tâm pháp.
Cõi vô hình  Vô vi tâm pháp.Cõi vô hình  Vô vi tâm pháp.
Cõi vô hình Vô vi tâm pháp.
 
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân LoạiĐường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
Đường Là Hiểm Họa Của Toàn Nhân Loại
 
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành MạnhNhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
Nhân Tố Enzyme - Phương Thức Sống Lành Mạnh
 
Vệ Sinh Yếu Quyết
Vệ Sinh Yếu QuyếtVệ Sinh Yếu Quyết
Vệ Sinh Yếu Quyết
 
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chúKinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
Kinh tối thắng phật đảnh tịnh trừ nghiệp chướng thần chú
 

Phong thần diễn nghĩa.

  • 1. PHONG THẦN DIỄN NGHĨA Tác giả: Hứa Trọng Lâm Tạo file: VDREA Hồi 1 Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt . Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành , liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng . Quả nhiên vì nuốt trứng , bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết . Khiết lớn lên phò vua Nghiêu , rồi đến vua Thuấn , được phong làm chức Tư Ðồ . Vì có công dạy dân , về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp , và làm chúa một xứ . Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất , tức là Thành Thang . Thành Thang là người nhân đức và trung hậu , nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí , thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã , liền đến rước về , dâng cho vua Kiệt , nhà Hạ dùng . Ấy là vì lòng trung , Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình . Ai ngờ vua Kiệt bất trí , không biết dùng người tài , nghe lời dua mị , không trọng dụng Y Doãn . Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang . Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc . Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước , nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa . Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn . Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can . Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về . Trong lúc vua Kiệt ham dâm , độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng . Một hôm , ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía , và vái : -Trên trời sa xuống , dưới đất chun lên , tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới . Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm : -Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì ? Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra , rồi khiến các thợ săn vái rằng : Muốn lại thì lại , muốn qua thì qua Ở trên trời sa xuống , có cánh bay xa Ở dưới đất chun lên , có chân chạy ra Con nào liều mạng , thì vào lưới ta Cầm thú đều ra khỏi lưới hết . Bởi vậy đời sau người ta thường nói : "Mở lưới Thành Thang " tức là ý muốn nhắc đến tích ấy . Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt , chừa chổ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn . Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam , thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn , hơn bốn mươi nước đều theo . Ðến sau , vua Kiệt vô đạo , hại dân gần chết , ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào . Các chư hầu hội đũ mặt , tôn Thành Thang lên làm Thiên tử , Thành Thang vẫn từ chối , chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi , nhưng vì các chư hầu khác ép buộc , Thành Thang cực chẳng
  • 2. đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương . Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt , đặt ra những việc dân ưa , dân mến , lấy đức trị dân , nên ai nấy đều theo về cả . Trong thời gian đầu , vì vua Kiệt bất nhân , nên trời hạn hán suốt bảy năm , vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống . Vua trị dân nhân đức , dân coi vua như cha mẹ , trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa . Vua Thành Thang trị vì được 13 năm , thọ được 100 tuổi , rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời , tổng cộng là 564 năm , đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất . Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau : 1- Thành Thang 2- Thái Giáp 3- Óc Ðinh 4- Thái Canh 5- Tiển Giáp 6- Ứng Kỷ 7- Thái Hậu 8- Trọng Ðỉnh 9- Ngoại Nhâm 10- Hà Ðản Giáp 11- Tổ Ất 12- Tổ Tân 13- Óc Giáp 14- Tổ Ðinh 15- Nam Canh 16- Ðương Giáp 17- Bàn Canh 18- Tiểu Tân 19- Tiểu Ất 20- Võ Ðinh 21- Tổ Canh 22- Tổ Giáp 23- Lâm Tân 24- Canh Ðịnh 25- Thái Ðỉnh 27- Ðế Ất 28- Ân Thọ (Trụ Vương). Truyện này nói về cuối đời nhà Thương , lúc Trụ Vương mất nước , và nhà Châu lên kế vị . Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất . Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải , Vi Tử Ðiển và Ân Thọ . Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan , thấy lầu Phi Vân gảy mất một kèo , liền truyền các quan thay cây kèo ấy . Các quan xúm lại đở không nổi . Bấy giờ có Ân Thọ đi theo , thấy vậy một mình xốc lại , một tay đở cây kèo , một tay nhổ cột lên thay . Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng .
  • 3. Thừa Tướng Thương Dung vá quan Ðại Phu Mai Bá , Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất : -Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này , xin Bệ hạ phong làm Thái Tử , để nối ngôi . Ðế Ất bằng lòng , lập Ân Thọ lên làm Thái Tử . Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà . Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng , nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương , đóng đô tại Triều Ca . Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi , song vẫn một lòng hiếu thuận , không hiềm khích , hoặc có ý ganh tỵ . Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc . Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đũ tài trị nước , võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đũ tài trấn áp các nước chư hầu . Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu , Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ) , Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh , trinh chính , hòa nhả , hiền lành . Vua Trụ ngồi hưởng thái bình , muôn dân lạc nghiệp , mưa hòa gió thuận , tưởng không có gì sung sướng hơn . Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà thương điều khiễn . Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có : 1- Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu). 2- Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ 3-Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương) 4- Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ . Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ , cộng bảy trăm Trấn chư hầu . Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn . Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp . Văn Trọng ra đi , việc triều chính thiếu người định đoạt , nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng , là hai tên xu nịnh , trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy . Một hôm vào tiết tháng ba , vua Trụ ngự triều , Thừa Tướng Thương Dung tâu : -Ngày mai là ngày rằm , nhằm vía bà Nữ Oa , xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước . Vua Trụ hỏi : -Bà Nữ Oa là người thế nào đến nổi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương ? Thương Dung tâu : -Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy , hiện là một vị thần linh hiển lắm . Trước kia Cung Công làm phản , đụng đầu vào núi Bất Châu , đất bị nghiêng sụp , bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời . Bởi có công với đời như vậy , nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ . nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa , mối nước được yên , dân gian khõe mạnh. Xin bệ hạ đến đó dâng hương , chẳng nên khinh dễ . Vua Trụ nhận lời : -Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước , sẳn diệp du ngoạn một chuyến . Hôm sau , vua trụ truyền long giá ra đi , các quan đi theo phò tá rất đông . Ba ngàn binh kỵ mã , tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển , trước sau đông nghẹt .
  • 4. Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái . Khi đến trước đền thần Nữ Oa , vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm , và các quan đồng lạy . Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm , những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng , những tượng con gái chạm bằng ngọc đứng dâng hương . Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe , rồng bay phượng lộn , đèn chưng như sao mọc , khói tỏa như mây mờ , uy nghiêm chẳng khác gì đền vua . Trụ Vương đang say mê , thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua , vua trông thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ , hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên , hương trời sắc nước không đâu bì kịp . Lời xưa thường nói : -Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra . Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng : -Ta tuy làm vua giàu có bốn biển , nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy . Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến , và đề một bài thơ ngay trên vách tường : Lạnh lùng trướng phủ xỏa màn loan Bóng sắc khen ai khéo điểm trang Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng Hải đường sương đượm màu tươi tốt Thược dưọc mưa nhuần bóng vẽ vang Ðem về cung điện dựa thiên nhan Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu : -Bá Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ . Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa thuận gió hòa , sóng trong biển lặng . Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên . Xin bệ hạ truyền lấy nước rữa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh . Vua Trụ nói : -Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp , đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác . Vả lại Trẫm là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà , và chiêm ngưỡng vần thơ của Trẫm chứ ? Dứt lời truyền hồi loan . Các quan không ai dám nói lời nào nữa . Về đến đền Long Ðức , các quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy . Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là : Phục Hy , Thần Nông , và Hoàng Ðế . Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền , lên ngồi nơi chánh điện . Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ , bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ , nỗi giận nói : -Ân Thọ hôn quân ! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy , không sợ luật trời . Thật đáng ghét ! Trước khi vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ , hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần thời đã hết . Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh . Nói rồi liền đằng văn bay vào triều , cố vật chết vua Trụ để rữa hờn . nhưng vừa lướt đến phía ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại . Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai , người anh là Ân Hồng , người em là Ân Giao , sau này đều được phong thần , nên mới có hào
  • 5. quang như vậy .). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ . Bà Nữ Oa bị hào quang cản trở , tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số , nên đằng vân trở về miễu . Tuy nhiên , lòng vẫn căm tức không nguôi , bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để giữa sân giở nút , rồi đưa tay chỉ một cái , tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau như giải lụa , dài hơn năm trượng . Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng . Phướng này gọi là phướng chiếu yêu . Trong giây phút sa mù bao phủ , gió lộng áo ào , các yêu đều hiện đến . Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết , chỉ chừa lại ba con yêu tại mã Huỳnh Ðế và cho vào ra mắt . Ba yêu vâng lệnh , vào quỳ lạy xưng ; -Chúng tôi là hồ ly ngàn năm , chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương nương . Bà Nữ Oa nói : -Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn , vua Trụ sắp đến ngày mất nước . Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Châu , người đó là khí số do trời định . Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái , trà trộn vào cung điện , làm cho Trụ vương điêu đứng . Ðợi cho Võ vương đánh trụ thành công , ta cho chúng bay thành thần . Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh , chỉ trả thù Trụ Vương thôi . Ba yêu vâng lệnh lui ra , đằng vân về động . Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về , mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không ngon , ngày ăn không được , coi ba cung sáu viện như cỏ rác , chẳng đoái hoài đến . Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa . Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh , có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã , Trụ Vương sực nhớ đến Vưu Hồn , Bí Trọng , hai tên này thường nói nhiều điều vui tai , vua có thể nhờ hai người này tìm cách giải khuây được , bèn cho đòi Bí Trọng đến . Bí Trọng lúc này là Trung Gián Ðại Phu , nghe vua đòi liền ứng hầu ngay , và tâu : -Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần ? Trụ vương buồn bã nói : -Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nổi trong tam cung lục viện của Trẫm cũng không có kẽ nào bằng . Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện . Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không ? Bí Trọng tâu : -Bệ hạ giàu có bốn biển , đức sánh Thuấn , Nghiêu . Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết , có gì mà bệ hạ không toại nguyện ? Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẽ tuyệt sắc . Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ , phán : -À , thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra . Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy . Rồi Trụ Vương trở về triều . Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt .
  • 6. Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành , liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng . Quả nhiên vì nuốt trứng , bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết . Khiết lớn lên phò vua Nghiêu , rồi đến vua Thuấn , được phong làm chức Tư Ðồ . Vì có công dạy dân , về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp , và làm chúa một xứ . Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất , tức là Thành Thang . Thành Thang là người nhân đức và trung hậu , nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí , thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã , liền đến rước về , dâng cho vua Kiệt , nhà Hạ dùng . Ấy là vì lòng trung , Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình . Ai ngờ vua Kiệt bất trí , không biết dùng người tài , nghe lời dua mị , không trọng dụng Y Doãn . Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang . Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc . Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước , nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa . Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn . Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can . Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về . Trong lúc vua Kiệt ham dâm , độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng . Một hôm , ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía , và vái : -Trên trời sa xuống , dưới đất chun lên , tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới . Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm : -Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì ? Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra , rồi khiến các thợ săn vái rằng : Muốn lại thì lại , muốn qua thì qua Ở trên trời sa xuống , có cánh bay xa Ở dưới đất chun lên , có chân chạy ra
  • 7. Con nào liều mạng , thì vào lưới ta Cầm thú đều ra khỏi lưới hết . Bởi vậy đời sau người ta thường nói : "Mở lưới Thành Thang " tức là ý muốn nhắc đến tích ấy . Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt , chừa chổ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn . Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam , thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn , hơn bốn mươi nước đều theo . Ðến sau , vua Kiệt vô đạo , hại dân gần chết , ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào . Các chư hầu hội đũ mặt , tôn Thành Thang lên làm Thiên tử , Thành Thang vẫn từ chối , chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi , nhưng vì các chư hầu khác ép buộc , Thành Thang cực chẳng đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương . Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt , đặt ra những việc dân ưa , dân mến , lấy đức trị dân , nên ai nấy đều theo về cả . Trong thời gian đầu , vì vua Kiệt bất nhân , nên trời hạn hán suốt bảy năm , vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống . Vua trị dân nhân đức , dân coi vua như cha mẹ , trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa . Vua Thành Thang trị vì được 13 năm , thọ được 100 tuổi , rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời , tổng cộng là 564 năm , đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất . Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau : 1- Thành Thang 2- Thái Giáp 3- Óc Ðinh 4- Thái Canh 5- Tiển Giáp 6- Ứng Kỷ 7- Thái Hậu
  • 8. 8- Trọng Ðỉnh 9- Ngoại Nhâm 10- Hà Ðản Giáp 11- Tổ Ất 12- Tổ Tân 13- Óc Giáp 14- Tổ Ðinh 15- Nam Canh 16- Ðương Giáp 17- Bàn Canh 18- Tiểu Tân 19- Tiểu Ất 20- Võ Ðinh 21- Tổ Canh 22- Tổ Giáp 23- Lâm Tân 24- Canh Ðịnh 25- Thái Ðỉnh 27- Ðế Ất 28- Ân Thọ (Trụ Vương). Truyện này nói về cuối đời nhà Thương , lúc Trụ Vương mất nước , và nhà Châu lên kế vị . Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất . Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải , Vi Tử Ðiển và Ân Thọ .
