1. Sansom) của người Jômon trong tâm hồn Nhật Bản. Không những thế, nó lại còn có tính đề kháng lại mọi
yếu tố đến từ bên ngoài.
Tuy thuyết dựa trên những yếu tố phương bắc được nhiều người đồng ý nhưng muốn cho rốt ráo, chúng ta
không nên quên yếu tố phương nam trong quá trình hình thành dân tộc Nhật. Giáo sư Waka Moritarô13
đã dẫn ra trong tác phẩm của ông thuyết của Tiến sĩ Nishimura Shinji, đã quan sát người Nhật dưới nhãn
quan một nhà nhân chủng học. Dựa trên những yếu tố thể chất như hình thái xương sọ, chiều cao thân thể,
màu da, chiều cao của mũi, đặc tính của lông tóc, loại hình huyết dịch, vân đầu ngón tay, mắt và mí mắt,
ông đã công bố một bức ảnh “montage” (giả tưởng) về con người Nhật Bản tiêu biểu với những đặc tính
hỗn hợp của nó. Theo ông, người Nhật Bản phải là kết hợp của 6 sắc dân: da đen (Negrito), cựu Ainu,
người Nhật Bản nguyên thủy, người hải đảo Indonesia (Nam Dương), người Indochina (Đông Dương) và
người Hán. Riêng về bộ phận gọi là Nhật Bản nguyên thủy thì Nishimura đã định nghĩa: “là những người
Nhật Bản cổ thuộc giống Mông Cổ Ural-Altaic, có cùng tổ tiên với người Tsungus cũng như người Triều
Tiên”.
Đó là chưa kể những tác giả dựa trên yếu tố văn hoá như ngôn ngữ hay phong tục tập quán. Tiếng nói (kết
thúc bằng mẫu âm) của Nhật giống như tiếng nói các cư dân vùng Nam đảo. Thần thoại của họ cũng vậy
(sự tích hai anh em tranh nhau một lưỡi câu). Hoa văn trên trống đồng vùng Đông Nam Á giống hoa văn
trên chuông đồng (dôtaku) Nhật Bản. Các tập tục nhuộm răng, ăn trầu, thích gạo nếp, chôn người chết
trong chum hũ (kamekan) cũng vậy.
Như thế, cho dù muốn khẳng định rằng người Nhật có nguồn gốc Đông Bắc Á cũng không thể bỏ qua
mối liên hệ nhân chủng với các sắc dân Đông Nam Á. Liên hệ này có thể đến từ những cuộc di dân liên
tục.
27
1.2 Phát hiện di tích Iwajuku. Sinh hoạt vào thời đại đồ đá:
Người thời đại đồ đá sinh hoạt như thế nào? Dĩ nhiên họ lấy da thú che thân, mang theo
dụng cụ làm bằng đá, đi khắp nơi ngoài đồng trên núi. Tuy thế, hình ảnh đó chưa thật sự
đầy đủ, cần được giải thích thêm
Ngày ấy, nhân loại chưa biết dùng dụng cụ bằng kim loại là dụng cụ tiện lợi nhất. Đó
mới là thời người ta còn sử dụng đồ đá – nghĩa là thời đồ đá hay thạch khí – thiên hạ chỉ
biết lấy đá thô rồi đập đi đập lại sơ sịa cho có hình thù để làm dụng cụ. Nó mang tên
13 Waka Morirtarô biên, Nihonshi no sôten (Những điểm tranh luận trong sử Nhật), Tôkyô,
1963.