  • 9. Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan , thấy lầu Phi Vân gảy mất một kèo , liền truyền các quan thay cây kèo ấy . Các quan xúm lại đở không nổi . Bấy giờ có Ân Thọ đi theo , thấy vậy một mình xốc lại , một tay đở cây kèo , một tay nhổ cột lên thay . Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng . Thừa Tướng Thương Dung vá quan Ðại Phu Mai Bá , Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất : -Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này , xin Bệ hạ phong làm Thái Tử , để nối ngôi . Ðế Ất bằng lòng , lập Ân Thọ lên làm Thái Tử . Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà . Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng , nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương , đóng đô tại Triều Ca . Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi , song vẫn một lòng hiếu thuận , không hiềm khích , hoặc có ý ganh tỵ . Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc . Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đũ tài trị nước , võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đũ tài trấn áp các nước chư hầu . Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu , Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ) , Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh , trinh chính , hòa nhả , hiền lành . Vua Trụ ngồi hưởng thái bình , muôn dân lạc nghiệp , mưa hòa gió thuận , tưởng không có gì sung sướng hơn . Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà thương điều khiễn . Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có : 1- Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu). 2- Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ 3-Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương) 4- Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ . Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ , cộng bảy trăm Trấn chư hầu .
  • 10. Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn . Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp . Văn Trọng ra đi , việc triều chính thiếu người định đoạt , nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng , là hai tên xu nịnh , trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy . Một hôm vào tiết tháng ba , vua Trụ ngự triều , Thừa Tướng Thương Dung tâu : -Ngày mai là ngày rằm , nhằm vía bà Nữ Oa , xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước . Vua Trụ hỏi : -Bà Nữ Oa là người thế nào đến nổi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương ? Thương Dung tâu : -Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy , hiện là một vị thần linh hiển lắm . Trước kia Cung Công làm phản , đụng đầu vào núi Bất Châu , đất bị nghiêng sụp , bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời . Bởi có công với đời như vậy , nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ . nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa , mối nước được yên , dân gian khõe mạnh. Xin bệ hạ đến đó dâng hương , chẳng nên khinh dễ . Vua Trụ nhận lời : -Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước , sẳn diệp du ngoạn một chuyến . Hôm sau , vua trụ truyền long giá ra đi , các quan đi theo phò tá rất đông . Ba ngàn binh kỵ mã , tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển , trước sau đông nghẹt . Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái . Khi đến trước đền thần Nữ Oa , vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm , và các quan đồng lạy . Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm , những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng , những tượng con gái chạm bằng ngọc
  • 11. đứng dâng hương . Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe , rồng bay phượng lộn , đèn chưng như sao mọc , khói tỏa như mây mờ , uy nghiêm chẳng khác gì đền vua . Trụ Vương đang say mê , thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua , vua trông thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ , hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên , hương trời sắc nước không đâu bì kịp . Lời xưa thường nói : -Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra . Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng : -Ta tuy làm vua giàu có bốn biển , nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy . Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến , và đề một bài thơ ngay trên vách tường : Lạnh lùng trướng phủ xỏa màn loan Bóng sắc khen ai khéo điểm trang Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng Hải đường sương đượm màu tươi tốt Thược dưọc mưa nhuần bóng vẽ vang Ðem về cung điện dựa thiên nhan Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu : -Bá Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ . Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa thuận gió hòa , sóng trong biển lặng . Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên . Xin bệ hạ truyền lấy nước rữa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh . Vua Trụ nói : -Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp , đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác . Vả lại Trẫm là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà , và chiêm ngưỡng vần thơ của Trẫm chứ ?
  • 12. Dứt lời truyền hồi loan . Các quan không ai dám nói lời nào nữa . Về đến đền Long Ðức , các quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy . Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là : Phục Hy , Thần Nông , và Hoàng Ðế . Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền , lên ngồi nơi chánh điện . Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ , bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ , nỗi giận nói : -Ân Thọ hôn quân ! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy , không sợ luật trời . Thật đáng ghét ! Trước khi vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ , hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần thời đã hết . Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh . Nói rồi liền đằng văn bay vào triều , cố vật chết vua Trụ để rữa hờn . nhưng vừa lướt đến phía ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại . Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai , người anh là Ân Hồng , người em là Ân Giao , sau này đều được phong thần , nên mới có hào quang như vậy .). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ . Bà Nữ Oa bị hào quang cản trở , tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số , nên đằng vân trở về miễu . Tuy nhiên , lòng vẫn căm tức không nguôi , bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để giữa sân giở nút , rồi đưa tay chỉ một cái , tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau như giải lụa , dài hơn năm trượng . Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng . Phướng này gọi là phướng chiếu yêu . Trong giây phút sa mù bao phủ , gió lộng áo ào , các yêu đều hiện đến . Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết , chỉ chừa lại ba con yêu tại mã Huỳnh Ðế và cho vào ra mắt . Ba yêu vâng lệnh , vào quỳ lạy xưng ; -Chúng tôi là hồ ly ngàn năm , chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương nương . Bà Nữ Oa nói : -Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn , vua Trụ sắp đến ngày mất nước . Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Châu , người đó là khí số do trời định . Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái , trà trộn vào cung điện , làm cho Trụ vương điêu đứng . Ðợi cho Võ vương đánh trụ thành công , ta
  • 13. cho chúng bay thành thần . Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh , chỉ trả thù Trụ Vương thôi . Ba yêu vâng lệnh lui ra , đằng vân về động . Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về , mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không ngon , ngày ăn không được , coi ba cung sáu viện như cỏ rác , chẳng đoái hoài đến . Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa . Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh , có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã , Trụ Vương sực nhớ đến Vưu Hồn , Bí Trọng , hai tên này thường nói nhiều điều vui tai , vua có thể nhờ hai người này tìm cách giải khuây được , bèn cho đòi Bí Trọng đến . Bí Trọng lúc này là Trung Gián Ðại Phu , nghe vua đòi liền ứng hầu ngay , và tâu : -Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần ? Trụ vương buồn bã nói : -Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nổi trong tam cung lục viện của Trẫm cũng không có kẽ nào bằng . Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện . Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không ? Bí Trọng tâu : -Bệ hạ giàu có bốn biển , đức sánh Thuấn , Nghiêu . Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết , có gì mà bệ hạ không toại nguyện ? Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẽ tuyệt sắc . Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ , phán : -À , thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra . Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy . Rồi Trụ Vương trở về triều . Hồi 2 Vua Trụ nghe Bí Trọng tâu mừng lắm , lập tức về cung . Sáng hôm sau lâm triều , Trụ Vương phán : -Nay Trẫm muốn ra chỉ dụ cho bốn trấn chư hầu kén chọn mỗi trấn một trăm mỹ nữ , chẳng luận giàu sang , quí tộc , miễn là dung nhan đẹp đẻ , cốt cách dịu dàng , ăn nói khuôn phép để sung vào cung sai khiến .
  • 14. Quan Tể Tướng Thương Dung quỳ tâu : -Xưa nay , hễ vua phải đạo thì muôn dân noi gương , không cần dạy dổ , nước vẫn yên vui , dân vẫn tùng phục . Hiện trong cung bệ hạ đã có dư ngàn cung nữ , hậu phi lại hiền đức không ai bằng , nếu bệ hạ còn kén thêm nữa , thần e rằng dân gian không phục . Thần có nghe nói , đạo làm vua nên vui cái vui của dân , nên lo cái lo của dân . Hiện nay trời đang hạn hán , bệ hạ không lo cái khổ của dân , lại chọn nữ sắc , hạ thần thấy không phải lẻ . Ðời Nghiêu , Thuấn dạy thiên hạ không cần khí giới , không dùng hình pháp , khiến cho trời xuống điềm lành , sao Kiêu chiếu sáng trời , chim phụng đổ nơi sân , cỏ chỉ mọc đầy nội , người đi lại đầy đường , chó không tiếng sủa , ngày nắng , đêm mưa , lúa trổ hai gié , ấy là điềm thạnh trị . Trụ Vưong nói : -Ta kế vị nhà Thương mấy năm nay , tuy không được như đời Nghiêu , Thuấn , nhưng trăm họ yên vui , bốn phương quy thuận , há không phải là đời thuận sao ? Tể Tướng Thương Dung tâu : -Nay phương Bắc đang có giặc , mọi miền dân chúng đang khốn đang khốn đốn vì nạn binh đao . Thái sư phải bỏ việc triều đình đi dẹp loạn , nếu bệ hạ lo cái lo của dân thì phải dùng người hiền , đuổi kẻ nịnh , lấy nhân đức làm đầu , tự nhiên thiên hạ thái bình , khí hòa rải khắp thiên hạ . Còn bệ hạ phải ưa nhìn tà sắc , tai ưa nghe tiếng dâm , săn thú dục vườn , vui riêng cái vui của sắc dục , tất nhiên không tránh khỏi loạn ly . Theo ý hạ thần , bệ hạ không nên tuyển mỹ nữ vào cung trong lúc này , xin bệ hạ xét lại . Vua Trụ , nồi suy nghĩ hồi lâu , mặt buồn bả nói : -Lời của khanh rất phải ! Thôi Trẫm bải bỏ ý định chọn mỹ nữ vào cung . Dứt lời , Trụ Vương truyền bãi chầu . Qua năm thứ tám , vào tiết tháng tư , bốn trấn chư hầu lớn đưa mấy trăm chư hầu nhỏ về Triều Ca để chầu nhà Thương theo thể thức hàng năm . Bấy giờ các chu hầu đều biết Thái Sư Văn Trọng đi dẹp loạn chưa về , quyền binh trong triều do Bí Trọng , Vưu Hồn , hai tên nịnh thần ấy gần gủi vua xúi giục , muốn cho vua Trụ khỏi quở trách , ai cũng đem ít nhiều lễ vật hối lộ nơi tư dinh của hai tên gian thần ấy . Duy có một mình Tô Hộ , làm Ký Châu Hầu , tánh tình cương trực không chịu dua mị ai , việc phải trái đều nói thẳng trước mặt , nên không đem lễ vật riêng đút lót cho Bí Trọng và Vưu Hồn . Hai tên gian thần này đem lòng oán trách Tô Hộ , chờ dịp để trả thù . Ðến ngày mồng một là ngày lành . Trụ Vương lâm triều , các quan ứng hầu đủ mặt . Huỳnh Môn Quan vào tâu : -Năm nay nhầm lễ chung , chư hầu lớn nhỏ đều tề tựu đến chầu bệ hạ để nghe dạy việc . Tất cả đang đứng ở ngoài chờ lệnh . Trụ Vương hỏi Thương Dung : -Thừa Tướng định tiếp đón chư hầu như thế nào cho tiện ? Thương Dung tâu : -Bệ hạ chỉ cần đòi bốn trấn chư hầu lớn vào chầu để hỏi thăm dân tình mọi nơi và nếp sống ra sao thôi . Bệ hạ nên dùng lời giả ơn họ . Còn các trấn chư hầu nhỏ thì để họ đứng chầu ngoài ngọ môn cũng được .
  • 15. Trụ Vương nghe theo , liền sai Huỳnh Môn Quan đòi các trấn chư hầu lớn vào đền ra mắt . Bốn trấn chư hầu tuân lịnh , qua khỏi cửa Cửu Long , đến quỳ trước sân . Vua Trụ bước xuống ngai , đứng nơi thềm rồng phủ dụ : -Các khanh giúp Trẫm vổ an dân thứ , trấn ải dẹp loạn , đánh xa trị gần , có công khó nhọc như vậy Trẫm rất hài lòng . Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở tâu : -Chúng tôi đội ơn trên ban chức tổng trấn , hằng ngày ráng lo nhiệm vụ , sợ không tròn trách nhiệm bệ hạ giao phó , nếu có nhọc sức ngựa trâu đôi chút bất quá cũng chỉ mong đền bổn phận làm tôi . Nay được bệ hạ ra ơn vổ về , thật chúng tôi vạn hạnh . Trụ Vương rất vui mừng , truyền Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can khiến quân dọn tiệc tại đền Hiển Thánh , đải đằng bốn vị tổng trấn cho tử tế . Bốn trấn chư hầu lạy tạ rồi theo Thương Dung và Tỉ Can đến dự tiệc . Trụ Vương bãi triều vào hậu cung đòi Bí Trọng và Vưu Hồn đến hỏi : -Năm ngoái các khanh khuyên ta xuống chiếu nhờ bốn trấn chư hầu kén chọn mỹ nữ , nhưng bị Tể Tướng Thương Dung cản ngăn . Năm nay sẳn dịp bốn trấn chư hầu về đủ mặt , Trẫm có nên phán truy ền lệnh ấy hay không ? Bí Trọng tâu : -Thừa Tướng trước kia can việc kén mỹ nữ , bệ hạ đã nghe theo , bây giờ lại truyền kén nữa , tôi e các chư hầu hay được mất uy tín của bệ hạ chăng ? Tôi có nghe đồn con gái Ký Châu Hầu Tô Hộ quốc sắc khuynh thành , huê nhường nguyệt thẹn , nếu bệ hạ chọn vào cung cấm chắc được toại nguyện . Vả lại đòi một người vào cung không làm cho dân chúng xôn xao , và cũng không có gì . Vua Trụ khen : -Khanh thật là kẻ đa mưu túc trí . Như vậy mới đủ sức giúp Trẫm trong lúc này . Nói rồi khiến nôi thị ra ngoài đòi Tô Hộ vào ra mắt . Nội thị tuân lệnh ra đến nhà trạm truyền : -Thiên Tử cho mời Ký Châu Hầu vào thương nghị việc nước . Tô Hộ theo nội thị vào thẳng đến Long Ðức , làm lễ tung hô rồi quỳ nghe lệnh . Trụ vương hỏi : -Trẫm nghe khanh có một người con gái nết na dịu dàng , tánh tình thuần hậu , Trẫm muốn chọn vào hậu cung để được gần Trẫm , nếu được vậy khanh sẽ là quốc thích , ăn lộc trời , hưởng ngôi lớn , yên trấn nơi Ký Châu , danh vang bốn biển . Ðời người được vinh hiển , giàu sang như vậy ai lại không thích , chẳng biết ý khanh nư thế nào ? Tô Hộ nghe Trụ Vương nói mặt lạnh như tiền , tâu : -Bệ hạ có tam cung lục viện , cung nữ hơn ngàn người thì thiếu gì kẻ mặt liễu mày hoa ? Bệ hạ còn chưa thỏa mãn sao ? Xin Bệ hạ chớ nghe lời kẻ dua mị nghĩ điều dục vọng . Vả lại con tôi còn thơ dại , lễ phép chưa biết gì , đức hạnh và nhan sắc đều thiếu , bệ hạ nhọc lòng tưởng đến làm chi . Xin hảy bền lòng lo việc chánh , để thiên hạ mến đức như vậy không rạng rỡ đức trị dân sao ? Vua Trụ cười lớn nói : -Xưa nay ai cũng muốn cho con gái mình làm rạng rỡ tông môn , đáp đền hiếunthảo . Nay con gái của khanh vào làm Phi hậu sánh vai với Trẫm , còn khanh thì lên hàng Quốc thích , vinh hiển
  • 16. nhất đời còn gì hơn ? Sao khanh không nghĩ chuyện ấy , cố chấp làm gì ? Tô Hộ đón biết do Vưu Hồn , Bí Trọng mất ăn , bày chuyện trả thù , nên giận nói lớn : -Tôi nghe nói : Vua làm điều có đức thì muôn dân mến phục , bốn phương quy thuận , muôn dân kính vì , lộc trời trọn hưởng . Xưa Vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc dục , làm lắm điều ác , còn nhà Thương thì không màn của lợi , đức lớn ân nhiều , nên thiên hạ theo về , dựng lên đại nghiệp . Nay Bệ hạ không bắt chước tổ tông , lại noi theo gương nhà Hạ , dẫm chân lên bước đường vong quốc , hạ thần lấy làm tiếc . Hễ Hoàng đế ham sắc thì mất xã tắc , Ðại phu ham sắc thì mất cơ nghiệp , thứ dân tham sắc thì lụy thân . Vua là tấm gương của bầy tôi , hễ Vua lổi đạo thì tôi lăng loàn , lập phe tụ đảng , mối nước rối ren . Tôi chỉ sợ cơ nghiệp nhà Thương gầy dựng sáu trăm năm nay , vì bệ hạ mà sụp đổ . Trụ Vương nghe Tô Hộ nói xúc phạm , giận đỏ mặt mắng : -Xưa nay hễ đạo làm tôi phải gìn lòng trung nghĩa , vua cho hầu thì lật đật đến hầu chẳng dám đợi xe , Vua khiến chết chẳng dám từ chối . Nay Trẫm chỉ cần kén một đức con gái vào làm Hậu Phi mà ngươi dám buông lời chống trả , mắng nhiếc Trẫm , lại sánh Trẫm với vua kiệt là một ông vua mất nước . Có ai dám vô lễ như thế không ? Liền truyền cho nội thị bắt Tô Hộ đem đến tòa pháp ti kết tội khi quân . Nội thị tuân lệnh bắt Tô Hộ trói lại . Vưu Hồn , Bí Trọng vội quỳ tâu : -Tội khi quân của của Tô Hộ đáng xử phạt lắm , nhưng vì Bệ hạ nuốn kén con gái của Tô Hộ rồi lại làm tội Tô Hộ e thiên hạ không hiểu sự tình nghĩ lầm rằng Bệ hạ trọng sắc khinh hiền . Xin Bệ hạ ra ân tha tội cho Tô Hộ về nước . Tô hộ sẽ cảm đức bệ hạ , đem ái nữ dâng vào cung . Như vậy Bệ hạ sẽ tránh được tiếng thị phi , mà tỏ mình có lòng nhân nữa . Vua Trụ nghe nói bớt giận , truyền tha tội cho Tô Hộ , bảo phải về nước , không được nấn ná ở triều ca ngày nào nữa . Lệnh vua vừa ban xuống , nội thị liền mở trói đuổi Tô Hộ ra lập tức . Tô Hộ trở về trạm dịch . Các tướng xúm lại nghênh tiếp , và hỏi thăm : -Chẳng hay Thiên tử mời Chúa công vào triều bàn chuyện cơ mật gì vậy ? Tô Hộ hơi giận chưa nguôi , thốt lời mắng Trụ Vương : -Hôn quân vô đạo chẳng tiếc sự nghiệp của tổ ông để lại , nghe lời nịnh thần buộc ta phải tiến dâng con gái để sung vào Hậu Phi . Ta đoán chắc việc này do Bí Trọng , Vưu Hồn xúi giục , muốn đem sắc đẹp mê hoặc lòng vua để tranh uy thế ? Ta can vua nhưng vua không nghe , lại bảo ta nghịch mạng truyền dẩn đến pháp ti bắt tội . Các tướng thở dài , hỏi : -Nếu vậy Chúa công làm thế nào về được ? Tô Hộ nói : -Hai đứa gian nịnh ấy lại tâu xin với hôn quân tha tội cho ta trở về để cải hối , và dâng ái nữ cho hôn quân . Việc này nếu Thái Sư Văn Trọng có ở triều , hai đứa gian thần ấy đâu dám lộng hành như vậy ? Hôn quân đã sa vào tội lỗi , tiếc thay cơ nghiệp Thành Thang sớm tối phải tan tành . Các tướng hỏi : -Vậy chúa công có ý định thế nào đối với việc này ? Tô Hộ nói :
  • 17. -Nếu không dâng Ðắc Kỷ vào cung thế nào hôn quân cũng đem quân đánh phá nước ta , bằng dâng Ðắc Kỷ vào đó sau này hôn quân thiếu đức làm hư xả tắc , thiên hạ sẽ cho ta là kẻ bất trí . Các tướng có mưu nào gở rối chăng ? Các tướng đồng nói : -Hễ vua bất chánh thì tôi không phục , nay Thiên tử trọng sắc khinh hiền , Chúa công cũng cần gì phải tôn thờ . Cứ trở về giử lấy nước mình an vui một cỏi . Tô Hộ đang giận nghe mấy lời của các tướng chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu , mặt giận phừng phừng nói : -Ðấng trượng phu chẳng bao giờ thèm làm lén , đi ở phân minh . Nói rồi khiến quân đem bút mựt ra , đề bốn câu thơ trên vách tường trước cửa đền , để thiên hạ rõ ý mình không tùng phục nhà Thương nữa : Quân loạn thần cương Hữu bại ngũ thường Ký Châu Tô Hộ Vĩnh bất triều Thương Có nghĩa là : Vua chẳng kỹ cương Lổi đạo luân thường Ký Châu Tô Hộ Chẳng chầu nhà Thương Sau khi đề ra bài phản thi Tô Hộ dẫn các tướng ra khỏi Triều Ca trở về nước . Còn vua Trụ tuy nghe lời Vưu Hồn , Bí Trọng tha Tô Hộ nhưng sợ Tô Hộ trở về không chắc chịu dâng Ðắc Kỹ , nên lòng vẫn buồn bực không an . Tiếp đến có Huỳnh Môn Quan vào tâu : -Tô Hộ đề phản thi trước ngõ , hạ thần chẳng dám dấu , xin phép vào trình bệ hạ rõ . Nói rồi trải tấm giấy trên long án . Vua Trụ xem xong nổi giận mắng : -Trẫm thuận theo lòng người ưa dung tha những kẻ có tội không giết loài chuột , mới cho về xứ . Thế mà nó không biết xét thấy thân phận , lại đề phản thi trước đền , lăng nhục triều đình . Ta không thể bỏ qua hành động ấy được . Liền cho lệnh đòi ba viên đại tướng là Ân Phú Bại , Triều Ðiển ,và Lổ Hùng vào phán : -Tô Hộ bất trung , làm phản thi đề ngoài ngọ môn nhục mạ thiên triều . Các khanh hãy điểm hai mươi muôn binh đi tiên phuông , Trẫm sẽ dẫn các quan theo sau hậu tập . Lổ Hùng cuối đầu nghĩ thầm : -Tô Hộ là người trung nghĩa thưở nay , tánh tình ngay thẳng , chẳng biết vì sao lại có hành động như vậy . Hay kẻ nào thù oán phao vu chăng ? Tội trạng còn chưa rõ ràng , nếu để nhà vua thân chinh thì Ký Châu còn gì ? Nghĩ như vậy , Lổ Hùng quỳ tâu : -Tô Hộ có tội , cần gì Bệ hạ thân chinh cho nhọc . Nay bốn trấn chư hầu còn đó , nếu muốn bắt Tô Hộ , Bệ hạ chỉ cần sai một trong bốn chư hầu ấy đem quân vấn tội cũng đủ . Trụ vương hỏi : -Bốn trấn chư hầu ấy Trẫm nên sai ai đi bắt Tô Hộ ? Bí Trọng quỳ tâu :
  • 18. -Ký Châu thuộc phần đất Bắc Bá Hầu điều khiển , xin Bệ hạ sai Sùng Hầu Hổ đem binh bắt Tô Hộ là phải lẻ . Trụ Vương y lời , Lổ Hùng lại nghĩ thầm : -Sùng Hầu hổ là người tham lam hung dữ , nếu lấy oai thiên tử đi chinh phạt , dân Ký Châu sẽ bị thảm họa không ít . Sẳn đây có Tây Bá Hầu là người nhân đức , nếu tiến cử Tây Bá Hầu thì lưỡng toàn . Nghĩ như vậy , Lổ Hùng tâu : -Sùng Hầu Hổ tuy làm tổng trấn cỏi Bắc , nhưng ân đức chưa có bao nhiêu , nếu thay Bệ hạ đi chinh phạt e không thắng , chi bằng sai Tây Bá Hầu là Cơ Xương , lâu nay nổi tiếng nhân nghĩa , may ra không tốn tên đạn mà bắt Tô Hộ dễ hơn . Trụ Vương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói : -Thôi để Trẫm sai cả hai trấn chư hầu ấy cùng hợp sức đem binh vấn tội thì tiện hơn . Tiếp đó , Trụ Vương thảo chiếu sai nội thị truyền đạt . Bấy giờ , bốn trấn chư hầu đang dự tiệc với Thừa tướng Thương Dung và Tỉ Can tại đền hiển Thánh , bổng có sứ đến dạy Tây và Bắc Bá Hầu nghe truyền chiếu chỉ . Hai trấn chư hầu thấy có chiếu Thiên tử vội quỳ mọp dưới đất , Sứ thần tuyên đọc như sau : "Trẫm nghe : Mão đội trên đầu , dép đi dưới chân , không thể làm trái ngược được . Chúa trị dân tôi thờ chúa , ấy là do đạo trời . Nay Tô Hộ chẳng biết đạo nghĩa , không kể phận vua tôi , khinh lờn phép nước , Trẫm vì lòng nhân tha cho về nước , nhưng lại không biết hốc cải ăn năn , đề phẩn thơ có ý nghịch mạng trời , nay Trẫm ban bùa việt , cờ mao , uy quyền cho Tây và Bắc Bá Hầu thay mặt Trẫm , đem binh đến Ký Châu vấn tội . Nếu ai vì tình riêng dung tha kẻ tôi loàn sẽ bị liên can " Thiên sứ đọc chiếu xong , hai vị tổng trấn đều lạy tạ , vâng mạng . Ðoạn Tây Bá Hầu nói với Thừa Tướng Thương Dung và ba vị tổng trấn kia : -Tô Hộ đến chầu Thiên tử chưa vào đền ra mắt , sao trong chiếu lại nói không kể phận vua tôi , khinh lờn phép nước ? Việc này chưa hiễu nguyên nhân ra sao . Vả chăng Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay , hằng có công với triều đình . Còn việc đề thơ ngoài ngỏ phản đối thiên triều , tôi e không xác đáng . Nếu Bệ hạ nghe theo lời kẻ quấy , sai chinh phạt tôi trung , e không hợp với lòng dân . Xin Thừa Tướng và Á Tướng ngày mai vào chầu , hỏi xem tội Tô Hộ là tội gì cho biết . Nếu đáng trừng phạt thì trừng phạt , còn không đáng thì phải can vua kẻo tội nghiệp Ký Châu Hầu . Tỉ Can nói : -Lời Tây Bá Hầu luận rất phải . Phàm trị một người nào cũng nên nêu rõ tội trạng cho minh bạch đã . Sùng Hầu Hổ nói : -Dù sao lệnh thiên tữ đã ban , chúng ta không nên làm trái . Tôi chắc Tô Hộ có ý phản Thương , nếu không lẽ nào thiên tử kết tội ? Tây Bá Hầu Cơ Xương nói : -Lời ông luận chỉ đúng theo lẻ thường . Còn ở đây Tô Hộ là người quân tử , lòng thẳng dạ ngay . Tận trung phò chúa . Một người như vậy đâu thể phản phúc một cách dễ dàng . Nếu chúng ta không dè đặt . Thiên tử đã nghe lời sàm tấu , chúng ta cứ tuân theo mệnh lệnh thiên triều , chẳng
  • 19. hóa ra chúng ta cùng một lũ vô dụng , không biết gì phải trái sao ? Sùng Hầu Hổ to tiếng : -Ông nói sao lạ vậy ? Không cần biết lệnh vua phải hay trái , chúng ta là tôi thần , vua sai gì chúng ta không thể không tuân . Kẻ nào trái mệnh vua tự nhiên đã mang tội khi quân rồi . Tây Bá Hầu cười nhạt : -Nếu vậy ông hưng binh đi trước . Tôi sẽ theo sau . Sùng Hầu Hổ lập tức từ giả về nước . Tây Bá Hầu còn nán lại nói với Thừa Tướng Thương Dung : -Tôi sẽ về Tây kỳ cất binh theo sau . Tiệc mãn , các trấn chư hầu ai về nước nấy . Khi Tô Hộ về đến Ký Châu , con trai lớn là Tô Toàn Trung đem các tướng ra khỏi thành nghênh tiếp . Cha con mừng rỡ , kéo nhau vào thành . Các tướng quỳ lạy chúc mừng và hỏi : -Chúa công vào triều thiên tử năm nay có điều gì khác lạ không ? Tô Hộ buồn bả nói : -Nay thiên tử từ bỏ hết các việc chánh , nghe lời nịnh thần làm điều phi nghĩa , bắt ta dâng con gái vào triều làm Hậu Phi . Ta dùng lời ngay can gián . Thiên tử cho ta phản nghịch . Ðang cơn giận dữ ta đề phản thi vào ngọ môn rồi bỏ về đây . Sớm tối chắc có binh chư hầu tuân lệnh hôn quân kéo đến đây vấn tội . Vậy các tướng lo chỉnh đốn binh mã , trên thành dự bị cung tên trí thủ đâu đó sẳn sàng , chờ ngày đối phó . Các tướng tuân lệnh ngày đêm canh phòng cẩn mật . Ngay lúc đó , Sùng hầu hổ về nước lập tức điểm năm vạn quân , người ngựa rộn ràng , kéo đến Ký Châu đánh Tô Hộ . Khi đến nơi Sùng Hầu Hổ truyền lệnh an dinh hạ trại xong cho các tướng nghĩ ngơi một bữa , rồi mới ra binh . Quân thám thính trong thành hay được vào báo với Tô Hộ . Tô Hộ hỏi : -Chư Hầu nào hưng binh vậy ? Quân sĩ thưa : -Thấy hiệu cờ đề Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ . Tô Hộ giận nói : -Nếu người khác thì dùng phải trái tỏ bày được , chớ Sùng Hầu Hổ là kẻ bất chấp nhơn nghĩa , có nói cũng uổng lời thôi . Chi bằng sẳn dịp này ta xua binh đánh nó một trận cho nó thấy cái oai của ta . Nói rồi điềm binh ra ngoài thành khiêu chiến . Các tướng theo hầu rất đông . Tô Hộ cho ngựa lướt đến trước trại Sùng Hầu Hổ , nói : -Ta là Ký Châu Hầu muốn mời Bắc bá hầu ra nói chuyện . Sùng Hầu Hổ được tin liền dàn quân bố trận , trước mặt dựng hai cây cờ thêu rồng , sau lưng có người con trai lớn là Sùng Ứng Bưu theo phò tá . Còn Sùng Hầu Hổ thì mặc giáp vàng , đầu đội kim lhôi sáng chói , lưng buộc đai ngọc , tay cầm đại đao uy phong lẩm liệt . Tô Hộ thấy vậy xá Sùng Hầu Hổ một cái và nói : -Ngài vẫn mạnh giỏi chứ ? Tôi vì mặt giáp trụ trong người không được trọn lễ xin ngài miễn chấp . Chẳng biết ngài kéo binh tới Ký Châu này để làm gì ?
  • 20. Sùng Hầu Hổ nói : -Ngươi đề thơ phản thiên triều , nghịch mạng thiên tử , nên thiên tử sai ta đem binh đến vấn tội . Tô Hộ nói : -Hễ vua bất minh tôi phải loạn . Nay thiên tử vô đạo , trọng nịnh khinh hiền , không lo việc nước lại nghĩ đến điều sắc dục , khiến kén Hậu Phi . Như thế chẳng bao lâu nhà Thương sẽ ly loạn . Còn tôi là tay chân của ngài , đem thân bảo vệ bờ cỏi , sao ngài lại không bênh vực . Nghe lời hôn quân chinh phạt làm gì ? Sùng Hầu Hổ nạt lớn : -Ngươi là đứa phản thần , tội đáng tru lục . Nay ta vâng lệnh đem binh hỏi tội , lẻ ra ngươi phải bó tay nạp mình , còn cầm đao lên ngựa ra đây đối diện với ta sao ? Dứt lời Hầu Hổ đưa mắt nhìn sang một bên , hỏi lớn : -Có ai dám ra bắt tên phản tặc đó cho ta không ? Phía tả có một tướng đầu đội kim khôi , mình mang giáp vàng , cởi ngựa ô , lách ngựa đến trước nói : -Xin Chúa công để tôi bắt nó cho . Bên kia , Tô Toàn Trung thấy vậy vổ ngựa tới hét lớn : -Ðừng phách lối ! Ngươi là Mai Võ ta đã biết tài ngươi rồi , chớ hợm hĩnh mà mất mạng . Mai Võ thấy Toàn Trung cản lại , mặt đỏ ngầu , hét : -Cha con bây đã phạm tội phản nghịch còn liều lĩnh chống lại binh trời . Ta chắc chắn sẽ không tránh khỏi nạn diệt tộc đó . Tô Toàn Trung vỗ nhựa múa kích đâm ngang hông . Mai Võ đưa búa ra đở . Hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp . Mai Võ bị Toàn Trung đâm một kích trúng ngay yết hầu nhào xuống ngựa . Tô Hộ thấy con mình đã giết được tướng địch , thừa thắng giống trống lên . Những viên dõng tướng Ký Châu là : Triệu Bính , Trần Qui Trinh đồng giục ngựa múa đao lướt tới đốc quân hãm chiến . Quân Sùng Hầu Hổ túng thế bỏ chạy , quân Ký Châu chạy theo đâm chém tơi bời . Rượt quân giặc trên hai mươi dậm , Tô Hộ mới giống kiển thu quân , kéo vào thành khao thưởng tướng sĩ , và hỏi : -Hôm nay chúng ta thắng trận đầu , thế nào Sùng Hầu Hổ cũng sẽ củng cố lực lượng báo thù . Nếu Sùng Hầu Hổ tăng cường các tướng ở các trấn áp đảo Ký Châu ta thì liệu làm sao ? Phó tướng Triệu Bình thưa : -Việc chinh chiến thắng bại là thường . Vả lại thế chiến không phải một trận là hết . Ngày trước Chúa công đã đề phản thi bất khuất thiên thư , nay lại ra binh giết hại chư hầu , ấy là thế cởi cọp , không thể xuống được . Theo ngu ý của tôi đã hành động phải dứt khoát , không nên lưỡng lự . Sùng Hầu Hổ vừa thua một trận binh tướng xiểng liểng , ta nên thừa cơ truy kích , đánh cho Sùng Hầu Hổ một trận nữa không còn manh giáp , tiếp đó phải giao thiệp với các trấn chư hầu , lấy nhân nghĩa đối đải , thu những chư hầu nào có cảm tình với ta dựa thế để làm hậu viện , như vậy mới giử được Ký Châu này . Tô Hộ nghe nói khen : -Ý kiến ngươi rất hay . Vậy phải thực hiện gấp phương pháp đó . Nói rồi liền sai Toàn Trung lãnh ba ngàn binh ra mai phục nơi trấn Ngủ Cang , cách Tây môn mười dậm để chờ lịnh .
  • 21. Toàn Trung vội kéo binh ra đi , Tô Hộ lại khiến Trần Qui Trinh làm Tả Chi , Triệu Bính làm Hữu Dực , còn mình lãnh đạo trung quân , đang lúc hoàng hôn cuốn cờ giấu trống người ngậm thẻ , ngựa cất lạc , kéo đi , đọi nghe tiếng súng lệnh thì ba mặt áp vào cướp trại địch . Còn Sùng Hầu Hổ ỷ mạnh , đem quân chinh phạt xứ xa , chẳng ngờ mới ra trận đầu đã hao binh tổn tướng , lòng hổ thẹn , dẫn một số tàn quân đóng trại nghĩ ngơi , suốt đêm ngồi than thở với các tướng : -Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều , chưa thua trận nào nhục như trận này , đã mất một tướng , lại hao binh quá sức , nay liệu làm sao ? Ðại tướng Huỳnh Nguyên Tuế thưa : -Binh gia thắng bại là chuyện thường , Chúa công chớ lấy thế mà buồn rầu . Tôi dám chắc binh của Tây Bá Hầu nay mai sẽ kéo đến đây , chừng ấy chúng ta hợp binh hai mặt đánh một trận trả thù , lấy Ký Châu rất dễ . Sùng Hầu Hổ bày tiệc ăn uống giải khuây , rồi vào trướng an nghĩ . Tô Hộ kéo binh tới , cho quân thám thính dọ xét địch tình , thấy trong dinh quân sĩ đều mỏi mệt ngủ say hết , liền ra lệnh đốt ba tiếng pháo , ba ngả binh xông vào một lượt đánh giết tưng bừng . Quân Sùng Hầu Hổ loạn lên , đạp nhau mà chạy , người không kịp mặc giáp , ngựa không ki5p gác yên , túa ra các cửa trại bị giáo đâm , gươm chém , chết thôi vô số . Tô Hộ cầm thuơng cởi ngựa đi lộn trong quân tìm Sùng Hầu Hổ . Còn Sùng Hầu Hổ lúc ấy đang ngủ say , nghe quân ó vội ngồi dậy , mang giáp cầm đao , vừa lên ngựa ra khỏi cửa trại đã gặp Tô Hộ lướt tới mắng lớn : -Hầu Hổ ! Ngươi chạy đi đâu ? Mau xuống ngựa chịu trói cho rồi . Dứt lời đâm liền một giáo . Hầu Hổ thất kinh đưa đao ra đỡ , thời may có Sùng Ứng Bưu , Kim Quỳnh và Huỳnh Nguyên Tuế tiếp đến bảo vệ . Bên Tô Hộ cũng có Triệu Bình , Trần Qui Trinh vừa dùa binh đánh đến nơi , trông thấy liền chận ba tướng của Sùng Hầu Hổ lại giáp chiến . Các tướng đánh nhầu với nhau một lúc , Kim Quỳnh bị Triếu Bính chém đầu . Sùng Hầu Hổ thất kinh không dám cự với Tô Hộ nữa , vừa đánh vừa chạy , nhờ có con là Sùng Ứng Bưu ra sức bảo vệ mới khỏi chết . Tuy vậy thân xác Hầu Hổ chẳng khác chó nhà hoang , cá lọt lưới chạy thôi giáp mão tơi bời . Thương hại mấy mươi vạn binh của Hầu Hổ chết như rạ , máu chảy thành sông , thây phơi như núi . Tô Hộ đuổi theo được mười dậm rồi thu binh trở lại . Cha con Hầu Hổ chạy mãi không dám dừng chân . Tiếp đó có Huỳnh nguyên Tuế và tôn Tử võ kéo một mớ tàn quân chạy theo kịp , Cha con Hầu Hổ mới vững bụng thu góp binh thua , kiểm điểm lại thấy mười phần hao hết phân nữa . Hầu Hổ than : -Ta cầm binh tự bấy lâu nay chưa thua trận nào như vậy . Bởi ta khinh Ký Châu là tiểu trấn , không phòng bị nên mới lầm mưu địch . Còn Tây Bá Hầu Cơ Xương thì chắc là không tuân lệnh thiên tử , ngồi ở nhà xem thắng bại thôi . Thật là nhục ! Thù này biết bao giờ mới nguôi được ? Sùng Ứng Bưu thưa : -Quân ta mới thua , uy thế đã nhục lắm rồi . Chi bằng cứ tạm đồn binh nơi đây rồi cho người sang thôi thúc Tây Bá Hầu xem người có ý định như thế nào rồi sẽ tính . Hầu Hổ nói :
  • 22. -Con nói như vậy cũng phải . Thôi , cứ để trời sáng sẽ cho người đến Tây Bá Hầu đôn đốc . Cha con đang đàm luận , bổng nghe tiếng quân ó vang trời , xa xa có một tướng nhỏ , đội mão vàng , giắt hai chiếc lông trĩ , mặc giáp đỏ , cỡi ngựa kim , tay cầm cây kích , mặt tròn tự trăng rằm , môi đỏ như son , bay ngựa tới nạt lớn : -Sùng Hầu Hổ , ta vâng lệnh phụ thân ta mai phục nơi đây đợi ngươi đã lâu lắm , ngươi không không xuống ngựa bó tay còn đợi đến chừng nào nữa ? Sùng Hầu hổ thấy viên tiểu tướng ấy là Tô Toàn Trung , nỗi giận mắng lớn : -Cha con bay làm phản , Nghịch mạng triều đình , tội chết tày non , dẩu có bầm thây chúng bây đến tan nát cũng chưa đền tội . Ta vô ý nên mắc mưu , chưa phải thắng một trận mà nên công được , chúng bây chớ có vô lễ đón đường chận ngỏ , ta e nay mai binh triều kéo đến đây , cha con bây dầu có cánh lên trời cũng chẳng kịp . Tô Toàn Trung cười ngất : -Thôi thôi , chớ nhiều lời vô ích , hãy nói chuyện với cây kích của ta đây . Vừa nói , Toàn Trung vừa vung kích đâm tới . Bên kia Huỳnh Nguyên Tuế lướt ngựa tới cản mũi kích . Toàn Trung lại bảo vệ Sùng Hầu Hổ . Hai tướng đánh nhau chừng vài hiệp , Tôn Tử Võ giục ngựa ra múa chỉa ba đánh giúp với Huỳnh Nguyên Tuế , quyết hạ cho kỳ được Tô Toàn trung . Ai ngờ Tô Toàn trung võ nghệ siêu quần , một mình chấp hai tướng , đánh vùi như mưa Bấc . Ðánh chừng hai chục hiệp , Toàn Trung ra miệng hét lên một tiếng , đâm Tôn Tử Võ một kích nhào xuống ngựa . Huỳnh Nguyên Tuế cả giận , vung thương đâm chém rất dữ , nhưng Toàn Trung không thèm đánh với Huỳnh Nguyên Tuế , lướt ngựa tới đâm Sùng Hầu Hổ . Sùng Hầu Hổ sợ hãi lui ngựa ra sau . Sùng Ứng Bưu vội lướt tới đở cây kích của Toàn Trung rồi hiệp lực với Huỳnh Nguyên Tuế cự chiến . Toàn Trung lúc này đánh với ba tướng , nhưng càng đánh càng hăng , không biết mệt , múa kích như mưa bay gió táp . Ðánh được một lúc , Sùng Hầu Hổ bị Toàn Trung chém toẹt một đường đứt nữa áo giáp . Hầu Hổ mất vía quất ngựa chạy dài . Ứng Bưu lúng túng bị Toàn Trung đâm một kích nhắm cánh tay , gần nhào xuống ngựa , may nhờ có Huỳnh Nguyên Tuế bảo vệ mới chạy khỏi . Tô Toàn Trung đắc thắng , rượt đám tàn quân của Sùng Hầu Hổ chém giết môt hồi , thấy trời còn khuya chẳng dám đuổi theo , vội thâu binh về . Khi Toàn Trung về đến chân thành , trời mới rựng sáng , vội kêu quân mở cửa vào ra mắt Tô Hộ thưa : -Con vâng lệnh thân phụ mai phục tại Ngủ Cang , đến nữa đêm địch quân chạy đến đó , một mình con chém đứt vạt giáp của Sùng Hầu Hổ , đâm chết Tôn Tử Võ và đánh Sùng Ứng Bưu gần sa xuống ngựa , vì trời tối , sợ có điều gì sơ xuất con không dám đuổi theo , xin phụ thân miễn tội . Tô Hộ nói : -Con đã làm chúng nó khiếp vía rồi , như thế cũng đũ , khỏi cần truy kích nữa . Vua Trụ nghe Bí Trọng tâu mừng lắm , lập tức về cung . Sáng hôm sau lâm triều , Trụ Vương
  • 23. phán : -Nay Trẫm muốn ra chỉ dụ cho bốn trấn chư hầu kén chọn mỗi trấn một trăm mỹ nữ , chẳng luận giàu sang , quí tộc , miễn là dung nhan đẹp đẻ , cốt cách dịu dàng , ăn nói khuôn phép để sung vào cung sai khiến . Quan Tể Tướng Thương Dung quỳ tâu : -Xưa nay , hễ vua phải đạo thì muôn dân noi gương , không cần dạy dổ , nước vẫn yên vui , dân vẫn tùng phục . Hiện trong cung bệ hạ đã có dư ngàn cung nữ , hậu phi lại hiền đức không ai bằng , nếu bệ hạ còn kén thêm nữa , thần e rằng dân gian không phục . Thần có nghe nói , đạo làm vua nên vui cái vui của dân , nên lo cái lo của dân . Hiện nay trời đang hạn hán , bệ hạ không lo cái khổ của dân , lại chọn nữ sắc , hạ thần thấy không phải lẻ . Ðời Nghiêu , Thuấn dạy thiên hạ không cần khí giới , không dùng hình pháp , khiến cho trời xuống điềm lành , sao Kiêu chiếu sáng trời , chim phụng đổ nơi sân , cỏ chỉ mọc đầy nội , người đi lại đầy đường , chó không tiếng sủa , ngày nắng , đêm mưa , lúa trổ hai gié , ấy là điềm thạnh trị . Trụ Vưong nói : -Ta kế vị nhà Thương mấy năm nay , tuy không được như đời Nghiêu , Thuấn , nhưng trăm họ yên vui , bốn phương quy thuận , há không phải là đời thuận sao ? Tể Tướng Thương Dung tâu : -Nay phương Bắc đang có giặc , mọi miền dân chúng đang khốn đang khốn đốn vì nạn binh đao . Thái sư phải bỏ việc triều đình đi dẹp loạn , nếu bệ hạ lo cái lo của dân thì phải dùng người hiền , đuổi kẻ nịnh , lấy nhân đức làm đầu , tự nhiên thiên hạ thái bình , khí hòa rải khắp thiên hạ . Còn bệ hạ phải ưa nhìn tà sắc , tai ưa nghe tiếng dâm , săn thú dục vườn , vui riêng cái vui của sắc dục , tất nhiên không tránh khỏi loạn ly . Theo ý hạ thần , bệ hạ không nên tuyển mỹ nữ vào cung trong lúc này , xin bệ hạ xét lại . Vua Trụ , nồi suy nghĩ hồi lâu , mặt buồn bả nói : -Lời của khanh rất phải ! Thôi Trẫm bải bỏ ý định chọn mỹ nữ vào cung . Dứt lời , Trụ Vương truyền bãi chầu . Qua năm thứ tám , vào tiết tháng tư , bốn trấn chư hầu lớn đưa mấy trăm chư hầu nhỏ về Triều Ca để chầu nhà Thương theo thể thức hàng năm .
  • 24. Bấy giờ các chu hầu đều biết Thái Sư Văn Trọng đi dẹp loạn chưa về , quyền binh trong triều do Bí Trọng , Vưu Hồn , hai tên nịnh thần ấy gần gủi vua xúi giục , muốn cho vua Trụ khỏi quở trách , ai cũng đem ít nhiều lễ vật hối lộ nơi tư dinh của hai tên gian thần ấy . Duy có một mình Tô Hộ , làm Ký Châu Hầu , tánh tình cương trực không chịu dua mị ai , việc phải trái đều nói thẳng trước mặt , nên không đem lễ vật riêng đút lót cho Bí Trọng và Vưu Hồn . Hai tên gian thần này đem lòng oán trách Tô Hộ , chờ dịp để trả thù . Ðến ngày mồng một là ngày lành . Trụ Vương lâm triều , các quan ứng hầu đủ mặt . Huỳnh Môn Quan vào tâu : -Năm nay nhầm lễ chung , chư hầu lớn nhỏ đều tề tựu đến chầu bệ hạ để nghe dạy việc . Tất cả đang đứng ở ngoài chờ lệnh . Trụ Vương hỏi Thương Dung : -Thừa Tướng định tiếp đón chư hầu như thế nào cho tiện ? Thương Dung tâu : -Bệ hạ chỉ cần đòi bốn trấn chư hầu lớn vào chầu để hỏi thăm dân tình mọi nơi và nếp sống ra sao thôi . Bệ hạ nên dùng lời giả ơn họ . Còn các trấn chư hầu nhỏ thì để họ đứng chầu ngoài ngọ môn cũng được . Trụ Vương nghe theo , liền sai Huỳnh Môn Quan đòi các trấn chư hầu lớn vào đền ra mắt . Bốn trấn chư hầu tuân lịnh , qua khỏi cửa Cửu Long , đến quỳ trước sân . Vua Trụ bước xuống ngai , đứng nơi thềm rồng phủ dụ : -Các khanh giúp Trẫm vổ an dân thứ , trấn ải dẹp loạn , đánh xa trị gần , có công khó nhọc như vậy Trẫm rất hài lòng . Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở tâu : -Chúng tôi đội ơn trên ban chức tổng trấn , hằng ngày ráng lo nhiệm vụ , sợ không tròn trách nhiệm bệ hạ giao phó , nếu có nhọc sức ngựa trâu đôi chút bất quá cũng chỉ mong đền bổn phận làm tôi . Nay được bệ hạ ra ơn vổ về , thật chúng tôi vạn hạnh . Trụ Vương rất vui mừng , truyền Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can khiến quân dọn
  • 25. tiệc tại đền Hiển Thánh , đải đằng bốn vị tổng trấn cho tử tế . Bốn trấn chư hầu lạy tạ rồi theo Thương Dung và Tỉ Can đến dự tiệc . Trụ Vương bãi triều vào hậu cung đòi Bí Trọng và Vưu Hồn đến hỏi : -Năm ngoái các khanh khuyên ta xuống chiếu nhờ bốn trấn chư hầu kén chọn mỹ nữ , nhưng bị Tể Tướng Thương Dung cản ngăn . Năm nay sẳn dịp bốn trấn chư hầu về đủ mặt , Trẫm có nên phán truy ền lệnh ấy hay không ? Bí Trọng tâu : -Thừa Tướng trước kia can việc kén mỹ nữ , bệ hạ đã nghe theo , bây giờ lại truyền kén nữa , tôi e các chư hầu hay được mất uy tín của bệ hạ chăng ? Tôi có nghe đồn con gái Ký Châu Hầu Tô Hộ quốc sắc khuynh thành , huê nhường nguyệt thẹn , nếu bệ hạ chọn vào cung cấm chắc được toại nguyện . Vả lại đòi một người vào cung không làm cho dân chúng xôn xao , và cũng không có gì . Vua Trụ khen : -Khanh thật là kẻ đa mưu túc trí . Như vậy mới đủ sức giúp Trẫm trong lúc này . Nói rồi khiến nôi thị ra ngoài đòi Tô Hộ vào ra mắt . Nội thị tuân lệnh ra đến nhà trạm truyền : -Thiên Tử cho mời Ký Châu Hầu vào thương nghị việc nước . Tô Hộ theo nội thị vào thẳng đến Long Ðức , làm lễ tung hô rồi quỳ nghe lệnh . Trụ vương hỏi : -Trẫm nghe khanh có một người con gái nết na dịu dàng , tánh tình thuần hậu , Trẫm muốn chọn vào hậu cung để được gần Trẫm , nếu được vậy khanh sẽ là quốc thích , ăn lộc trời , hưởng ngôi lớn , yên trấn nơi Ký Châu , danh vang bốn biển . Ðời người được vinh hiển , giàu sang như vậy ai lại không thích , chẳng biết ý khanh nư thế nào ? Tô Hộ nghe Trụ Vương nói mặt lạnh như tiền , tâu : -Bệ hạ có tam cung lục viện , cung nữ hơn ngàn người thì thiếu gì kẻ mặt liễu mày hoa ? Bệ hạ còn chưa thỏa mãn sao ? Xin Bệ hạ chớ nghe lời kẻ dua mị nghĩ điều dục vọng . Vả lại con tôi còn thơ dại , lễ phép chưa biết gì , đức hạnh và nhan sắc đều thiếu , bệ hạ nhọc lòng tưởng đến làm chi . Xin hảy bền lòng lo việc chánh , để thiên hạ mến đức như vậy không rạng rỡ đức trị dân sao ?
  • 26. Vua Trụ cười lớn nói : -Xưa nay ai cũng muốn cho con gái mình làm rạng rỡ tông môn , đáp đền hiếunthảo . Nay con gái của khanh vào làm Phi hậu sánh vai với Trẫm , còn khanh thì lên hàng Quốc thích , vinh hiển nhất đời còn gì hơn ? Sao khanh không nghĩ chuyện ấy , cố chấp làm gì ? Tô Hộ đón biết do Vưu Hồn , Bí Trọng mất ăn , bày chuyện trả thù , nên giận nói lớn : -Tôi nghe nói : Vua làm điều có đức thì muôn dân mến phục , bốn phương quy thuận , muôn dân kính vì , lộc trời trọn hưởng . Xưa Vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc dục , làm lắm điều ác , còn nhà Thương thì không màn của lợi , đức lớn ân nhiều , nên thiên hạ theo về , dựng lên đại nghiệp . Nay Bệ hạ không bắt chước tổ tông , lại noi theo gương nhà Hạ , dẫm chân lên bước đường vong quốc , hạ thần lấy làm tiếc . Hễ Hoàng đế ham sắc thì mất xã tắc , Ðại phu ham sắc thì mất cơ nghiệp , thứ dân tham sắc thì lụy thân . Vua là tấm gương của bầy tôi , hễ Vua lổi đạo thì tôi lăng loàn , lập phe tụ đảng , mối nước rối ren . Tôi chỉ sợ cơ nghiệp nhà Thương gầy dựng sáu trăm năm nay , vì bệ hạ mà sụp đổ . Trụ Vương nghe Tô Hộ nói xúc phạm , giận đỏ mặt mắng : -Xưa nay hễ đạo làm tôi phải gìn lòng trung nghĩa , vua cho hầu thì lật đật đến hầu chẳng dám đợi xe , Vua khiến chết chẳng dám từ chối . Nay Trẫm chỉ cần kén một đức con gái vào làm Hậu Phi mà ngươi dám buông lời chống trả , mắng nhiếc Trẫm , lại sánh Trẫm với vua kiệt là một ông vua mất nước . Có ai dám vô lễ như thế không ? Liền truyền cho nội thị bắt Tô Hộ đem đến tòa pháp ti kết tội khi quân . Nội thị tuân lệnh bắt Tô Hộ trói lại . Vưu Hồn , Bí Trọng vội quỳ tâu : -Tội khi quân của của Tô Hộ đáng xử phạt lắm , nhưng vì Bệ hạ nuốn kén con gái của Tô Hộ rồi lại làm tội Tô Hộ e thiên hạ không hiểu sự tình nghĩ lầm rằng Bệ hạ trọng sắc khinh hiền . Xin Bệ hạ ra ân tha tội cho Tô Hộ về nước . Tô hộ sẽ cảm đức bệ hạ , đem ái nữ dâng vào cung . Như vậy Bệ hạ sẽ tránh được tiếng thị phi , mà tỏ mình có lòng nhân nữa . Vua Trụ nghe nói bớt giận , truyền tha tội cho Tô Hộ , bảo phải về nước , không được nấn ná ở triều ca ngày nào nữa . Lệnh vua vừa ban xuống , nội thị liền mở trói đuổi Tô Hộ ra lập tức . Tô Hộ trở về trạm dịch . Các tướng xúm lại nghênh tiếp , và hỏi thăm :
  • 27. -Chẳng hay Thiên tử mời Chúa công vào triều bàn chuyện cơ mật gì vậy ? Tô Hộ hơi giận chưa nguôi , thốt lời mắng Trụ Vương : -Hôn quân vô đạo chẳng tiếc sự nghiệp của tổ ông để lại , nghe lời nịnh thần buộc ta phải tiến dâng con gái để sung vào Hậu Phi . Ta đoán chắc việc này do Bí Trọng , Vưu Hồn xúi giục , muốn đem sắc đẹp mê hoặc lòng vua để tranh uy thế ? Ta can vua nhưng vua không nghe , lại bảo ta nghịch mạng truyền dẩn đến pháp ti bắt tội . Các tướng thở dài , hỏi : -Nếu vậy Chúa công làm thế nào về được ? Tô Hộ nói : -Hai đứa gian nịnh ấy lại tâu xin với hôn quân tha tội cho ta trở về để cải hối , và dâng ái nữ cho hôn quân . Việc này nếu Thái Sư Văn Trọng có ở triều , hai đứa gian thần ấy đâu dám lộng hành như vậy ? Hôn quân đã sa vào tội lỗi , tiếc thay cơ nghiệp Thành Thang sớm tối phải tan tành . Các tướng hỏi : -Vậy chúa công có ý định thế nào đối với việc này ? Tô Hộ nói : -Nếu không dâng Ðắc Kỷ vào cung thế nào hôn quân cũng đem quân đánh phá nước ta , bằng dâng Ðắc Kỷ vào đó sau này hôn quân thiếu đức làm hư xả tắc , thiên hạ sẽ cho ta là kẻ bất trí . Các tướng có mưu nào gở rối chăng ? Các tướng đồng nói : -Hễ vua bất chánh thì tôi không phục , nay Thiên tử trọng sắc khinh hiền , Chúa công cũng cần gì phải tôn thờ . Cứ trở về giử lấy nước mình an vui một cỏi . Tô Hộ đang giận nghe mấy lời của các tướng chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu , mặt giận phừng phừng nói : -Ðấng trượng phu chẳng bao giờ thèm làm lén , đi ở phân minh . Nói rồi khiến quân đem bút mựt ra , đề bốn câu thơ trên vách tường trước cửa đền , để thiên hạ rõ
  • 28. ý mình không tùng phục nhà Thương nữa : Quân loạn thần cương Hữu bại ngũ thường Ký Châu Tô Hộ Vĩnh bất triều Thương Có nghĩa là : Vua chẳng kỹ cương Lổi đạo luân thường Ký Châu Tô Hộ Chẳng chầu nhà Thương Sau khi đề ra bài phản thi Tô Hộ dẫn các tướng ra khỏi Triều Ca trở về nước . Còn vua Trụ tuy nghe lời Vưu Hồn , Bí Trọng tha Tô Hộ nhưng sợ Tô Hộ trở về không chắc chịu dâng Ðắc Kỹ , nên lòng vẫn buồn bực không an . Tiếp đến có Huỳnh Môn Quan vào tâu : -Tô Hộ đề phản thi trước ngõ , hạ thần chẳng dám dấu , xin phép vào trình bệ hạ rõ . Nói rồi trải tấm giấy trên long án . Vua Trụ xem xong nổi giận mắng : -Trẫm thuận theo lòng người ưa dung tha những kẻ có tội không giết loài chuột , mới cho về xứ . Thế mà nó không biết xét thấy thân phận , lại đề phản thi trước đền , lăng nhục triều đình . Ta không thể bỏ qua hành động ấy được . Liền cho lệnh đòi ba viên đại tướng là Ân Phú Bại , Triều Ðiển ,và Lổ Hùng vào phán : -Tô Hộ bất trung , làm phản thi đề ngoài ngọ môn nhục mạ thiên triều . Các khanh hãy điểm hai mươi muôn binh đi tiên phuông , Trẫm sẽ dẫn các quan theo sau hậu tập . Lổ Hùng cuối đầu nghĩ thầm : -Tô Hộ là người trung nghĩa thưở nay , tánh tình ngay thẳng , chẳng biết vì sao lại có hành động
  • 29. như vậy . Hay kẻ nào thù oán phao vu chăng ? Tội trạng còn chưa rõ ràng , nếu để nhà vua thân chinh thì Ký Châu còn gì ? Nghĩ như vậy , Lổ Hùng quỳ tâu : -Tô Hộ có tội , cần gì Bệ hạ thân chinh cho nhọc . Nay bốn trấn chư hầu còn đó , nếu muốn bắt Tô Hộ , Bệ hạ chỉ cần sai một trong bốn chư hầu ấy đem quân vấn tội cũng đủ . Trụ vương hỏi : -Bốn trấn chư hầu ấy Trẫm nên sai ai đi bắt Tô Hộ ? Bí Trọng quỳ tâu : -Ký Châu thuộc phần đất Bắc Bá Hầu điều khiển , xin Bệ hạ sai Sùng Hầu Hổ đem binh bắt Tô Hộ là phải lẻ . Trụ Vương y lời , Lổ Hùng lại nghĩ thầm : -Sùng Hầu hổ là người tham lam hung dữ , nếu lấy oai thiên tử đi chinh phạt , dân Ký Châu sẽ bị thảm họa không ít . Sẳn đây có Tây Bá Hầu là người nhân đức , nếu tiến cử Tây Bá Hầu thì lưỡng toàn . Nghĩ như vậy , Lổ Hùng tâu : -Sùng Hầu Hổ tuy làm tổng trấn cỏi Bắc , nhưng ân đức chưa có bao nhiêu , nếu thay Bệ hạ đi chinh phạt e không thắng , chi bằng sai Tây Bá Hầu là Cơ Xương , lâu nay nổi tiếng nhân nghĩa , may ra không tốn tên đạn mà bắt Tô Hộ dễ hơn . Trụ Vương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói : -Thôi để Trẫm sai cả hai trấn chư hầu ấy cùng hợp sức đem binh vấn tội thì tiện hơn . Tiếp đó , Trụ Vương thảo chiếu sai nội thị truyền đạt . Bấy giờ , bốn trấn chư hầu đang dự tiệc với Thừa tướng Thương Dung và Tỉ Can tại đền hiển Thánh , bổng có sứ đến dạy Tây và Bắc Bá Hầu nghe truyền chiếu chỉ . Hai trấn chư hầu thấy có chiếu Thiên tử vội quỳ mọp dưới đất , Sứ thần tuyên đọc như sau : "Trẫm nghe : Mão đội trên đầu , dép đi dưới chân , không thể làm trái ngược được . Chúa trị dân
  • 30. tôi thờ chúa , ấy là do đạo trời . Nay Tô Hộ chẳng biết đạo nghĩa , không kể phận vua tôi , khinh lờn phép nước , Trẫm vì lòng nhân tha cho về nước , nhưng lại không biết hốc cải ăn năn , đề phẩn thơ có ý nghịch mạng trời , nay Trẫm ban bùa việt , cờ mao , uy quyền cho Tây và Bắc Bá Hầu thay mặt Trẫm , đem binh đến Ký Châu vấn tội . Nếu ai vì tình riêng dung tha kẻ tôi loàn sẽ bị liên can " Thiên sứ đọc chiếu xong , hai vị tổng trấn đều lạy tạ , vâng mạng . Ðoạn Tây Bá Hầu nói với Thừa Tướng Thương Dung và ba vị tổng trấn kia : -Tô Hộ đến chầu Thiên tử chưa vào đền ra mắt , sao trong chiếu lại nói không kể phận vua tôi , khinh lờn phép nước ? Việc này chưa hiễu nguyên nhân ra sao . Vả chăng Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay , hằng có công với triều đình . Còn việc đề thơ ngoài ngỏ phản đối thiên triều , tôi e không xác đáng . Nếu Bệ hạ nghe theo lời kẻ quấy , sai chinh phạt tôi trung , e không hợp với lòng dân . Xin Thừa Tướng và Á Tướng ngày mai vào chầu , hỏi xem tội Tô Hộ là tội gì cho biết . Nếu đáng trừng phạt thì trừng phạt , còn không đáng thì phải can vua kẻo tội nghiệp Ký Châu Hầu . Tỉ Can nói : -Lời Tây Bá Hầu luận rất phải . Phàm trị một người nào cũng nên nêu rõ tội trạng cho minh bạch đã . Sùng Hầu Hổ nói : -Dù sao lệnh thiên tữ đã ban , chúng ta không nên làm trái . Tôi chắc Tô Hộ có ý phản Thương , nếu không lẽ nào thiên tử kết tội ? Tây Bá Hầu Cơ Xương nói : -Lời ông luận chỉ đúng theo lẻ thường . Còn ở đây Tô Hộ là người quân tử , lòng thẳng dạ ngay . Tận trung phò chúa . Một người như vậy đâu thể phản phúc một cách dễ dàng . Nếu chúng ta không dè đặt . Thiên tử đã nghe lời sàm tấu , chúng ta cứ tuân theo mệnh lệnh thiên triều , chẳng hóa ra chúng ta cùng một lũ vô dụng , không biết gì phải trái sao ? Sùng Hầu Hổ to tiếng : -Ông nói sao lạ vậy ? Không cần biết lệnh vua phải hay trái , chúng ta là tôi thần , vua sai gì chúng ta không thể không tuân . Kẻ nào trái mệnh vua tự nhiên đã mang tội khi quân rồi . Tây Bá Hầu cười nhạt :
  • 31. -Nếu vậy ông hưng binh đi trước . Tôi sẽ theo sau . Sùng Hầu Hổ lập tức từ giả về nước . Tây Bá Hầu còn nán lại nói với Thừa Tướng Thương Dung : -Tôi sẽ về Tây kỳ cất binh theo sau . Tiệc mãn , các trấn chư hầu ai về nước nấy . Khi Tô Hộ về đến Ký Châu , con trai lớn là Tô Toàn Trung đem các tướng ra khỏi thành nghênh tiếp . Cha con mừng rỡ , kéo nhau vào thành . Các tướng quỳ lạy chúc mừng và hỏi : -Chúa công vào triều thiên tử năm nay có điều gì khác lạ không ? Tô Hộ buồn bả nói : -Nay thiên tử từ bỏ hết các việc chánh , nghe lời nịnh thần làm điều phi nghĩa , bắt ta dâng con gái vào triều làm Hậu Phi . Ta dùng lời ngay can gián . Thiên tử cho ta phản nghịch . Ðang cơn giận dữ ta đề phản thi vào ngọ môn rồi bỏ về đây . Sớm tối chắc có binh chư hầu tuân lệnh hôn quân kéo đến đây vấn tội . Vậy các tướng lo chỉnh đốn binh mã , trên thành dự bị cung tên trí thủ đâu đó sẳn sàng , chờ ngày đối phó . Các tướng tuân lệnh ngày đêm canh phòng cẩn mật . Ngay lúc đó , Sùng hầu hổ về nước lập tức điểm năm vạn quân , người ngựa rộn ràng , kéo đến Ký Châu đánh Tô Hộ . Khi đến nơi Sùng Hầu Hổ truyền lệnh an dinh hạ trại xong cho các tướng nghĩ ngơi một bữa , rồi mới ra binh . Quân thám thính trong thành hay được vào báo với Tô Hộ . Tô Hộ hỏi : -Chư Hầu nào hưng binh vậy ? Quân sĩ thưa : -Thấy hiệu cờ đề Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ . Tô Hộ giận nói :
  • 32. -Nếu người khác thì dùng phải trái tỏ bày được , chớ Sùng Hầu Hổ là kẻ bất chấp nhơn nghĩa , có nói cũng uổng lời thôi . Chi bằng sẳn dịp này ta xua binh đánh nó một trận cho nó thấy cái oai của ta . Nói rồi điềm binh ra ngoài thành khiêu chiến . Các tướng theo hầu rất đông . Tô Hộ cho ngựa lướt đến trước trại Sùng Hầu Hổ , nói : -Ta là Ký Châu Hầu muốn mời Bắc bá hầu ra nói chuyện . Sùng Hầu Hổ được tin liền dàn quân bố trận , trước mặt dựng hai cây cờ thêu rồng , sau lưng có người con trai lớn là Sùng Ứng Bưu theo phò tá . Còn Sùng Hầu Hổ thì mặc giáp vàng , đầu đội kim lhôi sáng chói , lưng buộc đai ngọc , tay cầm đại đao uy phong lẩm liệt . Tô Hộ thấy vậy xá Sùng Hầu Hổ một cái và nói : -Ngài vẫn mạnh giỏi chứ ? Tôi vì mặt giáp trụ trong người không được trọn lễ xin ngài miễn chấp . Chẳng biết ngài kéo binh tới Ký Châu này để làm gì ? Sùng Hầu Hổ nói : -Ngươi đề thơ phản thiên triều , nghịch mạng thiên tử , nên thiên tử sai ta đem binh đến vấn tội . Tô Hộ nói : -Hễ vua bất minh tôi phải loạn . Nay thiên tử vô đạo , trọng nịnh khinh hiền , không lo việc nước lại nghĩ đến điều sắc dục , khiến kén Hậu Phi . Như thế chẳng bao lâu nhà Thương sẽ ly loạn . Còn tôi là tay chân của ngài , đem thân bảo vệ bờ cỏi , sao ngài lại không bênh vực . Nghe lời hôn quân chinh phạt làm gì ? Sùng Hầu Hổ nạt lớn : -Ngươi là đứa phản thần , tội đáng tru lục . Nay ta vâng lệnh đem binh hỏi tội , lẻ ra ngươi phải bó tay nạp mình , còn cầm đao lên ngựa ra đây đối diện với ta sao ? Dứt lời Hầu Hổ đưa mắt nhìn sang một bên , hỏi lớn : -Có ai dám ra bắt tên phản tặc đó cho ta không ? Phía tả có một tướng đầu đội kim khôi , mình mang giáp vàng , cởi ngựa ô , lách ngựa đến trước nói : -Xin Chúa công để tôi bắt nó cho .
  • 33. Bên kia , Tô Toàn Trung thấy vậy vổ ngựa tới hét lớn : -Ðừng phách lối ! Ngươi là Mai Võ ta đã biết tài ngươi rồi , chớ hợm hĩnh mà mất mạng . Mai Võ thấy Toàn Trung cản lại , mặt đỏ ngầu , hét : -Cha con bây đã phạm tội phản nghịch còn liều lĩnh chống lại binh trời . Ta chắc chắn sẽ không tránh khỏi nạn diệt tộc đó . Tô Toàn Trung vỗ nhựa múa kích đâm ngang hông . Mai Võ đưa búa ra đở . Hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp . Mai Võ bị Toàn Trung đâm một kích trúng ngay yết hầu nhào xuống ngựa . Tô Hộ thấy con mình đã giết được tướng địch , thừa thắng giống trống lên . Những viên dõng tướng Ký Châu là : Triệu Bính , Trần Qui Trinh đồng giục ngựa múa đao lướt tới đốc quân hãm chiến . Quân Sùng Hầu Hổ túng thế bỏ chạy , quân Ký Châu chạy theo đâm chém tơi bời . Rượt quân giặc trên hai mươi dậm , Tô Hộ mới giống kiển thu quân , kéo vào thành khao thưởng tướng sĩ , và hỏi : -Hôm nay chúng ta thắng trận đầu , thế nào Sùng Hầu Hổ cũng sẽ củng cố lực lượng báo thù . Nếu Sùng Hầu Hổ tăng cường các tướng ở các trấn áp đảo Ký Châu ta thì liệu làm sao ? Phó tướng Triệu Bình thưa : -Việc chinh chiến thắng bại là thường . Vả lại thế chiến không phải một trận là hết . Ngày trước Chúa công đã đề phản thi bất khuất thiên thư , nay lại ra binh giết hại chư hầu , ấy là thế cởi cọp , không thể xuống được . Theo ngu ý của tôi đã hành động phải dứt khoát , không nên lưỡng lự . Sùng Hầu Hổ vừa thua một trận binh tướng xiểng liểng , ta nên thừa cơ truy kích , đánh cho Sùng Hầu Hổ một trận nữa không còn manh giáp , tiếp đó phải giao thiệp với các trấn chư hầu , lấy nhân nghĩa đối đải , thu những chư hầu nào có cảm tình với ta dựa thế để làm hậu viện , như vậy mới giử được Ký Châu này . Tô Hộ nghe nói khen : -Ý kiến ngươi rất hay . Vậy phải thực hiện gấp phương pháp đó . Nói rồi liền sai Toàn Trung lãnh ba ngàn binh ra mai phục nơi trấn Ngủ Cang , cách Tây môn mười dậm để chờ lịnh . Toàn Trung vội kéo binh ra đi , Tô Hộ lại khiến Trần Qui Trinh làm Tả Chi , Triệu Bính làm Hữu
  • 34. Dực , còn mình lãnh đạo trung quân , đang lúc hoàng hôn cuốn cờ giấu trống người ngậm thẻ , ngựa cất lạc , kéo đi , đọi nghe tiếng súng lệnh thì ba mặt áp vào cướp trại địch . Còn Sùng Hầu Hổ ỷ mạnh , đem quân chinh phạt xứ xa , chẳng ngờ mới ra trận đầu đã hao binh tổn tướng , lòng hổ thẹn , dẫn một số tàn quân đóng trại nghĩ ngơi , suốt đêm ngồi than thở với các tướng : -Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều , chưa thua trận nào nhục như trận này , đã mất một tướng , lại hao binh quá sức , nay liệu làm sao ? Ðại tướng Huỳnh Nguyên Tuế thưa : -Binh gia thắng bại là chuyện thường , Chúa công chớ lấy thế mà buồn rầu . Tôi dám chắc binh của Tây Bá Hầu nay mai sẽ kéo đến đây , chừng ấy chúng ta hợp binh hai mặt đánh một trận trả thù , lấy Ký Châu rất dễ . Sùng Hầu Hổ bày tiệc ăn uống giải khuây , rồi vào trướng an nghĩ . Tô Hộ kéo binh tới , cho quân thám thính dọ xét địch tình , thấy trong dinh quân sĩ đều mỏi mệt ngủ say hết , liền ra lệnh đốt ba tiếng pháo , ba ngả binh xông vào một lượt đánh giết tưng bừng . Quân Sùng Hầu Hổ loạn lên , đạp nhau mà chạy , người không kịp mặc giáp , ngựa không ki5p gác yên , túa ra các cửa trại bị giáo đâm , gươm chém , chết thôi vô số . Tô Hộ cầm thuơng cởi ngựa đi lộn trong quân tìm Sùng Hầu Hổ . Còn Sùng Hầu Hổ lúc ấy đang ngủ say , nghe quân ó vội ngồi dậy , mang giáp cầm đao , vừa lên ngựa ra khỏi cửa trại đã gặp Tô Hộ lướt tới mắng lớn : -Hầu Hổ ! Ngươi chạy đi đâu ? Mau xuống ngựa chịu trói cho rồi . Dứt lời đâm liền một giáo . Hầu Hổ thất kinh đưa đao ra đỡ , thời may có Sùng Ứng Bưu , Kim Quỳnh và Huỳnh Nguyên Tuế tiếp đến bảo vệ . Bên Tô Hộ cũng có Triệu Bình , Trần Qui Trinh vừa dùa binh đánh đến nơi , trông thấy liền chận ba tướng của Sùng Hầu Hổ lại giáp chiến . Các tướng đánh nhầu với nhau một lúc , Kim Quỳnh bị Triếu Bính chém đầu . Sùng Hầu Hổ thất kinh không dám cự với Tô Hộ nữa , vừa đánh vừa chạy , nhờ có con là Sùng Ứng Bưu ra sức bảo vệ mới khỏi chết . Tuy vậy thân xác Hầu Hổ chẳng khác chó nhà hoang , cá lọt lưới chạy thôi giáp mão tơi bời . Thương hại mấy mươi vạn binh của Hầu Hổ chết như rạ , máu chảy thành sông , thây phơi như núi .
  • 35. Tô Hộ đuổi theo được mười dậm rồi thu binh trở lại . Cha con Hầu Hổ chạy mãi không dám dừng chân . Tiếp đó có Huỳnh nguyên Tuế và tôn Tử võ kéo một mớ tàn quân chạy theo kịp , Cha con Hầu Hổ mới vững bụng thu góp binh thua , kiểm điểm lại thấy mười phần hao hết phân nữa . Hầu Hổ than : -Ta cầm binh tự bấy lâu nay chưa thua trận nào như vậy . Bởi ta khinh Ký Châu là tiểu trấn , không phòng bị nên mới lầm mưu địch . Còn Tây Bá Hầu Cơ Xương thì chắc là không tuân lệnh thiên tử , ngồi ở nhà xem thắng bại thôi . Thật là nhục ! Thù này biết bao giờ mới nguôi được ? Sùng Ứng Bưu thưa : -Quân ta mới thua , uy thế đã nhục lắm rồi . Chi bằng cứ tạm đồn binh nơi đây rồi cho người sang thôi thúc Tây Bá Hầu xem người có ý định như thế nào rồi sẽ tính . Hầu Hổ nói : -Con nói như vậy cũng phải . Thôi , cứ để trời sáng sẽ cho người đến Tây Bá Hầu đôn đốc . Cha con đang đàm luận , bổng nghe tiếng quân ó vang trời , xa xa có một tướng nhỏ , đội mão vàng , giắt hai chiếc lông trĩ , mặc giáp đỏ , cỡi ngựa kim , tay cầm cây kích , mặt tròn tự trăng rằm , môi đỏ như son , bay ngựa tới nạt lớn : -Sùng Hầu Hổ , ta vâng lệnh phụ thân ta mai phục nơi đây đợi ngươi đã lâu lắm , ngươi không không xuống ngựa bó tay còn đợi đến chừng nào nữa ? Sùng Hầu hổ thấy viên tiểu tướng ấy là Tô Toàn Trung , nỗi giận mắng lớn : -Cha con bay làm phản , Nghịch mạng triều đình , tội chết tày non , dẩu có bầm thây chúng bây đến tan nát cũng chưa đền tội . Ta vô ý nên mắc mưu , chưa phải thắng một trận mà nên công được , chúng bây chớ có vô lễ đón đường chận ngỏ , ta e nay mai binh triều kéo đến đây , cha con bây dầu có cánh lên trời cũng chẳng kịp . Tô Toàn Trung cười ngất : -Thôi thôi , chớ nhiều lời vô ích , hãy nói chuyện với cây kích của ta đây . Vừa nói , Toàn Trung vừa vung kích đâm tới . Bên kia Huỳnh Nguyên Tuế lướt ngựa tới cản mũi kích . Toàn Trung lại bảo vệ Sùng Hầu Hổ .
  • 36. Hai tướng đánh nhau chừng vài hiệp , Tôn Tử Võ giục ngựa ra múa chỉa ba đánh giúp với Huỳnh Nguyên Tuế , quyết hạ cho kỳ được Tô Toàn trung . Ai ngờ Tô Toàn trung võ nghệ siêu quần , một mình chấp hai tướng , đánh vùi như mưa Bấc . Ðánh chừng hai chục hiệp , Toàn Trung ra miệng hét lên một tiếng , đâm Tôn Tử Võ một kích nhào xuống ngựa . Huỳnh Nguyên Tuế cả giận , vung thương đâm chém rất dữ , nhưng Toàn Trung không thèm đánh với Huỳnh Nguyên Tuế , lướt ngựa tới đâm Sùng Hầu Hổ . Sùng Hầu Hổ sợ hãi lui ngựa ra sau . Sùng Ứng Bưu vội lướt tới đở cây kích của Toàn Trung rồi hiệp lực với Huỳnh Nguyên Tuế cự chiến . Toàn Trung lúc này đánh với ba tướng , nhưng càng đánh càng hăng , không biết mệt , múa kích như mưa bay gió táp . Ðánh được một lúc , Sùng Hầu Hổ bị Toàn Trung chém toẹt một đường đứt nữa áo giáp . Hầu Hổ mất vía quất ngựa chạy dài . Ứng Bưu lúng túng bị Toàn Trung đâm một kích nhắm cánh tay , gần nhào xuống ngựa , may nhờ có Huỳnh Nguyên Tuế bảo vệ mới chạy khỏi . Tô Toàn Trung đắc thắng , rượt đám tàn quân của Sùng Hầu Hổ chém giết môt hồi , thấy trời còn khuya chẳng dám đuổi theo , vội thâu binh về . Khi Toàn Trung về đến chân thành , trời mới rựng sáng , vội kêu quân mở cửa vào ra mắt Tô Hộ thưa : -Con vâng lệnh thân phụ mai phục tại Ngủ Cang , đến nữa đêm địch quân chạy đến đó , một mình con chém đứt vạt giáp của Sùng Hầu Hổ , đâm chết Tôn Tử Võ và đánh Sùng Ứng Bưu gần sa xuống ngựa , vì trời tối , sợ có điều gì sơ xuất con không dám đuổi theo , xin phụ thân miễn tội . Tô Hộ nói : -Con đã làm chúng nó khiếp vía rồi , như thế cũng đũ , khỏi cần truy kích nữa . Hồi 3 Cha con Sùng Hầu Hổ bị thương chạy riết cho đến sáng mới dám dừng lại , kiểm điểm binh mã thấy trong đám tàn quân người nào cũng bị lổ đầu chảy máu , người thì rách áo cụt tay , không một tên quân nào còn nguyên vẹn . Binh tướng một đoàn trở thành vô dụng . Nhìn thảm trạng ấy Hầu Hổ thấy lòng đau đớn vô cùng , ngồi than thở mãi . Huỳnh Nguyên Tuế nói : -Chúa công hơi đâu than thở ? Việc binh thắng bại là thường . Bởi ta sơ ý nên nhằm mưu địch . Vậy Chúa công dừng binh nơi đây , viết thơ thôi thúc Tây Bá Hầu đem binh đến rửa hận . Ký Châu chẳng qua chỉ là một trấn nhỏ , dẫu hùng mạnh đến đâu cũng không chống nỗi binh của thiên triều . Sùng Hầu Hổ nói lảm nhảm :